" Chờ Mặt Trời Lên - William Boyd & Nguyễn Quang Huy (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chờ Mặt Trời Lên - William Boyd & Nguyễn Quang Huy (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup | 06 08 2021CHỜ MẶT WILLIAM BOYD TRỜI LÊN Nguyễn Quang Huy dịch —★— • WAITING FOR SUNRISE • TÁC GIẢ Sinh năm 1952, William Boyd là một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Scotland. Các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đã được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ và dành nhiều giải thưởng lớn trên các văn đàn thế giới, đặc biệt là về truyện trinh thám, điệp viên. Trong đó có A Good Man in Africa, đạt giải Whitbread và Somerset Maugham; An Ice-cream War đạt giải John Llewllyn Rhys và được đề cử cho giải Booker; Brazzaville Beach đạt giải James Tait Black Memorial, Any Human Heart đạt giải Prix Jean Monnet; Restless đạt giải Costa Novel of the Year… Vào tháng 4 năm 2012 William Boyd được tổ chức Ian Fleming (tổ chức duy trì và bảo tồn các tác phẩm về James Bond từ khi tác giả Ian Fleming qua đời mời chắp bút cho phần tiếp theo câu chuyện của siêu Điệp viên 007 James Bond. Dự kiến cuốn tiểu thuyết sẽ được công bố vào mùa thu năm 2013, nhân dịp kỷ niệm 60 năm kể từ ngày Ian Fleming ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên về Điệp viên 007. GIỚI THIỆU 1913, chàng diễn viên điển trai ăn mặc bảnh bao người Anh, Lysander Rief đang rảo bước trên những con phố thành Vienna với tâm trạng bồn chồn, rối bời trước buổi trị liệu tâm lí đầu tiên với bác sĩ Bensimon. 1914, Binh nhì Lysander Rief đã tình nguyện nhập ngũ khi chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, với nhiệm vụ là tiếp xúc và trấn an các tù binh người nước ngoài bị tạm giam tại Anh. 1915, Đại úy Lysander Rief, một quân nhân được biệt phái đến Bộ Tham mưu của Anh với quyền hạn và nhiệm vụ vô cùng đặc biệt của một điệp viên ngầm giữa thế giới đầy rối ren, nơi ranh giới giữa sự thật và dối trá chỉ mong manh trong chớp mắt. Anh phải tìm ra chìa khóa giải mã bí mật liên quan đến sự an nguy của Anh quốc, và phải sử dụng tất cả các kỹ năng có thể để thế giới tối tăm của những nghi ngờ và phản bội không xâm phạm và làm phương hại đến cuộc sống của anh - mẹ anh, con trai anh, và những người anh yêu thương. Chờ mặt trời lên là một cuộc hành trình vào miền tâm lý con người, một bức tranh khổng lồ về chiến tranh Thế giới thứ nhất ở châu Âu, một cốt truyện đan xen nhiều tình tiết như một cuộc đua đầy áp lực đến nghẹt thở, và một hồi kết vô cùng bất ngờ nhưng cũng thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc. Điều ngỡ là thật lúc bình minh sẽ là ảo ảnh dưới nắng trưa. ERNEST HEMINGWAY Nói dối thật chẳng ra gì; nhưng khi sự thực có nguy cơ gây ra một cú sốc kinh khủng thì nói dối có thể tha thứ được. SOPHOCLES “Một siêu phẩm. Đọc truyện của William Boyd giống như mở một chai rượu, châm lửa hút thuốc, ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành và chắc chắn rằng tác phẩm này sẽ đưa bạn đến một chuyến đi vô cùng thú vị mà không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra”. (The Spectator - UK) “Hơn hết thảy, Chờ mặt trời lên là một dấu mốc điển hình của cách kể chuyện: tinh khôn, khéo léo, hài hước, và luôn luôn cuốn hút… Đây là sự kiện văn học của năm”. (The Times - UK) “Một tiểu thuyết về điệp viên đầy gợi mở và có nhịp độ nhanh…” (The New York Times Book Review) Dành tặng Susan PHẦN I VIENNA 1913 – 1914 1 Một Anh chàng khá Điển trai MỘT NGÀY HÈ trời trong và rực rỡ tại Vienna. Bạn đang đứng giữa một vùng nắng vàng chanh hình sao năm cánh nghiêng, tại một góc ngoặt giữa đường Augustiner Strasse và đường Augustinerbastei, đối diện nhà hát opera. Bạn đứng đó lười nhác ngắm nhìn cả thế giới trôi qua trước mắt, đợi chờ ai hay điều gì khiến bạn chú ý và run lên vì phấn khích. Không khí của thành phố hôm nay có vẻ lạnh lẽo đến kinh ngạc, gần giống như mùa xuân dù đã qua lâu rồi. Nhưng bạn vẫn nhận ra một chút cái bồn chồn của mùa xuân ở những người đi qua, sự sôi nổi tiềm tàng trong không khí và có thể là cả sự liều lĩnh - dù tại thành Vienna này, chẳng ai dám nói sự liều lĩnh ấy có thể là cái gì… Dù thế bạn vẫn mở to mắt, bình thản đến lạ lùng, sẵn sàng đón nhận bất kì điều gì - một mẩu vụn bánh mì hay một đồng xu lăn - mà thế giới này có thể ném xuống con đường bạn đang đi. Và rồi bạn thấy- ngay bên phải một thanh niên đang sải bước ra khỏi công viên Hofgarten. Độ ba mươi tuổi, có thể gọi là đẹp trai, nhưng anh ta hấp dẫn bạn vì không đội mũ, một điều bất thường giữa đám đông dân Vienna hối hả này, ai cũng mang mũ, nam cũng như nữ. Và khi anh đi lướt qua, bạn sẽ phải để ý đến mái tóc nâu đẹp nhẹ bay theo gió, bộ vest màu xám nhạt và đôi giày màu máu bò bóng lộn. Anh có vóc người trung bình nhưng đôi vai rộng, khổ người cân đối của dân thể thao. Bạn sẽ nhận ra điều này khi anh chỉ cách bạn hai bước chân. Mày râu nhẵn nhụi - cũng là một điều lạ ở nơi đây, thành phố của râu ria - và tấm áo choàng được may rất khéo, bó sát eo lưng cùng những nếp gấp tỉ mỉ của chiếc khăn tay lụa màu xanh nhạt nằm hững hờ trên túi áo ngực. Có điều gì đó kĩ tính và thận trọng trong cách ăn mặc - có thể thấy anh khá đẹp trai nên cũng có vẻ là một kẻ biết ăn diện. Bạn quyết định đi theo anh vài phút, vì vô tình bị hấp dẫn và cũng vì chẳng có việc gì hay hơn để làm. Trên đường vào quảng trường Michaeler Platz, người thanh niên ấy đột ngột dừng bước, nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên tấm biển quảng cáo rồi lại đi, gấp gáp, như thể không muốn trễ một cuộc hẹn. Bạn theo anh đi quanh khu phố và rẽ vào đường Herrengasse - vài tia nắng chiếu xiên rọi sáng những chi tiết trên các tòa nhà khổng lồ, vững chắc, phủ bóng đen sắc lạnh, tối om lên các cột tượng đàn bà và các trụ ngạch, trán tường và mái gờ, lan can và dầm đầu cột. Anh dừng chân tại một ki ốt bán báo và tạp chí nước ngoài, chọn mua tờ The Graphic, mở ra đọc các đề mục. À, anh là người Anh - thế mới chán - hết cả hứng tò mò. Bạn quay về chỗ có ánh mặt trời nắm góc lúc nãy, hi vọng sẽ bắt gặp được vài thứ hấp dẫn hơn, bỏ mặc chàng người Anh sải bước đến bất kỳ đâu và gặp bất kì ai anh ta muốn… Tay lơ đãng vuốt nhẹ mái tóc thẳng đẹp, Lysander Rief trả tiền mua tờ Graphic số ra ba ngày trước (bản nước ngoài), liếc nhìn vào một đề mục - “Hiệp định đình chiến được ký kết tại Bucharest - Kết thúc Chiến tranh Balkan lần Thứ hai”. Cái mũ! Chết tiệt. Anh quên đâu nhỉ? Trên ghế đá ở Hofgarten - dĩ nhiên rồi - nơi anh đã ngồi mất mười phút nhìn chằm chằm một luống hoa trong thế tiến thoái lưỡng nan đầy sợ hãi, bối rối tự hỏi có phải mình đang làm đúng, bất ngờ cảm thấy không tin tưởng vào bản thân với chuyến đi đến Vienna lần này và tất cả những gì được cảnh báo trước đó. Nếu tất cả là một sai lầm, vô vọng và về cơ bản là vô nghĩa thì sao? Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Mẹ kiếp, lại thế rồi. Anh sẽ trễ hẹn nếu quay lại. Anh thích cái mũ rơm vành hẹp với dải lụa màu nâu sẫm, mua ở hiệu Lockett trên phố Jermyn. Người ta sẽ lấy nó ngay thôi, anh chắc chắn - một lý do khác để không cần quay lại thêm lần nữa tự nguyền rủa sự sao nhãng của mình và tiếp tục sải bước lên đường Herrengasse. Qua chuyện này bạn có thể thấy anh căng thẳng, bối rối như thế nào. Rời khỏi chiếc ghế đá và quên biến cái mũ. Rõ ràng sự căng thẳng hoàn toàn dễ hiểu và rõ nét kia vẫn chưa nói hết được sự khiếp đảm, hốt hoảng của anh trước buổi gặp này. Bình tĩnh, anh tự nhủ, lắng nghe tiếng lộp cộp đều đặn của những miếng kim loại hình trăng lưỡi liềm dưới gót giày da khua trên mặt đường lát đá - bình tĩnh, Chỉ là một cuộc hẹn đầu tiên thôi - ta có thể bỏ đi, quay về London - chẳng ai ép ta phải đến đó. Anh thở mạnh. “Đó là một ngày đẹp trời tháng Tám năm 1913”, anh tự nói thành tiếng nhưng bằng giọng thấp để thay đổi chủ đề và điều chỉnh lại tâm trạng mình. “Es war ein schöner Augusttag des Jahres.. à năm 1913”, anh lặp lại bằng tiếng Đức, thêm phần ngày tháng bằng tiếng Anh. Lysander gặp rắc rối với những con số - những số dài và ngày tháng. Dù vốn tiếng Đức đang tiến bộ nhanh nhưng anh vẫn phải hỏi ông Barth, giáo viên tiếng Đức trong khoảng một tiếng về những con số, để cố gắng ghim chúng vào đầu. “Ein schone Augusttag”. Anh thấy một tấm áp phích khác bị xé trên tường, giống tấm áp phích anh đã để ý khi vào Michaeler Platz - đây là lần thứ ba anh thấy nó kể từ khi rời khỏi phòng trọ sáng nay. Tấm áp phích bị xé nham nhở trên pa nô. Tấm đầu tiên - ngay cạnh trạm chờ tàu điện ngầm gần căn phòng anh đang thuê - anh tập trung nhìn phần cơ thể còn lại (cái đầu đã mất) của một cô gái ăn mặc hở hang. Cô ta gần như khỏa thân, nằm co rúm, hai tay khum lại như muốn che giấu bộ ngực ngoại cỡ, đường cong mờ ảo nửa kín nửa hở của tấm mạng che tự tạo này chẳng thể che được đường nối đầy đặn ở hai hông cô ta. Sự lõa thể của bức họa này có điều gì đó hấp dẫn một cách đặc biệt, song lại cách điệu hóa bối cảnh xung quanh cô ta (cái tấm mạng bằng tay, nửa kín nửa hở ấy khiến anh phải dừng lại, nhìn gần hơn. Anh không hiểu nội dung bức ảnh này là gì vì mọi thứ khác đều đã bị xé hết. Tuy nhiên, trên tấm áp phích bị xé thứ hai, phần cuối còn thấy một cái đuôi thằn lằn có hình như vảy cá, có răng cưa. Điều này đã giải thích tại sao bức họa nữ thần, nữ chúa kia hay là gì đi nữa lại có vẻ đáng sợ như vậy. Và giờ đây trên tấm áp phích thứ ba chỉ còn một chữ “PERS…”, bên dưới là chữ “und” và dưới nữa là “Eine Oper von Gottlie Toll…”. Anh suy nghĩ “Pers… Persephone* à? Một vở nhạc kịch về Persephone? Chẳng phải cô ta đã bị lội xuống âm phủ và Narcissus* - đúng không nhỉ? - phải xuống theo để đưa cô ta lên mà không được phép nhìn xung quanh sao? Hay đó là Euridice*? Hay là cái gì đó… Orpheus à? Đây không phải lần đầu tiên anh bực tức trước trình độ kiến thức chắp vá và lập dị của mình. Anh chỉ biết rất rõ một vài thứ và hiếm khi hiểu biết được toàn bộ mọi chuyện. Anh đang từng bước cải thiện tình hình - đọc càng nhiều càng tốt, sáng tác thơ - nhưng cứ thỉnh thoảng sự ngu dốt lại nhìn thẳng vào mặt anh. Một trong những hạn chế đối với nghề nghiệp, anh thừa nhận là vốn kiến thức nhất định về thần thoại cổ đại và những gì liên quan đến nó là một đống hơi lộn xộn trong đầu, nếu không muốn nói là một cái lỗ hổng kiến thức to đùng. Anh quay lại nhìn tấm áp phích. Toàn bộ bức tranh bị xé gần hết chỉ còn lại nửa trên. Những nét lượn của mái tóc bay phần phật theo gió và đôi mắt mở to nhìn thẳng ra bờ mép tơi tả của vết rách nằm ngang, như thể cô ta đang nhìn chằm chằm lên phía trên tấm ga giường một cách khiếp đảm, Lysander nghĩ vậy. Ráp các mảnh còn lại của ba tấm áp phích với nhau, trong đầu anh bắt đầu tưởng tượng ra một cơ thể nữ thần. Lysander thấy mình bị kích động một chút, hơi cương cứng. Một cô nàng khỏa thân, trẻ trung, xinh đẹp, dễ bị tổn thương trước sự đe dọa của một con quỷ có vảy nào đó, không nghi ngờ gì nữa, nó có hình thù của dương vật, chuẩn bị hãm hiếp cô nàng… Và chắc chắn đây là nội dung của các tấm áp phích, hơn nữa, chính nó đã thổi bùng lên cơn phẫn nộ của giới tư sản kiểu cách khiến vài công dân ngoan đạo quyết định phá hủy nó. Tất cả đều rất hiện đại - đều rất Vienna - anh cho là vậy. Lysander tiếp tục sải bước, thận trọng phân tích tâm trạng của mình. Tại sao khi tự suy đoán khả năng người phụ nữ thần thoại bị hãm hiếp trên tấm áp phích kia lại làm anh hưng phấn