"
Chôn Sống - Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chôn Sống - Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Chôn Sống
IV of Rizzoli và Isles
Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch) Từ khóa: Novels, Trinh Thám, Tiểu Thuyết
TESS GERRITSEN
CHÔN SỐNG
VŨ THỊ TÂM dịch
Page Duyên sách thực hiện ebook NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN
Contents
MỞ ĐẦU 4
MỘT 13
HAI 23
BA 32
BỐN 44
NĂM 53
SÁU 59
BẢY 72
TÁM 83
CHÍN 86
MƯỜI 92
MƯỜI MỘT 102 MƯỜI HAI 113 MƯỜI BA 120
MƯỜI BỐN 133 MƯỜI LĂM 137 MƯỜI SÁU 144 MƯỜI BẢY 151 MƯỜI TÁM 162 MƯỜI CHÍN 173
HAI MƯƠI 175 HAI MỐT 186
HAI MƯƠI HAI 194 HAI MƯƠI BA 204 HAI MƯƠI BỐN 207 HAI MƯƠI LĂM 217 HAI MƯƠI SÁU 229
HAI MƯƠI BẢY 230
HAI MƯƠI TÁM 238
HAI MƯƠI CHÍN 249
BA MƯƠI 256
BA MƯƠI MỐT 262
BA MƯƠI HAI 267
BA MƯƠI BA 273
Tặng Adam và Danielle
LỜI CẢM ƠN
Viết lách là một công việc đơn độc nhưng không một nhà văn nào thực sự làm việc một mình cả. Tôi cảm thấy mình là người may mắn vì đã nhận được sự giúp đỡ cửa Linda Mamw và Gina Cenwello của Ballantine Books, Meg Ruley, Jane Berkey, Don Cleary và đội chuyên biệt từ Cơ quan Jane Rotrosen, Selina Walker - Transxvorld, và nhất là chồng tôi Jacob.
Cảm ơn tất cả mọi người!
MỞ ĐẦU
Cậu ta lại nhìn cô gái.
Cô gái Alice Rose mười bốn tuổi cố gắng tập trung vào mười câu hỏi trên bàn nhưng tâm trí cô bé không để vào bài kiểm tra mà dồn vào Elijah. Cô cảm thấy cái nhìn của cậu ấy như ánh nắng lướt qua mặt, cô thấy má mình nóng lên, rõ là cô đang bối rối.
Tập trung nào, Alice!
Câu hỏi kế tiếp là về kịch và cô phải nhanh chóng tìm ra đáp án. Charles Dicken thường có những cái tên phù hợp với tính tình của nhân vật. Hãy cho một vài ví dụ và miêu tả tại sao những cái tên đó lại phù hợp với các nhân vật?
Alice nhai nhai đầu bút chì, cố gắng tìm ra câu trả lời. Nhưng cô chẳng thể nghĩ ra cái gì khi cậu ấy đang ngồi ở bàn bên cạnh, gần đến mức cô có thể ngửi thấy mùi xà bông và khói gỗ từ cậu ấy. Mùi con trai. Dickens, Dickens, ai thèm quan tâm tới Charles Dicken và Nicholas Nickleby cơ chứ và cả ông thầy người Anh trẻ tuổi nữa khi mà Elijah hào hoa đang nhìn cô? Ôi lạy Chúa, cậu ấy đẹp trai quá với mái tóc đen và đôi mắt xanh. Đôi mắt của Tony Curtis. Lần đầu tiên nhìn thấy Elijah, cô đã nghĩ rằng cậu ấy giống Tony Curtis y chang, người có gương mặt đẹp tuyệt vời trong các trang tạp chí Modem Screen và Photoplay, tạp chí yêu thích của cô.
Cô cúi đầu, khi tóc mai xõa xuống mặt cô nhìn thấy cậu ta đang lén nhìn mình qua tấm rèm cửa. Trái tim cô đập thình thịch khi cô chắc chắn rằng, cậu ta đang nhìn cô chứ không phải nhìn đám con trai chạy nhảy bên ngoài, những đứa chậm chạp và rắc rối. Những thằng con trai với những lời thì thầm không thể bỏ ngoài tai. Cô biết những lời thì thầm đó là về cô bởi chúng vừa nhìn cô vừa nói. Chúng cũng là những đứa đã dán ảnh bò cái lên tủ để đồ của cô và kêu ò ò khi cô vô tình đụng phải chúng ở đại sảnh. Nhưng Elijah thì nhìn cô theo cách khác. Với đôi mắt sáng, trong vắt. Đôi mắt của một ngôi sao phim trường.
Cô bé chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn lại, không phải qua mớ tóc lòa xòa mà với cái nhìn hàm ý - tớ biết cậu nhìn gì rồi. Tờ giấy làm bài của cậu ấy đã được hoàn thành và úp xuống, cái bút chì được để ra xa. Giờ thì
cậu ta tập trung toàn bộ sự chú ý vào cô và cô cảm thấy không thể thở được trước cái nhìn ấy.
Cậu ấy thích mình. Mình biết mà. Cậu ấy thích mình.
Cô đưa tay vuốt dọc từ cổ xuống, đến cúc áo đầu tiên. Những ngón tay cô chạm vào da và để lại một hơi nóng nhẹ. Cô nhớ tới cái nhìn nóng bỏng của Tony dành cho Lana Turner, cái nhìn có thể khiến cho một cô gái líu lưỡi chùn chân. Cái nhìn ấy chỉ có trước một nụ hôn nồng cháy. Đó là khi bộ phim vào lúc cao trào. Tại sao điều này phải xảy ra nhỉ? Tại sao nó cứ rối tung lên khi mình muốn biết rõ nhất...?
- Hết giờ rồi, các em. Úp bài xuống.
Alice vội vàng quay lại với cái bàn và bài kiểm tra, một nửa câu hỏi vẫn còn nguyên. Ôi không, thời gian trôi đi đâu rồi? Cô biết câu trả lời mà, chỉ cần thêm một chút thời gian thôi...
- Alice. Alice!
Cô ngước lên và thấy bàn tay của cô Meriweather đưa ra. - Em không nghe tôi nói gì à? Hết giờ rồi, nộp bài thôi.
- Nhưng em...
- Không lý do lý trấu gì hết. Em phải học cách nghe đi, Alice! Cô Meriweather giật lấy bài kiểm tra của Alice và đi xuống phía dưới. Mặc dù Alice hầu như không nghe thấy rõ nhưng cô biết là các cô gái bên dưới đang bàn tán về mình. Cô quay lại và nhìn thấy họ đang chụm đầu vào nhau, những bàn tay đưa lên che miệng ra chiều bí mật lắm. Alice có thể biết môi chúng ta cử động thế nào đấy, đừng để nó thấy chúng ta đang nói về nó.
Giờ thì cả bọn con trai trong lớp cũng cười và chỉ trỏ về phía cô bé. Có cái gì đáng cười nào?
Alice nhìn xuống và cô kinh hãi nhìn thấy cúc áo trên cùng bị tuột, giờ thì ngực áo đang phanh ra.
Chuông reo, chúng được giải thoát.
Alice nhanh chóng gom sách vở vào cặp và ôm nó trước ngực khi rời khỏi phòng học. Cô hầu như không dám nhìn ai, chỉ bước đi, mặt cúi gằm, nước mắt nghẹn ứ. Cô chạy thật nhanh vào phòng vệ sinh và khóa cửa lại. Những đứa con gái khác cũng vào và đứng đó, vừa cười vừa ngắm vuốt trước gương, Alice đứng nấp sau cánh cửa. Cô có thể ngửi thấy mùi nhiều loại nước hoa khác nhau, có thể cảm thấy từng luồng không khí ra vào mỗi khi cửa đóng mở. Những cô gái kiều diễm, với những chiếc áo len hàng ẳ ẳ
hiệu mốt nhất. Họ chẳng bao giờ sợ tuột cúc, họ chẳng bao giờ đến trường với những chiếc váy ngắn cũn và những đôi giầy cứng ngắc. Biến đi, mọi người làm ơn biến đi.
Cánh cửa cuối cùng cũng không chuyển động nữa.
Đưa tay nhấn vào núm chốt cửa, Alice nín thở nghe ngóng xem còn ai trong nhà vệ sinh nữa không. Thò đầu qua khe hở, cô không thấy còn ai đứng trước gương nữa. Sau đó, cô mới dám ra khỏi nhà vệ sinh.
Đại sảnh cũng vắng tanh, mọi người đều đã về lâu rồi. Không còn ai ở đây để trêu chọc hay bắt nạt Alice nữa. Cô bé bước đi, vai gồng lên để tự bảo vệ mình, bước dọc hành lang dài với những dãy tủ để đồ cửa mở ra đập vào và dãy những tấm bảng thông báo buổi khiêu vũ Halloween hai tuần nữa. Có lẽ cô sẽ không đến dự buổi khiêu vũ đó đâu. Sự xúc phạm mà cô gặp phải ở buổi khiêu vũ tuần trước vẫn còn đau nhói và có lẽ sẽ mãi mãi là vết đau trong lòng cô. Hai tiếng đồng hồ đứng dựa lưng vào tường, chờ đợi, hy vọng một cậu bạn nào đó sẽ mời cô ra nhảy. Cuối cùng thì cũng có một đứa tiến đến, nhưng không phải là mời cô nhảy. Thay vì mời cô thì nó đột nhiên nấc lên và nôn vào giày của cô. Sẽ không có buổi khiêu vũ nào hết. Cô chuyển đến thị trấn này hai tháng rồi và cô đã hy vọng mẹ sẽ gói gém đồ đạc và chuyển đi, đến một nơi nào đó họ có thể bắt đầu lại. Nơi mà mọi thứ sẽ khác.
Chỉ cần bọn họ không ở đó.
Cô bé đi tới lối ra phía trước và hòa vào cái nắng mùa thu. Cô cúi xuống định mở khóa xe đạp mà không hề nghe có tiếng bước chân. Chỉ đến khi bóng của cậu ấy trùm xuống đầu cô thì Alice mới nhận ra Elijah đang đứng bên cạnh.
- Chào Alice!
Cô đứng sững, cái xe đạp đổ sang một bên. Ôi Chúa ơi, mình mới ngốc làm sao. Sao mình có thể bối rối đến thế nhỉ?
- Bài thi thật khó, đúng không?
Cậu ấy nói chậm rãi, rành rọt. Lại thêm một điều nữa cô bé thích ở Elijah; không giống những đứa trẻ khác, giọng của cậu ấy rất rõ ràng, không hề bị nuốt từ, khi cậu ấy nói trông môi cậu ấy thật đẹp. Cậu ấy biết bí mật của mình, nhưng vẫn muốn là bạn với mình - cô nghĩ.
- Cậu có trả lời được hết các câu hỏi không?
Cô gật đầu và dựng cái xe đạp lên:
- Tớ biết các câu trả lời, tớ chỉ cần thêm thời gian thôi.
ẳ
Khi cô đứng thẳng lên cô nhận thấy ánh mắt cậu ta dừng lại ở chỗ cái cúc áo bị đứt. Ngại quá, cô lấy hai tay ôm lấy ngực.
- Tớ có cái ghim này - cậu ta nói.
- Cái gì?
Cậu ta đưa tay vào túi áo và móc ra một cái kẹp ghim.
- Tớ cũng hay làm mất cúc áo, ngại lắm. Nào, để tớ kẹp lại cho cậu. Cô gái cố gắng thở bình thường khi cậu ấy tiến đến và chạm vào áo của cô, cô hầu như không thể kiểm soát được mình khi ngón tay của cậu ấy luồn vào bên dưới vạt áo để kẹp cái ghim. Cậu ấy có thấy tim mình đang đập loạn lên không nhỉ? Cậu ấy có biết mình phát điên lên khi cậu ấy chạm vào người mình không nhỉ?
Khi cậu ta lùi lại, cô mới dám thở mạnh. Cô nhìn xuống và thấy chỗ cúc áo bị mất đã được ghim kín lại.
- Tốt hơn chứ hả? - Cậu ta hỏi.
- À... ừ.
Cô ngừng lại để chuẩn bị tinh thần, để nói với giọng cao quý của một nữ hoàng.
- Cảm ơn Elijah, bạn thật chu đáo!
Một lát trôi qua. Một làn gió thổi tới, những chiếc lá mùa thu như những ngọn lửa lấp lánh trên cành.
- Này, cậu có thể giúp mình một việc không Alice?
- Giúp cái gì?
Ôi, đồ ngớ ngẩn. Lẽ ra mày phải nói là được! Được! Mình sẽ làm bất cứ điều gì cho cậu, Elijah Lank!
- Mình đang có một kế hoạch cho môn sinh học và mình cần có người trợ giúp, mình không biết phải nhờ ai cả.
- Kể hoạch gì thế?
- Mình sẽ chỉ cho cậu thấy, cậu đến nhà mình chứ?
Nhà cậu ấy ư? Cô chưa bao giờ đến nhà đứa con trai nào. Cô gật đầu:
- Để mình về nhà cất sách vở đã nhé.
Cậu ta kéo cái xe ra khỏi hàng, nó gần giống cái xe của cô. Chắn bùn rách te tua, han rỉ đến tận chỗ ngồi. Cái xe cũ làm cô thích cậu ta hơn bao giờ hết. Chúng ta là một cặp thực sự, cô nghĩ. Tony Curlis và mình.
Cả hai đi về nhà cô trước. Cô đã không mời cậu ấy vào nhà, cô ngượng lắm, vì không thể để cậu ấy thấy những đồ đạc lộn xộn và vết sơn
loang lổ trên tường được. Cô chạy vào bên trong, vứt cái cặp lên bàn bếp và chạy ra ngay.
Thật không may, con chó của thằng em cũng chạy ra. Khi cô ra đến cửa trước, con chó lông đen trắng mới lộ ra.
- Buddy — cô hét lên - quay vào ngay!
- Nó không biết nghe lời lắm thì phải - Elijah bảo.
- Vì nó là một con chó ngớ ngẩn, Buddy!
Con vật ngoảnh lại, vẫy đuổi rồi chạy tuốt ra đường.
- Ôi không sao đâu, khi nào chán nó sẽ về nhà ngay thôi — cô nói rồi leo lên xe - cậu sống ở đâu?
- Trên phố Skyline. Cậu tới đó bao giờ chưa?
- Chưa.
- Nó ở trên đồi, cậu có đi được không?
Cô gật đầu. Tớ có thể làm bất cứ điều gì vì cậu.
Chúng đi xa khói nhà cô bé, cô hy vọng cậu ta sẽ đi qua phố chính, qua siêu thị chỗ bọn trẻ con luôn luôn tụ tập sau giờ học để chơi Jukebox và uống Soda. Chúng sẽ thấy mình đi cùng nhau và bọn con gái sẽ không dám lè lưỡi? — Alice đang đi cùng Elijah mắt xanh kìa.
Nhưng cậu ta không dẫn cô qua phố chính mà lại đi ngược lên Locust, chỗ chả có mấy nhà cửa, chỉ là con đường phía sau một vài công ty và chỗ đỗ xe của nhân viên xưởng Neptune. Nhưng chẳng phải cô đang đạp xe cùng cậu ta sao? Đủ gần để thấy bắp chân cậu ấy phập phồng và mông cậu ấy trên yên xe.
Cậu ta quay lại nhìn cô, mái tóc đen tung bay trong gió.
- Cậu ổn chứ Alice?
- Mình ổn.
Sự thật là cô đang sắp hết hơi vì chúng đã bỏ xa ngôi làng và giờ đang leo lên núi. Elijah hẳn là đã đi xe đạp lên Skyline hàng ngày và quen rồi, cậu ta hầu như chỉ hơi bị ngược gió, chân vẫn đạp đều như những tay đua xe đầy sức lực. Nhưng cô thì đã phải nhổm dậy để dồn sức xuống bàn đạp. Một sợi lông bay vào mắt. Cô nhìn sang bên và thấy Buddy đang theo sau họ. Nó có vẻ mệt, lưỡi thè ra thở lấy thở để.
- Về nhà mau.
- Cậu bảo sao? - Elijah ngạc nhiên.
- Là con chó ngớ ngẩn ấy mà. Nó vẫn theo chúng ta... nó sắp... sắp hụt hơi rồi.
Alice lừ mắt nhìn Buddy nhưng con chó vẫn tiếp tục hớn hở chạy bên cạnh. Được rồi, mày cứ chạy đi, mày mệt lăn ra đấy tao cũng kệ - cô bé nghĩ.
Cả hai tiếp tục đạp lên núi, gió thổi nhè nhẹ. Qua những rặng cây cô có thể nhìn thấy khung cảnh quen thuộc của cảng Fox xa xa phía dưới, nước lóng lánh như đồng dưới ánh sáng mặt trời buổi chiều. Sau đó những hàng cây trở lên dầy hơn và cuối cùng cô chỉ thấy cánh rừng trong màu đỏ và cam sáng, con đường đầy lá vòng vèo trước mặt.
Cuối cùng thì Elijah cũng ngừng đạp, chân của Alice mệt đến nỗi cô không thể đứng thẳng mà không run run. Buddy biến đâu mất, cô mong là con chó có thể tìm thấy đường về nhà vì cô không chắc là mình có thể đi tìm con chó chết tiệt đó không. Giờ thì Elijah đang đứng đây, mỉm cười với cô, đôi mắt trìu mến làm sao. Cậu ấy dựa cái xe vào một cái cây và quàng cái cặp lên vai.
- Nhà cậu đâu?
- Đó là đường vào đấy - cậu ta chỉ xuống con đường, tới một cái hộp thư đứng chơ vơ.
- Không phải chúng ta tới nhà cậu à?
- Không. Em họ mình ốm và nó nôn mửa suốt cả đêm qua, thôi đừng vào nhà nhé. À mà kế hoạch của mình ở ngoài kia, chỗ mấy cây gỗ ấy. Bỏ cái xe của cậu ở đây đi, chúng ta đi bộ.
Cô dựng cái xe của mình vào xe của cậu ta và đi theo cậu ta. Chân cô vẫn còn mỏi nhừ vì vừa đạp xe lên núi. Cả hai đi sâu vào rừng. Cây ở đây rất to, lá rụng thành tấm thảm dày bao phủ mặt đất. Cô đi theo cậu ta, vừa đi vừa xua xua mấy con muỗi.
- Em họ cậu ở với cậu à?
- Ừ, nó đến ở với nhà mình năm ngoái. Chắc là ở nhà mình luôn, chẳng có chỗ nào để đi mà.
- Bố mẹ cậu không phiền lòng sao?
- Chỉ bố thôi, mẹ tớ chết rồi.
- Ôi!
Cô chẳng biết phải nói sao cả, cuối cùng cô cũng thì thào được một câu đơn giản.
- Tớ rất tiếc.
Nhưng có vẻ cậu ta không nghe thấy.
Lá dưới chân dày hơn và những cạnh khô sắc cứa vào đôi chân trần của cô bé. Theo kịp cậu ta quả là mệt. Cậu ta vẫn tiếp tục đi trước, bỏ mặc cô với cái váy mắc vào cây mâm xôi.
- Elijah!
Cậu ta không trả lời, vẫn tiếp tục đi như một nhà thám hiểm kiên cường, cặp sách khoác trên vai.
- Đợi tớ với.
- Cậu có muốn xem không?
- Có nhưng mà...
- Thế thì nhanh lên.
Giọng nói của cậu ta tỏ ra mất kiên nhẫn và cô bắt đầu thấy sợ. Cậu ấy chỉ đứng cách cô vài thước và nhìn cô, cô thấy bàn tay cậu ta đang nắm chặt.
- Được được - Cô vội vàng — Tớ tới đây.
Xa xa chỉ chục mét, những cây gỗ đột nhiên thưa ra thành một khoảng trống. Cô nhìn thấy một cái nền đá cũ kỹ, như kiểu một trang trại đã bị phá lâu rồi. Elijah quay lại nhìn có, mặt cậu ta đỏ lên dưới nắng chiều.
- Ở ngay đây thôi.
- Cái gì vậy?
Cậu ta cúi xuống và nhặt hai cành cây vứt qua một bên, bên dưới là một cái hố sâu.
- Xem này, tớ phải đào nó mất ba tuần đấy.
Alice tiến tới chỗ cái hố một cách chậm chạp và nhìn xuống. Ánh nắng buổi chiều giờ đang lấp lánh sau lùm cây, ở đáy hố với om. Cô gạt mấy cái lá ra và thấy dưới đó có một sợi dây thừng vắt qua miệng hố. - Đây là bẫy gấu hay cái gì?
- Có thể. Nếu tớ mà để vài cành cây vào để che miệng hố thì tớ có thể bẫy được nhiều thứ lắm, kể cả nai nữa - Cậu ta chỉ xuống hố - Cậu nhìn thử xem?
Cô cúi xuống gần hơn và thấy cái gì đó trắng nhợt bên dưới, có một đám trắng hếu bên dưới đám lá khô.
- Cái gì thế?
- Kế hoạch của tớ đấy - Cậu ta nói và kéo sợi dây lên.
Ở đầu kia của sợi dây, lá rơi xuống và khi nó được kéo hẳn lên thì Alice vội vàng nhìn chằm chặp xuống trong khi Elijah lôi nó lên. Một cái
rổ. Cậu ta kéo nó ra khỏi hố và đặt nó xuống đất. Gạt bỏ hết đám lá mục sang một bên, Elijah đã lần tới đầu trắng của sợi dây.
Đó là một cái đầu lâu nhỏ.
Khi cậu ta rũ tất cả lá ra thì cô bé nhìn thấy một ít lông đen và một cái xương sống. Mấy cái xương ống chân của con gì đấy. - Thấy hay không? Nó còn không bốc mùi nữa kìa — cậu ta nói - Nó được chôn dưới đó bảy tháng rồi đấy. Lần trước tớ kiểm tra thì vẫn còn một ít thịt dính vào. Giờ thì tất cả hết sạch rồi, nó bắt đầu phân hủy nhanh hơn khi trời ấm lại vào tháng Năm.
- Nhưng nó là cái gì?
- Cậu không đoán được à?
- Không.
Nhặt cái đầu lên, cậu ta giơ nó lên cao một chút rồi vung về phía Alice.
- Đừng! - Cô hét lên.
- Meeo!
- Elijah!
- Hả, chẳng phải cậu hỏi nó là cái gì à?
Cô nhìn vào hốc mắt trống hoác.
- Mèo à?
Cậu ta lôi ra một cái hộp từ cặp xách và đặt cái đầu vào trong đó, rồi lần lượt bỏ xương vào.
- Cậu làm gì với bộ xương đó thế?
- Là kế hoạch khoa học của tớ. Từ một con mèo thành bộ xương khô này mất bảy tháng.
- Cậu kiếm đâu ra con mèo đó.
- Tớ tìm thấy nó.
- Cậu tìm thấy một con mèo chết à?
Cậu ta ngước lên, đôi mắt xanh mỉm cười. Nhưng không phải là đôi mắt của Tony Curtis nữa, đôi mắt đó làm cô sợ.
- Ai nói nó chết?
Tim cô đột nhiên đập mạnh, cô lùi lại một bước.
- Ờ... mình nghĩ là mình phải về nhà đây.
- Tại sao?
- Bài tập. Mình phải làm bài tập.
Giờ thì cậu ta đứng dậy, nụ cười tắt ngấm, thay vào đó là cái nhìn kỳ vọng lặng lẽ.
- Tớ sẽ... gặp lại cậu ở trường nhé...
Cô nói và quay lưng lại nhưng nhìn cả hai phía trái phải đều thấy giống nhau. Trời ơi họ đã đi đường nào vậy? Cô sẽ đi đường nào về đây? - Nhưng cậu vừa mới đến mà Alice.
Cậu ta nói, hình như đang nắm cái gì đó trong tay. Chỉ khi cậu ta giơ nó lên ngang đầu cô mới biết đó là cái gì.
Một hòn đá.
Cô khuỵu xuống, cô cào xuống đất, giờ cô thấy với đen, tay chân tê cứng lại. Cô không thấy đau, chỉ có sự thất vọng mà cậu ta mang đến vừa đánh gục cô. Cậu ta tiến đến, lôi cô dậy và đẩy ngửa ra. Mặt cô va xuống đất khi cậu ta lôi chân cô đi. Cô cố hết sức vùng vẫy la hét nhưng miệng cô đầy bùn đất và cành lá khi cậu ta kéo cô tới phía cái hố.
Khi đã rơi xuống đáy hố rồi, cô mới thấy chân mình lủng lẳng. - Đi thôi, Alice - cậu ta nói.
- Kéo tớ lên! Kéo lên đi!
- Tớ nói, đi thôi!
Cậu ta vứt hòn đá đi.
Cô bé cố gắng trèo lên nhưng lại tuột xuống. Rơi xuống thảm lá mục dầy đặc bên dưới.
- Alice, Alice!
Bị đau vì rơi xuống, cô ngước lên bầu trời hình vòng tròn bên trên và nhìn thấy cái đầu cậu ta, đang cúi xuống nhìn.
- Tại sao cậu làm thế? Tại sao?
- Chẳng việc gì là không có lý do cả. Tớ chỉ muốn xem mất khoảng bao lâu thôi. Bảy tháng cho một con mèo, cậu nghĩ cậu mất bao lâu? - Cậu không thể làm thế với tớ được!
- Bye bye, Alice!
- Elijah! Elijah!
Tấm gỗ đã che mặt hố, che lấp ánh sáng. Hình ảnh về bầu trời biến mất. Điều này không phải là sự thật, cô nghĩ. Đây chỉ là trò đùa thôi. Cậu ấy chỉ cố gắng làm mình sợ thôi. Cậu ấy chỉ bỏ đi vài phút và sau đó sẽ quay lại kéo mình lên, tất nhiên là cậu ấy sẽ quay lại rồi.
Và rồi cô bé nghe thấy có tiếng gì đó bên trên nắp hố.
Đá. Cậu ta đang chèn đá lên trên miệng hố.
Cô bé đứng dậy và cố gắng trèo lên khỏi hố, cô cào vào lớp đất cát, nhưng không thấy một bàn tay nào, không thể nhích lên một phân nào. Tiếng la hét chìm vào bóng tối.
- Elijah!
Chỉ có tiếng đá chuyển động đáp lại.
MỘT
Mỗi sáng bạn hãy nhớ rằng bạn không thể kéo dài một ngày, Và mỗi với bạn không thể kéo dài một đêm.
ENGRAVED PLAQUE
Một hàng sọ được đặt trên tường từ trên xuống. Dù biết giờ đang là tháng sáu và mặt trời chói chang trên đường phố Paris, trên đầu cô. Bác sĩ Maura Isles cảm thấy ớn lạnh khi đi bộ dọc theo con đường với mờ mờ, những bức tường chỉ cao quá đầu người một chút. Cô đã quen, thậm chí quá quen với cái chết và đã đối mặt với nó không biết bao nhiêu lần trên bàn mổ, nhưng cô vẫn thấy run run khi đứng trong không gian nơi đây, khi thấy số lượng xương người khổng lồ dưới những đường hầm bên dưới kinh đô ánh sáng này. Chuyến du ngoạn một kilômét chỉ đưa cô qua được phần nhỏ của hầm mộ. Bên ngoài tầm mắt của du khách là cả đống các đường hầm khác với những căn phòng đầy xương, những cái miệng với om đang há ra bên trong cánh cổng khóa kín. Đây là số còn lại của sáu triệu người dân Paris đã từng được cảm nhận ánh mặt trời trên khuôn mặt, những người đã biết đến đói khát và tình yêu, những người đã cảm nhận được nhịp đập của trái tim trong lồng ngực, cảm nhận được không khí ra vào phổi mình. Chắc hẳn họ không thể tưởng tượng nổi một ngày xương của họ được đào ra khỏi nơi yên nghỉ và chuyển tới nơi đây, bên dưới thành phố hoa lệ này.
Và ngày đó, họ đã bị phơi bày, dưới ánh mắt của những du khách hiếu kỳ.
Một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, để lại một dòng người đông đúc tới những nghĩa trang quá tải của Paris và người ta phải chuyển những nắm xương này xuống dưới hầm mộ của thành phố, dưới lòng đất.
Những người vận chuyển hẳn đã rất cẩn thận đặt chhúng thành các hàng khác nhau nhưng chắc chắn họ không có khiếu để biến chúng thành cái gì đó lạ lùng hơn. Như những thợ đẽo gọt đá khó tính, họ đã xây dựng những bức tường cao xếp đầy những hàng sọ và xương ống, biến những thứ sắp phân hủy thành những tác phẩm nghệ thuật. Và họ đã treo những
bảng mỏng có vài lời trích dẫn để nhắc nhở những vị khách tham quan rằng Thần Chết chẳng tha cho bất kỳ ai.
Một trong những tấm biển đó đập vào mắt Maura, và cô dừng lại giữa dòng người đến tham quan để đọc nó. Khi cô đang cố gắng dùng vốn tiếng Pháp còn rơi rớt lại từ thời trung học để dịch các từ thì cô nghe thấy tiếng cười khúc khích của trẻ con vọng lại trong hành lanng vắng và giọng mũi của một anh chàng người Texax nào đó nới với vợ mình.
- Em có tin là có chỗ này không Sherry? Lạy Chúa!
Cặp đôi Texas đã đi, giọng của họ chìm vào im lặng. Maura ở trong phòng một mình, cảm thấy bụi của hàng thế kỷ trong từng hơi thở. Dưới ánh đèn mờ mờ, những hàng sọ người hiện ra, lần lượt dưới cái nhìn của Maura. Một lỗ đạn mờ mờ giữa trán của một cái sọ, trông y như con mắt thứ ba.
Tôi biết anh đã chết như thế nào.
Cái lạnh lẽo của hầm mộ ám vào xương của Maura nhưng cô không dời đi, nhất định phải dịch được dòng chữ đó, để thử thách danh dự của mình như kiểu giải những ô chữ thông minh vô bổ. Cố lên Maura. Ba năm học tiếng Pháp ở trường mà mày không thể tìm ra chữ nào sao? Giờ thì chỉ là thử thách cá nhân thôi, tất cả những suy nghĩ về sự bất tử đang treo lơ lửng và đột nhiên nghĩa của các từ hiện ra, cô cảm thấy máu mình lạnh đi.
Người hạnh phúc là người đối mặt với giờ tử của mình mãi mãi. Và chuẩn bị cho cái chết mỗi ngày.
Đột nhiên cô nhận thấy sự im lặng bao quanh mình. Không có tiếng nói, không có tiếng bước chân vọng lại. Cô quay lưng bỏ đi khỏi căn phòng. Làm sao cô có thể lạc khỏi các du khách khác xa đến thế, để lang thang một mình trong đường hầm và một mình đối diện với cái chết. Cô nghĩ về những vụ nổ hầm mỏ vô tình, về việc lạc lối trong bóng tối đen thẫm. Cô đã nghe về những công nhân Paris một thế kỷ trước đã lạc đường trong hầm và chết vì đói khát. Cô vội vã bước để cố gắng bắt kịp với những người khác, để hòa nhập lại với sự sống. Cô cảm thấy cái chết trong hầm này thật quá gần. Những cái sọ dường như đang nhìn chằm chằm vào mặt cô, một giai điệu của sáu triệu người chết cho sự tò mò của cô.
Chúng tôi đã từng sống như cô. Cô nghĩ là cô có thể thoát được định mệnh cô đã thấy trước ư?
Rốt cuộc thì cô cũng ra khỏi đường hầm và bước vào đại lộ Rue Remy Dumoncel chan hòa ánh nắng, cô thở dốc. Lần đầu tiên trong đời cô
thấy vui mừng khi nghe tiếng xe cộ ồn ào, tiếng đám đông như thể cô vừa mới được cho cơ hội sống lần thứ hai trong đời. Ánh mặt trời dường như sáng hơn và mọi người dường như thân thiện hơn. Ngày cuối cùng của mình ở Paris - cô nghĩ - và chỉ bây giờ mình mới thực sự trân trọng vẻ đẹp của thành phố này. Gần như cả tuần trước cô mắc kẹt trong những buổi họp, tham gia Hội nghị quốc tế về pháp y. Chả có mấy thời gian để đi dạo, ngay cả các tour mà ban tổ chức hội thảo sắp xếp cũng liên quan tới chết chóc, bệnh tật, những bảo tàng y học và những rạp chiếu phim cổ lỗ về phẫu thuật.
Và những hầm mộ.
Trong ký ức về Paris, thứ đọng lại là những bộ phận cơ thể người. Như vậy không tốt cho sức khỏe, cô nghĩ khi đang ngồi ở một quán cà phê ngoài trời, nhấm nháp nốt cốc cà phê Espresso và một lát bánh dâu. Trong vòng hai ngày mình sẽ trở lại phòng phẫu thuật, vây quanh là thép không gỉ và không có ánh sáng mặt trời. Chỉ thở không khí lạnh lẽo từ những cái máy. Ngày hôm nay giống như thiên đường vậy.
Cô đành thời gian để ghi nhớ những điều đó. Mùi cà phê, mùi bơ. Những doanh nhân bảnh bao với điện thoại dính chặt vào tai, những dải khăn voan phấp phới quanh cổ những phụ nữ. Cô thưởng thức cảm giác tuyệt diệu nhảy nhót trong đầu bất cứ người Mỹ nào khi họ ở Paris: Sẽ thế nào nếu mình bỏ lỡ chuyến bay và ngồi đây, trong quán cà phê này, ở thành phố hoa lệ này trong suốt cuộc đời mình nhỉ?
Nhưng cuối cùng thì cô cũng phải đứng dậy và vẫy một cái tắc xi về sân bay. Cuối cùng thì cô cũng phải rời xa cảm giác thần tiên ở Paris để tự hứa với mình rằng cô sẽ quay lại một ngày nào đó. Cô chỉ chưa biết là khi nào thôi.
Chuyến bay về nhà của cô bị trễ ba tiếng. Cô nghĩ thầm khi đang ngồi ở Charles De Gaulle - lẽ ra ba tiếng này mình có thể dùng để đi bộ dọc sông Sen, đi quanh Marais hay là Les Halle. Thay vào đó cô lại kẹt ở cái sân bay đông đúc với cả đống hành khác mà chẳng biết ngồi ở đâu. Cuối cùng khi cô đã yên vị ở máy bay của Air France, cô thấy mệt mỏi và kiệt sức. Một ly rượu trong bữa ăn nhẹ trên máy bay cũng đã làm cô chìm sâu vào giấc ngủ mà chẳng mộng mị gì cả.
Chỉ đến khi máy bay chuẩn bị vào sân bay Boston cô mới tỉnh dậy. Đầu đau như búa bổ và ánh mặt trời buổi sáng làm cô thấy hoa mắt. Cơn đau đầu càng dữ dội hơn khi cô đứng ở chỗ lấy hành lý, nhìn hết cái vali ẳ
này tới cái khác mà chẳng thấy cái nào của mình cả. Đầu óc cô cứ đập bùng bùng trong khi cô xếp hàng để điền tên vào danh sách thất lạc hành lý. Cuối cùng cô cũng vào được tắc xi chỉ với một cái túi xách tay, trời với lắm rồi và cô chẳng chờ đợi gì hơn là được tắm nưóc nóng với một liều Advil. Cô ngả người ra ghế, lại một lần nữa, chìm vào giấc ngủ.
Cái xe thắng gấp làm cô giật mình tỉnh dậy, cô nghe thấy tiếng tài xế. - Chuyện quái gì vậy nhỉ?
Lồm cồm ngồi dậy, cô nhìn bằng đôi mắt lờ đờ qua ánh sáng xanh. Phảỉ mất một lúc cô mới nhận ra mình đang nhìn cái gì. Sau đó cô nhận ra là họ đã đến con phố cô ở, rồi cô ngồi bật dậy như đồng hồ báo thức do quang cảnh trước mặt. Bốn xe cảnh sát Brookline đã đậu ở đó từ bao giờ, ánh đèn nhấp nháy trên đầu xe như chém vào màn đêm.
- Có vẻ như có vụ khẩn cấp nào đấy - tài xế nói - đây là phố nhà cô phải không?
- Nhà tôi ngay dưới đó, khoảng giữa của dãy nhà.
- Vậy những cái xe cảnh sát này ở đâu chui ra vậy? Tôi không nghĩ là họ sẽ cho chúng ta qua đâu.
Và như để minh chứng cho lời của tài xế, một cảnh sát tiến đến, vẫy họ tránh ra xa.
Lái xe thò đầu ra khỏi cửa sổ nói.
- Tôi có một hành khách nhà ở đây, tôi cần đỗ lại, cô ấy sống ở ngay phố này.
- Xin lỗi nhé anh bạn, cả tòa nhà này bị phong tỏa rồi.
Maura rướn người lên phía trước và bảo với tài xế.
- Thôi được, tôi xuống ngay đây cũng được.
Cô đưa cho anh ta vé và lấy túi hành lý, ra khỏi xe. Chỉ một lúc trước thôi cô cảm thấy mệt mỏi và lạnh lẽo thì giờ đây, đêm tháng sáu ấm áp dường như lạnh đi. Cô bước lên vỉa hè, cảm giác lo lắng lớn dần khi cô đến gần chỗ đám đông đang tụ tập và khi cô nhìn thấy một đống xe cảnh sát đậu trước cửa nhà cô. Có chuyện gì với hàng xóm nhà mình sao? Một cảnh tượng khủng khiếp bỗng lướt qua đầu cô. Tự sát. Giết người. Cô nghĩ đến Tulushkin, một kỹ sư rô bốt chưa lập gia đình bên cạnh. Không phải là trông anh ta rất u sầu khi cô gặp anh ta lần cuối cùng sao? Cô cũng nghĩ đến Lily và Susan, hai luật sư đồng tính, mục tiêu với cao của những nhà hoạt động vì quyền lợi của giới gay. Sau đó cô nhìn thấy ngay Lily và
Susan đứng ở bên rìa đám đông, trông rất khỏe mạnh và nỗi lo âu của cô tập trung ngay vào Telushkin vì cô không thấy anh ta trong đám đông. Lily nhìn ra ngoài và thấy Maura đang tiến lại. Cô ta không vẫy mà chỉ nhìn cô chằm chằm, không nói nửa lời và huých cho Susan một cái. Susan quay ra nhìn Maura, cô ta lập tức buông thõng hai tay đang khoanh trước ngực. Giờ thì những người khác cũng quay sang nhìn cô, và tất cả khuôn mặt của họ đều có vẻ ngạc nhiên cực độ.
Tại sao họ lại nhìn mình như thế nhỉ? Maura tự hỏi. Mình đã làm gì? - Bác sĩ Idles?- Một cảnh sát đứng gần đang nhìn cô hỏi - là cô... phải không?
Ồ đó là một câu hỏi ngớ ngẩn thật đấy, Maura nghĩ và nói: - Ùm... đó là nhà tôi. Chuyện gì xảy ra vậy anh cảnh sát?
Tay cảnh sát thở một hơi rồi nói.
- Ừm, cô nên đi với tôi.
Anh ta nắm lấy tay cô và dẫn cô đi qua đám đông. Những người hàng xóm lập tức dạt qua một bên như thể dành đường cho một tù nhân. Họ im lặng một cách đáng sợ và chỉ có âm thanh từ máy bộ đàm của cảnh sát. Cả hai tiến đến dải băng vàng cảnh sát chăng ra giữa những lối đi, một vài cái băng đặt trước sân nhà Telushki. Anh ta rất tự hào về bãi cỏ của mình và chắc chắn chả thích chuyện này đâu - Đó là những gì Maura nghĩ. Tay cảnh sát kéo dải băng lên và cô chui qua nó, bước vào một khu vực mà giờ đây cô nhận ra đó là quang cảnh của một vụ án.
Cô biết vậy bởi bì cô thấy nhân vật quen thuộc ở trung tâm. Ngay từ lúc băng qua bãi cỏ, Maura đã nhận ra cảnh sát hình sự Jane Rizzoli. Giờ đang mang thai tháng thứ tám, với cỡ người trung bình trông Jane như quả lê chín trong cái quần dài. Sự có mặt của cô ấy lại là một chi tiết nữa. Cảnh sát hình sự Boston làm gì ở Brookline ngoài những vụ việc hình sự đơn thuần.
Rizzoli không thấy Maura đang đến, ánh mắt cô đang dán vào cái xe đậu bên ngoài căn nhà của Telushkin. Cô đang lắc đầu, rõ ràng là rất thất vọng, mái tóc sẫm màu xổ tung khỏi nếp.
Cộng sự của Rizzoli, Barry Frost nhìn thấy Maura trước tiên. Anh nhìn cô, rồi nhìn đi chỗ khác rồi đột ngột quay lại nhìn, gương mạt trắng bệch nhìn cô chằm chằm. Không nói năng gì anh ta lắc tay đồng sự của mình.
Rizzoli sững sờ ngay tắp lự, ánh sáng từ chiếc đèn cao áp phản chiếu gương mặt thất kinh của cô ta. Cô ta cắm đầu đi, qua lối vào tới chỗ Maura.
- Bác sĩ? - Rizzoli nói khẽ - là chị đấy à?
- Thế có thể là ai khác nữa? Tại sao mọi người cứ hỏi tôi thế nhỉ? Tại sao tất cả các anh chị cứ nhìn tôi như thể tôi là ma vậy?
- Bởi vì... - Rizzoli dừng lại, lắc đầu rũ mái tóc không nề nếp - Lạy Chúa, tôi đã tưởng chị là ma.
- Cái gì?
Rizzoli quay qua gọi lớn.
- Cha Brophy?
Maura không thấy viên mục sư đang đứng ở bên ngoài. Giờ thì anh ta đi ra khỏi chỗ bóng tối, cổ áo viền trắng. Khuôn mặt đẹp trai thường thấy trông có vẻ hốc hác và sốc nặng. Tại sao Daniel lại ở đâỵ? Những mục sư thường không được gọi đến những vụ án trừ khi gia đình nạn nhân yêu cầu. Hàng xóm của cô, Telushkin, đâu phải người theo đạo Thiên Chúa giáo, anh ta là người Do Thái mà, chả có lý do gì mời mục sư cả.
- Cha có thể đưa chị ấy vào trong nhà không, thưa Cha?
- Ai đó làm ơn cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra được không? - Vào trong nhà đi bác sĩ, chúng tôi sẽ giải thích sau.
Maura rời khỏi bàn tay của cha Brophy đang vòng qua lưng cô, cái cách tiếp cận chắc chắn của anh ta khiến cô cảm thấy khó mà chống đỡ vào lúc này. Nhưng cô phải nghe lời thanh tra cảnh sát thôi. Cô để anh ta dẫn mình đến cửa trước và nhận ra sự liên hệ bí mật giữa họ, hơi ấm của anh ta chạm vào người cô. Cô biết anh ta đang đứng cạnh mình khi đôi tay cô run rẩy tra chìa khóa vào cửa trước. Mặc dù họ đã là bạn nhiều tháng liền rồi nhưng cô chưa bao giờ mời Daniel Brophy vào nhà mình cả, và phản ứng của cô lúc này là một lời nhắc nhở tại sao cô lại cẩn thận với anh ta như vậy. Họ bước vào trong, vào phòng khách nơi đèn tường đã bật sáng do được cài chế độ tự động. Cô dừng lại một lát gần đi văng, lưỡng lự không biết phải làm gì tiếp theo.
Cha Brophy bèn chủ động.
- Ngồi đi - anh ta chỉ xuống đivăng - Tôi sẽ lấy cho cô cái gì để uống.
- Cha là khách trong nhà tôi mà, để tôi mời cha.
- Không phải trong trường hợp này.
ẳ
- Thậm chí tôi còn chẳng biết trường hợp này là gì.
- Rizzoli sẽ nói cho cô biết.
Anh ta rời khỏi phòng và trở lại với một ly nước trên tay - đó không phải là lựa chọn của cô lúc này, nhưng thôi, không thể yêu cầu một mục sư mang cho mình một ly vodka được. Cô uống một ngụm nước, cảm thấy không thoải mái lắm trước cái nhìn của anh ta. Anh ta ngồi vào cái ghế đối diện với cô và nhìn cô như sợ cô biến mất vậy.
Cuối cùng cô cũng nghe thấy Rizzoli và Frost bước vào nhà, nghe thấy tiếng họ thì thầm trao đổi với người thứ ba, một giọng mà Maura chẳng nhận ra. Cô nghĩ: lại bí mật. Sao mọi người cứ phải giữ bí mật với mình nhỉ? Họ không muốn mình biết điều gì đây?
Cô nhìn lên khi hai thám tử bước vào phòng khách với một người thứ ba mà tự giới thiệu mình là thanh tra Eckert, cái tên cô chẳng nhớ nổi quá năm phút. Sự chú ý của cô hoàn toàn tập trung vào Rizzoli, người mà cô đã từng cùng làm việc.
Người phụ nữ cô thích và nể.
Các thanh tra đều ngồi vào ghế, Rizzoli và Frost ngồi đối diện với Maura qua bàn cà phê. Cô cảm thấy quá sức, bốn người bọn họ đang nhìn cô. Frost lôi ra giấy bút. Sao anh ta lại mang giấy bút ra ghi chép? Tại sao cứ như anh ta bắt đầu hỏi cung mình vậy?
- Cô ổn chứ bác sĩ - Rizzoli hỏi, giọng mềm mại bởi sự quan tâm thật lòng.
Maura cười với câu hỏi đó.
- Tôi nghĩ mình sẽ cảm thấy khá hơn nhiều nếu tôi được biết điều gì đang diễn ra.
- Tôi có thể biết là với nay chị đã ở đâu không?
- Tôi vừa từ sân bay về.
- Sao chị lại ở sân bay?
- Tôi bay từ Paris về, sân bay Charles De Gaulle. Chuyến bay dài và tôi không thể trả lời hai mươi câu hỏi đâu.
- Chị ở Paris bao lâu?
- Một tuần. Tôi bay qua đó thứ tư tuần trước.
Maura chợt nghĩ có dấu hiệu buộc tội trong câu hỏi của Rizzoli và cô chuyển sang tức giận.
- Nếu cô không tin thì cô có thể hỏi trợ lý của tôi, Louise. Cô ta đã đặt vé chuyến bay cho tôi đấy. Tôi đến đó để tham dự một cuộc họp.
- Hội thảo pháp y quốc tế, đúng không?
Maura ngạc nhiên.
- Cô biết rồi à?
- Louise nói với tôi.
Họ đã điều tra về mình, ngay cả trước khi mình về nhà, họ đã nói chuyện với thư ký của mình.
- Cô ấy nói với chúng tôi là chị sẽ hạ cánh ở sân bay Logan lúc 5 giờ chiều nay. Giờ đã gần 10 giờ rồi, chị đã ở đâu?
- Chuyến bay bị muộn từ sân bay De Gaulle, có vụ kiểm tra an ninh gì đấy và các máy bay thì đậu đầy ở đó, chúng tôi may mắn vì đã cất cánh chỉ chậm ba tiếng.
-Vậy là chậm ba tiếng à?
- Tôi vừa nói với cô rồi.
- Chị xuống sân bay lúc mấy giờ?
-Tôi không biết, khoảng 8 giờ 30.
- Chị mất một tiếng rưỡi để từ sân bay Logan về đây ư?
- Tôi chẳng tìm thấy hành lý của mình đâu cả, tôi phải làm thủ tục với Air France để tìm hành lý.
Maura dừng lại, đột nhiên thấy giới hạn chịu đựng đã đến rồi. - Xem này, khỉ thật, tất cả chuyện này là gì? Trước khi tôi trả lời thêm bất cứ câu hỏi nào tôi có quyền được biết. Các vị buộc tội tôi chuyện gì đây?
- Không đâu bác sĩ, chúng tôi không buộc tội gì chị cả. Chúng tôi chỉ đang cố vạch ra một khung thời gian thôi.
- Khung thời gian cho cái gì?
Frost hỏi cô.
- Cô có nhận được bất cứ lời đe dọa nào không, bác sĩ Idles? Cô nhìn anh ta trân trối.
- Cái gì?
- Cô có biết ai có thể có động cơ để hại cô không?
- Không.
- Cô chắc chứ?
Maura cười mệt mỏi.
- Ồ, có ai dám chắc?
- Chắc là chị có vài vụ ở tòa mà lời chứng của chị có thể làm ảnh hưởng tới ai đó - Rizzoli nói.
- Họ chỉ có thể bị ảnh hưởng bởi sự thật thôi.
- Chị có thể có kẻ thù ở tòa vì chị giúp buộc tội.
