"
Cho Một Tách Trà Đặc Nhé - Aziz Nesin full mobi pdf epub azw3 [Hài Hước]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cho Một Tách Trà Đặc Nhé - Aziz Nesin full mobi pdf epub azw3 [Hài Hước]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRUYỆN NGẮN AZIT NEXIN
Cho một tách trà đặc nhé
Anh lính Mêmét làng Êmét
Biết ơn vạn bội
Cái kính
Cơn ác mộng
Chiếc gương kỳ diệu
Cả một ổ
Có nên làm bác sĩ không con
Chuyện vợ chồng
chát xình chát chát bùm
Điệp viên OX-13
Đừng quên mua dây thun cho quần đùi nhé Diễn văn trong lễ khánh thành
Giá không có ruồi
Hội cứu vớt gia đình
Hội nghị các nhà giải phẫu
Hội nghị phụ huynh
Không thể thành người
Lên giá đến nơi rồi
Lỗi là tại anh
Những điều trớ trêu của kỹ thuật
Nhỏ và đẹp
Những người thích đùa
Người phụ nữ xã hội
Nếu tôi là đàn bà
Nhiệm vụ đặc biệt
Nghĩa vụ đối với Tổ quốc
Phải ho lao mới được
Phải hét thật to
Phụ tùng thời đại văn minh Quê ta vạn tuế
Rất tiếc là không xong rồi Tội đồ bất đắc dĩ
Thôi thì ở lại
Thanh tra sắp đến
Vụ lộn xộn trong quán rượu Vì sao mèo cúp đuôi chạy Xếp hàng
Xin mời bác cứ đến chơi Xót tiền dân
Cho một tách trà đặc nhé
Ở những người cùng thế hệ với tôi, nghĩa là những người sinh ra vào cuộc Đại thế chiến thứ nhất và lớn lên đúng vào cuộc Đại thế chiến thứ hai, thì trừ một vài trường hợp rất hãn hữu, còn thì tôi cam đoan là anh nào cũng có một thói lập dị nào đó. Mà thậm trí đối với nhiều anh, nó còn trở thành một thứ nghiện nữa là đằng khác. Tôi dám đánh cuộc là phần đông những anh nào hễ cứ vừa đi ngoài đường vừa lẩm bẩm nói hay mỉm cười một mình, hay vừa đi vừa nháy mắt hay nhún vai, thì đều trạc tuổi tôi cả.
Riêng về phần tôi, cái thứ nghiện đó là nước chè. Ngày nào mà chưa uống đủ hai ba chục chén là tôi không thể chịu được. Tất nhiên, sở dĩ tôi chỉ ra một thói hư dễ tha thứ nhất trong các thói hư của tôi, chẳng qua là vì tôi độ lượng với mình mà thôi, chứ đối với chính bản thân tôi, chưa chắc tôi đã dám thú nhận.
Cái bệnh nghiện nước chè của tôi phát sinh là do một hoàn cảnh như thế này. Bấy giờ là vào những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, thời kỳ mà tìm được một mẩu bánh mì khô là đã quí lắm rồi. Một hôm, khi tôi mới được độ chín tháng, khi biết ông bố tôi kiếm được ở đâu một ống bơ nước chè to đại. Ông thả vào đấy mấy cái vỏ bánh mỳ khô, ngoáy lên, rồi cho tôi uống. Thế là vi trùng nghiện vào máu tôi ngay từ khi mới lọt lòng.
Thật không ngờ cái sự nghiện nước chè ấy đã khiến tôi nhiều phen khốn khổ, nhất là những lần tôi phải đi xa. Nhưng khổ nhục nhất phải nói là cái lần tôi có việc phải dừng chân ở một tỉnh nọ, mà tôi không muốn nói tên ra đây.
Sáng hôm ấy, vì phải đi tiếp đến một nơi xa bằng ô tô buýt nên tôi dậy rất sớm. ở khách sạn ai cũng biết tôi là người nghiện chè nên sáng nào họ cũng mang cho tôi một lúc mấy tách. Bởi thế nên trước khi ra khỏi buồng, tôi đã kịp tợp hết bốn tách.
Trong câu chuyện của tôi có thể có đôi chỗ làm bạn khó chịu, vì nó không được văn minh cho lắm, nên tôi phải nói trước. Chắc các bạn đã biết, nước chè có công dụng rất tốt là vì, nói vô phép các bạn, nó rất lợi tiểu. Cứ cho vào bốn tách thì thế nào cũng phải cho ra một tách.
Sợ nhỡ ô tô nên cứ để nguyên bốn tách ở trong bụng, tôi lao vội xuống dưới nhà. Nói của đáng tội, bốn tách đối với tôi thì vẫn chưa mùi mẽ gì, vì tôi đã quen rồi.
Ông chủ khách sạn là một người vui tính và tốt bụng mà tôi mới quen biết. Khi tôi xuống đến dưới nhà, ông bảo tôi:
- Từ giờ đến lúc xe chạy vẫn còn thời gian, mời ông xơi tách trà đã!
Tôi uống với ông ta tách thứ năm.
- Tôi biết ông thích uống nước chè lắm - ông ta nói - Vậy mời ông xơi thêm tách nữa!
Nước chè của ông ta rất ngon, nên không nói chắc các bạn cũng biết là tôi không thể từ chối nổi.
Thế là thành sáu tách tất cả. Sáu tách đôi với tôi thì cũng chưa lấy gì làm nhiều lắm, nhưng dù sao cũng cần phải ra ngoài một chút. Tôi đã định xin phép, nhưng thấy chủ nhân cứ thao thao bất tuyệt nên không dám ngắt lời. Vừa lúc đó thì có một bà trạc trung tuần bước vào.
- Thưa ngài, tôi là người hôm qua được hầu chuyện ngài bằng điện thoại đấy ạ! Bà ta tự giới thiệu.
- Ồ, rất hân hạnh được gặp bà.
Người đàn bà ấy hoá ra vừa là nhà thơ, nhà viết truyện ngắn, nhà viết tiểu thuyết kiêm nhà viết kịch. Bà ta đã đưa tặng tôi bốn tác phẩm của mình.
- Xin lỗi, bà dùng trà hay cafe ạ? - tôi hỏi.
- Xin ông nước trà ạ!
Không hiểu sao, tôi cảm thấy nếu chỉ gọi nước trà cho mình bà ta thôi thì thật là bất lịch sự. Nên tôi lại phải uống với bà ta một tách nữa là thành bảy tách.
Sau tách thứ bảy, tôi đã bắt đầu thấy hơi khó chịu, tuy chưa đến mức độ khó chịu lắm. Nhưng lẽ nào vừa mới làm quen với một người phụ nữ đã vội đứng dậy xin phép đi ra. Đã mấy lần tôi định nói: “Xin lỗi bà, tôi chạy về buồng một phút, tôi để quên một thứ ở đấy” hoặc “Xin phép, bà tôi chạy ra chỗ máy điện thoại một phút”. Nhưng bà khách đang cơn cao hứng bàn luận về thơ ca nên tôi không sao nói xen được câu nào.
- Cuộc sống ở đây mới buồn làm sao! - cuối cùng bà ta thở dài nói.
- Vâng, nhất là lúc này tôi lại cảm thấy buồn... - tôi đáp. - Nhưng ngài còn có thể trút bỏ nỗi buồn của mình.
- Đấy là bà tưởng vậy thôi, chứ giá mà tôi có thể trút bỏ nỗi buồn này...
- Thế cái gì làm ngài khó chịu ạ?
- Đó là cái ước muốn không thực hiện được... Tôi thấy khó diễn đạt quá...
- Vâng, ngài nói đúng. Không phải bất cứ tình cảm nào ta cũng có thể diễn đạt được thành lời, vì ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn quá!
- Dạ không. Kể ra thì diễn đạt thì cũng có thể diễn đạt được, nhưng tôi cảm thấy khó nói thế nào ấy...
Bà khách hơi tỏ vẻ ngạc nhiên.
- A! thế ra ngài...
Nhưng bà ta chưa kịp nói hết câu thì vừa lúc có ba người đàn ông tiến lại phía chúng tôi. Một đã có tuổi, còn hai người trạc trung niên. Đó là ông bác sĩ của tỉnh và ông luật sư.
Họ vừa mới biết tin là tôi đang ở đây.
- Rất hân hạnh được làm quen với các ông.
Các vị khách mới này cũng cần phải tiếp đãi. Nhưng ngoài trà và cafe ra thì không còn cái gì khác. Vì thế tôi sẽ lại phải cùng uống với họ.
- Ồ, không đời nào, ông bác sĩ tuyên bố, Ngài là khách của chúng tôi thì chúng tôi phải đãi ngài chứ! Rồi ông ta quay sang bảo người hầu bàn:
- Cho năm tách trà nhé!
Tách thứ tám đã cạn mà tôi vẫn chưa tìm được cớ gì để ra ngoài một lát. Lúc này tôi đã thấy khó chịu thực sự rồi chứ không còn nói đùa nữa. Nhưng vừa làm quen với họ xong, chả lẽ... Hơn nữa, cả ba vị khách này đều là những người có tư tưởng tiến bộ cả.
- Theo ý ngài thì có cách gì để giảm nhẹ gánh nặng của dân chúng không ạ? - Viên luật sư hỏi
Trời ơi! Làm sao tôi có thể nghĩ đến chuyện giảm nhẹ gánh nặng cho người khác, trong khi chính tôi đang cần phải trút bỏ gánh nặng trong người!
- Tôi thấy cần phải đi ra ngoài...
- Ngài định nói gì ạ? - Ông bác sĩ không hiểu.
- A! Chắc là ngài muốn nói phải đi ra khỏi biên giới nước ta. - Ông luật sư trả lời thay tôi. - Phải, chúng ta phải cho thanh niên đi du học nước ngoài thật nhiều mới được, vì có nhiều cái chúng ta cần phải học hỏi ở họ lắm!
Nói vô phép các bạn, lúc này tôi đã... buồn... cứng cả người, không thể chịu được nữa. Thôi kệ! Chả lịch sự thì đừng! Tôi nghĩ thầm như vậy rồi bảo họ:
- Xin lỗi các vị một chút...
Nhưng tôi cha kịp đứng lên thì một nhân vật mới đã xuất hiện. Đó là một thương gia trẻ mà tôi mới quen cách đây hai hôm. Ông này đối với tôi cũng có rất nhiều cảm tình thân thiện.
- Ô tô sẽ khởi hành từ trạm giao thông. - Ông ta báo cho chúng tôi biết.
Tôi vội vàng đứng dậy, định tìm cách chuồn khỏi họ một phút. Nhưng không kịp. Ông thương gia đã kẹp chặt một bên nách tôi, còn nách bên kia là ông luật sư. Tôi không nỡ xúc phạm đến cử chỉ thân thiết của họ, nên đành chịu cứng. Có hai người xốc nách hai bên, tôi bước ra khỏi khách sạn như một tên tội phạm. Tám chén nước trà cứ ùng ục trong bụng, may mà có hai người đỡ hai bên, chứ không thì có lẽ tôi không đi nổi.
- Ngài khó chịu à?
- Vâng, hơi khó chịu.
- Ngài làm sao thế?
- Tôi cũng không biết nữa. Nhưng tôi thấy trong người hơi khó chịu, y như có cái gì nó...
-. .. Đè nặng trong người phải không ạ?
- Vâng, hình như thế.
- Thì tình cảnh nước nhà thế này ai mà không thấy đau lòng?! Chúng tôi đi đến một quảng trường, rồi lại vượt qua hai dãy phố. Trời! Tôi chỉ mong sao đến trạm cho nhanh! Đến đó rồi, thì có ngượng đến mấy cũng mặc, tôi phải chạy đi tìm ngay cái chỗ cần thiết.
Nhưng không ngờ, trạm to thế mà cái chỗ tôi cần tìm thì lại không có.
- Ngài uống trà hay cafe ạ?
-Không, cám ơn! Tôi không uống gì đâu!
- Ấy chết! Sao lại thế ạ! Muốn gì thì ngài cũng phải uống với chúng tôi một chén đã!
Người ta mang trà đến. Tôi uống vội vàng hết ngụm này đến ngụm khác để tranh thủ thời gian. Cứ mỗi ngụm tôi lại thấy bụng đau nhói. Uống hết tách trà thứ chín tôi bắt đầu thấy người vã mồ hôi. Nhưng có khi ra mồ hôi thế lại hóa hay, vì có thể tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Thấy mặt tôi lấm tấm mồ hôi, viên luật sư hỏi:
- Ngài khó chịu à?
- Vâng, tôi thấy khó chịu lắm!
- Tôi có thuốc đây, uống vào sẽ hết ra mồ hôi ngay!
- Ấy thôi, tôi không uống thuốc đâu!
Nhưng người thư ký vẫn mang đến cho tôi mấy viên thuốc và một cốc nước. Mọi người đồng thanh bảo:
- Ngài uống đi ạ!
Giá như được lựa chọn, thì có lẽ tôi xin nuốt ngay tấm bọt biển hay một tờ giấy thấm còn hơn. Mọi người gần như phải dùng áp lực ép tôi uống mấy viên thuốc và cốc nước.
- Tôi không chịu nổi nữa đâu! - uống nốt cốc nước xong tôi bảo họ - Tôi phải đi ra ngoài đây!...
- Ngài vẫn thấy khó chịu ạ?
- Tôi khó chịu lắm! - Tôi lảo đảo đứng dậy, định đi ra, thì có một người bước vào nói:
- Ô tô sắp chạy, xin mời các vị lên xe ngay cho.
Tình trạng mỗi lúc một nguy ngập: gần hai chục vị trí thức của tỉnh mà tôi mới quen biết ra tiễn tôi. Người nào cũng tranh nhau nói, tranh nhau kể. Làm thế nào tôi thoát ra khỏi tay họ được! Chúng tôi đã đến trạm giao thông. Nhưng té ra người ta chưa bơm lốp xe. Viên thư ký trạm cũng là một anh chàng sính chuyện văn chương. Anh ta nói:
- Tất nhiên là ngài không biết chúng tôi, nhưng chúng tôi thì biết ngài rất rõ. Trong khi chờ bơm xe, xin mời ngài uống với chúng tôi chén trà đã!
- Cám ơn anh, tôi vừa uống xong.
- Ấy chết! Xin ngài đừng từ chối.
Chao ôi! Thử hỏi trên đời này còn có cực hình nào hơn thế nữa. Uống hết tách trà thứ mười, tình trạng tôi đã hoàn toàn nguy kịch: tim tôi đập mạnh, tai ù lên. Tôi không còn nghĩ gì đến chuyện xấu hổ
nữa. Tôi phải hỏi thẳng họ xem nhà vệ sinh ở đâu để tôi chạy đi mới được.
- Chỗ đi tiểu ở đâu nhỉ? - Tôi nhăn nhó hỏi
- Nhà vệ sinh ấy ạ?
- Phải.
- Ở sân nhà thờ lớn kia ạ! Cách đây khá xa.
Đúng lúc đó người tài xế đã bơm xong lốp xe bước vào: - Xin mời các vị lên ô tô cho!
Cái bộ dạng của tôi lúc này đã thảm hại lắm, ấy thế mà tôi vẫn phải cố gượng cười với những người đi tiễn thì không biết trông nó ra làm sao? Tôi phải cố nhếch mép làm một nụ cười méo xẹo, ô tô bắt đầu chuyển bánh. Chúng tôi vẫy tay chào nhau.
Đi được một lúc thì tôi cảm thâý dễ chịu hơn. Có lẽ những cái xóc ô tô đã làm cho cái bụng đầy nước của tôi nó xẹp đi chăng? Xe cứ tiếp tục chạy.
- Bao giờ thì đến nơi nhỉ?
- Khoảng hai tiếng rưỡi nữa.
Kể ra, cứ ngồi nguyên một chỗ như thế thì cũng chưa sao, tôi thấy vẫn còn có thể chịu được. Đi chừng một tiếng rưỡi đồng hồ thì ô tô bắt đầu tiến vào một thị trấn và dừng lại trước một quán cafe. Tôi vội nhảy ngay xuống, hai tay ôm lấy bụng. Đưa mắt nhìn xung quanh, tôi hy vọng tìm được một nơi nào khuất vắng. Nhưng chết rồi, lại có bốn người nào vừa tiến lại phía tôi vừa mỉm cười!
- Chào bác ạ! Xin giới thiệu, chúng tôi là những giáo viên ở đây. Chúng tôi được người ta gọi điện báo cho biết là bác sẽ đến đây. Tôi trả lời họ, mặt thì nhăn nhó:
- Rất hân hạnh!
- Ô tô còn đỗ ở đây chừng dăm mười phút. Vậy mời bác vào xơi nước đã.
Nghe nói đến nước, tôi bủn rủn cả chân tay. Người ta kéo tôi vào tiệm cafe.
- Tôi không uống trà đâu!
- Nếu vậy mời bác xơi cafe nhé?
- Không, cafe cũng chịu thôi!
- Thế thì bác phải uống một chút gì, chứ không thì thật là tủi cho chúng tôi!
Rồi họ vẫn cứ mang trà đến. Nhưng trà nào có ra trà! Uống xong tách thứ mười một, bụng tôi đau quặn.
- Ở đây đi tiểu ở chỗ nào nhỉ? - Tôi đành hỏi thẳng. Bỗng có tiếng người tài xế kêu to:
- Yêu cầu hành khách lên xe thôi!
- Nhà vệ sinh ấy ạ? Ở trường học đằng kia cơ ạ! - Một vị giáo viên nói rồi chỉ tay về phía tít ngọn đồi trước mặt. Nhưng tôi còn hơi sức đâu mà leo lên được đấy!
- Yêu cầu hành khách lên xe! Người tài xế lại giục một lần nữa. - Không có ai quan tâm gì đến khó khăn của chúng tôi cả. - Một giáo viên nói.
- Vâng - tôi đáp - chẳng ai muốn lâm vào tình cảnh của những người khác làm gì. Mỗi người có nỗi khổ riêng của mình. - Không biết tình trạng này kéo dài đến bao giờ nữa?! Chân tôi lúc này muốn khuỵ xuống.
- Tôi chỉ mong sao chóng đến khách sạn thôi. Đến đó tôi sẽ dễ chịu ngay!...
Mọi người không hiểu tôi muốn nói gì, nhưng cũng cười ầm lên, vì tưởng tôi khôi hài.
Tôi lên ô tô ngồi.
- Chúc bác lên đường bình an!
Thế là lần này chúng tôi không kịp chuyện trò gì với nhau. Thôi được, để đến lúc về vậy.
Nhờ những cái xóc của ô tô nên tôi lại thấy dễ chịu hơn. Hay là nói với tài xế cho xe dừng lại? Không biết có nên không nhỉ. Trong xe có đến năm, sáu chục hành khách, cả đàn bà trẻ con. Mọi người sẽ tập chung nhìn tôi mà cười mất! Lúc ấy thì biết chui vào đâu! Thôi, tốt nhất là cứ quên đi, đừng nghĩ đến nữa thì sẽ thấy dễ chịu thôi. Tôi nghĩ thầm như vậy.
Đúng lúc đó, có một chú bé bỗng kêu lên:
- Mẹ ơi! Con muốn đi tè!
- Cố nhịn đi một tí con!
Một hành khách kêu to bảo tài xế:
- Bác tài ơi, cho xe dừng lại chút nhé. Có người muốn đi tiểu! - Phải tính trước từ ở nhà chứ! - Người tài xế càu nhàu - Cứ mỗi người dừng lại một tí thì kiếp nào đến nơi được.
Tôi đang mừng thầm, nghe nói thế lại cụt hứng. Lại phải cố bóp bụng mà chịu vậy.
Ba tiếng rưỡi sau, chúng tôi mới đến nơi. Mọi người xuống xe. Khách sạn đã ở ngay trước mặt. Tôi chạy vội về phía đó. Nhưng có ba thanh niên bỗng chặn tôi lại. Cùng đi với họ có hai đại biểu của phái đối lập.
- Chúng tôi đang họp hội nghị.
Té ra cả hai vị đại biểu này đều quá tha thiết muốn gặp tôi, nên đáng lẽ phải đi sớm, nhưng họ đã nán lại đến tận chiều để chờ gặp tôi. Biết làm thế nào bây giờ?
- Xin lỗi các vị một phút đã...
- Xin ngài để sau hẵng hay, chúng tôi đang đợi ngài. Chúng tôi bước vào một văn phòng đầy người ngồi. Hội nghị chưa khai mạc.
- Mang trà lại đây nhé!
Tôi uống tách thứ mời hai. Có người hỏi:
- Không biết đến bao giờ mới chấm dứt thủ tục này? - Xin lỗi, ở đây có nhà vệ sinh không ạ?
- Sao ngài lại hỏi thế ạ?
- À, tôi chỉ hỏi thế thôi!...
- Mang thêm trà nhé!
- Thôi cám ơn, tôi đủ rồi.
- Đủ là thế nào ạ! Chúng tôi được biết là ngài thích uống trà lắm mà!
Tôi lại uống tiếp tách trà thứ mười ba.
- Ngài bảo đến bao giờ liệu mới chấm dứt cái trò này? - Riêng về phần tôi thì tôi thấy thật là nhục nhã!
- Trà gì mà loãng thế? Bảo pha đặc vào nhé! Này anh bạn! Cho thêm nước trà nhé! Mà thật đặc vào.
Tôi lại cạn chén thứ mười bốn.
- Thật không chịu đựng nổi nữa!
- Vâng, đúng là như vậy! Thì ngài bảo nỗ lực đến hết sức mình mà vẫn không đạt được nguyện vọng, thì ai còn đủ kiên nhẫn mà chịu đựng nữa?!
- Xin lỗi các vị, tôi đến khách sạn một chút rồi quay lại ngay! Tôi muốn chạy, nhưng không chạy nổi nữa, mà phải khom người đi ra ngoài.
- Rất hân hạnh được gặp ngài. Tôi là chánh văn phòng thị chính. Ngài tỉnh trưởng của chúng tôi hỏi thăm ngài từ sáng. Chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi về phía khách sạn. - Xin mời ngài vào ạ! Đây là toà thị chính.
- Xơi mời ngài xơi nước!
- Cám ơn ông, tôi không uống được nước chè.
- Ồ thưa ngài, một chén thì có hề gì đâu ạ!
- Thôi đủ rồi ạ, cám ơn ông.
Có tiếng chuông điện thoại, viên giám đốc cầm ống nghe: - Bẩm ngài, vâng. Đang ở đây ạ! Vừa mới đến xong ạ. Đoạn ông quay sang bảo tôi:
- Ngài tỉnh trưởng đang chờ ngài.
- Thôi để xin phép ông lúc khác...
- Ồ, không được. Ngài là khách của chúng tôi. Chúng tôi không để ngài đi đâu cả!
Chúng tôi bước vào buồng làm việc của ông tỉnh trưởng. - Xin mời ngài xơi nước.
- Thú thật với ngài là tôi không uống được nước trà. Uống vào tôi sẽ bị sặc ngay.
- Dù sao cũng mời ngài xơi một chén. Chả lẽ khách đến chơi mà đến ngụm nước cũng không có.
- Cám ơn ngài, nhưng tôi không thể uống được!
- Ấy, không được. Có vội gì thì ngài cũng phải xơi một chén! Uống hết chén thứ mười sáu, tôi bỗng cười phá lên như điên. Viên tỉnh trưởng và chánh văn phòng toà thị chính vẫn đang bàn luận về tình hình đất nước.
- Thưa ngài, quả thực với cung cách làm ăn hiện nay thì đáng cười thật!
- Tôi cảm thấy bị tức lắm.
- Vâng, quả là cái lề lối mòn cũ nó làm ngài khó chịu, nhưng bây giờ chắc ngài đã thấy dễ chịu hơn... trước nữa...
- Ôi lạy chúa. Tôi không biết! Tôi thấy mỗi lúc một tức...! Về đến khách sạn, tôi lăng ngay chiếc cặp vào góc phòng và hỏi người gác cửa:
- Chỗ đi tiểu ở đâu?
- Thưa ngài, đã có lệnh của cảnh sát, ai không có đủ giấy tờ thì không được thuê buồng ạ!
Tôi đặt trước mặt anh ta tờ giấy khai sinh và bảo:
- Đây, anh giữ lấy làm kỷ niệm! Anh nói ngay cho tôi, nhà đi tiểu ở chỗ nào?
- Thưa ngài, ngài từ đâu đến ạ?
- Tôi van anh!
- Ngài sẽ ở lại mấy ngày và sau đó đi đâu ạ?
Phải cố sức lắm tôi mới bật được cánh cửa và leo lên cầu thang.
Ở phía cuối hành lang, tôi nhìn thấy một cánh của có ghi số: 00. Tôi đập cửa, nhưng hoá ra cửa bị khoá từ trong.
Tôi mở cánh cửa bên cạnh. Đó là phòng ngủ. Nhưng thôi cũng đành! Vì tôi không thể nhịn thêm một phút nào nữa.
Ôi! Thật là nhẹ nhõm! Người nào chưa từng phải chịu đựng như tôi, thì không thể hiểu thế nào là hạnh phúc! Tôi thanh thản bước xuống cầu thang. Tầng dưới là tiệm cafe. Tôi khoan khoái thả mình xuống một chiếc ghế và dõng dạc gọi người hầu bàn:
- Ồ, này! Cho một tách trà nhé! Thật đặc vào!
Anh lính Mêmét làng Êmét
Năm 1937 tôi hãy còn là một thiếu niên hiên ngang oai hùng lắm. Một ngày kia, tôi phải mang theo một số tiền lớn lên đường nhập ngũ. Thôi, thế là vĩnh biệt chuỗi ngày vui vẻ hồn nhiên rong chơi ngoài phố với chiếc áo phanh ngực bay phất phơ theo gió! Tôi phải thay đôi giày ngắn cổ xinh xắn đánh xi bóng lộn bằng đôi ủng to tướng sực mùi da thô và đeo chiếc dây lưng to bự.
Nhập ngũ được hai tháng thì bữa kia đơn vị tôi được tin sẽ có đoàn thanh tra xuống kiểm tra.
- Đích thân ngài Tổng chỉ huy sẽ xuống kiểm tra đấy! - viên chỉ huy đại đội căn dặn chúng tôi, - Việc đầu tiên của ngài bao giờ cũng là bắt các sĩ quan đọc tên các chiến sĩ, còn chiến sĩ thì phải đọc tên sĩ quan.
Các sĩ quan của chúng tôi ai nấy hoảng hốt triệu tập ngay binh sĩ bắt họ phải học thật thuộc những điểm ghi trong giấy lý lịch và họ tên các sĩ quan của mình.
Lần ấy cũng như mọi năm, ngài Tổng chỉ huy đến rất đúng giờ. Ngài cho xe dừng lại cạnh một đại đội và hỏi ngay người lính đầu tiên ngài gặp: tên tuổi, quê quán anh ta, sau đó ra lệnh cho anh ta kể tên các cấp chỉ huy của mình, từ tiểu đội đến trung đội, đại đội... Anh lính nọ đang kể rất trơn tru bỗng dưng tắc tị, đứng ngây ra như phỗng. Ngài Tổng chỉ huy giận lắm, nói dằn từng chữ:
- Người lính không thuộc hết tên các sĩ quan của mình thì không thể gọi là người lính!
Nói đoạn ngài lên xe đi thẳng, không thèm kiểm tra nữa. Sau lần kiểm tra đó, viên sĩ quan quân nhu trung đoàn chúng tôi có kể một câu chuyện như sau:
“Thật đến khổ vì những lần kiểm tra ấy! Hồi tôi còn là trung úy, tôi cũng phải cố tìm cách học thuộc tên các binh sĩ thuộc đại đội tôi. Thậm chí tôi phải đóng một quyển sổ riêng, ghi tên tuổi và đặc điểm của từng người vào đấy để học. Chẳng hạn như Ácmét Bôilu, da ngăm ngăm đen, mũi tẹt; Ali Méctôglu, mắt xanh, cằm chẻ... Các binh sĩ thì suốt ngày ngồi nhẩm tên các sĩ quan như tụng kinh vậy. Riêng có anh chàng Mêmét làng Êmét là tôi dạy thế nào anh ta cũng
không thuộc được. Anh chàng này là người thôn quê, cả đời chẳng bao giờ ra khỏi làng. Mà tiếng là sống ở làng, hắn cũng ít khi có mặt ở làng lắm. Hắn phải đi chăn súc vật, nên suốt ngày suốt đêm cứ phải quanh quẩn trên núi. Mãi đến cái ngày bị gọi đi lính, hắn mới biết mặt mũi thế nào là tỉnh. Tính tình hắn rất hay! Lúc nào hắn cười trông chất phác dễ thương lạ! Thế nhưng sức khỏe hắn thì ít ai bì kịp! Hắn cao một thước chín. Khẩu liên thanh nằm trên vai hắn trông cứ nhẹ tênh! Cái gì ở thành phố đối với hắn cũng đều mới lạ, nên cái gì hắn cũng muốn biết. Trí nhớ của hắn không nhanh, nhưng được cái đã nhớ thì chắc như đóng đinh. Hắn có thể nhắm mắt lắp xong khẩu liên thanh trong đúng có bảy phút. Có lần tôi theo dõi đồng hồ mà. Suốt ngày hắn cứ ôm kè kè khẩu súng, cứ như đứa con gái ôm khư khư con búp bê ấy. Lúc hắn tháo súng ra lau, bàn tay hộ pháp của hắn cầm các bộ phận của khẩu súng trông cứ như ta cầm đồ chơi vậy. Các bạn cứ tưởng tượng là bàn tay của hắn to đúng gấp đôi bàn tay tôi.
Thú thực là tôi rất quý Mêmét, một anh chàng rất khá! Một hôm có một đô vật nổi tiếng đến chỗ trung đoàn chúng tôi chơi. Anh này trổ tài thách đấu vật với Mêmét. Vì không có kinh ngiệm đấu nên Mêmét chỉ tự vệ. Hắn cứ vừa lùi vừa cười như đứa trẻ. Còn anh chàng kia thì cứ nhảy hết bên này sang bên khác, lăm le xông vào chực chộp lấy hắn. Nhưng anh chàng cứ nhảy như con choi choi thế suốt một tiếng đồng hồ mà không tài nào quật ngã được Mêmét. Cuối cùng trận đấu phải coi như hòa.
Đã trót kể về Mêmét, nên tôi phải tiếp tục câu chuyện. Vậy là tôi không tài nào làm cho Mêmét nhớ được tên các sĩ quan chỉ huy. Hắn cứ lẫn lộn hết cả! Chỉ huy quân đoàn hay chỉ huy trung đoàn, đại úy hay đại tướng , hắn không làm sao phân biệt được.
- Này chú em, chú ý đây này! Ta bắt đầu từ binh nhất nhé! Anh ta tên là gì nào? - tôi hỏi Mêmét. Hắn chớp chớp mắt trông rất tội, cố nghĩ, rồi kêu lên:
- Mếchmét Ali!
- Không phải! Mếchmét Ali là trung sĩ chứ!
- Thưa ngài chỉ huy, tôi không thể nào nhớ được! - hắn nói nghe rất thảm hại.
- Thôi được, cố gắng lên một chút, chú em ạ! Bắt đầu lại từ đầu nhé! ...
Tôi với Mêmét đánh vật với nhau như thế suốt hai tháng trời mà rốt cuộc vẫn chẳng ăn thua gì cả. Sau tôi bắt hắn mỗi ngày phải học thuộc cho tôi tên một sĩ quan thôi. Chẳng hạn, hôm nay học thuộc tên của vị chỉ huy tiểu đoàn, mai thì tên vị chỉ huy trung đoàn... Nhưng chỉ được hai hôm, đến ngày thứ ba là hắn lại nhầm hết cả!
Tôi bắt đầu cáu. Còn hắn, tuy to xác, nhưng những lúc ấy e thẹn như con gái, cứ cúi gằm xuống đất, mặt đỏ bừng.
- Tôi chẳng biết làm thế nào cả, thưa ngài chỉ huy! - hắn bối rối nói khẽ.
Mà hôm ấy lại đúng hôm trước ngày kiểm tra mới chết chứ! - Liệu đấy, Mêmét ạ! Không khéo vì anh mà tôi và cả cấp trên của tôi bị ngài Tổng chỉ huy sạc cho một trận cũng nên! Tôi không hiểu anh ra giống người gì nữa? Cái đầu anh hình như không phải là đầu, mà là cái rây bột thì đúng hơn. đổ cái gì vào là lọt đi hết. Vô phúc anh bị ngài Tổng chỉ huy gọi đến thì lúc ấy anh mới biết! Lúc này tôi đã nổi cáu thật sự.
Sáng hôm sau, đại đội tập họp rất sớm. Tôi lo đến nỗi không dám nhìn về phía Mêmét nữa. Ô tô của ngài Tổng chỉ huy đến kia rồi! Tôi thấy cửa ôtô mở ra... Chỉ huy trung đoàn đứng nghiêm chào, rồi bắt đầu báo cáo nữa. Sau đó lại đứng nghiêm chào... Ngài Tổng chỉ huy bắt đầu đi dọc theo hàng lính. Bỗng ngài dừng lại đúng ngay trước mặt anh chàng Mêmét. Tim tôi như ngừng đập. Tai họa sắp giáng xuống đầu tôi rồi đây! Tôi cảm thấy như cả đôi ủng, cả chiếc dây lưng lẫn chiếc đai kiếm đều xiết chặt lấy người tôi. Tôi liếc mắt về phía Mêmét. Hình như hắn không có vẻ sợ hãi chút nào. Ngài Tổng chỉ huy nhìn thẳng vào mắt hắn và bảo:
- Anh hãy nhắc lại nội dung lý lịch của anh!
- Tôi, Hátxan Mêmét, sinh năm. ..., làng Êmét, quân đoàn 5, sư đoàn. .., trung đoàn. .., tiểu đoàn 3, đại đội 2, tiểu đội 1! - Hắn ưỡn ngực trả lời ro ro.
Tôi thầm khấn Thánh Ala cho ngài Tổng chỉ huy chóng chuyển sang người khác.
- Tên binh nhất của anh là gì?
- Ali Iuxúp!
- Trung sĩ của anh là ai?
- Ôxman Hưda!
- Còn hạ sĩ?
- Hátxan Guyntêkin!
- Còn chỉ huy trung đội?
- Antưn Huyxên!
- Chỉ huy đại đội?
- Đại úy Ali Mếchmét!
Anh chàng Mêmét hình như quá xúc động. Hắn cứ tuôn ra một tràng hết tên này đến tên khác. Ngài Tổng chỉ huy chưa kịp hỏi hắn đã trả lời rồi.
- Chỉ huy tiểu đoàn là ai?
- Ngài Ôxman!
- Còn chỉ huy trung đoàn?
Mêmét trả lời ngay lập tức, không chút ngắc ngứ. Ngài Tổng chỉ huy có vẻ bằng lòng anh lính nhanh nhẩu lắm. Ngài nói với hắn: - Cảm ơn!
Đoạn ngài quay qua viên chỉ huy trung đoàn bảo:
- Ông hãy tiếp tục kiểm tra lấy!
Rồi lên ôtô phóng đi thẳng.
Sau khi có hiệu lệnh giải tán, tôi chạy ngay đến chỗ Mêmét. - Này, Mêmét! Sao chú mày to gan đến thế hả? !
- Thưa trung úy, tôi có lỗi! Nhưng biết làm thế nào được ạ? Tên ngài chỉ huy sư đoàn và ngài Tổng chỉ huy thì tôi nhớ kỹ lắm, nhưng các ngài chỉ huy khác thì cứ nhớ được tên nào là tôi cứ nói bừa tên ấy...
- Chà, chú em Mêmét ạ! Thế mà chú mày không luống cuống thì giỏi thật!
- Thưa trung úy, đâu có ạ! Lúc ấy tôi lú lẫn hết cả. Ngay trung úy là người quen mà nhiều lúc đứng trước trung úy tôi còn không nói được câu gì, nữa là đứng trước quan lớn Tổng chỉ huy. Hồn vía tôi bay đi đâu mất cả, thế là tôi cứ trả lời bừa tăng tít... Xin Thánh Ala thứ tội cho con! ... May mà quan lớn ngài chẳng biết ai vào ai cả!
Biết ơn vạn bội
- Bạn thân mến. Tôi mới quen một thiếu phụ. Duyên mau thật sự!
- Nàng đẹp lắm hả?
- Còn phải hỏi. Anh xem, ảnh của nàng đây.
- Đẹp thật đấy!... Cố gắng, đừng bỏ lỡ đấy.
- Hẳn đi chứ!... Anh có biết tôi say đắm đến thế nào không. - Nhưng nàng có chú ý đến anh không?
- Hẳn là có...
- Thế thì phải chinh phục ngay trái tim nàng.
………
- Tình hình thế nào, có gì hay không đấy?
- Tuyệt lắm. Hôm nọ tôi đã kể anh nghe rằng tôi có một nàng... - A, thế nào rồi?
- Tôi yêu, yêu đến mất trí.
- Nhưng nàng có yêu anh không?
- Chưa biết.
- Phải làm sao cho nàng yêu anh!
- Làm thế nào?
- Điều ấy thì tôi có thể bàn với anh được. Thứ nhất là quà tặng. Phụ nữ bao giờ cũng thích được quà. Đầu tiên có thể là hoa, đặc biệt là tử đinh hương... Sau đó đến một thứ quí hơn... Và nhớ thường xuyên nói với nàng rằng nàng rất thông minh.
- Hay đấy, tôi sẽ cố theo lời anh nói.
………..
- Trời ơi, tôi không biết nói sao để cám ơn anh cho hết! - Mọi việc tốt đấy chứ?
- Bạn thân mến, anh thật hiểu lòng dạ đàn bà. Tôi đã làm theo đúng ý anh. Nàng đối với tôi hoàn toàn có thiện cảm rồi. Nhân danh đấng Ala, anh bảo tôi làm gì bây giờ?
- Anh phải mời nàng xem phim. Nhưng phải chọn phim đừng nghiêm túc quá, có thể là một chuyện gì bi thảm, một hài kịch nhẹ nhàng, hoặc một màn vũ nhạc gì đó. Xem xong nhất thiết phải ăn
kem va-ni. Nhớ rằng trong túi anh luôn luôn phải có sô-cô-la và phải mời nàng ăn luôn.
- Thế nào tôi cũng làm đúng lời anh dặn. Tôi yêu đến hoá điên rồ.
………..
- Hôm qua bọn mình xem phim. Vào rạp tôi mời kẹo sô-cô-la. Nàng bằng lòng lắm. Xem xong vào hàng bánh kẹo ăn kem va-ni. Nàng bảo tôi là hạng đàn ông có thẩm mỹ tinh tế. Tuần này bọn mình định đi chơi xa. Nhân danh Đức Ala, anh khuyên tôi đi hướng nào nhỉ?
- Theo tôi, các bạn nên ra đảo Hoa cương. Nên thuê hai con la mà cưỡi. Sau đó ra bãi tắm. Rồi đi khiêu vũ. Nhưng nhớ chỉ mời nàng nhảy van thôi đấy.
- Lạy Chúa!... Làm sao tôi chinh phục được người đàn bà ấy nhỉ! - Anh cứ theo đúng lời tôi, mọi việc đâu sẽ vào đấy!
- Tôi thật không biết cám ơn anh thế nào cho hết.
- Không cần... Tôi chỉ muốn truyền kinh nghiệm cho anh thế thôi. ……………
- Thế nào, các bạn có đi chơi không đấy?
- Đi chứ!... Tuyệt vời lắm! Nhưng tôi không gặp may... - Sao vậy?
- Hoá ra nàng có chồng rồi. Chúng mình chỉ dạo chơi thôi, chẳng có gì hơn nữa.
- Thế nàng có yêu chồng không?
- Không đâu, nàng bảo chồng thô lỗ, ngu độn như lừa, chẳng hiểu gì hết, đối với anh ta, tâm hồn phụ nữ là một buồng tối. - Một thiếu phụ đáng thương! Vì sao nàng không ly dị đi? - Nàng bảo nếu tôi đáng tin thì ngay hôm nay nàng sẽ nộp đơn ly dị! Tôi không biết mình phải làm gì...
- Chớ để mất nàng!
…………….
- Công việc của anh thế nào?
- Anh đừng có hỏi. Bọn mình chưa một lần nào hôn nhau. Nàng nhút nhát quá. Nhưng tôi cảm thấy nàng yêu tôi.
- Tiếp tục tặng quà đi. Mua nước hoa đắt tiền vào, chẳng hạn nước hoa “Xan đan” ấy. Sau đó... tôi cũng không biết... mua một loại vải đẹp đi... Hầu hết phụ nữ thích màu xanh lơ hoặc là xanh nhạt.
- Ngộ chồng nàng biết thì sao?
- Làm gì mà đoán ra được? Chính nàng nói hớ ra rằng hắn ta là một gã khờ kia mà. Nếu anh muốn tôi sẽ đi chọn vải giúp anh... - Hay quá... Ta đi luôn nhé!
…………….
- Tình hình thế nào rồi?
- Tốt quá anh ạ! Tôi đưa nước hoa, nàng bảo đúng là thứ nàng thích nhất. Tôi tặng vải, nàng sướng rơn lên. Bạn ơi, tôi đang hớn hở như một cậu học trò. Anh bảo tôi phải làm gì để có nàng trọn vẹn?
- Anh hãy đọc cho nàng nghe những vần thơ của Iakhi Kêman. Phải thề thốt sẽ lấy nàng làm vợ. Phải hối thúc nàng mau mau ly dị gã khờ kia.
………..
- Lâu nay anh trốn biệt đi đâu thế?
- Bận quá, không gặp anh được. Nàng ly dị rồi đấy!
- Thế anh vẫn quyết lấy nàng đấy chứ?
- Tất nhiên.
- Vậy thì phải nhanh nhanh lên, kẻo...
………..
- Tôi không biết lấy vì đền đáp ơn anh. Hôm qua chúng tôi làm lễ thành hôn rồi. Anh đã cho tôi một hạnh phúc lớn quá. Tôi đã có được gia đình, có vợ, có người yêu thương...
-Người anh em của tôi ơi. Tôi phải cám ơn anh mới đúng, chính anh đã cho tôi hạnh phúc lớn lao. Chính anh đã giúp tôi thoát được khỏi cái con vợ yêu quái của tôi đấy!
Cái kính
Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi: - Tại sao anh không đeo kính?
- Làm sao tôi phải đeo?
- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!
Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.
Lâu nay tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tôi cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!
Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi: - Anh bị cận thị! 1,75 đi-ốp!
Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!
Một ông bạn khác thương hại bảo tôi:
- Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!
Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.
- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mua cái kính này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!
- Thế tôi bị làm sao ạ?
- Viễn thị! hai đi-ốp!
Tôi lại mua kính mới. Đeo chiếc kính này tôi không còn thấy chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Đâm ra mắt tôi lúc nào cũng đỏ hoe như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm
giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.
Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi:
- Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! Ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không như mấy ông bác sĩ tư!
Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật: máy móc nhiều, mà dụng cụ cái gì cũng sáng loáng.
Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tôi:
- Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thị! Giáo sư giận lắm:
- Quân ngu! Anh không phải cận thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!
Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồng tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Định viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tôi không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưới mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát súp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong ông ta bảo tôi:
- Đứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Đúng là đồ lang vườn dốt nát! Anh cứ kiện lên phòng công tố cho nó bỏ mẹ! - Thôi! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn! - Tôi nói.
Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hoá hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!
Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Đức về.
- Ai bảo anh đeo kính này?
- Làm sao ạ?
- Sai chứ còn sao nữa!
Hoá ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng tối ữa. Xung quanh tôi tối như hũ nút.
- Đứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn toàn bình thường, có làm sao đâu?
- Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!
- Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết! Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở xa trông lại hoá gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thuỷ, thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại. Ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt. Đeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng ra màu xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên, nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Đi trên đường thẳng mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.
Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tôi dậy:
- Cái kính của tôi đâu rồi? - Tôi hỏi.
Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Đích thị kính của tôi đây mà! Đúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thuỷ đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.
- Kính của anh sao thế kia? - Vợ tôi hỏi.
- Làm sao?
Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.
Cơn ác mộng
Đài phát thanh Xtămbun đã chấm dứt chương trình phát thanh. Nghĩa là lại hết một ngày cũ bắt đầu một ngày mới. Đêm nay tôi có bao nhiêu việc phải làm: phải viết xong hai truyện ngắn, một bài châm biếm và trả lời thư yêu cầu của một tạp chí. Những thứ này sáng mai là họ lấy. Ngoài ra còn phải đọc 3 tạp chí do nhà bưu điện đưa đến và một cuốn sách mỏng nữa. Nhưng cuối cùng tôi chỉ viết xong có mỗi một truyện ngắn. Vì hôm nay tôi thấy trong người mệt mỏi quá.
Tôi đã sắp sẵn một xếp giấy để viết truyện ngắn thứ 2, nhưng ý tưởng bay đi đâu hết cả. Tôi giở lại cuốn sổ tay, hy vọng có thể tìm ra một ý nào đó trong những mẩu ghi chép cũ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Không có ý nào có thể phát triển thành truyện ngắn được.
Tôi bỗng cảm thấy đói. Cái bệnh tôi nó như vậy. Nghĩa là cứ khi nào không viết lách gì được, là y như lại nghĩ đến chuyện ăn uống hay một chuyện linh tinh gì đó. Tôi leo lên gác. Trong nhà im lặng như tờ. Mọi người đã ngủ cả. Tôi mò xuống bếp. Cơm canh đã nguội ngắt. Ai mà đi hâm được?... Cuối cùng tôi kiếm được đĩa cá sácđin, mấy quả cà chua, một ít mỡ và dăm miếng dưa.
Sau đó tôi lại quay về bàn làm việc, ngồi bóp trán suy nghĩ. “Mình buồn ngủ hay sao thế này?” Tôi nghĩ vậy, rồi dần dần thiếp đi thật. Tôi lại còn nằm mơ nữa. Tôi mơ thấy hình như tôi lạc đến một nước nào xa lạ. Tôi không bíêt đích xác đó là nước nào. Tôi bước vào một gian phòng rộng mênh mông. Không hiểu các bạn thế nào, chứ tôi thì tôi tin rằng những cái gì thấy trong mơ thì không bao giờ có trong thực tế cả.
Xung quanh chiếc bàn dài kê ở giữa phòng có nhiều người đang ngồi. Tôi đến đây với một trọng trách. Tôi không biết chính xác tôi đang ở đâu và người ta đang làm gì ở đây, nhưng không dám hỏi, vì sợ người ta cười, bảo tôi là anh ngố, không biết cả chỗ mình đang ở là chỗ nào nữa! Vì thế tôi cứ phải xem mọi vậy xung quanh mà cố tự phán đoán lấy. Có lẽ tôi đang ở Châu Mỹ, nhưng có thể tôi đang ở Châu Âu cũng nên...
Người ta đang hội đàm. Đại biểu nước tôi chỉ có độc mình tôi. Trông người nào cũng bệ vệ.
- Rất hân hạnh được đón tiếp ngài! - một vị đại biểu nói với tôi. - Cám ơn các vị! - tôi đáp.
- Ngài sẽ cho chúng tôi được biết tình hình đất nước ngài chứ? Tôi run quá, nhưng rồi cũng tự động viên: “Có gì mà run! Đây chỉ là mơ thôi mà!” Nhưng mơ thì mơ, chứ nhỡ ra... - Vâng. Tôi sẵn sàng kể cho các vị nghe tất cả những gì tôi biết. - Nước ngài đang ở tình trạng chậm tiến có phải không? - người ta hỏi.
Tôi bỗng thấy ngột thở. Lạy thánh Ala! Tôi biết trả lời với họ thế nào bây giờ? Nếu tôi bảo: “Vâng. Tôi ở nước chậm tiến đến!” thì có nghĩa là tôi tự thoá mạ nước tôi trước mặt các quan khách quốc tế. Và theo luật hình, như thế tôi sẽ bị khép vào tội khinh quốc thể. Nhưng nếu bảo: “Không phải. Sao lại chậm tiến? Nước tôi tiến ghê gớm ấy chứ lại!” thì hoá ra tôi nói dối! Nhưng thôi. Thà nói dối còn hơn bị kết tội khinh quốc thể. Nói dối thì chẳng bị tội gì cả.
Tôi bèn hét lên:
- Ai bảo các ngài thế? Đó là điều bịa đặt và xuyên tạc, thưa các vị! Xin các vị chớ quên rằng chúng tôi có rất nhiều kẻ thù. Chúng luôn luôn tìm cách tuyên truyền nói xấu chúng tôi.
Mọi người há hốc mồm kinh ngạc.
- Nghĩa là chúng tôi đã nhận được một thông tin không chính xác?... một người nào đó nói, nhấn mạnh từng chữ.
- Vâng, tất nhiên rồi!
- Chúng tôi hiểu. Các ngài là dân tộc rất tự trọng, nên khi người ta gọi các ngài là “chậm tiến” thì các ngài tức giận. Nếu vậy, chúng tôi sẽ không dùng cái tên ấy nữa, mà sẽ thay bằng mấy chữ “chậm phát triển”. Như vậy chắc ngài thấy ổn chứ?
- Không! như thế cũng không được! Chúng tôi không phải là những người chậm phát triển, mà trái lại, chúng tôi là những người rất, rất chi là phát triển!
Một lần nữa, mọi người lại sửng sốt, quay sang xì xào với nhau. - Thế hiện nay ở nước ngài còn nhiều thành phố chưa có điện không?
Nếu tôi bảo còn, thì rõ ràng tôi tự bôi nhọ nước tôi. Chà! Quỷ bắt tất cả các người đi!
- Không! ở nước chúng tôi, từ các thành phố lớn cho đến các làng mạc xa xôi hẻo lánh, nơi nào cũng có điện hết!
- Hoan hô!... Hoan hô!... Tuyệt thật!
- Nhưng nghe nói giá điện bên nước ngài đắt lắm thì phải? Bao nhiêu tiền một kilôoát nhỉ?
- Cái gì? Điện ấy à? Điện bên chúng tôi đắt ấy à? Nhưng bên nước tôi điện có mất tiền đâu!... Không mất tí nào cả! Lại còn mất tiền điện nữa có mà chết!
- Tuyệt quá nhỉ!... Trứ danh thật!...
Tôi hả hê lắm: tôi đã khéo giới thiệu nước tôi với quan khách quốc tế. Ước gì báo chí đăng lại những lời phát biểu của tôi để đồng bào tôi thấy được tôi đã biết cách tuyên truyền có lợi cho đất nước như thế nào!
- Người ta đồn rằng tiền nhà bên nước ngài rất cao. Nhà cửa thì khan hiếm... một người dân trung lưu phải mất đến nửa số thu nhập vào tiền nhà. Phải thế không?
Một tiếng nói bên trong thúc giục tôi: “Nói đi! Nói hết sự thật đi!” Tôi bảo nó: “Tôi sợ lắm! Mọi người sẽ phản đối tôi”. Giọng nói vẫn năn nỉ: “Sợ gì! Đây chỉ là mơ thôi mà! Họ có thấy giấc mơ của anh đâu. Họ có biết đâu những điều anh nói! Cứ nói hết sự thật đi.”
Mồ hôi tôi vã ra như tắm. Tôi lấy khăn lau trán, rồi cười lớn: - Hahaha!... Té ra các vị hình dung nước tôi như vậy đấy! Tôi không thể phát biểu gì thêm về chuyện này. Chỉ cần chúc cho cái bọn độc mồm độc miệng chết quách đi cho rồi! Dân nước tôi không hề biết thế nào là nhà cửa khó khăn cả! Các vị nghe rõ chưa? Cũng như ở tất cả các nước văn minh, chúng tôi được sống trong những ngôi nhà rất đẹp, tiện nghi đầy đủ, mà chỉ mất có mười phần trăm thu nhập thôi!
- Thế còn các công chức?
- Các công chức thì được phân nhà tuỳ theo số người trong gia đình. Nói chung là họ được ở rất rộng rãi, và tiền nhà phải trả rất ít, đến mức gần như là được cho không.
- Nghe nói bên nước ngài, những người chủ nhà không cho các gia đình có con thuê nhà có phải không?
- Hahaha! Láo toét! Ai nói với các vị thế? Bên chúng tôi người thuê nhà thậm chí không biết mặt mũi chủ nhà là ai cả. Chỉ biết mỗi cái gọi là Hội đồng nhà cửa thuộc Toà thị chính thôi! Khi nào cần
nhà, người ta chỉ việc đến đó mà nó đại khái như: “Tôi cần một căn nhà 5 buồng. Nhà tắm có lát gạch men xanh, chứ màu hồng thì không thích hợp. Vì màu hồng ảnh hưởng đến thần kinh vợ tôi.
-Chà! Nước thế mới gọi là nước chứ! - các đại biểu trầm trồ thán phục - Hoan hô! Hoan hô nước ngài!
Tôi được thể càng ra sức khoe khoang tâng bốc nước tôi. - Nhưng nghe đâu đời sống bên nước ngài khó khăn lắm thì phải. Những người lương thấp sống rất thiếu thốn. Ngay tầng lớp trung lưu cũng thế?
- Lại còn có chuyện thế nữa kia đấy! Thưa các vị, các vị nhớ cho rằng dân nước tôi mà sống khó khăn thiếu thốn, thì đó chỉ là theo giọng lưỡi của báo chí nước ngoài mà thôi. Đồng bào chúng tôi rất nhân đạo, nên hết sức thông cảm với những người nghèo khổ. Dân nước tôi không hề biết đến những khó khăn về đời sống, và nói chung là họ không biết đến bất cứ khó khăn gì! Cầu thánh Ala cho đồng bào tôi đừng bao giờ biết đến những chuyện đó! Còn tầng lớp trung lưu ở nước tôi sống rất hạnh phúc. Họ có nhờ tôi chuyển đến các vị lơi chào đặc biệt. Họ còn dặn tôi khi đến đây phải cải chính các tin đồn nhảm mà các vị nghe phải.
- Thế còn các vấn đề như nạn thất nghiệp, điều kiện lao động vất vả và lương công nhật thấp kém thì sao?
- Trời ơi các vị! - tôi kêu lên - Các vị muốn tin ai? Tôi hay những lời đồn nhảm nhí linh tinh?
- Tất nhiên chúng tôi tin ngài.
- Nếu vậy các vị hãy nghe đây: Trước hết tôi xin nói về công nhân: Công nhân bên nước chúng tôi sống rất sung sướng, các vị có hiểu không? Tôi không biết có nước nào công nhân được hưởng lương cao như công nhân nước tôi không? Tôi chắc là không! Không có nước nào cả! Lương công nhân nước tôi cao đến nỗi họ không biết tiêu gì cho hết. Tôi xin tiết lộ với các vị một điều bí mật: nếu người công nhân của chúng tôi tích lại số tiền thừa của mình, thì chỉ trong một tháng anh ta có thể xây được cả một nhà máy! Nhưng anh ta cần nhà máy làm quái gì? Cái gì anh ta cũng có đủ rồi.
- Chà! Chà!... Thế mới gọi là nước chứ!
Ôi! Giá hãng thông tin quốc gia biết được chuyện tôi ca tụng nước tôi và đưa tin cho tất cả mọi người biết về giấc mơ này của tôi
thì hay biết chừng nào!
- Thế vấn đề giáo dục ở bên ngài ra sao? Người ta bảo 80% dân số nước ngài còn mù chữ có đúng không?
- Bậy! ở nước tôi ai cũng biết đọc biết viết hết! Mà còn biết nhiều đến nỗi người ta chán không muốn đọc muốn viết nữa. Tôi đố các vị tìm thấy ở nước tôi một người nào mù chữ đấy! Các giáo sư, nhà báo, nhà văn của chúng tôi hoặc là làm nghề viết, hoặc làm nghề đọc. Số người làm được cả hai nghề tuy không nhiều lắm, nhưng
văn sĩ và độc giả ở bên tôi cứ gọi là vô thiên lủng! Trường học ở nước tôi nhiều đến nỗi muốn làm đường sá mới thì phải phá bớt trường đi mới có chỗ mà làm. Còn giáo viên thì không đếm xiết được! Đi đâu cũng gặp toàn giáo viên là giáo viên!
- Thế sao bảo các ngài phải xin nước ngoài viện trợ cho các tấm lều bạt để làm lớp học?
- Haha! Đó là chúng tôi nói đùa thế thôi! Vì không muốn để các nước khác biết sự hùng mạnh của chúng tôi, nên chúng tôi phải vờ làm ra vẻ thiếu trường học.
- Tôi thấy hình như không phải thế! - một vị đại biểu đứng phắt dậy - Tôi có đọc báo của các ngài. Trong những bài châm biếm của ngài, tôi thấy ngài luôn luôn kêu về nạn thiếu trường sở và thiếu giáo viên.
Tôi cười lớn:
-Hahaha! Thế mà các ngài cũng tin là thật? Tôi viết thế chẳng qua cốt tạo ra cái chuyện trái ngược mà thôi! Vì dân nước tôi rất thích những chuyện ngược đời. Nếu viết rằng mọi chuyện đều tốt đẹp cả thì họ lại không thích. Vì thế muốn tạo ra những chuyện trái ngược, tôi phải viết rằng ở nước tôi thiếu trường học vân vân... Có thế họ mới mua báo. Nhưng đó là cách tuyên truyền trong nước thôi, còn tuyên truyền ra nước ngoài thì lại khác...
- Nghe nói bên nước ngài đường sá mở mang cũng chậm lắm thì phải. Những con đường hiện có thì rất tồi!
Tôi đã ngán ba hoa lắm rồi, nên đứng dậy bảo:
- Thôi đủ rồi, tôi phải đi đây!
- Đi đâu? Ngài không thể đi đâu cả, vì ngài đang nằm mơ kia mà!
Nghĩa là họ cũng biết đây là một giấc mơ!
- Thôi, các ngài buông ra để tôi đi!
- Nhưng ngài định đi đâu?
- Về nước tôi chứ còn đi đâu?
Tôi định tiến ra cửa, nhưng bị mọi người chặn lại, dồn vào góc phòng.
- Buông tôi ra! - tôi hét lên.
- Ngài đang nằm mơ, ngài không thể đi đâu cả.
Các bạn đã từng gặp những cơn ác mộng nên chắc biết: trong cơn mộng mị, lúc sợ quá, bạn định bỏ chạy, nhưng chân bỗng ríu lại, muốn thét thật to lên, nhưng tiếng tự nhiên mất hẳn. Lúc này chính tôi cũng đang ở trong tình trạng như thế. Tôi muốn bỏ chạy mà chân không sao cử động nổi.
- Chúng tôi muốn hỏi ngài một câu nữa - một người khác đứng dậy bảo - ở nước các ngài có tự do hay không?
Sợ quá, tự nhiên tôi nói không thành tiếng nữa.
- Hừm... hừm... hừm... - tôi cứ ú a ú ớ. Tiếng nói bị tắt trong họng.
- Ngài nói đi chứ! ở nước ngài có tự do hay không?
Tôi tự khích lệ: “Có quái gì mà sợ! Dù sao đây cũng chỉ là mơ thôi. Ta chẳng sợ ai hết.” Nhưng sao tôi vẫn thấy run quá. Giọng nói bên trong lại thì thầm giục tôi: “Đúng rồi! Đây chỉ là giấc mơ thôi!”
-Nói đi! Nói đi! Có tự do ở nước ngài hay không? - mọi người lại nhao nhao giục tôi.
Cuối cùng tôi cũng lấy lại được tiếng nói. Tôi lắp ba lắp bắp: - Có!... Có nhiều... Nhiều lắm!....
- Mọi thứ tự do đều có chứ?
- Các ngài muốn hỏi những thứ tự do gì?
- Tự do báo chí chẳng hạn!
- Ồ, cái đó tất nhiên là có rồi! Tự do gì chúng tôi cũng có hết! Chúng tôi có đủ các thứ tự do. Cả tự do báo chí nữa! Muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng thôi, các ngài cho tôi đi đi!
-Nghĩa là ở nước ngài có đủ các thứ tự do?
- Tôi đã trả lời rồi mà: Có đủ hết!
- Tốt lắm! Nhưng nghe nói luật báo chí cũ ở nước ngài vẫn còn có hiệu lực. Thế thì đó là cái tự do gì?
Đến phải biến thành hơi nước thì mới thoát khỏi tay họ được! Trong giấc mơ, người ta thường hay bay. Tôi giang hai tay như đôi cánh định bay, nhưng bị cái gì như cục chì giữ chân lại, không sao
rời khỏi mặt đất được. Chắc tại tôi ăn no quá nên nặng bụng, chứ không thì tôi đã bay bổng như chim rồi!
- Thế nào? Có đúng là luật báo chí cũ vẫn còn hiệu lực không? Ngài trả lời đi!
- Ừ, đúng là vẫn còn cái luật ấy đấy! Nhưng việc gì đến các ông nào! Cái luật ấy còn, nhưng chúng tôi không áp dụng... Cũng như chúng tôi vẫn còn giữ những khẩu đại bác mà Phatích đã dùng chiếm lại Xtămbun, nhưng chúng không bắn được nữa. Thế thì sao? Chả lẽ cũng phải phá đi à? Sở dĩ chúng tôi cố ý không thay luật báo chí phản dân chủ cũ, chẳng qua là muốn để nhắc nhở mọi người rằng họ đã từng phải sống một thời kỳ nghẹt thở như thế đấy! Nhưng bây giờ chúng tôi đã có tự do báo chí và nhiều thứ tự do khác nữa. Tự do ở nước chúng tôi nhiều đến mức người ta không biết dùng chúng làm gì nữa!
- Thế còn tình hình kinh tế? Nghe nói ngân sách của các ngài bị thiếu hụt nhiều phải không? Xin ngài cho bíêt ý kiến về vấn đề này. Tôi lại bắt đầu vã mồ hôi. Biết trả lời thế nào bây giờ đây, lạy thánh Ala? Chả lẽ tôi cứ mơ mãi, không bao giờ tỉnh lại hay sao? - tôi kêu lên tuyệt vọng.
- Nếu ngài không nói thật thì không bao giờ ngài tỉnh lại được đâu!
Nhưng nói thật thì tôi lại bị mang tội nói xấu Tổ quốc mất! Ôi, sao mà khó xử thế này hả trời!
- Tình hình kinh tế nước tôi không đến nỗi tồi tệ như các vị tưởng đâu. Ý tôi muốn nói là nó... rất... tốt đẹp, rất rực rỡ. Rực rỡ đến nỗi có thể làm người ta loá mắt!... Còn ngân sách thì lúc nào cũng rất thăng bằng.
Tôi còn định nói nhiều nữa, nhưng bị mọi người ngắt lời. - Thôi được rồi! - một vị ngồi dự nói - Chúng tôi mời ngài đến đây cốt để ngài cho biết rõ sự thật, để nếu thấy cần thiết, thì tổ chức quốc tế sẽ giúp đỡ các ngài, chẳng hạn như cấp vốn, hoặc cho ngài vay tiền... Nhưng vì tất cả mọi thứ ở nước ngài đều tốt đẹp cả, nên chúng tôi thấy không cần phải giúp đỡ gì nữa. Thôi xin chúc ngài mọi điều may mắn. Tạm biệt ngài.
Đến lúc này tôi mới chợt tỉnh và hiểu ra rằng hoá ra người ta phái tôi đến đây là để xin viện trợ của nước ngoài.
- Tốt quá! Nhưng sao các ngài không cho tôi biết trước? Nếu biết trước, có phải tôi đã tuyên truyền nước tôi theo cách khác rồi không?
- Thôi xin chào ngài!
Tôi khóc nức lên vì đau xót. Thì các bạn cứ nghĩ xem. Giá tôi dám nói hết sự thật, thì có phải nước tôi đã nhận được trợ giúp của các nước rồi không? Thế nhưng tôi lại sợ nếu nói thật thì sẽ bị kết tội nói xấu quốc gia. Thế là tôi đã bỏ lỡ một dịp may hiếm có!
Tiếng khóc làm tôi bừng tỉnh. Trời vẫn chưa sáng.
Tôi bật đèn lên. Đúng là trong mơ tôi đã khóc thật. Tôi lau những giọt nước mắt, rồi ngồi ghi ngay lại cơn ác mộng này. Chả lẽ đêm cứ tối mãi và trời không bao giờ sáng được hay sao?
Chiếc gương kỳ diệu
Tại nhà Đavút Xôiuva, chủ hãng buôn các đồ nhập khẩu, có tổ chức một bữa cơm khách. Trong số những người được mời có giám đốc nhà băng “Labát” cùng người vợ trẻ và cô em vợ to béo; nhà chính khách Khanđa Iátma, một trong những nhân vật “bảo thủ hạng nhất” của chúng ta, cùng đức phu nhân không có con của mình; nhà đại điền chủ kiêm thu tô Mêđêni cùng cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn là nàng Ipếch; nhà buôn Hátgi Ôxman Baiua, một thương gia cỡ lớn của tỉnh Ađăng chúng tôi, cùng cô nhân tình là nàng Phưxtưca.
Từ chiếc máy thu thanh, quan khách bỗng nghe thấy một phát thanh viên nói:
“Kính thưa quý vị thính giả! Đến đây chúng tôi xin tạm ngừng chương trình nhạc cổ điển Thổ Nhĩ Kỳ tối nay. Bây giờ mời quý vị nghe buổi phát thanh thường kỳ “Những phát minh mới”. Thuyết trình buổi này là một chuyên gia nổi tiếng, kỹ sư Mếchki Makinétgi”.
Bà vợ trẻ của ngài giám đốc nhà băng “Labát” nhăn mặt: - Sao tôi ghét giọng cái thằng cha này thế!
Nhà buôn Ôxman năn nỉ:
- Van bà! Xin bà cho phép chúng tôi được nghe cái mục này. Tuần trước anh ta đã nói về cách làm bông bằng giấy đấy! Trên máy thu thanh, kỹ sư Mếchki Makinétgi bắt đầu câu chuyện:
“Kính thưa quý vị! Trong lúc chúng tôi bắt đầu buổi phát thanh hàng tuần “Những phát minh mới” này, thì tại thành phố “Nguyên tử” bên Mỹ người ta cũng bắt đầu khánh thành một nhà máy nguyên tử mới, hoạt động theo chương trình “Nguyên tử phục vụ con người”. Từ nhà máy này, những tia sáng nguyên tử sẽ được phát đi khắp thế giới. Phát minh mới về năng lượng nguyên tử này sẽ là một sự kiện kỳ diệu làm chấn động toàn nhân loại. Khi tia sáng nguyên tử chiếu vào các tấm gương soi ở bất kỳ nơi nào trên trái đất thì lập tức tất cả những hình ảnh đã được soi vào gương, kể từ lúc nó được chế tạo đến nay, sẽ lần lượt tái hiện trên mặt gương. Chẳng hạn, nếu ở nhà quý vị có một tấm gương mà quý vị đã dùng hai mươi năm nay, thì khi gặp tia sáng nguyên tử này chiếu vào, hình ảnh của
tất cả những người đã soi vào gương từ hai mươi năm nay sẽ nối tiếp nhau xuất hiện lại trên mặt gương. Các cuộc thử nghiệm tới nay đã hoàn tất và cho những kết quả mỹ mãn. Như vậy, nhờ phát minh mới này quý vị có thể được sống lại tuổi thơ, được nhìn lại tuổi thiếu niên hay ôn lại những kỷ niệm thời yêu đương của mình.
“Từ sau chín giờ sáng mai, xin quý vị nhớ ra đứng trước gương!”. Bà vợ trẻ của viên giám đốc nhà băng “Labát” vỗ tay: - Trời ơi! Tuyệt quá! Ở nhà tôi có chiếc gương tôi đã soi từ hồi
còn bé. Vậy là ngày mai tôi sẽ được xem lại cả một quãng đời thơ ấu của tôi.
Khách khứa rời phòng ăn sang phòng khách, tụm lại thành từng nhóm, bắt đầu bàn tán về cái phát minh mới kỳ diệu. Khanđa Iátma, nhà chính khách bảo thủ hạng nhất, ghé vào tai nhà thu tô Mêđêni thì thầm:
- Ông bạn ạ! Thế thì cái phát minh mới này quả là kỳ diệu! Nó sẽ giúp ta nhớ lại nhiều sự kiện đã quên. Có một lần ở đồn cảnh sát tôi bị người ta nện cho một trận nhừ tử, ông tha lỗi cho cách nói hơi thô tục của tôi... Lúc chuồn được khỏi đó, tôi lập tức đến ngay phòng giám định y khoa để xin giấy chứng nhận là bị đánh, rồi mang ra tòa kiện. Nhưng các ông ở tòa chẳng thèm xem xét kẻ nào đã đánh tôi, mà rồi không hiểu thế nào họ lại kết luận là tự chính tôi đánh tôi mới tức chứ!
Nhà thu tô bảo:
- Nhưng mà, bác Khanđa ạ, chuyện ấy có liên quan gì đến chuyện cái gương này?
- Ấy chết! Liên quan quá đi chứ lại! Vì lúc tôi bị đánh, tôi nhìn thấy trên tường có treo một cái gương. Bây giờ thì mọi việc sẽ được khám phá ra hết.
- Ừ phải, - Mêđêni hưởng ứng, - Còn tôi thì nhờ những chiếc gương thần kỳ này sẽ vớ được ít nhất là bốn, năm vạn bạc. - Làm thế nào mà vớ được?
- Có gì đâu! ở nhà tôi có một chiếc tủ gương. Và chuyện tôi một dạo dan díu với con gái lão Kaliavi là cô ả Antguyn thì chắc bác đã biết rồi.
- Chuyện ấy thì ai mà chẳng biết!
- Lão bố nhất định không chịu gả con gái cho tôi, còn cô ả thì cũng quên phắt ngay những tình cảm của mình. Nhưng bây giờ thì
không xong với tôi đâu! Lão ta sẽ phải gả con gái cho tôi và tôi sẽ trở thành triệu phú cho mà coi!
- Nhưng ông định làm cách nào mới được chứ?
- Tôi và cô ả Antưguyn đã từng ân ái bao nhiêu lần ở nhà tôi, ngay trước cái tủ gương ấy. Sáng mai tất cả những cảnh yêu đương ấy sẽ diễn lại trong gương. Tôi sẽ mang cái gương đó cho lão Kaliavi xem, ông hiểu chưa? Thế là lão ta phải gả con gái cho tôi, bằng không thì phải chuộc lại cái gương ấy.
- Thế nếu lão ta không chịu thì sao?
- Thì càng hay! Tôi sẽ mang cái gương ấy ra cho mọi người xem. Hay không kém gì xem hát ấy chứ! Và tôi sẽ thu được ối tiền! Hoan hô những cái gương kỳ diệu!
Vợ nhà buôn hàng nhập khẩu to nhỏ với Phưxtưca, ả nhân tình của ngài Hátgi Ôxman:
- Tôi vẫn không sao quên chàng được!
- Chị bảo ai? Kaplan ấy à?
- ừ, Kaplan ấy! Thế mà chàng thật chóng thay lòng đổi dạ! Nhưng thôi, ngày mai tôi sẽ ra đứng trước gương để được sống lại những giây phút êm đềm cùng chàng.
- Tôi cũng phải trả thù lão già nhà tôi mới được! Tôi sẽ đưa gương cho hắn xem, để hắn thấy rằng hồi tôi mới quen hắn, tôi còn trẻ và xinh đẹp như thế nào! Thế mà bây giờ, chắc chị cũng biết đấy, hắn ta đã chán tôi rồi. Tất cả bọn đàn ông đều thế cả!
Khách khứa ai nấy đều sung sướng khi bàn tán về cái phát minh mới.
Cô nàng Phưxtưca luôn mồm nói:
- Ước gì chóng đến ngày mai nhỉ!
Cô em vợ béo nục nịch của viên giám đốc nhà băng phụ họa thêm:
- Vâng, ước gì chóng đến ngày mai! Em thấy sốt ruột quá! Trời ơi, những kỷ niệm thời quá khứ của em! Tuổi thanh xuân của em! Người thì mơ ước được gặp lại trong gương hình bóng người mẹ đã khuất của mình, người thì muốn thấy ngay lại thời thơ ấu. Bỗng ngoài cửa có tiếng chuông reo, rồi một vị khách mới bước vào. Đó là Sakháp Giênabétđin, một vị bác sĩ phụ khoa nổi tiếng. Mặt ông ta tái nhợt như mặt người chết.
- Có chuyện gì vậy, bác sĩ? Anh bị ốm hay sao thế? - vị chủ nhà hỏi.
Viên bác sĩ lắp bắp:
- Các vị không nghe nói gì cả à? Các vị không biết tin gì hay sao?
- Tin gì cơ, anh Sakháp? Có tin không hay à?
- Đài phát thanh vừa mới nói xong mà! Ngày mai, nhờ việc phát minh ra tia sáng nguyên tử nên tất cả các tấm gương sẽ hiện lại toàn bộ những hình ảnh từ trước đến nay! Thế mà các vị không hay biết gì cả hay sao?
Mọi người bật cười ngạc nhiên:
- Thế thì tuyệt quá chứ sao, hả bác sĩ?
Bác sĩ Sakháp kêu lên một cách chán ngán:
- Trời ơi! Té ra các vị mất trí cả rồi!
Đoạn ông kéo đám nam giới ra một phía.
- Cái phát minh mới này đúng là giết tôi! Trong phòng mổ của tôi, trước bàn mổ, chắc các vị cũng biết đấy, có một tấm gương lớn. - Thế thì sao?
- Thế thì chết tôi chứ còn sao nữa! Các vị còn chưa hiểu hay sao? Tất cả những vụ phá thai, nạo thai và còn nhiều chuyện khác nữa chỉ sáng mai thôi là vỡ lở hết cả...
Đám các ông cũng lo lắng nhìn nhau:
- Ừ nhỉ, bỏ mẹ thật!
- Thế mà mình không nghĩ ra!
- Nếu thế thì ê mặt quá nhỉ!
- Thậm chí phải nói đó là tội ác mà bọn mình đã... ấy chết, xin lỗi, nghĩa là tôi không có ý nói thế...
Nghe thấy các ông xì xào to nhỏ lo lắng, đám các bà cũng đâm nhốn nháo. Bà vợ ông Đavút Xôiuva rên rỉ:
- Hạnh phúc gia đình tôi, cuộc sống êm ấm hai chục năm nay của vợ chồng tôi thế là hết! Ngày mai chồng tôi sẽ biết hết mọi chuyện. đầu tiên là chuyện với một tài xế của ông ấy, rồi sau đó là với một tài xế khác... Tất cả sẽ diễn ra trước gương...
Cô nàng Phưxtưca than thở:
- Thì ai mà ngờ được có ngày những cái gương kia làm vỡ lở mọi chuyện...
- Còn tôi thì sáng nào cũng lục túi lấy cắp tiền trong ví của ông ấy... Sáng nào cũng thế... Lúc ông ấy còn đang ngủ... đến bây giờ ông ấy vẫn chưa hay biết gì. Nhưng ngày mai thì thôi... ông ấy sẽ biết hết.
Ngài Hátgi Ôxman cứ lẩm bẩm một mình:
- Lẽ ra mình không nên dan díu với con hầu gái ấy. Mẹ kiếp! đúng là ma dẫn lối, quỷ đưa đường! ...
Những tiếng kêu “Trời!” vang lên mỗi lúc một to. Sau đó không khí trong phòng lại im lìm như chết.
Bỗng giọng nói ồm ồm của bác sĩ Sakháp vang lên phá tan bầu không khí im lặng nặng nề:
- Thưa các vị, chả lẽ các vị chưa tin rằng cái phát minh mới này, cái thứ gương kỳ diệu này sẽ làm tan vỡ hạnh phúc của chúng ta hay sao?
- Không, không... đúng là những cái gương này sẽ giết chết tất cả chúng ta!
Viên bác sĩ nói tiếp, dằn từng tiếng:
- Thế là rõ rồi! Những chiếc gương bị tia sáng nguyên tử chiếu vào sẽ phá vỡ hết trật tự xã hội.
Khắp phòng lại nhao nhao cả lên.
- Đúng thế! Nhưng chúng ta biết làm gì được?!
- Đối phó cách nào bây giờ?
- Có cách nào để cứu vãn được không nhỉ?
Ông bác sĩ tuyên bố:
- Chỉ có một cách thôi, là phải đập vỡ tất cả các tấm gương đi! Ngài Mêđêni đế thêm:
- Thế chưa chắc. Phải nghiền vụn chúng ra mới được! Cô thư ký có đôi mắt hạt nhãn, có giọng nói thỏ thẻ, cũng lên tiếng:
- Phải cho vào cối mà giã thành bột ấy!
Rồi khách khứa giải tán ai về nhà nấy.
Suốt đêm hôm đó trong thành phố đâu đâu cũng vang lên tiếng gương vỡ. Người ta thi nhau bỏ gương vào cối mà giã. Sáng ra những người phu hốt rác sửng sốt trước một cảnh tượng chưa từng thấy: khắp nơi chỗ nào cũng ngổn ngang những đống gương vỡ, phố xá thì tràn ngập bụi kính.
Đúng chín giờ sáng, giọng người phát thanh viên vang lên trong tiếng nhạc:
“ Xin quý vị lưu ý: Loại gương soi tốt nhất thế giới là gương mang nhãn hiệu “Kỳ diệu”. Dùng gương này quý vị có thể nhìn thấy hình ảnh của mình chỉ những lúc nào quý vị soi vào nó mà thôi! Xin quý vị nhớ cho nhãn hiệu của nó là: “Kỳ diệu”... Gương “Kỳ diệu”...
Trong vòng có một ngày chủ hãng gương “Kỳ diệu” đã trở thành tỷ phú.
Cả một ổ
Tại bến tàu ở Kađkây một người phụ nữ trẻ tuổi đang kêu la: - Ối giời đất ơi! Cái ví của tôi, cái ví của tôi...! Bắt lấy nó! Đám đông nhốn nháo lên. Thằng ma cà bông đi chân đất chạy
trên cầu tàu, nhảy từng 3 bậc một. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp van nài những người đứng bên cạnh:
- Đuổi nó hộ tôi với! Tóm lấy nó!
Thằng ăn cắp đã chuồn mất. Năm phút trôi qua. Bỗng một viên cảnh binh trẻ tuổi hiện ra. Tay viên cảnh binh đặt trên vai thằng ăn cắp đã xoáy chiếc ví.
- Ví của ai đây?
Chiếc ví màu đen, to, bóng loáng. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp vui sướng vùng ra khỏi đám đông chạy bổ đến bên người cảnh binh.
- Của tôi! Chà, đội ơn ông quá!
Thằng ăn cắp đi đất, cởi trần, trên người không có chỗ nào mà túm được cả. Viên cảnh binh luồn tay vào nắm lấy mớ tóc dài giữ cho hắn khỏi chạy mất. Thân hình bẩn thỉu của thằng ăn cắp lộ ra từ những chỗ thủng ở chiếc quần lính cũ giờ đã biến thành mớ giẻ rách.
Viên cảnh binh trẻ tuổi bảo người phụ nữ:
- Mời bà theo tôi về bốt.
- Để làm gì? Ví này là của tôi mà! Ai cũng trông thấy thằng cha này giật ví ở tay tôi.
- Phải ghi lời khai của bà để trình toà.
Họ đi về bốt, viên cảnh binh và thằng kẻ cắp đi trước, người đàn bà theo sau. Nghe người phụ nữ khai xong, viên cảnh sát trưởng kinh tởm nhìn thằng ăn cắp người nồng nặc mùi súc vật chết:
- Thằng kia, mày không biết xẩu hổ à? Khoẻ như con lừa ấy! Giá đi làm ăn gì có phải hơn không!...
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng đầu lên:
- Thế còn những kẻ khác làm nghề gì? - nó nói.
- Câm ngay!
Viên cảnh sát trưởng hỏi người phụ nữ trẻ:
- Hanưm Ephendi, trong ví của bà có những gì?
- Tiền, sáp môi, chiếc gương, hộp phấn...
- Có bao nhiêu tiền?
Người phụ nữ nín lặng. Viên cảnh sát trưởng thò tay định cầm chiếc ví nằm trên bàn, nhưng người phụ nữ ngăn lại: - Xin ông đừng mở ra! Trong ví tôi có... thôi, ông để tôi mở lấy. Song viên cảnh sát trưởng đã cầm lấy chiếc ví và dốc ra mọi thứ bên trong: hộp sáp môi, chiếc gương, hộp phấn, ít tiền lẻ và... 200 đồng đôla.
- Bà lấy tiền đôla này ở đâu ra? - viên cảnh sát trưởng hỏi. - Tôi không thưa kiện gì người này cả - người phụ nữ chỉ tay vào tên ăn cắp nói vội - Tôi chỉ yêu cầu cho tôi xin lại chiếc ví, tôi về! - Tôi đang hỏi về số đôla này.
- Lạy Trời, mà thôi, tôi cũng chẳng cần chiếc ví nữa. Cứ để lại chỗ các ông cũng được. Tôi đi về đây.
- Bà không về được! Bà lấy đôla ở đâu ra?
Người phụ nữ cúi mặt xuống:
- Madam Eleni mới đưa cho tôi sáng nay.
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên ngó viên cảnh sát trưởng và cười khẩy.
- Thế Madam Eleni này ở đâu?
Người phụ nữ thì thầm tiết lộ địa chỉ.
Thế là cảnh sát trưởng, cảnh binh, thằng kẻ cắp và người phụ nữ lên xe hơi của sở cảnh sát đi đến nhà madam Eleni. Ngay trong gian phòng đầu tiên họ chạm trán phải một cặp đang ở trong tư thế không lấy gì làm tao nhã cho lắm. Trong khắp sáu căn buồng, viên cảnh sát trưởng bước chân vào bất kỳ chỗ nào cũng đều thấy những cặp như vậy cả.
Cảnh sát trưởng xông tới madam Eleni:
- A, chính mụ là chủ nhà chứa. Chúng ta đã hoài công tìm kiếm mụ Eleni suốt sáu tháng nay đây. Mụ lấy đâu ra số tiền đôla này? - Có một khách chơi là Rida trả cho tôi.
Những người đàn ông vừa bị bắt gặp trong cảnh bậy bạ ấy được thả ra, vì họ là đàn ông. Còn đàn bà thì vì không phải là đàn ông nên bị đưa đến nhà thương ở Ahưcapư để khám bệnh. Sau đó viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, người phụ nữ xinh đẹp và
madam Eleni lại đi xe hơi của sở cảnh sát đến nhà Rida. Tại nhà Rida, trên tầng thứ 7, đang tiến hành xây dựng.
- Các người làm gì ở đây?
- Có gì đâu!
- Có gì đâu à?! Thế công nhân với những người coi việc này là cái gì? Nghĩa là các người đã xây nhà phạm pháp!
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên nhìn viên cảnh sát trưởng và lại cười khẩy. Sau khi đã lập biên bản về việc xây dựng bất hợp pháp, cảnh sát trưởng hỏi Rida:
- Anh lấy số đôla này ở đâu?
- Ali đưa cho tôi.
Cảnh sát trưởng gọi dây nói đến cục an ninh xin một xe vận tải kín mít. Tất cả số hành khách cũ và Rida lên xe. Họ đến nhà Ali. Cảnh sát trưởng hỏi Ali:
- Ông có đưa số tiền đôla này cho Rida không?
- Có!
- Sao ông lại đưa cho hắn?
- Ông ta bán sắt làm nhà cho tôi.
Cảnh sát trưởng quay lại Rida:
- Sắt làm nhà? Thế anh có giấy phép không? Không à? Thế đấy!... Nghĩa là anh lại còn đầu cơ cả sắt nữa!
Sau đó ông ta lại hỏi Ali:
- Anh lấy tiền đôla này ở đâu?...
- Tôi được bạc đêm qua ở nhà Huxây.
Thằng ăn cắp vẫn luôn luôn cúi đầu xuống lại ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Người cảnh binh, viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, người phụ nữ khả ái, Rida và Ali ngồi lên xe vận tải đến nhà Huxây.
Trên những bàn trải dạ xanh có 10000 đồng, những quân xúc sắc và cỗ bài. Sau khi những con bạc đã được đưa đến công tố viên, cảnh sát trưởng hỏi Huxây:
- Anh lấy đâu ra tiền đôla này?
- Chiếc tàu Ghêmisgơsêk sang Mỹ mới quay về. Nuri đưa cho tôi. Anh ta làm thợ máy ở đấy.
Các hành khách cũ và Huxây lên xe vận tải đi đến nhà người thợ máy Nuri. Trong nhà tay thợ máy Nuri này còn tìm thấy 10 cân thuốc phiện trắng nguyên chất. Nuri thú nhận là đã nhận tiền đôla
của Ixan. Ixan tức thì bị bắt quả tang đang phạm tội ở toà biệt thự trên đồi Bôcpho. Ở đây hắn sản xuất thuốc phiện trắng. - Anh lấy tiền đôla của ai?
- Của Rêsan.
- Rêsan là ai?
- Hắn buôn lậu quần áo lót phụ nữ bằng nylông từ Bâyrút đưa về.
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Tất cả lại lên xe vận tải, bây giờ thì đến nhà Rêsan. Rêsan nói đã cầm đôla của mụ Nêvin buôn quần áo lót nylông và áo tắm chun.
Song mụ này không có nhà. Mụ vẫn ở Pari hay La Mã như thường lệ.
Viên cảnh binh nói:
- Lạy Chúa, cũng may mà không có mụ ta ở nhà; trong xe cũng không còn chỗ nào trống nữa rồi.
Thằng kẻ cắp ngẩng đầu lên nhìn cảnh sát trưởng và cười khẩy. Viên cảnh sát trưởng quát:
- Này, thằng bợm kia! Không việc gì mày cứ phải cười khẩy mãi thế! Rõ ràng là trong bọn này thì mày vẫn còn lạ kẻ nhẹ tội nhất! Thằng bợm bị xử tội ăn cắp và ngồi tù 3 tháng.
Bây giờ nó làm ăn lương thiện rồi. Và thấy bóng chiếc ví đầm đâu là nó tránh cho xa như tránh bệnh hủi vậy.
Có nên làm bác sĩ không con?
Chúng ta thiếu thầy thuốc là thế, nhưng một số người vẫn phải chạy sang Âu, sang Mỹ kiếm ăn! Thì ra có những nhà thông thái nửa mùa của chúng ta muốn rằng các bác sĩ trẻ học ở nước ngoài trở về trước hết phải qua một kỳ sát hạch rồi mới được hành nghề.
- Anh về nước làm gì? - một bác sĩ già, giàu kinh nghiệm, làm giám khảo hỏi.
- Để làm việc, để chữa bệnh ạ.
- Hừm, tất nhiên... Ngoài ra anh còn biết làm gì nữa? - Thế là thế nào ạ?
- Thế là thế, chứ còn thế nào nữa? Thí dụ, biết sáng tác nhạc, làm thơ, đóng phim, buôn bán... Hay cũng có thể anh có khả năng làm nghị viện, làm bộ trưởng, làm chính khách... Tất nhiên anh sẽ phải làm một việc gì như thế chứ.
- Dạ, không. Cháu chỉ chữa bệnh thôi ạ. Cháu con nhà nghèo, làm cho nhà nước lương không đủ ăn, nên cháu sẽ làm tư... - Hà... hà... hà... Không có ham chánh, phó giáo sư mà đòi làm tư? Thế lấy ai dẫn khách cho anh lúc đó?
- Tức là dẫn bệnh nhân ấy ạ?
- Phải, khách ấy mà...
- Chắc là bệnh nhân tự đến lấy...
- Làm sao bệnh nhân tự đến được?
- Nếu bệnh nặng thì có xe chở đến...
- Được rồi, vậy cái người chở bệnh nhân ấy tên là gì? - Làm sao cháu biết được tên anh ta, anh ta đã chở cho cháu bao giờ đâu.
- Tôi không hỏi tên riêng mà hỏi cái loại người chở khách bệnh nhân ấy gọi là gì?
-? ...
- Loại đó gọi là lái, như là lái buôn ấy... Đằng này là lái y học. Như anh chẳng hạn, anh cũng không bao giờ gửi bệnh nhân phòng khám công đến bác sĩ tư, phải không nào? Nếu không ai chỉ thì sao bệnh nhân đến chỗ anh được? Một điều như thế mà ở nước ngoài
người ta cũng không dạy anh hay sao? Thôi được, bây giờ anh nói đi, thế nào là hữu ái nghề nghiệp?
- Là tương trợ lẫn nhau, phải không ạ?
- Thế là anh không biết rồi, để tôi giảng cho mà nghe. Giả dụ bây giờ có người đến kêu với anh là bị bệnh trĩ. Anh khám xong rồi gửi đến cho một người chuyên về phụ khoa...
- Người ta bị trĩ sao lại gửi đi phụ khoa?
- Bạn anh ăn tiền rồi lại gửi cho một người bạn khác chữa răng...
- Nhưng ...
- Tay nha sĩ ấy lại gửi đi da liễu, da liễu lại gửi đi chiếu điện, chiếu điện lại gửi đi nhãn khoa. Cuối cùng hắn ta bị gửi đi thần kinh. Đến lúc ấy thì thần kinh của hắn cũng suy sụp thật... Nếu hắn còn đủ cơm ăn nước uống thì rồi tự hắn sẽ khỏi bệnh, nhược bằng không thì hắn sẽ chết và bệnh cũng hết. Chết rồi hắn lại còn phải rơi vào tay thầy thuốc một lần nữa, đó là tay giải phẫu lâm sàng. Thôi, bây giờ anh nói đi, anh phải làm gì để được nổi tiếng?
- Cháu sẽ cố gắng điều trị giỏi và sống có lương tâm... - Hức!... Nghe đây! Anh phải lăng xê lên báo một câu quảng cáo: “Người nghèo khám không lấy tiền. Hàng ngày khám sau bữa cơm trưa.” Khi khách đến hơi đông anh rút xuống chỉ khám thứ hai, thứ năm... Sau đó mỗi tuần một lần, sau đó mỗi tháng một lần... Khi khách đã kéo đàn kéo lũ mà đến thì anh thôi không khám xuông nữa. Từ đó về sau anh cứ tăng dần tiền khám. Người ta sẽ nghĩ rằng chắc anh phải có những bí quyết gì ghê gớm lắm thì mới lấy đắt như vậy. Thế là tất cả bệnh nhân đổ xô đến... Sau đó anh lại phải cho đăng báo những lời bệnh nhân gửi đến tri ân... Thôi, còn trường hợp này, nếu một bệnh nhân đến mà anh không tìm thấy bệnh gì thì anh xử lý như thế nào?
- Cháu sẽ bảo rằng anh ta khoẻ...
- Chặc... chặc...! Thế mà cũng đòi làm bác sĩ! Chẳng lẽ trên đời lại có người hoàn toàn khoẻ mạnh? Mà nếu như quả thật hắn ta không có bệnh gì thì anh cũng phải cho hắn một cái đơn chữ rất ngoáy đến nỗi hắn không tài nào đọc được rồi bảo hắn ra hiệu thuốc... Dù anh có viết trời đất gì đi nữa thì thằng chủ hiệu rất tâm lý kia sẽ tìm ra ngay vô khối bệnh tật cho khách... Hừ, anh càng viết mờ mịt bao nhiêu thì tờ hoá đơn lại càng rành mạch bấy nhiêu...
Ngoài ra anh lại phải thường xuyên viết báo về nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn “Bàn về chế độ thuê nhà”, “Công tác bảo vệ rừng”, “Đạo đức người lái xe”, “Vì sao người ta mất trí”... như thế là để tên tuổi anh thường xuyên xuất hiện trên mặt báo và mọi người sẽ nói rằng: anh ta hiểu biết ghê thật! Phải khéo léo làm sao sau này lên được chức thị trưởng, tỉnh trưởng, nghị sĩ hoặc thậm chí bộ trưởng... Đó, ta nhìn thấy rất rõ rằng anh không thể làm nổi bác sĩ đâu... Tốt nhất là anh nên quay lại chỗ anh mới học bên Đức, bên Mỹ gì đó!
- Cháu xin cám ơn, chúc bác khoẻ!
- Anh cũng khoẻ nhé, đừng có ốm đấy!
Chuyện vợ chồng!
Lẽ ra tôi phải viết xong và nộp bản thảo từ tháng trước, nhưng tôi không hoàn thành hợp đồng.
- Viết đi anh! Nào có ai quấy rầy anh đâu?
- Đâu có, em yêu của anh. Đáng ra anh đã phải đánh dấu chấm hết cuốn sách, thế mà không xong... Chẳng hiểu sao anh lại không tập trung tư tưởng được em ạ... Đầu óc cứ để đi đâu... - Làm sao đầu óc anh lại để đi đâu?
- Chính anh cũng không biết nữa... Hôm nay anh sẽ ngồi nghiêm chỉnh. Trời mát mẻ và đầu óc anh cũng đang thư thái... May ra thì xong được cái đề cương...
- Thế thì anh ngồi viết đi... Có khi em quấy rầy anh cũng nên. - Có gì đâu, em yêu dấu!
- Thế anh viết đi... Anh đại lãn thật!
- Hả? ! Lạy trời hôm nay tôi không bị chuyện gì quấy quả! - Ủa! Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Chả thế nào cả... Anh không có ý gì đặc biệt... Anh chỉ cầu trời cho anh hôm nay làm được nhiều việc...
- Thế nhỡ đột nhiên hôm nay em chết thì sao?
- Sao em lại sang chuyện ấy?
- Thì sao! ... Em chết thật đấy...
-Nói thế làm gì, vợ yêu của anh?
- Anh ơi, ngộ như em chết... anh có lấy vợ khác không? - Em yêu dấu! Đừng nói với anh những điều như thế... - Nhưng , anh thấy đấy, anh có trả lời được đâu. Mà từ lâu em
đã biết tỏng bụng dạ anh, biết anh nghĩ gì về em rồi. - Em gái nhõng nhẽo của anh, tính nết em kỳ thật đấy. - Mọi sự chỉ vì anh...
- Thì anh có làm gì em đâu, hả người ngọc? Anh chẳng bao giờ muốn em buồn cả!
- Thế thì anh trả lời em đi: sau khi em chết anh có đi lấy vợ khác không nào?
- Lạy Thánh Ala!
- Ái chà, thấy chưa! Em biết rồi mà... Anh vừa mới tự thú đấy nhé! ...
-Tự thú? ! Tự thú cái gì kia chứ?
- Anh chả vừa nói cái câu “ Lạy Thánh Ala” là gì?
- Thì anh nói đấy... Nhưng làm sao nào?
- Em chết rồi tất nhiên anh không lấy ai được nữa... Bọn đàn bà nó ghê tởm anh, anh chả căm ghét cuộc sống gia đình là gì... Tưởng em không biết đấy hả! Em chết rồi dù anh có sống đến nghìn tuổi anh cũng không lấy được vợ... Nhưng chẳng lẽ anh ghê tởm cuộc sống gia đình lại là tại em à?
- Nàng tiên của anh, tại sao em cứ kiếm chuyện thế nhỉ? Ngay cả trong ý nghĩ, anh cũng chẳng bao giờ có những chuyện ấy... Em lau nước mắt đi, bình tâm mà nghe anh đây... Em chẳng thương em tí nào mà cứ làm mình làm mẩy vô ích... Em quả là không hiểu những lời anh nói...
- à à à! Nghĩa là anh không định nói những điều như thế chứ gì?
- Phải ạ!
- Nghĩa là nếu em chết anh sẽ tục huyền chứ gì?
- Trời ơi là trời! Tôi biết nói thế nào đây...? Có thể... - Anh cứ nói toạc ra xem nào...
- Bây giờ anh không thể đoán chắc điều gì... Nhưng có thể anh sẽ lấy vợ cũng nên!
- Tất nhiên là lấy vợ rồi... Làm như em không biết bụng dạ anh ấy!
- Trời đất ơi! Thánh Ala ơi! Cầu trời cho tôi được bình tĩnh! Em làm anh rối cả ruột, em yêu ạ, chính anh cũng không biết anh nói gì nữa...
- Lấy vợ, đằng nào rồi anh cũng lấy vợ...
- Anh nói thế để làm vui lòng em đấy thôi...
- Làm vui lòng em? ! Đầu tiên anh bảo không lấy, rồi sau lại bảo có lấy. như thế mà bảo làm vui lòng em!
- Thánh Ala ơi! Con phải làm thế nào đây...? Xin Thánh rủ lòng ân ưu! Thôi nín đi em... Lúc anh bảo anh không lấy vợ thì em cáu. Đến lúc anh bảo anh có lấy vợ em cũng lại cáu. Thế em lệnh cho anh nói gì có phải hơn không?
- Thôi, em đã đoán ra từ lâu là anh chán em rồi!
- Thiên thần của anh, tại sao em lại quyết đoán rằng anh đã chán em?
- Thì anh bảo rằng anh không biết sau này có lấy vợ hay không chứ gì?
- Vâng, thì tôi có no... ó... ó... i!
- Thế là thế nào? Tức là anh bảo em rằng: thôi cô có chết thì chết mau lên, để cho tôi còn liệu! Thế mà anh lại còn chối phắt đi được!
- Thôi thôi... tôi im. Tôi không nói một lời nào nữa. Tôi xin rút lui mọi ý kiến. Tôi chỉ xin cô đừng khóc nữa, tôi van cô. Chúng ta ngồi im nhé! Thôi, nín đi, em yêu của anh!
Ôi! Tôi khó thở quá, tôi ngất đây... Tôi chết đây!
Chát xình chát chát bùm
Tôi đã hiểu được thấu đáo điều này: con người cần phải làm mọi việc cho đúng lúc, phù hợp với lứa tuổi của mình. Nếu không sẽ thành trò cười cho thiên hạ. Người ta nói vậy mà đúng: ai đến 54 tuổi đầu còn chơi bời phá phách thì kẻ ấy sẽ không còn được yên ổn ở trên cõi đời này. Nếu anh ta nhất định muốn chơi bời thì hãy chơi bời vào cái tuổi 20, không thì 30 đi. Chứ tôi đây - cầu trời phù hộ cho bạn khỏi phải thấy cảnh ấy - lại chơi bời vào lúc 58 tuổi đầu. Và nếu như ngày hôm nay tôi đang phải ngồi trong nhà thương điên thì ngoài bản thân mình ra, tôi không còn biết buộc tội cho ai được nữa. Tôi đã bị trừng phạt thích đáng về tội chơi bời không đúng thời đúng tuổi.
Cầu xin đấng Ala giữ gìn cho bầy con của Ngài khỏi lầm đường lạc lối! Tôi có thằng con trai học năm cuối cùng ở trường Đại học Bách khoa và một đứa con gái, cháu nó lại xinh đẹp nên chúng tôi phải vất vả lắm mới buộc nó học hết được bậc trung học, nó đi lấy chồng rồi. Tôi đã có hai đứa cháu ngoại...
...Thôi, để tôi kể cho các bạn nghe từ đầu - tôi đã phát rồ và phải vào nhà thương điên như thế nào. Bạn thấy đấy, tôi có nói nhảm đâu, tôi đang nghị luận một cách bình thường đấy chứ. Tôi có thể đặt câu không kém gì Exat Mamut. Tôi nói còn chí lý và logic hơn cả nhiều nghị sĩ nữa kia. Nhưng dù sao thì tôi cũng đang ở trong nhà thương điên. Nguyên nhân mọi chuyện chỉ là tại chát xình chát chát bùm...
Vâng! Kẻ tôi tớ trung thành của các bạn đây vốn là luật sư. Bạn còn nhớ xưa kia ta từng có một trường luật đấy chứ? Tôi tốt nghiệp chính cái trường ấy đấy. Mà còn được xếp vào loại “ưu” nữa kia, giờ thì gọi là “giỏi” ấy mà! Quả tình tôi là một luật sư, song không ở trong số những kẻ đi cãi cho bọn “chó sói” khét tiếng mổ thịt cả mẹ, cả chị, cả vợ, cả con gái và hàng chục mạng người thân thích khác. Những chuyện ly dị, cãi cọ trong gia đình và mọi thủ đoạn buôn bán rắc rối tôi cũng chẳng nhận cãi làm gì. Đã mấy năm nay rồi, tôi chỉ là luật sư ăn lương nhà nước tại một sở nọ, nghĩa là làm cố vấn tư pháp.
Tất cả bạn đồng học của tôi đều đã trở thành những ông hoàng. Lần nào đến văn phòng của họ tôi cũng không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Không, lạy giời, tôi không ghen tị với ai cả, nhưng mỗi khi trông thấy các cô đánh máy trẻ măng của họ, tôi không tài nào nhịn liếm môi được. như tôi đã nói đấy, tôi đã bỏ lỡ mất thời cơ, không làm đúng lúc cái công việc đáng lẽ phải làm và bây giờ thì đứng nhìn người khác mà...
Cuối cùng, tôi không chịu được nữa. Tôi bèn gửi đăng báo: “Văn phòng luật sư cần mướn một nữ thư ký trả lương hậu.” Tôi có nghe nói trên thế giới này đàn bà nhiều hơn đàn ông, nhưng nhiều hơn bao nhiêu thì tôi chịu không hình dung nổi. Ai đến xin làm nữ thư ký cũng ngắm nghía tôi như người đi tậu nhà vậy. Họ đưa ra hàng tràng câu hỏi, tựa hồ không phải tôi muốn mướn họ, mà họ định mướn tôi ấy. Và sau mỗi cuộc lục vấn như vậy họ bỏ đi, buông thõng một câu:
- Để tôi nghĩ xem và trả lời sau.
Tôi không nhớ là trong đời tôi đã có bao giờ phải tốn nhiều nước bọt đến thế hay không. Đồng thời tôi cũng thấy khiếp sợ... Ngày thứ 3 sau khi đăng báo, có một cô đến văn phòng tôi. Không phải một cô gái thường đâu mà là một hồ ly tinh hiện hình thì đúng hơn! Bạn đừng nóng ruột, tôi sẽ tả kỹ cô nàng và bạn sẽ phải tin tôi thôi. Trên vai, cô ta đeo một cái sắc như loại các sĩ quan vẫn mang khi diễn tập, chỉ khác cái là to gấp đôi. Chiếc váy cô ta mặc là thứ váy mà ta không thể nào hiểu nổi đâu là trên, đâu là dưới nữa. Và dưới chiếc váy “giật gân” ấy là hai bắp chân nõn nà tựa hồ hai quả ô liu khêu gợi: “Hãy ăn tươi nuốt sống chúng tôi đi!” Đôi chân để trần đi giày cao gót, mớ tóc lộng lẫy chấm đến vai...
“Ôi, trời đất, nhân danh Đấng Sáng Thế, xin hãy cho tôi có đủ sức!” - tôi thoáng nghĩ thầm. Và khi cô ta đung đưa cặp đùi tiến lại bàn tôi thì suýt nữa tôi đã ngã gục xuống để trở thành một vật hy sinh của tình ái.
- Ông cần nữ thư ký? - cô ta hỏi.
Tôi không còn đủ hơi sức để trả lời, tôi cũng không nói ra nổi được lấy một tiếng nào cả. Tôi chỉ nhớ là ngực tôi phập phồng như bễ lò rèn. Cô nàng ngồi xuống trước mặt tôi.
-Em tên là Bixen ạ - cô ta bắt đầu - 21 tuổi, cao một thước 62, nặng 57 cân. Nỗi ham thích duy nhất của em là khiêu vũ. Em rất mê
nhảy. Mục đích đời em là trở thành tài tử điện ảnh. Trong các loại hoa, em thích nhất hoa mộc lan, nước hoa thì loại “ôrigan”. Mối tình cuối cùng của em là một thuỷ thủ Mỹ.
Vừa kể cho tôi nghe đoạn tiểu sử ngắn ngủi ấy, cô ta vừa ra sức nhai kẹo cao su.
Thấy tôi cứ lặng thinh, cô ta hỏi:
- Thế nào, có được không ạ?
Tôi hé mắt nhìn: chiếc váy mặc hớ hênh quá! Lấy hết nghị lực, tôi cố sức thốt lên:
-Đ.... .. ợc lă... ắ... m!
-Em xin 300 đồng một tháng ạ.
Từng ấy thì gần bằng tất cả số lương luật gia của tôi rồi còn gì, nhưng không sao. Đối với cô nàng thế này thì cũng không tiếc. Thế là chúng ta đã làm quen với Chát xình chát chát bùm rồi đấy. Cô ta chính tên là Bixen, nhưng tôi gọi cô là Chát xình chát chát bùm. Vì sao? Vì ngay hôm đầu, ngay từ cái giờ phút đầu tiên ấy, cô ta đã luôn miệng nhắc đi nhắc lại:
Chát sình chát chát bùm!... Chát xình chát chát bùm! Đồng thời cứ giật giật người lên một cách lạ lùng và khẽ nhún nhẩy...
Công việc tôi đang làm đương nhiên là bị xếp xó rồi. Chúng tôi cùng ăn bữa trưa và bữa chiều với nhau. Đến thứ 6 cô ta hỏi: - Chủ nhật này ta đi đâu ạ?
- Em thích đi đâu thì chúng ta đi đấy - tôi đáp.
- Ta ra ngoại thành chơi nhé.
Thế là chúng tôi đi ra ngoại ô thành phố, đến các hòn đảo, các khu vườn. Mọi sự đều hay: nhưng những cuộc đi ấy chẳng mang lại được cái gì béo bở cho tôi cả. Tôi sợ đụng phải cô ta. Giá cô ta vô tình bỗng chạm phải tôi thì tôi giật thót người lên như bị điện giật vậy.
Ngoài ra, lần nào cô ta cũng kiếm một chàng trai trẻ nào đó và họ bắt đầu ưỡn ẹo chát xình chát chát bùm, chát xình chát chát bùm. Họ nhảy đến hàng giờ đồng hồ! Làm như thể tôi may sắm cho cô ta, cho ăn cho uống, dẫn đi chơi lại kèm thêm việc bỏ vào túi cho cô ta 300 đồng, để cô ta vui chơi với kẻ khác... Có lần một thằng mất dạy nào đó trông thấy hai chúng tôi trong hiệu ăn đã hỏi:
-Đấy là con gái ông? Ối chà chà, tuyệt quá!
Tôi bèn cạo râu mỗi ngày hai lượt. Sơmi hồ hột, quần là thẳng nếp, mỗi ngày một bộ comlê mới, bông hoa gài ngực áo... Vợ tôi thường hỏi:
- Mình làm sao thế?
- Làm thế nào được, thời buổi bây giờ phải thế - tôi đáp quanh co.
Tôi điên người vì cô nàng của tôi lại cứ nhún nhảy với bất kể một tên đê tiện nào. Cuối cùng, tôi nói thẳng cho cô ta biết là tôi ghen. Giá bạn được thấy cô ta biến sắc đi như thế nào! Nàng tiến lại gần, ngồi vào lòng tôi, đỡ lấy cằm tôi mà nói:
-Ông già ơi, ông chẳng biết quái gì cả. Giá như ông biết nhảy có phải hay bao nhiêu không!
Đó là cử chỉ âu yếm nhất mà tôi được cô ta ban cho trong đời. Một ý nghĩ vụt nẩy ra trong óc tôi: tôi sẽ học nhảy giấu cô ta, tôi sẽ cho cô ta một mẻ ngạc nhiên! Bấy giờ thì hẳn không còn ai lôi được cô ta ra khỏi cánh tay tôi nữa. Nhưng đã ngần này tuổi đầu mà còn đến trường học nhảy thì làm sao coi được? Tôi bèn kín đáo học lỏm cách giơ chân múa tay của những kẻ bỏ mặc tôi. So sánh với những điệu nhảy thời nay thì những điệu nhảy khi xưa của chúng tôi chẳng qua như ngỗng bước...
Về đến nhà tôi vào ngay trong buồng khoá cửa lại và bắt đầu nhảy, chân dậm miệng nhịp chát xình chát chát bùm, chát xình chát chát bùm...
Bị kích thích đến quá độ, tôi dậm chân mỗi lúc một mạnh. Những người ở tầng dưới lúc đầu tưởng là tôi gõ để báo cho họ khỏi làm ồn nên mọi người lập tức yên lặng ngay. Nhưng sau đó tiếng dậm chân và những tiếng động lạ tai cứ tăng lên mãi nên họ bèn lên gác chỗ tôi xem sự thể ra sao. Nghe thấy ồn ào, vợ tôi, con trai, con gái, con rể, các cháu tôi chạy cả lên và nhòm qua lỗ khoá: - Trời ơi, ông cụ phát điên rồi - mọi người lo lắng nói. Vợ tôi bèn bảo:
- ít lâu nay tao thấy cung cách ông ấy có cái gì đáng ngờ lắm. Tao đã để ý thấy có cái gì khang khác...
Tôi vẫn tiếp tục công việc của mình. Chát xình chát chát bùm, chát xình chát chát bùm... Vợ con tôi oà lên nức nở.
- Tao chẳng vào đâu, tao sợ lắm! - vợ tôi nói.
- Con cũng chịu thôi! - con gái tôi kêu lên.
- Phải báo cho sở cảnh sát - chàng rể tôi bỗng nghĩ ra. Khi 3 người cảnh sát xông vào buồng tôi, tôi vẫn mặc độc một chiếc quần lót, tay ôm chiếc gối đứng dậm chân trước gương, miệng thì hát: “chát xình chát chát bùm!... chát xình chát chát bùm!...” một người cảnh sát ôm ngang lấy tôi, vật xuống đất trói lại, quẳng vào ô tô và chở vào nhà thương điên.
Thoạt đầu tôi còn định nói: “Các người ơi, tôi có điên đâu, tôi học nhảy đấy mà!” Nhưng sau tôi nghĩ nếu thế lại càng nguy. Người ta lại bảo: xem đồ ngốc kia, hơn 60 tuổi đầu mà còn phải nhục nhã vì một con bé con. Tốt hơn hết là tôi đừng có nói ra. Cứ mặc cho họ tưởng rằng tôi điên thật thì cùng lắm người ta cũng còn thương hại tôi. Sau khi đã quyết định như vậy, tôi lại tiếp tục giả vờ điên. Ngay cả ở sở cảnh sát và trước mắt các bác sĩ tôi vẫn nhảy cẫng chân lên mà hát: “Chát xình chát chát bùm! Chát xình chát chát bùm!” Các bác sĩ đương nhiên là nghĩ ngay ra được một cái tên Pháp lẫn Latinh nào đó để đặt cho căn bệnh của tôi.
Thế là đã một năm nay tôi nằm tại nhà thương để chữa bệnh thần kinh. Dần dà tôi ít ngâm nga câu “Chát xình chát chát bùm!” hơn trước. Sắp tới đây tôi sẽ làm ra vẻ như trí khôn đã trở lại và họ sẽ cho tôi xuất viện. Quả tình trí khôn đã trở lại với tôi thật, nhưng quá là muộn...
Chát xình chát chát bùm! Chát xình chát chát bùm!
Điệp viên OX – 13
Y là điệp viên cỡ thượng thặng. Tên tuổi của y, ngay từ khi y còn sống, đã được ghi vào lịch sử tình báo thế giới. Quãng năm dài hoạt động ở phương Đông đã cướp đi của y nhiều sức lực, nhưng không vì thế mà trông y mất vẻ điển trai rắn rỏi. Nhà nước đặt toàn bộ hy vọng vào người điệp viên OX-13 của mình, coi y là niềm tự hào của ngành tình báo quốc gia.
Một ngày nọ, OX-13 được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Trước khi đi hoạt động ở một nước nào, công việc đầu tiên của OX-13, tất nhiên là phải học tiếng nói của nước ấy. Năng khiếu ngoại ngữ của y quả là có một không hai. Kinh nghiệm cho y thấy rằng, học ngoại ngữ tốt nhất là học trên giường, nên OX-13 quyết định cưới một người vợ bản xứ để hoàn thiện thêm tiếng Thổ của mình. Việc chọn một cô gái thích hợp đối với y không phải là điều khó khăn. Ngay cả cái điều kiện hóc búa mà bố mẹ vợ đưa ra, bắt chàng rể tương lai phải theo đạo Hồi, y cũng vượt qua một cách dễ dàng. Vốn là một người có tư tưởng dễ dãi và bình đẳng đối với các vấn đề tôn giáo, nên y đã dũng cảm chịu đựng một phẫu thuật khá nguy hiểm cho một người ở vào lứa tuổi y, để đang là Risa Vêlinh, y có thể biến thành Rêsát Vêli.
Chỉ sau chưa đầy hai, ba tháng, tiếng Thổ của OX-13 đã có thể coi là tuyệt hảo.
Vậy là cuối cùng, y đã tự thiết lập xong cho mình một vị trí vững chắc trên đất nước xa lạ và tạo được những điều kiện hết sức thuận lợi để hoàn thành sứ mạng mà người ta giao phó cho y ở xứ sở này. Nhưng chính vào lúc đó, trong cuộc đời y đã xảy ra một biến cố bất ngờ. Chắc các bạn cũng biết, nhiều khi một môi trường mới mẻ hay một hoàn cảnh xa lạ có thể làm cho con người bỗng thay đổi hẳn. Đối với OX-13 cũng vậy. Việc chuyển theo đạo Hồi, việc cưới vợ Thổ, về việc chung sống với những người Thổ làm cho trái tim đá, ý chí sắt và thần kinh thép của y đột nhiên trở thành mềm yếu. Chuyện đó thoạt nghe có vẻ khó tin, nhưng sự thực lại hoàn toàn đúng như vậy. Có thể, cái bầu không khí ấm áp chân thành bao bọc
xung quanh Rêsát Vêli đã làm cho lòng y trở nên hiền dịu. Trách nhiệm của nghề tình báo bắt đầu làm y thấy nặng nề khó chịu: y cảm thấy chán ghét cái công việc lén lút chống lại những con người dễ thương và tốt bụng ấy. Y tự nhủ sẽ đến đầu thú tại cơ quan phản gián Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ thú nhận hết mọi chuyện với họ, rồi muốn ra sao thì ra!... Y đã chuẩn bị tất cả với ước vọng duy nhất là làm sao thoát khỏi cái trò chơi mà y đang vướng vào, để được sống yên ổn hạnh phúc trong cái tổ ấm gia đình, bên cạnh người vợ yêu và những con người trung thực đáng mến.
Thế là y quyết định đi thực hiện ý định đó.
Rêsát Vêli bước vào một toà nhà lớn. Chẳng hề đắn đo, y gõ cửa căn phòng đầu tiên mà y gặp, rồi đứng ngay tại ngưỡng cửa, y báo ngay cho một viên chức ở đó biết rằng: Y, Rêsát Vêli, hay Risa Vêlinh, hay OX-13, chính là gián điệp của nước ấy nước ấy, và được phái sang đây để tiến hành một nhiệm vụ đặc biệt.
Danh tiếng của đại cường quốc quả là có một tác động kỳ lạ đối với người viên chức nọ: vừa nghe thấy cái tên ấy, anh ta không còn chú ý gì đến hai tiếng “gián điệp” nữa, mà vội vàng đứng phắt dậy, cúi rạp người trước Rêsát Vêli, kính cẩn tự giới thiệu tên tuổi và chức vụ của mình.
- Rất hân hạnh được quen biết ngài! Xin mời ngài ngồi! - anh ta nhắc lại với giọng đầy xúc động.
Không! Rêsát Vêli quả là không nhầm khi nghĩ về cái dân tộc đáng quý này! Ngay cả với một tên gián điệp họ vẫn tiếp đón với nụ cười niềm nở! Y rút thuốc lá ra mời người viên chức, đoạn ngồi xuống ghế và bắt đầu nói:
- Tôi là điệp viên OX-13. Tôi được phái sang đây với mật danh là Risa...
- Thưa, chúng tôi có thể giúp gì cho ngài? - người viên chức nhã nhặn ngắt lời y - Ngài cần gì ở chúng tôi ạ?
Rêsát Vêli chưng hửng:
- Nhưng tôi là... gián điệp mà! - y do dự kéo dài giọng. - À, tốt lắm!... - nhân viên nọ suy nghĩ - Chắc ngài muốn làm việc cho chúng tôi phải không ạ? - rồi không đợi trả lời, anh ta nở một nụ cười đon đả nói tiếp - Vậy xin mời ngài lên tầng 2, phòng 228 ạ!
Tại phòng số 228, người ta nghe Rêsát Vêli một cách hết sức chăm chú, rồi cuối cùng hỏi y:
- Thế nhiệm vụ của ngài là gì?
- Đặt mìn gây các vụ nổ ngầm - Rêsát Vêli đáp.
- Bộ phận của chúng tôi hiện nay đã được bổ sung đầy đủ. Trong thời gian tới chắc cũng chưa có chỗ khuyết. Nên rất tiếc chúng tôi không thể bố trí cho ngài việc gì được!
Nhà tình báo nổi tiếng, vốn là người hết sức bình tĩnh, nghe thấy thế bỗng cảm thấy thần kinh của mình không còn được bình thường nữa. Y nói như hét:
- Nhưng tôi đã nói với các ngài rằng tôi là một điệp viên! Một tên gián điệp!...
- Tuyệt lắm! Nhưng ngài muốn gì ở chúng tôi? Ngài muốn chúng tôi che chở cho ngài?
- Nhưng tôi là một điệp viên nước ngoài! Chả lẽ ở đây không có ai giải quyết vấn đề của tôi cả hay sao? - rồi bằng một giọng run run, Rêsát Vêli nói tiếp - Tôi sẽ khai hết tất cả các điều bí mật!
- Á, à! Thế thì lại là chuyện khác! Nếu vậy xin ngài quá bộ leo lên một tầng nữa, sau đó rẽ tay phải, rồi đi theo hành lang đến căn phòng cuối cùng. ở đó người ta phụ trách các vấn đề nổ mìn. Rêsát Vêli leo lên tầng 3.
- Thưa ngài, tôi là nhân viên tình báo...
Viên quan chức ngồi ở bàn thậm chí không thèm ngẩng đầu lên. - Ai bảo ông đến đây?
- Không ai cả, tôi tự đến...
Viên quan chức tức giận rời mắt khỏi đống giấy tờ:
- Tôi hỏi, ai chỉ cho ông đến phòng tôi?
- Ở phòng 228 người ta cho tôi biết là ngài phụ trách vấn đề nổ mìn.
- Vâng, đúng rồi! Nhưng nổ mìn cũng có nhiều cách khác nhau. - Tôi chuyên về phá cầu.
- Đấy! Ông thấy chưa? Nếu thế thì lại không thuộc bộ phận chúng tôi! Mìn là mìn, mà cầu là cầu chứ!...
- Thế thì tôi phải đến gặp ai ạ?
- Gặp ai ấy à? - viên quan chức suy nghĩ một lát rồi đáp - à, phải rồi! Ông hãy lên tầng 4, ở đó họ sẽ chỉ dẫn cho!
Khoảng mười phút sau, Rêsát Vêli đã ngồi trong một căn phòng khác và đang trình bày. Người ta nghe y rất chăm chú rồi hỏi y: - Ngài chuyên làm nổ các loại cầu gì?
Nghe hỏi thế Rêsát Vêli cảm thấy như chính mình cũng sắp bị nổ tung.
- Sao? Chả lẽ các ngài không biết có những loại cầu gì nữa hay sao?
- Chúng tôi biết. Cầu thì có cầu đá, cầu bê tông, cầu gỗ... Nhưng mỗi loại cầu chúng tôi có bộ phận nghiên cứu riêng. - Nếu vậy, tôi chuyên về cầu bê tông - Rêsát Vêli thú nhận. - Nếu thế thì ngài đến nhầm chỗ rồi! Ngài phải lên tầng năm, phòng số 501 cơ! ở đó họ phụ trách vấn đề của ngài. Sau khi nghe Rêsát Vêli trình bày, viên quan chức phòng 501 suy nghĩ một lát rồi cầm lấy máy điện thoại.
- Bẩm ngài!... Có một người đến chỗ chúng tôi tự xưng là điệp viên và khai ra biết làm nổ các cầu bê tông. Xin ngài cho biết phải xử trí với anh ta thế nào ạ? Dạ... dạ! Bẩm vâng ạ! Và với vẻ hài lòng, anh ta quay sang Rêsát Vêli, lúc này bỗng thấy hy vọng là chuyện của mình sẽ được giải quyết - Tốt nhất là ngài hãy làm theo lời khuyên của cấp trên chúng tôi và hãy tìm gặp ngài Hasim.
Ngài Hasim chăm chú lắng nghe từ đầu đến cuối câu chuyện của Rêsát Vêli rồi hỏi:
- Xin lỗi, ngài có thể cho biết ngài phá nổ cầu bằng phương pháp gì không ạ?
Rêsát Vêli nóng bừng mặt:
- Nhưng ... bằng phương pháp nào thì các ngài cần gì phải biết? - Xin ngài hãy bình tĩnh...! E... hèm! Ngài bảo ngài là một điệp viên mà ngài lại dễ xúc động quá!... E... hèm... Chắc ngài cũng biết rằng ở chỗ chúng tôi người nào thần kinh không vững thì không thể làm việc được... Tại sao tôi hỏi ngài như thế? Là vì đặt thuốc nổ có dây cháy chậm rồi châm ngòi là một chuyện, còn gài mìn giờ, hoặc mìn điều khiển theo cự ly lại là chuyện khác! Mỗi cách chúng tôi có bộ phận phụ trách riêng...
- Tôi có thể sử dụng cả hai cách! - Rêsát Vêli cáu tiết quát - Tôi là điệp viên! Các ngài có hiểu không? Một điệp viên ngoại hạng! Tôi biết làm tất cả! Các ngài rõ chưa?
- Nếu vậy, đó không phải vấn đề chúng tôi phụ trách! Xin mời ngài xuống tầng một, phòng thứ ba, bên phải cơ ạ!
Tuy đã gần như tuyệt vọng, nhưng Rêsát Vêli vấn kể lại từ đầu đến cuối. Giọng y đã uể oải, chán nản. Viên quan chức cửa phòng ba, bên phải, tầng một, vừa nghe y nói, vừa đổi chân luôn luôn, ra chừng khó chịu. Y đã đứng lên mặc áo măng tô, chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ.
- Tốt lắm, ông bạn thân mến ạ! Mọi việc rõ cả rồi. Nhưng sao ông đến muộn quá vậy? Giờ làm việc hết mất rồi! Văn phòng đã đóng cửa. Mà chuyện của ông lại rất quan trọng và đòi hỏi mất nhiều thời gian!...
- Nhưng có phải lỗi tại tôi đâu! Suốt ngày tôi cứ bị người ta đuổi đi hết phòng này đến phòng khác.
- Ồ, ông bạn ạ! Tôi rất hiểu ông. Nhưng ông cũng phải hiểu cho tôi chứ! Là hết giờ làm việc mất rồi!
Rêsát Vêli há hốc mồm. Nhưng viên quan chức đã bước ra phía cửa.
- Thôi, xin lỗi ông bạn! Ngày mai thế nào ông cũng đến nhé! Nhưng nhớ đến sớm một chút đấy!
Rêsát Vêli, tức Risa Vêlinh, cũng tức điệp viên trứ danh OX-13, vừa mệt mỏi lê bước trên phố vừa miên man suy nghĩ: “Thế là rút cuộc ta không thoát khỏi cái trò chơi quái gở này... Lại phải tiếp tục cái công việc quái gở... Và hơn nữa, lại ở cái đất nước cũng hết sức quái gở này!...”.
"""