nhỉ? Có tự nhiên không? Chính xác hơn, anh có liên quan gì đến hình ảnh ấy - đôi tay như che lấy, như ôm lấy bộ ngực mềm mại, nửa gọi mời nửa e ấp? Anh thở dài: ai có thể trả lời được những câu hỏi này cơ chứ? Trí tuệ con người luôn hỗn độn không ngừng nghỉ, phức tạp và bướng bỉnh. Anh tự ngừng lại - phải, phải, phải rồi. Đó chính xác là lí do tại sao anh phải đến Vienna. Anh băng qua đường Schottenring và khoảng không rộng rãi của quảng trường trước mặt một trường đại học rộng lớn mang màu xám đậm. Đó là nơi anh phải đến để tìm hiểu về Persephone - hỏi một vài sinh viên học chuyên ngành tiếng La tinh và Hy Lạp - nhưng có điều gì đó ngăn cản anh. Tuy nhiên, anh không thể nhớ ra tên con quỷ tham gia vào câu chuyện về Persephone… Kiểm tra những con phố mình đang đi qua - gần đến rồi - anh dừng lại chờ tàu điện đi qua, rẽ phải xuống đường Berggasse, rồi rẽ trái trên đường Wasgasse. Nhà số 42. Anh nuốt khan, miệng tự nhiên khô khốc, suy nghĩ: có lẽ mình nên quay đi, gói ghém đồ đạc, trở về London và tiếp tục cuộc sống bình yên, phẳng lặng. Nhưng anh tự nhủ rằng vẫn còn đó vấn đề đặc biệt của riêng mình, chưa được giải quyết… Anh bước qua những cánh cửa chính to, rộng trông ra phố của ngôi nhà số 42, đi thẳng vào sảnh lớn. Không thấy lễ tân hay bảo vệ. Một chiếc thang máy bằng thép sẵn sàng đưa anh lên tầng hai nhưng anh chọn đi cầu thang bộ. Một tầng. Hai tầng. Những ban công bằng sắt rèn, lan can bằng gỗ đánh véc ni, một loại đá granite lốm đốm tạo thành các bậc thang một tay vịn ốp tường, dưới chân là lớp gạch lát hoa văn cỏ xanh, trên đầu là lớp sơn trắng. Anh tập trung vào những chi tiết này, Cố gắng không nghĩ đến hàng tá - có lẽ là hàng trăm người đã từng bước lên những bậc cầu thang này trước cả anh. Anh lên đến chiếu nghỉ. Hai cánh cửa lắp vững chắc bên những ô cửa sổ hình bán nguyệt đứng cạnh nhau. Trên một ô đề “Phòng riêng”; ô kia có một tấm biển bằng đồng nhỏ phía trên chuông cửa riêng đã bị mờ, cần được đánh bóng. “Tiến sĩ J. Bensimon”. Anh đếm đến ba và rung chuông tự nhiên thấy vững tin vào điều đúng đắn đang làm, tự tin vào một tương lai mới mẻ, tốt đẹp hơn mà anh đang hoạch định để bảo đảm cho chính mình. 2 Quý cô Bull NHÂN VIÊN LỄ TÂN CỦA BÁC SĨ BENSIMON (một phụ nữ mảnh dẻ, đeo kính và trông nghiêm nghị) dẫn anh vào một phòng chờ nhỏ. Cô lịch sự nói rằng anh đã đến trước giờ hẹn bốn mươi phút, nên nếu không phiền anh có thể ngồi đợi đến lúc đó? Lỗi của tôi - thật ngu ngốc làm sao. Anh dùng cà phê chứ? Không, cảm ơn cô. Lysander ngồi xuống chiếc ghế da thấp, màu đen, không có tay dựa, là một trong số bốn chiếc ghế trong phòng xếp theo hình bán nguyệt hướng về phía lò sưởi trống rỗng dưới một bệ trát thạch cao. Một lần nữa anh phải nhắc mình bình tĩnh để chế ngự tâm trạng đang kích động. Làm sao anh có thể nhầm lẫn đến thế về thời gian? Anh tưởng đã nhớ như in giờ giấc cuộc phỏng vấn này. Anh nhìn quanh và thấy một chiếc mũ quả dưa màu đen trên mắc quần áo trong góc. Của người hẹn trước - anh nghĩ vậy rồi nhìn cái mũ, lẽ ra anh đã kịp quay lại công viên lấy cái mũ rơm rồi. Chết tiệt, anh tự rủa mình. Tiếp theo - mẹ kiếp - anh bắt đầu thấy thích thú với ngôn từ tục tĩu. Cái mũ ấy đã ngốn của mình những một đồng ghinê* cơ đấy. Anh đứng dậy nhìn các bức tranh trên tường. Đó là các bản khắc bằng axit* vẽ những tòa nhà bị phá hủy nặng nề - phủ kín rêu, cỏ dại và cây non - tất cả những viên đá phủ mặt nằm lăn lóc, những trán tường nát vụn, và các cột trụ ngã đổ mơ hồ như quen thuộc. Anh không nhớ nổi tên nghệ sĩ sáng tác - một lỗ hổng khác trong mớ kiến thức bị mối gặm. Anh đến chỗ cửa sổ trông ra cái sân giữa nhỏ của tòa nhà chung cư. Một cái cây mọc ở đó - một cây sung dâu, ít nhất anh có thể nhận dạng mấy cái cây - trong một bãi cỏ nhuộm nâu bị giẫm nát, bao quanh là các nhà để xe không được sử dụng và chuồng thả ngựa riêng. Anh thấy một bà lão đeo tạp dề xuất hiện từ phía đó, đang ì ạch kéo lê một cái thùng đầy than đá. Anh quay đi và bước quanh phòng, cẩn thận dùng mũi giày lật lại mép bị gấp của tấm thảm Ba Tư đã mòn trên sàn lát gỗ. Anh nghe thấy những tiếng nói - gấp gáp, cao giọng khác thường - từ phía sảnh tiếp tân, rồi cửa bật mở và một phụ nữ trẻ bước vào, đóng sầm cửa lại, “Xin lỗi“, cô ta thô lỗ nói, liếc nhìn anh, ngồi xuống một trong những chiếc ghế lục bới trong túi xách trước khi lôi ra một chiếc khăn tay nhỏ và hỉ mũi. Lysander nhẹ bước lại phía cửa sổ. Anh có thể cảm thấy sự khó chịu, căng thẳng ở cô gái này bung ra thành những đợt sóng. Như thể một cái máy phát điện nào đó bên trong cô ta đang phát ra cơn sốt - một từ tiếng Đức diễn tả điều này chợt đến với anh, khiến anh thấy dễ chịu - Angst. Anh quay lại và mắt họ gặp nhau, Anh thấy cô ta có đôi mắt lạ lùng nhất, có màu nâu lục nhạt nhất. Đôi mắt mở to - lóng lánh - như thể cô ta đang nhìn chằm chằm rất tập trung hoặc đang bị sốc theo cách nào đó. Khuôn mặt xinh đẹp - anh nghĩ - mũi gọn, cằm nhọn, khỏe khoắn. Làn da màu ô liu thực sự. Người nước ngoài à? Mái tóc cặp dưới chiếc mũ nồi to màu đỏ tươi, cô mặc một chiếc áo vest nhung màu xám, dưới là váy đen. Trên ve áo có chiếc ghim hoa bằng nhựa cánh kiến màu đỏ và vàng hình con vẹt còn thô. Có thẩm mĩ đấy, anh nghĩ. Đôi bốt thấp cổ có dây buộc, bao quanh đôi chân nhỏ. Thực tế cô là một phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh dẻ, trẻ trung. Bị bỏ rơi, Anh mỉm cười, quay đi và nhìn xuống sân. Bà quản gia già, to khỏe vẫn đang bền bỉ tiến về phía những chuồng ngựa với cái thùng không. Bà ta muốn làm gì với cả đống than ấy vào giữa mùa hè này thế nhỉ? Chắc là… “Anh nói được tiếng Anh không?”* Lysander nhìn quanh. “Thật ra tôi là người Anh”, anh nói, thận trọng. “Sao cô biết ?” Anh thấy giận dữ khi quốc tịch của mình trở thành một đặc điểm dễ nhận biết đến thế. “Anh có một tờ Graphic trong túi”, cô nói, chỉ vào tờ báo được gấp lại. “Nó tố cáo anh đấy. Mà dù sao thì hầu hết các bệnh nhân của bác sĩ Bensimon đều là người Anh nên cũng dễ đoán thôi”. Âm sắc cho thấy cô ta là người có giáo dục. Rõ ràng bản thân cô ta cũng là người Anh, bất chấp màu da đẹp đến kỳ lạ kia. “Chắc anh không vô tình mang thuốc lá theo, đúng không?”. Cô hỏi. “Một dịp tình cờ nào đó”. “Có, tình cờ thôi, nhưng.” Lysander chỉ vào một tấm biển đóng trên bệ lò sưởi. “Vui lòng không hút thuốc”. “À, dĩ nhiên rồi. Anh không phiền nếu tôi trộm một điếu lát nữa hút chứ?” Lysander mở hộp thuốc lá lấy từ túi áo vest và đưa mời cô. “Cho phép tôi chứ?”. Cô chọn một điếu và lấy thêm điều nữa trước khi anh kịp trả lời, rồi bỏ tọt vào túi. “Tôi phải gặp bác sĩ Bensimon gấp lắm, anh thấy đấy”, cô nói mạnh mẽ, một cách dứt khoát, “Thế nên tôi hi vọng anh không phiền nếu tôi chen ngang”. Khi nói câu này, cô mỉm cười với anh. Một nụ cười rạng rỡ, thơ ngây khiến Lysander gần như phải lảng tránh. Lysander cân nhắc thật nhanh, đúng là có phiền nhưng anh lại nói: “Dĩ nhiên là không”, và mỉm cười đáp lại, ngập ngừng. Anh quay về phía cửa sổ kính, chạm tay vào nút cà vạt và hắng giọng. “Anh cứ ngồi nếu muốn”, cô gái trẻ nói. “Tôi rất thích đứng. Tôi thấy những cái ghế thấp không có tay dựa này còn khó chịu hơn ấy”. “Cũng khó chịu nhỉ, đúng không?” Lysander tự hỏi có cần phải tự giới thiệu không, nhưng anh nghĩ có lẽ phòng chờ của bác sĩ là nơi mọi người - những kẻ xa lạ - thích giấu kín thân phận của họ hơn. Rốt cuộc đây cũng đâu phải là một cuộc gặp ở gallery nghệ thuật hay tại phòng giải lao trong rạp hát. Anh nghe thấy một tiếng động nhẹ và nhìn qua vai mình. Cô ta đứng dậy bước đến một trong những bức tranh khắc axit vẽ các đống đổ nát (tên nghệ sĩ là gì nhỉ?), soi gương trên lớp kính, nhét những sợi tóc rủ xuống vào trong chiếc mũ nồi, kéo những lọn tóc nhỏ, lưa thưa ra trước hai tai. Lysander để ý tấm áo vest nhung ngắn làm tôn lên hông và cặp mông dưới chiếc váy đen. Đôi bốt thấp cổ có gót cao bảy phân nhưng vóc người cô trông vẫn rất nhỏ nhắn… “Anh đang nhìn gì đấy?” Cô đột ngột hỏi, bắt gặp cái nhìn chòng chọc của anh lên hình ảnh phản chiếu trên tấm kính. “Tôi đang ngưỡng mộ đôi bốt của cô”, Lysander ứng biến nhanh nhẹn và uyển chuyển, “Có phải cô mua chúng tại Vienna này không…”. Cô không trả lời câu hỏi này vì cửa phòng tư vấn của bác sĩ Bensimon bật mở đúng lúc đó. Hai người đàn ông bước ra, nói chuyện và khẽ cười với nhau. Lysander biết ngay ai là bác sĩ Bensimon, người già hơn, khoảng bốn mươi tuổi, gần như hói với cái cằm đã cạo râu nhưng vẫn còn dải màu nâu lốm đốm sắc xám. Mọi thứ ở người đàn ông còn lại - trong mắt Lysander - cho thấy ngay ông ta là một quân nhân, Một bộ vest hải quân cài chéo, một chiếc nơ thắt dải buộc dưới cổ cồn cứng, quần dài gấu hẹp gấp lên phía trên đôi giày bóng đến mức có thể được cấp bằng sáng chế. Cao, gầy còm như người khổ hạnh với hàng ria mép đen, nhỏ và gọn gàng. Ngay lập tức, cô gái trẻ hồ như phát điên, ngắt lời họ, gọi tên bác sĩ Bensimon, xin lỗi và đồng thời khăng khăng đòi gặp ông vì chuyện cực kì khẩn cấp. Người quân nhân lùi lại, ngả người ra phía sau khi bác sĩ Bensimon - mắt liếc nhìn Lysander – đẩy vội người phụ nữ đang kêu ca vào phòng ông. Lysander nghe ông nói bằng một giọng thấp, nghiêm khắc khi đi vào: “Chuyện này không được phép xảy ra lần nữa, cô Bull”, trước khi đóng sầm cửa lại. “Chúa lòng lành”, tay quân nhân nói, giọng lạnh lùng. Ông ta cũng là người Anh. “Chuyện gì đang diễn ra ở đó thế?” “Dường như cô ấy rất kích động, tôi phải nói vậy”.Lysander đáp. “Cô ta còn xin những hai điếu thuốc của tôi nữa”. “Thế giới này đang đi về đâu nhỉ?” ông ta tiếp lời, nhấc cái mũ ra khỏi móc treo. Ông cầm mũ trong tay và nhìn thẳng về phía Lysander. “Chúng ta đã gặp nhau chưa nhỉ?”, ông hỏi. “Chưa. Tôi nghĩ là chưa”. “Thế mà tôi trông anh quen đến lạ lùng”. “Chắc trong tôi giống một người quen của ông”. “Chắc vậy”. Ông chìa tay ra. “Tôi là Alwyn Munro”. “Lysander Rief”. “Giờ thì có kết quả tốt rồi đấy”. Ông nhún vai, ngẩng cao đầu, nhíu mày như thể đang lục trong trí nhớ, rồi lại mỉm cười lắc đầu và đi ra cửa. “Nếu là anh, tôi sẽ không cho cô ta thêm thuốc nữa đâu. Với tôi cô ta trông khá là nguy hiểm”. Ông ta bỏ đi và Lysander tiếp tục theo dõi cái sân tẻ ngắt phía dưới. Anh tách từng chi tiết có thể ra khỏi quang cảnh - hoa văn đan lưới của những viên đá lát, đường gờ răng chó trên khung tò vò phía trên cánh cửa chuồng ngựa, một vệt nước trên công trình gạch ngay bên dưới một cái vòi đang chảy. Anh khiến tâm trí mình bận rộn. Vài phút sau Cô gái trẻ bước ra, rõ ràng đã điềm tĩnh hơn nhiều. Cô nhặt túi xách lên. “Cảm ơn anh đã nhường lượt cho tôi”, cô phấn khởi nói. “Và mấy điếu thuốc nữa. Anh thật tốt bụng”. “Không có gì”. Cô chào tạm biệt và bước ra ngoài, chiếc váy dài bay theo bước chân. Cô nhìn anh lần nữa khi đóng cửa lại. Lysander bắt gặp một cái nhìn thoáng qua cuối cùng của đôi mắt màu quả phỉ, nâu nhạt ấy. Như mắt sư tử, anh nghĩ. Nhưng tên cô ấy lại là Quý cô Bò đực*. 3 Bức Phù điêu châu Phi LYSANDER NGỒI TRONG phòng khám của bác sĩ Bensimon, nhìn xung quanh khi ông ta ghi các thông tin cá nhân của anh vào Sổ cái. Căn phòng rộng rãi, có ba cửa sổ trên một bức tường thiết kế nội thất đơn giản và hầu hết đều mang tông màu trắng. Những bức tường sơn trắng, rèm bằng len trắng, thảm trải màu trắng trên sàn gỗ vàng hoe và một bức phù điêu trong cổ xưa phủ bạc tạo hình treo phía trên lò sưởi. Trong một góc nhà là chiếc bàn bằng gụ của bác sĩ Bensimon, sau lưng là mấy giá sách có cửa kính, cao từ sàn đến trần nhà. Một bên lò sưởi là chiếc ghế bành lưng cao mềm mại, phủ hờ một tấm vải lanh màu kem thô. Và bên kia là chiếc đi-văng phủ một tấm chăn dày, diềm quanh bằng len với hai chiếc gối thêu. Cả hai đều quay lưng lại chiếc bàn và khi chọn ngồi xuống chiếc ghế bành, anh phải ngoái cổ rất khó chịu nếu muốn thấy ông bác sĩ. Căn phòng rất yên tĩnh - cửa sổ đôi - Lysander không thể nghe thấy một âm thanh nào vọng lên từ các con phố bên dưới - không có tiếng leng keng của tàu điện, không có xe ngựa hay xe bò nào lọc cọc đi qua, không cả tiếng xe ô tô - một sự tĩnh lặng lí tưởng. Lysander nhìn lên bức phù điêu bạc. Những nhân vật huyền ảo, nửa người nửa thú, những chiếc khăn trùm đầu lòe loẹt ở châu Phi. Người ta dùng kim đục các lỗ nhỏ xuyên qua lớp kim loại mềm tạo thành những họa tiết hình mảng. Rất lạ lùng, rất đẹp - đúng là nó truyền tải chính xác toàn bộ phong cách của chủ nghĩa trừu tượng, Lysander nghĩ. “Anh L - U - Rief”, Bensimon nói. Trong căn phòng yên tĩnh, Lysander Có thể nghe thấy tiếng sột soạt từ ngòi bút máy của ông. Giọng ông hơi nhấn mạnh trọng âm, nghe như ở nơi nào đó miền bắc nước Anh. Lysander đoán là Yorkshire hay vùng Lancashire. Nhưng giọng này đã được mài giũa nên không dễ lần ra địa chỉ chính xác. Ông ta rất giỏi chuyển đổi trọng âm, Lysander tự huyễn hoặc mình - anh sẽ giải mã được điều này trong vòng vài phút. “Mấy chữ cái này có nghĩa gì thế?”. “Lysander Ulrich Rief”. “Một cái tên tuyệt đẹp”. Manchester, Lysander nghĩ - cái âm “A” dứt khoát ấy. “Rief - có phải là ở Scotland không?”. “Tiếng Anh cổ. Nghĩa là “chu đáo”, người ta bảo vậy. Và tôi còn được bảo rằng nó là phương ngữ Anglo Saxon của từ”sói”. Cứ loạn cả lên”. “Một Con sói chu đáo. Chu đáo kiểu sói. Thế còn chữ “Ulrich”? Một phần trong anh là người Đức à?”. “Mẹ tôi là người Áo”. “Ở Vienna à?”. “Thực ra là Linz. Quê gốc đấy”. “Ngày tháng năm sinh?” “Của tôi à?” “Của mẹ anh chẳng có liên quan gì đâu. Tôi chắc thế”. “Xin lỗi, Ngày Bảy tháng Ba năm 1886”. Lysander lại xoay người trên ghế. Bensimon đang ngả lưng vào ghế, thoải mái, mỉm cười với những ngón tay gõ gõ lên cái đầu nhẵn thín. “Tốt nhất là anh không cần lúc nào cũng phải quay đầu lại. Chỉ việc nghĩ đến tôi với cái giọng nói quái gở này thôi”. 4 Wiener Kunstmaterialien (WKM) LYSANDER BƯỚC XUỐNG CẦU THANG căn hộ của Bensimon, chậm rãi, tâm trí chất chứa những ý nghĩ cả vui vẻ, u buồn và lo lắng nữa. Cuộc gặp diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ trong vòng mười lăm phút, Bensimon đã ghi lại các thông tin cá nhân của anh, thảo luận về các phương thức thanh toán (gửi hóa đơn mỗi tháng hai lần, thanh toán bằng tiền mặt) và cuối cùng là hỏi xem anh có muốn trao đổi về bản chất “vấn đề” của mình không Lysander tạm dừng giữa phố và hút thuốc, tự hỏi việc anh dấn thân vào quá trình này có thực sự hữu ích không hay tốt hơn hết anh nên quay về London? Hay là áp dụng giải pháp của mấy tên lang băm? Hay trở thành một người ăn chay và mặc đồ lót hiệu Jeager giống George Bernard Shaw*. Anh cau mày, tự nhiên thấy bất định - tâm trạng anh không tốt, cảm thấy chán nản. Chính người bạn thân nhất, Greville Warley, đã giới thiệu vị bác sĩ phân tâm học này cho anh - Greville là người bạn duy nhất nhận thức được vấn đề của anh (nhưng cũng chỉ lờ mờ thôi) - và bây giờ Lysander nhận ra anh đã lao theo ý tưởng này như một kẻ cuồng tín, hủy bỏ hết tất cả những dự định tương lai, rút hết tiền tiết kiệm để đến Vienna, tìm một bác sĩ đích thực. Có phải anh đang quyết tâm một cách ngu ngốc hay đó chỉ là dấu hiệu của sự tuyệt vọng?… Rẽ trái ở đường Berggasse, Bensimon đã nói vậy, sau đó đi bộ kịch đường, đến một quảng trường nhỏ. Cửa hàng phía bên phải ngay trước mặt - WKM - anh không thể không thấy nó. Lysander lên đường tâm trí anh vẫn không ngừng nghĩ về khoảnh khắc quyết định ấy. BENSIMON: Vậy bản chất vấn đề của anh có thể là gì? LYSANDER: Đó là… là một vấn đề về tình dục. BENSIMON: Phải, thường là thế. Vấn đề cốt lõi mà. LYSANDER: Khi tôi vào khúc dạo đầu… Phải nói là, trong suốt thời gian diễn ra đại hội ái tình… BENSIMON: Xin đừng dùng uyển ngữ, anh Rief. Nói thẳng ra đi - đó là cách duy nhất. Cứ việc nói toạc móng heo một cách thô lỗ nếu anh muốn. Dùng ngôn ngữ đường phố cũng được không xúc phạm tôi đâu. LYSANDER: Vâng. Khi đang làm tình, tôi không thể làm chuyện đó được. BENSIMON: Anh gặp vấn đề với sự cương cứng à? LYSANDER: Tôi không có vấn đề với chuyện cương cứng. Mà ngược lại chuyện ấy rất suôn sẻ. Vấn đề của tôi đó là… sự phóng tinh. BENSIMON: À. Vấn đề phổ biến đến không thể tin nổi. Anh phóng tinh quá sớm. Hội chứng Ejaculatio praecox. LYSANDER: Không mà là tôi không hề phóng tinh được. Lysander thả bộ xuống con dốc thoải trên đường Berggasse. Căn phòng của Tiến sĩ Freud ở đâu đây thôi - có lẽ anh nên thử gặp ông ta? Câu này nói tiếng Pháp như thế nào nhỉ? “Tại sao lại mất thời gian nói chuyện với những tông đồ trong khi bạn có thể đi gặp Chúa?”. Nhưng đây là vấn đề về ngôn ngữ: Bensimon là người Anh, cả một lợi thế khổng lồ - thậm chí là một lợi ích - không chối cãi được. Lysander nhớ lại quãng im lặng thật dài sau khi anh nói với Bensimon bản chất vấn đề rối loạn tình dục lạ lùng của mình. BENSIMON: Vậy là… anh có quan hệ tình dục nhưng không có cực khoái, LYSANDER: Chính xác đấy. BENSIMON: Xảy ra chuyện gì? LYSANDER: Tôi có thể tiếp tục hưởng thụ sự vui vẻ nhưng chẳng có gì xảy ra khiến tôi dần dần thấy chùng xuống, là thế đấy. BENSIMON: Chứng xìu dương vật. LYSANDER: Cuối cùng là thế. BENSIMON: Tôi sẽ phải suy nghĩ về chuyện này. Vấn đề khác thường nhất. Rối loạn cực khoái cảm - anh là người đầu tiên tôi gặp. Rất hấp dẫn. LYSANDER: Rối loạn cực khoái cảm à? BENSIMON: Đó là chuyện không ổn ở anh. Đó là tên gọi cho vấn đề của anh đấy. Và chỉ có thế, ngoại trừ thêm một lời khuyên nữa. Bensimon hỏi anh có giữ một cuốn sổ ghi chép, nhật kí hay một cuốn sổ tay nào không. Lysander trả lời là không. Anh nói mình sáng tác thơ khá đều đặn, một số đã được đăng trên báo và tạp chí. Nhưng - anh khiêm tốn nhún vai - anh chỉ là một nhà thơ tay mơ, yêu thích thử sức mình với thơ ca và sáng tác một cách vô tư nhất - thêm nữa anh không có một cuốn nhật kí hay sổ tay nào hết. “Tôi muốn anh về nhà viết ra mọi thứ”, Bensimon nói. “Những giấc mơ, những suy nghĩ thoáng qua, những gì nhìn thấy, nghe thấy khiến anh tò mò. Bất kì cái gì và tất cả mọi thứ. Những kích thích đủ kiểu - về tình dục hay mùi vị, âm thanh, nhục cảm - bất cứ thứ gì. Mang những ghi chép ấy đến các buổi tư vấn này và đọc cho tôi nghe. Đừng giữ lại bất kì cái gì, kể cả những thứ gây sốc hay vô vị. Như thế tôi sẽ có được cái nhìn sâu trực tiếp vào tính cách và bản chất của anh - vào tâm trí vô thức của anh”. “Ý ông là “thẻ căn cước” của tôi”. “Tôi thấy anh đã làm xong bài tập về nhà rồi, anh Rief. Tôi ấn tượng đấy”. Bensimon bảo anh ghi chép thật nhanh những cảm nhận và quan sát vào đúng thời điểm chúng xuất hiện, không được gạch xóa hay sửa đổi. Ngoài ra anh không được dùng giấy nháp hay giấy vụn để viết. Lysander nên mua một cuốn sổ tay tử tế - bìa bọc da, giấy tốt - và biến nó thành một hồ sơ cá nhân đích thực, bao gồm đầy đủ thông tin và dùng được lâu dài, chứ không phải một bộ sưu tập mấy dòng viết vội. “Và đặt cho nó một cái tên”, Bensimon gợi ý. “Chẳng hạn như - “Cuộc sống nội tâm của tôi” hay “Những phản ánh riêng tư”. Nói cách khác là hình thức hóa. Nhật kí giấc mơ của anh, bản ghi chép về bản thân anh - hồ sơ của anh - một thứ anh nâng niu, quý trọng trong suốt cuộc đời mình. Một bản ghi chép của tâm trí trong suốt những tuần tới đây, khi tỉnh táo và cả khi không tỉnh táo”. Lysander nghĩ ít nhất việc băng qua con phố đến cửa hàng tạp hóa của các nghệ sĩ mà Bensimon giới thiệu - sẽ mang đến một điều cụ thể, một dạng ghi chép lâu dài về quãng thời gian anh ở đây. Toàn bộ cuộc nói chuyện này - cũng như tất cả các cuộc chuyện trò khác anh buộc phải tham gia - đơn giản chỉ là lời nói gió bay. Anh thấy yên lòng với ý kiến này khi đi qua những cánh cửa xoay để vào cửa hàng: Bensimon đã đúng, có lẽ điều này sẽ giúp được anh. Cửa hàng WKM rộng rãi, ánh sáng chan hòa - các cụm bóng đèn điện trong những chiếc đèn chùm bằng nhôm hiện đại treo trên trần nhà, vầng hào quang rực rỡ phản chiếu xuống lớp sàn bằng vải sơn lót sáng bóng bên dưới. Mùi nhựa thông, sơn dầu, gỗ thô và vải bạt khiến Lysander cảm thấy như được chào đón. Anh yêu những cửa hàng lớn kiểu này - các lối đi ngập đầy chất liệu nghệ thuật, chất đống như một nhà kho văn hóa, chạy hết chỗ nọ chỗ kia; các ngăn giấy đủ loại xếp thành tầng, các lọ đựng đầy bút chì nhọn, một đống các khung tranh lớn nhỏ, mấy dãy Ống sơn dầu nghiêng sắp xếp theo thứ tự chuỗi màu, các chai to lấp lánh dầu lanh và chất pha loãng sơn, các tấm ngăn bằng vải bạt, mấy cái ghế đẩu gấp, các bảng màu chất đống các hộp thiếc thô ráp đựng màu nước, các hộp phẳng đựng phấn màu đang mở nắp lộ ra những thứ sáng rực rỡ bên trong như những điếu xì gà con nhiều màu. Cứ hễ vào những cửa hàng thế này để có thể mua được một số dụng cụ ngon lành, anh luôn sẵn sàng trổ tài phác thảo, vẽ tranh màu nước hay tạo hoa văn trên lớp vải sơn lót sàn nhà, như một sở thích nghiêm túc. Anh rẽ vào góc gian bên tìm kiếm giữa một thư viện nhỏ các cuốn sổ tay và tập bìa cứng. Sau một lúc, anh chọn một quyển sổ dày hàng trăm trang như một quyển từ điển. Không không - dày quá, anh cần một thứ khiêm tốn hơn để có thể thực sự dùng hết. Anh chọn một quyển bìa bọc da mềm, giấy tốt, không có dòng kẻ, một trăm năm mươi trang. Anh thích trọng lượng cuốn sổ khi cầm trong tay, vừa vặn bỏ vào túi áo, như một cuốn cẩm nang - cẩm nang cho tinh thần của anh. Hoàn hảo. Một cái tựa xuất hiện trong đầu anh: “Những cuộc Điều tra Tự thuật của Lysander Rief”… Bây giờ đây chính xác là điều Bensimon đã… “Chúng ta lại gặp nhau”. Lysander quay lại thấy cô Bull đang đứng đó, Một cô Bull thân thiện, hay cười. “Anh đang mua sổ tay đúng không?” cô nói vẻ hiểu biết. “Bensimon chắc phải có một khoản hoa hồng ở đây”. “Cô cũng thế à?” “Không. Tôi đã bỏ cuộc sau hai tuần. Vấn đề là tôi thật sự ăn nói không tốt, anh thấy đấy. Tôi ưa hình dung - nhìn mọi thứ bằng hình ảnh, chứ không phải bằng ngôn từ. Tôi thích vẽ hơn là viết”. Cô giơ lên những gì đã mua - - một bộ dao có hình dáng kỳ cục tối màu, một số con có đầu lưỡi sắc nhọn, một số có hình tam giác như mấy cái bay mi ni. “Cô không thể vẽ bằng mấy cái thứ này”, Lysander nói. “Tôi khắc mà”, cô giải thích. “Tôi chỉ đang cần thêm ít đất sét và thạch cao nữa. Cửa hàng WKM này là nơi tốt nhất trong thành phố”. “Một nữ điêu khắc gia - thú vị làm sao”. “Không. Là một nhà điêu khắc”. Lysander nghiêng đầu, ngượng nghịu: “Dĩ nhiên”. Cô Bull bước đến gần hơn và hạ thấp giọng. “Tôi thật sự xin lỗi về hành động của mình sáng sớm nay…”. “Không thành vấn đề…”. “Tôi hơi… căng thẳng. Tôi đã dùng hết thuốc rồi, anh thấy đấy. Đó là lí do vì sao tôi phải đến gặp bác sĩ Bensimon - để lấy thêm thuốc”. “Phải. Bác sĩ Bensimon cung cấp cả thuốc nữa à?” “À không. Kiểu kiểu thế. Nhưng ông ấy tiêm cho tôi. Và thêm bao nhiêu thứ nữa”. Cô vỗ vỗ vào túi xách của mình. “Một món đồ kì lạ - anh nên thử đi nếu thấy người hơi yếu”. Lysander nghĩ, nhờ thuốc của bác sĩ Bensimon, trông cô ta đúng là có hơi khác thật, nhìn cô ta anh càng thấy tự tin và an tâm hơn. Bằng cách nào đó có thể chủ động mọi… “Anh có khuôn mặt thú vị nhất mà tôi từng gặp đấy”, cô Bull nói. “Cảm ơn cô”. “Tôi rất thích được chạm khắc khuôn mặt anh” “Ồ, tôi hơi..”. “Không vội đâu”. Cô lục trong túi xách lấy ra một tấm danh thiếp. “Cô Esther Bul, nghệ sĩ và nhà điêu khắc. Cả nhận dạy nghề nữa”. Có một địa chỉ tại Bayswater, London. “Hơi cũ một chút”, cô nói, “Bây giờ tôi đã ở Vienna được hai năm rồi - có số điện thoại của tôi ở mặt sau. Chúng tôi chỉ vừa mới lắp thôi”. Cô nhìn anh khiêu khích. Lysander không để ý đến ngôi thứ nhất số nhiều. “Tôi sống cùng Udo Hoff”. “Udo Hoff?” “Một họa sĩ”. “À, đúng rồi, đúng rồi. Udo Hoff”. “Anh có điện thoại không? Có ở khách sạn không?” “Cả hai đều không. Tôi ở nhà trọ. Chẳng biết tôi sẽ còn ở đấy bao lâu nữa”. “Anh phải đến studio của tôi đi. Viết địa chỉ của anh vào đây. Tôi sẽ gửi anh thư mời đến dự một trong những bữa tiệc của chúng tôi”. Cô đưa cho anh một tờ giấy nháp từ trong túi và Lysander ghi lại địa chỉ. Anh phải thừa nhận với một chút miễn cưỡng rằng anh muốn ở một mình tại Vienna: để giải quyết vấn đề - chứng rối loạn cực khoái cảm của anh, giờ đây nó đã có tên - chỉ một mình thôi, đơn độc. Anh thật sự không cần hay không muốn bất kì quan hệ xã hội nào hết, Anh đưa trả tờ giấy nháp. “Lysander Rief”, cô nói. “Tôi đã nghe nói về anh chưa nhỉ?” “Tôi nghi ngờ điều đó”. “À mà tên tôi là Hettie”, cô đáp, “Hettie Bull”, cô chìa tay ra, bắt tay Lysander rất chặt. 5 Dòng sông Tình dục “TẠI SAO TÔI LẠI GẶP RẮC RỐI khi chạm trán cô nàng HB này nhỉ? Tại sao tôi lại cảm thấy phấn khích một cách mơ hồ từ cuộc gặp này nhỉ? Rốt cuộc cô ta không phải “tuýp người” mà tôi thích. Thế mà chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy bị hút vào cuộc đời cô ta, quỹ đạo của cô ta, dù muốn hay không. Sao thế nhỉ? Thế nếu chúng tôi gặp nhau tại một buổi hòa nhạc hay một bữa tiệc tại gia thì sao? Tôi chắc chắn chúng tôi sẽ không nghĩ bất kì điều gì về nhau. Nhưng vì gặp nhau ở phòng mạch của bác sĩ Bensimon nên chúng tôi đã biết một ít bí mật của nhau. Điều đó giải thích được chuyện này không? Sự tổn thương, sự thiếu hụt, mất cân bằng sự hư hỏng và đau ốm tìm đến với nhau: đồng bệnh tương lân. Cô ta sẽ không để tôi cô đơn, tôi biết. Nhưng tôi không muốn đến studio của Udo Hoff, không cần biết hắn là ai. Tôi đến Vienna để lảng tránh các mối quan hệ xã giao, chẳng nói cho ai biết tôi định đi đâu, chỉ nói là “đi nước ngoài” với những ai muốn biết tường tận. Mẹ tôi biết, Blanche biết, Greville biết, dĩ nhiên, và một số người cần biết khác. Tôi muốn xem Vienna như một nhà an dưỡng tuyệt đẹp đầy những kẻ hoàn toàn xa lạ - như thể tôi bị tiêu hủy và biến mất cho đến khi một phương thuốc phát huy hiệu lực. Tôi không nghĩ Blanche sẽ thích HB. Không đời nào”. Có tiếng gõ cửa phòng, nếu không chú ý sẽ không nghe thấy - một tiếng sột soạt hơn là một tiếng gõ. Lysander bỏ bút xuống và đóng sổ tay lại, nhét cuốn Những cuộc điều tra tự thuật vào ngăn kéo bàn. “Vào đi, ông Barth”, Lysander nói. Ông Barth nhón chân đi vào và đóng cửa lại hết sức nhẹ nhàng. Vì là người có thân hình khá to lớn nên ông cố gắng di chuyển một cách nhẹ nhàng, càng thận trọng càng tốt. “Không phải, cậu Rief. Không phải “Mời vào”. Mà là Herein*“. “Verzeihun*”, Lysander xin lỗi, kéo thêm một chiếc ghế nữa cho ông. Barth là giảng viên âm nhạc, hơn nữa lại được chọn lựa từ một danh sách dài gồm rất nhiều các giảng viên. Cha ông đã xem buổi biểu diễn của Paganini* năm 1836 và khi cậu cả ra đời vài năm sau đó, ông cụ đã đặt tên cậu là Nikolas để ghi nhớ sự kiện này. Khi còn trẻ, Barth đã khắc ghi điều này vào tâm khảm. Ông để tóc dài và râu quai nón giống Paganini như một sự tôn kính không bao giờ quên. Ngay cả bây giờ, khi gần đến tuổi thất thập, thi thoảng ông mới nhuộm xám mái tóc dài và nhuộm đen bộ ria. Ông vẫn trung thành với phong cách thời trang áo trong cao cổ và áo khoác dài với những cái cúc bạc cũ rích. Tuy nhiên nhạc cụ của ông không phải violin mà là cây đại hồ cầm - ông đã từng chơi trong dàn nhạc giao hưởng của nhà hát Lustspiel tại Vienna nhiều năm trước khi kế tục sự nghiệp giảng viên âm nhạc của gia đình. Ông vẫn giữ lại cây đàn cũ trong một chiếc hộp da đã nứt nẻ, đặt tựa vào tường dưới chân giường ở căn phòng nhỏ cuối hành lang. Đây là căn phòng nhỏ nhất trong số ba phòng cho thuê ở nhà nghỉ Kriwanek. Ông quảng cáo mình dạy được bất kì nhạc cụ nào “có thể chơi được bằng tay” đến một trình độ nhất định - bất kể là bộ dây, bộ hơi bằng gỗ hay kèn đồng. Lysander chưa thấy bất cứ học sinh nào chấp nhận đề nghị này nhưng anh hạnh phúc đón nhận đề xuất rụt rè ông đưa ra sau khi chuyển vào đây một ngày, đó là giúp đỡ anh cải thiện trình độ tiếng Đức - với mức học phí 5 curon* mỗi giờ. Ông Barth chậm rãi ngồi xuống, nhẹ rút những sợi tóc vương trên cổ áo bằng cả hai tay và mỉm cười, vẫy vẫy một ngón tay cảnh cáo. “Chỉ tiếng Đức thôi, cậu Rief. Chỉ có như thế cậu mới tiến xa được với thứ ngôn ngữ tuyệt vời và xinh đẹp này”. “Hôm nay tôi muốn học về chữ số”, Lysander đáp - bằng tiếng Đức. “A, những con số, những con số - cái bẫy vĩ đại”. Họ nghiêm túc thực hành những con số trong một giờ - kể cả ngày tháng giá cả, tiền lẻ, Phép cộng phép trừ - cho đến khi những con số quay cuồng trong đầu Lysander và chuông báo cơm tối vang lên. Ông Barth chỉ thanh toán tiền trọ và tiền ăn sáng nên ông xin phép ra về. Còn Lysander đi qua hành lang đến phòng ăn tối ốp ván khuôn, nơi đích thân bà Kiwanek đang ngồi đợi anh. Bà K, như ba người khách trọ thường gọi, là một phụ nữ mộ đạo và đoan trang đến cứng nhắc. Góa chồng ở tuổi bốn mươi, bà mặc trang phục truyền thống của Áo - những bộ váy thắt eo màu xanh rêu, là bộ chính, ngoài ra là các bộ áo cánh thêu, tạp dề và mấy đôi giày cao gót rộng - cho thấy một thái độ lịch thiệp đến nỗi chỉ có thể chịu đựng được trong thời gian một bữa ăn, Lysander nhanh chóng nhận ra điều ấy. Thế giới của bà chỉ tiếp nhận và chứa đựng những con người, sự kiện và quan điểm hoặc “tốt” hoặc “dễ chịu” (nett hoặc angenehm). Đó là những tính từ bà yêu thích và luôn vận dụng trong mọi trường hợp. Pho mát tốt; thời tiết dễ chịu; cô vợ trẻ của Hoàng tử Crown có vẻ là một người tốt; bưu điện mới có nét dễ chịu. Vân vân và vân vân. Lysander mỉm cười dịu dàng với bà khi ngồi vào cái ghế quen thuộc nơi bàn ăn. Anh thấy mình trẻ ra đến mấy tuổi: bà K khiến anh thấy một lần nữa mình đang ở tuổi thanh niên - trẻ trung hơn, thậm chí là chưa dậy thì. Anh trở nên mất bình tĩnh trước mặt bà, nhút nhát và kính cẩn đến lạ lùng biến thành một người khác mà anh không thể nhận ra một người không có chính kiến. Anh thấy có một chỗ dành cho người thứ ba - một khách trọ khác trong nhà này, Đại úy Wolfram Rozman, rõ ràng là vắng mặt hoặc đến muộn. Bữa tối phục vụ chuẩn xác vào lúc tám giờ. Bà K đã ưng thuận Lysander - anh tốt và dễ chịu, và là người Anh (người tốt) - và theo bản năng anh cảm thấy viên đại úy hoàn toàn không được lòng bà K. Ông ta không dễ chịu, và có lẽ là cả không tốt nữa. Đại úy Wolfram Rozman đã làm sai một chuyện gì đó. Không rõ là điều gì nhưng sự hiện diện của ông tại nhà nghỉ Kriwanek là một nỗi ô nhục. Đó là một rắc rối với trung đoàn như lời ông Barth kể. Ông ta không bị cách chức nhưng tạm thời bị trục xuất khỏi doanh trại vì vụ bê bối này, bất kể nó là gì. Và ông bị buộc phải sống ở đây cho đến khi phán quyết được đưa ra và số mệnh quân nhân của ông được định đoạt. Đại uý Rozman dường như có dính dáng quá sâu, Lysander phải thừa nhận điều đó - rõ ràng ông ta đã ở nhà nghỉ này gần sáu tháng rồi - nhưng ông ta càng ở lâu bao nhiêu thì bà K càng khó chịu với ông ta bấy nhiêu. Thậm chí trong vòng có hai tuần chứng kiến những cuộc nói chuyện giữa hai người, Lysander đã phát hiện ra một sự cách biệt rõ nét trong cách xưng hô và sự khách sáo đến mức băng giá đang tăng lên. Thực ra Lysander thích Wolfram vì anh được nhờ đi gọi ông gần như thường xuyên nhưng anh giữ kín quan điểm này trước mặt bà K. Giờ bà đang mỉm cười với anh và rung chuông gọi người hầu. Cô hầu gái, Traudl, xuất hiện gần như ngay lập tức với một cái liễn - đựng món súp bắp cải tươi và mấy ổ bánh mì nướng – trên tay. Đây là món đầu tiên trong bữa ăn tối ở nhà nghỉ Kriwanek, bất kể đông hay hè. Traudl, một cô gái mặt tròn, mười tám tuổi, hay đỏ mặt khi nói chuyện với người khác, đặt cái liễn xuống bàn mạnh đến mức làm bắn cả súp ra ngoài, vấy bẩn tấm khăn trải bàn trắng như tuyết. “Cô sẽ phải trả tiền giặt sạch khăn trải bàn đấy, Traudl”, bà K điềm tĩnh nói. “Rất sẵn lòng thưa bà”, Traudl đáp, đỏ mặt, khẽ nhún gối chào và bỏ đi. Bà K ăn nói lịch thiệp, hai mắt nhắm lại, điềm đạm - Lysander cúi đầu - cả hai mời nhau rồi cùng ăn món súp bắp cải và bánh mì nướng. “Ngài đại úy đến muộn rồi”, Lysander nhận xét. “Ông ta đã trả tiền ăn rồi, ăn hay không mặc kệ ông ta”. Bà mỉm cười với Lysander. “Anh có một ngày dễ chịu chứ, anh Rief?” “Rất dễ chịu”. Sau bữa ăn (món chính gồm thịt gà ninh với ớt cựa gà) theo thông lệ, bà K rời đi và các quý ông được phép hút thuốc. Lysander đốt một điếu và trở lại con người thật của mình vì bà chủ nhà đã đi rồi. Và anh bắt đầu tự hỏi, như anh vẫn làm sau mỗi lần ngồi cùng bàn với bà ta: Liệu anh có nên chuyển đến một khách sạn hay một nhà trọ khác không. Nhưng khi nghĩ đi nghĩ lại anh nhận ra mình thấy thoải mái ở nhà nghỉ Kriwanek này. Và ngoại trừ việc phải cùng ăn một bữa với bà K mỗi ngày, cuộc sống ở đây hoàn toàn thích hợp với anh. Nhà nghỉ thực ra là một căn hộ lớn trên tầng ba của một tòa nhà khá mới nằm về phía nam khoảnh sân nhỏ, cách khu phố mua sắm Mariahilfer Strasse khoảng nửa dặm tính từ vành đai. Có lò sưởi, nước nóng và đèn điện, các khách trọ dùng chung một phòng tắm lớn hiện đại (vệ sinh xả nước) và sạch sẽ. Khi Lysander hỏi thông tin đại lý du lịch về chuyến đi, anh đã yêu cầu danh sách các nhà trọ mà họ cung cấp phải có một phòng ngủ thoải mái, có tủ quần áo rộng rãi, các dịch vụ giặt là chuyên nghiệp (anh có những nhu cầu rất chuẩn xác về việc sử dụng hồ làm cứng vải) và phải gần một trạm dừng xe điện. Địa chỉ đầu tiên anh đến thăm là nhà nghỉ Kriwanek. Anh thấy phòng ở đó gồm một phòng khách, một góc phòng có rèm với một chiếc giường đôi, một phần phụ nhỏ vuông vắn làm phòng thay đồ với rất nhiều các ngăn chứa đồ và một chiếc tủ ly để quần áo. Anh không buồn xem thêm nữa - có lẽ đây là nguyên nhân cho những suy nghĩ về việc ra đi xuất hiện ngay sau bữa ăn - lẽ ra anh nên xem thêm những nơi khác ở Vienna này nữa? Dù thế anh vẫn có một gia sư cùng Sống ở đây, không được bỏ qua điều này. Khi đi vào căn hộ qua cánh cửa hai lớp bên phải đầu cầu thang tầng ba, bạn sẽ gặp ngay một sảnh - đủ rộng cho hai chiếc ghế bành thấp và có nệm với một chiếc bàn cùng một con cú nhồi bông trong vòm kính ở giữa bàn. Từ sảnh này có một hành lang dài dẫn đến phòng ăn và các phòng của ba khách trọ - Lysander, Wolfram và Barth - và phòng tắm dùng chung. Phía cuối đường có một cánh cửa đánh dấu “Riêng tư”, chắc dẫn thẳng đến nhà bếp, anh phỏng đoán, cũng như các phòng của bà K Anh chưa bao giờ đi qua lối này, chưa bao giờ dám đi. Traudl cũng sống ở đây nên cô ta hẳn cũng có riêng một góc ở đâu đó. Dường như có một hành lang phục vụ hẹp song song từ nhà bếp đến phòng ăn - phòng này có hai cửa - nhưng ngoài điều đó ra, cảm nhận của anh về kết cấu nhà nghỉ này là mơ hồ - ai mà biết cái gì ẩn đằng sau chữ Riêng tư? Nơi này thật thoải mái, bạn có thể thật sự tự do. Bữa sáng được phục vụ tại phòng, bữa tối là bữa bổ sung phải trả tiền, một bữa trưa nhẹ có thể được phục vụ khi báo trước vào buổi sáng. Anh phải thừa nhận cái nhà này thật lạ lùng. Traudl bước vào và dọn dẹp các đĩa đồ ăn tráng miệng. “Cô thế nào, Traudl?” Lysander hỏi. Cô ta là một cô gái rắn chắc, to khỏe nên luôn vụng về. Bị bất ngờ, cô đánh rơi một chiếc thìa ăn món tráng miệng xuống thảm. “Không vui vẻ gì lắm, thưa ông”, cô nói, nhặt thìa lên và lau vết sữa trứng bằng khăn ăn. “Tại sao thế?” “Tôi phải trả rất nhiều tiền phạt cho bà Kiwanek, vì thế tháng này tôi chẳng còn đồng nào nữa”. “Đáng thương quá. Cô phải cẩn thận hơn chứ”. “Traudl á? Cẩn thận sao? Hoàn toàn không thể đâu!”, giọng một người đàn ông cất lên. “Chào buổi tối, ngài Đại úy”, Traudl đáp, ngượng ngập. Wolfram Rozman kéo mạnh chiếc ghế và nặng nề ngồi xuống. “Traudl, con gà mịn màng bé bỏng của ta, mang cho ta ít bánh mì và pho mát nhé”. “Có ngay, thưa ngài”. Wolfram vươn người qua bàn vỗ vai Lysander. Ông đang mặc bộ quần áo màu xanh nhạt, cổ thắt nơ màu hoa tử đinh hương. Ông cao hơn Lysander vài phân, khéo léo và lóng ngóng trong từng cử động như một đặc trưng của những người đàn ông cao kều. Ông nằm ườn ra trên ghế, một cánh tay tựa lên chiếc ghế kề bên, hai chân duỗi thẳng dưới bàn. Ở phía mình, Lysander thấy rõ chiếc quần dài màu xanh nhạt và đôi ghệt* mắt cá của ông. Ông có đôi mắt thiếu ngủ, thâm quầng và một hàng ria mép vàng hoe, rậm rì hai đầu được bôi sáp hướng lên, phía trên đôi môi dày, mềm mại. Ông nhận điếu thuốc Lysander đưa mời - và sau một hồi tìm mãi trong túi không thấy bao diêm - ông dùng bật lửa của anh. “Tôi cho rằng tôi nằm trong cái sổ đen nhất của mụ ta rồi”, Wolfram nói, thổi khói thành những vòng tròn điệu nghệ. “Đen như mực ấy”. “Nói theo cách khác - ông chỉ là không được “dễ chịu” lắm thôi”. “Tôi đã cố chạy về nhà, cố gắng đừng về quá muộn và tôi nghĩ - Ôi Chúa ơi, không, Vì Chúa! Tôi không thể chịu được nữa. Thế nên tôi ra quán cà phê và uống mấy ly snap”. “Tại sao ông không bỏ luôn bữa tối đi, như Barth ấy? Tránh phải gặp bà ta”. “Trung đoàn đã thanh toán mọi thứ rồi. Không phải tôi”. Traudl quay lại với một đĩa bánh mì đen thái lát và một ít pho mát kem mềm. “Cảm ơn, con chồn bé bỏng của anh”. Traudl có vẻ muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi, khẽ nhún gối và ra ngoài bằng cửa bên. Wolfram vươn người về phía trước. “Lysander này - anh có biết rằng anh có thể chơi Traudl chỉ với 20 curon không? Biết không?” “Chơi á?” “Chiếm hữu cô ta”. “Ông có chắc không đấy?” Lysander tính toán nhanh: 20curon chưa đến một bảng. “Tôi làm chuyện đó hai lần mỗi tuần. Con bé thiếu tiền - thật sự rất dễ thỏa hiệp”. Wolfram đặt điếu thuốc xuống gạt tàn, phết pho mát lên bánh mì và bắt đầu ăn. “Con bé nhà quê dễ dãi, mập mạp. Mấy cái đứa này chúng nó biết vài chiêu đặc biệt đấy - chỉ nói với anh vậy thôi, nếu anh có nhã hứng”. “Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ ghi nhớ điều này”. Lysander đáp, hơi hoang mang trước thông tin này. Bà K sẽ nói gì nếu bà ta biết những chuyện đang diễn ra? Anh sẽ nhìn Traudl bằng con mắt khác. “Trông anh có vẻ ngạc nhiên”, Wolfram nói, miệng tóp tép nhai bánh mì và pho mát. “À, tôi là thế mà. Tôi chẳng biết gì cả. Ở một nơi của tất cả mọi nơi như thế này - Nhà nghỉ Kriwanek - đúng là một nơi đầy dối trá”. Wolfram chỉ con dao vào anh. “Nơi này - cái nhà nghỉ Kriwanek này - giống hệt Vienna. Trên cùng là thế giới của bà K. Tốt đẹp và dễ chịu đấy, ai cũng mỉm cười lịch thiệp, còn chẳng có ai đánh trung tiện hay hỉ mũi cả. Nhưng dưới cái bề mặt ấy là một dòng sông đang trôi, đen tối và cuồn cuộn”. “Dòng sông gì?” “Dòng sông tình dục”. 6 Đứa con trai của Halifax Rief “TÔI ĐANG Ở hàng rào chắn gần sân khấu nhất trong nhà hát Majestic tại Strand. Tôi đang đi qua một đám đông những quý bà, quý cô ăn mặc sang trọng, trang nhã. Họ tán chuyện, cười đùa và thi thoảng một người trong số đó liếc nhìn tôi. Họ chẳng thèm để ý đến tôi - ngay cả khi tôi hoàn toàn trần truồng”. Lysander dừng lại. Anh đang đọc cho Bensimon nghe cuốn Những cuộc điều tra tự thuật. “Phải…”, Bác sĩ Bensimon chậm rãi nói. “Thú vị thật. Đêm qua anh đã mơ giấc mơ này à?” “Vâng. Tôi viết ra ngay lập tức đấy”. “Nhưng tôi thắc mắc sao lại là nhà hát?” “Rõ ràng còn gì”, Lysander đáp. “Nếu đó không phải một nhà hát - thì sẽ còn thú vị hơn nhiều”. “Tôi không hiểu”. “Tôi là một diễn viên”, Lysander đáp. “Một diễn viên chuyên nghiệp à?” “Tôi kiếm sống bằng nghề diễn kịch, chủ yếu ở West End London”. Anh nghe thấy Bensimon đứng lên, đi ngang phòng đến ngồi phía cuối chiếc đi văng đằng sau. Lysander xoay người lại, vẫn ngồi trong chiếc ghế bành - Bensimon đang nhìn anh chằm chằm. “Rief”, ông nói. “Tôi nghĩ tên anh nghe rất quen. Có phải anh là Con trai của Halifax Rief không?” “Ông ấy là cha tôi”. “Chúa lòng lành!” Bensimon có vẻ kinh ngạc một cách chân thành. “Tôi đã xem vở Vua Lear của ông ấy ở… - Đâu nhỉ?” “Nhà hát Apollo”. “Đúng rồi, đúng, nhà hát Apollo… Ông mất rồi, đúng không: Ông mất khi vẫn đang theo đuổi nghiệp diễn ấy đúng không ?” “Năm 1999. Lúc ấy tôi mười ba tuổi”. “Lạy Chúa tôi. Cậu là con trai của Halifax Rief. Phi thường làm sao”. Bensimon chằm chằm nhìn Lysander như thể mới gặp anh lần đầu tiên. “Tôi nghĩ mình có thể phát hiện ra một sự tương đồng. Và anh cũng là một diễn viên giỏi đấy, ơn trời”. “Không thành công bằng cha tôi đâu - nhưng tôi cũng kiếm được khá tươm”. “Tôi yêu nhà hát. Vở kịch cuối cùng cậu diễn là gì?” “Vở Bức Tối hậu thư Si tình“. “Tôi không biết vở đó”. “Vở này của Kendrick Balston - thể loại hài kịch hiện thực, vừa kết thúc bốn tháng lưu diễn tại Shaftesbury. Đó là lúc tôi đến đây”. “Chúa ơi…” Bensimon lặp lại, nhẹ gật đầu như thể vừa được tiết lộ một điều gì đó quan trọng. Ông quay lại bàn và Lysander nhìn vào bức phù điêu bằng bạc. Anh cảm thấy mình đang ngày càng quen với nó, dù đây mới là buổi gặp gỡ thứ hai với Bensimon. “Vậy… anh đã trần truồng ở hàng rào chắn gần sân khấu nhất ở nhà hát Majestic. Anh có bị kích thích không?” “Tôi cảm thấy vui vẻ khi ở đó. Tôi không xấu hổ khi trần truồng trước mặt những người này. Không ngượng ngập”. “Không ai phá lên cười, không ai cười khẩy, không chỉ trỏ hay chế giễu à?” “Không. Họ dường như xem chuyện đó là quá đỗi bình thường. Sự tò mò vu vơ là cảm xúc mạnh mẽ nhất. Họ chỉ liếc nhìn tôi rồi lại tiếp tục chuyện trò”. “Họ có “liếc nhìn” dương vật của anh không?” “À. Có. Họ có nhìn”. Một lúc im lặng. Lysander nhắm mắt lại, anh có thể nghe thấy tiếng ngòi bút của Bensimon sột soạt. Để khiến tâm trí tạm rời khỏi cuộc trò chuyện này, anh ép mình nhớ lại những điều thú vị cuối tuần trước. Anh đã bắt chuyến tàu hỏa đến Puchberg và nghỉ qua đêm tại một khách sạn nhà ga ở đó. Sau đó anh đón chuyến tàu một toa leo núi đến Hochschneeberg và đi bộ lên đỉnh Alpengipfel rồi leo xuống (anh đã mang theo giày leo núi). Anh cảm thấy tâm trí nhẹ bỗng và trôi nổi mỗi khi leo lên các ngọn núi hoặc trong các chuyến du lịch đi bộ. Anh nghĩ có thể đây là lí do hợp lí nhất giải thích vì sao anh phải sang Áo - những chuyến đi mới, những quang cảnh mới. Mỗi dịp nghỉ cuối tuần anh có thể đi tàu và đi bộ lên những ngọn núi, đầu óc trống rỗng, quên đi hết những rắc rối. Phương thuốc đi bộ… “Giấc mơ này có tái diễn không?” Bensimon hỏi. “Có. Có biến đổi một chút, Thỉnh thoảng có ít người hơn”. “Căn bản là anh cơ - trần truồng - giữa cả đám phụ nữ, áo xống đầy đủ”. “Vâng. Không phải lúc nào cũng ở trong nhà hát”. “Anh có đặt câu hỏi tại sao mình lại mơ như thế không?” “Tôi lại hi vọng ông có thể nói cho tôi biết”. “Hãy tiếp tục chủ đề này vào lần sau”, Bensimon nói, kết thúc buổi gặp. Lysander đứng dậy và vươn thẳng người - anh thấy mệt lạ lùng, trong suốt thời gian phải tập trung cao độ thế này. Anh thả cuốn sổ tay vào túi áo. “Tiếp tục viết ra mọi thứ nhé”, Bensimon nói, tiễn anh ra cửa. “Chúng ta đang có tiến triển đấy”. Họ bắt tay nhau. “Hẹn gặp ông vào thứ Tư”, Lysander nói. “Con trai của Halifax Rief, đúng là không tin được”. Lysander ngồi trong quán Central uống cà phê Capuchino và suy nghĩ về cha mình. Như thường lệ, anh cố gắng nhớ về ông nhưng vô hiệu. Tất cả những gì anh có là hình ảnh một người đàn ông lực lưỡng, to lớn và một khuôn mặt vuông nung núc thịt dưới mái tóc dày màu xám. Dĩ nhiên anh có thể nghe thấy giọng nói nổi tiếng như giọng bass ầm ầm vang rền. Nhưng điều còn tồn tại lâu bền nhất trong hồi ức về cha anh đó là mùi hương trên người ông - mùi sáp thơm chải tóc ông thường dùng thứ sáp tổng hợp của riêng ông, do chính các thợ cạo của ông pha chế. Một thứ mùi hoa oải hương làm se, ban đầu rất hắc, làm nền cho mùi dầu thơm đậm hơn. Cha anh là một người đàn ông rất thơm tho, Lysander nghĩ. Thế rồi ông mất. Lysander nhìn quanh quán cà phê rộng rãi, với trần cao và vòm kính. Một nơi yên tĩnh. Có vài người đang đọc báo, một người mẹ và hai đứa con gái bé bỏng đang chăm chú quan sát chiếc xe dọn bánh ngọt. Mặt trời chiếu xiên qua những ô cửa sổ trên cao, vẽ nên những hình thoi màu hồng ngọc và cẩm thạch trong những tấm kính đỏ rực. Lysander ra hiệu gọi một chai brandy, cảm thấy tâm trạng thật bình yên. Khi rượu được mang đến, anh trả tiền cốc Capuchino và lấy ra lá thư của Blanche. Lá thư đầu tiên anh nhận được kể từ khi đến Vienna - anh đã viết cho Cô bốn lần… Anh vuốt thẳng tờ giấy, mực xanh sang trọng, nét chữ gà bới tràn đầy trang giấy, tràn ra hết cả lề. Lysander yêu dấu, Anh sẽ giận em lắm, em biết nhưng em rất nhớ anh, người đàn ông yêu dấu của em, thật đấy. Và em vẫn luôn định viết thư nhưng anh hiểu em và biết rằng mọi thứ “điên rồ” như thế nào rồi. Chúng em đã rà soát về vấn đề bản quyền tác giả vở Tháng Sáu Rực lửa nhưng rõ ràng có gì đó không ổn và bọn em đã phải họp nhau lại hai ngày trước. Với em vở này thật đáng yêu và em đang nghĩ có một vai sĩ quan bảo vệ trẻ trung rất “hợp” với anh đấy. Em có nên nói với Manley già nua, đáng yêu rằng có thể anh sẽ hứng thú với vai này không? Ông ấy sẽ làm bất cứ điều gì em yêu cầu, ngớ ngẩn đến đáng yêu. Nhưng anh phải về nhà sớm đi, kho báu của em. Sẽthật thú vị khi chúng ta lại làm việc cùng nhau. “Phương thuốc” bí ẩn của anh vẫn tốt chứ? Nó có rút ngắn tuổi thọ không? Anh có ngâm muối, tắm nước lạnh, uống sữa lừa nữa không đấy? Em nói với mọi người rằng anh có điều kiện” và họ kêu lên - “Ồ. À, Đúng rồi… Tôi hiểu”, và vội vã bỏ đi với vẻ mặt nghiêm túc lắm. Ngày mai em sẽ xuống Borehamwood để “quay thử”. Dougie nóiem có một khuôn mặt hoàn hảo, hợp với điện ảnh” nên bọn em sẽ xem xét. Em nhận được một lá thư thú vị từ mẹ anh hỏi em rằng, chúng ta đã quyết định về cái “ngày tuyệt vời” ấy chưa? Suy nghĩ về chuyện đó nhé, người tình ngọt ngào của em. Em đã khoe nhẫn với mọi người và họ hỏi “Bao giờ thế?” em phá lên cười - cười nghe như chuông ngân ý - và nói rằng bọn mình không cần vội. Nhưng em đang nghĩ là đám cưới mùa đông có thểcũng đặc biệt. Em có thể mặc đồ lông thú… Lysander gấp thư và nhét lại vào túi áo, mơ hồ cảm thấy không khỏe. Như thể tai anh đang nghe thấy giọng nói của cô, nhắc anh nhớ rằng cái gì đã đưa anh đến Vienna, buộc anh phải đối mặt với thực tế về vấn đề đặc biệt của mình. Anh không thể kết hôn với Blanche trong hoàn cảnh này. Tưởng tượng một đêm trong tuần trăng mật… Anh hút một điếu thuốc. Anh biết Blanche đã từng có nhiều người yêu. Thực ra cô đã mời anh lên giường nhưng anh khăng khăng nào là đạo đức, nào là sự tôn trọng - giờ hai người đã đính hôn. Anh lấy cuốn sổ từ trong túi và nhớ lại. Lần cuối cùng anh cố gắng tham dự đại hội ái tình với một phụ nữ là một ả gái điếm trẻ anh chọn được ở Piccadilly. Anh đếm lại: ba tháng, mười ngày trước. Đó là những ngày tháng sau khi anh cầu hôn Blanche và đó đơn thuần là một thử nghiệm cần thiết. Anh nhớ lại căn phòng nhỏ hôi hám trên phố Dover, một ngọn đèn đất, tấm ga giường sạch sẽ trên chiếc giường hẹp. Với lớp son phấn trên mặt, cô ta xinh đẹp đến ghê gớm nhưng có một chiếc răng đen lộ rõ khi mỉm cười. Anh khởi đầu rất tốt nhưng không thể tránh khỏi kết cục ấy. Chẳng có gì cả. Chúng ta có thể thử lại, cô ta nói khi anh trả tiền, chẳng buồn đếm xem bao nhiêu, thử lại làm gì khi chẳng có gì xảy ra cả? Dù vậy anh vẫn trả tiền - vỏ đạn rỗng vẫn có thể phát ra tiếng nổ. Lysander tự cho phép mình nở nụ cười chua cay - vài khách hàng là lính có thể đã kể cho cô ả nghe điều đó và điều này vẫn đeo đuổi cô ta. Anh dụi tắt điếu thuốc. Có lẽ anh nên nói với Bensimon rằng mình đã đính hôn với cô Blanche Blondel - việc này có thể gây ấn tượng với ông nhiều như khi nghe thấy tên Halifax Rief. Anh trả tiền - nhớ phải đội mũ lên đầu - và bước ra ngoài dưới ánh nắng ấm áp của buổi chiều, dừng lại trên các bậc thang của quán cà phê, suy nghĩ liệu anh có nên quay về nhà nghỉ Kriwanek - có thể bỏ bữa tối - hay có thể đi đâu đó dịp nghỉ cuối tuần này - có thể là Baden hay thậm chí là Salzburg, làm một chuyến du lịch ngắn, đi Tyrol… “Anh Rief?” Lysander vô thức nhảy dựng lên. Một người đàn ông cao kều, khuôn mặt thô gầy với hàng ria đen gọn gàng. “Không có ý làm anh ngạc nhiên. Anh thế nào rồi? Tôi là Alwyn Munro”. “Xin lỗi… tôi đang mơ”. Họ bắt tay nhau. “Dĩ nhiên. Chúng ta đã gặp nhau tại phòng khám của bác sĩ Bensimon. Tình cờ”. Lysander đáp. “Nếu anh đến quán cà phê Central thì anh sẽ gặp được tất cả mọi người ở Vienna này”.Munro nói. “Thời gian anh lưu lại đây thú vị không?” Lysander không muốn nói chuyện phiếm. “Ông có phải bệnh nhân của bác sĩ Bensimon không?” anh hỏi. “John ấy à? Ông ấy là bạn tôi. Chúng tôi cùng học đại học. Thi thoảng tôi được lợi nhờ trí tuệ của ông ấy. Một người rất thông minh”. Dường như cảm thấy Lysander miễn cưỡng làm quen với mình. “Tôi có thể thấy là anh đang vội. Tôi sẽ để anh đi tiếp”. Munro thọc tay vào túi tìm danh thiếp và trao cho anh. “Tôi ở Đại sứ quán đây nếu anh có cần gì. Vui được gặp anh”. Ông ta đưa ngón trỏ lên chỉnh vành chiếc mũ quả dưa và bước vào quán. Lysander rảo bước quay về đường Mariahilfer Strasse, tận hưởng ánh mặt trời. Anh cởi áo choàng khoác lên vai, suy nghĩ về Tyrol, phải rồi - những dãy núi thật sự. Sau đó khi anh vừa định băng qua đường Opernring thì lại trông thấy mấy tấm áp phích xấu xí, bị xé nham nhở khác. Lần này chỉ còn đầu một con quỷ - một kiểu sinh vật lai giữa cá sấu và rồng - và họ tên đầy đủ của người nghệ sĩ: Gottlieb Toller, Anh nghĩ mình có thể hỏi Barth xem ông ta có biết gì về người này không. Anh nghe tiếng một ban nhạc đang chơi điệu van của Strauss* theo kiểu hành khúc, anh điều chỉnh nhịp bước theo nhịp trống bass. Anh nghĩ đến khuôn mặt dài xinh đẹp của Blanche, hai cổ tay mỏng manh, trơ xương của cô với những chiếc vòng kêu lách cách, thân hình thanh mảnh. Anh đã yêu cô và muốn cưới cô, anh tự nhủ như thế không phải là giả vờ hay là do quy ước xã hội. Anh nợ cô nên phải cố gắng để mọi thứ tốt đẹp trở lại, để làm một người đàn ông bình thường, có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc với một người phụ nữ tuyệt vời. Anh phải thực hiện điều đó đến cùng. Anh băng qua đường vành đai, chú ý hết sức, và khi ấy ban nhạc cũng chuyển tông sang nhịp bước nhanh nghe như điệu polka. Anh cảm thấy tâm hồn mình như bay bổng với giai điệu ấy khi bước đi nhẹ nhàng lên đường Mariahilfer Strasse. Tiếng nhạc nhỏ dần phía sau, hòa lẫn với tiếng ồn của xe cộ, khi ban nhạc hành quân đi về phía các trại lính cũng là lúc họ hoàn thành bổn phận công dân, giải trí cho những người dân thành Vienna trong hơn một tiếng. Lysander cảm thấy mặt trời đang sưởi ấm đôi vai mình. Những cảm xúc rất lạ lùng cùng lúc tụ lại tấn công anh - tự hào vì những gì anh đã làm được cho bản thân, tự tìm phương thuốc cho riêng mình, thích thú rảo bước trên những con phố quen thuộc của thành phố ngoại quốc này. Trong một thoáng dễ chịu, anh thấy một nỗi u sầu thú vị mỏng manh khi xa rời Blanche, và cả đôi mắt tinh nhanh, thông minh của cô. 7 Thủ Dâm - Thói nghiện Nguyên thủy “THẾ CÒN THỦ DÂM THÌ SAO?” BENSIMON hỏi. “Phải nói là nó thường xuyên hiệu quả, chín trên mười lần. Chẳng có vấn đề gì hết”. “À, Thói nghiện nguyên thủy”. “Xin lỗi?” “Cách nói của Tiến sĩ Freud…”. Bensimon cầm bút sẵn sàng viết. “Tác nhân kích thích là gì?” “Hay thay đổi lắm”. Lysander hắng giọng. “Tôi hay nghĩ về mọi người - những người phụ nữ mà tôi bị hấp dẫn trong quá khứ và rồi tưởng tượng ra một…” anh ngừng lại. Bây giờ anh đã hiểu, thật hữu ích khi không phải nhìn mặt người đối thoại. “Tôi tưởng tượng một tình huống mà mọi thứ đều tiến triển tốt đẹp”. “Đương nhiên, đó là một giả thuyết. Thế giới hoàn hảo trong giả thuyết. Thực tế thì phức tạp hơn nhiều”. “Phải, tôi biết đó là hư ảo”, anh nói, Cố gắng khiến giọng nói mình không kích động. Đôi khi Bensimon có khuynh hướng thật phàm tục. “Nhưng điều đó có ích, có ích đấy”, Bensimon tiếp lời. “Anh đã nghe nói về “Trạng thái song song” chưa?” “Chưa. Tôi có nên nghe không?” “Không, không hề. Tôi tự phát triển giả thuyết này và thêm vào vài nét chính trong lý thuyết phân tâm học của Tiến sĩ Freud. Có thể chúng ta sẽ quay lại vấn đề này sau”. Im lặng. Anh có thể nghe thấy bác sĩ Bensimon dùng môi phát ra mấy tiếng bốp bốp. Bốp. Bốp. Bốp. Bực mình. “Mẹ anh còn sống chứ?” “Sống rất khỏe”. “Kể cho tôi nghe đi. Bà bao tuổi rồi?” “Bốn mươi chín”. “Miêu tả bà ấy đi”. “Bà là người Áo. Nói tiếng Anh trôi chảy, hầu như không lộ âm sắc người nước ngoài. Bà rất duyên dáng. Ăn diện rất đúng mốt”. “Có đẹp không?” “Tôi cho là vậy. Bà là một phụ nữ trẻ rất xinh đẹp. Tôi đã xem nhiều bức ảnh…”. “Tên bà là gì?” “Anneliese. Mọi người đều gọi bà là Anna”. “Bà Anneliese Rief”. “Không. Phu nhân Faulkner, Sau khi cha tôi mất, bà tái hôn với ngài Faulkner”. “Tình cảm của anh với cha dượng tiến triển thế nào?” “Rất tốt, Crickmay Faulkner già hơn mẹ tôi nhiều đấy. Ông ta ở tuổi bảy mươi rồi”. “À”. Lysander có thể nghe thấy tiếng bút sột soạt. “Anh có bao giờ nghĩ về mẹ minh và liên hệ đến tình dục không?” Lysander cố gắng nén tiếng thở dài mệt mỏi. Anh thật sự đã mong đợi nhiều hơn ở Bensimon. “Không”, anh đáp. “Không hề. Không bao giờ. Không”. 8 Ngài Sĩ quan Kị binh sôi nổi LYSANDER NHÌN WOLFRAM kinh ngạc. Ông đang đứng trong hành lang mặc nguyên bộ quân phục. Thanh kiếm lưỡi cong kéo lê trên sàn, chiếc mũ sa cô kẹp dưới cánh tay, đôi ủng đen được lắp cựa bảo vệ đầu gối. Trông ông to lớn và rất ấn tượng. “Chúa ơi”, Lysander nói, vẻ ngưỡng mộ. “Ông sắp đi diễu binh đấy à?” “Không”, Wolfram nói, ủ rũ. “Hôm nay là phiên tòa xử tôi”. Lysander đi vòng quanh ông. Bộ quân phục màu đen với khuy khuyết thùa vàng trĩu xuống, như những con rắn đang quằn quại, với miếng giáp che ngực phía trước. Một chiếc áo nịt kiểu kị binh phủ lông thú rủ xuống một bên vai. Chiếc mũ sa cô của ông có lông vũ đỏ hợp với những miếng đáp màu đỏ trên cổ áo choàng và những sọc đỏ trên một bên quần. “Lính kị binh hả?” Lysander đoán. “Lính kị binh châu Âu. Anh có gì uống được không? Cái gì mạnh ý? Phải thú thật là tôi hơi căng thẳng”. “Tôi có một ít rượu whisky Scotch, nếu ông thích”. “Hoàn hảo”. Wolfram vào phòng anh và ngồi xuống, thanh gươm kêu lách cách. Lysander rót rượu whisky vào ly uống nước hình cái răng. Ông tợp một ngụm, uống cạn rồi lại đưa rót thêm cốc nữa. “Whisky rất ngon - tôi nghĩ vậy”. “Ông không muốn hơi thở mình có mùi rượu whisky ở tòa đâu”. “Trước khi vào tôi sẽ hút xì gà”. Lysander ngồi xuống, ngắm nhìn hình mẫu lý tưởng của một người sĩ quan kị binh sôi nổi đậm chất Ruritania* này. Khi ông đội lại mũ sa cô lên đầu, Lysander nghĩ rằng ông sẽ cao đến hai mét. “Phiên tòa xử tội gì?” anh hỏi, cảm thấy mình đã đủ thân thiết để gặng hỏi về nguyên nhân khiến Wolfram bị lãng quên tại nhà nghỉ Kriwanek. Ngày phán xét đã đến rồi. “Nghi ngờ về khoản tiền thất thoát của các sĩ quan”, Wolfram đáp. Ông giải thích: “Đại tá của trung đoàn chuẩn bị nghỉ hưu và các sĩ quan muốn góp tiền mua cho ông một món quà thật tuyệt vời. Các khoản quyên góp không nêu tên người góp được nhét vào rãnh bộ két bạc khóa kín để trên tủ quần áo trong phòng ăn bừa bộn. Cuối cùng khi cái kết được mở ra, Số tiền chỉ còn đủ mua một hộp xì gà loe đầu loại trung bình hay hai chai sâm banh Hungary”, Wolfram nói. “Rõ ràng hoặc là chúng tôi đã dành ít tiền tặng cho vị Đại tá yêu dấu của mình, hoặc ai đó đã ăn cắp nó”. “Ai là người giữ chìa khóa cái két?” “Ai nằm trong bảng phân công đều là sĩ quan giám sát bữa ăn tập thể mỗi tuần. Cái kết đã ở đây được ba tháng rồi. Ba tháng vị chi là mười hai tuần, mỗi tuần có một nghi phạm. Bất kì ai trong số này đều có dư thời gian làm một cái chìa khác và trộm tiền. Tôi là một trong số mười hai sĩ quan giám sát đó”. “Nhưng tại sao họ nghi ngờ ông?” Lysander cảm thấy giận dữ thay cho Wolfram. “Bởi vì tôi là người Slovenia trong một trung đoàn Đức. Ý tôi là những người ko nói tiếng Đức. Có hai người Séc nhưng lũ sĩ quan Đức luôn nghi ngờ người Slovenia - thế nên tôi phải mất sáu tháng ngồi đây để đợi chúng quyết định nên làm gì với tôi”. “Nhưng điều này lố bịch thật. Chỉ vì ông là người Slovenia ư?” “Áo, Hungary và…” Lysander suy nghĩ. “Và Croatia…”. Wolfram mỉm cười, vẻ mệt mỏi. “Trong đế chế vĩ đại của chúng ta có bao nhiêu quốc gia?” “Anh vẫn còn chưa bắt đầu. Carnolia, Moravia, Galicia, Bosnia, Dalmatia - đó là một nồi súp rau, một món sa lát khủng khiếp khổng lỏ. Còn chưa kể đến người Ý hay người Ucraina. Tôi sẽ uống thêm một ly nữa”. Lysander rót rượu cho ông. “Anh có nước Áo”. Wolfram di chuyển cái chai lấy chỗ đặt cốc xuống bên cạnh. “Và anh có Hungary. Các nước còn lại như chúng tôi chỉ là chốn hậu cung của hai ông vua hùng mạnh này. Họ chiếm lấy chúng tôi khi muốn, và thô bạo với chúng tôi khi cần. Và thế - ai là người đánh cắp tiền của ngài Đại tá? À, chắc chắn là tên người Slovenia xảo quyệt kia”. Có tiếng gõ cửa và Traudl ló đầu vào, đỏ mặt. “Ngài Đại úy, xe ngựa của ngài đến rồi”. Wolfram đứng dậy, cài cúc áo trên cổ, đi găng tay và chụp lấy cái mũ sa cô “Chúc may mắn”, Lysander nói và họ bắt tay nhau.“Ông là người vô tội, chẳng có gì phải sợ cả”. Wolfram mỉm cười, nhún vai, “Chẳng có ai hoàn toàn vô tội đâu.”. “Đúng, tôi cũng nghĩ thế. Nhưng ông hiểu ý tôi mà” “Tôi sẽ ổn thôi”, Wolfram nói. “Tên Slovenia xảo quyệt này còn để dành một vài sự ngạc nhiên đấy”. Ông khẽ cúi mình, giậm chân - những cái cựa kêu lách cách, khô khốc - và bỏ đi. Lysander quay lại bàn và mở cuốn Những cuộc Điều tra Tự thuật ra, cảm thấy một sự thất vọng nhẹ nhàng thoáng qua. Dù thắng hay thua, thời gian Wolfram ở lại khu nhà nghỉ này đã gần như chấm hết - hoặc ông sẽ quay về các trại lính, được minh oan, hoặc bị cách chức, tống ra biển đời lênh đênh của người dân bình thường. Có thể là quay về Slovenia… Anh sẽ nhớ ông. Anh bắt đầu ghi nhanh một số cơ sở lập luận trong vụ án của Đại úy Wolfram Rozman. “Chẳng có ai hoàn toàn vô tội”, anh viết, và một ý nghĩ chợt đến, nếu ai đó âm mưu đánh cắp một cái gì, đó thực sự là một mánh khóe thông minh khi hắn biết chắc chắn rằng có đến hàng tá nghi phạm tiềm năng khác. Giữa một nhóm nghi phạm không dễ tìm ra thủ phạm. Anh gạch dưới câu: “Chẳng có ai hoàn toàn vô tội”. Có lẽ đã đến lúc kể với Bensimon về bí mật đen tối nhất, xấu hổ nhất của anh… Lại có tiếng gõ cửa. Anh nhìn đồng hồ đeo tay - còn một tiếng nữa mới đến giờ học với ông Barth. Anh nói: “Vào đi”, và Traudl lại xuất hiện, đóng cửa lại. “Chào cô Traudl. Tôi có thể giúp gì cho cô?” “Bà Kriwanek đang đi thăm em gái và ông Barth đang ngủ trong phòng ông ta”. “Ờ, xin cảm ơn cô về thông tin này”. “Trước khi đi, Đại úy Wolfram Rozman đã cho tôi 20 curon và bảo tôi đến gặp ông”. “Để làm gì?” “Để đáp ứng nhu cầu của ông”. Nói đến đây cô ngừng lại, kéo chiếc váy dày và tạp dề lên đến tận eo. Trong vùng da thịt lộ ra, Lysander thấy những đường gờ nhợt nhạt ở hai hông, và vùng tam giác đen của đám lông mu. “Không cần thiết đâu, Traudl”. “Thế còn 20 curon ạ?” “Cô cứ việc giữ đi. Tôi sẽ nói với Đại úy Rozman rằng chúng ta đã vui vẻ với nhau”. “Ông thật là tốt, ông Rief”, Traudle khẽ nhún gối chào. Chẳng có ai hoàn toàn vô tội, Lysander nghĩ, đi ra mở cửa. Anh lục túi quần dài tìm tiền lẻ, định bụng bao cho cô, nhưng anh chỉ tìm thấy một tấm danh thiếp. Mà cô ta đâu có cần tiền bao - 20 curon với cô ta đã là quá đủ. “Tôi có thể đến vào lúc khác”, Traudl nói. “Thôi, thôi. Không sao đâu mà”. Anh đóng cửa lại. Đúng là dòng sông tình dục. Anh liếc nhìn tấm danh thiếp trong tay - của ai thế nhỉ? “Đội trưởng Alwyn Munro DS0”, anh đọc. “Tùy viên Quân đội. Đại sứ quán Anh, Metternichgasse 6, Vienna III”. Lại một tên lính khát máu nữa. Anh đặt tấm danh thiếp lên bàn. 9 Những cuộc điều tra Tự thuật ĐÓ LÀ MÙA HÈ NĂM 1900. Tôi mười bốn tuổi và đang sống ở Claverleigh Hall, East Sussex, quê cha dượng tôi, ngài Faulkner. Cha tôi đã mất một năm trước đó. Mẹ tôi kết hôn với ngài Crickmay Faulkner chín tháng sau tang lễ cha tôi. Bà là vợ hai của ông, phụ nhân Faulkner mới. Tất cả hàng xóm láng giềng đều hài lòng với ngài Crickmay, một người đàn ông cục mịch, nhân hậu, tuổi ngoài năm mươi, góa vợ, có một cậu con trai đã trưởng thành. Tôi thực sự vẫn không hiểu nổi tôi cảm thấy gì về cuộc sống mới mẻ này, gia đình mới và ngôi nhà mới này. Claverleigh và dinh cơ này vẫn là một vùng đất xa lạ rộng lớn đối với tôi. Bên ngoài các khu vườn có tường bao quanh là những khu rừng, cánh đồng bãi trồng cây, thảo nguyên, bãi chăn ngựa và hai trang trại trải dài qua các vùng đồng bằng của East Sussex. Đó là một dinh cơ được điều hành rất tốt và tôi thấy mình mãi mãi là người xa lạ ở đây. Dẫu rằng trong nhà này những người hầu, người giúp việc, xà ích và những người làm vườn, tất cả đều rất thân thiện. Họ luôn mỉm cười khi thấy tôi và gọi tôi là “Cậu chủ Lysander”. Tôi đã nghỉ học ở ngôi trường tại London - “Trường Nam sinh Mrs. Chalmers’ Demonstration” - để được học tại nhà với một cha phó người địa phương, đức cha Filmore, một ông già độc thân uyên bác. Mẹ tôi bảo rằng nhiều khả năng tôi sẽ được gửi đến học tại một trường nội trú vào mùa thu. Hôm пау là thứ Bảy nên tôi không phải học, nhưng Đức cha Filmore yêu cầu tôi đọc một bài thơ của Giáo hoàng Alexander nhan đề Đánh cắp món tóc. Tôi thấy nó rất khó đọc, Sau bữa trưa, tôi lấy cuốn sách và lang thang vào khu vườn lớn có tường bao quanh, tìm một chiếc ghế dài khuất để tiếp tục bài đọc gian khổ của mình. Tôi thích thơ, dễ dàng học thuộc lòng. Nhưng tôi nhận thấy thơ của Giáo hoàng dường như rất khó hiểu không như Keats hay nhà thơ yêu thích của tôi - Tennyson. Những người làm vườn và các cậu bé đang nhổ cỏ bên các luống thảo mộc dài đều cất lời chào khi tôi đi ngang qua. “Một ngày tốt lành, cậu chủ Lysander”. Tôi chào lại họ - bây giờ thì tôi biết gần hết mọi người, đó là Digby già cả - người làm vườn chính - và Davy Bledlow cùng con trai ông Tommy, Tommy lớn hơn tôi hai tuổi và có lần anh đã rủ tôi cùng ra ngoài săn thỏ. Anh có một con chồn sương rất khôn tên là Ruby. Tôi không muốn đi và lịch sự nói cảm ơn anh vì tôi không thích săn và giết thỏ - điều ấy thật tàn nhẫn. Tommy Bledlow là một anh chàng cao to với chiếc mũi gãy nằm phẳng lì trên mặt khiến anh trông rất lạ lùng - một anh hề đầy nguy hiểm. Tôi rời khỏi khu vườn có tường bao quanh và băng qua hàng rào vào rừng Claverleigh bằng bậc trèo. Mặt trời chiếu xuyên qua những chiếc lá xanh non của các cây sồi già. Tôi tìm một góc đầy rêu giữa hai cái rễ trụ gầy guộc của một cây sồi lớn. Tôi đang nằm trong một chùm ánh nắng và hưởng thụ sự ấm áp lan khắp cơ thể. Có một cơn gió thật nhẹ. Ở đằng xa tôi có thể nghe thấy tiếng một đoàn tàu đang chạy xình xịch dọc theo tuyến đường từ Lewes đến Pevensey. Những chú chim đang hót - một con chim hót, tôi nghĩ thế, một con chim hét. Thanh bình một cách lí tưởng. Một ngày hè ấm áp ở thời điểm bắt đầu một thế kỷ mới tại miền nam nước Anh. Tôi mở sách ra và bắt đầu đọc, Cố gắng tập trung. Tôi dừng đọc, cởi giầy và tất ra. Những ngón chân uốn cong lại. Tôi đọc tiếp: “Thần Mặt trời chiếu tia nắng rụt rè qua bức rèm trắng. Và sẽ mở ra đôi mắt hẳn sẽ làm lu mờ cả ánh ngày”. Tại London vào thế kỉ XVIII, một phụ nữ trẻ xinh đẹp đang nằm trên giường, sẽ thức dậy, mặc đồ, và bắt đầu cuộc sống thường nhật của mình - khá rõ ràng. Tôi ngả người về phía sau, đầu khuất trong bóng râm, thân mình tắm trong ánh mặt trời. “Belinda xoa nhẹ bộ ngực mềm như chiếc gối phủ đầy lông tơ”. Tôi hiểu không được đọc là “breast”* mà phải đọc tránh thành “Prest”* Tại sao mình lại đọc là “breast” nhỉ? Sự kết hợp của chiếc gối phủ đầy lông tơ, cô gái trong bộ đồ ngủ, có lẽ là đủ lộn xộn và gợi mở để hé lộ - tôi lật trang. “…Shock nghĩ rằng nàng đã ngủ quá lâu Chàng vùng dậy, dùng lưỡi mình đánh thức tình nhân” Cái tên “Shock” này là ai nhỉ? Nhưng tôi đang nghĩ về cô hầu gái dưới nhà - tên cô ấy có phải Belinda không nhỉ? - Tôi nghĩ thế, cô gái cao cao với khuôn mặt hơi trơ trẽn. Cô ta có “những cái gối mềm đầy lông tơ”, đúng rồi. Lần đó tôi đã thấy cô ấy quỳ xuống đặt rơ le báo cháy, hai ống tay áo xắn lên, những nút áo không cài. Tôi biết một “tình nhân” nghĩa là gì - nhưng làm thế nào hắn đánh thức cô ta bằng lưỡi được nhỉ? Tôi cảm thấy dương vật của minh cựa quậy như có ý tán đồng dưới quần. Ánh mặt trời sưởi ấm lòng tôi. Tôi nhìn quanh thấy mình hoàn toàn đơn độc. Tôi tháo thắt lưng, cởi cúc quần, kéo quần dài và quần đùi xuống đến tận đầu gối. Mặt trời ấm áp, tôi chạm vào cái ấy. Tôi nghĩ về Belinda, cô hầu gái dưới nhà. Nghĩ về những bộ ngực, mềm mại như những chiếc gối, về cái lưỡi đánh thức tình nhân. Tôi nắm chặt cái ấy. Tay tôi chậm rãi di chuyển lên xuống… Điều tiếp theo tôi nhớ là tiếng mẹ gọi tên tôi. “Lysander?Lysander, con yêu…” Tôi đang mơ. Rồi tôi nhận ra là không phải. Tôi chậm rãi thức dậy như thể vừa dùng thuốc phiện xong. Tôi mở mắt, nhấp nháy, và thấy mẹ đang đứng đó, dưới bóng mặt trời lấp lóa, đang đứng nhìn xuống tôi, Rất lo lắng. “Lysander, con yêu, có chuyện gì thế?” “Gi ạ?”. Tôi vẫn nửa tỉnh nửa mơ. Tôi nhìn xuống theo hướng nhìn của bà. Quần dài và quần đùi của tôi vẫn đang túm tụm lại quanh đầu gối, tôi nhìn thấy dương vật mình mềm nhũn và túm lông nhỏ đen xì phía trên nó. Tôi kéo hết quần lên, cuộn người tròn như quả bóng và bắt đầu khóc nức lên không kiềm chế được. “Chuyện gì vậy, con yêu?” “Tommy Bledlow”, tôi nức nở, có Chúa mới hiểu tại sao.“Tommy Bledlow đã làm thế với con”. 10 Cảm nhận Lạ lùng về sự Khác biệt LYSANDER NGỪNG ĐỌC. ANH cảm thấy nỗi tủi hổ trong quá khứ đang cháy dữ dội toàn thân, như một đám bùi nhùi khô khốc nhất đang cháy, quằn quại và kêu lách tách nóng bỏng. Miệng anh khô nẻ. Thôi nào, mạnh mẽ lên, anh tự nhủ, mày hai mươi bảy tuổi rồi - đây chỉ là hồi ức cũ mà thôi. Lysander ngồi im lặng một lúc. Bensimon phải lên tiếng trước. “Đúng vậy”, Bensimon nói. “Phải. Vậy chuyện này xảy ra khi anh mười bốn tuổi”. “Tôi nghĩ mình đã ngủ thiếp đi gần hai tiếng và bỏ lỡ giờ uống trà. Mẹ tôi rất lo lắng nên chạy ra ngoài tìm tôi. Những người làm vườn nói rằng tôi đã đi vào rừng”. “Và anh bắt đầu thủ dâm…”. “Và đã ngủ thiếp đi. Ngủ như chết. Mặt trời, hơi ấm. Một giấc ngủ lành… Và rồi mẹ tôi thấy tôi rõ ràng đang bất tỉnh khi quần bị kéo hết xuống, nửa trần truồng phơi trần ra. Chả trách bà hốt hoảng”. “Chuyện gì đã xảy ra với cậu làm vườn vậy?” “Anh ta bị cha dượng tôi sa thải ngay lập tức, không được nhận lương và không được ý kiến gì hết. Cha dượng tôi hoặc cảnh sát đã làm thế. Bố anh ta cho rằng con mình chẳng làm gì cả - cho dù ông thừa nhận mình không có mặt ở khu vườn suốt buổi chiều hôm đó - và cả ông ta cũng bị sa thải”. “Ai mà dám không tin tưởng cậu chủ Lysander chứ?” “Đúng, chính xác là thế. Tôi cảm thấy rất có lỗi. Đến giờ vẫn thế. Tôi chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với họ. Họ cũng bị đuổi khỏi ngôi nhà riêng nằm trên dinh cơ Faulkner. Tôi bị ốm - tôi nhớ mình đã khóc suốt mấy ngày - và nằm bẹp trên giường suốt nửa tháng. Rồi mẹ tôi đưa tôi đến một khách sạn ở Margate. Tôi được các bác sĩ khám, phải uống cả đống thuốc thang để làm dịu “thần kinh”. Sau đó tôi khăn gói lên đường đến ngôi trường nội trú khủng khiếp của đời mình”. “Vụ này không bao giờ được nhắc lại nữa à?” “Không bao giờ. Tôi là nạn nhân, ông biết mà. Ốm yếu, tơi tả, nhợt nhạt. Mỗi lần có ai đó hỏi tôi về chuyện này, tôi lại bắt đầu nức nở. Thế nên mọi người đều rất thận trọng rất lo lắng về những gì tôi đã phải “trải qua”. Đi thật nhẹ, nói thật khẽ, ông biết đấy”. “Rất thú vị khi anh đổ tội cho con trai người làm vườn…”. Bensimon viết một điều gì đó. “Nhắc lại tên anh ta đi?” “Tommy Bledlow”. “Anh vẫn còn nhớ à”. “Tôi không thể quên được cái tên ấy”. “Anh ta có rủ cậu đi săn - cùng con chồn của anh ta?” “Tôi đã từ chối”. “Anh có cảm xúc đồng tính luyến ái nào với anh ta không?” “À… Không. Hay ít nhất tôi chẳng để ý đến cảm xúc nào hết. Anh ta là người cuối cùng tôi nói chuyện. Trong cơn hốt hoảng của mình, trong tình trạng khẩn cấp của giây phút đó, tôi chỉ với đại một cái tên bay trong không khí”. Lysander bắt tàu điện quay về Mariahilfer Strasse. Anh ngồi đó trong trạng thái như mê mụ khi chuyến tàu ầm ĩ và rung chuyển băng qua thành phố. Bensimon chính là người duy nhất anh có thể nói sự thật về ngày hè ở thời điểm chuyển giao thế kỉ ấy. Anh phải thừa nhận rằng việc gợi lại bí mật đáng sợ và đen tối này đã tạo nên một cảm giác hồi hộp phấn chấn. Anh cảm thấy thoải mái lạ lùng, xa cách với quá khứ, và khi nhìn xung quanh, nó xa cách với thế giới anh đang đi qua cùng những con người của hiện tại. Anh suy ngẫm về những hành khách cùng đi trên chuyến tàu K - anh thấy họ đang đọc sách, nói chuyện, chìm trong những suy nghĩ của riêng mình, nhìn chằm chằm vô hồn ra cửa số khi thành phố lao vút qua - và có một cảm nhận lạ lùng về sự khác biệt. Giống người đang có một tấm vé số độc đắc trong túi - hay một kẻ sát nhân quay về từ hiện trường một vụ án mạng mà không bị phát hiện - anh cảm nhận bản thân mình như vượt trên họ, xa cách họ, và gần như là vượt trội. Giá mà các người biết được điều tôi tiết lộ ngày hôm nay, giá mà các người biết giờ đây mọi thứ trong cuộc đời tôi sẽ khác biệt như thế nào… Anh nhanh chóng nhận ra ý nghĩ cuối cùng này thật đáng trân trọng. Chuyện xảy ra vào buổi chiều tháng Sáu năm 1900 ấy là một đoạn bị xóa trong phần tường thuật về cuộc đời anh, một đoạn dài bị bỏ trắng giữa hai dấu ngoặc đơn về quãng thời gian anh là thằng nhóc mười bốn tuổi. Sau đó anh đã không bao giờ suy nghĩ về nó - đã dựng lên một hàng rào bao vây - như để ngăn chặn tất cả những xúc tác có thể làm gợi lên hồi ức không muốn nhớ ấy. Anh đã đi bộ rất nhiều lần trong rừng Claverleigh; mẹ con anh đã từng rất thân thiết; anh đã nói chuyện với những người làm vườn và công nhân trong vùng mà không hề nhớ đến cái tên Tommy Bledlow. Sự việc đã qua rồi, đã bị xua đuổi - lạc lối hoàn toàn trong thời gian - như thể một bộ phận cơ thể bị bệnh hay một khối u đã được loại bỏ và đốt thành tro. Anh xuống tàu, tự hỏi tại sao mình lại kể chuyện đó mà không hề suy nghĩ. Không - anh thấy mừng khi đã kể với Bensimon mọi thứ. Có lẽ về căn bản, đây là điều mà tất cả các phương pháp trị bệnh bằng phân tâm học có thể đạt tới: nó cho phép anh nói chuyện về những vấn đề thiết yếu, căn bản và quan trọng những điều không thể nói với bất kì ai khác - dưới dạng một buổi trò chuyện trị liệu bình thường. Bây giờ anh có thể nói với Bensimon những điều thầm kín nhất. Hành động thú nhận là một hình thức tự do và anh tự hỏi mình có cần Bensimon nữa không. Dẫu vậy anh vẫn cảm thấy một chút khác biệt về mặt diện mạo so với con người ngồi viết ra những sự kiện của ngày hôm đó. Và anh có thể thấy rằng viết lách cũng thật quan trọng. Có điều gì đó đã thay đổi - dạng như một sự thanh lọc, khai phá, một sự làm sạch. Anh bước chậm, đầy suy tư trên suốt quãng đường từ điểm dừng xe điện đến khu nhà nghỉ. Anh chỉ dừng lại mua một trăm điếu thuốc lá Virginia của Anh từ một cửa hàng bán buôn tại nút giao giữa đường Mariahilfer Strasse và sân sau của nhà nghỉ. Anh mơ hồ tự hỏi mình có đang hút quá nhiều thuốc không điều anh cần là một chuyến đi bộ đường dài hai mươi dặm trong các dãy núi giúp anh khỏe người. Anh bắt đầu thấy thư giãn để suy tính về nơi anh có thể đến dịp cuối tuần này. Traudl đang phủi bụi cho con cú nhồi bông trong vòm kính khi anh đẩy cửa vào. Anh nhận ra cô không nhún gối chào và nụ cười đón chào của cô có vẻ ranh mãnh hơn một chút. Lysander không ngạc nhiên vì giờ đây cả hai đều có bí mật riêng mới để chia sẻ với nhau. “Ngài Đại úy muốn gặp ông, thưa ông”, sau đó cô nói, liếc nhìn xung quanh, thì thầm. “Hãy nhớ đến 20 curon”. “Yên tâm, Ông ấy sẽ cho rằng chúng ta. Cô biết đấy…”. “Vâng. Tốt quá. Xin ông chắc chắn nói chuyện ấy, thưa ông”. “Tôi sẽ nói, Traudl. An tâm đi”. “Tôi chuyển thư của ông vào phòng ông rồi, thưa ông”. “Cảm ơn cô”. Lysander gõ cửa phòng Wolfram và bước vào khi được mời. Từ nụ cười rộng ngoác của Wolfram và chai sâm banh trong xô đá, anh có thể thấy ngay rằng mọi chuyện ở tòa đã diễn ra suôn sẻ. Ông ta đã mặc lại thường phục - một bộ quần áo bằng vải tuýt màu nâu nhạt với cà vạt màu sô cô la. “Trắng án!” Wolfram nói, cử chỉ như một vị nhạc trưởng đại tài, hai cánh tay giơ cao mạnh mẽ, hai người nồng nhiệt bắt tay nhau. “Chúc mừng ông. Tôi hi vọng không có quá nhiều thử thách”, Lysander đáp. Wolfram hào hứng khui và rót sâm banh. “Ồ, dĩ nhiên là chúng cố dọa anh đến chết rồi”, ông nói. “Tất cả các viên sĩ quan cao cấp đều mặc đồng phục và mang vẻ mặt khó chịu nhất - những bộ mặt phô trương vô cùng trịch thượng. Bắt anh phải đợi đến hàng giờ đồng hồ”. Ông rót đầy ly của Lysander. “Nếu thần kinh anh vững vàng, thái độ đường hoàng thì anh mới đi được nửa đường thôi”. Ông mỉm cười. “Chính mấy ly whisky tuyệt hảo của anh mới là thứ hữu dụng nhất trong cái phòng ấy đấy”. Họ cùng chạm ly và uống cạn. “Thế là mọi chuyện kết thúc rồi”, Lysander nói. “Điều gì làm họ nhận ra vấn đề thế?” “Sự thiếu hụt bằng chứng đáng xấu hổ. Nhưng tôi đã cho chúng một thứ để suy nghĩ. Nó đã giúp xóa bỏ định kiến về người Slovenia”. “Ồ thế ư. Là gì vậy?” “Có một viên đội trưởng trong trung đoàn, Frankenthal. Không giống tôi. Hắn là một kẻ kiêu căng, ngạo mạn. Tôi tìm cách nhắc nhở các sĩ quan cấp trên rằng Frankenthal là một cái tên Do Thái”. wolfram nhún vai. “Frankenthal cũng giữ chìa khóa trong vòng một tuần, giống hệt tôi”. “Cái tính Do Thái ấy có liên quan gì đến chuyện này?” “Hắn không phải người Do Thái - gia đình hắn chuyển sang Đạo Thiên Chúa cả một thế hệ trước rồi. Nhưng vẫn…” Wolfram mỉm cười tinh quái: “Lẽ ra chúng nên đổi cả tên của chúng nữa”. “Tôi không hiểu”. “Lysander thân mến ơi - nếu chúng không thể đổ tội lên đầu một tên Slovenia thì một tên Do Thái sẽ là tên tốt thí mạng đáng giá hơn thế”. Wolfram uống cạn ly. “Chiều chuộng mấy gã khó tính kia thôi. Và tôi được nghỉ phép một tháng như sự đền bù cho những thử thách” tôi đã phải chịu. Vậy đấy - rồi anh sẽ biết thêm nhiều chuyện về tôi. Rồi chúng tôi sẽ lại tập trận vào cuối tháng Chín”. Ông mỉm cười. “Còn con bé nhà quê kia thế nào hả?” “À Traudl, vâng. Thú vị nhất. Cảm ơn ông nhiều”. Lysander thay đổi chủ đề rất nhanh, “Nếu họ không tuyên bố ông trắng án, ông sẽ làm gì?” Wolfram suy nghĩ một giây. “Hẳn tôi sẽ tự sát, nhiều khả năng là như thế”. Ông nhíu mày, như thể đang suy nghĩ về những lựa chọn, dựa trên lí trí. “Một viên đạn vào đầu, hẳn thế. Hoặc uống thuốc độc”. “Chắc không phải thế chứ? Chúa ơi”. “Không, không anh phải hiểu, Lysander. Ở Vienna này, trong cái đế chế đổ nát của chúng ta, thì tự sát là một hành động hợp lý đến hoàn hảo. Ai cũng sẽ biết những cảm xúc thật sự của anh và lý do tại sao anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đó - không ai lên án hay oán trách anh”. “Thật không? “Thật. Một khi anh hiểu điều đó, anh sẽ hiểu chúng tôi”. Wolfram mỉm cười. “Nó nằm rất sâu trong bản chất của chúng tôi. Selbstmord - cái chết tự thân: đó là một lời giã biệt trong danh dự với thế giới này”. Hai người uống hết chai và Lysander về phòng, cảm nhận rõ những ảnh hưởng của rượu. Anh nghĩ mình có thể bỏ bữa tối nay - có thể ra quán cà phê tiếp tục uống. Anh cảm thấy sôi nổi, vui vẻ khi nghĩ về Wolfram, tất nhiên rồi và chính anh cũng thấy vui khi cuối cùng cũng mở ra được chiếc quan tài quá khứ vốn đóng kín của mình. Nằm trên bàn là các thư từ của anh. Một lá của Blanche, một lá từ ngân hàng ở London và một lá dán tem của Áo với dòng chữ viết tay của ai đó mà anh không nhận ra. Anh xé phong bì. Đó là lời mời đến tham dự triển lãm Vernissage “tác phẩm đương đại” của nghệ sĩ Udo Hoff tại một galery nghệ thuật đương đại - Bosendorfer-Renz - ở trung tâm thành phố. Dòng chữ cuối cùng bằng mực xanh, cỡ chữ to là một câu mệnh lệnh: “Đến đi! Hettie Bull”. 11 Trạng thái Song song LYSANDER CHUYỂN CHỖ NGỒI TỪ ghế đến đi văng, theo gợi ý của Bensimon. Anh vẫn chưa hiểu sự di chuyển và thay đổi trạng thái thể xác này có tác dụng gì, nhưng Bensimon vẫn khăng khăng. Đầu tựa lên mấy cái gối nhưng Lysander vẫn có được tầm nhìn rất đẹp tới toàn bộ tấm phù điêu châu Phi. “Khi cha anh mất, mẹ anh bao nhiêu tuổi?” Bensimon hỏi “Ba mươi nhăm… Ba mươi sáu. Đúng rồi”. “Bà ấy vẫn còn trẻ đẹp”. “Tôi cho là vậy”. “Bà ấy đón nhận cái chết của cha anh như thế nào?” Lysander nghĩ lại, nhớ về cú sốc khủng khiếp của chính mình, nỗi đau khổ tuyệt vọng khi nghe thông báo. Thông qua những đám sương mù đen tối của hồi ức chất đầy, anh vẫn nhớ chuyện này đã làm mẹ anh khốn khổ thế nào, “Thực sự là rất đau khổ - không ngạc nhiên. Bà ngưỡng mộ cha tôi - bà sống vì ông ấy. Bà đã hi sinh cả sự nghiệp của mình khi họ cưới nhau. Bà đi khắp mọi nơi cùng ông. Khi tôi ra đời tôi cũng đi cùng họ. Ông biết đấy, cha tôi có một công ty nhà hát riêng, tách biệt với công việc của ông tại các nhà hát ở London. Bà giúp ông điều hành và quản lý công ty đó ngày này qua ngày khác. Chúng tôi đi lưu diễn không ngừng ở Anh, Scotland và Ai Len. Chúng tôi sống trong những ngôi nhà, căn hộ cho thuê - chẳng bao giờ có được nơi cố định. Khi cha mất chúng tôi đang sống trong một căn hộ tại South Kensington. Dù rất danh tiếng và thành công, nhưng khi mất cha tôi gần như phá sản - ông đổ hết tiền bạc của mình vào công ty nhà hát Halifax Rief. Phần để lại cho mẹ tôi rất ít. Thậm chí chúng tôi đã phải chuyển đến sống ở các nhà trọ Paddington. Hai phòng, một lò sưởi, dùng chung bếp và phòng tắm với hai gia đình khác”. Lysander có thể nhớ lại những căn phòng ấy một cách rõ ràng. Những ô cửa sổ cáu bụi, bẩn thỉu, vải dầu trải sàn mòn, chắp vá. Mùi nhọ nồi từ nhà ga gần đó, tiếng la hét và huýt còi từ nơi nối các toa xe chở hàng, tiếng va chạm của kim loại và tiếng ầm ầm của các toa xe trần và tiếng nức nở lặng lẽ của mẹ anh, suốt ngày đêm. Rồi bằng cách nào đó bà gặp gỡ Crickmay Faulkner và mọi thứ thay đổi. Lysander suy nghĩ trước khi nói thêm: “Trong một thời gian bà có uống rượu, một chút thôi. Rất bí mật - nhưng mấy tháng sau đám tang bà uống rất nhiều. Trông bà lúc nào cũng chỉnh tề nhưng mỗi khi bà lên giường, tôi có thể ngửi thấy mùi rượu”. “Lên giường à?” “Chúng tôi có một phòng khách và một phòng ngủ trong các căn nhà trọ ấy”, Lysander đáp, “Mẹ con tôi ngủ chung giường. Cho đến khi ngài Faulkner cầu hôn bà, ông cho dựng một ngôi nhà lớn hơn tại Putney và tôi có một phòng riêng”. “Tôi hiểu. Mẹ anh gặp gỡ cha anh như thế nào? Ông ấy có đến Vienna không?” “Không. Mẹ tôi hát trong dàn đồng ca của một công ty opera của Đức đi lưu diễn. Họ đang đi lưu diễn tại Anh và Scotland vào năm 1884. Bà có - có một giọng nữ trung rất hay. Tại Glasgow, bà và công ty nhà hát Halifax Rief cùng diễn tại nhà hát King’s. Bà diễn vở Trista, còn cha tôi diễn Macbeth. Họ gặp nhau sau cánh gà. Yêu nhau ngay từ cái nhìn thứ hai, cha tôi thường nói thế”. “Tại sao lại là cái nhìn thứ hai?” “Vì ông bảo ở cái nhìn đầu tiên những suy nghĩ của ông không hề “si tình” chút nào. Nếu ông hiểu ý tôi”. “Tôi hiểu, tôi hiểu. “Yêu từ cái nhìn thứ hai”, một nhận xét thú vị”. “Sao ông lại hỏi những câu hỏi về mẹ tôi nhiều thế, bác sĩ Bensimon? Tôi không phải là Oedipus*, ông biết mà”. “Xa lánh thiên đường tôi chắc chắn là anh không phải thế. Nhưng tôi nghĩ những gì anh đã kể - những gì lần trước anh đã đọc cho tôi nghe - chính là chìa khóa cho sự phục hồi cuối cùng của anh. Tôi chỉ đang cố gắng hiểu thêm nhiều bối cảnh nữa về anh và cuộc đời anh”. Lysander nghe thấy tiếng ghế xê dịch. Buổi gặp đã kết thúc. “Anh có nhớ lần tôi hỏi anh về Trạng thái Song song không?” Bensimon đi ngang phòng đến đúng chỗ anh có thể nhìn thấy. Ông chìa tay che khuất tầm nhìn của anh. Lysander đặt chân xuống sàn, đứng dậy và được trao một quyển sách nhỏ hơn nhiều so với một cuốn sách tuyên truyền. Anh nhận lấy. Bìa màu xanh hải quân với những dòng bằng bạc. Giới thiệu về Những Cuộc sống Song song của Tiến sĩ, Cử nhân Y khoa, Cử nhân Khoa học J. Bensimon (Oxfordshire). “Tôi in cuốn này để dùng riêng. Hiện tôi đang viết một bản dài hơn. Kiệt tác vĩ đại của tôi. E là sẽ ngốn khá thời gian đấy”. Lysander lật đi lật lại cuốn sách trong tay. “Tóm tắt cho tôi ý chính được không?” “À một chút thử thách ấy mà. Hãy cùng nói rằng thế giới về cơ bản là trung lập - phẳng lì, trống rỗng, mất hết ý nghĩa và tầm quan trọng. Chính là chúng ta, những tưởng tượng của chúng ta sẽ khiến thế giới này trở nên sống động, rực rỡ đầy màu sắc, có cảm xúc, mục đích và tình cảm. Một khi hiểu được điều này chúng ta có thể định hình thế giới của mình theo bất kì cách nào chúng ta muốn. Về lý thuyết là thế”. “Nghe rất cực đoan”. “Ngược lại rất hợp tình hợp lí một khi anh nắm vững nó. Hãy đọc đi và xem anh nghĩ gì”. Ông nhìn Lysander, dò xét. “Tôi rất ngại phải nói rằng rất hiếm khi có bước nhảy vọt như thế này, nhưng tôi có cảm giác rằng Trạng thái Song song sẽ chữa được cho anh, Rief ạ, tôi thật sự cảm thấy thế”. 12 Andromeda LYSANDER CẢM THẤY KHÓ CHