"
Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
1
Matxcova chìm đắm trong sắc màu. Những ngọn đèn pha lờ mờ ở Quảng trường Đỏ hòa lẫn ánh đèn neon từ các sòng bạc trong Quảng trường Cách mạng. Ánh sáng len lỏi chui lên từ trung tâm thương mại dưới lòng đất ở Manezh. Ánh đèn rực rỡ bao quanh các tòa tháp bằng kính và đá hoa cương bóng loáng, trên đỉnh mỗi tòa là tháp hình chóp nhọn. Thị trưởng thành phố yêu thích những ngọn tháp. Dẫu những mái vòm mạ vàng vẫn thấp thoáng quanh Vành đai Garden*, nhưng hằng đêm máy xúc lại xé toạc thành phố già nua và đào những cái hố ngập tràn ánh sáng ngày càng rộng hơn để nhào nặn nên một Matxcova hiện đại, cao vút như Houston hay Dubai. Đó chính là Matxcova mà Pasha Ivanov đã góp phần xây dựng, một khung cảnh đang chuyển dịch của các mảng kiến tạo, dòng dung nham nóng rực và những sai lầm chết người.
Điều tra viên cấp cao Arkady Renko ngó ra ngoài từ cửa sổ tầng mười nhìn xuống thi thể Pasha Ivanov đang nằm trên vỉa hè. Ivanov đã chết nhưng không quá đẫm máu, tay và chân gập lại trong tư thế quái dị. Hai chiếc Mercedes màu đen đỗ ở lề đường, một của Ivanov, và chiếc SUV còn lại dành cho các vệ sĩ của ông ta. Đôi khi Arkady nhận thấy, điểm chung của các doanh nhân thành đạt lẫn những ông trùm mafia ở Matxcova là đều sở hữu hai con Mercedes dòng SS-black của Đức.
Ngoài các vệ sĩ từ chiếc xe hộ tống của Ivanov, thì lễ tân và nhân viên
điều hành thang máy của tòa nhà cũng được trang bị vũ khí. Hành lang, thang máy dành cho khách, lối đi cho người phục vụ và mặt trước tòa nhà đều gắn máy quay. Pasha đã đến đây lúc 9:28 tối, lên thẳng căn hộ an toàn nhất Matxcova và vào lúc 9:48 thì lao thẳng xuống đường phố. Arkady đã đo khoảng cách từ điểm Ivanov chạm đất tới chân tòa nhà. Nếu là một vụ giết người thì khoảng cách đó thường gần hơn vì nạn nhân sẽ cố gắng vùng vẫy để không bị rơi. Còn nếu là tự tử thì điểm rơi sẽ có một đích đến duy nhất và cách xa hơn. Ivanov gần như đã chạm tới lòng đường.
Phía sau Arkady, công tố viên Zurin mang đồ uống từ quầy bar có gắn chậu rửa tay tới cho vị phó chủ tịch của NoviRus là Timofeyev cùng cô gái tóc vàng với bộ đồ đỏ rất hợp thời trang đang ngồi trong phòng khách. Zurin rất có tài trong tất cả các loại sự kiện xã hội. Ông ta đã sống sót qua sáu chế độ của điện Kremlin; béo tới nỗi có thể lăn tròn theo mọi hướng, bản tính thích giúp đỡ và quen giải quyết những vấn đề khó khăn. Timofeyev vẫn đang run rẩy, còn cô gái thì đã say sỉn. Arkady có cảm giác cuộc tụ họp này hơi giống một bữa tiệc nhỏ mà chủ nhà đột ngột lao qua cửa sổ một cách khó hiểu. Sau cú sốc, các vị khách đều trở nên bối rối.
Người đàn ông kỳ lạ ở bên ngoài là Bobby Hoffman, trợ lý người Mỹ của Ivanov. Dù anh ta trị giá hàng triệu đô la, nhưng Hoffman lại đi đôi giày da hiệu Loafer đã nứt nẻ, ngón tay dính đầy mực và chiếc áo vét da lộn đã sờn bóng loáng. Arkady tự hỏi Hoffman sẽ ở lại NoviRus thêm bao lâu nữa. Trợ lý người Mỹ cho một kẻ đã chết ư? Có vẻ không hứa hẹn cho lắm.
Hoffman gặp Arkady bên cửa sổ. “Tại sao phải buộc túi nhựa quanh tay Pasha?”
“Tôi đang tìm kiếm dấu hiệu của sự chống cự, có thể là những vết cắt trên ngón tay.”
“Chống cự à? Kiểu như vật lộn ấy hả?”
Công tố viên Zurin bước từng bước làm rung chuyển nền nhà, hướng về phía sô pha. “Không điều tra gì hết. Chúng ta không điều tra các trường hợp tự tử. Chẳng hề có dấu hiệu bạo lực trong căn hộ. Ivanov đến một mình. Rồi đi một mình. Bạn thân mến, đây rõ ràng là một vụ tự tử.”
Cô gái tỏ ra choáng váng. Trong hồ sơ mà Arkady có được về Pasha Ivanov thì Rina Shevchenko là người thiết kế nội thất riêng của ông. Một nhà thiết kế nội thất, một cô nàng tóc vàng hai mươi mốt tuổi trong bộ đồ da bó sát màu đỏ và đôi bốt cao gót.
Timofeyev được biết đến như một vận động viên thể thao tráng kiện, nhưng để làm hài lòng bố mình, ông ta đã buộc phải từ bỏ rất nhiều sở thích. “Tự tử là một bi kịch cá nhân. Phải chứng kiến cái chết của một người bạn thật sự quá sức chịu đựng. Đại tá Ozhogin là trưởng phòng an ninh của NoviRus. Ông ấy đã lên máy bay để về đây.” Ông ta nói tiếp với Arkady, “Ozhogin muốn tạm dừng mọi chuyện cho đến khi ông ấy có mặt.”
Arkady đáp, “Chúng tôi không bỏ mặc một thi thể trên đường phố như một tấm thảm, cho dù đó là yêu cầu của một đại tá.”
“Đừng bận tâm đến điều tra viên Renko,” Zurin lên tiếng. “Cậu ta là người cuồng công việc. Giống con chó nghiệp vụ trong đội ma túy, cậu ta đi ngửi từng cái túi một.”
Chẳng còn lại gì nhiều để ngửi ở đây, Arkady thầm nghĩ. Toàn bộ hiện trường đã bị phá hỏng. Chỉ là do tò mò, anh tự hỏi liệu vết máu trên cánh cửa trượt và gậy trượt tuyết dùng để cạy cửa sổ có giữ được nguyên vẹn hay không.
Timofeyev ấn chiếc khăn tay vào mũi. Arkady chợt nhận thấy vài đốm đỏ. “Chảy máu mũi à?” Zurin hỏi.
“Cảm cúm mùa hè*,” Timofeyev trả lời.
Đối diện căn hộ của Ivanov là một tòa văn phòng tối om. Một người đàn
ông bước ra từ hành lang bên đó, vẫy tay với Arkady và ra dấu không có gì. “Người của anh à?” Hoffman hỏi.
“Một thám tử, phòng trường hợp có người làm việc muộn và có thể trông thấy gì đó.”
“Nhưng các anh không định điều tra mà.”
“Tôi sẽ làm theo bất cứ yêu cầu nào của công tố viên.”
“Vậy, anh cho rằng đây là một vụ tự tử.”
“Chúng tôi thích giả thiết tự tử hơn. Tự tử không đòi hỏi phải điều tra và không làm tăng tỉ lệ tội phạm.” Đồng thời, Arkady nảy ra ý nghĩ rằng tự tử không phơi bày sự bất lực của các nhà điều tra và lực lượng dân quân tự vệ*. Họ chỉ giỏi tìm ra những kẻ chết vì say rượu trong đám người sống hơn là làm sáng tỏ các vụ giết người có chủ đích.
Zurin nói, “Các anh hãy thứ lỗi cho Renko, cậu ta nghĩ cả Matxcova đều là tội phạm. Có điều, báo chí sẽ gây xôn xao dư luận về cái chết của một người xuất chúng như Pasha Ivanov.”
Trong trường hợp đó, tin tức một nhà tài chính bị rối loạn tinh thần chết do tự tử sẽ tốt hơn là một vụ ám sát, Arkady tự nhủ. Timofeyev có thể than khóc vì cái chết của bạn ông ta. Nhưng một vụ điều tra án mạng có thể đặt toàn bộ công ty NoviRus vào tình trạng nguy hiểm, nhất là từ quan điểm của đối tác nước ngoài và các nhà đầu tư, những người vốn đã cảm thấy việc kinh doanh ở Nga như là chìm trong vũng nước tối om. Bởi cũng chính Zurin là người đã ra lệnh cho Arkady bắt đầu bằng cuộc điều tra về vấn đề tài chính của Ivanov, nên hành động này chính là bước đảo ngược hết sức ngoạn mục. Ông ta không phải người thích giúp đỡ, Arkady thầm nghĩ, mà là một thủy thủ đầy kinh nghiệm, biết rõ khi nào nên bẻ lái.
“Những ai được quyền tiếp cận căn hộ này?” Arkady hỏi.
“Pasha là người duy nhất được vào tầng này. Điều kiện an ninh tốt nhất
thế giới đấy,” Zurin đáp.
“Tốt nhất thế giới.” Timofeyev đồng tình.
Zurin nói, “Toàn bộ tòa nhà được gắn máy quay giám sát cả trong lẫn ngoài, với màn hình quan sát không chỉ đặt ở quầy lễ tân này, mà còn được theo dõi bởi kỹ thuật viên ở trụ sở của phòng An ninh NoviRus như một biện pháp đề phòng. Các căn hộ khác đều có chìa khóa. Ivanov có mật mã riêng mà chỉ mình ông ấy biết. Đồng thời cạnh thang máy cũng có một nút khóa để bảo vệ ông ấy khỏi bên ngoài. Ông ấy có tất cả biện pháp an ninh mà mọi người mơ ước.”
Arkady đang ở trong sảnh, kiểm tra các màn hình quan sát được gắn vào cái bàn tròn bằng gỗ hồng mộc. Mỗi màn hình nhỏ được chia làm bốn phần. Quầy lễ tân còn có một điện thoại màu trắng với hai đường dây nối ra ngoài và một điện thoại đỏ với đường dây nối trực tiếp với NoviRus.
“Nhân viên tòa nhà không có mật mã của Ivanov à?”
“Không. Chỉ văn phòng trung tâm ở NoviRus mới có.”
“Ai được tiếp cận mật mã ở đó?”
“Chẳng ai cả. Nó được niêm phong, cho đến tối nay.” Vị công tố viên cho biết, theo lệnh của Ivanov, trừ ông ta ra thì không ai được phép bước vào căn hộ, bao gồm cả nhân viên, người lau dọn lẫn thợ sửa chữa. Bất cứ ai cố gắng đột nhập đều sẽ xuất hiện trên màn hình và bị ghi vào băng, nhưng nhân viên trực đã không thấy gì hết. Ivanov tự mình dọn dẹp. Giao cho người trực thang máy túi rác, đồ bẩn cần giặt ủi, danh sách thức ăn hay bất cứ thứ gì cần thiết và được đặt sẵn sàng ở tiền sảnh lúc ông ta trở về. Zurin tỏ ý khen ngợi cách làm đó thật thông minh.
“Lập dị,” Arkady dè bỉu.
“Ông ấy có đủ điều kiện để lập dị. Churchill* thường khỏa thân lang thang quanh lâu đài của ông ta đấy thôi.”
“Pasha không bị điên,” Rina phản đối.
“Ông ta sao cơ?” Arkady làm rõ hơn câu hỏi. “Cô có thể mô tả ông ấy như thế nào?”
“Ông ấy bị sụt cân. Ông ấy từng nói mình bị nhiễm trùng. Có lẽ ông ấy phản ứng xấu với thuốc.”
Timofeyev lên tiếng, “Tôi ước gì Ozhogin đang có mặt ở đây.” Arkady từng nhìn thấy trên bìa tạp chí ảnh một Lev Timofeyev tràn đầy tự tin đang lái du thuyền vượt qua những con sóng trên biển Đen. Timofeyev đó giờ ở đâu, Arkady tự hỏi?
Một chiếc xe cứu thương kín đáo tấp vào lề. Victor băng qua đường với một chiếc máy ảnh và bấm máy liên tục lúc Ivanov được cho vào túi đựng xác và vết máu để lại trên vỉa hè. Có thứ gì đó bị đè dưới thi thể Ivanov. Từ góc nhìn của Arkady, trông nó giống hệt một chiếc cốc uống rượu. Victor cũng chụp lại vật thể đó.
Hoffman nhìn Arkady cũng chăm chú như nhìn hiện trường bên dưới. “Có thật anh coi cả Matxcova là tội phạm không?”
“Sức mạnh của thói quen.”
Phòng khách chính là ước mơ của một nhân viên pháp y: chiếc sô pha bằng da màu trắng và những cái ghế, sàn lát bằng đá vôi, tường dán giấy gân bố*, gạt tàn thuốc cùng bàn cà phê bằng thủy tinh, là nơi tuyệt vời để tìm kiếm tóc, dấu son môi, vân tay, dấu vết trầy xước. Chúng sẽ dễ tìm được hơn trước khi Zurin ân cần mời cả đám người vào và phá hỏng hết các chứng cứ. Bởi vậy, trong vụ nhảy lầu này, có hai câu hỏi cần giải đáp: Có phải ông ta ở một mình hay ông ta bị đẩy xuống?
Timofeyev cho biết không có ai đáng nghi. “Pasha và tôi vừa trở về sau một chuyến đi xa. Chúng tôi đã cùng học tập và nghiên cứu ở trường đại học khi nền kinh tế của đất nước bị sụp đổ. Hãy tưởng tượng, phòng thí nghiệm
vật lý lớn nhất Matxcova và chúng tôi thì làm việc không lương. Giám đốc phòng thí nghiệm, viện trưởng Gerasimov, đã tắt hết máy sưởi trong tòa nhà để tiết kiệm tiền và, tất nhiên, lúc đó đang là giữa mùa đông, các đường ống đã bị đóng băng hết. Chúng tôi có một ngàn lít nước phóng xạ cần xử lý, vì thế chúng tôi xả thẳng xuống con sông thuộc trung tâm thành phố.” Ông ta nhấp một ngụm rượu. “Giám đốc là một người thông minh, nhưng đôi khi anh có thể thấy ông ấy trong tình trạng say khướt. Mặt khác, ông ấy rất tin tưởng Pasha và tôi. Dù sao thì chúng tôi cũng đã xả nước phóng xạ xuống con sông ở trung tâm Matxcova và không ai hay biết.”
Arkady hết sức sửng sốt. Dĩ nhiên, anh không biết chuyện này. Rina mang ly của Timofeyev tới quầy bar và dừng lại trước bộ ảnh của Pasha Ivanov khi còn sống. Ivanov không đẹp trai nhưng ông là một người vĩ đại với những nghĩa cử cao thượng. Trong các bức ảnh khác nhau, khi thì ông đang leo xuống vách núi, đi thuyền trên sông Ural*, chèo xuồng qua dòng thác. Khi thì ôm hôn Yeltsin, Clinton và Bush cha. Lúc lại tươi cười với Putin, người trông có vẻ như đang bị sâu răng như thường lệ. Có bức ông nâng niu chú chó Dachshund* như bế một đứa trẻ. Ivanov luôn thể hiện sự tự tin tuyệt đối lúc dự tiệc với các ca sĩ opera hát giọng nam cao, ngôi sao nhạc rock và thậm chí cả khi ông cúi chào giáo trưởng của Giáo hội chính thống hay Giáo hoàng Giáo hội Công giáo La Mã. Thế hệ mới của nước Nga lúc đó bị coi là thế hệ thất bại: người bị bắn, kẻ phá sản hoặc phải sống lưu vong. Nhưng Pasha không chỉ rất phát đạt, mà còn được biết đến là người luôn lo lắng đến lợi ích chung và khi quỹ xây dựng nhà thờ Đấng cứu thế* cạn kiệt, Ivanov đã quyên góp vàng lá đủ để dát toàn bộ mái vòm. Lần đầu tiên Arkady mở tập tài liệu về Ivanov, anh được bảo rằng nếu chứng minh được Ivanov vi phạm pháp luật, chẳng khác nào anh có thể dùng di động của mình để gọi đến Thượng viện và viết lại luật pháp. Cố gắng kết tội Ivanov giống
như cố giữ chặt một con rắn cứ lột hết lớp da này đến lớp da khác, đồng thời lại còn mọc thêm chân. Hay nói cách khác, Pasha Ivanov vừa là anh hùng trong thời đại của ông, vừa là tượng đài trong tiến trình lịch sử.
Arkady chợt chú ý thấy những hạt tinh thể lấp lánh, có thể nhìn thấy được bằng mắt thường nằm rải rác trên bậu cửa sổ, quen thuộc đến nỗi anh không cưỡng lại được mà đưa ngón trỏ ra chấm và nếm. Muối.
“Tôi sẽ đi xem xét xung quanh.”
“Nhưng anh nói sẽ không điều tra mà,” Hoffman nói. “Chính xác.” “Một câu thôi,” Zurin nói với Arkady và kéo anh ra hành lang. “Renko, chúng ta đã mở cuộc điều tra về Ivanov và NoviRus, nhưng nếu đây không phải vụ tự tử thì sẽ chẳng hay ho gì cho tất cả mọi người.”
“Ông chính là người khởi xướng vụ điều tra đó.”
“Và giờ tôi đang kết thúc nó đây. Điều cuối cùng tôi muốn là khiến mọi người nghĩ rằng chúng ta đã săn đuổi Pasha Ivanov đến chết, và vẫn tiếp tục truy lùng khi ông ta đã nằm yên dưới mồ. Việc làm đó khiến chúng ta có vẻ chất chứa đầy hận thù, giống như những kẻ cuồng tín, và tất nhiên chúng ta không phải thế.” Công tố viên thăm dò ánh mắt Arkady. “Vì thế, khi xem xét một chút quanh đây, hãy tới văn phòng mình và thu thập tất cả tài liệu về Ivanov lẫn NoviRus, rồi gửi đến văn phòng tôi. Ngay tối nay. Và hãy ngừng sử dụng cụm từ ‘Thế hệ Nga mới’ mỗi khi đề cập đến tội phạm nhé. Renko, chúng ta đều là Thế hệ Nga mới, đúng không?”
“Tôi sẽ cố.”
Căn hộ của Ivanov chiếm trọn tầng mười. Không nhiều phòng nhưng các phòng đều rất rộng rãi và có thể nhìn bao quát toàn cảnh thành phố, tạo cảm giác như đang lơ lửng trong không trung. Arkady bắt đầu từ phòng ngủ có giấy dán tường gân bố phù hợp với tấm thảm Ba Tư. Các bức ảnh ở đây mang tính riêng tư hơn: Ivanov trượt tuyết cùng Rina, chèo thuyền cùng
Rina, lặn có bình khí cùng Rina. Cô ta có đôi mắt to và gò má cao của người Slav*. Trong từng bức ảnh, đều có cơn gió nhẹ thổi tung mái tóc vàng óng của cô ta; cô ta thuộc kiểu người có thể thu hút sự chú ý của cả cơn gió. Nét mặt Pasha ánh lên vẻ trìu mến, hóm hỉnh của một người bố, còn nụ cười của Rina thì ngọt như đường. Một cô nàng gợi tình hạnh phúc.
Một bức tranh khỏa thân màu hồng của họa sĩ Modigliani treo trên tường. Trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường là cái gạt tàn thủy tinh của Lalique, một đồng hồ báo thức Hermes và trong ngăn kéo là một khẩu súng lục 9mm - loại Viking cùng một băng đạn đầy mười bảy viên mới tinh, mà lúc này nó hữu dụng với Ivanov như một bàn phím với ba mươi tỷ ký hiệu. Một chiếc cặp xách tay đặt trên giường chứa một túi đựng giày hiệu Bally và một sạc điện thoại di động. Trên giá sách bày bộ sưu tập những tác phẩm bọc bìa da cũ mòn của những danh hào như Pushkin*, Rilke* và Chekhov*, và một hộp đựng bộ ba đồng hồ đeo tay của hãng Patek, Cartier và Rolex, anh nhẹ nhàng kích hoạt cho chúng tiếp tục chạy, điều thực sự cần làm cho người chết. Thứ duy nhất không đáng chú ý là đống đồ bẩn cần giặt ở trong góc.
Anh bước vào nhà tắm với sàn được lát đá vôi, nội thất mạ vàng, bồn tắm massage có bậc thang lên, các thanh sưởi để làm ấm những tấm áo choàng bông rộng tới nỗi có thể mặc vừa cho một con gấu Bắc cực cùng một bồn vệ sinh thông minh có gắn điện thoại. Chiếc gương dùng để cạo râu phóng to những đường nét trên khuôn mặt Arkady. Tủ thuốc bên cạnh tủ đựng đồ dùng trong phòng tắm chứa đầy Viagra, thuốc ngủ lẫn Prozac*. Arkady nhận thấy cuối mỗi toa thuốc đều ký tên bác sĩ Novotny. Anh không thấy bất kỳ loại kháng sinh chống nhiễm trùng nào.
Nhà bếp trông mới tinh, như thể bị lãng quên. Đồ dùng bằng thép sáng bóng, chậu rửa tráng men không một vết ố bẩn, còn bếp thì chẳng dính một giọt nước sốt cứng đầu nào. Một kệ bằng bạc đặt kín những chai rượu đắt tiền
phủ đầy bụi và chắc chắn được lựa chọn bởi một chuyên gia về rượu. Tuy nhiên, máy rửa bát lại xếp chật bát đĩa bẩn, cùng với chiếc giường được dọn dẹp sơ sài và khăn tắm treo xộc xệch, dấu hiệu rõ ràng của một người đàn ông độc thân. Chiếc tủ lạnh có kích thước chuẩn chứa nước khoáng, vài loại pho mát, bánh quy giòn và nửa ổ bánh mì cắt lát. Rượu vodka trong ngăn đá. Pasha là người vô cùng bận rộn, hầu như ngày nào ông cũng đi ăn tối cùng đối tác. Trước đây, ông nổi tiếng là người hòa đồng chứ không phải một kẻ giàu có sống ẩn dật với mái tóc và móng tay để dài. Ông muốn làm nhiều thứ hơn là chỉ khoe với bạn bè về một nhà bếp hiện đại và mời họ rượu Bordeaux hảo hạng hay một ly vodka ướp lạnh. Nhưng ông đã không gặp gỡ mọi người trong nhiều tháng gần đây. Trong phòng ăn là một chiếc bàn bằng gỗ hồng. Arkady áp má vào mặt gỗ, nhìn xuôi theo chiều dài chiếc bàn. Bụi bặm, nhưng không một vết xước.
Tại khúc quanh của một máy biến trở, căn phòng kế tiếp được dùng làm rạp chiếu phim tại nhà với ti vi màn hình phẳng rộng hai mét, loa màu đen mờ và sáu ghế xoay bằng nhung đỏ. Những người thuộc Thế hệ Nga mới đều có rạp chiếu phim tại nhà, cứ như đạo diễn là nghề tay trái của họ ấy. Arkady xem lướt qua thư viện băng đĩa phong phú, từ Anhxtanh đến Thành Long. Không có đĩa nào trong máy và cũng chẳng có gì trong cái tủ lạnh nhỏ nhiều ngăn hiệu Moet.
Một phòng tập thể dục với cửa sổ cao từ sàn đến trần, lót thảm dày, hàng loạt tạ tay với một máy tập trông như máy bắn đá. Một ti vi treo phía trên chiếc xe đạp tại chỗ.
Đáng ngưỡng mộ nhất chính là văn phòng của Ivanov, một căn phòng với các thiết bị sử dụng công nghệ của tương lai bằng kính và thép không gỉ. Mọi thứ đều trong tầm tay, màn hình và máy in đặt trên bàn, máy tính với khay đĩa CD bên dưới, sát cạnh một giỏ đựng rác trống không. Trên chiếc bàn có
bánh xe di động là một chồng báo Wall Street Journal và Financial Times được xếp gọn gàng. Kênh CNN đang chiếu trên màn hình, chế độ im lặng, dòng giá thị trường của các loại hàng hóa chạy bên dưới một người đàn ông cách nửa vòng trái đất trông như đang lẩm bẩm. Arkady nghi ngờ để âm thanh nhỏ là dấu hiệu của một người đàn ông cô đơn và có nhu cầu về một giọng nói khác trong căn hộ, thậm chí ngay cả khi ông ta cấm cả người tình lẫn đồng nghiệp thân thiết nhất vào đó. Arkady bàng hoàng nhận ra công nghệ là điều khó khăn nhất mà bất kỳ ai trong văn phòng công tố viên đều từng gặp phải khi đột nhập vào NoviRus, và thật đáng xấu hổ vì anh cũng đang như thế. Cả cuộc đời, Arkady sống để truy lùng những kẻ dùng dùi cui đánh người khác và đó là chuyện anh thành thạo nhất. Sự tinh vi của hành động trộm cắp thông tin trong các công ty là điều mới mẻ với anh, và anh đứng trước màn hình như con khỉ bỗng nhiên bị đốt cháy. Anh đã tới rất gần câu trả lời cho điều mà mình đang tìm kiếm: tên của những đối tác im hơi lặng tiếng trong các Bộ, những người đã ủng hộ và bảo vệ Ivanov cùng số tài khoản của họ trong các ngân hàng nước ngoài. Anh không định tìm một chiếc ô tô nhét đầy đô la. Chuyện đó chẳng còn tác dụng gì. Không giấy tờ gì hết. Thông tin như làn khói khẽ tan vào không khí. Tiền cũng vậy. Tất cả đều biến mất.
Victor, viên thám tử dưới đường phố, cuối cùng cũng mang lại cho anh chút manh mối. Với bộ dạng của người thiếu ngủ trong chiếc áo len dài tay nồng nặc mùi thuốc lá, anh ta giơ lên chiếc túi dùng đựng bánh sandwich có chứa một lọ muối.
“Cái này nằm trên vỉa hè, bị Ivanov đè lên. Có lẽ nó đã từng ở đây. Tại sao một người nhảy ra cửa sổ lại mang theo lọ muối nhỉ?”
“Ivanov thích muối.”
Bobby Hoffman xen vào lời của Victor. “Renko, tin tặc giỏi nhất thế giới
là người Nga, tôi đã phải mã hóa và lập chương trình tự hủy cho ổ cứng của Pasha. Nói cách khác, đừng có chạm vào thứ chết tiệt đấy.” “Anh vừa là thiên tài máy tính vừa là cố vấn kinh doanh của Pasha à?” “Tôi làm những gì Pasha yêu cầu.”
Arkady đẩy nhẹ khay CD. Nó trượt vào rồi đóng lại. Hoffman nói, “Tôi cũng nên báo cho anh biết chiếc máy tính và tất cả đĩa CD này đều là tài sản của NoviRus. Anh chỉ còn cách tội xâm phạm một milimet thôi đấy. Anh nên biết luật pháp ở đây như thế nào.”
“Thưa ngài Hoffman, đừng có nói với tôi về luật pháp của Nga. Anh vốn là một tên trộm ở New York và ở đây cũng vậy.”
“Không đúng, tôi là một cố vấn.”
“Nghĩa là…”
“Nghĩa là tôi chính là kẻ đã bảo Pasha không cần lo lắng về anh. Anh có bằng cao học về kinh doanh không?”
“Không.”
“Luật?”
“Không.”
“Kế toán?”
“Không.”
“Vậy, chúc may mắn. Người Mỹ đã truy đuổi tôi với một đội ngũ luật sư hăng hái, tốt nghiệp ở Harvard ra. Tôi có thể thấy Pasha đã lo sợ rất nhiều.” Phản ứng này còn hơn cả thái độ thù địch Arkady dự đoán, nhưng Hoffman lại xuống nước. “Tại sao anh không cho rằng đây là một vụ tự tử? Có gì không đúng à?”
“Tôi chưa từng nói thế.”
“Có gì khiến anh băn khoăn sao?”
Arkady cân nhắc. “Gần đây, bạn anh không còn là Ivanov như trước, đúng
không?”
“Có thể do suy nhược.”
“Ông ấy đã đi xa hai lần trong vòng ba tháng. Người bị suy nhược không đủ sức khỏe để đi, họ chỉ ngồi một chỗ.” Tình cờ Arkady lại biết đôi chút về suy nhược. “Theo tôi, dường như ông ấy đã sợ hãi gì đó.”
“Sợ gì chứ?”
“Anh rất thân cận với ông ấy, anh phải biết hơn tôi chứ. Có thứ gì ở đây có vẻ bị xê dịch không?”
“Tôi chẳng thể biết. Pasha không cho phép chúng tôi vào đây. Rina và tôi đã không vào căn hộ này cả tháng rồi. Nếu điều tra thì anh đang tìm kiếm cái gì?”
“Tôi không biết.”
Trong lúc đó, Victor sờ vào tay áo vét của Hoffman. “Da lộn thượng hạng. Đáng giá cả một gia tài.”
“Là của Pasha. Một lần tôi trầm trồ khen ngợi lúc ông ấy đang mặc nó và thế là ông ấy cởi cho tôi luôn. Kiểu như không phải do ông ấy có nhiều mà vì ông ấy rất hào phóng.”
“Có bao nhiêu áo vét ở đây?” Arkady hỏi. “Tối thiểu hai mươi cái.” “Cả com lê, giày và đồng phục chơi quần vợt màu trắng à?” “Tất nhiên.”
“Tôi nhìn thấy quần áo ở góc phòng ngủ, nhưng không thấy tủ đâu.” “Tôi sẽ chỉ cho anh.” Rina lên tiếng. Arkady không biết cô gái này đã đứng sau lưng Victor bao lâu rồi. “Anh biết đấy, tôi thiết kế căn hộ này.” “Một căn hộ tuyệt đẹp,” Arkady ca ngợi.
Rina săm soi anh để tìm kiếm dấu hiệu của sự mỉa mai trước khi quay người, lảo đảo vịn vào tường, dẫn đường đến phòng ngủ của Ivanov. Arkady chẳng thấy gì khác biệt cho đến khi Rina ấn vào một tấm bảng gắn trên tường
khiến nó kêu lách cách rồi nứt làm đôi, lộ ra tủ quần áo to đến nỗi có thể đứng vào đó, sáng rực rỡ. Com lê treo bên trái, quần dài và áo vét bên phải, vài cái còn mới nguyên trong túi xách với các thương hiệu Ý được in rất tinh tế. Cà vạt được treo trên mắc bằng đồng. Các ngăn tủ dành để đựng sơ mi, đồ lót và giá giày được gắn cố định. Chủng loại quần áo phong phú từ chất liệu Kashmere* cho mùa đông đến vải lanh thoáng mát cho mùa hè; mọi thứ trong ngăn tủ đều hoàn hảo, ngoại trừ chiếc gương cao để ngắm lúc mặc đồ đã bị nứt cùng một đám tinh thể lấp lánh phủ kín khoang đáy tủ rộng cỡ một cái giường.
“Giờ lại là gì thế?” Công tố viên Zurin bước đến. Arkady liếm ngón tay, chấm vài hạt cho vào miệng.
“Muối. Muối tinh.” Tối thiểu phải có năm mươi cân muối đổ trên sàn, Arkady thầm nghĩ. Muối được đổ thành hình tròn mềm mại và có dấu hiệu mờ nhạt của vật gì đó dùng để san phẳng.
“Một dấu hiệu của trạng thái rối loạn,” Zurin tuyên bố. “Chẳng có lời giải thích nào hợp lý cho nó cả. Đây là hành động của một người tự tử trong tuyệt vọng. Còn gì khác không Renko?”
“Có muối trên bậu cửa sổ.”
“Lại muối à? Người đàn ông tội nghiệp. Chỉ có Chúa mới biết điều gì đang diễn ra trong đầu ông ấy.”
“Anh nghĩ sao?” Hoffman hỏi Arkady.
“Tự tử,” Timofeyev nói vọng vào từ hành lang, giọng ông ta bị bóp nghẹt do chiếc khăn tay.
Victor lên tiếng, “Miễn là Ivanov đã chết. Mẹ tôi đã đầu tư toàn bộ tiền vào một trong các quỹ của ông ấy. Ông ta hứa trả một trăm phần trăm lợi nhuận trong một trăm ngày. Bà ấy đã mất tất cả, còn ông ta thì được bình chọn là Người Nga mới của năm. Nếu ông ta vẫn còn sống và đang ở đây, tôi
sẽ dùng chính ruột ông ta để siết cổ ông ta đến chết.”
Chà, Arkady thầm nghĩ, điều đó sẽ giúp giải quyết vấn đề này. Thời điểm Arkady giao chiếc xe đẩy tài liệu liên quan tới NoviRus cho văn phòng công tố viên và lái xe về nhà đã là hai giờ sáng.
Căn hộ của anh không phải một tòa tháp bằng kính lung linh cao chọc trời, mà là một đống đá tọa lạc sát Vành đai Garden. Hàng loạt kiến trúc sư của chế độ Xô Viết đã thiếu sáng suốt thiết kế tòa nhà với trụ chống phụ*, cột kiểu La Mã và cửa sổ Moorish*. Phần ốp mặt tiền đã rơi rụng và bị xâm chiếm bởi cỏ cùng đám dây leo mảnh mai đu đưa trong gió, nhưng bên trong lại là các căn hộ có trần cao cùng cửa sổ hai cánh mở, dễ gây ảo tưởng về một căn phòng tắm nắng vào mùa hè. Trong tầm nhìn của anh không phải những chiếc Mercedes bóng lộn, mà là một loạt sân sau của các gara bằng kim loại, mỗi cái được khóa kín bằng ổ khóa được che chắn bởi phần đáy chai nước soda cắt ra.
Chẳng quản giờ giấc, ông bà Rajapakse, hàng xóm đối diện nhà anh, mang đến cho anh bánh bích quy, trứng lòng đào và trà. Họ cùng là giáo sư đại học đến từ Sri Lanka, một cặp vợ chồng da đen nhỏ nhắn với cách cư xử lịch thiệp.
“Đừng bận tâm,” Rajapakse nói. “Cậu là người bạn tốt nhất của chúng tôi ở Matxcova. Cậu có biết Gandhi đã nói gì lúc ông ấy được hỏi về nền văn minh phương Tây không? Gandhi trả lời rằng ông ấy cho là nó rất tuyệt. Chúng tôi biết cậu là một công dân Nga. Và vì biết cậu không thể chăm sóc tốt cho bản thân, nên chúng tôi phải làm điều đó thay cậu.”
Bà Rajapakse mặc trang phục của người Hindu. Bà lượn lờ quanh căn hộ như một con bướm nhằm chộp lấy con ruồi và thả nó ra ngoài cửa sổ. “Bà ấy không làm hại bất cứ con vật nào,” chồng bà nói. “Tình trạng bạo lực ở Matxcova hiện hết sức tồi tệ. Bà ấy lo lắng cho cậu suốt cả ngày. Bà ấy
giống như bà mẹ nhỏ của cậu.”
Sau khi Arkady đuổi được bọn họ về, anh rót nửa ly vodka và tự nâng ly chúc mừng. Vì một người Nga mới.
2
Evgeny Lysenko, thường gọi là Zhenya, mười một tuổi, trông hệt một lão già đang đứng chờ ở bến xe buýt. Thằng bé mặc áo khoác len kẻ sọc dày với chiếc mũ cùng màu đã mặc từ khi được cảnh sát đưa tới trại trẻ mồ côi mùa đông năm ngoái. Hai ống tay áo đã bị ngắn, nhưng mỗi khi ra ngoài với Arkady, thằng bé đều mặc đúng bộ đồ đó, mang theo bộ cờ vua và những cuốn truyện cổ tích được bỏ lại cùng nó. Nếu Zhenya không được ra ngoài mỗi tuần, có thể nó đã chạy trốn. Làm thế nào thằng bé lại trở thành nghĩa vụ của Arkady là một điều bí ẩn. Lúc đầu, Arkady đã hộ tống một người bạn có thiện chí, một phóng viên truyền hình và là một phụ nữ tốt bụng tìm lấy một đứa trẻ để nuôi nấng và cứu giúp. Arkady đi cùng cô ta. Rồi lần sau khi anh tới trại trẻ thì chuông điện thoại reo vang. Cô phóng viên gọi điện xin lỗi vì mình sẽ không tới, một buổi chiều với Zhenya là quá đủ với cô rồi. Lúc đó Zhenya gần như đã vào trong xe và Arkady chỉ có hai lựa chọn, hoặc ngồi sau vô lăng và lái xe về, hoặc tự mình dẫn thằng bé đi.
Dù sao, lần này cũng lại là Zhenya, mặc quần áo mùa đông giữa ngày hè ấm áp, ôm chặt những cuốn truyện cổ tích, trong khi Olga Andreevna, giám đốc trại trẻ chăm chú nhìn anh. “Hãy mang lại niềm vui cho Zhenya,” cô ta nói với Arkady. “Hôm nay là Chủ nhật. Những đứa trẻ khác đều có người đến thăm hoặc kiểu như thế. Zhenya nên có hoạt động gì đó. Hãy kể chuyện cười cho nó. Hãy là một người hài hước. Giúp thằng bé cười.”
“Tôi sẽ cố nghĩ ra vài câu chuyện cười.” Arkady nhoài sang mở cửa xe cho Zhenya.
“Tới rạp chiếu phim, hoặc có thể đá bóng qua lại. Thằng bé cần ra ngoài nhiều hơn để hòa nhập với xã hội. Chúng tôi có những đánh giá về tâm lý, chế độ ăn uống thích hợp, các lớp học âm nhạc, một trường học bình thường gần đây. Hầu hết trẻ em đều phát triển lành mạnh. Ngoại trừ Zhenya.”
Quang cảnh của trại trẻ rất đẹp mắt, một căn nhà hai tầng vẽ các hình như chim, bướm, cầu vồng và mặt trời, giống bức vẽ của một đứa trẻ, cùng một vườn rau rất hữu dụng, viền quanh bởi hàng cúc vạn thọ. Trại trẻ là một nơi kiểu mẫu, một ốc đảo trong thành phố nơi có hàng ngàn đứa trẻ vô gia cư, phải làm công việc đẩy xe ngoài chợ hoặc thậm chí còn tệ hơn. Arkady thấy một vòng tròn các bé gái đang chơi trò phục vụ trà cho búp bê trong sân. Chúng có vẻ rất hạnh phúc.
Zhenya trèo vào xe, cài dây an toàn, ôm cuốn truyện cùng bộ cờ chặt hơn nữa. Nó ngồi thẳng lưng, nhìn chằm chằm về phía trước như một người lính. “Vậy, anh sẽ làm gì?” Olga Andreevna hỏi Arkady.
“Chà, chúng tôi là những người vui vẻ, chúng tôi có khả năng làm bất cứ điều gì.”
“Thằng bé có nói chuyện với anh không?”
“Nó chỉ đọc cuốn sách của nó.”
“Nhưng nó có nói chuyện không?”
“Không.”
“Vậy hai người giao tiếp bằng cách nào?”
“Thành thật mà nói, tôi không biết.”
Arkady có một con xe Zhiguli* 9, một con dê già, không ấn tượng nhưng phù hợp với đường xá ở Nga. Họ chạy xe dọc bờ sông, vượt qua vài ngư dân đang quăng lưới đánh bắt đám thủy sinh đô thị. Xét đến đám mây đen do khí
thải của xe cộ và màu xanh lờ của sông Matxcova thì có vẻ ngư dân vẫn còn rất lạc quan. Một chiếc BMW lao vút qua, theo sau là nhóm bảo vệ trên chiếc SUV. Thực tế, thành phố đã an toàn hơn so với vài năm trước nên những chiếc xe hộ tống phần lớn chỉ để tạo uy thế, kiểu như tùy tùng của vua chúa. Những doanh nhân quyền lực nhất đã tiêu diệt hết đối thủ và đám mafia dường như đã giữ đúng thỏa thuận ngừng bắn. Tất nhiên, một người khôn ngoan nên có đầy đủ các biện pháp phòng thân. Chẳng hạn, các nhà hàng có cả lực lượng bảo vệ riêng và một đại diện của mafia địa phương canh giữ trước cửa.
Matxcova đã đạt được trạng thái cân bằng, và như thế càng khiến vụ tự tử của Ivanov trở nên khó hiểu hơn.
Trong lúc đó, Zhenya đọc bằng giọng mũi câu truyện yêu thích nhất của mình, về một bé gái bị bố bỏ rơi và bị dì ghẻ đưa vào rừng sâu cho mụ phù thủy Baba Yaga ăn thịt. Baba Yaga có cái mũi màu xanh dài ngoằng, hàm răng bằng thép và sống trong một túp lều dựng trên hai cái chân gà. Hàng rào bao quanh túp lều được trang trí bằng những hộp sọ, và nếu có người trốn thoát, Baba Yaga sẽ truy đuổi họ bằng cách bay trên bộ chày cối có phép thuật. Tuy nhiên, nhờ lòng tốt và gan dạ, cô bé đã trốn thoát, tìm được đường trở về nhà, sau đó người bố đã đuổi mụ dì ghẻ độc ác đó đi. Khi Zhenya đọc xong, thằng bé liếc nhanh sang Arkady và ổn định lại chỗ ngồi, một nghi lễ được hoàn tất.
Trên đỉnh đồi Sparrow, chiếc xe ngoặt vào quang cảnh của Đại học Matxcova, một trong những tòa nhà chọc trời thời Stalin, được xây nên bằng sức lao động của đám tù nhân với lòng ham học cao hơn và đáng giá bằng mạng sống của những kẻ được cho là bị chôn vùi trong đó. Chà, đó là câu chuyện cổ tích mà anh có thể giữ lại cho riêng mình, Arkady thầm nghĩ.
“Tuần này, cháu có chuyện gì hay ho không?” Arkady hỏi.
Zhenya không buồn mở miệng. Tuy nhiên, Arkady vẫn cố mỉm cười. Suy cho cùng, rất nhiều đứa bé ở trại trẻ là nạn nhân của tính cẩu thả và sự lạm dụng. Người ta không thể trông mong chúng sẽ trở thành những tia nắng rạng rỡ được. Vài đứa được nhận làm con nuôi. Zhenya, với cái mũi nhọn và đã thề giữ im lặng, không phải là ứng viên sáng giá.
Arkady sẽ càng thất vọng hơn nếu anh tự đánh giá mình như là một đứa trẻ ngoan. Theo anh nhớ thì anh vốn là một đứa bé gầy gò, khó ưa, thiếu hụt các kỹ năng xã hội và bị cô lập bởi hào quang của sự sợ hãi quanh bố anh, một chỉ huy quân đội luôn sẵn sàng làm bẽ mặt ngay cả người lớn, chứ đừng nói đến một cậu bé. Mỗi khi trở về nhà, chỉ cần dựa vào bầu không khí im lìm là Arkady có thể biết bố anh có nhà hay không. Cả tiền sảnh như đang nín thở. Arkady nhờ đó mà có chút kinh nghiệm quan sát. Bố anh chưa bao giờ đưa anh ra ngoài. Thi thoảng, Sergeant Belov, phụ tá của ông sẽ đi cùng Arkady tới công viên. Tuyệt nhất là vào mùa đông, khi viên trung sĩ cuốc bộ và thở phì phò như một con ngựa, kéo Arkady trên chiếc xe trượt tuyết. Nếu không, Arkady sẽ đi bộ cùng mẹ, bà thường có xu hướng bước thẳng về trước, một phụ nữ mảnh mai với bím tóc đen dày, luôn trầm tư trong thế giới riêng của mình.
Zhenya luôn đòi tới công viên Gorky. Đầu tiên, ngay sau khi mua vé và bước vào khu vui chơi, Arkady chỉ tránh sang bên, còn Zhenya thì một mình chậm chạp dạo bước qua quảng trường có đài phun nước để săm soi đám đông. Từng chùm quả dương trắng muốt bập bềnh trên mặt nước và được vun gọn lại xung quanh các quầy hàng. Đám người đi tuần tìm kiếm mẩu bánh sandwich. Công viên Gorky đã chính thức trở thành công viên văn hóa, với điểm nhấn là hoạt động biểu diễn âm nhạc ngoài trời và dạo chơi giữa các hàng cây. Theo thời gian, các ban nhạc rock đã khẳng định được tên tuổi và các cuộc dạo chơi có thêm trò cưỡi ngựa trở nên rất thú vị. Như mọi khi,
Zhenya lại thất vọng trở về từ đài phun nước.
“Chúng ta đi chơi bắn súng nhé,” Arkady nói. Các cậu bé thường reo hò mỗi khi nghe nhắc đến trò này.
Năm rúp* được bắn năm phát súng hơi vào hàng vỏ lon. Arkady nhớ khi mục tiêu là các máy bay ném bom Mỹ treo lủng lẳng trên dây, có thứ gì đấy sáng rực lao vút qua. Từ chỗ đó, họ bước vào trong ngôi nhà vui vẻ, dọc theo lối đi bộ tối tăm với tiếng rên rỉ mệt mỏi cùng đàn dơi đung đưa. Tiếp theo, một tàu con thoi thực sự quay quanh trái đất và chiếc ghế lắc từ bên này sang bên kia tạo cảm giác xóc nảy, gập ghềnh.
Arkady hỏi, “Cậu nghĩ sao, thuyền trưởng? Chúng ta có nên quay về trái đất không?”
Zhenya đứng dậy khỏi ghế và bước đi, không thèm ngoảnh lại. Trông anh hơi có vẻ như đang đi theo một người bị mộng du. Tuy Arkady vẫn đi cùng mà thực ra lại hoàn toàn vô hình, còn Zhenya bước như thể đang đi trên đường ray xe lửa. Họ dừng lại, như tất cả những lần khác, để xem nhảy bungee*. Hầu hết người nhảy là đám thanh thiếu niên, lần lượt nhảy ra khỏi bục, lao vun vút, la hét vì sợ hãi, chỉ bị sợi dây đàn hồi giật lại vào giây phút ngay trước khi chạm đất. Các cô gái trông còn ấn tượng hơn, mái tóc dài lượn sóng lúc họ lao xuống và bay phần phật lúc cú rơi tới điểm dừng. Arkady không thể không nghĩ đến Ivanov và sự khác biệt giữa niềm vui của cảm giác gần chết với cái chết thực sự, điểm khác biệt sâu sắc giữa tiếng cười khúc khích khi bạn nảy lên với sợi dây buộc ở chân và nằm bất động trên vỉa hè. Về phần mình, Zhenya dường như không quan tâm dù người nhảy sẽ chết hay sống sót. Nó luôn đứng ở một vị trí, kín đáo liếc nhìn xung quanh. Rồi bỏ ra chỗ tàu lượn.
Thằng bé lần lượt chơi từng trò theo đúng thứ tự: tàu lượn, đạp vịt quanh cái hồ nhân tạo nhỏ và vòng quay khổng lồ. Nó và Arkady ngồi xuống, cùng
đạp như mọi lần, trong khi đám thiên nga trắng lẫn thiên nga đen lần lượt dạo chơi bên cạnh. Mặc dù là Chủ nhật nhưng công viên vẫn vắng ngắt. Những người trượt patanh với bước trượt dài, nhẹ nhàng. Tiếng hát của ban nhạc Beatles văng vẳng từ loa phóng thanh. Bài ‘Yesterday’. Trông Zhenya có vẻ nóng nực trong chiếc áo khoác và mũ len, nhưng Arkady biết tốt nhất không nên khuyên thằng bé cởi ra.
Hình ảnh phản chiếu các cành bạch dương màu bạc dưới mặt nước làm Arkady bật ra câu hỏi, “Cháu đã từng đến đây vào mùa đông chưa?” Zhenya hẳn là bị điếc nặng.
“Cháu có biết trượt băng không?” Arkady lại hỏi.
Zhenya nhìn chằm chằm phía trước.
“Mùa đông trượt băng ở đây rất thú vị,” Arkady nói. “Có lẽ chúng ta nên thử.”
Zhenya không chớp mắt.
Arkady tiếp tục, “Chú rất xin lỗi vì không biết dỗ dành. Chú chưa bao giờ giỏi việc kể chuyện cười. Chú không thể nhớ được chúng. Trong thời kỳ Xô Viết, khi mọi thứ đều vô vọng, chúng ta có rất nhiều câu chuyện cười hay ho.”
Bởi vì trại trẻ cho Zhenya thức ăn bổ dưỡng nên Arkady mua cho thằng bé những thanh kẹo và nước có ga. Họ ngồi ăn ở chiếc bàn ngoài trời trong lúc chơi cờ với những quân cờ cũ mòn vì sử dụng nhiều và bàn cờ được dán băng dính chằng chịt. Zhenya còn không buồn mở miệng nói, “Chiếu tướng!.” Nó chỉ đơn giản hất đổ con vua của Arkady và lập tức xếp lại bàn cờ.
“Cháu đã thử chơi đá bóng chưa?” Arkady hỏi. “Sưu tầm tem? Cháu có vợt bắt bướm không?”
Zhenya tập trung vào bàn cờ. Giám đốc trại trẻ đã nói với Arkady rằng hằng đêm Zhenya đều thui thủi một mình nghiền ngẫm các ván cờ cho đến
khi có lệnh tắt đèn.
Arkady lại nói, “Có thể cháu thấy thắc mắc tại sao một điều tra viên cấp cao như chú lại rảnh rỗi vào một ngày tuyệt vời như hôm nay. Lý do là vì ngài công tố viên, sếp của chú, cảm thấy chú cần phải thuyên chuyển vị trí khác. Nói thẳng ra, chú cần thuyên chuyển vị trí khác vì chú không biết những gì mình chứng kiến là một vụ tự tử. Một điều tra viên không biết đâu là một vụ tự tử khi chứng kiến nó thì anh ta cần bị thuyên chuyển.”
Đến lượt Arkady đi cờ, anh chuyển quân mã đến một vị trí vô dụng bên rìa bàn cờ khiến Zhenya ngẩng đầu lên, như thể cho đó là một cái bẫy. Đừng lo lắng, Arkady thầm nghĩ.
“Cháu có biết cái tên Pavel Ilyich Ivanov không?” Arkady hỏi. “Không à? Thế còn Pasha Ivanov thì sao? Cái tên này nghe thú vị hơn. Pavel là cái tên đã lỗi thời, cứng nhắc. Pasha nghe có vẻ Trung Đông, với khăn xếp và một thanh kiếm. Hay hơn Pavel nhiều.”
Zhenya đứng dậy để nhìn bàn cờ ở góc độ khác. Arkady có thể đầu hàng, nhưng anh biết Zhenya sẽ thích thú tận hưởng cảm giác sung sướng được nghiền nát đối thủ.
Arkady nói, “Rất kỳ lạ, nếu cháu tìm hiểu ai đó đủ lâu, nếu cháu đủ nỗ lực để hiểu ông ta, ông ta sẽ trở thành một phần trong cuộc sống của cháu. Không phải như một người bạn, mà theo kiểu một người quen biết. Nói cách khác, cái bóng đã trở nên gần gũi, đúng không? Chú cho rằng mình đang bắt đầu hiểu Pasha và rồi chú tìm thấy muối.” Arkady ngước lên tìm kiếm một phản ứng nhưng vô ích. “Và hẳn là cháu sẽ bị bất ngờ. Có rất nhiều muối trong căn hộ đó. Đấy không phải là hành động phạm tội, mặc dù có thể là dấu hiệu. Vài người nói đó là điều hoàn toàn bình thường ở một người sắp giã từ cuộc sống, một tủ quần áo đầy muối. Có thể họ đúng. Hoặc không. Bọn chú không điều tra các vụ tự tử, nhưng làm thế nào cháu biết đó là tự tử nếu không điều tra?
Đó chính là câu hỏi.”
Zhenya hất đổ con mã của Arkady, uy hiếp con tượng của anh. Arkady di chuyển con vua. Lập tức con tượng biến mất trong nắm tay của Zhenya và Arkady lại hiến thêm một con chiên nữa.
“Nhưng ngài công tố viên không muốn rắc rối, nhất là từ một điều tra viên cứng đầu, người được giữ lại từ thời Xô Viết, một kẻ đang thất thế. Vài người chớp được thời cơ từ một giai đoạn lịch sử để tiếp tục đi lên, còn những kẻ khác thì tuột dốc. Chú đã được khuyên hãy tận hưởng sự nghỉ ngơi trong khi các vấn đề được giải quyết, và đó là lý do tại sao chú có thể dành cả ngày với cháu.” Trong lúc đó, Zhenya dùng sức mạnh khủng khiếp của con xe chạy dọc theo chiều dài bàn cờ, lật đổ con vua và gạt tất cả quân cờ vào hộp. Anh không nghe thấy thằng bé nói lấy nửa lời.
Hoạt động thường lệ cuối cùng là lên vòng quay khổng lồ Ferris, thứ mà sẽ bắt đầu chuyển động khi Arkady cùng Zhenya chìa vé ra, trèo vào ca bin trần và cài chốt an toàn. Một vòng quay hoàn chỉnh của bánh xe cao năm mươi mét chỉ mất năm phút. Khi ca bin từ từ lên cao, họ sẽ nhìn thấy khu vui chơi ngoài trời trong công viên đầu tiên, rồi đến đàn ngỗng bay lên từ cái hồ nào đó, những người trượt patanh lướt trên đường mòn, và cuối cùng, ở điểm cao nhất, qua những chùm bông trắng muốt của quả bạch dương, toàn cảnh bức tranh ban ngày xám xịt của Matxcova hiện ra, ánh đèn vàng thi thoảng lại lóe lên từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, tiếng ồn ào xa xa của giao thông lẫn các công trình xây dựng. Trong lúc ấy, Zhenya sẽ rướn cổ nhìn về một phía, rồi lại phía khác, giống như nó có thể bao quát toàn bộ dân chúng trong thành phố.
Arkady đã cố gắng tìm kiếm bố của Zhenya, mặc dù thằng bé không chịu nói tên ông ta hay giúp họa sĩ vẽ phác thảo chân dung. Tuy nhiên, Arkady đã tới phòng cư trú ở Matxcova, tra cứu thông tin về ngày sinh của những người
mang họ Lysenko. Phòng trường hợp, bố cậu bé là kẻ nghiện rượu, Arkady cũng hỏi thăm các trung tâm cai nghiện rượu. Vì Zhenya chơi cờ vua quá giỏi, nên Arkady tới cả các câu lạc bộ chơi cờ. Và bởi Zhenya thường tỏ ra sợ sệt các nhà chức trách, Arkady cũng tìm hiểu báo cáo về các vụ bắt bớ. Có sáu trường hợp khả nghi, nhưng tất cả đều chứng minh được rằng mình đang phục vụ dài hạn trong trường dòng, Chechnya hay ở trong tù.
Lúc Zhenya và Arkady lên tới đỉnh thì vòng quay dừng lại. Người phục vụ ở dưới đất la hét gì đó và vẫy tay. Chẳng có gì đáng lo ngại. Zhenya rất sung sướng vì có thêm thời gian quan sát thành phố, trong khi Arkady suy ngẫm về lợi ích của việc nghỉ hưu sớm: cơ hội học thêm ngoại ngữ mới, những điệu nhảy mới, du lịch tới những vùng đất đẹp kỳ lạ. Lòng tin của anh với ngài công tố viên đã sụp đổ hoàn toàn. Một khi bạn đã lên tới đỉnh của vòng quay cuộc đời, thì có thể nói, mọi thứ khác đều trở nên kém quan trọng hơn. Và ngay lúc này, anh đang bị đình chỉ theo đúng nghĩa đen. Những chùm quả bạch dương dập dờn như bọt sóng trên mặt sông.
Bánh xe tiếp tục quay và Arkady mỉm cười để chứng tỏ sự quan tâm của mình vẫn chưa vơi đi. “May mắn hả? Cháu biết không, ở Ireland, có một loại tiểu yêu tinh chỉ có một chân. Bọn chúng rất tinh nghịch, thích giấu những đồ vật như chìa khóa và tất, cháu chỉ có nhìn thấy chúng qua khóe mắt. Nếu cháu nhìn thẳng, chúng sẽ biến mất. Có lẽ đó là cách tốt nhất để nhìn thấu một số người.”
Zhenya chẳng đáp lại lấy một lời, mà bản thân việc này cũng là một tuyên bố, rằng Arkady chỉ đơn giản là phương tiện vận tải, một phương thức để đến đích. Khi chiếc ca bin chạm đất, thằng bé bước ra ngoài với đôi mắt ráo hoảnh, sẵn sàng trở lại trại trẻ và Arkady để mặc nó đi trước.
Thói quen, Arkady thầm nghĩ, không mong đợi gì thêm. Rõ ràng Zhenya đã từng đến công viên này cùng bố nó, đến bây giờ, Arkady đã biết được
chính xác một ngày của bố con họ trôi qua như thế nào. Trong suy nghĩ của một đứa trẻ, nếu bố nó đã từng đến đây thì có thể ông ta sẽ trở lại, và thậm chí điều kỳ diệu có thể sẽ xảy ra nếu lặp lại các hoạt động của ngày hôm đó. Zhenya là người lính bé nhỏ tuyệt vọng, cố bảo vệ thành trì cuối cùng trong trí nhớ và mỗi lời nó nói với Arkady đều sẽ làm mòn đi ký ức về cha nó. Một nụ cười còn tồi tệ hơn, như kiểu chuyện trò với kẻ thù vậy.
Trên đường ra khỏi công viên, điện thoại của Arkady reo vang. Là công tố viên Zurin.
“Renko, tối qua cậu đã nói gì với Hoffman?”
“Về chuyện gì?”
“Cậu thừa biết là chuyện gì. Cậu đang ở đâu?”
“Công viên Văn hóa và Vui chơi*. Tôi đang thư giãn.” Arkady quan sát Zhenya tranh thủ cơ hội để vòng lại đài phun nước lần nữa. “Thư giãn à?”
“Tôi thích nghĩ thế.”
“Bởi vì đêm qua cậu ngủ muộn, quá nhiều… suy đoán hả? Hoffman muốn gặp cậu.”
“Gã người Mỹ à? Tại sao?”
“Cậu đã nói gì đó với anh ta tối qua. Chuyện gì đó không đến tai tôi bởi vì tôi chẳng thấy bất cứ điều gì cậu nói có nghĩa cả. Tôi chưa bao giờ thấy trường hợp tự tử nào rõ ràng hơn.”
“Vậy là ông chính thức khẳng định Ivanov tự tử.”
“Tại sao không?”
Arkady không trực tiếp trả lời. “Nếu ông cảm thấy hài lòng thì tôi không thấy còn việc gì cho mình làm nữa.”
“Đừng rụt rè, Renko. Cậu là người đã buộc nút thắt này, vậy chính cậu phải là người cởi nó ra. Hoffman muốn cậu làm rõ những nghi vấn. Tôi
chẳng hiểu tại sao anh ta không chỉ đơn giản là trở về nhà.” “Theo tôi nhớ thì anh ta là kẻ chạy trốn khỏi nước Mỹ.”
“A, hãy tỏ ra lịch sự với anh ta và giải quyết mọi chuyện, anh ta muốn có câu trả lời cho vài câu hỏi. Ivanov là người Do thái đúng không? Ý tôi là mẹ ông ta cơ.”
“Thì sao?”
“Tôi chỉ nói rằng ông ta và Hoffman là một cặp.” Arkady chờ đợi Zurin nói thêm nhưng ông ta lại cho rằng thế là đủ rồi.
“Tôi nhận lệnh từ ông, công tố viên Zurin. Mệnh lệnh của ông là gì?” Arkady muốn làm rõ chuyện này.
“Mấy giờ rồi?”
“Bốn giờ chiều.”
“Trước tiên, đưa Hoffman ra khỏi căn hộ đó. Rồi quay lại đấy vào sáng mai.”
“Tại sao không phải là tối nay?”
“Sáng mai.”
“Nếu tôi đưa Hoffman rời khỏi căn hộ, làm thế nào tôi quay lại đó được?” “Người điều hành thang máy biết cách. Anh ta là vệ sĩ cũ. Đáng tin cậy.” “Và ông muốn tôi làm gì?”
“Bất cứ điều gì Hoffman yêu cầu. Chỉ cần giải quyết vấn đề này. Không phức tạp, không kéo dài, nhưng phải xử lý được.”
“Thế có nghĩa là bỏ qua hay giải quyết?”
“Cậu hiểu ý tôi là gì.”
“Tôi không biết, tôi đang bị vướng bận ở đây.” Zhenya vừa kết thúc một vòng quanh đài phun nước.
“Rời khỏi đó ngay đi.”
“Tôi sẽ cần tới một thám tử. Tôi nên có cộng sự, và tôi chọn Victor
Fedorov.”
“Sao lại là cậu ta? Cậu ta ghét doanh nhân.”
“Có lẽ anh ta sẽ không dễ bị mua chuộc.”
“Vậy đi đi.”
“Tôi sẽ được nhận lại tài liệu chứ?”
“Không.”
Zurin cúp máy. Viên công tố có vẻ cáu kỉnh hơn bình thường, nhưng mọi chuyện đã được xem xét, cuộc trò chuyện dễ chịu hơn Arkady ao ước. Bobby Hoffman mở cửa cho Arkady và Victor vào trong căn hộ của Ivanov, quay lại sô pha và ngã xuống phần ghế đã lún xuống từ trước đó. Bất chấp có điều hòa, cả căn phòng vẫn đượm mùi đau thương của một đêm thức trắng cầu nguyện. Hoffman tóc tai bù xù, hai mắt đỏ quạch, nước mắt chảy dài trên gò má tua tủa râu hung hung đỏ. Anh ta ăn mặc rất lôi thôi, trông như quần áo chỉ được quấn quanh người, dù chiếc áo vét Pasha cho được gấp gọn trên bàn cà phê ngay cạnh một cái ly và hai chai rượu mạnh trống rỗng. Anh ta nói, “Tôi không có mã khóa nên ở lại đây luôn.”
“Tại sao?” Arkady hỏi.
“Chỉ để sắp xếp lại mọi việc.”
“Vui lòng nói rõ hơn.”
Hoffman nghiêng đầu và mỉm cười. “Renko, với kết quả điều tra của anh cho tới lúc này, tôi muốn anh biết rằng anh sẽ không thể tóm được Pasha hay tôi trong vòng một ngàn năm nữa. Ủy ban chứng khoán và giao dịch Mỹ chưa từng lưu giữ thứ gì về tôi.”
“Anh chạy trốn khỏi đất nước mình.”
“Anh có biết tôi luôn nói gì với những người hay phàn nàn không? ‘Đọc phần chữ in nhỏ* đi, đồ ngu!’”
“Phần chữ in nhỏ là phần quan trọng à?”
“Vì thế nó mới được in nhỏ.”
“Kiểu như, ‘Anh có thể là người đàn ông giàu có nhất thế giới, sống trong một cung điện cùng người đàn bà xinh đẹp, nhưng rồi một ngày anh rơi ra ngoài cửa sổ từ tầng mười’ ấy hả?” Arkady nói. “Phần in nhỏ là vậy hả?”
“Phải.” Hoffman thở dài và đột nhiên Arkady nhận ra, với tất cả lòng can đảm của gã người Mỹ này, không có sự bảo vệ của Pasha, Bobby Hoffman chỉ là một con ốc không vỏ, một con ốc Mỹ yếu ớt dưới đáy biển nước Nga.
“Tại sao anh không đơn giản chỉ rời khỏi Matxcova?” Arkady hỏi Hoffman. “Lấy một triệu đô la từ công ty và bỏ đi. Định cư ở đảo Síp hoặc Monaco.”
“Đó chính là đề nghị của Timofeyev, ngoại trừ con số ông ta đưa ra là mười triệu đô la.”
“Quá nhiều.”
“Xem nhé, tài khoản ngân hàng mà Pasha và tôi mở ở nước ngoài lên tới một tỷ đô la. Tất nhiên, không phải tất cả đều là của chúng tôi, nhưng cũng là rất nhiều.”
Một tỷ đô? Arkady cố gắng điền thêm vài số 0. “Tôi thừa nhận mình đã sai lầm.”
Victor lấy một cái ghế và đặt chiếc cặp xuống. Anh ta liếc quanh căn hộ với ánh mắt lạnh lẽo như một Bolshevik* trong Cung điện Mùa đông. Victor lôi từ trong cặp ra chiếc gạt tàn được làm từ vỏ lon nước uống có ga, dù chiếc áo len thủng lỗ chỗ lại cho thấy anh ta thường dụi thẳng điếu thuốc vào áo. Đồng thời anh ta cũng có đôi tay hết sức linh hoạt, cho những chiếc ly uống rượu tối qua vào từng chiếc túi nhựa đề tên Zurin, Timofeyev và Rina Shevchenko để phòng lúc cần đến.
Hoffman ngắm nghía những chai rượu rỗng. “Ở lại đây giống như xem một cuốn phim vậy, từng cảnh, từng cảnh một. Pasha nhảy khỏi cửa sổ, bị
kéo trở lại và ném ra, hết lần này đến lần khác. Vậy Renko, anh là chuyên gia, có phải Pasha bị giết không?”
“Tôi không biết.”
“Cảm ơn rất nhiều, rất hữu ích đấy. Tối qua, dường như anh có vài nghi ngờ.”
“Tôi nghĩ hiện trường cần được điều tra thêm.”
“Bởi vì ngay khi anh bắt đầu lục lọi, anh đã phát hiện ra một tủ quần áo chứa đầy muối chết tiệt. Chuyện đó có ý nghĩa gì?”
“Tôi hy vọng anh có thể cho tôi biết. Trước đây anh chưa bao giờ thấy Ivanov luôn dính chặt với muối à?”
“Phải. Tất cả những gì tôi biết là mọi chuyện không đơn giản như công tố viên và Timofeyev nói. Anh đã đúng về những thay đổi của Pasha. Ông ấy không cho chúng tôi vào đây. Hàng loạt những hành động khác thường. Ông ấy chỉ mặc quần áo một lần rồi vứt đi. Không giống kiểu cho tôi chiếc áo vét. Ông ấy ném chúng vào thùng rác. Lái xe vòng vòng, rồi đột nhiên thay đổi lộ trình, giống như đang chạy trốn.”
“Giống anh,” Victor lên tiếng.
“Chỉ khác là ông ta không đi xa,” Arkady nói. “Ông ta vẫn ở Matxcova.” Hoffman nói, “Làm sao ông ấy có thể đi được? Pasha thường nói, ‘Kinh doanh là việc cá nhân. Anh tỏ ra sợ hãi và anh sẽ chết’. Dù sao thì, anh sẽ cần thêm thời gian để điều tra.
Được rồi, tôi sẽ trả tiền cho anh.”
“Anh làm bằng cách nào?”
“Gọi tôi là Bobby.”
“Bằng cách nào anh làm được điều này, Bobby?”
“NoviRus có các đối tác nước ngoài. Tôi đã nói với Timofeyev rằng trừ khi anh điều tra rõ ràng, nếu không tôi sẽ nói cho họ biết nguyên nhân cái
chết của Pasha vẫn chưa được sáng tỏ. Đối tác nước ngoài luôn lo lắng về tình trạng bạo lực của Nga. Tôi luôn trấn an họ rằng đó chỉ là phóng đại.” “Tất nhiên.”
“Không chuyện gì có thể dừng một dự án lớn lại, kể cả ngày Tận thế cũng chẳng thể dừng hợp đồng mua bán dầu, nhưng tôi có thể trì hoãn một, hai ngày cho đến khi công ty được xác nhận là có tình trạng tài chính tốt.”
“Trung sĩ và tôi sẽ là bác sĩ giám định tình trạng sức khỏe của một tỷ đô sao? Tôi lấy làm tự hào đấy.”
“Tôi sẽ trả anh khoản thưởng lần đầu là một ngàn đô la. Không đủ à? Mười ngàn cho cả hai người.”
“Không, cảm ơn.”
“Anh không thích tiền hả? Anh là loại người nào thế, cộng sản à?” Nụ cười của Hoffman nửa như bị xúc phạm, nửa lại lấy lòng.
Arkady nói, “Vấn đề ở chỗ tôi chẳng tin anh. Người Mỹ sẽ không giữ lời trong cả hai trường hợp, hoặc với tội phạm như anh, hoặc với điều tra viên như tôi.”
“Renko, tôi hứa danh dự với anh.”
Arkady bước tới cửa sổ mà Ivanov đã nhảy xuống tối hôm trước. Ai đó đã gắn tấm biển lên phần kính trượt bị vỡ, che hết mọi dấu vết. “NoviRus có đội an ninh riêng, bao gồm cả các cựu thám tử. Hãy để họ đi điều tra, dù sao họ cũng được trả lương.”
“Trả lương cho họ để bảo vệ công ty,” Hoffman đáp. “Ngày hôm qua họ có nghĩa vụ bảo vệ Pasha, còn hôm nay là bảo vệ Timofeyev. Dù sao thì đại tá Ozhogin chính là người phụ trách và ông ta ghét tôi.”
“Nếu Ozhogin không ưa anh thì tôi thành thực khuyên anh nên bắt chuyến bay kế tiếp. Tôi chắc chắn tình trạng bạo lực ở Nga bị phóng đại, nhưng chẳng ai muốn anh sống ở Matxcova cả.” Sự không hài lòng của Ozhogin với
bất cứ ai chính là lời ám chỉ anh ta nên đi du lịch nước ngoài, Arkady thầm nghĩ.
“Chỉ sau khi anh đưa ra vài câu hỏi. Anh đã săn đuổi Pasha và tôi nhiều tháng qua. Giờ anh có thể săn đuổi ai đó khác.”
“Không đơn giản chút nào, như anh đã nói.”
“Vài câu hỏi chết tiệt là tất cả những gì tôi đòi hỏi.” Arkady nhường chỗ cho Victor, lúc này đã mở cuốn sổ tay lấy từ trong cặp ra và nói, “Tôi gọi anh là Bobby được chứ?.” Victor phát âm cái tên đó giống như đang ngậm viên kẹo cứng. “Bobby, sẽ có nhiều hơn một câu hỏi đấy. Chúng ta sẽ phải nói chuyện với bất kỳ ai nhìn thấy Pasha Ivanov tối qua, lái xe cùng vệ sĩ của ông ta, nhân viên tòa nhà. Đồng thời xem lại các đoạn băng nữa.”
“Ozhogin sẽ không thích đâu.”
Arkady nhún vai. “Nếu Ivanov không tự tử, tức là có lỗ hổng về an ninh.” Victor nói, “Để hoàn thành công việc, chúng tôi cũng cần gặp gỡ bạn bè của ông ta.”
“Họ không sống ở đây.”
“Họ biết Ivanov. Bạn bè và cả những người phụ nữ mà ông ta có quan hệ, như cô gái đã ở đây tối qua.”
“Rina là một đứa bé tuyệt vời. Rất có óc thẩm mỹ.” Victor ném cho Arkady cái nhìn đầy ngụ ý. Viên thám tử này đã từng sáng tạo ra lý thuyết gọi là người tình của bà góa, để xác minh nghi phạm giết người trên cơ sở những người đầu tiên có mặt an ủi người đang đau buồn vì bị mất vợ hoặc chồng. “Tất nhiên, cả kẻ thù nữa.”
“Mọi người đều có kẻ thù. Đến George Washington cũng có nữa là.” “Không nhiều như Pasha,” Arkady lên tiếng. “Đó là những nỗ lực đầu tiên trong cuộc đời Pasha. Chúng tôi phải điều tra xem có những ai liên quan và giờ họ đang sống ở đâu. Vì thế, đó không chỉ là vấn đề có thể giải quyết trong
một vài ngày hay một vài câu hỏi.”
Victor ngồi đè lên một lon nước có ga. “Điều mà anh chàng điều tra viên này muốn biết là, nếu chúng tôi tiến hành, anh có định chạy trốn và bỏ mặc chúng tôi bị tóm cổ một cách bất thình lình không?”
“Nếu thế, viên thám tử đề nghị anh nên chạy trốn ngay lúc này,” Arkady nói tiếp. “Trước khi chúng tôi bắt đầu.”
Bobby ngồi im trên sô pha. “Tôi sẽ ở ngay đây.”
“Nếu chúng tôi bắt đầu, đây có thể là hiện trường vụ án và điều trước tiên là phải đưa anh ra khỏi đây.”
“Chúng ta cần nói chuyện,” Victor nói với Arkady.
Hai người lui ra lối đi trải thảm màu trắng ở hành lang. Victor châm một điếu thuốc và rít một hơi thật sâu như đang hít oxy vậy.
“Tôi sắp chết rồi. Tôi bị bệnh ở tim, phổi và gan. Vấn đề là cái chết đang đến quá chậm. Lương hưu của tôi từng là điều có ý nghĩa. Nhưng bây giờ tôi ghét phải làm việc đến khi họ nhét tôi vào quan tài. Ngày nào đó, tôi sẽ ra đi. Tôi nghĩ mình nghe thấy được tiếng chuông nhà thờ. Nó ở ngay trong ngực tôi. Giá rượu vodka và thuốc lá đều tăng nhanh. Tôi không quan tâm đến ăn uống nữa. Có tận mười lăm nhãn hiệu mỳ ống của Ý, nhưng ai có tiền mua chứ? Vì thế liệu tôi có thực sự muốn dành những ngày cuối đời để làm vệ sĩ cho một tên khốn nạn như Bobby Hoffman không? Bởi vì đó là tất cả những gì gã ta muốn ở chúng ta, vệ sĩ. Và gã ta sẽ biến mất, ngay khi rút được nhiều tiền hơn từ Timofeyev. Gã ta sẽ chạy trốn đúng lúc chúng ta cần gã nhất.”
“Anh ta đã có thể chạy trốn rồi.”
“Gã ta chỉ đang cố nâng giá lên thôi.”
“Anh đã nói có vài dấu vết trên mặt kính. Ít nhất, chúng ta có thể kiểm tra lần nữa các dấu vết trên gậy trượt tuyết và bất cứ thứ gì sót lại trên khung cửa sổ.”
“Arkady, những người này rất khác biệt. Mỗi người chỉ sống cho bản thân mình. Ivanov đã chết, phải không? Một sự giải thoát.”
“Vậy là anh không cho đó là vụ tự tử?” Arkady hỏi.
“Ai mà biết? Ai thèm quan tâm? Lý do thực sự người Nga thường giết người là vì phụ nữ hoặc quyền lực. Còn bây giờ là vì tiền.” “Chà, nhưng đồng rúp không thực sự được coi là tiền,” Arkady nói. “Song chúng ta sẽ không nhận vụ này, đúng chứ?” Bobby Hoffman trượt xuống sô pha lúc họ quay vào vì anh ta có thể đọc được quyết định trong mắt họ. Arkady đã định sẽ thông báo tin xấu và rời đi, nhưng anh chợt dừng lại khi các vạt nắng nhảy nhót dọc chiều dài căn phòng. Một người có thể cho rằng liệu trang hoàng đồ nội thất màu trắng là nhút nhát hay táo bạo, Arkady thầm nghĩ, nhưng không thể phủ nhận Rina quả là một chuyên gia. Toàn bộ căn phòng sáng bừng lên, ánh vàng lung linh từ quầy bar phản chiếu trên các bức ảnh của Pasha Ivanov chụp cùng những người bạn nổi tiếng và quyền lực của mình. Đối với phần đông dân chúng nước Nga, họ phải dùng kính viễn vọng mới có thể nhìn ngắm những người này, thế giới của Ivanov quá cao xa. Đây là khoảng cách gần nhất mà Arkady tiếp cận được với NoviRus. Lúc này, anh đang ở giữa lòng quân địch.
Và khi Arkady quay lại sô pha, Hoffman dùng bàn tay mập mạp nắm chặt tay anh. “Thôi được, tôi đã lấy chiếc đĩa chứa tất cả dữ liệu mật trong máy tính của Pasha: các công ty chỉ đóng vai trò hình thức, tiền hối lộ, đút lót, tài khoản ngân hàng. Nó trở thành thứ bảo đảm cho tính mạng của tôi, nhưng tôi đặt cược cả vào anh. Tôi đã đồng ý trả lại nó khi nào anh kết thúc. Đó là điều khoản thương lượng của tôi với Ozhogin và Zurin, đổi chiếc đĩa lấy vài ngày làm việc của anh. Đừng hỏi tôi chiếc đĩa đang ở đâu, nó rất an toàn. Và anh nói đúng, tôi là kẻ bẩn thỉu vụ lợi. Tin quan trọng. Có biết tại sao tôi lại làm thế không? Tôi chẳng thể trở về chỗ của mình. Tôi không còn sức lực, cũng
chẳng thể ngủ được, vì thế tôi chỉ ngồi đây. Vào nửa đêm, tôi nghe thấy tiếng cọ xát. Tôi nghĩ là chuột và lấy đèn pin, đi một vòng quanh căn hộ. Không có chuột. Nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng của chúng. Cuối cùng tôi đi xuống sảnh để hỏi lễ tân. Tuy nhiên, anh ta không có ở đó. Anh ta ở bên ngoài cùng người gác cửa, đang quỳ gối và dùng bàn chải cùng thuốc tẩy cọ rửa vết máu trên lối đi. Họ đã làm việc đó, chẳng còn vết máu nào. Đó chính là thứ tôi nghe được từ tầng mười, tiếng cọ rửa. Tôi biết điều đó là không thể, nhưng tôi đã nghe thấy. Và tôi tự nhủ, Renko ạ, rằng tên con hoang nào đó cũng đang nghe được tiếng cọ rửa này. Đó chính là kẻ tôi muốn.”
3
Trong một cuốn băng đen trắng, hai chiếc Mercedes bất ngờ xuất hiện trên đường phố đúng tầm của máy quay gắn bên ngoài, các vệ sĩ, những gã to con trở nên lực lưỡng hơn bởi áo giáp chống đạn mặc bên dưới bộ vét, dàn đội hình từ chiếc xe đến mái che của tòa nhà. Chỉ khi đó, tài xế chiếc xe đi đầu mới vòng ra mở cửa xe phía bên lề đường.
Đồng hồ điện tử hiển thị ở góc màn hình. 21:28. 21:29. 21:30. Cuối cùng Pasha Ivanov cũng xuất hiện, chui ra từ ghế sau. Trông ông có vẻ nhếch nhác hơn một Ivanov năng động trên các bức ảnh trong căn hộ. Buổi sáng, Arkady đã có cuộc trò chuyện với người lái xe đó, anh ta nói Ivanov không nói một tiếng nào trên đoạn đường từ văn phòng về nhà, thậm chí cả khi nghe điện thoại.
Có thứ gì đó khiến Ivanov thích thú. Hai chú chó Dachshund kéo căng sợi dây xích để đánh hơi cặp tài liệu của ông. Chó con, có vẻ như Ivanov đang hỏi thăm người chủ? Mặc dù đoạn băng im lìm, nhưng Arkady có thể đọc được môi ông. Lúc hai chú chó rời đi, Ivanov ôm chặt chiếc cặp vào ngực rồi bước vào tòa nhà. Arkady chuyển sang cuộn băng của chiếc máy quay trong sảnh.
Tiền sảnh lát đá cẩm thạch sáng lung linh khiến mọi người như được rọi một luồng hào quang. Người gác cửa và lễ tân trong các bộ vét khéo léo che giấu bao súng ngắn. Ngay khi người gác cửa kích hoạt nút gọi thang máy
bằng một chiếc chìa khóa, rồi lui lại đứng bên cạnh Ivanov, trong lúc Ivanov đang dùng khăn tay, và cửa thang máy mở ra, Arkady chuyển sang cuộn băng trong thang máy. Arkady cũng đã hỏi han người điều hành thang máy, một lính gác cũ ở điện Kremlin, tóc đã bạc trắng nhưng thân hình vẫn rắn chắc như một bao cát.
Arkady hỏi liệu ông ta và Ivanov có nói chuyện không. Người điều hành trả lời, “Tôi được đào tạo để gác cầu thang ở điện Kremlin. Những nhân vật trọng yếu không nói chuyện vớ vẩn.”
Trong cuốn băng, Ivanov đang bấm mạnh mật mã vào bàn phím, cánh cửa đóng lại, ông nhìn thẳng vào máy quay gắn trong thang máy. Máy quay có ống kính mắt cá* nên khuôn mặt ông liền trở nên to lớn, biến dạng, cặp mắt chìm trong bóng của chiếc khăn tay ông đang giữ chặt trên mũi. Có lẽ ông cũng bị cúm mùa hè như Timofeyev. Cuối cùng Ivanov cũng xoay người bước qua hai cánh cửa vừa mở. Arkady chợt hình dung ra cảnh tượng một diễn viên chuẩn bị bước ra sân khấu, vừa do dự, vừa hăng hái. Thời gian hiện trên băng là 21:33.
Arkady trở lại với cuốn băng của máy quay bên ngoài và tua tới lúc 21:47, mười lăm phút sau đó, vỉa hè trống trơn, hai chiếc xe vẫn đậu bên lề đường, ánh đèn của các phương tiện giao thông thi thoảng cũng lọt vào. Lúc 21:48, một vật mờ mờ từ trên trời rơi phịch xuống vỉa hè. Cửa xe hộ tống đồng loạt mở tung, đám vệ sĩ ùa ra tạo thành một hàng rào bảo vệ trên vỉa hè quanh đống quần áo tả tơi cùng với tay chân. Một người lao nhanh vào tòa nhà, người khác thì quỳ xuống, bắt mạch ở cổ Ivanov trong khi tài xế một chiếc sedan chạy vòng sang mở cửa sau chiếc xe. Người đang bắt mạch Ivanov, hoặc không tìm được nó, lắc đầu trong lúc người gác cửa chạy vào tầm máy quay, hai tay dang ra kiểu không thể tin được. Chính là nó, bộ phim của Pasha Ivanov, một câu chuyện có mở đầu và kết thúc, nhưng không có diễn
biến.
Arkady tua lại từ đầu và xem từng cảnh một.
Phần thân trên của Ivanov xuất hiện ở trên cùng màn hình, phần vai giật mạnh do sức hút của cú rơi.
Đầu ông gãy gập do tác động của lực va chạm trong khi chân mới đang bắt đầu lọt vào khung hình.
Phần thân trên và dưới đổ sập xuống làm bụi trên vỉa hè bắn tung lên. Pasha Ivanov nằm bất động lúc cánh cửa xe hộ tống bật ra, và trong chuyển động quay chậm, các vệ sĩ vây quanh thi thể ông.
Arkady căng mắt nhìn xem trong đám vệ sĩ, từ lúc họ vẫn ngồi trong xe đến trước khi Ivanov bất thình lình rơi xuống, có ai ngước lên, rồi tìm kiếm xem có thứ gì đó giống như là lọ muối rơi xuống cùng Ivanov không hay đã bị văng ra do tác động của cú rơi. Chẳng có gì. Rồi anh lại quan sát xem có vệ sĩ nào nhặt thứ gì lên sau đó không. Cũng chẳng ai làm thế. Họ đứng trên vỉa hè, bất động như những thân cây.
Người gác cửa đang làm nhiệm vụ ngước lên. Anh ta nói, “Tôi từng phục vụ trong Lực lượng tinh nhuệ nên đã thấy nhiều chiếc dù không mở được cùng nhiều thi thể nát bét đến nỗi anh phải cạo ra khỏi mặt đất, nhưng có người nhảy ra khỏi tòa nhà cao tầng ở đây ư? Hơn nữa lại là Ivanov. Một người tốt, tôi phải nói là thế, một người hào phóng. Song sẽ thế nào nếu ông ấy va vào người gác cửa, ông ấy có bận tâm đến chuyện đó không? Ông ấy là con bồ câu bay lượn trên cao, còn tôi chỉ là một con vịt.”
“Tên anh là gì?” Arkady hỏi.
“Kuznetsov, Grisha.” Kuznetsov vẫn giữ tính cách đặc trưng của quân đội. Một gã cao to luôn thận trọng với sĩ quan chỉ huy.
“Anh có làm nhiệm vụ hai ngày trước không?”
“Chỉ ca ngày thôi. Tôi không ở đây vào đêm xảy ra sự việc, nên chẳng biết
nói gì với anh.”
“Chỉ cần dẫn tôi đi xem xung quanh, nếu anh có thể.”
“Quanh cái gì?”
“Tòa nhà này, từ trước ra sau.”
“Vì một vụ tự tử ư? Tại sao?”
“Những chi tiết thú vị, không cần động não.”
“Chi tiết thú vị, không cần động não. Chi tiết thú vị, không cần động não,” Grisha lẩm bẩm lúc một chiếc xe phóng vụt qua. Anh ta nhún vai. “Được. Dù gì tôi cũng muốn đi loanh quanh.”
Tòa nhà cắt giảm nhân viên vào cuối tuần, Grisha nói, chỉ còn anh ta, người lễ tân và người quản lý thang máy dành cho khách. Những ngày trong tuần thì có thêm hai người nữa làm các việc như sửa chữa, vận chuyển hàng hóa, đồ dùng, dọn dẹp rác. Thêm cả người lau dọn nhà cửa nữa nếu cư dân có yêu cầu. Ivanov thì không. Mọi người đều bị kiểm tra rất nghiêm ngặt, tất nhiên. Máy quay an ninh được đặt trên đường phố, hành lang, thang máy dành cho khách và cả lối đi cho người phục vụ. Ở tận cùng hành lang, anh ta gõ mật mã vào bàn phím gắn trên cánh cửa đề Chỉ dành cho nhân viên. Cánh cửa mở ra và Grisha dẫn Arkady vào một khu vực gồm một phòng thay đồ với các tủ khóa, bồn rửa, lò vi sóng; nhà vệ sinh; phòng máy với lò sưởi và bình nước nóng; phòng sửa chữa nơi có hai người mà Grisha gọi là Ngốc A và Ngốc B đang nối đường ống; kho chứa của cư dân tòa nhà gồm thảm, ván trượt tuyết và vài thứ linh tinh, kết thúc là một con hẻm đậu xe. Mỗi cửa đều có bàn phím với mật mã riêng.
Grisha nói, “Anh phải vào trụ sở an ninh của NoviRus cơ. Hệt một boong ke ngầm. Họ có đầy đủ mọi thứ: sơ đồ tòa nhà, mật mã, bản vẽ.” “Ý kiến hay.” Trụ sở an ninh của NoviRus là nơi cuối cùng Arkady muốn đến. “Anh có thể mở cửa ra hẻm này không?” Ánh sáng tràn vào lúc cửa
cuốn lên và Arkady thấy mình đang đứng đối diện một lối đi dành cho nhân viên rộng tới nỗi đủ để cả một chiếc xe tải dọn nhà chạy vào. Thùng rác xếp hàng dọc theo bức tường gạch ở mặt sau của các tòa nhà cũ và thấp hơn mặt tiền quay ra con phố liền kề. Tuy nhiên, ở đây cũng có các máy quay an ninh giám sát lối đi cho nhân viên đặt ở các tòa nhà mới xây bên cạnh và cả con hẻm Arkady và Grisha đang đứng. Ngoài ra, có một chiếc xe máy màu xanh đen dựng ngay dưới tấm biển đề Cấm đỗ xe. Chiếc xe trông giống hệt con bọ ngựa đang cúi đầu dường như chạy rất nhanh.
Khuôn mặt cau có của người gác cổng có vẻ gì đó khiến Arkady buột miệng, “Của anh à?”
“Bãi xe quanh đây rất đáng ghét, cả hai gã Ngốc A, Ngốc B nữa.” Grisha hất đầu về phía hai anh chàng đó. “Đôi khi tôi tìm được chỗ, đôi khi không, nhưng họ chẳng cho phép tôi đậu ở con hẻm này. ‘Đây là con hẻm nhộn nhịp, chỉ dành cho cư dân sử dụng, nếu anh đậu ở đây thì rồi mọi người đều sẽ làm thế.’ Thứ lỗi cho tôi.” Lúc họ bước ngang qua chiếc xe, Arkady thấy một tấm bìa đính trên yên với nội dung, ĐỪNG CHẠM VÀO XE. TÔI ĐANG NHÌN ĐẤY. Grisha mượn cây bút và gạch chân cụm từ ĐANG NHÌN. “Sẽ tốt hơn.”
“Máy khá đấy. Một con Kawasaki*.”
“Tôi thường đi Uralmoto,” Grisha nói, cố tình cho Arkady biết anh ta đã đạt đến tầng lớp nào trong xã hội.
Arkady thấy một cánh cửa dành cho người đi bộ ở ngay sát con hẻm. Mỗi cái đều có bàn phím riêng.
“Mọi người đậu xe ở đây à?”
“Khốn kiếp, không. Bọn Ngốc cũng xua đuổi họ.”
“Cả vào Chủ nhật, khi các thợ sửa chữa không đến làm à?” “Khi chúng tôi cắt giảm nhân viên ấy hả? À, chúng tôi không thể rời vị trí
mỗi khi có xe nào dừng trong hẻm. Chúng tôi dành cho họ mười phút rồi đuổi họ ra ngoài.”
“Chuyện đó có xảy ra vào Chủ nhật vừa rồi không?”
“Khi Ivanov nhảy lầu ấy hả? Tôi không có mặt đêm đó.”
“Tôi hiểu, nhưng trong suốt ca trực của mình, anh hay lễ tân có thấy gì bất thường trong hẻm không?”
Grisha ngẫm nghĩ một lát. “Không. Hơn nữa, mặt sau tòa nhà bị khóa kỹ trong suốt các ngày Chủ nhật. Anh cần một quả bom mới có thể phá được cửa.”
“Hoặc mật mã.”
“Anh sẽ xuất hiện trên màn hình máy quay. Chúng tôi sẽ phát hiện ra.” “Chắc chắn rồi. Lúc đó anh đang ở mặt trước à?”
“Phải, chỗ mái che của tòa nhà.”
“Mọi người vẫn ra vào chứ?”
“Cư dân và khách.”
“Có ai mang theo muối không?”
“Bao nhiêu?”
“Cả bao tải.”
“Không.”
“Ivanov không ngày ngày mang muối về nhà chứ? Chẳng có hạt muối nào rơi ra từ cặp tài liệu của ông ấy sao?”
“Không.”
“Không có ai giao hàng hóa và muối à?”
“Không.”
“Vậy hẳn là muối chỉ xuất hiện trong đầu tôi thôi nhỉ?”
“Phải.” Tay gác cửa chậm rãi trả lời.
“Tôi nên làm gì đó với nó.”
Đường Arbat là tuyến phố dành cho người đi bộ với nhạc sĩ đường phố, họa sĩ vẽ phác họa và cửa hàng lưu niệm bán các loại vòng màu hổ phách, búp bê Nga* do phụ nữ nông thôn làm ra, các bức ảnh cũ kỹ của Stalin. Văn phòng của bác sĩ Novotny nằm phía trên một quán cà phê Internet. Bà nói với Arkady rằng mình sắp nghỉ hưu và sẽ sống dựa vào tiền bán văn phòng cho những người muốn đầu tư để biến nó thành nhà hàng Hy Lạp. Arkady thích văn phòng này như cách nó vốn thế, một căn phòng buồn ngủ với những chiếc ghế được nhồi quá nhiều đệm cùng các bức tranh in của họa sĩ Kandinsky với những mảng màu tươi sáng như cối xay gió, chim chóc, bò ngựa. Novotny là một người nhanh nhẹn ở tuổi bảy mươi, khuôn mặt bà đầy vết chân chim bao quanh đôi mắt đen sáng ngời.
“Lần đầu tôi gặp Pasha Ivanov là hơn một năm trước, tuần đầu tiên của tháng Năm. Với tôi, ông ấy có vẻ là mẫu doanh nhân mới điển hình của chúng ta. Năng nổ, thông minh, dễ thích nghi, và trong thực tế, điểm chung cuối cùng của họ là đều phải tìm kiếm liệu pháp điều trị tâm lý. Họ thường vui vẻ đưa vợ hoặc người tình đi cùng; bởi chuyện điều trị tâm lý rất phổ biến với phụ nữ, giống như phong thủy ấy, còn đàn ông thì hiếm khi tự đi một mình. Nói thật, ông ấy bỏ lỡ bốn buổi điều trị cuối cùng, tuy nhiên vẫn khăng khăng trả tiền.”
“Tại sao ông ấy lại chọn bà?”
“Vì tôi giỏi.”
“Ồ.” Arkady thích những phụ nữ thẳng thắn như vậy. “Ivanov nói ông ấy không ngủ được, triệu chứng đầu tiên của tất cả bọn họ. Họ nói họ muốn một loại thuốc giúp mình ngủ được, nhưng thứ mà họ muốn tôi kê đơn lại là thuốc kích thích hưng phấn thần kinh*, còn tôi thì chỉ muốn áp dụng nó như một phần của liệu pháp điều trị mở rộng. Chúng tôi gặp nhau mỗi tuần một lần. Ông ấy rất thú vị, có tài ăn nói và cực kỳ tự tin. Đồng thời lại vô cùng kín
tiếng về một số chuyện như các giao dịch làm ăn, và thật không may là cả nguyên nhân dẫn đến…”
“Trầm cảm hay sợ hãi?” Arkady cắt ngang.
“Cả hai, nếu cậu muốn biết rõ. Ông ấy phiền muộn và lo sợ.” “Ông ấy có đề cập đến kẻ thù nào không?”
“Không nói rõ tên. Ông ấy nói có những bóng ma đang truy đuổi mình.” Novotny mở hộp xì gà, lấy một điếu, bóc lớp giấy bóng kính bọc bên ngoài và trượt điếu thuốc vào giữa hai ngón tay. “Tôi không định nói ông ấy tin vào ma quỷ.”
“Thật sao?”
“Phải. Điều tôi đang nói là ông ấy có một quá khứ. Một người như ông ấy được như bây giờ thì hẳn là vì đã làm rất nhiều chuyện phi thường và vài chuyện khiến ông ấy ân hận.”
Arkady mô tả lại hiện trường căn hộ của Ivanov. Vị bác sĩ nói tấm gương bị nứt chắc chắn là dấu hiệu tự ghê tởm bản thân và nhảy ra khỏi cửa sổ là một sự giải thoát. “Tuy nhiên, hai động cơ thông thường nhất của một người đàn ông khi lựa chọn tự tử là tài chính và tình cảm, thường được chứng minh ở nam giới là vì chứng suy giảm tình dục. Ivanov giàu có và có mối quan hệ thể xác lành mạnh với cô bạn gái Rina.”
“Sức khỏe của ông ấy ổn chứ?”
“Với độ tuổi đó thì tốt.”
“Ông ấy không nói gì đến nhiễm trùng hay cảm lạnh à?”
“Không.”
“Có khi nào ông ấy bất chợt nói đến muối không?”
“Không.”
“Sàn tủ quần áo của ông ấy chứa đầy muối.”
“Chi tiết này rất thú vị.”
“Nhưng bà nói gần đây ông ấy đã bỏ vài buổi điều trị.”
“Trong một tháng.”
“Ông ấy có nói gì đến bất kỳ nỗ lực nào trong cuộc sống hay không?” Novotny xoay điếu xì gà giữa ngón tay. “Không nhiều lắm. Ông ấy nói mình phải đi trước một bước.”
“Đi trước một bước so với những bóng ma hay một người cụ thể?” “Bóng ma có thể là người thực. Chẳng hạn Hamlet*. Hay Raskolnikov*. Tuy nhiên, trong trường hợp của Ivanov, tôi nghĩ ông ấy bị đeo bám bởi cả bóng ma và người thực.”
“Bà có nghĩ ông ấy có khả năng tự tử không?”
“Có. Đồng thời ông ấy cũng là người sống sót.”
“Sau khi xem xét mọi khía cạnh, bà có cho là ông ấy tự tử không?” “Có thể lắm. Đúng không? Cậu là điều tra viên hả?” Khuôn mặt bà hơi cau lại vẻ thông cảm. “Tôi xin lỗi, ước gì tôi có thể giúp cậu. Cậu có muốn một điếu xì gà không? Của Cuba đấy.”
“Không, cảm ơn bà. Bà hút thuốc à?”
“Lúc tôi còn là một cô gái, mọi phụ nữ hiện đại và thú vị đều hút xì gà. Trông anh sẽ rất oách với điếu thuốc trong tay. Và một điều nữa, điều tra viên. Tôi có ấn tượng rằng các đợt trầm cảm của Ivanov xảy ra theo chu kỳ. Luôn là vào mùa xuân và đầu tháng Năm. Thực tế là ngay sau ngày Quốc tế Lao động. Nhưng tôi phải thừa nhận, ngày Quốc tế Lao động cũng luôn làm tôi thấy buồn chán sâu sắc.”
Thật không dễ dàng tìm được một quán ăn bình dân giữa các quán rượu Ireland và nhà hàng sushi ở trung tâm Matxcova, nhưng Victor đã tìm được. Anh ta và Arkady ăn mì ống với mỡ ở một quán cà phê nằm trong góc cạnh trụ sở cảnh sát trên đường Petrovka, mà giờ chỉ còn được gọi như vậy bởi những người Matxcova gốc, kể từ khi thị trưởng đặt lại tên cho tận nửa thành
phố. Victor đã mang gậy trượt tuyết và ly uống rượu đi xác định dấu vân tay, đồng thời cũng thuyết phục nhà nghiên cứu bệnh học khám nghiệm tử thi Ivanov nhằm xác định xem chính xác ông ta chết vì lý do gì. Anh ta rút một xấp ảnh chụp Ivanov ở nhà xác, chính diện, sau lưng, đỉnh đầu, trải ra giữa những chiếc đĩa. Một bên mặt ông ta trắng bệch, bên kia lại đen xì. Một cô khách quen của cửa hàng liền chống khuỷu tay xuống, thở hổn hển và suýt làm rơi đĩa thức ăn của mình.
Victor nói, “Bác sĩ Toptunova nói bà ấy không khám nghiệm tử thi những vụ tự tử. Tôi đã hỏi bà ấy, sự tò mò của bà đâu, niềm tự hào nghề nghiệp của bà đâu? Có dùng thuốc độc hay thuốc thần kinh không? Bà ấy bảo họ sẽ phải làm các xét nghiệm sinh thiết và kiểm tra, gây lãng phí tài nguyên của nhà nước. Tôi đã đồng ý đưa bà ấy năm mươi đô la. Tôi đoán Hoffman sẽ đồng ý vụ đó.”
“Toptunova là một đồ tể.” Arkady thực sự không muốn nhìn vào xấp ảnh đó.
“Đấy là anh chưa chứng kiến Louis Pasteur khám nghiệm tử thi ở sở cảnh sát. Tạ ơn Chúa, cô ta mổ phanh xác chết ra ấy. Dù sao bà ấy cũng bảo Ivanov bị gãy cổ. Mẹ kiếp, tôi cũng nói thế được. Và nếu ông ta không gãy cổ thì cũng vỡ sọ. Về việc dùng thuốc thì hoàn toàn không, mặc dù bà ấy nghĩ ông ta bị viêm loét dạ dày. Còn một chuyện rất kỳ lạ. Trong dạ dày ông ấy chứa toàn bánh mì và muối.”
“Muối à?”
“Rất nhiều muối và chỉ có chút bánh mì đủ để đè muối xuống.” “Bà ấy không nói gì về nước da của ông ta à?”
“Da ông ta thì có gì để nói? Chỉ có một vết bầm lớn. Tôi cũng đã hỏi lại người gác cửa và lễ tân ở sảnh. Họ đều nói: không vấn đề gì, không có vi phạm nào cả. Rồi một anh chàng đi cùng mấy con Dachshund cố gắng tiếp
cận tôi. Tôi chìa cho anh ta xem thẻ, anh biết không, anh ta nói, ‘Ồ, họ lại sắp có đợt kiểm tra an ninh nữa à?’. Vào Chủ nhật, nhân viên tòa nhà sẽ khóa thang máy và đến từng căn hộ để kiểm tra xem những ai đang ở trong. Anh chàng đó vẫn rất bực bội. Đám chó của anh ta không chờ được và đã có một tai nạn nho nhỏ.”
“Như thế nghĩa là có vi phạm. Họ tiến hành kiểm tra vào lúc nào?” Victor xem xét sổ tay. “11 giờ 10 phút vào buổi sáng tại căn hộ của anh ta. Anh ta ở tầng chín và tôi cho là họ kiểm tra từ trên xuống.” “Rất tốt.” Arkady không thể nghĩ ra ai lại muốn thân cận với Victor, nhưng tán thưởng thì chắc chắn có.
“Một vấn đề nữa.” Victor đặt bức ảnh chụp hai cái xô và giẻ lau sàn xuống. “Những thứ này tôi tìm thấy ở hành lang của tòa nhà đối diện căn hộ Ivanov. Bị bỏ đi, nhưng tên của công ty vệ sinh vẫn còn và tôi đã tìm ra người bỏ chúng lại. Họ không chứng kiến cảnh Ivanov nhảy xuống, và liền bỏ chạy ngay khi trông thấy xe cảnh sát vì họ nhập cư trái phép.”
Những công việc lao động thấp kém người Nga không làm, nhưng một số người nhập cư trái phép thì có. Họ đến đây với tư cách lao động nhập cư và làm việc chui khi thị thực hết hạn. Toàn bộ tủ quần áo của họ đều mặc cả trên người, chỗ ở là những phòng trọ rẻ tiền dành cho người lao động, mối liên hệ với gia đình là khoản tiền hàng tháng họ gửi về. Arkady có thể hiểu tâm trạng của những người lao động này, họ mơ tới túp lều vàng ở Mỹ, nhưng lại rơi vào ổ chuột là Nga, điều đó thật tuyệt vọng.
“Còn nữa.” Victor nhặt sợi mì ra khỏi ngực áo. Viên thám tử đã thay cái áo len dài tay màu xám sang áo len màu cam có hình sâu bướm. Anh ta liếm sạch ngón tay, xếp gọn đống ảnh, rồi lấy ra tập tài liệu với dòng chữ màu đỏ, Cấm Mang Khỏi Văn Phòng.
“Hồ sơ về bốn cuộc tấn công trong suốt cuộc đời Ivanov. Rất phong phú.
Đầu tiên là vụ bị bắn ngay cửa nhà ở Matxcova bởi một nhà đầu tư bất mãn, một giáo viên đã đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm và rồi bị mất sạch. Gã khốn tội nghiệp đó đã bắn trượt sáu phát. Cố gắng tự bắn vào đầu nhưng cũng trượt. Makhmud Nasir. Tù bốn năm, không tệ. Địa chỉ của gã đây, gã đã trở về thị trấn. Có lẽ bây giờ, gã phải đeo kính rồi đấy.”
“Vụ thứ hai là nghe đồn đại, nhưng tất cả mọi người đều thề đó là sự thực. Ivanov đã gian lận trong một vụ đấu thầu vài chiếc tàu ở Archangel, có được chúng mà chẳng mất xu nào và khiến vài kẻ ở đó nổi điên. Một đối thủ cạnh tranh đã thuê sát thủ thổi bay xe của Ivanov. Ivanov bị ấn tượng, tìm tên sát thủ đó, trả cho hắn gấp đôi để giết kẻ đã thuê gã. Không lâu sau đấy, một gã đàn ông được cho là bị ngã xuống sông ở Archange và không bao giờ ngoi lên hít thở nữa.”
“Thứ ba. Ivanov bắt tàu hỏa đi Leningrad*. Đừng hỏi tại sao là tàu hỏa. Trên đường đi, anh biết rồi đấy, có kẻ bơm khí gây mê vào toa hành khách để trộm đồ, thường là của khách du lịch. Ivanov là người tỉnh ngủ. Ông thức giấc vừa lúc thấy một gã đang đi vào nên liền bắn ngay. Mọi người đều nói đó là phản ứng thái quá cho đến khi họ tìm thấy con dao lam và ảnh của Ivanov trong túi áo khoác gã đó. Gã cũng có vài cổ phiếu Ivanov vô giá trị.”
“Thứ tư và là vụ gay cấn nhất. Ivanov đang ở miền Nam nước Pháp với bạn bè. Họ đang lướt tới lướt lui trên những chiếc mô tô nước, cách tiêu khiển của giới nhà giàu. Hoffman leo lên chiếc mô tô của Ivanov và đột nhiên bị chìm. Chìm rồi bị lật ngược và đoán xem cái gì được gắn vào đáy mô tô, một bọc chất nổ dẻo bám chặt như đỉa và sẵn sàng nổ tung. Cảnh sát Pháp đã buộc phải giải tán bến tàu. Thấy không, chuyện đó đã khiến du khách Nga bị mang tiếng xấu.”
“Những người bạn đó của Ivanov là ai?” Arkady hỏi. “Leonid Maximov và Nikolai Kuzmitch, những người thân thiết nhất của ông ta. Và có lẽ một
trong hai người đã cố giết ông ta.”
“Vụ đó được điều tra chứ?”
“Anh đùa à? Anh thừa biết cơ hội để chúng ta thậm chí nói xin chào với những quý ông đó là như thế nào mà? Dù sao thì nó đã xảy ra từ ba năm trước và không có chuyện gì cho đến tận bây giờ.”
“Vân tay thì sao?”
“Cực kỳ tệ. Chúng tôi đã xác định được tất cả dấu vân tay trên các ly rượu, nhưng không có dấu vân tay nào khác ngoại trừ của Ivanov xuất hiện trên cửa sổ lẫn gậy trượt tuyết.”
“Còn điện thoại di động? Ông ta luôn có một chiếc mà.”
“Chúng tôi không dám chắc.”
“Tìm chiếc điện thoại đi. Tài xế của Ivanov nói ông ta có một chiếc.” “Trong lúc đó thì anh sẽ làm gì?”
“Đại tá Ozhogin đã trở về.”
Victor nhìn mọi chuyện theo một cách khác. “Tôi sẽ đi tìm điện thoại di dộng.”
“Trưởng phòng an ninh của NoviRus muốn thảo luận.”
“Ông ta muốn thảo luận với bi của anh trên đầu một cái tăm. Nếu Ivanov không tự tử, thì Ozhogin sẽ như thế nào? Anh đã bao giờ xem ông ta đánh vật chưa? Tôi đã chứng kiến ông ta bẻ gãy tay đối thủ trong một giải đấu của các nước cộng hòa. Anh có thể nghe tiếng răng rắc vang khắp phòng thi đấu. Anh biết không, cho dù chúng ta tìm ra được chiếc điện thoại đó, Ozhogin cũng sẽ lấy mất nó. Giờ ông ta sẽ báo cáo thẳng với Timofeyev. Vua cũ đã chết, vua mới lên ngôi*.” Victor châm một điếu xì gà có hình dáng như chai rượu tráng miệng. “Quan điểm về kinh doanh của tôi là, một đối tác kinh doanh là sự kết hợp hoàn hảo giữa động cơ và cơ hội giết người. À, tôi có thứ này cho anh.”
Victor chìa ra tấm thẻ bằng nhựa mỏng ghi Starbucks và có hình một ly cà
phê đang bốc khói.
“Cái này để làm gì? Một ly miễn phí à?” Arkady biết Victor luôn có những cách lạ lùng để chia tiền ăn uống.
“Không. Chà, tôi không biết, nhưng chẳng phải nó rất tuyệt cho…” Victor trượt và bật bật tấm thẻ giữa các ngón tay.
“Chìa khóa. Không dùng cho cửa chốt cố định, nhưng anh sẽ rất ngạc nhiên đấy. Tôi lấy một cái cho mình và một cái cho anh. Cất vào ví đi.” “Cũng gần như tiền thôi.”
Hai gã trẻ tuổi đang thưởng thức món ravioli* ở bàn bên cạnh. Chúng ăn mặc giống nhân viên văn phòng với áo vét và cà vạt. Nhưng cái đầu trọc lốc làm lộ ra lớp da đầu sứt sẹo, cho thấy chúng có thể lao động vất vả ban ngày, nhưng đến đêm lại trở thành những kẻ say sưa cuộc sống bạo lực theo mô hình lính Đức quốc xã và bọn du côn Anh.
Một gã lừ lừ nhìn Arkady, “Mày đang nhìn gì? Mày là thằng nào, một thằng biến thái hả?”
Vẻ mặt Victor tươi tỉnh. “Đấm nó đi Arkady. Tiến lên, nện cho thằng nhãi láo xược này một trận, tôi sẽ giúp anh.”
“Không, cảm ơn,” Arkady đáp.
“Một thằng nhãi con, một trận chiến nhỏ,” Victor nói.
“Thôi nào, anh không thể để thằng nhãi đó nói thế được. Chúng ta là những cây đa cây đề ở trụ sở đấy, anh sẽ làm mất mặt tất cả thôi.” “Nếu nó không dám thì chính là một thằng gay,” gã đầu trọc nói. “Nếu anh không nện nó, tôi sẽ làm đấy.” Victor định bước lên. Arkady túm ống tay áo và kéo anh ta lại. “Bỏ qua đi.”
“Anh đã trở nên mềm yếu, Arkady, anh đã thay đổi rồi.”
“Tôi mong là thế.”
Ozhogin có vòm ngực rộng, khuôn mặt rỗ và đôi tay lông lá, tất cả được
đóng thùng trong chiếc áo sơ mi may rất khéo cùng cà vạt lụa. Viên đại tá có hai dòng máu chảy trong người. Thứ nhất, ông ta là đô vật đến từ Georgia* và họ cực giỏi trong những cú vật vặn nút thừng. Với người Nga, Georgia gợi đến hình ảnh những ly rượu mừng đám cưới, dưa hấu ngọt mát và những gã mồ hôi mồ kê nhễ nhại trên sàn đấu. Thứ hai, Ozhogin từng là nhân viên KGB*. KGB có thể bị chia cắt và đổi tên, nhưng các nhân viên đều trở nên thành đạt, giống như quạ hóa phượng hoàng. Suy cho cùng, với những chức vị đòi hỏi các kỹ năng ngôn ngữ và sự tinh tế thì có ứng viên nào tốt hơn họ chứ?
Toàn bộ văn phòng của ông ta đều là bề mặt cứng như: mặt bàn kính, ghế thép, trong góc là bộ áo giáp samurai màu đen, to bằng người thật. Ông ta đẩy một bản mẫu và bìa kẹp hồ sơ ngang qua bàn.
“Cái gì thế?” Arkady hỏi. “Xem đi.”
Bản mẫu là mẫu đơn xin việc của NoviRus với các mục như tên, tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, địa chỉ, nghĩa vụ quân sự, trình độ học vấn, bằng cấp. Dự tuyển các lĩnh vực: Ngân hàng, Quỹ đầu tư, Môi giới, Xăng dầu, Truyền thông, Hàng hải, Tài nguyên rừng, Khoáng sản, An ninh, Biên - phiên dịch. Tập đoàn đặc biệt quan tâm đến các ứng viên thành thạo tiếng Anh, tin học văn phòng; quen thuộc với các hãng thông tin Reuter, Bloomberg, RTS, có kiến thức về công nghệ thông tin; với bằng sau đại học trong ngành khoa học, kế toán, biên - phiên dịch, luật pháp hay kỹ năng chiến đấu; dưới ba mươi lăm tuổi là ưu thế. Arkady phải thừa nhận, anh không thể đáp ứng được các yêu cầu đó.
Anh trả lại mẫu đơn. “Không, cảm ơn.”
“Cậu không muốn điền vào ư? Thật đáng thất vọng.”
“Tại sao?”
“Bởi vì có hai lý do khả dĩ tại sao cậu ở đây. Lý do tốt là cuối cùng cậu
cũng quyết định tham gia mảng điều tra cá nhân. Lý do tồi là cậu sẽ không để yên cho cái chết của Pasha Ivanov. Tại sao cậu cứ cố biến một vụ tự tử thành một vụ giết người thế?”
“Tôi không cố ý. Công tố viên Zurin yêu cầu tôi điều tra là vì Hoffman, gã người Mỹ.”
“Người đã đồng ý với ý kiến của cậu rằng có gì đó cần phải xem xét.” Ozhogin dừng lại, dần tiếp cận chủ đề nhạy cảm. “Cậu cho rằng mặt mũi đội an ninh của NoviRus sẽ như thế nào nếu mọi người nghĩ rằng chúng tôi không thể bảo vệ người đứng đầu công ty?”
“Nếu ông ấy tự tử, ông sẽ không bị chỉ trích.”
“Trừ phi có nghi vấn.”
“Tôi muốn nói chuyện với Timofeyev.”
“Không thể được.”
“Có thể sẽ giúp…”
“Không được.”
Bên cạnh chiếc máy tính xách tay để mở, thứ trang trí duy nhất trên mặt bàn là một chiếc đĩa kim loại đang lơ lửng phía trên một chiếc đĩa khác trong hộp. Đĩa nam châm. Chiếc đĩa lơ lửng rung lên với mỗi từ phát ra đầy sinh động.
Arkady bắt đầu, “Zurin….”
“Công tố viên Zurin ư? Cậu có biết tại sao tất cả chuyện này lại xảy ra và mục đích cuộc điều tra của cậu về NoviRus là để làm gì không? Là để tống tiền. Zurin chỉ muốn có đủ mối phiền toái để được đền đáp thôi, và không phải bằng tiền. Ông ta muốn được trở thành thành viên Hội đồng quản trị. Và tôi tin chắc Zurin sẽ trở thành một giám đốc tuyệt vời. Nhưng đó vẫn là một vụ tống tiền và cậu chính là đồng phạm. Mọi người sẽ nghĩ thế nào về điều tra viên trung thực Renko nếu họ biết cậu đã giúp đỡ sếp mình? Và danh
tiếng trước đây của cậu sẽ ra sao?”
“Tôi không biết là mình từng có danh tiếng đấy.”
“Kiểu như thế. Cậu nên điền vào mẫu đơn này. Cậu có biết là khoảng hơn năm mươi ngàn nhân viên KGB và cảnh sát đã gia nhập các công ty an ninh tư nhân không. Đó là lý do tại sao Matxcova an toàn, không phải nhờ công của lực lượng cảnh sát. Những kẻ còn lại trong ngành cảnh sát là ai? Một đám rác rưởi. Tôi có điều tra về Victor, bạn cậu. Trong hồ sơ có ghi cậu ta liên tục say rượu đến nỗi ngủ quên và tè cả ra quần. Có lẽ rồi cậu cũng sẽ có kết cục như thế.”
Arkady liếc ra ngoài cửa sổ. Họ đang ở tầng mười lăm của tòa nhà NoviRus, bao quát toàn cảnh những tòa nhà văn phòng đang được xây dựng, chân trời của tương lai.
“Nhìn phía sau cậu đi,” Ozhogin nói. Arkady quay lại, đập vào mắt anh là bộ giáp samurai được lau chùi đen bóng với mũ bảo hiểm có mặt nạ và sừng. “Theo cậu, trông nó giống cái gì?”
“Một con bọ khổng lồ.”
“Một chiến binh Samurai. Khi Nhật Bản mở cửa cho các nước phương Tây, các tổ chức samurai đã giải tán nhưng họ không biến mất mà chuyển sang làm kinh doanh. Không phải tất cả; một số trở thành nhà thơ, một số chìm trong rượu, nhưng những người thông minh đủ hiểu rằng cần phải thay đổi theo thời thế.” Ozhogin đi vòng qua bàn, ngồi lên một góc. Với vẻ ngoài chải chuốt, viên đại tá khiến người ta có cảm giác ông ta vẫn có thể moi ra một hoặc hai cái xương. “Renko, cậu có tình cờ đọc tờ Washington Post số ra sáng nay không?”
“Sáng nay à, không. Tôi chưa kịp đọc.”
“Đăng một cáo phó ấn tượng cho Pasha Ivanov. Tờ Times gọi Pasha là nhân vật then chốt trong nền kinh tế Nga. Cậu đã cân nhắc tác động của tin
đồn giết người sẽ thế nào chưa? Nó không chỉ gây tổn hại cho NoviRus, mà còn thiệt hại đến hàng loạt công ty lẫn ngân hàng của Nga, họ đã phải vật lộn để thoát khỏi tai tiếng bạo lực của Matxcova. Hãy xem xét đến hậu quả, tôi nghĩ một người nên cẩn thận ngay cả với tiếng thì thầm giết người. Đặc biệt là khi không có cả bằng chứng nhỏ nhất rằng đó là vụ giết người. Trừ phi cậu có vài bằng chứng muốn chia sẻ với tôi.”
“Không.”
“Tôi không nghĩ thế. Theo kết quả điều tra của cậu về tình hình tài chính của NoviRus, cậu có cho là Zurin không thực sự coi trọng chuyện này khi chọn cậu là người thực hiện không?”
“Nó đã từng nảy ra trong đầu tôi.”
“Thật nực cười. Một cặp thám tử hình sự đã hết thời đấu với cả một đội quân chuyên gia tài chính hả?”
“Nghe có vẻ không công bằng lắm.”
“Pasha đã chết, giờ là lúc nên để nó trôi qua. Gọi là lôi kéo cũng được nếu cậu muốn. Pasha đã có một kết cục đáng tiếc. Tại sao? Tôi không biết. Đó là một mất mát to lớn. Tuy nhiên, ông ấy chưa bao giờ yêu cầu tăng cường bảo vệ. Tôi đã tra hỏi nhân viên tòa nhà. Không có bất kỳ vi phạm an ninh nào.” Ozhogin cúi sát anh hơn, Arkady liên tưởng tới hình ảnh một cái búa đang nhắm vào đầu đinh. “Nếu không có vi phạm an ninh, tức là chẳng có gì để điều tra cả. Như thế đã đủ rõ ràng chưa?”
“Có muối…”
“Tôi đã nghe về đống muối đó. Có khả năng tấn công bằng muối không? Muối chỉ đơn giản là dấu hiệu của sự suy nhược thần kinh thuần túy thôi.” “Trừ phi có sự vi phạm trong công tác an ninh.”
“Tôi đã bảo cậu là không có.”
“Đó chính là chuyện cần điều tra.”
“Cậu đang nói là có vi phạm nào đó, đúng không?”
“Có khả năng. Ivanov chết trong tình huống rất kỳ lạ.” Ozhogin nhích lại gần hơn. “Cậu đang ám chỉ rằng phòng an ninh của NoviRus sẽ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Ivanov trong chừng mực nào đó hả?”
Arkady cân nhắc kỹ từng lời. “Cơ chế bảo vệ tòa nhà không hoàn toàn tinh vi. Không có chế độ nhận dạng bằng thẻ quẹt hay giọng nói hoặc vân tay, chỉ có mật mã, không giống với cơ chế bảo vệ ở các tòa nhà hiện nay. Và số lượng nhân viên ít ỏi vào ngày Chủ nhật.”
“Bởi vì Ivanov chuyển đến một căn hộ rất có ý nghĩa với Rina, bạn ông ấy. Cô ta thiết kế nó. Ông ấy không muốn có bất kỳ thay đổi nào. Dù sao, chúng tôi đã điều người của mình đến phục vụ trong tòa nhà, thiết kế những bàn phím mật mã kín đáo, bố trí máy quay giám sát với màn hình đặt cả ở đây, trụ sở an ninh của NoviRus, và mỗi khi ông ấy ở nhà, luôn có đội vệ sĩ ở đó. Chúng tôi không thể làm gì hơn. Thêm nữa, Pasha chưa bao giờ đề cập đến mối đe dọa nào.”
“Đó chính là chuyện chúng tôi sẽ tìm hiểu.”
Ozhogin nhíu chặt mày, bối rối, như thể mặc dù ông ta đã hạ gục đối thủ trong tư thế vật vặn nút thừng nhưng trận đấu vẫn đang được tiếp tục. “Không, cậu sẽ dừng tại đây.”
“Chỉ khi nào Hoffman đề nghị.”
“Anh ta sẽ làm theo những gì cậu nói. Nói với anh ta là cậu đã điều tra xong.”
“Có thứ gì đó đã bị mất.”
“Cái gì?”
“Tôi không biết.”
“Cậu không biết, cậu không biết.” Ozhogin với tay đập vào cái đĩa khiến nó dập dờn trong không khí. “Thằng bé là ai?”
“Thằng bé nào?”
“Cậu đưa một đứa bé tới công viên.”
“Ông theo dõi tôi.”
Ozhogin có vẻ buồn rầu vì một người Nga lại có thể ngây thơ như vậy. Ông ta nói, “Kết thúc đi Renko. Nói với ông bạn Hoffman mập ú của cậu là Pasha Ivanov được xác định là tự tử. Sau đó, sao cậu không quay lại và điền vào cái đơn này nhỉ? Thực ra, hãy nhận lấy cơ hội này.”
Arkady tìm thấy Rina cuộn tròn trong chiếc áo choàng tắm tại phòng chiếu phim của Ivanov, một tay ôm chai vodka, tay kia cầm điếu thuốc. Mái tóc ướt nhẹp, bết vào đầu khiến cô ta trông trẻ con hơn bình thường. Trên màn hình, Pasha đang đứng trong thang máy, đi lên từng tầng, từng tầng một, ôm chiếc cặp tài liệu sát vào ngực, khăn tay áp trên mặt. Trông ông ta có vẻ kiệt sức, mái tóc rũ xuống, như thể vừa leo hết cả trăm tầng lầu. Khi cửa thang máy mở ra, ông quay lại nhìn vào máy quay. Hệ thống này có khả năng phóng to. Rina dừng hình và phóng đại khuôn mặt Pasha kín màn hình, hai má ông ta trắng bệch như bột, đôi mắt đen truyền đi với cái nhìn mờ đục.
“Đó là dành cho tôi. Lời vĩnh biệt của ông ấy.” Rina liếc nhìn anh. “Anh không tin, anh cho đó là sự lãng mạn nhảm nhí.”
“Ít nhất một nửa những gì tôi tin là lãng mạn nhảm nhí, vì thế tôi không phải là người thích phê phán. Còn gì nữa không?”
“Ông ấy bị ốm. Tôi không biết là bệnh gì. Ông ấy không đi khám.” Rina kéo chiếc áo choàng chặt hơn. “Người điều hành thang máy cho tôi vào. Viên thám tử của anh cũng bước vào lúc đó, trông có vẻ rất hài lòng.” “Một hình ảnh khủng khiếp.”
“Tôi nghe nói Bobby đã thuê anh.”
“Anh ta đã đề nghị.”
“Anh không nhận tiền của anh ấy à?”
“Tôi không biết giá thị trường cho một vụ điều tra.”
“Anh không phải là Pasha. Ông ấy sẽ biết.”
“Tôi đã cố tiếp cận Timofeyev. Ông ta không rảnh rỗi. Ông ta được chọn để cầm cương công ty, chịu trách nhiệm quản lý.”
“Ông ta cũng không phải Pasha. Anh biết đấy, kinh doanh ở Nga rất mang tính xã hội. Pasha đã thực hiện những thương vụ lớn nhất của mình ở các câu lạc bộ và quán bar. Pasha có nhân cách hoàn hảo cho việc đó. Mọi người thích được ở gần ông ấy. Ông ấy rất vui tính và hào phóng. Timofeyev là một kẻ đần độn. Tôi nhớ Pasha.”
Arkady ngồi xuống bên cạnh, gỡ chai vodka khỏi tay cô ta. “Cô đã thiết kế căn hộ này cho ông ấy hả?”
“Tôi thiết kế cho cả hai chúng tôi, nhưng đột nhiên, Pasha nói tôi không nên ở đây.”
“Cô chưa từng ở đây à?”
“Gần đây, Pasha thậm chí còn không cho tôi vào. Lúc đầu, tôi nghĩ chắc là vì người phụ nữ khác. Nhưng ông ấy không muốn bất kỳ ai ở đây. Bobby cũng không, chẳng một ai.” Rina lau mắt. “Xin lỗi, tôi ngu ngốc quá.” “Không hề.”
Chiếc áo choàng chợt bung ra, cô ta vội vàng kéo lại. “Tôi thích anh, điều tra viên. Anh đã không nhìn. Rất lịch sự.”
Arkady lịch sự nhưng anh cũng nhận ra chiếc áo choàng đã lỏng lẻo thế nào.
“Cô có biết gần đây việc kinh doanh có trục trặc gì không? Bất kỳ rắc rối tài chính nào có thể khiến ông ấy lo lắng?”
“Pasha luôn luôn thực hiện các giao dịch. Và thi thoảng ông ấy không bận tâm đến chuyện thua lỗ. Ông ấy bảo đó là cái giá của kiến thức.” “Có bất thường gì về sức khỏe không? Trầm cảm chẳng hạn?”
“Chúng tôi đã không ngủ cùng nhau suốt từ tháng trước, nếu đó được tính là bất thường. Tôi không biết tại sao. Ông ấy chỉ đơn giản là dừng lại.” Cô ta dập điếu thuốc và lấy một điếu khác từ bao của Arkady. “Có lẽ anh đang thắc mắc tại sao một người như tôi và một người giàu có, nổi tiếng như Pasha lại có thể gặp nhau. Anh đoán thế nào?”
“Cô là một nhà thiết kế nội thất. Tôi đoán cô đã thiết kế thứ gì đó cho ông ấy ngoài căn hộ này.”
“Đừng ngớ ngẩn thế. Tôi là một gái điếm. Một sinh viên thiết kế, đồng thời cũng là gái điếm, một người có rất nhiều tài năng. Lúc đó, tôi đang ở trong quán bar của khách sạn Savoy. Đấy là một nơi đáng yêu và anh phải cư xử phù hợp, anh không thể chỉ ngồi đó giống bất kỳ con điếm rẻ tiền nào. Tôi giả vờ đang nói chuyện điện thoại khi Pasha đi đến và đề nghị lấy số của tôi để tôi có thể trò chuyện thực sự với ai đó. Rồi từ bên kia quầy bar, ông ấy gọi cho tôi. Lúc đầu tôi nghĩ, thật là một gã Do Thái to lớn và xấu xí. Ông ấy vốn thế, anh biết đấy. Nhưng ông ấy rất mạnh mẽ, vô cùng quyến rũ. Ông ấy biết tất cả mọi người, mọi thứ. Ông ấy hỏi về sở thích của tôi, những chuyện rất bình thường, anh biết đấy, nhưng ông ấy đã thực sự lắng nghe và thậm chí còn rất am hiểu về thiết kế. Rồi ông ấy hỏi tôi còn nợ chủ bao nhiêu, anh hiểu không, chủ chứa ấy, bởi vì Pasha nói ông ấy sẽ trả tiền cho hắn ta, cho tôi một căn hộ và trả tiền học phí cho tôi. Ông ấy rất nghiêm túc. Tôi hỏi tại sao, ông ấy bảo rằng vì ông ấy thấy tôi là người tốt.” Cô ta quay sang Arkady. “Anh có làm thế không? Anh có đặt cược vào một người như thế không?”
“Tôi không nghĩ rằng mình sẽ làm thế.”
“Phải, thế mới là Pasha.” Cô ta rít một hơi thuốc thật dài. “Giờ cô bao nhiêu tuổi.”
“Hai mươi.”
“Vậy lúc cô gặp Pasha…”
“Ba năm trước. Lúc ở quán bar Savoy, tôi mới mười bảy tuổi. Khi chúng tôi trò chuyện trên điện thoại, tôi đã bảo nếu ông ấy thích một cô nhân tình bốc lửa thì tôi cũng có thể làm được.
Ông ấy bảo cuộc đời ngắn lắm, tôi nên là chính bản thân mình.” Arkady càng nhìn lâu vào màn hình, vào biểu hiện do dự của Pasha tại ngưỡng cửa căn hộ, lại càng cảm thấy rằng trông ông ta không giống một con người buồn phiền, mà như thể đang lo lắng thứ gì đó đáng sợ hơn đang chờ đợi mình.
“Pasha có kẻ thù không?”
“Đương nhiên. Hàng trăm ấy chứ, nhưng không có gì nguy hiểm.” “Có mối đe dọa chết người nào không?”
“Không từ bất kỳ ai đáng lo ngại cả.”
“Ông ấy bị tấn công vài lần trong quá khứ.”
“Đó là lý do tại sao cần có đại tá Ozhogin. Pasha đã từng nói một điều. Rằng cuộc đời là phản ứng dây chuyền. Một khi đã bắt đầu, nó không thể dừng được.”
“Nghĩa là sao?”
“Tôi không biết.” Arkady nghe giọng cô ta thắt lại. “Có chuyện gì đó rất khủng khiếp. Ông ấy luôn trong tình trạng tồi tệ nhất vào ngày Quốc tế Lao động. Ý tôi là, còn ai bận tâm về ngày Quốc tế Lao động nữa chứ? Tại sao anh không cho là ông ấy đã tự tử?”
“Tôi không kết luận thế này hay thế khác, tôi chỉ chưa có đủ lý do hợp lý để giải thích về hành động của ông ấy. Ivanov không phải là người dễ dàng bị đe dọa.”
“Xem kìa, ngay cả anh cũng ngưỡng mộ ông ấy.”
“Cô có biết Leonid Maximov và Nikolai Kuzmitch không?” “Tất nhiên là có. Họ là hai người bạn tốt nhất của chúng tôi. Chúng tôi đã có những khoảng thời gian rất vui vẻ.”
“Tôi chắc chắn họ là những người bận rộn, nhưng liệu cô có thể nghĩ ra cách nào giúp tôi gặp họ không? Tôi có thể thử theo các kênh chính thức, nhưng thành thực mà nói, họ quen biết nhiều quan chức hơn tôi.” “Không vấn đề gì. Hãy tới dự tiệc.”
“Bữa tiệc nào?”
“Hàng năm, Pasha đều tổ chức một bữa tiệc tại nhà. Vào ngày mai. Tất cả mọi người đều đến dự.”
“Pasha vừa mới chết, còn cô thì vẫn tiệc tùng à?”
“Pasha thành lập một tổ chức từ thiện vì trẻ em tên là Bầu trời xanh. Kinh phí hoạt động của nó phụ thuộc vào bữa tiệc này và mọi người đều biết Pasha muốn bữa tiệc được tiếp tục.”
Arkady cũng tình cờ biết đến Bầu trời xanh trong suốt cuộc điều tra. Nó liên quan đến một số tiền nhỏ nếu so với các khoản đầu tư khác của Ivanov và anh cho rằng đó là trò gian lận.
“Bữa tiệc này gây quỹ như thế nào?”
“Rồi anh sẽ thấy. Tôi sẽ đưa tên anh vào danh sách khách mời cho ngày mai, anh sẽ gặp tất cả những người có máu mặt ở Matxcova. Nhưng anh phải hòa đồng với họ.”
“Trông tôi không giống triệu phú hả?”
Cô ta xoay người để nhìn anh rõ hơn. “Không, chắc chắn anh trông giống một điều tra viên hơn. Tôi không thể đưa anh đi xem xét xung quanh được, không tốt cho bữa tiệc. Nhưng sẽ có nhiều người đưa con cái theo. Anh có thể mang theo một đứa trẻ không? Chắc anh phải quen biết đứa nhỏ nào đó chứ.”
“Tôi có thể.”
Arkady bật chiếc đèn cổ ngỗng ở cạnh ghế cho cô ta viết hướng dẫn vào sổ tay của anh. Cô ta ghi rất cẩn thận, nhấn mạnh từng nét chữ và tắt đèn
ngay khi viết xong.
“Tôi muốn ở đây một mình thêm lát nữa. Họ tên anh là gì ấy nhỉ?” “Renko.”
“Không, ý tôi là tên thôi.”
“Arkady.”
Có vẻ cô ta thử phát âm và cảm thấy thuận miệng. Khi anh đứng lên định đi, cô ta nắm tay anh bằng cả hai tay. “Arkady, tôi phải thừa nhận, anh làm tôi liên tưởng chút ít đến Pasha.”
“Cảm ơn,” Arkady nói. Anh cũng không hỏi cô ta muốn liên tưởng tới một Pasha thông minh, giỏi giao thiệp hay Pasha đập mặt xuống vỉa hè. Arkady và Victor dùng bữa tối muộn tại quán cà phê kiêm rửa xe cạnh đường cao tốc. Arkady thích nơi này vì nó trông giống trạm không gian làm bằng crom và kính, với ánh đèn chớp nháy xẹt qua như sao chổi. Thức ăn nhanh, bia Đức và một điều đáng giá nữa: Chiếc xe của Victor đang được lau rửa. Victor đang đi một con Lada bốn mươi năm tuổi với hệ thống dây điện lỏng lẻo dưới gầm và một chiếc đài chỉ để khoe mẽ, nhưng đó là chiếc xe tồi tàn anh ta có thể tự sửa chữa, với các phụ tùng có sẵn ở bất kỳ kho phế liệu nào mà những người không có tự trọng đều có thể ăn trộm. Có vẻ gì đó như tự mãn và bủn xỉn trong cách lái xe của Victor, như thể anh ta vừa khám phá ra một tư thế gợi tình cơ bản nhất. Giữa một hàng Mercedes, Porsches và BMW đã được phun nước và đánh bóng, con Lada của Victor trông thật lạc lõng.
Victor gọi một chai rượu mạnh Armenian để duy trì lượng đường trong máu. Anh ta thích quán cà phê này vì nó được ưa chuộng bởi các băng đảng tội phạm khác nhau. Bọn chúng nếu không phải bạn bè thì cũng là người quen của Victor và anh ta thích theo dõi hành tung của chúng. “Tôi vừa bắt giữ ba thế hệ trong một gia đình. Ông nội, bố và con trai. Tôi có cảm giác
mình như là Ông chú Victor ấy.”
Bên ngoài cửa sổ, hai gã với trang phục màu đen giống hệt nhau xuất hiện, mỗi tên được hộ tống bởi một đám lực lưỡng trong bộ đồ chạy bộ. Chúng gườm gườm nhìn nhau đủ lâu để duy trì địa vị trước khi thong thả bước vào quán.
Victor nói, “Chỗ này là một nơi trung lập vì không ai muốn ô tô của mình bị cào xước. Đó là tâm lý của bọn chúng. Mặt khác, tâm lý của anh thì còn lệch lạc hơn. Cố làm sáng tỏ một vụ tự tử rõ rành rành hả? Tôi không biết. Đa số các điều tra viên chỉ ngồi lỳ một chỗ và bắt đám thám tử đi điều tra. Họ cũng rề rà lâu hơn.”
“Tôi đã rề rà quá lâu.”
“Rõ ràng. Nào, vui vẻ lên, tôi có món quà nhỏ cho anh, thứ tôi tìm được dưới gầm giường Ivanov.” Victor đặt lên bàn một chiếc điện thoại di động, loại của Nhật.
“Sao anh lại chui xuống gầm giường?”
“Anh phải suy nghĩ như một thám tử. Mọi người luôn đặt đồ vật lên thành giường. Chúng bị rơi, rồi ai đó đá chúng vào gầm giường và chẳng ai để ý đến, đặc biệt là khi họ ở trong trạng thái vội vàng hoặc lo lắng.”
“Làm thế nào mà người của Ozhogin lại bỏ qua chỗ đó nhỉ?” “Bởi vì mọi thứ họ cần đều ở trong văn phòng.”
Arkady thì cho rằng chỉ là vì Victor thích nhìn xuống gầm giường mà thôi. “Cảm ơn. Anh đã kiểm tra nó chưa?”
“Tôi đã lén nhìn qua. Tiếp tục đi, bật nó lên.” Victor lại ngồi xuống như thể anh ta có mang theo gói kẹo chocolate.
Tiếng chuông điện thoại vang lên cũng chẳng hề thu hút sự chú ý từ các bàn bên cạnh; trong một quán cà phê hiện đại thì một chiếc di động là điều quá bình thường, giống như một con dao hay chiếc dĩa vậy. Arkady lướt qua
mục Lịch sử cuộc gọi vào tối Chủ nhật, thấy có các cuộc gọi đi cho Rina và Bobby Hoffman; các cuộc gọi đến từ Hoffman, Rina và Timofeyev. Chiếc điện thoại nhỏ bé nhưng lại chứa một lượng thông tin lớn. Một tin nhắn liên quan đến chiếc tàu chở dầu của Ivanov bị đắm ở Tây Ban Nha và lịch các cuộc họp, gần đây nhất là với công tố viên Zurin, thật đáng ngạc nhiên. Trong danh bạ không chỉ là số điện thoại của Hoffman, Timofeyev và các lãnh đạo khác của NoviRus, mà còn của Rina cùng các nhà báo tên tuổi, những người của công chúng và các triệu phú mà Arkady nhận ra được qua các cuộc điều tra khác, và thú vị nhất là có cả của Zurin, thị trưởng, thượng nghị sĩ, bộ trưởng lẫn số cố định của điện Kremlin. Chiếc điện thoại này là đầu mối dẫn tới một hệ thống quyền lực.
Victor sao chép những cái tên đó ra cuốn sổ tay. “Thế giới của những người này là thế nào nhỉ? Đây là số điện thoại có thể cho anh biết thông tin thời tiết ở St. Tropez* đấy. Hay thật.” Phải mất hai ly cognac để Victor chép xong. Anh ta nhìn lên và gật đầu với đám bặm trợn bàn bên cạnh. Hạ thấp giọng, anh ta nói, “Anh em nhà Medvedev. Tôi đã tóm cổ bố mẹ chúng. Nhưng tôi phải thừa nhận mình cảm thấy thoải mái với chúng. Chúng là những tên côn đồ bình thường, không phải doanh nhân với các quỹ đầu tư.”
Arkady nhấn vào mục Tin nhắn thoại.
Có một tin nhắn đến lúc 9:33 tối qua từ một số điện thoại ở Matxcova và nội dung có vẻ không phải từ một doanh nhân: “Ông không biết tôi là ai, nhưng tôi đang cố cho ông một ân huệ. Tôi sẽ gọi cho ông sau. Tất cả những gì tôi muốn nói lúc này là, nếu ông nhúng đũa vào bát súp của người khác thì sẽ bị bẻ đấy.”
“Một kẻ quá kiệm lời. Nghe có quen không?” Arkady đưa điện thoại cho Victor.
Viên thám tử lắng nghe rồi lắc đầu. “Một gã cứng đầu. Người phương
nam, anh có thể nghe thấy âm gió ở vần s. Tôi nghe không rõ lắm. Ở đây ồn ào quá. Tiếng chạm cốc nữa.”
“Nếu có người có thể làm…”
Victor nghe lại lần nữa, áp sát điện thoại vào tai đến khi nở nụ cười sung sướng như một anh chàng vừa tìm ra loại rượu cực kỳ quý hiếm. “Anton. Anton Obodovsky.”
Arkady biết Anton. Anh có thể tưởng tượng ra cảnh Anton ném ai đó qua cửa sổ.
Victor cảm thấy quá căng thẳng. “Đi vệ sinh.”
Arkady ngồi một mình nhấm nháp ly bia. Lại một đám người trong bộ đồ thể dục ùa vào quán, cứ như thể đường phố tràn ngập những vận động viên đang cáu kỉnh. Ánh mắt anh quay lại với chiếc điện thoại. Sẽ còn ngạc nhiên hơn nếu biết Anton đã gọi tới từ một nơi cách căn hộ của Ivanov mười lăm phút lái xe. Đó là số điện thoại cố định, một địa điểm xác định. Anh biết nên đợi Victor, nhưng Victor có thể ở lỳ trong nhà vệ sinh tận nửa tiếng để tránh phải trả tiền.
Arkady nhặt điện thoại lên và bấm vào phím Trả lời tin nhắn. Mười hồi chuông vang lên. “Nhà giam đây.”
Arkady bật dậy. “Nhà giam nào? Ở đâu?”
“Nhà giam Butyrka. Ai đấy?”
Lúc Victor quay lại, Arkady đã ngồi trong con Lada trông vẫn bẩn thỉu như cũ, chứng tỏ nó không thể bóng bẩy nhờ xà phòng được. Một cơn gió bẻ cong các biển quảng cáo dọc theo đường cao tốc và làm lớp vải bạt bay phần phật. Mỗi chiếc xe phóng vụt qua dường như lại khiến chiếc Lada rung rung.
Victor ngồi vào sau tay lái. “Tôi sẽ đưa anh về chỗ anh để xe. Anh đã thanh toán cả rồi hả? Thế mới là bạn bè chứ!”
“Anh biết không, với số tiền tiết kiệm được nhờ đi ăn cùng tôi, anh có thể
mua được một con xe mới đấy.”
“Thôi nào, tôi xứng đáng được thế mà, tìm thấy chiếc di động này, chia sẻ với anh kho kiến thức của tôi. Đầu tôi là một thư viện Lenin thực sự đấy.” Chuột nhắt thì có, Arkady thầm nghĩ. Lúc Victor rẽ khỏi đường cao tốc, Arkady nói với anh ta về cuộc gọi lại vào số của Anton khiến viên thám tử thích thú vô cùng.
“Butyrka à! Đó sẽ là bằng chứng ngoại phạm.”
4
Điểm đến trên đường Butyrka là một tòa nhà năm tầng với cửa sổ bằng nhôm, loang lổ các khoảng sáng tối với những bụi cây dành dành đã chết, mọi thứ đều hết sức bình thường ngoại trừ dòng chữ ngoằn ngoèo dọc lối đi: Người Di-gan với khăn choàng rực rỡ, người Chechnya trong trang phục màu đen và người Nga với áo khoác da mỏng, họ thù địch lẫn nhau, nhưng lại có chung một nỗi tuyệt vọng; và bọn họ, từng người một, đều nghiêm túc xuất trình tại một cánh cửa sắt để được chấp nhận hoặc không trở thành hàng ngàn linh hồn ẩn phía bên kia cánh cửa.
Arkady xuất trình thẻ nhận dạng ở cửa và xuyên qua một cổng có thanh chắn bên dưới tòa nhà, dẫn vào đường hầm nơi lính canh mệt mỏi nằm dài với lũ chó của họ, đám béc giê Đức liên tục dõi theo huấn luyện viên của chúng để chờ đợi mệnh lệnh. Bỏ qua cái này. Để cái kia xuống. Lối ra ở phía xa xa tràn ngập ánh sáng ban ngày và, hoàn toàn bị che khuất từ đường phố, một pháo đài như trong truyện cổ tích với các bức tường đỏ rực cùng tòa tháp được bao quanh bởi khoảng sân quét vôi trắng; chỉ có một con hào bao quanh là bị lấp mất. Không hẳn là chốn cổ tích, mà là ác mộng thì đúng hơn. Nhà tù Butyrka đã được Nữ hoàng Catherin Đại đế xây dựng và trong suốt hơn hai trăm năm, mỗi triều đại của Nga đều dùng nó để nhốt kẻ thù của đất nước. Một lính canh được trang bị súng trường bắn tỉa theo dõi Arkady từ tháp canh nhỏ và hẳn anh ta là lính bắn súng hỏa mai. Các chảo thu vệ tinh nhô lên trên
các lỗ châu mai nằm dọc theo bức tường. Dưới thời Stalin, những chiếc xe tải đen hằng đêm vẫn chở nạn nhân mới tới cùng một khoảng sân và các bức tường đỏ tươi như máu này, và mỗi câu hỏi về sức khỏe, nơi ở lẫn số phận của ai đó thì đều được trả lời bằng cùng một tiếng thì thầm: Butyrka.
Từ khi Butyrka được chuyển thành nhà tù giam giữ phạm nhân trước khi xét xử, các điều tra viên dần trở nên quen thuộc với nơi này. Arkady đi theo một lính gác xuyên qua sảnh tiếp nhận phạm nhân mới, các cậu bé nhợt nhạt như đám gà bị vặt lông, bị lột trần và ném cho mớ quần áo tù nhân. Đôi mắt mở to của chúng dán chặt vào lối đi dẫn đến các phòng giam cổ xưa có hình dáng như những chiếc quan tài, hầu như không đủ sâu để có thể ngồi vào đó, nơi lý tưởng cho các tu sĩ hành xác và là cách tuyệt vời để trải nghiệm cảm giác khủng khiếp khi bị chôn sống.
Arkady leo lên những bậc thang cẩm thạch đã bị lún do xuống cấp. Lưới sắt bao quanh dọc theo rào chắn để ngăn cản tù nhân nhảy ra và truyền tin cho nhau. Trên tầng hai, ánh sáng len lỏi từ các cửa sổ thấp tạo cảm giác như trên một con tàu sắp chìm, hoặc mí mắt đóng chặt. Người lính dẫn Arkady đi dọc theo một loạt cánh cửa đen cổ xưa với những miếng sắt chắp vá, mỗi cái đều có ô chuyển thức ăn và một lỗ nhỏ để quan sát.
“Tôi mới đến đây. Tôi nghĩ anh ta ở phòng này,” người lính nói. “Tôi nghĩ thế.”
Arkady nhìn qua lỗ quan sát. Phía bên kia cánh cửa là năm mươi gã chen chúc trong phòng giam thiết kế cho hai mươi người. Chúng là những kẻ nghiện hút, móc túi và ăn cắp vặt. Chúng phải chia ca để ngủ trong ánh sáng lờ mờ từ đèn điện và ô cửa sổ có chấn song. Trong phòng không có sự lưu thông của không khí trong lành, chỉ có mùi hôi thối của mồ hôi, cháo yến mạch xay và mùi xú uế từ nhà vệ sinh duy nhất. Hơi nóng tạo ra do quá nhiều người khiến tất cả đều phải cởi trần, những gã trẻ tuổi với nước da trắng nõn,
cựu quân nhân phủ kín các hình xăm màu xanh đen. Một gã nào đó mắc bệnh lao đang ho sù sụ và tiếng thì thầm vang lên trong không khí. Vài cái đầu thấp thoáng ở lỗ quan sát, nhưng phần lớn đơn giản chỉ chờ đợi. Một người có thể phải đợi tới chín tháng ở Butyrka trước khi được xét xử.
“Không phải à? Phòng này thì sao?” Viên lính chỉ cho Arkady cánh cửa bên cạnh.
Arkady nhìn vào phòng giam. Nó có kích thước giống hệt phòng vừa rồi, nhưng chỉ giam giữ một kẻ duy nhất, một vận động viên thể hình với mái tóc ngắn nhuộm vàng hoe và áo phông đen bó sát. Gã đang tập thể dục với các sợi dây đàn hồi buộc vào chiếc giường tầng được gắn với tường và cứ mỗi lần gã kéo dây, chiếc giường lại kêu cót két. “Là người này,” Arkady đáp.
Anton Obodovsky là một tên mafia rất thành công. Gã từng là vận động viên ưu tú, một võ sĩ quyền anh khá nổi ở Ukraine trước khi làm vệ sĩ cho các ông chủ ở địa phương. Tuy nhiên, Anton rất tham vọng. Ngay khi có khẩu súng trong tay, gã liền bắt đầu cướp ô tô, theo đúng nghĩa đen là tống cổ tài xế ra khỏi xe và lái đi. Từ đó, gã bắt đầu nhận yêu cầu cho từng chiếc xe cụ thể, thành lập một nhóm chuyên cướp xe, sau đó mở rộng hoạt động sang cả Đức và hộ tống đám xe cướp được đi qua Ba Lan về Matxcova. Tại đây, hoạt động của gã rất đa dạng. Anton bảo trợ cho các công ty và nhà hàng nhỏ mà gã có thể kiểm soát được, làm thịt những công ty đó rồi rửa tiền thông qua các nhà hàng. Gã sống như một ông hoàng. Thức dậy lúc mười một giờ sáng với một ly sinh tố protein. Một giờ trong phòng tập thể hình. Giao dịch chốc lát trên điện thoại và đến thăm xưởng sửa chữa ô tô, nơi các công nhân của gã tháo rời đám xe. Gã mua sắm ở các cửa hàng không dám lấy tiền của gã, ăn ở các nhà hàng miễn phí đối với gã. Gã mặc vét đen của hãng Armani, tiệc tùng với gái mại dâm đẹp nhất, mỗi tay ôm một cô, và không bao giờ phải trả tiền cho họ. Chiếc nhẫn kim cương hình móng ngựa nói lên đây là người đàn ông
may mắn. Ở một tầng lớp xã hội nhất định, gã là vua, nhưng tất nhiên gã chẳng thấy hài lòng.
“Ngân hàng mới là kẻ trộm thực sự. Mọi người mang tiền đến cho anh, anh chiếm đoạt chúng và chẳng ai động đến anh cả. Tôi kiếm được một trăm ngàn đô thì ngân hàng và các chính trị gia kiếm được hàng trăm triệu. Tôi chỉ là con muỗi so với họ.”
“Anh đã xoay xở khá tốt,” Arkady nhận xét. Trong phòng có ti vi, máy cát-xét, đầu video. Một hộp pizza của hãng Pizza Hut nằm ở đuôi giường. Trên đầu giường là chồng tạp chí xe hơi, sách hướng dẫn du lịch, băng đĩa về thúc đẩy động cơ của con người.
“Tôi ước có truyền hình vệ tinh. Nhưng tường ở đây quá dày, sóng chập chờn một cách chết tiệt.”
“Cuộc sống vốn khó khăn mà.”
Anton nhìn Arkady từ trên xuống dưới. “Nhìn áo khoác của anh kìa. Anh dùng nó để lau xe à? Thỉnh thoảng anh nên xông vào vài cửa hàng với tôi. Anh khiến tôi cảm thấy xấu hổ vì đồ mình mặc trong tù còn tốt hơn của anh đấy.”
“Tôi không có tiền để đi mua sắm với anh.”
“Để tôi. Có lẽ tôi là gã rất hào phóng đấy. Mọi thứ anh thấy ở đây đều là tôi trả tiền. Tất cả đều hợp pháp. Họ cho phép anh mua mọi thứ trừ rượu, thuốc lá hay điện thoại.” Anton chẳng ngồi yên một chỗ, cứ lượn qua lượn lại như cá mập. Một người có thể bị sái cổ chỉ vì trò chuyện với Anton, Arkady thầm nghĩ.
“Cái gì là tệ nhất?”
“Tôi không uống rượu hay hút thuốc, nên với tôi là điện thoại.” Không ai dùng điện thoại nhiều như bọn tội phạm; chúng thường ăn trộm của người khác để tránh bị ghi âm và một kẻ cẩn thận như Anton thì hẳn phải thay điện
thoại hằng tuần. “Anh sẽ bị phụ thuộc. Đó là một lời nguyền.” “Nó là nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của chữ viết tay. Trông anh rất hồng hào.”
“Tôi tập thể dục. Không ma túy, không steroid*, không hormone.” “Xì gà không?”
“Không, cảm ơn. Tôi vừa nói với anh là tôi luôn giữ mình khỏe mạnh và trong sạch. Tôi không phụ thuộc vào thứ gì. Thật đáng thương khi thấy một người như anh lại hút thuốc.”
“Tôi rất mềm yếu.”
“Renko, anh phải quan tâm đến bản thân. Hoặc người khác. Hãy nghĩ về khói thuốc phụ*.”
“Được.” Arkady đẩy bao thuốc ra xa. Anh không muốn để Anton bực bội. Thực ra có đến ba Anton. Một Anton tàn bạo có thể dễ dàng bẻ gãy cổ bạn, một là nhà kinh doanh sáng suốt và một với đôi mắt luôn có chiều hướng lảng tránh mỗi khi vấn đề riêng tư nào đó bị đưa ra thảo luận. Hơn hết, Arkady không thích nhất là thấy Anton đầu tiên bị kích động. Anton nói, “Tôi chỉ nghĩ là ở tuổi này anh không nên ngược đãi cơ thể.”
“Ở tuổi tôi hả?”
“Này, kệ anh chứ, tôi đếch quan tâm.”
“Thích thế hơn đấy.”
Một nụ cười xuất hiện trên môi Anton. “Thấy chưa, tôi có thể nói chuyện với anh mà. Chúng ta hiểu nhau đấy.”
Arkady và Anton thực sự hiểu nhau. Cả hai đều biết rằng phòng giam đáng mơ ước của Anton luôn có sẵn bởi nỗ lực muộn màng để biến phòng giam cổ xưa kinh hoàng của Butyrka thành phòng đạt tiêu chuẩn nhà tù châu Âu hiện đại. Và cả hai cùng hiểu là căn phòng như vậy chỉ dành cho người trả giá cao nhất. Hai người cũng hiểu rằng trong khi đám tội phạm cai trị các
đường phố, thì đám tội phạm lớn tuổi với hình xăm đẳng cấp thấp vẫn thống trị các nhà tù. Nếu Anton bị tống vào một phòng giam bình thường, gã sẽ như con cá mập bị nhét vào một cái bể với hàng ngàn con cá piranha*.
Anton chẳng thể ngồi yên một chỗ mà không vặn vẹo cơ ngực hay cơ delta*. “Anh là một người tốt, Renko. Chúng ta có thể bất đồng với nhau, nhưng anh luôn đối xử với mọi người một cách hết sức tôn trọng. Anh biết tiếng Anh không?”
“Biết.”
Anton lôi quyển tạp chí có tên là Tập san kiến trúc từ chồng báo ra và lật tới trang có bức hình một khu nghỉ dưỡng theo kiến trúc phương Tây được đặt trên sườn núi. “Colorado. Thiên nhiên tươi đẹp và một khoản đầu tư tương đối rẻ. Anh nghĩ sao?”
“Anh có cưỡi được ngựa không?”
“Tôi có thể học. Tôi sẽ cấp tiền cho anh. Tiền mặt. Anh sẽ đến đó và thương lượng, mua bất cứ thứ gì anh nghĩ là hợp lý. Có thể là một mối quan hệ tốt đẹp. Anh có khuôn mặt thật thà.”
“Tôi đánh giá cao đề nghị của anh. Anh có nghe nói về cái chết của Pasha Ivanov không?”
“Tôi đã nghe tin tức trên ti vi. Ông ta nhảy lầu hả? Tầng mười, một cách ra đi.”
“Anh có biết ông ấy không?”
“Tôi mà biết Ivanov hả? Giống như quen Chúa ấy.”
“Tối qua, anh đã để lại một lời nhắn trên di động của ông ấy về chuyện cắt đũa của ông ta. Cắt đũa của ai đó, dường như anh biết ông ấy khá rõ. Thậm chí tin nhắn đó còn có vẻ là một đe dọa.”
“Tôi không được phép có điện thoại ở đây, vậy tôi nhắn bằng cách nào?” “Anh đã mua chuộc một lính gác và gọi từ phòng canh gác.”
Anton đứng bật dậy, vung nắm đấm như đang đấm vào một bao cát. “Chà, anh chỉ cần mua chuộc một tên thôi và như họ vẫn nói, con sâu làm rầu nồi canh.” Anh ta dừng lại và xua tay. “Tuy nhiên, nếu tôi nhắn cho Pasha Ivanov, thì là về chuyện gì?”
“Kinh doanh. Kẻ nào đó đã cướp xe tải chở dầu của NoviRus và rút sạch dầu khỏi thùng chứa. Vụ việc xảy ra trong địa bàn của anh ở Matxcova, bát súp của anh, có thể hiểu là thế.”
Anton lại vặn vẹo cơ bắp, vung tay đấm thẳng, gạt ngang, rồi móc ngược lên. Gã ta lùi lại, che chắn, dường như để tránh một cú đấm, rồi tiến lên, lăn người và chọc mạnh khiến buồng giam ngày càng nhỏ dần. Anton có thể không phải nhà vô địch, nhưng mỗi khi di chuyển, gã đều chiếm rất nhiều không gian. Cuối cùng, gã thả lỏng tay, thở phào. “Ông ta có một kẻ ngốc làm trưởng phòng an ninh, một cựu đại tá từ KGB. Họ đã bắt một đàn em của tôi lúc nó đi cùng xe tải của họ và đánh gãy chân thằng bé. Quá tàn nhẫn. Nó đặt tôi vào tình thế khó khăn. Nếu tôi không trả đũa, đám đàn em sẽ bẻ gãy chân tôi. Nhưng tôi lại chẳng muốn khơi mào một trận đánh. Tôi phát ốm về chuyện đó rồi. Thay vào đó, tôi muốn đánh phủ đầu và đồng thời dằn mặt gã đại tá ngu ngốc bằng cách gọi vào số điện thoại cá nhân của Pasha. Tôi nói hết những gì cần nói. Đó là một lời mở đầu, có lẽ hơi thô lỗ, nhưng là cách để bắt đầu một cuộc đối thoại. Tôi có các xưởng sửa chữa xe, tiệm thuộc da, một nhà hàng. Tôi là một doanh nhân đáng kính. Tôi sẽ rất sung sướng nếu được làm việc với Pasha Ivanov và học hỏi ông ta.”
“Lễ vật là gì? Anh đã đề nghị gì với ông ấy?”
“Sự bảo vệ.”
“Dĩ nhiên.”
“Dù sao, tôi cũng không thành công và chưa từng được gặp mặt ông ta. Có vẻ như khi Pasha chết, tôi đã ở trong này và tin nhắn là minh chứng.”
“May mắn nhỉ.”
“Tôi ăn ở lương thiện mà.” Anton khiêm tốn. “Anh bị bắt vì tội gì?” “Sở hữu vũ khí.”
“Thế thôi à?”
Mang theo vũ khí chả có vấn đề gì. Anton luôn có luật sư, thẩm phán và tiền bảo lãnh, nên chẳng có lý do chính đáng nào khiến gã phải ngồi tù dù chỉ một giờ đồng hồ, chứ đừng nói đến hai đêm, trừ phi gã đang đợi vài điều tra viên vụng về đến chứng minh Anton Obodovsky vô tội. Arkady không muốn chọc tức khía cạnh nguy hiểm của Anton, nhưng anh cũng chẳng muốn mình bị lợi dụng.
Anton lấy mấy cuốn hướng dẫn du lịch ra khỏi giường. “Này, ngay khi được ra khỏi đây, tôi sẽ đi du lịch. Theo anh, tôi nên đi đâu? Đảo Síp? Thổ Nhĩ Kỳ? Tôi không uống rượu hay sử dụng ma túy, và như thế sẽ loại trừ rất nhiều địa điểm.
Tôi muốn có làn da rám nắng, nhưng tôi lại rất dễ bị đen. Anh nghĩ sao?” “Anh muốn quần áo đẹp? Yên tĩnh? Đồ ăn ngon?”
“Phải.”
“Một nhân viên chuyên phục vụ các ý thích của anh?”
“Đúng!”
“Tại sao không ở ngay trong Butyrka?”
Zhenya nhìn chằm chằm vào thứ mà hầu hết mọi người đều gọi là đường thoát khỏi đất nước, giống như tù nhân bị xích vào một chỗ. Cư dân Matxcova đang đổ vào các quả đồi thấp nằm trong thành phố, tràn đến các căn nhà mộc mạc ở ngoại ô và vây quanh bãi biển lẫn các gian hàng giảm giá khổng lồ, và nếu đường cao tốc được chia thành bốn làn, các tài xế lập tức sáng tạo thêm hai làn nữa.
Arkady không thực sự hiểu rõ lợi ích chính đáng cho bữa tiệc ngoài trời
của Hội từ thiện Bầu trời xanh của Pasha Ivanov, nhưng anh chẳng muốn đánh mất cơ hội gặp gỡ hai triệu phú Nikolai Kuzmitch và Leonid Maximov. Những người bạn thân thiết này của Ivanov chắc chắn sẽ tham dự. Suy cho cùng, họ đã đi nghỉ cùng ông ta ở St. Tropez khi một gói mìn bị phát hiện gắn trên mô tô nước của Pasha. Ngày mai, họ sẽ tản đi bốn phương tám hướng trên những chiếc phản lực cùng đám luật sư tên tuổi của mình. Vì vậy bữa tiệc là cơ hội duy nhất của Arkady và anh đã lợi dụng Zhenya để ngụy trang cho mình. Arkady cố rũ bỏ cảm giác tội lỗi bằng cách tự nhủ rằng Zhenya sẽ được thay đổi không khí.
“Có thể sẽ có bơi lội ở đây. Chú đã mang cho cháu một bộ đồ bơi để phòng trước,” Arkady nói và chỉ vào hộp quà dưới chân thằng bé. Cho đến lúc này Zhenya vẫn phớt lờ nó. Giờ thằng bé bắt đầu dùng gót chân giẫm bẹp vỏ hộp. Arkady thường để một khẩu súng lục trong ngăn chứa đồ. Anh đã nhìn xa trông rộng mà bỏ hết các tạp chí đi và thầm khen ngợi mình về chuyện đó. “Hoặc có lẽ cháu là người của đất liền.”
Ngay cả khi những chiếc xe len lỏi, lạng lách giữa lòng đường và hai bên lề, giao thông vẫn chậm như sên. “Thường nó sẽ trở nên tệ hơn,” Arkady nói. “Luôn có xe bị hỏng tấp vào lề đường. Chẳng tài xế nào ra khỏi nhà mà mang theo tuốc-nơ-vít và búa để sửa cả. Chúng ta không biết nhiều về ô tô nhưng lại biết cách dùng búa.” Zhenya hung hăng đạp cú cuối cùng lên cái hộp. “Đồng thời, kính chắn gió có rất nhiều vết nứt mà cháu phải thò đầu ra ngoài cửa sổ giống lũ chó mới có thể nhìn được. Cháu thích loại xe nào nhất? Maserati? Moskvich*?” Một hồi im lặng. “Bố chú thường chở chú trên con đường tương tự thế này trong một chiếc Zil lớn. Đường chỉ có hai làn và hiếm khi bị tắc. Bọn chú còn chơi cờ lúc đang đi nữa, tuy nhiên chú không chơi giỏi được như cháu. Phần lớn chú thường chơi đố chữ.” Một chiếc Toyota vượt qua với những đứa trẻ ngồi ở ghế sau đang chơi trò oẳn tù tì như
thường lệ, những đứa trẻ hạnh phúc. Zhenya ngồi im như hóa đá. “Cháu có thích xe hơi của Nhật không? Chú đã từng đến Vladivostok* và thấy hàng đống ô tô Nga mới toanh được xuất sang Nhật đấy.” Thực tế, khi những chiếc xe đó được đưa tới Nhật, chúng liền bị biến thành phế liệu. Ít nhất, người Nhật đã rất lịch sự chờ đến khi chúng tới Nhật rồi mới nghiền nát như vỏ lon bia. “Bố cháu đi loại xe nào?”
Arkady hy vọng thằng bé nhắc đến một chiếc xe để bằng cách nào đó có thể truy tìm được, nhưng Zhenya chỉ co người vào sâu trong áo khoác và kéo mũ sụp xuống mặt. Bên kia dải đường nhằm tưởng nhớ những chiếc bẫy xe tăng, trông như những miếng jack* khổng lồ, đánh dấu sự tiến bộ mới nhất của Đức so với Matxcova trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Giờ đây, bãi tưởng niệm trở nên thật nhỏ bé khi đứng cạnh kho chứa hàng của siêu thị bán lẻ của hãng Ikea và bị che khuất bởi từng đoàn xe chất đầy đồ nội thất với màu sắc dịu mát của Thụy Điển. Những quả khí cầu dùng để quảng cáo của các hãng Panasonic, Sony, JVC đung đưa theo gió phía trên gian hàng âm thanh. Các cửa hàng bán đồ làm vườn cung cấp bồn tắm cho chim và các tượng lùn bằng sứ. Trông Zhenya cũng giống như vậy, Arkady thầm nghĩ, một bức tượng lùn canh vườn khốn khổ với mũ vải vành rủ, sách và bộ cờ vua.
“Ở đó sẽ có nhiều đứa trẻ khác nữa,” Arkady hứa hẹn. “Trò chơi, âm nhạc, đồ ăn.”
Mỗi chiêu bài Arkady tung ra đều bị đáp trả với vẻ khinh miệt. Anh đã chứng kiến nhiều bậc cha mẹ rơi vào tình cảnh này, mỗi lời gợi ý đều là một dấu hiệu của sự ngu ngốc và chắc chắn trong tiếng Nga không có từ ngữ nào xứng đáng để đáp trả. Và Arkady, với tất cả niềm cảm thông, luôn thở phào nhẹ nhõm vì anh chẳng phải ông bố, bà mẹ ấy. Nhưng bây giờ, anh cũng không chắc tại sao một người chưa lập gia đình như anh lại phải chịu đựng sự
khinh rẻ đó. Các nhà xã hội học đang lo ngại về tỉ lệ sinh giảm mạnh ở Nga. Anh nghĩ nếu các cặp vợ chồng bị buộc phải dành một giờ trong xe với Zhenya, chắc hẳn sẽ chẳng còn đứa trẻ nào được sinh ra nữa. Họ sẽ chui qua cửa và trốn mất tăm.
“Sẽ rất vui,” Arkady nói.
Cuối cùng, Arkady cũng đến được vùng ngoại ô của các câu lạc bộ thể dục, quán bar espresso cùng tiệm thuộc da. Nhà cửa ở đây không còn là nhà gỗ truyền thống với mái chảy và khu vườn xiêu vẹo nữa, thay vào đó là những căn biệt thự bề thế với cột chống kiểu Hy Lạp, bể bơi và máy quay an ninh. Nơi lối đi hẹp dần dẫn đến một con đường thôn dã, nhân viên bảo vệ của Ivanov chỉ chỗ cho anh đậu xe ở lề đường đằng sau một dãy SUV kềnh càng. Arkady vẫn mặc chiếc áo khoác vải bạt tồi tàn như lúc đến Butyrka, còn Zhenya trông hệt như bị bắt làm con tin, nhưng bảo vệ đã tìm thấy tên Arkady trong danh sách. Rồi giống như kẻ đột nhập, Arkady và Zhenya bước qua cánh cổng sắt đến một bãi cỏ rộng hàng trăm mét vuông được trang trí thành không gian vũ trụ.
Những con ngựa nhỏ màu hồng và lạc đà không bướu màu xanh chở trên lưng đám trẻ nhỏ chạy quanh một vòng tròn. Một nghệ sĩ tung hứng các mặt trăng. Một ảo thuật gia uốn những quả bóng bay thành những chú chó sao Hỏa. Một nghệ sĩ vẽ mặt cho bọn trẻ với sơn và chất bột lấp lánh, trong khi một người sao Kim, với thân hình bị kéo dài do trọng lực yếu trên sao Kim, sải bước trên cà kheo. Những đứa bé mới chập chững biết đi chơi đùa bên dưới một phi thuyền bơm khí được buộc xuống đất bằng dây thừng và những đứa lớn hơn xếp hàng chơi tennis, cầu lông hoặc nhún nhảy ở khu Trọng lượng thấp với các dây cáp đàn hồi.
Danh sách khách mời cũng rất đáng chú ý: Vận động viên bơi lội đoạt giải Olympic với đôi vai rộng, ngôi sao điện ảnh với mái tóc được làm rối một
cách có chủ ý, những gương mặt truyền hình với hàm răng trắng bóng, ngôi sao nhạc rock đằng sau cặp kính đen, những cây viết nổi tiếng với cái bụng phệ vì bia rượu nhô ra ngoài quần jean. Trái tim Arkady chợt lỗi một nhịp khi nhận ra nhà phi hành vũ trụ, anh hùng thời tuổi trẻ của mình, được thuê đến đây chỉ để làm cảnh.
Tuy nhiên, tinh thần chủ đạo hôm nay vẫn là Ivanov. Một bức ảnh của Pasha được treo ở lối vào cùng một vòng kết từ hoa đậu ngọt và hoa cúc. Đó là bức ảnh một Ivanov sôi nổi, nhăn mặt đóng kịch giữa hai chú hề đang làm xiếc, mang lại không khí vui vẻ cho khách mời để họ có thể chơi đùa, chứ không thấy đau buồn. Bức ảnh được chụp không lâu trước đó, nhưng trông ông thật trẻ trung, tinh nghịch và sống động, không giống ông của những ngày gần đây. Nó như lời cảnh báo: Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Lính gác cổng hẳn đã gọi điện báo trước vì Arkady có cảm giác một luồng sóng chú ý dõi theo anh từ đám khách dự tiệc lẫn sự chuyển động của đám vệ sĩ với điện đàm liên lạc gắn ở tai. Bọn trẻ dính đầy kẹo bông chạy đi chạy lại. Đàn ông tụ tập quanh các phên nướng đang phục vụ món cá tầm xiên que và thịt bò ngay trước căn nhà của Ivanov, kích thước to gấp mười căn nhà bình thường, nhưng ít nhất cũng được xây dựng theo kiến trúc của Nga, chứ không phải đánh cắp ý tưởng từ đền thờ nữ thần Athena của Hy Lạp cổ đại.
Lúc đầu, một DJ chơi các bản nhạc Nga sôi động, tiếp theo mọi người sẽ hát karaoke. Các quầy rượu riêng biệt phục vụ champagne, Johnny Walker*, Courvoiser*. Các bà vợ là những người phụ nữ mảnh mai, cao ráo trong các nhãn hiệu thời trang Ý và những đôi giày cao cổ bằng da cá sấu hoặc đà điểu. Họ ngồi ở bàn, tại những vị trí có thể quan sát cả con cái lẫn đức ông chồng, đồng thời lo lắng dõi theo một lớp các cô gái trẻ trung, nổi bật trong đám đông, thậm chí còn cao và thon thả hơn họ. Timofeyev đang đứng xếp hàng
đợi lấy đồ ăn cùng công tố viên Zurin, người đang cẩn thận quan sát đám đông như kính ngắm với vẻ chờ đợi. Đó không phải là dấu hiệu tốt vì tuy ông ta có vẻ nhìn khắp nơi nhưng lại chăm chú vào Arkady.
Timofeyev có vẻ nhợt nhạt và run rẩy, không giống hình ảnh một người vừa được ngồi vào vị trí cầm cương cả tập đoàn NoviRus. Xa hơn về phía trên, Bobby Hoffman, người Mỹ của ngày hôm qua, đứng một mình, nhấm nháp đĩa đầy ú thức ăn.
Trong sòng bạc ngoài trời vừa được dựng lên và cho dù ở khoảng cách khá xa, Arkady vẫn nhận ra những người bạn tốt của Ivanov: Nikolai Kuzmitch cùng Leonid Maximov. Họ khá trẻ trung trong chiếc quần jean giản dị, không mặc đồ mafia đen xì, cũng chẳng lủng lẳng vàng bạc một cách phô trương. Dù tay chia bài sẽ đẩy về phía họ cả tiền mặt lẫn phỉnh bạc*, nhưng Kuzmitch và Maximov vẫn nhoài người qua mặt bàn bọc nỉ, quơ lấy chúng như những cậu bé nghịch ngợm.
Điểm khác biệt của Thế hệ Nga mới: Họ là những người trẻ tuổi và rất có đầu óc. Với số lượng nhiều bất thường, họ trở thành những người đỡ đầu và nhân vật rất được yêu mến của các học viện uy tín đột nhiên bị phá sản. Và không chấp nhận bị chôn vùi trong đống đổ nát, họ vươn lên, xây dựng lại thế giới, trở thành các triệu phú, mỗi người đều có tiểu sử của bậc thiên tài và can đảm. Họ tự coi mình như những ông trùm trộm cướp ở miền Tây hoang dã, chẳng ai nhận ra mọi vận may lớn đều bắt nguồn từ tội ác? Có phải là vận may không? Matxcova có hơn ba mươi tỉ phú, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào trên thế giới.
Kuzmitch, một sinh viên của Học viện Kim loại quý hiếm, bán titan từ một kho chứa không được bảo vệ và mạo hiểm đánh cược sự nghiệp vào niken và thiếc. Maximov, một nhà toán học, thì được giao nhiệm vụ lên danh sách số lượng tham dự một cuộc đấu giá; lúc đó, Bộ Hóa học ngoại lai bán
một phòng thí nghiệm và vụ đấu thầu hứa hẹn sẽ là cuộc hỗn loạn. Maximov đưa ra một ý tưởng hay hơn: đấu giá tại một địa điểm không được công bố. Những người chiến thắng đầy bất ngờ, Maximov và con cháu của một người trong bộ, đã biến phòng thí nghiệm đó thành nhà máy sản xuất rượu, khởi đầu vận may của Maximov trong lĩnh vực rượu vodka và ô tô nhập ngoại.
Tuy nhiên, ví dụ điển hình nhất chính là Pasha Ivanov, một nhà vật lý, con cưng của Viện vật liệu chịu nhiệt cực cao, người bắt đầu chẳng có gì trong tay ngoài một quỹ ma và rồi một ngày, ông ta để mắt đến Công ty tài nguyên Siberia, một doanh nghiệp khổng lồ chuyên chế biến gỗ, sở hữu các nhà máy cưa và hàng trăm ngàn héc ta rừng thẳng tắp nhất nước Nga. Ông lập kế thả con săn sắt, bắt con cá rô. Ivanov đã mua vài món nợ vụn vặt của Siberia và kiện ra tòa với tội danh tham nhũng. Công ty tài nguyên Siberia thậm chí còn không biết về vụ kiện cho đến khi quyền sở hữu được chuyển giao cho Ivanov. Nhưng ban lãnh đạo của công ty lại không chịu bó tay. Họ cũng đệ đơn kiện lên thẩm phán và tòa án riêng. Một cuộc vây hãm được kéo dài cho đến khi Ivanov liên kết với lực lượng quân sự địa phương. Pasha Ivanov đã thuê những sĩ quan và binh lính nhiều tháng không được trả lương, phá vỡ hàng phòng thủ ở cổng các xưởng cưa. Tuy xe tăng không trang bị súng máy nhưng vẫn là xe tăng và Ivanov đã cưỡi chiếc đầu tiên đi xuyên qua.
Đây là lần đầu tiên Arkady được thâm nhập sâu đến như vậy vào thế giới của những kẻ siêu giàu. Tuy nhiên, Zhenya lại cảm thấy cực kỳ khốn khổ. Khi Arkady nhìn bữa tiệc qua đôi mắt Zhenya, mọi màu sắc đều trở nên ảm đạm. Thứ thằng bé nhìn thấy là những đứa trẻ giàu có với điện thoại di động, bố mẹ, sự tự tin, trong khi cậu bé phải ở trại mồ côi bị bỏ rơi theo đúng nghĩa đen. Trò lừa bịp mà Arkady đã lên kế hoạch cho thấy nó chính là một thử nghiệm ngu ngốc và độc ác. Cho dù Zhenya có hằn học hay xa lánh mọi người thế nào thì thằng bé cũng chẳng đáng bị đối xử thế này.
“Chuẩn bị về à?” Timofeyev hỏi.
“Bạn của tôi cảm thấy không được khỏe.” Arkady hất đầu về phía Zhenya. “Thật đáng xấu hổ, nó còn quá trẻ mà lại chẳng khỏe mạnh.” Timofeyev làm cử chỉ yếu ớt với một nụ cười. Ông ta khụt khịt, nắm chặt chiếc khăn tay với vẻ sẵn sàng. Arkady chú ý tới vài đốm nâu trên áo sơ mi của ông ta. “Tôi nên thành lập một tổ chức từ thiện như thế này. Tôi nên thực hiện thường xuyên hơn. Anh có biết Pasha và tôi lớn lên cùng nhau không? Chúng tôi học cùng trường, làm cùng viện nghiên cứu khoa học. Nhưng sở thích của chúng tôi lại hoàn toàn khác nhau. Tôi chưa bao giờ thích tán tỉnh phụ nữ. Tôi quan tâm đến thể thao hơn. Chẳng hạn như Pasha có một con dachshund, còn tôi có chó săn.”
“Ông không nuôi nữa à?”
“Thật đáng tiếc, không, tôi không thể. Tôi… Tôi chỉ có thể nói rằng cuộc điều tra là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm, đưa ra mọi thông tin chúng tôi có.”
“Cuộc điều tra nào?” Chắc chắn không phải cuộc điều tra của Arkady. “Pasha từng nói vấn đề không phải là có tội hay vô tội, đôi khi cuộc đời một con người đơn giản chỉ là chuỗi phản ứng dây chuyền.” “Có tội về chuyện gì?”
“Theo anh, trông tôi có giống quái vật không?”
“Không.” Arkady thầm nghĩ Lev Timofeyev có thể là đối tác và là kẻ xúi giục, lừa đảo để tước đoạt hết khoản tiết kiệm của các góa phụ, nhưng chắc chắn không phải là quái vật. Timofeyev trông giống một vận động viên đã từng rất tráng kiện, bị bó chặt lại trong bộ đồ của ông ta. Có lẽ là do quá đau buồn bởi cái chết của người bạn nối khố, nhưng gò má xanh xao và hõm sâu của ông ta lại khiến Arkady nghĩ tới bệnh tật, có lẽ là đấu tranh nội tâm.
“Tôi không phải quái vật. Pasha và tôi đã cố gắng giúp đỡ. Bất cứ ai với
"""