- Tôi chắc là cô cũng thể đấy Jane, chỉ cần cô làm việc của mình thôi. - Chị có nhận được lời đe dọa cụ thể nào không? Thư hay là điện thoại gì đấy?
- Số điện thoại của tôi không được công bố và Louise thì không cho ai biết địa chỉ của tôi.
- Thế còn những lá thư cho chị từ một văn phòng xét nghiệm y học nào đấy?
- Chỉ là những lá thư rắc rối thôi. Chúng tôi vẫn nhận được thường xuyên mà.
- Rắc rối?
- Người ta viết về người ngoài hành tinh hay là vật thể lạ, hoặc là buộc tội chúng tôi che giấu thật về pháp y. Chúng tôi bỏ chúng vào những ngăn lưu trữ. Trừ khi có một cái gì đó vượt quá mức bình thường thì chúng tôi gửi cho cảnh sát.
Maura thấy Frost chăm chú ghi chép và cô tự hỏi anh ta ghi cái quái gì thế không biết. Giờ thì cô giận dữ thật sự, cô muốn nhoài người qua bàn và giật lấy cuốn sổ của anh ta.
- Bác sĩ - Rizzoli nói nhẹ nhàng — chị có chị em gái gì không? Câu hỏi đường đột quá và Maura kinh ngạc nhìn Rizzoli chằm chặp. - Xin lỗi?
- Chị có chị em gái gì không?
- Tại sao cô hỏi thế?
- Tôi chỉ muốn biết thôi.
Maura thở hắt ra.
- Không, tôi không có chị em gái nào hết. Và cô biết là tôi được nhận nuôi còn gì. Khi nào thì các vị mới cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra đây? Rizzoli và Frost nhìn nhau.
Frost gấp cuốn sổ của anh ta lại.
- Tôi nghĩ đã đến lúc cho cô ấy biết rồi.
Rizzoli dẫn mọi người ra cửa trước, Maura bước ra ngoài, đêm hè ấm áp dưới ánh sáng của chiếc đèn cao áp. Cơ thể cô vẫn còn bị tác động bởi giờ Paris, bên ấy giờ đang là 4 giờ sáng và cô thấy mọi thứ qua một cái nhìn kiệt sức, ban đêm như một cơn ác mộng. Khoảng khắc cô bước ra khỏi nhà, tất cả những khuôn mặt quay ra nhìn cô chằm chặp. Cô thấy hàng
xóm nhà mình văn tụ tập bên ngoài đường phố, nhìn cô bước ra khỏi dây chăng an toàn. Là một bác sĩ pháp y, cô quen với việcbị dò xét dưới đôi mắt của công chúng rồi, mọi cử chỉ của cô đều được theo dõi bởi cảnh sát và các phương tiện truyền thông nhưng đêm nay sự chú ý đó có vẻ khác thường, rầy rà hơn và đáng sợ hơn. Cô cảm thấy may mắn vì có Rizzoli và Frost ở bên cạnh, cùng với cô đi qua những ánh mắt tò mò ở lối đi và đến trước chỗ chiếc Ford Taurus đang đậu trước cửa nhà Telushkin.
Maura không nhận ra chiếc xe, nhưng cô nhận ra người đàn ông có râu đang đứng bên cạnh với bàn tay đeo găng dầy của anh ta. Bác sĩ Abe Bristol, đồng nghiệp của cô ở cơ quan xét nghiệm y học. Abe là một người đàn ông tốt bụng và vẻ ngoài của anh ta là minh chứng rõ ràng cho tình yêu vô bờ bến với thức ăn. Cái bụng của anh ta đã phình ra ngoài thắt lưng. Anh ta nhìn Maura và nói.
- Ôi Chúa ơi, đừng đùa với tôi chứ.
Anh ta hất đầu về phía chiếc xe.
- Tôi nghĩ cô nên sẵn sàng cho điều này, Maura.
Sẵn sàng cho cái gì?
Cô nhìn chiếc xe Taurus. Nó đậu phía sau ánh sáng đèn xe, bóng của nó như vượt qua bánh lái. Những vệt màu đen khó hiểu trong gió đêm. Máu.
Rizzoli chiếu đèn vào ghế sau xe. Đầu tiên, Maura không hiểu cô sẽ nhìn vào cái gì, sự chú ý của cô vẫn tập trung vào vết máu trên cửa sổ xe và cái bóng trong ghế người lái. Sau đó cô nhìn thấy rõ hơn khi đèn Magline của Rizzoli bật lên. Ngay dưới chốt cửa xe là ba vết cào song song, hằn sâu vào xe.
- Như vết cào vậy - Rizzoli nói, xoa xoa ngón tay như xoa vết sẹo. Maura nhìn kỹ hơn các dấu vết đó. Không phải vết cào của người, cô nghĩ khi một cơn ớn lạnh tràn qua. Một vết cào của thú.
- Qua chỗ lái xe xem.
Maura không nói câu nào khi cô theo Jane đi vòng quanh chiếc Taurus.
- Biển số Massachusettes - Rizzoli nói, vung cây đèn quét sáng qua lốp xe, nhưng chỉ một chi tiết nhỏ thoáng qua. Rizzoli tiếp tục chiếu đèn xung quanh chỗ người lái và nhìn Maura.
- Đây là điều khiến chúng tôi băn khoăn đấy - Rizzoli nói và khua ánh đèn vào trong xe.
ẳ
Ánh đèn chiếu thẳng vào gương mặt của người phụ nữ đang nhìn về hướng cửa sổ xe. Gò má phải của cô ta dựa vào bánh lái và đôi mắt vẫn mở.
Maura không nói được tiếng nào, cô nhìn vào làn da trắng ngà, mái tóc đen, cặp môi đầy, hơi xẻ rãnh và kinh ngạc. Cô hơi lùi lại, chân như không còn xương và cô thấy hình như mình đang bay lơ lửng, cơ thể không còn trên mặt đất. Một bàn tay nắm lấy tay cô, giữ chặt cô. Là cha Brophy, đang đứng ngay đằng sau cô. Thậm chí cô không nhận ra sự có mặt của anh ta.
Giờ thì cô hiểu tại sao mọi người nhìn cô kinh ngạc thế khi cô về đến nhà. Cô nhìn vào tử thi trong xe, gương mặt sáng dưới ánh đèn của Rizzoli. Đó là mình, người phụ nữ đó là mình.
HAI
Cô ngồi trên đi văng, uống một hớp vodka và sô đa, cục đá tan dần trong ly. Nước trắng không ăn thua trong trường hợp này, cú sốc này cần thuốc mạnh hơn. Cha Brophy chắc đủ hiểu để rót cho cô một thứ đồ uống thật mạnh, đưa cho cô mà chẳng có phàn nàn gì hết. Không phải ngày nào bạn cũng nhìn thấy bạn chết. Không phải ngày nào bạn cũng bước vào một vụ án và nhìn thấy một bản sao không sức sống của mình như thế.
- Chỉ là tình cờ ngẫu nhiên thôi mà - Cô thì thào - người phụ nữ đó trông giống mình quá, chỉ thế thôi. Nhiều phụ nữ cũng có tóc đen. Khuôn mặt của cô ta - Làm sao mà có thể thực sự thấy khuôn mặt của cô ta trong cái xe ấy chứ.
- Tôi không biết, bác sĩ à - Rizzoli nói - việc trùng lặp như vậy quả là hiếm đấy.
Rizzoli dựa vào ghế, khẽ rên lên như thể mớ da đã nuốt chửng bộ dạng mang bầu tròn trịa của cô. Maurara nghĩ - thật tội nghiệp Rizzoli. Những phụ nữ đang mang bầu tới tháng thư tám không nên quăng mình vào những vụ điều tra hình sự như thế này.
- Kiểu tóc của cô ta cũng khác nữa - Maura nói.
- Dài hơn một chút, thế thôi.
- Tôi có những lọn lớn, cô ta thì không.
- Chị không nghĩ rằng đó chỉ là những tiểu tiết bên ngoài sao? Nhìn mặt cô ta mà xem, có thể là em chị đấy.
- Hãy đợi đến khi trời sáng và chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn. Có thể cô ta trông chẳng giống tôi chút nào đâu.
Cha Brophy lên tiếng.
- Việc trùng hợp rõ ràng quá rồi, Maura. Tất cả chúng ta đều thấy. Cô ta giống hệt cô.
- Thêm nữa là cô ta đang ngồi trong cái xe đậu ở khu nhà cô, ngay trước cửa nhà cô - Rizzoli thêm vào - và cô ta còn có cái này ở ghế sau nữa.
Rizzoli giơ một cái túi đựng bằng chứng lên. Qua cái túi nhựa trong, Maura có thể thấy nó đựng một mẩu văn bản từ tờ The Boston Globe. Tít bài đủ lớn cho cô đọc ngay từ chỗ mình ở bên kia bàn cà phê.
Ậ Ậ Ừ
EM BÉ SƠ SINH NHÀ RAWLIN BỊ ĐẬP BẸP, KẾT LUẬN TỪ PHÁP Y.
- Đó là bức ảnh của chị, bác sĩ ạ. Bài báo viết "Bác sĩ Maura Idles đã rời phòng xét xử sau khi trả lời tại tòa án.”
Rizzoli nói và nhìn Maura.
- Nạn nhân có cái này trong xe.
Maura lắc đầu:
- Tại sao?
- Đó là những gì chúng tôi đang đi tìm.
- Vụ Rawlins - khoảng hai tuần trước.
- Chị có nhớ đã gặp người phụ nữ này ở tòa án hay không? - Không, tôi chưa gặp cô ta bao giờ.
- Nhưng rõ ràng cô ta đã thấy chị. Trong bài báo. Và cô ta xuất hiện ở đây. Tìm kiếm chị? Theo sát chị?
Maura nhìn đồ uống của mình. Vodka làm đầu cô thấy lâng lâng lơ lửng. Cô nghĩ thầm. Chưa đến hai tư giờ trước đây mình đang đi bộ dọc theo những con phố ở Paris, tận hưởng ánh nắng mặt trời, nhìn ngắm đường phố từ quán cà phê vỉa hè. Lam sao mình lại rơi vào cơn ác mộng này nhỉ?
- Chị có giữ bình xịt hơi cầm tay nào trong nhà không, bác sĩ? - Rizzoli hỏi.
Maura chẳng hiểu gì cả.
- Cô hỏi kiểu gì vậy?
- Không tôi không định buộc tội gì chị. Tôi nghĩ không biết có cách nào để chị tự vệ không thôi.
- Tôi không có súng. Tôi đã nhìn thấy người ta đã tàn phá cơ thể người khác như thế nào và tôi sẽ không để một khẩu súng trong nhà tôi đâu.
- Thôi được, tôi chỉ hỏi thế thôi.
Maura nhấp thêm một ngụm vodka nữa, cô thấy mình cần phải có chất kích thích lỏng này trước khi hỏi câu tiếp theo.
- Cô biết gì về nạn nhân?
Frost lấy cuốn sổ ghi chép của mình ra và lật vài trang một cách lơ đãng. Maura nghĩ về anh ta như một viên chức quan liêu điển hình với cái bút luôn có vẻ sẵn sàng trong tay.
- Theo như bằng lái của cô ta thì tên cô ta là Anna Jessop, tuổi bốn mươi với một địa chỉ ở Brighton. Giấy đăng ký xe khớp với tên đó. Maura ngẩng đầu lên.
- Như vậy chỉ cách đây vài dặm.
- Chỗ ở của cô ta là một tòa nhà chung cư. Hàng xóm của cô ta không biết nhiều về cô ta lắm. Chúng tôi vẫn đang cố gắng tìm ra chủ nhà để biết nhiều hơn.
- Cái tên Jessop có gợi lên cái gì không? - Rizzoli hỏi.
Cô lắc đầu.
- Tôi không biết ai mang cái tên đó.
- Chị có biết ai ở Maine không?
- Sao cô hỏi thế?
- Có một cái vé thu tiền qua đường trong túi cô ta. Trông có vẻ như mới hai ngày trước đây, cô ta đi về phía nam trên xa lộ Maine. - Tôi cũng chẳng biết ai ở Maine cả.
Maura hít một hơi và hỏi:
- Ai đã tìm thấy cô ấy.
- Hàng xóm của chị, Telushkin, đã gọi cho chúng tôi, anh ta đang đi dạo với con chó thì phát hiện ra cái xe Taurus đậu bên ngoài. - Khi nào vậy?
- Khoảng 8 giờ với.
Maura thầm nghĩ - tất nhiên rồi, Telushki đi dạo với con chó của anh ta chính xác vào tầm đó mỗi với. Những kỹ sư lúc nào cũng vậy, rõ ràng và có thể đoán được. Nhưng với nay thì anh ta vướng vào một chuyện không thể đoán được rồi.
- Anh ta không nghe thấy gì sao?
- Anh ta nói là anh ta nghe thấy tiếng gì đó như tiếng nổ lốp xe, khoảng mười phút trước đó nhưng không có ai nhìn thấy gì cả. Sau khi anh ta tìm thấy chiếc Taurus thì anh ta gọi 911, báo cáo rằng có ai đó vừa bắn hàng xóm của anh ta - bác sĩ Idles. Cảnh sát Brookline đến trước, rồi sau đó là thanh tra Eckert đây. Frost và tôi đến vào tầm 9 giờ.
- Tại sao? - Maura hỏi, cuối cùng thì câu hỏi trong đầu cô ngay khi nhìn thấy Rizzoli ở bãi cỏ cũng bật ra - Tại sao lại là cảnh sát Brookline, đây có phải địa bàn của các anh đâu.
Rizzoli nhìn Eckert. Anh ta nói, rất nhỏ nhẹ.
- Cô biết đấy, chúng tôi chỉ có một vụ hình sự năm ngoái ở Brookline. Chúng tôi nghĩ trong trường hợp này thì nên đến Boston. Phải, đúng là như thế - Maura nhận ra điều đó vì Brookline chỉ bé như một cái giường ngủ trong thành phố Boston. Năm ngoái, phòng cảnh sát điều tra Boston đã điều tra sáu vụ hình sự. Rèn luyện luôn là điều tốt, với cả những vụ giết người hay bất cứ cái gì.
- Dù thế nào thì chúng tôi cũng nên tham gia - Rizzoli lên tiếng - sau khi chúng tôi nghe nói về nạn nhân và tôi phải thừa nhận rằng tôi vẫn cứ tưởng là chị trong cái xe đó. Tôi nhìn nạn nhân và nghĩ...
- Tất cả chúng tôi đều nghĩ như vậy - Frost nói.
Im lặng.
- Chúng tôi đã biết chị bay về nhà với nay từ Pari - Rizzoli nói tiếp - đó là những gì thư ký của chị cho chúng tôi biết. Điều duy nhất chúng tôi thấy không hiểu là cái xe. Làm sao chị lại ngồi trong cái xe đăng ký dưới tên người khác.
Maura uống cạn ly rượu và đặt nó xuống bàn trà, một cốc rượu là tất cả những gì cô có thể làm với nay. Tay chân cô cứng lại và giờ cô rất khó khăn để tập trung. Căn phòng mờ ảo, ngọn đèn tỏa ánh sáng ấm áp nhàn nhạt. Chuyện này không có thật - cô nghĩ. Mình đang ngủ gật đâu đó ở Atlantic và mình sẽ tỉnh dậy khi máy bay hạ cánh. Mấy chuyện này không hề xảy ra.
- Chúng tôi không biết chút gì về Anna Jessop - Rizzoli nói - tất cả những gì chúng tôi biết bây giờ bằng chính đôi mắt của mình - rằng cô ta là ai đi nữa thì cô ta cũng là một xác chết giống hệt chị, bác sĩ. Có thể tóc dài hơn một chút, có thể đâu đó có vài điểm khác biệt nhưng điều quan trọng là. Chúng tôi đã là những kẻ ngốc, tất cả chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều biết chị. Chị biết chúng tôi phải làm gì đúng không?
Phải, Maura biết, nhưng cô đã không thể nói ra. Cô chỉ nhìn chằm chằm vào cái ly trên bàn, vào cục đá đang tan chảy.
- Nếu như chúng tôi nhầm lẫn, vậy có thể ai đó cũng nhầm lẫn, kể cả kẻ đã bắn viên đạn vào đầu cô ta. Chỉ mới ngay trước 8 giờ thôi khi hàng xóm nhà chị nghe thấy có tiếng nổ. Trời đã với và cô ta ở đó, ngồi trong chiếc xe chỉ cách lối vào nhà chị vài thước. Bất cứ ai nhìn thấy cô ta trong chiếc xe đó cũng tin đấy là chị.
- Cô nghĩ tôi là mục tiêu sao? - Maura hỏi.
- Cũng có lý, đúng không?
Maura lắc đầu.
- Tất cả những điều này đều chẳng có nghĩa lý gì cả.
- Chị có một công việc rất được biết đến, chị có mặt trong các vụ án hình sự. Chị có mặt trên báo chí, chị là Nữ hoàng xác chết. - Đừng có gọi tôi như thế.
- Tất cả các cảnh sát đều gọi chị như thế. Giới truyền thông cũng gọi chị như thế, chị biết vậy mà.
- Không có nghĩa là tôi thích cái tên đó, thực sự thì tôi không thể chịu được.
- Nhưng điều đó có nghĩa là chị được chú ý. Không phải chỉ bởi những gì chị làm, mà còn bởi vẻ bề ngoài của chị. Chị biết là đàn ông chú ý đến chị, phải không? Chị có bị mù mới không nhận thấy điều đó. Những phụ nữ duyên dáng luôn là tâm điểm của sự chú ý. Đúng không, Frost?
Frost như bị bắt gặp làm điều ác, không hề biết là mình lại bị túm gáy bất ngờ như thế. Mặt anh ta đỏ lên. Frost đáng thương, thật dễ bị lộ cảm xúc.
- Đó chí là bản năng tự nhiên thôi mà - anh thừa nhận.
Maura nhìn cha Brophy, anh ta không hề đáp lại cái nhìn của cô. Cô tự hỏi liệu anh ta có phải là đối tượng bị ảnh hưởng bởi quy luật cuốn hút hay không. Cô muốn nghĩ vậy, cô muốn tin rằng Daniel không nhiễm những suy nghĩ tương tự trong đầu cô.
Rizzoli vẫn chưa kết thúc.
- Những phụ nữ duyên dáng trong con mắt công chúng, bị nhắm bắn, tấn công ngay trước cửa nhà. Điều này đã xảy ra rồi. Tên của nữ diễn viên ở LA là gì nhỉ? Cô gái vừa bị giết ấy?
- Rebecca Schaefer - Frost nhắc.
- Đúng vậy. Và có cả vụ của Lori Hwang đó, chị nhớ chứ, bác sĩ? Phải, Maura nhớ, bởi vì cô là người khám nghiệm tử thi trên kênh 6. Lori Hwamh đã rất nổi tiếng mới được một năm khi cô bị bắn chết ngay trước cửa studio. Cô ta chưa bao giờ nhận ra là mình bị bám theo. Kẻ sát nhân đã thấy cô ta trên ti vi và viết vài lá thư hâm mộ. Và rồi một ngày anh ta đợi ở cửa studio, khi Lori vừa bước ra đi đến chỗ đậu xe thì hắn bắn vào đầu cô.
- Đó là vấn đề khi sống dưới con mắt của công chúng đấy. Chị không bao giờ biết ai đang nhìn chị trên màn hình ti vi, chị không bao giờ biết ai trong chiếc xe ngay đằng sau xe của chị khi chị từ sở làm về nhà
vào lúc đêm khuya. Đó không phải là điều chúng ta thường xuyên nghĩ tới - rằng có ai đó bám theo chúng ta, điên cuồng vì chúng ta. Rizzoli ngừng lại và nói một cách trầm lắng.
- Tôi đã ở đó, tôi biết việc đam mê của ai đó là như thế nào. Tôi không hẳn là bị đam mê nhưng chuyện đó đã xảy ra với tôi. Cô đưa tay ra và cho mọi người thấy cái sẹo trên tay. Kỷ niệm không thể quên được trong trận chiến giữa cô với gã đàn ông hai lần muốn cướp đi cuộc sống của cô. Giờ anh ta vẫn còn sống, tuy bị liệt tứ chi. - Đó là lý do tại sao tôi lại hỏi chị chị có nhận được lá thư nặc danh nào không? Tôi đang nghĩ về Lori Hwang đấy - Rizzoli nhắc. - Kẻ ám sát cô ta bị bắt rồi - cha Brophy nói.
- Phải.
- Vậy cô không ám chỉ cùng một người đây chứ?
- Không, tôi chỉ chỉ ra sự tương đồng thôi, chỉ một phát đạn bắn vào đầu... Những phụ nữ làm nghề của công chúng.
Rizzoli vặn vẹo chân. Cô ta phải rất cố gắng mới có thể đứng lên khỏi cái ghế. Frost đưa tay ra định giúp nhưng cô lờ đi. Mặc dù mang thai khá lớn nhưng Rizzoli không cần giúp đỡ. Cô quàng cái túi qua vai và ném cho Maura một cái nhìn dò hỏi.
- Chị có muốn ở tạm đâu với nay không?
- Đây là nhà tôi, cô muốn tôi đi đâu nữa?
- Tôi chỉ hỏi vậy thôi, tôi nghĩ là tôi không cần nói với chị là phải khóa cửa cẩn thận.
- Tôi luôn làm thế.
Rizzoli nhìn Eckert.
- Cảnh sát Brookline có thể giám sát ngôi nhà không?
Anh ta gật đầu.
- Tôi sẽ bố trí xe tuần tra chạy qua đây liên tục.
- Tôi rất vui. Cảm ơn - Maura nói.
Maura tiễn ba người đến cửa trước và đứng nhìn họ chui vào xe. Giờ đã quá nửa đêm. Bên ngoài, con phố đã trở nên yên tĩnh như cô vẫn thường thấy. Xe cảnh sát Brooklie đã đi rồi, chiếc Taurus cũng được chuyển đi về phòng xét nghiêm tội phạm. Sáng mai, mình sẽ tỉnh dậy và nghĩ rằng mình đã tưởng tượng ra mọi thứ - Maura nghĩ.
Cô quay lại và thấy cha Brophy vẫn còn ở đó. Cô chưa bao giở cảm thấy khó xử vì sự có mặt của anh ta như bây giờ, chỉ có hai người ở nhà
cô. Chắc chắn mọi khả năng có thể đang cuộn ầm ầm trong đầu họ. Hay chỉ trong đầu mình thôi? Đêm khuya, và một mình trên giường, anh có nghĩ tới tôi không Daniel? Như tôi nghĩ về anh?
- Cô có nghĩ là cô cảm thấy an toàn khi ở đây một mình không? - Anh ta lo lắng hỏi.
- Tôi sẽ ổn thôi. Còn lựa chọn nào khác? Anh sẽ ở cả đêm với tôi à? Đó có phải là điều anh muốn gợi ý không?
Anh ta đi ra cửa.
- Ai gọi anh đến thế, Daniel? Làm sao mà anh biết...?
Anh ta quay lại nhìn cô.
- Thanh tra Rizzoli gọi tôi, cô ấy nói với tôi... - anh ta ngừng lại - Cô biết đấy, tôi thường nhận được những cuộc điện thoại như thế này từ cảnh sát. Một đám tang ở gia đình, ai đó cần Cha cố. Tôi luôn sẵn lòng đáp lại. Nhưng lần này... cô khóa cửa nhé, Maura. Tôi không muốn trải qua một đêm như thế này nữa.
Cô nhìn anh ta đi ra khỏi nhà và vào xe. Anh ta không nổ máy ngay mà chờ đợi cho đến khi cô vào trong nhà an toàn.
Cô đóng cửa và khóa lại.
Qua cửa sổ phòng khách, cô nhìn Daniel lái xe đi. Mất một lúc cô nhìn vào khoảng trống vắng lặng, cảm thấy đột ngột bị bỏ rơi. Cô ước lúc đó mình có thể gọi anh ta trở lại, và điều gì sẽ xảy ra nhỉ? Cô muốn chuyện gì xảy ra giữa họ? Một vài cạm bẫy, vượt ngoài khả năng kiểm soát. Cô nhìn lướt qua con phố trong đêm lần cuối và bước ra xa khỏi cửa sổ, biết rằng mình bị đóng khung bởi ánh sáng từ phòng khách. Cô kéo rèm lại và đi qua các phòng, kiểm tra khóa và cửa sổ. Trong đêm tháng sáu ấm áp, cô thường mở cửa sổ khi ngủ nhưng đêm nay, cô phải đóng cửa và bật điều hòa.
Buổi sáng sớm khi cô thức dậy, cảm thấy không khí lạnh thổi qua. Giấc mơ của cô về Paris, vẫn còn mơ màng với bầu trời xanh, những luống hoa hồng và ly ly, mất một lúc cô mới định thần mình đang ở đâu. Không còn ở Paris nữa, mà đang trên giường nhà mình. Cô nhận ra điều đó. Và một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra.
Mới 5 giờ sáng nhưng cô đã cảm thấy tỉnh như sáo. Giờ này ở Paris là 11 giờ trưa, cô nghĩ vậy. Ánh sáng mặt trời đang rạng rỡ và nếu như vẫn còn ở đó, cô nghĩ, mình đã uống tới cốc cà phê thứ hai rồi. Cô biết cơn mệt vì đi máy bay sẽ đến trong ngày hôm nay, và năng lượng sung mãn
buổi sáng sẽ sớm hết dần vào buổi chiều nhưng cô không thể ép mình ngủ thêm nữa.
Cô đứng dậy và mặc quần áo.
Con phố trước mặt vẫn y hệt như nó vẫn thế. Vệt sáng bình minh đầu tiên hiện ra trên bầu trời. Cô nhìn thấy ánh sáng từ nhà Telushkin bên cạnh. Anh ta là một người dậy sớm, thường bắt đầu đi làm sớm hơn cô cả tiếng, nhưng sáng nay cô là người dậy sớm hơn. Cô nhìn hàng xóm với đôi mắt bình thản. Cô nhìn bình phun nước tự động chạy ngang dọc, nước phun thành vòng tròn lên bãi cỏ. Cô thấy cậu bé đưa báo vừa đạp xe qua, cái mũ lưỡi trai hất ngược ra sau và nghe thấy tiếng tờ Boston Globe rơi xuống trước thềm nhà. Mọi thứ vẫn y nguyên như thế, nhưng không. Thần chết đã viếng thăm khu nhà cô và mọi người ở đây đều nhớ nó. Họ sẽ nhìn qua cửa sổ trước nhà tới chỗ chiếc Taurus đậu và sợ hãi nghĩ rằng sao cái chết có thể đến gần thế
Đèn xe lập lòe ở góc phố, một chiếc xe xuất hiện, chầm chậm đi qua nhà cô. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát Brookline.
Không, không có gì y nguyên cả, cô nghĩ khi thấy cái xe đi ngang qua.
Không thứ gì còn nguyên vẹn.
Cô đến văn phòng sớm hơn cả thư ký. 6 giờ Maura đã ngồi ở bàn, mở hàng đống thư và báo cáo trong thùng thư chất đống cả tuần cô vắng mặt đi Pari. Làm được một phần ba công việc thì cô nghe thấy tiếng bước chân, khi nhìn lên, cô thấy trợ lý của mình Louise đang đứng ở cửa.
- Cô đây rồi - Louise thì thầm.
Maura đón chị ta bằng một nụ cười.
- Chào chị! Tôi nghĩ tôi phải dậy sớm để xem đống giấy tờ này. Louise chỉ nhìn cô một lúc, sau đó chị bước vào phòng và ngồi xuống cái ghế đối diện với Maura, như thể đột nhiên mệt quá không thể đứng được. Mặc dù đã năm mươi tuổi nhưng Louise luôn luôn có sức chịu đựng gấp đôi Maura dù Maura trẻ hơn Louise tới mười tuổi. Thế nhưng sáng nay Louise có vẻ kiệt sức, mặt gầy và khắc khổ dưới ánh dèn. - Cô ổn chứ bác sĩ Idles? - Louise hỏi một cách nhẹ nhàng. - Tôi ổn, hơi say máy bay chút thôi.
- Ý tôi là... sau những gì xảy ra đêm qua ấy, bác sĩ. Thanh tra Frost nói chắc chắn đó là cô, trong cái xe đó...
Maura gật đầu, nụ cười nhạt đi.
- Giống như trong vùng tranh với tranh sáng ấy, Louise. Về nhà và thấy cả đám xe cảnh sát trước cửa nhà mình.
- Thật tệ, chúng tôi đều nghĩ là... - Louise nuốt nước bọt và nhìn xuống chân - Tôi thấy mừng quá lúc bác sĩ Bristol gọi tôi với qua để báo cho tôi là có nhầm lẫn.
Im lặng một lát, cả hai đều thấy nặng nề. Đột nhiên Maura thấy lẽ ra mình phải là người gọi cho thư lý của mình trước mới phải. Lẽ ra cô phải nhận ra Louise sẽ bị sốc và muốn nghe giọng cô đến thế nào. Mình đã sống một mình quá lâu và cô lập quá lâu - Maura nghĩ, mình chẳng hề quan tâm rằng mọi người trên thế giới này vẫn còn để ý chuyện gì xảy ra với mình.
Louise đứng dậy định đi.
- Tôi rất mừng gặp lại cô bác sĩ Idles. Tôi chỉ muốn nói vậy thôi. - Louise?
- Tôi đây.
- Tôi mang cho chị vài thứ từ Pari đấy, thật ngại quá nhưng tôi để trong vali và hãng máy bay làm mất chúng rồi.
- Ô - Louise cười - nếu là socola thì tôi nghĩ cái mông của tôi không cần nó đâu.
- Không có calo đâu, tôi thề đấy - cô nhìn cái đồng hồ trên bàn - bác sĩ Bristol đến chưa?
- Ông ấy vừa đến, tôi thấy ông ấy ở bãi đậu xe.
- Chị có biết khi nào ông ấy bắt đầu ca khám nghiệm không? - Ca nào nhỉ? Hôm nay ông ấy có hai ca.
- Ca bị bắn với qua ấy, một phụ nữ.
Louise trao cho cô một cái nhìn rất dài.
- Tôi nghĩ là ca đó xếp thứ hai đấy.
- Họ có biết thêm gì về người phụ nữ đó không?
- Tôỉ không rõ lắm. Cô phải hỏi bác sĩ Bristol.
BA
Mặc dù không có ca nào hôm nay nhưng đến hai giờ, Maura vẫn xuống cầu thang tới phòng thay đồ và mặc quần áo bảo hộ. Chỉ có mình cô trong phòng thay đồ, cô bình tĩnh thay bộ quần áo bình thường, gấp cái áo cánh và quần, cho chúng vào ngăn trong tủ đồ. Bộ quần áo cọ vào làn da trần và cô cảm thấy dễ chịu trong thói quen kéo chặt quần và đội mũ lên đầu. Cảm giác được bao bọc và bảo vệ bởi vải cotton được là ủi thật dễ chịu. Liếc vào gương, cô như thấy một người lạ, tất cả những cảm giác đó thật bình thường. Cô rời căn phòng, đi xuống sảnh và vào phòng mổ.
Rizzoli và Frost đã có mặt ở đó, đang đứng bên cạnh bàn. Cả hai đều đeo khẩu trang và găng tay. Lưng của họ che mất tầm nhìn của Maura tới chỗ nạn nhân. Bác sĩ Bristol thấy cô đầu tiên. Ông đứng đối diện với Maura, khuôn mặt to béo của ông ta rất vừa với khẩu trang khổ lớn, ông ta bắt gặp cái nhìn của Maura khi cô bước vào phòng. Lông mày nhướn lên qua khẩu trang y tế, cô thấy câu hỏi trong đôi mắt đó.
- Tôi nghĩ tôi nên ghé qua xem ca này - cô trả lởi.
Giờ thì Rizzoli mới quay lại nhìn cô. Cả cô ấy cũng thế, cau mày lại. - Chị chắc là chị muốn xem chứ?
- Thế cô không tò mò sao?
- Tôi không chắc liệu tôi có muốn xem không, tôi chỉ ngó qua thôi. - Tôi chỉ muốn quan sát thôi, nếu anh không phiền, Abe.
Bristol nhún vai.
- À, tôi nghĩ là tôi cũng tò mò lắm. Tham gia đi.
Cô đi vòng quanh đến phía Abe và khi cô vừa nhìn xuống tử thi, cô thấy cổ họng mình khô khốc. Cô đã nhiều lần kinh hãi trong phòng mổ, đã quen với sự thối rữa phân hủy hàng ngày, có những cơ thể bị lửa thiêu rụi đến mức khó mà nhận ra đó là người. Người phụ nữ trên bàn thì, theo kinh nghiệm của cô, cũng không bị ảnh hưởng lắm. Máu được lau sạch rồi, lỗ đạn ở bên trái cũng bị che mờ bởi mái tóc sẫm màu. Khuôn mặt không bị ảnh hưởng gì, chỉ là làn da đã biến sắc. Có vết kim trên cổ là do trợ lý nhà xác, Yoshima lấy máu để xét nghiệm, nhưng phần thân thì còn nguyên vẫn chưa bị động đến; dao của Abe đã rạch một đường. Ngực được mở ra, khoang ngực phơi dưới ánh sáng và thân thể đó làm cô thấy hơi sợ. Những
tử thi đã được mở thường là nặc danh. Tim, phổi và lá lách là những nội tạng và vì thiếu nên chúng có thể dùng để cấy ghép, như những bộ phận tự động giữa các cơ thể với nhau. Nhưng người phụ nữ này thì mọi thứ còn nguyên, cô ta vẫn chưa được nhận dạng. Tối qua, Maura nhìn thấy tử thi này còn mặc nguyên quần áo trông mờ mờ trong bóng đêm dưới ánh đèn của Rizzoli. Giờ thì mọi thứ rõ ràng dưới ánh đèn phòng mổ, quần áo được cởi bỏ để lộ ra thân thể trần trụi và những đường nét đó quá ư là quen thuộc.
Chúa ơi, đó là khuôn mặt của mình, cơ thể của mình, trên bàn. Tất cả những gì cô biết là sao trên đời lại có sự trùng hợp đến thế. Không có ai trong căn phòng này biết ngực của cô hình dáng như thế nào, những đường cong eo ra sao. Họ chỉ biết những gì cô cho phép họ nhìn thấy, khuôn mặt, mái tóc. Họ chắc không thể biết sự tương đồng giữa cô và thi thể kia đến mức mật thiết như những đốm đỏ nâu trong mái tóc. Maura nhìn vào bàn tay của người phụ nữ, những ngón tay dài và mảnh hệt như tay cô. Bàn tay của một nghệ sĩ piano. Những ngón tay được nhúng mực. Chụp sọ và X quang đã xong, mẫu răng cũng được đặt vào hộp nhẹ, hai hàng răng trắng như răng mèo Cheshire. Không biết hình chụp X quang của mình như thế nào nhỉ? Cô tự hỏi. Không biết chúng ta có giống nhau đến từng men răng không?
Cô cất tiếng hỏi, bằng một giọng bình thản không tự nhiên cho lắm. - Các anh đã tìm thấy cái gì khác về cô ta chưa?
- Chúng tôi vẫn đang điều tra về cái tên đó, Anna Jessop - Rizzoli nói - tất cả những gì chúng ta có đến giờ này là một cái giấy phép lái xe cấp ở Massachusett, được cấp vài tháng trước. Trên đó viết cô ta bốn mươi tuổi. Cao một mét tám, tóc đen, mắt xanh. Nặng năm mươi sáu kilô.
Rizzoli nhìn tử thi trên bàn.
- Tôi có thể nói là cô ta hoàn toàn khớp với những miêu tả đó. Maura nghĩ bụng - thì tôi cũng thế. Tôi bốn mươi tuổi, cao như thế, chỉ có cân nặng là khác nhau một chút, tôi nặng năm mươi tám kilô. Nhưng nếu người ta nói dối về cân nặng của mình trên giấy tờ lái xe? Cô nhìn, im lặng khi Abe hoàn thành việc khám nghiệm bề mặt. Anh ta đánh dấu vào biểu đồ cơ thể phụ nữ. Vết đạn bắn ở bên trái. Có một vài vết ở bụng dưới. Sẹo mổ ruột thừa. Sau đó anh ta đặt tấm bìa cứng xuống và bước tới bên bàn để lấy chổi âm đạo. Khi anh ta và Yoshima xoay tử thi để mổ xương đáy chậu thì bụng nạn nhân làm Maura chú ý. Cô nhìn chăm
chú vào vết sẹo cắt ruột thừa, một đường trắng mảnh vắt qua lớp da trắng ngà.
Mình cũng có một cái.
Lấy được chổi xét nghiệm rồi, Abe tiến đến khay đựng dụng cụ và lấy ra một con dao.
Đường cắt đầu tiền thật khó để xác định, Maura đột nhiên đưa tay lên ngực, như thể cô có thể cảm nhận được lưỡi dao mỏng cắt vào cơ thể mình. Có một lỗi nhỏ khi Abe cắt đường chữ Y, Maura nghĩ vậy. Cô không biết mình có thể đứng xem hết mấy thứ này không. Nhưng cô vẫn đứng yên bất động, bị lôi kéo bởi một sự thú vị không thể gọi tên khi cô nhìn Abe cắt phần da ở ngực, khéo léo bóc nó ra như một trò chơi. Anh làm việc đó mà không hề biết cô đang chú ý quan sát, tất cả sự tập trung của anh dành vào việc phơi bày cơ thể kia. Một bác sĩ pháp y hiệu quả có thể hoàn thành ca khám nghiệm không mấy phức tạp trong khoảng dưới một giờ đồng hồ và với ca hậu kiểm thế này, Abe không lãng phí thời gian vào những phần không cần thiết. Maura luôn nghĩ Abe là một người đàn ông đáng mến, mới trái tim nhiệt tình dành cho thức ăn, đồ uống và opera, nhưng lúc này thì với cái bụng lồi to tướng, cổ to như cổ bò, trông anh như một gã hàng thịt béo tốt với con dao trên tay.
Lớp da ở cổ giờ được mở ra, nhưng vú vẫn được che bởi tấm chắn mỏng, các cơ được cắt phơi ra. Yoshima cúi xuống phía trước với cái kéo và cắt qua các xương. Mỗi vết cắt đều khiến Maura nhăn nhó. Xương người mới dễ bị bẻ vỡ làm sao, cô nghĩ thầm. Chúng ta nghĩ rằng tim mình được bảo vệ trong một cái khung xương vững chắc, nhưng tất cả chỉ cần một cái lắc, một nhát dao là từng cái một sẽ đầu hàng dưới sức mạnh của thép. Chúng ta được làm bởi những nguyên liệu quá dễ cắt.
Yoshima cắt qua xương cuối cùng và Abe đặt đường cắt cuối cùng lên các cơ. Họ cùng nhau bỏ đi ngực thi thể, như thể bỏ đi cái nắp hộp. Bên trong đó là tim và phổi. Nội tạng vẫn còn trẻ và đầy sức sống, suy nghĩ đầu tiên của Maura là như vậy. Nhưng không, cô nhận ra rằng bốn mươi tuổi thì đâu còn trẻ nữa, phải vậy không? Nhưng không dễ dàng gì để thừa nhận điều đó, ở tuổi bốn mươi cô đã đi được một nửa cuộc đời. Vậy nên cô cũng giống người phụ nữ trên bàn kia, không còn trẻ nữa. Những nội tạng mà cô nhìn thấy trong lồng ngực mở toang kia dường như bình thường, với những dấu hiệu pháp y rõ ràng. Chỉ với vài
lát cắt, Abe đã có thể lấy ra tim và phổi, rồi bỏ chúng vào chậu kim loại. Dưới ánh sáng đèn, anh làm vài đường cắt để xem phổi ra sao. - Không phải dân hút thuốc - anh nói với hai thanh tra - tế bào rất khỏe mạnh.
Trừ thực tế là nó đã chết.
Anh đặt lá phổi lại cái chậu kim loại, chỗ mà họ đã đặt một cái mô màu hồng, và anh ta lấy ra quả tim. Nó nằm vừa vặn một cách rất dễ dàng trong bàn tay anh. Maura đột nhiên nghĩ tới trái tim của chính mình, đang đập trong lồng ngực, nó có thể cũng vừa vặn trong bàn tay của Abe như thế. Cô cảm thấy một cơn đau đầu choáng váng khi nghĩ tới việc Abe cầm nó, lật qua lật lại để xem xét các động mạch như việc anh ta đang làm bây giờ. Cô hít một hơi và máu lưu thông càng làm cơn chóng mặt tệ hại hơn. Cô phải tránh xa cái thi thể kia ra và thấy Rizzoli đang nhìn cô. Rizzoli thường biết rất nhiều, và nhìn thấy rất nhiều. Họ đã biết nhau được khoảng hơn hai năm rồi, họ đã làm việc cùng nhau đủ để phát triển sự tôn trọng ở mức cao nhất cho nhau như những chuyên gia. Nhưng cùng với việc hòa hợp với nhau như những chuyên gia, lòng tôn trọng đó còn đến như một cách thức của sự cẩn trọng. Maura chỉ biết tới những bản chất đáng yêu của Rizzoli, và khi họ nhìn nhau qua bàn mổ, cô biết rằng người phụ nữa kia chắc hẳn biết là cô đang cảm thấy khó chịu trong căn phòng này như thế nào. Với câu hỏi ngầm trong mắt Rizzoli, Maura chỉ đứng chéo chân. Nữ hoàng xác chết tái khẳng định khả năng không dễ bị đánh bại của mình.
Cô lại một lần nữa tập trung vào xác chết.
Abe, không hề biết đến cảm giác của những người khác trong căn phòng, vẫn tiếp tục những lát cắt để mở ra các ngăn tim
- Các van tim xem ra tất cả đều bình thường - anh bình luận - các mu đều mềm, khoang sạch. Gezz, tôi ước gì tim mình cũng thế này. Maura nhìn váo cái bụng phệ của anh và thấy rất nghi ngờ điều đó khi biết rằng anh đam mê nhất sốt bơ. Hãy tận hưởng cuộc s ống khi còn có thể - đó là triết lý của Abe. Cứ lấp đầy cái dạ dày đi đã, bởi vì tất cả chúng ta đều phải chết, sớm hay muộn thì chúng ta cũng sẽ giống người bạn đang nằm trên bàn kia thôi. Các khoang tim sạch thì có ý nghĩa gì nếu anh chỉ sống cuộc sống chẳng có gì thoải mái? Anh đặt lại quả tim vào chậu và chuyển qua xem xét phần bụng. Giờ thì là bụng, thận, lá lách và tụy, dao của anh vào sâu hơn, qua màng bụng.
Cái chết, những nội tạng đông lạnh vốn là những thứ đã quá quen thuộc với Maura nhưng lần này cô cảm thấy thật kinh sợ. Như thể cô làm pháp y lần đầu vậy. Không phải là bác sĩ chính hôm nay, cô đứng nhìn Abe cắt với dao và kéo, cách làm việc có phần thô bạo của anh khiến cô thấy khó chịu. Lạy Chúa, đây là việc mình vẫn làm hàng ngày, nhưng lưỡi dao của mình chỉ cắt xuyên qua thân thể của những người lạ.
Người phụ nữ này không giống một người lạ.
Cô vẫn đứng như trời trồng, nhìn Abe làm việc dù cách một đoạn, vẫn còn mệt sau chuyến đi, cô thấy mình đang dần dần tránh xa khỏi cái bàn nơi đặt thi thể kia, thấy an toàn khi đứng ở khoảng cách mà cô có thể nhìn với những cảm xúc thật của mình. Chỉ là một người đã chết trên bàn thôi mà, một người lạ, chẳng có liên hệ nào với cô cả. Abe nhanh chóng cắt lấy ruột và để chúng vào chậu. Với kéo và dao làm bếp, anh lấy sạch khoang bụng và chỉ để lại một cái khung trống không. Anh mang cái chậu, giờ đã nặng với đủ thứ bên trong, tới một cái bàn thép khác và để từng thứ một ra để khám nghiệm kỹ càng hơn.
Trên bàn cắt, anh nhặt dạ dày và làm chúng khô, cho vào một cái chậu nhỏ hơn. Mùi thức ăn chưa tiêu hóa khiến Rizzoli và Frost phải lùi ra xa, mặt họ nhăn nhó trong một cảm giác khó chịu.
- Có vẻ như là phần còn lại của bữa tối - Abe nói - tôi có thể nói rằng cô ta đã ăn salad trộn hải sản. Tôi nhìn thấy xà lách và cà chua. Có thể cả tôm nữa...
- Thời điểm cô ta chết tới lúc ăn là khoảng bao lâu? -
Rizzoli hỏi - giọng rõ ràng là ngán ngẩm với tay che mặt, cố gắng giữ để khỏi phải ngửi thấy mùi.
- Khoảng một giờ, hoặc hơn một chút. Tôi đoán là cô ta ăn ở cửa hàng, vì xalat hải sản không phải là thứ cô có thể tự làm ở nhà đâu - Abe nhìn Rizzoli - cô có thấy hóa đơn nào trong túi cô ta không?
- Không. Có thể cô ta trả tiền mặt. Chúng tôi vẫn đang đợi thông tin từ thẻ tín dụng của cô ta.
- Lạy Chúa, tôi chẳng còn bụng dạ nào ăn tôm khi nhìn mấy thứ này nữa - Frost rên rỉ rất đau khổ.
- Hây, đừng để chuyện này ảnh hưởng chứ - Abe nói trong lúc đang cắt ruột ra xem xét - Nghĩ kỹ lại thì chúng ta được sinh ra giống nhau, có cấu tạo như nhau. Chất béo, cacbon hidrat và protein. Cô ăn thịt bò, có nghĩa là cô đang ăn cơ bắp. Cô nghĩ là tôi đã từng tránh xa khỏi thịt bò chỉ
bởi vì tôi cắt mấy thứ này à? - Anh lấy thận, cắt hai quả ra và đặt những mẫu nhỏ và bình có chứa foocmon - đến giờ thì mọi thứ vẫn bình thường. Anh quay qua nhìn Maura.
- Cô có nghĩ thế không?
Cô đáp lại bằng một cái gật máy móc, đột nhiên bị thu hút bởi những tấm phim X quang mà Yoshima vừa đem vào treo trên hộp đèn. Chúng là những tấm chụp sọ. Từ ngoài nhìn vào thì những đường viền của các tế bào có thể nhìn thấy được, như con ma mờ ảo trên khuôn mặt.
Maura đi tới hộp đèn và nhìn vào khuôn phim đen, những mảng sáng nổi bật đốì lập lại với những mảng xương. Nó được đính trên bàn có để đầu nạn nhân. Lỗ đạn bắn tuy nhỏ nhưng sâu có thể gây những tổn thương nặng cho não.
- Lạy Chúa - cô thì thào - đó là một viên Black Talon.
Abe ngoái ra nhìn từ chậu đựng nội tạng.
- Lâu lắm rồi chúng ta không thấy trường hợp nào dính tới nó cả. Phải cẩn thận đấy. Những mẩu kim loại trên viên đạn đó rất sắc. Chúng có thể cắt đứt cả găng tay của anh đấy.
Anh ta nhìn Yoshima, người đã làm việc ở trung tâm xét nghiệm lâu hơn bất cứ ai trong những bác sĩ đứng đây và đã là một biểu tượng của ký ức ở đây.
- Lần gần nhất chúng ta có một nạn nhân với một viên Black Talon là bao giờ nhỉ?
- Tôi đoán là khoảng hai năm trước - Yoshima nói.
- Gần nhất á?
- Tôi nhớ là bác sĩ Tierney đã làm ca đó.
- Anh có thể nói với Stella tìm lại thông tin không? Xem liệu vụ đó đã đóng chưa. Những viên đạn bất thường làm tôi băn khoăn không biết chúng có liên hệ gì với nhau không.
Yoshima cởi bỏ găng tay và đi tới chỗ điện thoại nội bộ để gọi thư ký của Abe.
- Chào, Stella hả? Bác sĩ Bristol muốn tìm thông tin về vụ gần nhất liên quan tới một viên đạn Black Talon. Có thể là bác sĩ Tiemey... - Tôi có nghe vụ đó - Frost nói. Anh đã đi đến hộp đèn để nhìn kỹ hơn - đó là lần đầu tiên tôi có một nạn nhân với viên đạn đó. - Đó là một loại khá đấy, sản suất bởi Winchester. Được thiết kế để mở rộng và cắt qua các mô mềm. Khi nó phát nổ, lớp bọc đồng bên ngoài
sẽ bung ra và thành một ngôi sao sáu cánh. Mỗi mảnh đều sắc như lưỡi cưa đấy - Abe trả lời và chuyển sang xem xét đầu nạn nhân - chúng bị cấm lưu hành trên thị trường năm 93 sau khi có vài kẻ ở San Fransisco sử dụng chúng để giết chín người trong một vụ xả súng giết người hàng loạt. Winchester bị mang tiếng xấu, họ quyết định ngừng sản xuất. Nhưng vẫn có vài lô lọt ra ngoài thị trường và tất nhiên, có một nạn nhân nào đó. Nhưng mà khá hiểm.
Maura vẫn nhìn vào tấm phim và vết sáng hình sao. Cô nghĩ về điều mà Abe vừa nói. Sáu mảnh đạn sắc như cưa. Và cô nhớ những vết cào trong xe nạn nhân. Như những vết cào của một viên đạn.
Cô quay lưng lại bàn, ngay khi Abe hoàn thành đường cắt của mình. Trong một phút, trước khi anh bóc lớp da bên trên, Maura cảm thấy mình đã nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của xác chết mà cô không hề ý thức được điều đó. Cái chết đã nhuộm một màu xanh tái lên môi nạn nhân. Mắt vẫn mở, đồng tử khô và không khí làm nó vẩn đục. Đôi mắt sáng trong suốt cuộc đời giờ chỉ còn là sự phản chiếu ánh sáng trong đồng tử, khi mi mắt không chớp, khi đồng tử không được làm ướt, đôi mắt trở nên khô và thẫn thờ. Đó không còn là cửa sổ tâm hồn phản ánh cuộc sống nữa, nó đã chấm dứt chuyển động. Maura nhìn xuống hai lớp màng đục che đôi mắt và trong một thoáng cô tưởng tượng ra đôi mắt như thế nó vẫn còn sống. Đột nhiên có một suy nghĩ rất bất chợt và thật chóng mặt là thực ra cô mới là người đang nằm trên bàn. Và cô đang nhìn cái thi thể của mình được xét nghiệm pháp y. Chẳng phải những hồn ma vẫn thường lảng vảng ở chỗ chúng có mặt khi còn sống sao? Đây là chỗ mình làm việc, cô nghĩ vậy. Phòng khám nghiệm pháp y. Đây là chỗ mình đã dành biết bao thời gian.
Abe lách con dao về phía trước và khuôn mặt rời ra như một cái mặt nạ cao su.
Maura rùng mình. Cô phải quay nhìn đi chỗ khác, cô thấy Rizzoli lại một lần nữa đang nhìn cô. Cô ta đang nhìn mình, hay nhìn con ma? Tiếng ì ì của máy Stryker dường như xuyên thẳng vào tủy cô. Abe đang cắt qua hộp sọ, bảo toàn khu mà viên đạn xuyên qua. Một cách nhẹ nhàng, anh xói vào và cắt đi phần đầu che của xương. Viên Black Talon bật ra khỏi sọ và rơi vào chậu mà Yoshima đang giữ ở bên dưới. Nó rơi xuống và những mảnh kim loại bung ra như những cánh hoa sát thủ. Não nhuốm máu đen.
- Tổn thương ngoài, cả hai bán cầu não. Đó là những gì anh có thể thấy từ kết quả chụp X-quang. Abe nói - viên đạn xuyên vào đây, bên trái, nhưng nó không thoát ra được, anh thấy nó ở đó, trên tấm phim ấy.
Anh chỉ vào hộp đèn chỗ viên đạn để lại vết như một ánh sao sáng, nằm ngược đường cong bên trong xương hậu chẩm.
Frost nói:
- Thật buồn cười sao nó lại nằm cùng một phía với đường vào nhỉ? - Có thể đó là bắn thia lia. Viên đạn đập vào xương hộp sọ và bật lại, cắt qua não. Phát tán tất cả năng lượng của nó vào những tế bào mềm. Giống như chém vào bê tông vậy.
- Bác sĩ Bristol? — tiếng thư ký của anh ta, Stella trên điện thoại nội bộ.
- Sao vậy?
- Tôi thấy vụ với Black Talon rồi. Tên nạn nhân là Vassily Titov. Bác sĩ Tierney thực hiện ca đó.
- Ai là nhân viên điều tra vụ đó?
- Ưm... đây rồi. thanh tra Vann và Dunleavy.
- Tôi sẽ nói chuyện với họ - Rizzoli nói - xem họ có nhớ gì vụ đó không?
- Cảm ơn Stella - Bristol nói. Anh nhìn Yoshima đang sẵn sàng máy ảnh trong tay - được rồi, chụp thôi.
Yoshima chụp những tấm ảnh về não, ghi lại những hình ảnh duy nhất về bề mặt của nó trước khi Abe cắt bỏ nó khỏi hộp sọ. Đây là nơi lưu giữ những ký ức của cả một đời người, Maura nghĩ vậy khi cô nhìn thấy những nếp nhăn màu xám. Những ký ức ban đầu của tuổi thơ, bốn với bốn là mười sáu, nụ hôn đầu tiên, người yêu đầu tiên, lần đầu tiên trái tim rung động. Tất cả còn đó, như những gói dữ liệu tin nhắn RNA, được ghi vào trong cấu trúc phức tạp của các nơ ron. Trí nhớ không giống như hóa sinh học, nhưng nó quyết định việc ai là ai.
Chỉ với vài nhát dao, Abe đã tách bỏ được não và nâng nó lên với cả hai bàn tay như nâng niu kho báu. Hôm nay anh không định đem nó ra mổ xẻ, nghiên cứu, anh chỉ để nó vào chậu dung dịch để xem xét sau. Nhưng anh không cần thêm xét nghiệm siêu vi để có bằng chứng về chấn thương. Dấu vết còn nguyên đó, trong vết máu tụ ở bề mặt.
- Vậy là có vết đạn bắn vào ở đây, bên trái - Rizzoli nói.
- Phải, lỗ ở da với lỗ ở sọ trước khớp nhau y hệt - Abe trả lời. ẳ
- Điều đó cũng khớp với vết bắn thẳng vào đầu.
Abe gật đầu.
- Kẻ giết người có lẽ đã bắn qua cửa sổ chỗ người lái. Cửa sổ mở nên không có mảnh kính vỡ.
- Như vậy là cô ta chỉ vừa mới ngồi đó - Rizzoli nhận định - một đêm ấm áp cửa sổ xe hạ xuống, tám giờ và trời đã tối. Gã sát nhân đi tới chỗ xe của cô ta chỉ dí súng vào và bóp cò.
Rizzoli lắc đầu.
- Tại sao?
- Không lấy ví - Abe nói.
- Vậy không phải là vụ cướp - Frost bình luận.
- Vậy chỉ còn lại khả năng gây án vì đam mê. Hoặc là mâu thuẫn. Rizzoli liếc nhìn Maura. Lại thế rồi - khả năng giết có mục tiêu sẵn. Như vậy liệu gãy ta đã chọn đúng đối tượng chưa?
Abe ngâm não vào một túi foocmon và nói trong khi chuẩn bị chuyển sang mở cổ.
- Đến giờ thì chẳng có gì ngạc nhiên cả.
- Anh sẽ chạy màn hình kiểm nghiệm chất độc chứ?
Abe nhún vai.
- Có thể nhưng tôi không chắc có cần thiết không vì nguyên nhân cái chết đã được xác định rồi mà.
Anh ta hất đầu về phía hộp đèn chỗ viên đạn được để giữa khoảng tối.
- Cô có lý do gì để chạy kiểm nghiệm chất độc không? CST có tìm thấy ma túy hay thuốc kích dục trong xe không?
- Không gì cả. Cái xe khá sạch sẽ, ý tôi là, ngoại trừ những vết máu. - Và tất cả những thứ đó là của nạn nhân chứ hả?
- Tất cả đều là dương tính.
Abe nhìn Yoshima:
- Anh đã xem thử chưa?
Yaoshima gật đầu:
- Hoàn toàn trùng khớp.
Không có ai nhìn Maura. Không ai biết mặt cô tái đi hay nghe thấy tiếng cô thở mạnh. Cô đột ngột quay lại khiến cho không ai nhìn thấy mặt cô, và cô tháo khẩu trang, kéo nó ra. Khi cô đi qua đám chai lọ, Abe gọi với ra:
- Cô chán xem với chúng tôi rồi à, Maura?
- Có lẽ tôi hơi say máy bay - cô vừa nói vừa cởi găng tay ra - tôi nghĩ tôi sẽ về nhà sớm, gặp lại anh ngày mai nhé Abe.
Cô rời căn phòng mà không ngoái đầu nhìn lại.
Đường về nhà bỗng mờ mịt và chỉ khi cô ra đến ngoại ô Brookline đầu óc cô mới được giải thoát. Chỉ khi đó cô mới thoát ra khỏi suy nghĩ ám ảnh vẫn lởn vởn trong đầu. Đừng nghĩ về phòng mổ nữa, vứt nó ra khỏi đầu đi. Hãy nghĩ về bữa tối, bất cứ cái gì trừ những cái mình nhìn thấy hôm nay.
Dừng lại ở một cửa hàng rau quả, cô nhớ là tủ lạnh trống trơn, nếu cô muốn ăn thịt cá hồi vào buổi tối đầu đông lạnh này thì cô phải đi mua. Thật dễ chịu khi tập trung vào một cái gì khác. Cô nhặt vài thứ và ném chúng vào giỏ đựng đồ. Tuyệt vời và an toàn hơn nhiều khi nghĩ về thức ăn, về những gì cô sẽ nấu cho cả tuần. Thôi đừng nghĩ về những vết máu và nội tạng người phụ nữ đó trong những khay sắt nữa. Mình cần bưởi và táo, mà những quả cà tím này không ngon sao?
Cô nhặt đầy một giỏ húng quế và thấy hưng phấn vì mùi của nó, tươi mát và trong một lúc, tất cả những mùi khó chịu của phòng mổ đã bị cuốn đi. Một tuần với những bữa ăn kiểu Pháp làm cô thấy thèm khát gia vị, đêm nay, cô nhất định sẽ nấu một món ăn Thái thật nóng và cay đến bỏng lưỡi mới được.
Ở nhà cô chuyển sang mặc quần soóc ngắn, áo phông rồi lao vào chuẩn bị bữa tối. Nhấp một ngụm Boocđô lạnh khi cô cắt gà và tỏi với hành. Mùi gạo hoa nhài thơm lừng cả phòng. Không còn thời gian cho người phụ nữ nhóm máu B và tóc đen nữa, dầu ăn đang bốc khói trong chảo. Bây giờ là thời gian dành cho gà, phải nêm thêm gia vị. Rót vào một ít sữa dừa. Cô đậy nắp cho thịt chín. Nhìn ra ngoài cửa sổ, cô bỗng thấy hình ảnh của mình phản chiếu trong gương.
Trông mình giống cô ta. Hoàn toàn giống.
Một cơn ớn lạnh quét qua cô, như thể khuôn mặt trên cửa sổ kia không phải là sự phản chiếu mà là một linh hồn nhìn vào. Vung nồi cập kênh vì nước sôi. Những bóng ma cố gắng thoát ra ngoài, cố gắng níu kéo sự quan tâm của cô.
Cô tắt bếp, đi tới chỗ điện thoại và nhấn số mà cô thuộc lòng. Một lát sau, Rizzoli gọi. Maura nghe tiếng điện thoại reo ở đầu dây bên kia, như thể Rizzoli vẫn chưa ở nhà, có thể đang ngồi ở Schroeder
Plaza.
- Xin lỗi làm phiền cô, nhưng tôi phải hỏi cô vài thứ - Maura nói. - Chị ổn chứ?
- Tôi ổn mà. Tôi chỉ muốn biết thêm về cô ta thôi.
- Anna Jessop?
- Phải. Cô nói là cô ta có giấy phép lái xe cấp ở Massachusetts à? - Đúng thế.
- Trên đó có ghi ngày tháng năm sinh không?
- Cái gì?
- Hôm nay trong phòng xác cô nói là cô ta bốn mươi tuổi, cô ta sinh ngày nào?
- Tại sao?
- Làm ơn đi, tôi chỉ muốn biết thôi.
- Được rồi, đợi tôi.
Maura nghe tiếng lật giấy, sau đó Rizzoli quay lại đường dây và nói. - Theo như những gì ghi trên đó thì cô ta sinh ngày 25 tháng 11. Maura chết lặng một lúc.
- Chị vẫn ở đó chứ?
- Ừ
- Chuyện gì vậy, bác sĩ? Chuyện gì thế?
Maura nuốt nghẹn.
- Tôi cần cô giúp một chuyện, Jane. Nghe có vẻ hơi điên rồ. - Thử xem.
- Tôi muốn phòng xét nghiệm kiểm nghiệm ADN của tôi và cô ta. Qua đường dây, Maura có thể nghe thấy tiếng điện thoại ngừng reo. Rizzoli nói.
- Chị nhắc lại coi nào, tôi nghe không rõ.
- Tôi muốn biết liệu ADN của tôi có khớp với của Anna Jessop không.
- Coi nào, tôi đồng ý là có sự giống nhau khá nhiều.
- Còn nhiều hơn thế nữa kia.
- Chị nói về cái gì?
- Chúng tôi có chung một nhóm máu - B dương tính.
Rizzoli nói, rất thuyết phục.
- Có bao nhiêu người trên thế giới này nhóm máu B chứ? Sao nào? Mười phần trăm dân số đây.
- Còn cả ngày sinh của cô ta nữa. Cô nói là cô ta sinh vào 25 tháng 11 à. Jane, tôi cũng thế.
Thông tin đó khiến bên kia chết lặng. Rizzoli nói thật nhẹ nhàng. - Thôi được rồi, chị vừa mới làm rơi mấy sợi tóc ở ghế sau xe của tôi đấy.
- Cô hiểu ý tôi muốn rồi chứ? Mọi thứ về cô ta, từ ngoại hình, nhóm máu, đến ngày sinh... cô ta là tôi. Và tôi muốn biết cô ta từ đâu đến, tôi muốn biết người phụ nữ đó là ai?
Im lặng kéo dài, rồi Rizzoli nói.
- Trả lời câu hỏi đó sẽ dẫn tới cả đống những thứ phức tạp hơn chúng ta tưởng đấy.
- Tại sao?
- Chúng tôi vừa có báo cáo chi tiêu của cô ta chiều nay. Chúng tôi phát hiện ra thẻ MasterCard của cô ta mới dùng được có sáu tháng. - Vậy ư?
- Giấy phép lái xe cũng mới được bốn tháng. Biển số xe thì mới được cấp ba tháng trước.
- Thế còn hộ khẩu? Cô ta có một địa chỉ ở Brighton đúng không? Cô chắc đã nói chuyện với hàng xóm của cô ta chứ?
- Cuối cùng thì chúng tôi cũng tìm được chủ nhà hôm qua. Bà ta nói cho Anna thuê nhà ba tháng trước và cho chúng tôi vào trong xem.
- Và gì nữa?
- Nó rỗng không, bác sĩ. Chẳng có đồ đạc gì cả, không chảo rán, không thuốc đánh răng. Ai đó đã trả tiền cáp và điện thoại, nhưng chẳng có ai ở đó cả.
- Thế còn hàng xóm của cô ta thì sao?
- Chưa bao giờ thấy cô ta cả. Họ gọi cô ta là ma.
- Như vậy chắc hẳn phải có địa chỉ nhà khác và tài khoản ngân hàng khác.
- Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm nhưng vẫn chưa tìm thấy gì khác về người phụ nữ này trước đây.
- Thế là sao?
- Ý tôi là - Rizzoli giải thích - cho đến sáu tháng trước thì Anna Jessop không hề tồn tại.
BỐN
Khi Rizzoli bước vào JP. Doyle thì cô thấy cả đám người đã ngồi quanh quầy bar. Cớm, tất cả là cớm, đang buôn chuyện quanh những cốc bia và đậu phộng. Nằm ngay dưới phố cạnh sở cảnh sát Boston Jamaica, Doyle có lẽ là chỗ an toàn nhất để uống ở thành phố này. Nếu có ai đó lạ bước vào thì cả đám cớm sẽ lao tới. Cô biết đám đông này, và họ cũng biết cô. Họ tránh ra một bên để bà bầu đi và cô nhìn thấy vài cái nhíu mày khi cô đi vào trong, cái bụng phưỡn ra phía trước như mũi tàu.
- A, Rizzoli - ai đó lên tiếng gọi - cô đang tăng cân à?
- Ừ - Cô cười - Nhưng tôi không giống anh đâu. Tôi sẽ lại thon thả vào tháng tám đấy.
Cô tìm đường tiến tới chỗ thanh tra Vann và Dunleavy, cả hai đang vẫy tay với cô từ quầy bar. Mọi người gọi họ là Sam và Frodo. Một người béo một người gầy, họ là đồng sự đã khá lâu và họ cứ như một cặp vợ chồng đã lấy nhau lâu lắm rồi. Có lẽ họ ở bên cạnh nhau còn nhiều hơn đi với vợ. Rizzoli hiếm khi thấy cả hai tách nhau ra và cô nghĩ rằng việc họ chuyển sang mặc quần áo giống nhau chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
Họ cùng cười toe toét và vẫy cô với cái cốc như khoe kỷ lục Guiness. - Chào Rizzoli - Vann nói.
Dunleavy tiếp lời.
- Cô đến muộn đấy.
- Chúng tôi đã đến vòng hai rồi.
- Cô muốn làm một vại không?
Chúa ơi, họ còn nói nốt câu của nhau nữa chứ.
- Ở đây ồn ào quá, chúng ta ra chỗ khác nói chuyện được không? Họ cùng đi tới khu vực ăn uống, tới chỗ quen thuộc của cô bên dưới lá cờ Ailen. Dunleavy và Vann ngồi bên cạnh nhau. Cô nghĩ về đồng sự của mình, Barry Frost, một anh chàng đáng yêu tuy có hơi bốc mùi một chút nhưng cô và anh ta chẳng có điểm chung nào cả. Cuối ngày, cô đi đường cô, Frost đi đường Frost. Họ cũng khá ưa nhau nhưng cô không nghĩ có thể chịu được việc tụ tập cùng nhau nhiều đến thế. Chắc chắn không thể như hai anh chàng này được.
- Vậy là cô dính vào một nạn nhân của Black Talon hả?
- Tối qua, ở Brookline. Vụ Talon đầu tiên là của các anh hả, hai năm trước đúng không?
- Ờ, chắc vậy.
- Đóng chưa?
Dunleavy cười.
- Đóng chặt như quan tài vậy.
- Ai là người bắn?
- Một gã tên Antonin Leonov. Dân nhập cư Ukraina, hai nòng. Chắc cớm bên Nga cuối cùng cũng phải túm anh ta thôi nếu chúng tôi không bắt anh ta trước.
- Đúng là một tên gà mờ - Vann kêu lên vui vẻ - anh ta thậm chí còn chả biết là chúng tôi đang theo dõi anh ta nữa kìa.
- Như thế nào?
- Chúng tôi nhận được mật báo là anh ta sẽ đi nhận hàng từ Tatgikistan. Heroin. Lớn đấy. Chúng tôi theo hắn khoảng một tuần nhưng hắn chả biết gì cả. Và chúng tôi theo hắn đến tận nhà gã đồng đảng. Vissily Titov. Titov chắc là chơi Leovov cú gì đó. Chúng tôi thấy Leonove đi vào nhà Titov và nghe tiếng súng nổ, rồi Leonov đi ra - Dunleavy kể.
Vann tiếp lời anh ta.
-Và chúng tôi đợi hắn ra thôi, như chúng tôi nói rồi đấy, một con gà. Dunleavy cầm cốc lên cụng ly.
- Mở và đóng vậy thôi. Bị bắt với vũ khí. Chúng tôi ở đó và quan sát thấy hết. Chẳng hiểu tại sao hắn thậm chí vẫn còn cãi là mình vô tội. Chỉ mất khoảng một giờ để tuyên án.
- Thế gã đó có nói cho các anh biết là gã kiếm đâu ra những viên Black Talon đó không?
- Cô đùa à? Hắn chẳng cho chúng tôi biết cái gì cả. Hầu như chả nói được tí tiếng Anh nào nhưng chắc chắn hắn biết từ Miranda. - Chúng tôi mang một đội tới khám nhà hắn và cơ quan nữa - Dunleavy nói - và chúng tôi tìm thấy tám hộp Black Talon trong nhà kho, cô tin được không? Chả hiểu sao hắn có nhiều như vậy nhưng hẳn là hắn có kho chứa bí mật.
Dunleavy nhún vai.
- Lenovov là vậy đó, tôi chẳng biết anh ta có liên hệ gì với vụ của cô. - Chỉ có hai vụ bắn Black Talon ở đây trong năm năm thôi - Vụ của anh và tôi.
- À, ờ, thì có thể là có vài viên vẫn trôi nổi đâu đó ngoài chợ đen. Mẹ, thử lên eBay mà xem. Tất cả những gì tôi biết là chúng tôi đã túm được Leonov, và tống hắn vào tù - Dunleavy đặt cái cốc xuống - Chắc chắn là cô sẽ phải túm một tay súng khác rồi.
Cô đã đi đến một kết luận nào đó. Vụ thanh toán lẫn nhau giữa hai tên buôn ma túy người Nga hai năm trước có vẻ chả liên quan gì tới Anna Jessop cả. Viên đạn Black Talon đó chẳng có liên hệ gì hết.
- Các anh sẽ cho tôi mượn hồ sơ của Lenov chứ? Dù sao thì tôi vẫn muốn ngó qua một chút.
- Sẽ có trên bàn cô sáng mai.
- Cảm ơn các anh - Cô trườn xuống ghế và đứng dậy.
- Vậy bao giờ thì cô nổ hả?
Vann hỏi, hất hàm về phía cái bụng của Rizzoli.
- Cũng còn lâu.
- À, mọi người đang cá cược, cô biết đấy. Về giới tính của đứa trẻ. - Anh đùa hả?
- Ha ha, chúng tôi cá bảy mươi ăn một nếu là con gái, bốn mươi nếu là con trai.
Vann rúc rích.
-Và hai mươi nếu khác.
Rizzoli cảm thấy đứa bé đá vào bụng cô một cái khi cô đi vào tòa nhà. Ngoan nào con yêu. Con cứ đấm thùm thụp vào bụng mẹ như cái bao tải cát ấy cả ngày là đủ lắm rồi. Giờ con lại định quây cả đêm à? Cô cũng chẳng biết là mình đang mang thai một đứa con trai hay con gái nữa, hay là con khác, cô không biết. Tất cả những gì cô biết là có một đứa trẻ muốn chào đời.
Thôi dùng kung-fu đi có được không?
Cô ném cái túi và chìa khóa xuống bàn bếp, đá đôi giày ra cửa và thả người xuống- cái ghế phòng khách. Hai ngày trước, chồng cô, Gabriel đã đi Montana trong một đội của FBI điều tra về một vụ rò rỉ vũ khí quân sự. Giờ ngôi nhà trở lại đế chế thoải mái như trước khi họ làm đám cưới. Trước khi Gabriel dọn tới và thiết lập một đống quy tắc. Phải xếp các nồi và chảo theo kích thước.
Trong phòng ngủ, cô thấy mình trong gương. Cô hầu như không thể nhận ra bản thân mình, má hồng như táo và cái bụng lồi ra dưới cái quần rộng của bà bầu. Cô tự hỏi mình đã biến mất khi nào nhỉ? Mình vẫn ở đó,
nấp đằng sau cái thân thể méo mó này? Cô đối diện với hình ảnh của một người lạ trong gương, nhớ lại cái bụng của mình đã từng phẳng phiu như thế nào. Cô không thích cái mặt mình phồng lên như thế, má đỏ hồng lên như má trẻ con. Sự rực rỡ của thời kỳ mang thai - Gabriel gọi nó như vậy và cố gắng an ủi vợ mình rằng cô thực sự không giống một con cá heo mũi hồng đâu.
Cô dựa lưng vào thành giường và giang hai tay ra như con chim đang bay. Cô có thể ngửi thấy mùi của Gabriel trên tấm ga trải giường. Đêm nay chắc cô sẽ nhớ anh ấy lắm đây. Hai sự nghiệp, hai con người đam mê công việc khác nhau. Gabriel thì đang trên đường đi, còn cô ở nhà một mình. Nhưng cô biết, vượt qua điều này chẳng dễ dàng gì. Có quá nhiều đêm như thế này, khi công việc của anh ấy hoặc của cô khiến họ phải xa nhau. Cô nghĩ tới việc gọi cho anh ấy nhưng nhớ ra là họ vừa mới nói chuyện hai lần sáng nay và Verizon thì đã kiếm quá nhiều tiền từ túi của cô rồi.
Ôi, khỉ thật.
Cô trở mình và đang định với lấy cái điện thoại thì nó đột ngột rung lên. Như thói quen, cô nhìn số người gọi, số lạ - Không phải của Gabriel. Cô nhấc ống nghe lên và trả lời:
- A lô?
- Thanh tra Rizzoli phải không? - Giọng một người đàn ông. - Đúng vậy.
- Tôi xin lỗi vì đã làm phiền cô muộn thế này. Tôi vừa mới về lại thành phố tối nay và...
- Xin lỗi ai đang gọi đấy?
- Thanh tra Ballard, cảnh sát Newton. Tôi biết cô là trưởng nhóm điều tra vụ giết người với hôm trước ở Brookline. Một nạn nhân tên là Anna Jessop.
- Vâng, đúng vậy.
- Năm ngoái tôi có một vụ ở đó, liên quan tới một người tên Anna Jessop. Tôi không biết có phải là cùng một người không nhưng... - Anh nói là anh ở sở Newton à?
- Đúng vậy.
- Thế anh có biết gì về Jessop không? Ý tôi là anh biết những gì? Im lặng.
- Tôi nghĩ tôi cần phải xem chắc chắn có phải là cô ta hay không. - Và nếu phải thì sao?
- Thế thì tôi biết ai giết cô ta.
***
Ngay cả trước khi Rick Ballard lôi chứng minh nhân dân của anh ta ra thì Rizzoli cũng có thể đoán được rằng anh ta là cớm. Khi cô đi vào phòng lễ tân của tòa nhà thì anh ta lập tức đứng dậy, như thể đã chờ rất lâu. Đôi mắt nhìn thẳng với màu xanh pha lê, mái tóc nâu cắt theo kiểu truyền thông, và áo sơ mi thì gọn gàng kiểu nhà binh. Anh ta có phong thái im lặng đường hoàng giống của Gabriel, và cái nhìn kiên định như thế nói rằng. Thử động vào tôi xem, biết tay tôi ngay.
Anh ta làm cô ước ao, dù chỉ một chút thôi, rằng cô lại thon thả và quyến rũ như xưa thì tốt. Khi họ bắt tay, cô nhìn vào thẻ của anh ta và cô cảm thấy anh ta đang xem xét nét mặt cô.
Chính xác là cớm, cô nghĩ thầm.
- Anh sẵn sàng rồi chứ - cô hỏi và khi anh ta gật dầu, cô nhìn lễ tân rồi hỏi cô ta.
- Bác sĩ Bristol có ở dưới nhà không?
- Ông ấy chuẩn bị xong ca khám nghiệm rồi đấy, ông ta nói hai vị có thể gặp ông ấy dưới đó.
Họ vào thang mấy xuống tầng trệt và đi bộ vào trong phòng thay đồ, nơi có đủ giầy, quần áo bảo hộ, mũ, khẩu trang. Qua cửa sổ rộng họ có thể nhìn vào trong phòng mổ, thấy bác sĩ Bristol và Yoshima đang khám nghiệm một người đàn ông tóc màu xám, cao lớn. Britol nhìn thấy họ qua cửa kính và vẫy tay chào.
- Đợi tôi mười phút nhé,
Rizzoli gật đầu.
- Chúng tôi sẽ đợi.
Bristol vừa mới xong một đường cắt. Giờ thì anh đang lách con dao và chuẩn bị cắt mặt.
- Tôi rất ghét phần này khi người ta bắt đầu phá khuôn mặt, những phần khác thì tôi chịu được - Rizzoli nói.
Ballard không nói gì, cô nhìn anh ta và thấy lưng của anh ta rất rắn chắc, khuôn mặt hơi có vẻ chịu đựng. Vì anh ta không phải là cảnh sát hình sự nên có thể anh ta không mấy viếng thăm nhà xác như thế này và quá trình đang diễn ra trong kia chắc chắn làm anh ta phát kinh. Cô nhớ lần đầu
tiên cô đến đây với tư cách cảnh sát điều tra. Cô ở một nhóm học việc, cô gái duy nhất trong một nhóm sáu người toàn nam. Tất cả những gã cùng nhóm đều coi thường cô và mọi người đều hy vọng ràng một cô gái sẽ là người yếu đuối nhất, rằng cô sẽ là người quay mặt đi suốt ca khám nghiệm. Nhưng cô đã định rằng mình sẽ đứng ở giữa, đối mặt và theo dõi toàn bộ quá trình mà không kêu than gì hết. Có một anh chàng, to cao vạm vỡ nhất hội, đã trắng bệch và đổ luôn vào cái ghế cạnh đó. Cô sợ không biết Ballard có như vậy không. Dưới ánh đèn Flour, da mặt của anh ta cũng có vẻ hơi muốn bệnh rồi.
Trong phòng mổ, Yoshima đang bắt đầu cưa sọ đã bị mở ra rước đó, tiếng dao chạm vào xương ken két chắc đã vượt quá khả năng chịu đựng của Ballard. Anh quay ra phía của sổ, dán mắt vào những cái hộp đựng găng tay đủ loại trên giá. Rizzoly thực sự cảm thấy rất lo cho anh. Thật chẳng hay ho gì khi một người cứng rắn, đẹp trai như anh lại bị một nữ cảnh sát bắt gặp đang trở nên mềm yếu.
Cô đưa cho anh cái ghế đẩu và kéo một cái cho mình.
- Giờ tôi không đứng lâu được.
Anh ta cũng ngồi xuống, cố gắng tập trung vào bất cứ cái gì ngoài cái việc đang diễn ra trên bàn mổ.
- Con đầu lòng của cô hả? - Anh hỏi, chỉ vào cái bụng của Rizzoli. - Phải.
- Trai hay gái?
- Tôi không biết. Trai hay gái chúng tôi đều vui cả.
- Tôi vẫn nhớ cảm giác khi con gái tôi ra đời. Mười ngón chân và ngón tay, tôi chỉ mong có thế thôi... - anh ngừng lại, nuốt nướt bọt một cách khó khăn khi cái cưa vẫn tiếp tục làm việc.
- Giờ con gái anh bao nhiêu tuổi rồi? - Rizzoli hỏi, cố gắng thu hút sự chú ý của anh.
- À, mười bốn vào ngày ba mươi tới, không còn nhiều tiếng cười nữa.
- Lứa tuổi nhạy cảm cho các cô bé.
- Cô thấy tất cả những sợi tóc bạc trên đầu tôi chứ?
Rizzoli cười.
- Mẹ tôi thường xuyên nói vậy đấy. Bà chỉ vào đầu và nói "tất cả những sợi tóc bạc này là lỗi của con”. Tôi phải thừa nhận là tôi không được ngoan cho lắm ở lứa tuổi mười bốn. Thời đó là vậy mà.
Ờ
- Ờ thì, chúng tôi cũng có nhiều vấn đề nữa. Vợ tôi và tôi ly thân năm ngoái. Katie bị kéo theo các hướng khác nhau. Cha mẹ làm công việc khác nhau, hai gia đình khác nhau.
- Thật khó khăn cho đứa trẻ.
Tiếng cưa xương đã ngừng lại. Qua cửa sổ, Rizzoli nhìn thấy Yoshima đang tách cái hộp sọ ra. Thấy Britol đã lấy được khối óc ra, đang nâng niu chúng nhẹ nhàng trên tay khi anh lôi nó ra khỏi hộp sọ. Ballard vẫn tiếp tục tránh xa khỏi cửa sổ, Ballard cố gắng tập trung vào Rizzoli.
- Khó khăn, phải vậy không?
- Cái gì cơ?
- Làm cảnh sát ấy. Điều kiện của cô và tất cả.
- Ít nhất không có ai muốn tôi đạp cửa xông vào vào những ngày này. - Vợ tôi được thăng chức khi đang mang bầu.
- Cảnh sát Newton hả?
- Boston. Họ muốn cô ấy rút khỏi đội tuần tra. Cô ấy nói với họ là mang thai cũng có lợi đấy chứ. Bọn tội phạm sẽ chơi đẹp với cô ấy hơn. - Bọn tội phạm hả? Không bao giờ như vậy với tôi cả.
Trong căn phòng bên cạnh, Yoshima đang khâu những đường mổ trên tử thi với kim và chỉ lụa, công việc rùng rợn của một thợ may không chuyên. Bristol đã cởi găng tay ra, rửa tay sau đó ra ngoài để gặp các vị khách của mình.
- Xin lỗi vì đã để hai người phải đợi. Mọi việc lâu hơn tôi tưởng, anh chàng đó có khối u ở bụng mà chẳng chịu đến gặp bác sĩ, cuối cùng phải gặp tôi.
Anh chìa bàn tay đỏ au ra, vẫn còn ướt để chào Ballard.
- Thanh tra, anh ở đây để xem vụ nạn nhân bị bắn của bọn tôi hả? Rizzoli nhận thấy khuôn mặt của Ballard rắn lại.
- Cô Rizzoli đây kêu tôi đến.
Bristol gật đầu.
- Ô, vậy thì đi thôi. Cô ấy ở trong phòng lạnh.
Anh dẫn đường mọi người qua phòng mổ tử thi và qua cửa khác tới một phòng điều hòa lớn. Trông nó giống như mọi phòng chứa thịt khác, với điều khiển nhiệt độ và những cánh cửa thép không gỉ lớn. Trên tường có dán danh sách những nạn nhân được chuyển đến. Tên của người đàn ông lớn tuổi mà Bristol vừa mới khám nghiệm xong có trong danh sách đó,
ẳ
được chuyển tới lúc 11 giờ đêm qua. Chẳng phải cái danh sách ai muốn vào cả.
Bristol mở cửa, mùi khí trong phòng xộc vào mũi họ. Cả ba bước vào, mùi thịt ướp lạnh làm Rizzoli tí nữa thì nôn ọe. Từ khi mang bầu cô hầu như mất khả năng chịu đựng những mùi khó chịu, chỉ một chút mùi hôi thôi cũng khiến cô phải chạy đến cái bồn rửa gần nhất. Lần này cô cố gắng kiềm chế cơn choáng váng và tập trung vào các nạn nhân trong phòng lạnh. Có năm cái túi đựng xác người, tất cả đều là bao nhựa trắng.
Bristol đi đến hàng những xác chết mới nhất và nhìn lướt qua đám bao đựng xác. Anh dừng lại ở cái thứ tư.
- Cô gái của chúng ta đây rồi.
Anh nói và kéo khóa cái túi đựng xác xuống một đoạn đủ hở ra phần trên của tử thi. Đường cắt chữ Y đã được vá với chỉ chuyên dụng, công việc tuyệt vời của Yoshima.
Khi cái túi được mở ra, Rizzoli không nhìn vào xác chết của người phụ nữ, mà cô quan sát Rick Ballard. Anh ta vẫn im lặng khi nhìn vào cái xác. Hình hài của Anna Jessop có vẻ như làm anh ta sững lại. Bristol hỏi:
- Sao thế?
Ballard chớp chớp mắt, như thế xua đi sự bàng hoàng. Anh ta hít một hơi.
- Đúng là cô ấy. chuyện gì vậy? Các anh tìm thấy những gì rồi? Bristol nhìn Rizzoli, yêu cầu một cách im lặng rằng Rizzoli nên là người tiết lộ thông tin. Cô gật đầu.
- Bị bắn một phát, bên trái - Bristol nói, chỉ vào lỗ đạn trên đầu nạn nhân - tổn thương bên ngoài với bán cầu não trái cũng như cả hai thùy não, nảy thia lia trong hộp sọ. Tụ máu trong não.
- Tại sao lại chỉ có một vết đạn.
- Chuẩn xác, nhanh chóng, hiệu quả.
Ballard nhìn lại thi thể nạn nhân, ánh mắt anh ta lướt xuống ngực người phụ nữ. Phản ứng bình thường của đàn ông, không có gì phải ngạc nhiên, khi họ đứng trước một người phụ nữ trẻ khỏa thân. Rizzoli đột nhiên cảm thấy khó chịu. Dù sống hay chết thì Anna Jessop vẫn có quyền với danh dự của mình. Rizzoli thở phào khi bác sĩ Bristol kéo khóa đóng cái bao xác lại, một cách thản nhiên, trả lại sự bình yên cho nạn nhân.
Họ đi ra khỏi phòng lạnh, Bristol đóng cánh cửa nặng trịch lại phía sau.
- Anh có biết gì về nạn nhân không? Có ai cần chúng tôi xác định danh tính không?
- Chẳng có ai cả - Ballard nói.
- Anh chắc chứ?
- Cô ấy không có ... giọng anh ta đột nhiên bị ngắt quãng, anh ta như bị hớp mất hồn và nhìn chằm chằm qua cửa sổ vào trong phòng mổ. Rizzoli quay lại để xem anh ta nhìn cái gì, và cô ngay lập tức hiểu ra cái gì làm anh ta đờ đẫn thế. Maura Idles vừa bước vào trong phòng, mang theo một cái phong bì chứa kết quả chụp X quang. Cô đi tới chỗ cái đèn chiếu, đính cái phim lên và bật đèn. Khi cô tập trung nhìn vào hình ảnh xương trên phim, cô không hề nhận ra có người đang nhìn mình. Ba cặp mắt đang nhìn cô qua cửa sổ.
- Ai thế? - Ballard lắp bắp.
- Một trong các bác sĩ của chúng tôi. Bác sĩ Maura Idles.
- Giống nhau như vậy quả là hiếm phải không? - Rizzoli nói. Ballard lắc đầu một cách vô thức.
- Tôi cứ tưởng là...
- Tất cả chúng tôi cũng vậy khi chúng tôi nhìn thấy nạn nhân. Trong căn phòng bên cạnh, Maura đã cho tấm phim vào lại cái phong bì. Cô bước ra ngoài phòng xét nghiệm và chẳng bao giờ biết là mình bị quan sát cả. Rizzoli nghĩ thầm thật là đơn giản để theo dõi một người. Chẳng có cái gì kiểu như giác quan thứ sáu mách bảo cho chúng ta biết rằng có kẻ đang nhìn chúng ta chằm chằm. Chúng ta không thể biết được có ánh mắt của người lạ đằng sau chúng ta, chỉ khi hắn ta di chuyển ta mới biết hắn ở đó.
Rizzoli quay qua Ballard.
- Được rồi, anh đã thấy Anna Jessop. Anh đã khẳng định là anh biết cô ta. Giờ thì nói cho chúng tôi biết cô ta là ai chứ?
NĂM
Động cơ hoàn hảo. Quảng cáo nói vậy, Dwayne nói vậy và Mattie Purvis đang lái động cơ hoàn hảo đó xuống phố West Center, cố nuốt nước mắt vào trong và tự nhủ: anh phải ở đó, làm ơn đi, Dwayne, hãy ở đó. Nhưng cô không biết liệu anh ấy có ở đó không. Gần đây cô chẳng hiểu nhiều lắm về chồng mình, cứ như đã có một người lạ nào đó vừa bước vào chỗ của anh ấy, một người lạ hầu như không thèm quan tâm tới cô. Hầu như không thèm nhìn cô luôn. Mình cần anh ấy trở lại. Nhưng mình cũng chẳng biết tại sao mình đã mất anh ấy nữa.
Tấm biển lớn Purvis BMW chăng phía trước, cô lái xe vào bãi đỗ xe, qua những hàng xe mới cô nhìn thấy xe của Dwayne đậu gần cửa showroom.
Cô lái xe đến gần xe của anh ấy và tắt máy. Ngồi yên một lúc, thở sâu. Hít thở thật sâu, như cái cách họ dạy cô ở lớp Lamaze. Lớp học mà Dwayne đã không đến một tháng nay rồi, bởi vì anh nghĩ thật là lãng phí thời gian. Cô mới là người đang mang thai, không phải tôi. Tại sao tôi phải ở đó cơ chứ?
Oao...oao, thở sâu nhiều lần quá. Đột nhiên như có ánh sáng trong đầu, cô dựa xuống vô lăng. Vô tình cô nhấn vào còi xe và một tiếng chói tai vang lên. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy một trong những thợ máy đang nhìn cô. Nhìn vào cô vợ ngớ ngẩn của Dwayne, nhấn còi một cách vô duyên. Cô nặng nhọc đẩy cửa kéo cái bụng chửa to tướng ra khỏi xe và bước vào phòng trưng bày xe BMW.
Bên trong có mùi như mùi da và nước rửa xe. Nơi tuyệt vời dành cho các chàng trai, Dwayne gọi nó như thế, cái khẩu hiệu đó giờ làm cho Mattie cảm thấy chóng mặt. Cô dừng lại giữa những cái còi sexy trong phòng, mốt mới nhất của năm, những đường cong gợi cảm, lung linh dưới ánh đèn. Một người đàn ông có thể lạc mất hồn trong căn phòng này, mân mê tay dọc những tấm kim loại xanh đậm, nhìn bóng mình phản chiếu trong cửa xe và anh ta bắt đầu nhìn thấy giấc mơ của mình. Anh ta thấy người đàn ông mà anh ta có thể vươn tới nếu anh ta sở hữu một trong những chiếc xe này.
- Bà Purvis?
Mattie quay lại và thấy Bart Thayer, một người bán hàng cho chồng cô đang vẫy cô.
- Ồ, chào anh.
- Bà đang tìm Dwayne hả?
- Phải, anh ấy ở đâu thế?
- Tôi nghĩ là... - Bart liếc về phía văn phòng phía sau - để tôi xem nào.
- Không sao, để tôi tự tìm anh ấy vậy.
- Không! Ý tôi là, ưm, để tôi đi tìm anh ấy được chứ? Cô nên ngồi xuống nghỉ đi. Bây giờ cô không nên đứng quá lâu.
Bart nói năng nực cười thật đấy, anh ta có cái bụng còn to hơn của cô. Cô cố gắng nở một nụ cười.
- Tôi chỉ là đang mang bầu thôi mà, Bart. Không phải bị thương. - Vậy bao giờ thì đến ngày trọng đại nhỉ?
- Hai tuần nữa. Tôi nghĩ theo đúng lịch thì là như vậy. Nhưng ai mà biết.
- Đúng vậy đó. Con trai đầu lòng của tôi, nó không muốn chui ra. Sinh muộn tận ba tuần và giờ thì nó làm gì cũng bị trễ - anh ta chớp mắt - để tôi tìm Dwayne cho cô.
Cô nhìn anh ta đi về phía văn phòng đằng sau. Cô đi theo anh ta, đủ xa để nhìn thấy anh ta gõ cửa phòng Dwayne. Không có ai trả lời, nên anh ta lại gõ tiếp. Cuối cùng cửa cũng mở và Dwayne thò đầu ra. Anh giật mình khi thấy Mattie đang vẫy vẫy tay từ trong phòng trưng bày.
- Em nói chuyện với anh được chứ? - Cô gọi to.
Dwayne bước ra ngoài, đóng cửa lại.
- Em làm gì ở đây? - Anh có vẻ bực dọc.
Bart quay lại nhìn cặp đôi.
- Ừm, Dwayne, em nghĩ em vừa mới nghỉ ngơi một chút.
- Ờ ờ, anh không quan tâm lắm - Dwayne thì thào.
Bart rời căn phòng trưng bày, vợ chồng họ nhìn nhau.
- Em đã đợi anh.
- Cái gì?
- Buổi hẹn với bác sĩ về em bé ấy, Dwayne. Anh nói là anh sẽ đến cơ mà. Bác sĩ Fishman đã đợi hai mươi phút và rồi bọn em không thể đợi thêm được nữa. Anh bỏ lỡ việc nhìn thấy em bé rồi đấy.
- Ôi lạy Chúa, anh quên mất - Dwayne vỗ tay vào đầu, vuốt vuốt mấy sợi tóc của anh ta. Anh ta lúc nào cũng vò đầu, vò tóc, vò áo vò cà vạt. Khi ta phải đối mặt với sản phẩm chất lượng cao, Dwayne thường nói vậy, ta phải nhìn vào chi tiết.
- Anh xin lỗi.
Cô ta mở túi ra và lấy ra một tấm hình.
- Anh có muốn xem không?
- Cái gì vậy?
- Con gái của chúng mình, hình ảnh siêu âm đây.
Anh ta liếc tấm hình một cái rồi nhún vai.
- Anh chẳng nhìn thấy rõ lắm.
- Anh có thể nhìn thấy tay em bé này, chân này. Nếu nhìn kỹ hơn anh có thể thấy mặt em bé đấy.
- Ố, tuyệt đấy.
Anh ta đưa tấm ảnh lại.
- Tối nay anh sẽ về nhà muộn một chút được không? Có một khách hàng đến vào lúc 6 giờ để lái thử. Anh sẽ tự ăn tối.
Cô cất tấm ảnh vào trong túi và thở dài.
- Dwayne...
Anh ta nhíu mày.
- Để anh đưa em ra ngoài nhé.
- Chúng ta có thể đi uống cà phê hay cái gì đó không?
- Anh còn có khách đợi.
- Nhưng chẳng có ai trong showroom cả.
- Mattie thôi đi. Để anh làm việc được chứ?
Cửa phòng Dwayne bật mở và Mattie quay đầu lại khi thấy một phụ nữ bước ra, một cô gái tóc vàng vội vã đi qua sảnh vào một căn phòng khác.
- Ai thế?
- Cái gì?
- Cô gái vừa từ phòng anh ra đấy.
- À, cô ta hả? - Anh ta hắng giọng - nhân viên mới, anh nghĩ đã đến lúc cần một nhân viên bán hàng nữ rồi. Em biết đấy, đa dạng hóa đội hình. Cô ấy sẽ được việc đấy. Bán được nhiều xe hơn cả tháng trước, điều đó có nói lên gì không?
Mattie nhìn thật lâu vào cửa phòng đóng kín của Dwayne, nghĩ bụng: mọi thứ bắt đầu như thế đấy. Cô ta tên gì nhỉ?
- Coi nào, anh phải trở lại làm việc.
- Em chỉ muốn biết tên cô ấy thôi.
Mattie quay lại nhìn chồng và vào lúc đó, cô đã thấy sự tội lỗi trong mắt anh ta, như ánh đèn nê ông.
- Ôi Chúa ơi, tôi đâu cần chuyện này - anh ta quay đi.
- Bà Purvis?
Đó là Bart, anh ta gọi cô từ cửa phòng trưng bày.
- Cô có biết xe cô bị thủng lốp không? Thợ máy vừa chỉ cho tôi đấy. Bất ngờ, cô quay lại và nhìn anh ta.
- Không, tôi... tôi không để ý.
- Làm sao mà em không để ý khi xe em bị nổ lốp được cơ chứ? - Có thể là... à thì... có thể nó vừa mới bị hết hơi thôi, nhưng... - Anh không thể tin được.
Dwayne đã đi ra đến cửa. Luôn luôn tránh xa khỏi mình, cô nghĩ. Giờ thì anh ta đang tức giận. Làm sao mọi thứ lại đều là lỗi của mình được cơ chứ?
Cô và Bart theo anh ta ra chỗ để xe của cô. Dwayne cúi xuống xem lốp bên phải và lắc đầu.
- Anh có tin được không, cô ấy không hề biết - nhìn cái lốp mà xem, cô ấy làm hỏng cả lốp rồi.
- À, chuyên vặt thôi mà - Bart nói, và nhìn Mattie đầy cảm thông - Tôi sẽ bảo Ed lắp cái khác vào, chả sao đâu.
- Nhưng nhìn xem, nó hỏng be bét rồi. Anh nghĩ là cô ta đã lái bao nhiêu dặm với cái lốp xịt chứ? Ai có thể ngớ ngẩn như thế chứ? - Thôi nào Dwayne, có gì đâu - Bart gạt đi.
- Em không biết, em xin lỗi - Mattie lúng túng.
- Em đã lái xe như thế từ văn phòng bác sĩ về à?
Dwayne nhìn cô qua vai, sự giận dữ trong mắt anh ta khiến cô sợ. - Em ngủ mơ hay là sao?
- Dwayne, em không biết mà.
Bart vỗ vào vai Dwayne một cái.
- Có lẽ anh nên nhẹ nhàng một chút, được chứ?
- Tránh ra đi - Dwayne gắt lên.
Bart lùi lại, tay giơ lên.
- Thôi được, thôi được.
Anh ta nhìn Mattie như thể muốn nói. Chúc may mắn, cô gái thân mến, và bỏ đi.
Mattie nói:
- Chỉ là cái lốp thôi mà.
- Chắc hẳn em đã đi qua biết bao nhiêu chỗ trên phố, bao nhiêu người nhìn thấy em đang lái cái xe thế này?
- Có vấn đề gì sao?
- Xin chào, đây là Beemen. Khi cô lái một cái xe như thế này, cô đã tạo ra một hình ảnh. Mọi người nhìn cái xe, họ chờ đợi người lái thông minh hơn, khôn ngoan hơn một chút. Và cô lái lòng vòng với cái xe toàn vành, nó phá hủy hình ảnh đẹp. Nó nghĩ mọi người khác ở Beemer đều tệ hại thế cả. Nó làm tôi trở nên tệ hại.
- Nó chỉ là cái lốp.
- Đừng có nói như thế.
- Nhưng đúng là như thế.
Dwayne ngán ngẩm đứng dậy.
- Tôi chào thua.
Cô cố nén nước mắt.
- Không phải chuyện cái lốp, phải không?
- Cái gì?
- Đây là chuyện của chúng ta. Chuyện gì đó đã xảy ra giữa chúng ta. Sự im lặng của anh ta chỉ làm mọi chuyện thêm tồi tệ. Anh ta vẫn không nhìn cô vợ mà quay đi, nhìn người thợ sửa xe đang bước tới. - Chào, Bart bảo tôi thay cái lốp - anh ta nói.
- Ừ, anh lo vụ này nhé.
Dwayne chuyển sang chú ý tới cái xe Toyota vừa đỗ xuống. Một người đàn ông bước ra và đang nhìn mấy cái BMW. Cúi xuống để nhìn những tấm dính của nhà cung cấp trên cửa sổ. Dwayne lập tức vuốt lại mái tóc, chỉnh lại cà vạt và tiến tới vị khách hàng mới.
- D..JD...W... way...ne - Mattie gọi anh ta.
- Anh có một khách hàng đây rồi.
- Nhưng em là vợ anh cơ mà.
Anh ta quay phắt lại, ánh mắt long lên, đột nhiên trở nên độc ác. - Đừng. Bỏ đi. Mattie.
- Em phải làm gì để anh chú ý đây? Cô gào lên - mua một cái xe của anh hả? Có phải vậy không? Vì em không biết có cách nào khác - Giọng cô vỡ ra - Em không biết cách nào khác.
- Vậy có lẽ cô không cần cố gắng nữa đâu, vì tôi chả thấy có gì hay ho cả.
Cô nhìn anh ta bỏ đi, nhìn thấy anh ta dừng lại, so vai rồi mỉm cười. Giọng anh ta đột nhiên trở nên ấm áp và thân thiện khi anh ta chào vị khách ở bãi đỗ xe.
- Bà Purvis? Thưa bà?
Cô chớp mắt, quay ra nhìn người thợ sửa xe.
- Tôi cần chìa khóa xe, nếu bà không phiền, để tôi đưa nó vào xưởng và thay lốp.
Anh ta giơ bàn tay đầy dầu ra trước mặt Purvis.
Không nói một lời, cô đưa cho anh ta chùm chìa khóa và lại quay qua nhìn Dwayne. Nhưng anh ta thậm chí chẳng thèm ngoái lại nhìn cô, như thể cô không có mặt ở đấy, như thể cô chẳng là gì cả.
Cô không nhớ mình đã về nhà bằng cách nào.
Cô thấy mình ngồi bên bàn bếp, vẫn cầm chìa khóa trong tay. Thư chuyển vào ngay trước mặt cô. Bên trên là hóa đơn thanh toán chuyển tới Ông Bà Dwayne Purvis. Ông và Bà... cô vẫn nhớ lần đầu tiên khi ai đó gọi cô là Bà Purvis, cô cảm thấy vui sướng thế nào khi nghe cái tên đó. Bà Purvis, Bà Purvis.
Bà không là gì cả.
Chìa khóa rơi xuống sàn nhà. Cô gục đầu vào tay và khóc. Khóc khi đứa trẻ đá vào bụng cô, khóc cho đến khi cổ họng đau rát và chồng thư ướt nước mắt.
Dù sao thì mình cũng muốn anh ấy trở lại. Và yêu mình.
Mặc dù vẫn trong cơn xúc động, cô nghe thấy có tiếng mở cửa. Từ gara để xe. Cô ngẩng đầu lên ngay tức khắc, hy vọng tràn trề. Anh ấy đã về nhà. Anh ấy về để xin lỗi mình.
Cô đứng dậy nhanh đến mức cái ghế còn lung lay phía sau. Một cách háo hức, cô mở cửa và bước vào gara. Đứng chớp chớp mắt trong bóng tối, cực kỳ bốì rối. Chiếc xe duy nhất trong gara là xe của cô. - Dwayne?
Ánh sáng mặt trời chiếu vào mắt cô, cửa dẫn ra sân hé mở. Cô bước qua gara để đóng nó lại. Cô vừa mới đẩy được cánh cửa đóng lại thì nghe
tiếng bước chân đằng sau, cô thấy lạnh toát, tim đập thình thịch. Biết rằng, lúc đó cô không ở nhà một mình.
Cô quay lại, chỉ được nửa vòng đã thấy bóng tối bao trùm.
SÁU
Maura từ ánh sáng buổi chiều ấm áp bước vào căn phòng với lạnh lẽo trong nhà thờ Các quý bà của ánh sáng diệu kỳ. Mất một lúc cô mói quen được với bóng tối, thấy những hình mờ mờ của các hàng ghế và bóng một phụ nữ đang ngồi phía trước, đầu gục xuống. Maura tới một hàng ghế và ngồi xuống. Cô để sự im lặng bao trùm khi đôi mắt cố gắng quen với sự tối tăm bên trong. Cạnh cánh cửa thép xa xa có một phụ nữ với mái tóc xoăn đang nhìn vô định lên cây có những quả táo đỏ mọng. Eve trong vườn Eden. Phụ nữ quyến rũ, đầy dục tình. Kẻ hủy diệt: Nhìn lên cửa sổ, cô cảm thấy cảm giác của sự xáo trộn và cô chuyển sang nhìn chỗ khác. Mặc dù được nuôi dạy trong một gia đình Thiên Chúa giáo nhưng cô không cảm thấy được thư giãn khi ở nhà thờ. Cô nhìn vào hình ảnh những kẻ tử vì đạo đóng khung trên tường và nghĩ họ giờ chắc được tôn vinh như những vị thánh, cô biết điều đó, và nếu không phải cùng sống với xương và thịt, có lẽ họ sẽ bất tử mất. Thời gian của họ trên đời này, chắc chắc là dệt bằng những nguyên tắc, những lựa chọn tồi tệ và những khao khát. Cô biết, hơn bao giờ hết, sự hoàn hảo không dành cho con người.
Cô đứng dậy, định ra lối đi và chợt dừng lại. Cha Brophy đã đang đứng đó, ánh sáng từ cửa kính hắt những vệt sáng lên khuôn mặt Cha. Anh ta tiến đến một cách lặng lẽ tới mức cô chẳng nghe thấy tiếng bước chân, và giờ họ đang đứng đối mặt nhau, không ai dám thở mạnh.
- Tôi cứ tưởng cô vẫn chưa định đi chứ - cuối cùng thì anh ta cũng lên tiếng trước.
- Tôi chỉ vừa đến được vài phút thôi.
- Vậy may cho tôi quá vì đã gặp cô trước khi cô đi. Cô muốn nói chuyện không?
Cô nhìn ra phía cửa, như thể đó là con đường thoát ra duy nhất. Cô thở dài.
- Vâng, tôi nghĩ vậy.
Người phụ nữ ở hàng ghế trên quay lại và nhìn họ. Bà ta thấy gì? Maura tự hỏi mình điều đó. Một mục sư trẻ tuổi đẹp trai và một phụ nữ quyến rũ. Chắc chắn những vị thánh bên trên kia cũng đang thì thào.
Brophy chắc chắn cũng hiểu sự khó xử của Maura. Anh ta nhìn con chiên ngoan đạo phía trên và nói.
- Ở đây không tiện lắm.
Họ đi bộ tới công viên cạnh hồ Jamaica, đi dọc theo những lối mòn rợp bóng cây bên cạnh dòng nước. Trong buổi chiều ấm áp như hôm nay, họ đi cùng với những người đi bộ và đạp xe đạp, những bà mẹ đẩy xe em bé. Ở những nơi công cộng như thế này, một mục sư đi với một con chiên đang gặp rắc rối chắc hẳn không gây ra đàm tiếu gì. Chúng ta vãn luôn như vậy - cô nghĩ khi họ đi dưới những cành liễu thướt tha. Không có xì căng đan, không có tội lỗi nào cả. Mình muốn nhất điều mà anh ta không thể mang lại cho mình. Nhưng mình vẫn ở đây.
Cả hai chúng ta đều ở đây.
- Tôi đã tự hỏi khi nào thì cô sẽ đến tìm gặp tôi.
- Tôi rất muốn đến, quả là một tuần kinh khủng - cô dừng lại và nhìn xuống dòng sông. Tiếng xe cộ từ con đường gần đó vẳng lại hòa cùng tiếng nước vỗ róc rách.
- Gần đây tôi cảm thấy mất mát cái gì đó.
- Trước đây cô không cảm thấy vậy hả?
- Không phải như thế này. Khi tôi nhìn ca khám nghiệm tử thi tuần trước.
- Cô đã nhìn nhiều lần rồi mà.
- Không chỉ nhìn thôi đâu, Daniel. Tôi tiến hành chúng. Tôi cầm con dao trong tay và cắt, tôi làm việc đó hầu như hàng ngày, và chưa bao giờ tôi câm thấy khó chịu cả. Có thể điều đó có nghĩa là tôi đã mất cảm giác về nhân tính rồi. Tôi đeo khẩu trang, mặc đồ bảo hộ và tôi không cảm nhận được xương thịt con người mà tôi động vào. Nhưng hôm đó, xem việc đó, tôi thấy nó trở nên khá riêng tư. Tôi nhìn vào cô ta và tôi thấy mình trên bàn mổ. Giờ tôi không thể nào cầm con dao lên mà không nghĩ tới cô ta. Về cuộc sống của cô ta đã như thế nào, cô ta đã cảm thấy những gì, cô ấy nghĩ gì khi...- Maura ngừng lại và thở dài - thật khó khăn khi trở lại công việc, chỉ có thế thôi.
- Cô có mà?
Bị câu hỏi làm cho bối rối, cô nhìn anh ta.
- Tôi có lựa chọn sao?
- Cô nói như thể đó là một hợp đồng làm nô lệ vậy.
- Đó là công việc của tôi, tôi làm tốt việc đó.
- Không, thực ra, cần phải có lý do gì đó. Tại sao cô lại chọn việc đó? - Thế tại sao anh là mục sư?
Giờ thì đến lượt anh ta bối rối. Anh ta nghĩ về điều đó một lát rồi đứng yên lặng bên cạnh cô, màu xanh trong mắt anh ta câm lậng trong bóng tối của cây liễu.
- Tôi chọn điều đó đã lâu lắm rồi. Tôi không nghĩ về điều đó nữa, hoặc là một câu hỏi gì đó về nó.
- Chắc hẳn là anh đã tin.
- Tôi vẫn tin.
- Vậy có đủ không?
- Cô có nghĩ rằng niềm tin là cần và đủ không?
- Không, tất nhiên là không rồi.
Cô quay đi và bắt đầu tiếp tục đi bộ, dọc theo con đường xen giữa ánh mặt trời và bóng tối. Sợ phải bắt gặp ánh mắt của anh ta, sợ anh ta nhìn thấy quá nhiều trong cô.
- Thỉnh thoảng đối mặt với niềm tin của mình cũng tốt đấy chứ. Nó giúp ta nhìn nhận lại bản thân mình - anh ta nói.
- Tôi thà không còn hơn.
- Tại sao thế?
- Tôi không giỏi lắm về cái việc tự vấn lương tâm. Tôi rất thiếu kiên nhẫn trong các lớp học về triết học. Tất cả những câu hỏi đưa ra đều không có câu trả lời. Nhưng vật lý và hóa học thì tôi có thể hiểu được. Chúng an ủi tôi vì chúng dạy tôi những nguyên tắc có thể lặp đi lặp lại và có trật tự.
Cô ngừng lại nhìn một phụ nữ trẻ với chiếc Rollerblades vừa chạy qua, đẩy đứa bé trong nôi. Rồi cô tiếp tục.
- Tôi không thích những cái không giải thích được.
- Tôi hiểu. Cô luôn muốn những phép tính toán học phải được giải. Đó là lý do tại sao cô cảm thấy băn khoăn về vụ giết người đó. - Đó là một câu hỏi chưa có lời giải, tôi ghét điều đó lắm. Cô ngồi xuống một cái ghế gỗ nhìn ra bờ sông. Ánh sáng ban ngày đang mờ dần và nước bắt đầu chuyển sang màu đen trong bóng tối dày. Anh ta cũng ngồi xuống, mặc dù họ không chạm vào nhau, cô biết anh đang ngồi gần mình, cô có thể cảm thấy hơi ấm của anh ta chạm vào cánh tay trần.
- Cô có nghe thanh tra Rizzoli nói gì thêm về vụ việc đó không? - Chính xác thì cô ta đang muốn tôi tránh xa khỏi chuyện đó.
- Cô muốn cô ấy làm vậy không?
- Như một cảnh sát thì không, cô ta không nên làm vậy.
- Còn như một người bạn.
- Có thể, tôi đã nghĩ chúng tôi là bạn. Nhưng cô ta nói với tôi quá ít.
- Cô không thể trách cô ấy được đâu. Nạn nhân được tìm thấy ngay bên ngoài nhà cô, cô ấy hẳn phải băn khoăn...
- Băn khoăn gì chứ? Rằng tôi là thủ phạm chắc?
- Hoặc cô là mục tiêu mà sát nhân định nhắm tới. Đó là những gì chúng tôi nghĩ tới tối hôm đó. Chẳng phải là cô đã ở trong cái xe đó sao? Anh ta nhìn xa xăm xuống dòng sông trước mặt.
- Cô nói là cô không ngừng nghĩ về ca khám nghiệm tử thi. Tôi thì không ngừng nghĩ về chuyện đó đêm hôm xảy ra án mạng, đứng ở phố nhà cô với đám xe cảnh sát xung quanh. Tôi không thể tin một chi tiết nào rằng chuyện đang xảy ra. Tôi không chấp nhận.
Cả hai đều im lặng. Trước mặt họ là dòng sông nước sẫm màu và đằng sau họ, một dòng xe cộ.
Đột ngột, cô cất tiếng hỏi:
- Anh ăn với với tôi tối nay nhé?
Anh ta im lặng một lát, sự ngập ngừng của anh ta làm cô thấy xấu hổ. Thật là một câu hỏi ngớ ngẩn. Cô muốn rút lại câu nói của mình, rút lại sáu mươi giây vừa qua. Sẽ tốt hơn bao nhiêu nếu cô chỉ nói tạm biệt và bỏ đi. Thay vì thế cô lại đi ném ra một lời mời có thể bị coi là bệnh hoạn khi mà cả hai biết là anh ta không nên đồng ý.
- Tôi xin lỗi - cô thì thầm - tôi nghĩ đó không phải là ý kiến hay... - Được mà, tôi rất muốn đi ăn cùng cô.
***
Cô đứng trong bếp cắt cà chua cho món salad, tay vẫn còn nhớp khi chạm vào con dao. Trong lò là một nồi coqauvin, cùng với rượu vang đỏ và gà. Một bữa ăn đơn giản, quen thuộc mà cô có thể nấu mà chẳng cần phải dừng lại để nghĩ về nó. Nhưng cô không thể chế biến được một bữa ăn nào cầu kỳ hơn thế, vì tâm trí cô để cả vào người đàn ông đang rót hai ly rượu.
Anh ta đặt một cốc bên cạnh cô trên bàn bếp.
- Tôi có thể làm gì nữa không?
- Không đâu.
- Trộn xa lát? Rửa rau diếp chẳng hạn?
- Tôi không mời anh tới đây để bắt anh làm việc gì cả. Tôi chỉ nghĩ anh thích thế này hơn là ở nhà hàng, những chỗ quá công cộng. - Chắc hẳn cô rất mệt mỏi khi là người của công chúng rồi - anh ta nói.
- Tôi chỉ đang nghĩ cho anh thôi.
- Ngay cả các mục sư cũng có thể ăn ở nhà hàng mà, Maura. - Không, ý tôi là... - cô cảm thấy thật không biết nói sao và đành dành tất cả sức lực vào mấy quả cà chua.
- Tôi nghĩ là điều đó sẽ làm người ta băn khoăn. Nếu họ nhìn thấy chúng ta đi cùng nhau - Anh ta nói và nhìn cô một lát, âm thanh duy nhất là tiếng dao bập vào thớt. Thế người ta nghĩ sao về một mục sư trong bếp? Cô tự hỏi. Nhờ anh ta cầu nguyện cho thức ăn à? Chưa một người đàn ông nào làm cô cảm thấy khó xử, rất con người và thật tội lỗi như anh ta. Thế tội lỗi của anh là gì, Daniel? Cô tự hỏi mình điều đó khi cắt và gạt cà chua vào trong bát đựng salad, khi cô tưới dầu oliu và giấm lên chúng, cổ áo trắng của anh có cho anh hệ miễn dịch với những cám dỗ của con người không?
- Ít nhất thì cô cũng để tôi cắt quả dưa chuột đó chứ? - Anh ta vẫn kiên nhẫn.
- Anh thực sự không muốn nhàn rỗi sao?
- Chẳng dễ chịu gì khi ngồi như phỗng trong khi người khác làm việc.
Cô cười.
- Thế thì gia nhập câu lạc bộ này đi.
- Có câu lạc bộ nào cho những kẻ nghiện việc vô vọng không? Vì tôi thực sự là một thành viên đáng nể đấy.
Anh ta lấy con dao từ cái giá gỗ và bắt đầu cắt dưa thành những lát mỏng, tươi và rất đều.
- Tôi biết làm mấy thứ này vì nhà tôi có đến năm anh em trai và một em gái cơ đấy.
- Nhà anh có bảy anh chị em cơ à? Ôi Chúa ơi!
- Tôi chắc chắn cha tôi cũng nói vậy khi ông biết một đứa nữa sắp ra đời.
- Vậy anh là con thứ mấy trong bảy anh chị em?
Ở
- Thứ tư. Ở giữa đúng không? Theo như các nhà tâm lý học thì là nhà trung gian hòa giải tự nhiên. Người luôn cố gắng giữ hòa bình. Anh ta nhìn cô với một nụ cười.
- Cũng có nghĩa là tôi biết làm sao để vào và ra khỏi nhà tắm nhanh nhất có thể.
- Và làm thế nào anh chuyển từ số bốn sang thành một mục sư? Anh ta nhìn lại xuống cái thớt và nói.
- Cô có thể cho rằng đó là một câu chuyện dài.
- Và anh không muốn nói về nó à?
- Có thể cô sẽ cho những lý do của tôi là không logic.
- À, thật buồn cười là những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta thường là những quyết định kém logic nhất. Người ta chọn để cưới, ví dụ như thế.
Cô nhấp một hớp rượu và đặt cái cốc xuống.
- Tôi chắc chắn không thể xem quyết định kết hôn của tôi là một quyết định logic được.
Anh ta nhìn sang cô.
- Một ham muốn ư?
- Đó là một từ hay đấy. Thế nên tôi mới mắc sai lầm lớn nhất đời mình. Đến giờ thì như vậy đây - Cô lại uống một hớp rượu khác. Và có thể anh sẽ là sai lầm tiếp theo của tôi đấy. Nếu Chúa muốn chúng ta cư xử tốt chắc hẳn ông ta không tạo ra những cái bẫy như thế.
Anh ta trút đám dưa đã thái vào bát trộn và rửa con dao. Cô đứng nhìn anh ta đứng bên chậu rửa, quay lưng lại phía mình. Anh ta có dáng vẻ cao, chắc nịch của một vận động viên chạy đường dài. Tại sao mình lại dính vào đám lộn xộn này nhỉ? Mình có thể thích cả đám người khác cơ mà, tại sao phải là người này?
- Cô hỏi tôi là tại sao tôi lại chọn nghiệp tu hành à?
- Tại sao thế?
Anh ta quay lại và nhìn cô.
- Em gái tôi bị chứng bệnh bạch cầu.
Sững sờ, cô không biết phải nói gì. Chẳng có lời nói nào phù hợp vào lúc này cả.
- Sophie lúc đó mới sáu tuổi, nhỏ tuổi nhất nhà và là con gái duy nhất.
Anh ta với lấy cái khăn lau tay để lau và treo nó một cách rất cẩn thật lên mắc, như để kéo dài thời gian, như thể cần phải cân nhắc câu nói tiếp theo của mình.
- Đó là bệnh bạch cấp. Có thể đó là một sự may mắn với căn bệnh như bạch cầu, chắc cô nghĩ thế.
- Đó là căn bệnh dễ đoán nhất ở trẻ em. Tám mười phần trăm sống sót.
Một câu nói đúng nhưng cô vẫn cảm thấy hơi hối hận sau khi nói ra. Bác sĩ Idles luôn logic, trả lời mọi câu hỏi với những thông tin hữu ích thông thường và những số liệu lạnh lùng. Đó là cách mà cô luôn luôn dùng để đối mặt với những cảm giác hỗn độn xung quanh cô, bằng việc sử dụng vai trò của một nhà khoa học. Một người bạn vừa chết vì ung thư phổi? Một người họ hàng vừa bị bại liệt sau tai nạn xe hơi? Với mọi thứ cô đều có thể đưa ra những con số, vẽ ra một sự đảm bảo bởi sự chính xác của các con số ấy. Với niềm tin đằng sau mỗi nỗi kinh hoàng đều có một lời giải thích.
Cô tự hỏi liệu Daniel có nghĩ cô bị dở hơi không, thậm chí là chai cứng với cách hành xử như thế. Nhưng anh ta có vẻ không cảm thấy bị xúc phạm, anh ta chỉ gật đầu, chấp nhận cái số liệu mà cô vừa đưa ra như một sự thật hiển nhiên.
- Nhưng tỉ lệ năm năm sống sót không hẳn là đáng mừng, phải không nào? Lúc nó bị chẩn đoán là mắc bệnh, nó rất ốm yếu. Tôi không thể miêu tả cho cô hiểu là tình hình lúc đó kinh khủng thế nào với chúng tôi. Nhất là với mẹ tôi, nó là đứa con gái duy nhất. Con gái yêu quý của bà. Lúc đó tôi mười bốn tuổi, và tôi là người luôn để mắt tới Sophie. Mọi người đều quan tâm đến nó, nó được chiều chuộng rất nhiều nhưng nó không hề hư đốn. Luôn là đứa trẻ đáng yêu nhất.
Giờ thì anh ta không nhìn Maura nữa, anh ta nhìn xuống nền nhà như thể chưa sẵn sàng để mở toang nỗi đau của mình cho người khác. Cô lên tiếng.
- Daniel?
Anh ta hít một hơi thật sâu rồi nhìn thẳng vào cô.
- Tôi không biết có nên kể câu chuyện này với một người duy lý như cô không?
- Chuyện gì vậy?
- Bác sĩ của nó nói với chúng tôi rằng con bé đang ở giai đoạn cuối. Những ngày đó thì các bác sĩ chỉ đơn giản là đưa ra ý kiến của họ, và anh chấp nhận nó như một cái máy. Đêm đó, bố mẹ và các anh em trai tôi đến nhà thờ, để cầu nguyện một phép lạ nào đó. Tôi đoán vậy. Tôi vẫn ở lại bệnh viện, để Sophie cảm thấy không cô đơn. Lúc đó nó đã bị trọc cả đầu rồi. Tóc rụng sạch sau những ca điều trị hóa học. Tôi nhớ lúc đó nó đang ngủ trên đầu gối của tôi, và tôi đang cầu nguyện. Tôi cầu nguyện nhiều giờ, gửi những lời thề thốt điên rồ nhất đến Chúa trời. Nếu nó chết, tôi nghĩ chắc tôi chả bao giờ còn đặt chân tới nhà thờ nữa.
- Nhưng nó sống à? - Maura thì thầm.
Anh ta nhìn cô và cười.
- Đúng vậy, con bé sống. Và tôi giữ những lời hứa mà tôi đã gửi tới Chúa. Tất cả. Bởi vì hôm đó Chúa đã lắng nghe tôi, tôi không còn nghi ngờ gì nữa.
- Giờ thì Sophie ở đâu?
- Nó đã kết hôn, rất hạnh phúc. Nó đang sống ở Manchester. Có hai đứa con nuôi.
Anh ta đứng đối diện với cô qua bàn bếp.
- Và vì vậy mà tôi ở đây.
- Cha Brophy.
- Giờ cô biết lý do tại sao rồi chứ.
Nhưng đó có phải là lý do thực sự không? Cô muốn hỏi như thế nhưng không dám.
Họ cùng rót đầy rượu vào ly và cô cắt miếng bánh mì Pháp, trộn salat. Con đường dẫn tới trái tim một người đàn ông nhanh nhất là qua cái dạ dày, đó là những gì cô đang cố gắng thực hiện, nhưng cô có thực sự muốn không? Trái tim của Daniel ấy?
Có lẽ bởi vì mình không thể có anh ấy nên mình cảm thấy muốn có anh ta phát điên lên. Anh ta vượt ra ngoài tầm tay của mình vì thế anh ta không thể làm mình tổn thương, theo cái cách mà Victor đã làm.
Nhưng khi cô kết hôn với Victor thì cô cũng đã nghĩ anh ta không làm cô tổn thương.
Chúng ta chưa bao giờ thờ ơ với nhau như chúng ta vẫn nghĩ. Họ vừa mới ăn xong thì tiếng chuông cửa vang lên khiến cả hai cùng sửng sốt. Cho dù buổi tối hôm đó hoàn toàn trong sáng nhưng họ lại trao cho nhau cái nhìn đầy hối hận, như hai kẻ có tội bị bắt quả tang.
Jane Rizzoli đang đứng ở trước cửa nhà Maura, mái tóc đen của cô rối tung chẳng theo một trật tự nào trong không khí của một ngày hè ẩm ướt. Mặc dù tối đó trời khá ấm áp nhưng cô vẫn khoác một bộ cánh màu sẫm dài cô luôn vận khi đi làm.
Đây không phải là chuyến viếng thăm đơn thuần rồi, Maura nghĩ vậy khi cô bắt gặp cái nhìn sắc lạnh của Rizzoli. Cúi xuống, cô thấy Jane đang cầm theo cái vali.
- Tôi xin lỗi vì đã làm phiền chị ở nhà thế này, bác sĩ. Nhưng chúng ta cần phải nói chuyện. Tôi nghĩ tốt hơn hết là gặp chị ở nhà thay vì ở văn phòng của chị.
- Về vụ đó à?
Rizzoli gật đầu. Không ai trong số họ phải miêu tả chi tiết vụ việc mà họ đang nói tới. Cả hai đều hiểu. Mặc dù cô và Rizzoli rất tôn trọng nhau như những chuyên gia trong nghề thì họ cũng chưa bao giờ vượt qua ranh giới tới một tình bạn thoải mái và đêm nay, họ lại trân trọng nhau với cái cách chẳng lấy gì làm thoải mái này. Maura nghĩ rằng có cái gì đó đã xảy ra, cái gì đó làm cô ấy phải lo lắng cho cô.
- Cô vào nhà đi.
Rizzoli bước vào nhà và dừng lại, nhìn đống đồ ăn.
- Tôi làm hỏng bữa tối của chị à?
- Không, chúng tôi vừa mới ăn xong rồi.
Chúng tôi không thoát khỏi sự quan tâm của Rizzoli. Cô nhìn Maura một cách ngờ vực. Nghe tiếng bước chân và Rizzoli quay lại, cô thấy Daniel ở bục cửa, đang cầm ly rượu trở lại bếp.
- Xin chào, thanh tra!
Rizzoli chớp mắt ngạc nhiên.
- Cha Brophy!
Anh ta tiếp tục đi vào bếp và Rizzoli quay lại với Maura. Cho dù cô không nói gì thì cô cũng biểu hiện rõ ràng suy nghĩ của mình rồi. Giống như người cầu nguyện trong nhà thờ nghĩ vậy. Phải, điều này tệ quá nhỉ. Nhưng chả có chuyện gì xảy ra cả. Chẳng có gì ngoài một bữa tối và những câu chuyện. Tại sao các vị cứ phăi nhìn tôi như thế cơ chứ?
- À - Rizzoli nói, cái từ À của cô đúng là rất hàm súc. Họ nghe tiếng bát đĩa và tiếng dao bằng bạc. Daniel đang định rửa bát. Một mục sư ở nhà bếp của cô ấy ư?
- Tôi muốn nói chuyện riêng với chị một lát được chứ? - Rizzoli hỏi.
- Có cần thiết phải làm thế không? Cha Brophy là bạn của tôi. - Chuyện này rất nghiêm trọng đấy, không thể đùa được đâu bác sĩ. - Nhưng tôi không thể nói với anh ta là hãy về đi.
Cô ngừng lại khi nghe tiếng bước chân Daniel từ nhà bếp đi ra. - Thực sự thì tôi nên về đây. Anh ta nói và nhìn cái vali của Rizzoli. Tôi nghĩ là các cô có việc phải làm.
- Thực sự thì như vậy đấy cha ạ - Rizzoli đồng tình.
Anh ta mỉm cười với Maura.
- Cảm ơn về bữa tối nhé.
- Đợi đã - Maura vội vàng - Daniel!
Cô bước ra ngoài cùng anh ta và đứng ở bậc cửa, đóng cánh cửa lại phía sau.
- Anh không cần phải đi đâu cả.
- Cô ấy cần nói chuyện với cô, chuyện riêng mà.
- Tôi xin lỗi.
- Tại sao? Thật là một buổi tối tuyệt vời.
- Tôi cảm thấy như anh bị đưổi ra khỏi nhà tôi.
Anh ta tiến lại, cầm tay Maura, lắc nhẹ nhàng và ấm áp.
- Cứ gọi cho tôi khi nào cô cần nói chuyện nhé. Bất cứ giờ nào. Cô nhìn theo anh ta đi tới chiếc xe hơi, bộ quần áo đen vào bóng tối đêm hè. Khi anh ta vẫy tay chào tạm biệt, cô nhìn thấy ánh sáng phản chiếu từ cổ áo, một ánh sáng cuối cùng trong đêm tối.
Bước trở lại nhà, Maura thấy Rizzoli đang đứng ở giữa phòng, nhìn cô. Tất nhiên là cô ta đang thắc mắc về Daniel. Cô ta có mù đâu mà không nhận ra cái tình bạn đang lớn lên giữa họ cơ chứ.
- Tôi mời cô uống gì nhé - Maura hỏi.
- Tuyệt đấy. Cái gì không có cồn ấy.
Rizzoli xoa xoa cái bụng bầu.
- Đứa bé quá nhỏ không thể say được đâu.
- Tất nhiên rồi.
Maura đi xuống sảnh, cố gắng tỏ ra là một chủ nhà tử tế. Ở trong bếp cô cho đá vào hai cốc rồi rót nước cam vào, thêm một ít vodka cho cô. Đem đồ uống đặt lên bàn, cô thấy Rizzoli đang mở một file tài liệu từ cái vali ra và đặt chúng lên bàn.
- Cái gì đây? - Maura hỏi.
- Tại sao chúng ta không ngồi xuống đã, bác sĩ? Bởi vì tôi sắp nói cho chị biết vài điều khá sốc.
Maura ngồi xuống chiếc ghế trên bàn bếp, Rizzoli cũng ngồi xuống. Họ ngồi đối diện nhau, tập tài liệu nằm trên bàn giữa hai người. Một cái hộp đựng bí mật của Pandora, Maura nghĩ khi nhìn file tài liệu. Có thể mình không thực sự muốn biết cái gì bên trong.
- Chị có nhớ những gì tôi nới với chị tuần trước không? Về Anna Jessop ấy. Rằng chúng tôi đã không thể tìm ra chút thông tin nào về cô ta sáu tháng trước đây? Căn nhà mà chúng tôi tìm đến, chỗ cô ta ở, là một căn hộ trống không?
- Cô đã gọi cô ta là ma?
- Cũng na ná như thế còn gì? Đúng không? Anna Jessop thực ra không tồn tại.
- Làm sao có thể như thế được?
- Bởi vì chả có Anna Jessop nào cả. Đó chỉ là một cái tên giả. Tên thật của cô ta là Anna Leoni. Khoảng sáu tháng trước, cô ta đã đổi nhận dạng hoàn toàn. Cô ta đóng tài khoản ngân hàng, chuyển ra khỏi nhà. Dưới cái tên mới, cô ta thuê một căn hộ ở Brighton mà cô ta chả bao giờ có ý định dọn tới ở đó. Chỉ là một căn hộ để che mắt thiên hạ thôi, phòng khi có ai đó biết tên mới của cô ta. Rồi cô ta gói gém đồ đạc và chuyển tới Maine, một thị trấn nhỏ, gần bờ biển. Cô ta sống ở đó được hai tháng.
- Làm sao cô biết được mấy thứ đó?
- Tôi đã nói chuyện với một cớm giúp cô ta vụ đó.
- Một cảnh sát à?
- Một thanh tra tên là Ballard, ở Newton.
- Vậy cái tên giả thì sao? Không phải là cô ta đang chạy trốn pháp luật đấy chứ?
- Không. Chị đoán thử xem cô ta định làm gì? Đó là một câu chuyện dài đấy.
- Một người đàn ông ư?
- Thật không may, một người đàn ông giàu có. Bác sĩ Charles Casell. - Tôi không biết cái tên đó.
- Hãng dược phẩm Castle. Anh ta sáng lập ra nó và Anna là một chuyên viên nghiên cứu của hãng. Họ qua lại với nhau nhưng chỉ ba năm sau đó, cô ta cố gắng thoát khỏi anh ta.
- Và anh ta không muốn thế hả?
- Bác sĩ Casell có vẻ là dạng đàn ông mà người ta không phải cứ muốn không dính dáng là được đâu. Cô ta đã phải vào viện Newton với một bên mắt thâm quầng. Kể từ đó mọi chuyện kinh khủng hơn. Cãi nhau, đe doạ giết. Có cả một con chim bạch yến chết trong hòm thư nhà cô ấy.
- Ôi lạy Chúa!
- Phải, đó là tình yêu đích thực đấy. Đôi khi, cách duy nhất mà chị có thể xoay xở để ngăn một người đàn ông thôi làm chị tổn thương là bắn chết anh ta hoặc là trốn đi. Có thể cô ta vẫn còn sống nếu chọn giải pháp thứ nhất.
- Anh ta tìm ra cô ta à?
- Tất cả những gì chúng ta phải làm là chứng minh điều đó. - Được không đấy?
- Chúng tôi vẫn chưa nói chuyện được với bác sĩ Casell. Khá là bất tiện, anh ta rời Boston vào buổi sáng xảy ra vụ giết người, anh ta đi công tác cả tuần và chắc phải đến mai mới về.
Rizzoli nhấc cốc nước cam lên, uống một hơi, tiếng đá va vào nhau trong cốc khiến Maura thấy lo lắng. Rizzoli đặt cái cốc xuống và cả hai cùng im lặng một lúc. Cô ấy dường như đang câu giờ, nhưng để làm gì chứ? Maura tự hỏi.
- Còn vài thứ nữa về Anna Leoni mà chị cần phải biết đấy - Rizzoli nói và chỉ vào tập tài liệu trên bàn - Tôi mang cái đó cho chị xem. Maura mở tập tài liệu và cảm thấy mơ hồ nhận ra một cái gì đó. Bản photo màu của một tấm ảnh nhét ví. Một cô gái nhỏ với mái tóc đen và cái nhìn nghiêm nghị đang đứng giữa một cặp vợ chồng tay nắm lấy cô bé như thể để bảo vệ cô. Cô nói khẽ.
- Cô bé này giống tôi thật.
- Cô ta mang tấm hình này trong ví đấy. Chúng tôi tin rằng đó là Anna lúc khoảng mười tuổi cùng với bố mẹ, Ruth và William Leoni. Giờ thì cả hai đều mất cả rồi.
- Đó là cha mẹ cô ấy à?
- Phải.
- Nhưng... họ trông già quá nhỉ?
- Phải. Bà mẹ Ruth đã sáu mươi hai tuổi khi chụp bức ảnh này - Rizzoli ngừng lại một lát - Anna là con gái duy nhất của họ. Con một. Bố mẹ già. Maura nghĩ thầm, mình biết cái gì xảy ra rồi và mình sợ những gì cô ta sắp nói với mình. Đó là lý do tại sao cô ta có mặt ở
nhà mình tối nay. Không chỉ là về Anna Leoni và người yêu vũ phu của chị ta. Có cái gì đó còn hơn thế nữa.
Maura nhìn lên Rizzoli.
- Cô ta là con nuôi?
Rizzoli gật đầu.
- Bà Leoni đã năm hai tuổi khi Anna sinh ra.
- Quá già cho việc sinh đẻ.
- Vậy nên có thể họ phải sắp xếp một vụ nhận con nuôi riêng, qua một hãng luật.
Maura nghĩ tới bố mẹ mình, giờ cũng đã mất cả. Họ cũng rất già, khi đã ngoài bốn mươi.
- Chị có biết gì về việc mình là con nuôi như thế nào không, bác sĩ? Maura hít một hơi thật sâu:
- Sau khi cha tôi chết, tôi thấy mấy giấy tờ nhận nuôi tôi. Tất cả được làm thông qua một hãng luật ở Boston này. Tôi đã gọi cho luật sư vài năm trước để xem anh ta có biết gì về mẹ đẻ tôi không.
- Anh ta biết không?
- Anh ta nói giấy tờ được giao kèo cả rồi. Anh ta từ chối tiết lộ thêm thông tin.
- Và chị không theo vụ đó hả?
- Không.
- Có phải tên luật sư là Terence Van Gates không?
Maura gần như chết lặng. Cô không cần phải trả lời câu hỏi của Rizzoli, cô biết là cô ấy đọc được câu trả lời trong cái nhìn bối rối của cô rồi.
- Làm sao cô biết?
- Hai ngày trước khi chết. Anna có đến khách sạn Tremont, ở Boston này. Từ phòng khách sạn, cô ta gọi hai cuộc điện thoại: một cho thanh tra Ballard, người không ở thị trấn lúc đó và cuộc thứ hai là cho văn phòng luật Van Gates. Chúng tôi không biết tại sao cô ta gọi cho hãng đó, bên đó vẫn chưa liên hệ lại với chúng tôi.
Giờ thì mọi thứ đã rõ ràng hơn rồi đây, lý do thực sự cô ta ở nhà bếp của mình với nay.
- Chúng tôi biết Anna Leoni được nhận nuôi. Cô ta có cùng nhóm máu và ngày sinh với cô. Và ngay trước khi cô ta chết, cô ta đã nói chyện
với Van Gates - hãng luật đã xử lý vụ nhận con nuôi của cha mẹ cô. Cô có tin được không, trùng hợp lắm đấy.
- Cô biết mấy thứ này khi nào?
- Vài ngày trước.
- Và cô chẳng thèm nói cho tôi biết, cô giấu tôi à?
- Tôi không muốn làm chị bị sốc khi không cần thiết.
- Vâng, tôi bị sốc vì cô giữ nó quá lâu đấy.
- Tôi phải làm thế, bởi vì tôi cần làm rõ một điều nữa.
Rizzoli hít một hơi thật sâu rồi nói:
- Chiều nay tôi đã nói chuyện với Walt Degroot ở phòng xét nghiệm ADN. Đầu tuần vừa rồi tôi có nhờ anh ta tiến hành xét nghiệm chị yêu cầu. Chiều nay, anh ta cho tôi xem kết quả anh ta đã có được. Anh ta đã thực hiện hai vụ chạy VNTR riêng biệt: một của Anna Leoni và một của chị.
Maura ngồi chết lặng, cảm giác có cái gì đó sắp rơi xuống. - Hoàn toàn khớp nhau. Hai mẫu gen được xác định là đồng nhất.
BẢY
Đồng hồ trên tường tích tắc từng giây. Những miếng đá trong cốc trên bàn đang tan dần. Thời gian trôi đi nhưng Maura thì cảm thấy mình đang ngừng lại trong khoảng khắc đó, những lời nói của Rizzoli vẫn còn văng vẳng trong đầu cô.
- Tôi xin lỗi - Rizzoli nói - tôi không biết phải nói với chị thế nào nữa nhưng tôi nghĩ chị có quyền được biết rằng chị có một... Rizzoli ngừng lại. Có một. Có một em gái. Và mình chưa bao gỉờ biết đến sự tồn tại của nó.
Rizzoli vươn tới phía trước và nắm lấy tay của Maura. Rizzoli không phải dạng phụ nữa biết cách an ủi hay có thể ôm ấp người khác. Cô ta không thường như vậy. Nhưng giờ đây cô ta đang làm thế, đang cầm tay của Maura và nhìn cô như thể cô ta mong đợi Maura sắp sụp xuống vậy.
Maura nói nhẹ nhàng.
- Hãy cho tôi biết về cô ấy. Nói cho tôi biết cô ấy là người thế nào đi.
- Thanh tra Ballard, có lẽ chị nên nói chuyện với anh ta thì hơn. - Ai kia?
- Rick Ballard. Anh ta đang ở Newton. Anh ta tiếp nhận vụ đó sau khi bác sĩ Casell hành hung Anna. Tôi nghĩ anh ta chắc phải biết cô ấy khá rõ đấy.
- Thế anh ta nói gì về cô ấy với cô rồi?
- Cô ta lớn lên ở Concord. Cũng kết hôn lúc hai lăm tuổi nhưng không kéo dài. Họ ly hôn cũng khá thoải mái và không có con. - Thế người chồng đó không phải là nghi phạm à?
- Không hề. Sau đó anh ta tái hôn và giờ đang sống ở London cơ. Ly hôn? Giống như mình. Có phải là do gen quyết định việc hôn nhân thất bại không nhỉ?
- Như tôi đã nói với chị rồi đấy, cô ta làm việc cho công ty của Charles Casell, hãng dược phẩm Castle. Cô ta là nhà hóa học vi sinh, trong bộ phận nghiên cứu của họ.
- Một nhà khoa học ư?
- Đúng vậy.
Lại thế rồi, giống mình. Maura nhìn khuôn mặt của cô em gái trong tấm ảnh. Mình biết cô ấy có những lý do hợp lý và logic, như mình, khi chọn nghề đó. Các nhà khoa học bị điều khiển bởi tư duy của họ. Họ thích sự thật, rõ ràng, chúng ta lẽ ra chắc là đã rất hợp nhau rồi.
- Quả là rất nhiều điểm tương đồng, tôi biết - Rizzoli nói - tôi đã cố gắng đặt mình vào vị trí của chị và tôi thực sự không thể tưởng tượng được. Giống như hai vũ trụ song hành vậy, có một phiên bản khác của chị. Và rồi chị phát hiện ra là cô ấy đã ở đây chừng đó thời gian, sống cùng một thành phố với chị. Giá mà... Rizzoli ngừng lại đột ngột.
Có câu nào vô nghĩa hơn "giá mà“ hay không?
-Tôi xin lỗi - Rizzoli thì thào.
Maura thở dài và ngồi thẳng dậy, cử chỉ cho thấy cô không cần một cái nắm tay nào nữa. Đó là cách cô giải quyết việc của mình. Cô đóng tập tài liệu lại và đẩy nó trở về phía Rizzoli.
- Cảm ơn cô, Jane.
- Không, chị cứ giữ lấy nó đi. Tấm ảnh đó chắc là có ý nghĩa với chị hơn.
Cả hai cùng đứng dậy. Rizzoli mở cái túi và lấy ra một tấm danh thiếp, đặt nó lên bàn.
- Có thể chị muốn cái này nữa. Anh ta nói chị có thể gọi cho anh ta để hỏi bất cứ cái gì.
Maura nhìn vào dòng tên trên tấm danh thiếp: RICHARD D. BALLARD, THANH TRA, SỞ CẢNH SÁT NEWTON.
- Chị nên nói chuyện với anh ta - Rizzoli nhắc.
Họ cùng nhau đi bộ tới cửa trước, Maura vẫn cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình, vẫn đóng vai người chủ nhà lịch thiệp và mến khách. Cô đứng ở thềm cửa đủ lâu để vẫy tay chào tạm biệt Rizzoli, sau đó đóng cửa rồi đi vào trong phòng khách. Cô đứng yên đó, nhìn Rizzoli lái chiếc xe đi xa dần, để con phố vắng lặng của vùng ngoại ô lại đằng sau. Cô nghĩ mình hoàn toàn một mình lúc này. Lại một lần nữa mình cô đơn một mình.
***
Cô đi vào phòng khách, từ chỗ giá để sách cô kéo ra một album ảnh đã cũ. Cô không sờ tới nó đã nhiều năm rồi, không phải vì cái chết của cha mà cô đã dọn sạch căn nhà chỉ vài tuần sau đám tang. Cô thấy cuốn album
trong cái tủ bên giường của ông và tưởng tượng ông đang ngồi trên giường vào đêm cuối cùng của cuộc đời, cô đơn một mình trong căn nhà rộng lớn, nhìn lại tấm ảnh của gia đình mình. Những hình ảnh cuối cùng trước khi ông nhắm mắt, tắt đèn chắc chắn sẽ hiện lên trên khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc.
Cô mở cuốn album và nhìn vào những gương mặt trong ảnh. Nhiều trang ảnh đã ố vàng, vài tấm ảnh dễ đến cả bốn chục năm rồi. Cô khẽ chạm tay vào khôn mặt của mẹ mình, đang nhìn thẳng vào ống kính, một đứa trẻ tóc đen trên tay.
Đằng sau họ là một ngôi nhà mà Maura không thể nhớ ra đó là nhà nào, ngôi nhà với các cánh cửa sổ kiểu Victoria với các màu sắc và vòm cong. Bên dưới bức ảnh, mẹ cô, Ginny đã viết nắn nót dòng chữ: Mang bé Maura về nhà.
Không có tấm ảnh nào chụp ở bệnh viện, không có ảnh mẹ cô lúc mang bầu. Chỉ đột ngột có bức hình Ginny mỉm cười trong ánh nắng rạng rỡ, mang trên tay đứa bé mới sinh. Cô nghĩ tới một đứa bé khác, cũng màu tóc đen ấy, trong vòng tay một bà mẹ khác. Có lẽ, cùng vào ngày hôm đó, một người cha hạnh phúc ở một thị trấn khác cũng vừa chụp ảnh cho đứa con gái mới sinh của mình. Một cô bé mang tên Anna.
Maura lật một trang album khác. Cô thấy mình lớn dần từ một đứa bé đang tập bò thành một cô bé đến tuổi học mẫu giáo. Cô ngồi trên chiếc xe đạp mới mua trong vòng tay chắc chắn của cha mình. Đó là bức hình cô chụp đầu tiên bên chiếc đàn piano, mái tóc đen được cột chặt với chiếc nơ màu xanh, những ngón tay đang bấm các phím đàn.
Maura lật tới trang cuối cùng. Giáng sinh tới, Maura, lúc đó khoảng bảy tuổi, đang đứng cạnh cha và mẹ, cánh tay họ ôm lấy cô bé trong một sự yêu thương vô bờ. Đằng sau họ là cây noel được trang trí với đèn nhấp nháy. Mọi người đều đang mỉm cười. Một khoảnh khắc hoàn hảo, Maura nghĩ vậy. Nhưng điều đó chẳng kéo dài lâu được, chúng đến và chúng biến mất mà ta thì chẳng thể mang chúng trở lại, chúng ta chỉ có thể tạo ra những khoảng khắc mới mà thôi.
Cô lật tới bìa của cuốn album. Tất nhiên là còn những quyển khác, ít nhất là bốn quyển liên quan tới cuộc đời của Maura. Mỗi sự kiện đều được cha mẹ cô ghi chụp lại và lưu giữ. Nhưng đây là cuốn mà cha cô đã chọn để đặt bên giường của ông, với những bức hình của con gái từ khi còn nhỏ tuổi, ảnh của ông và Ginny như những bậc cha mẹ tràn trề sinh lực, trước
"""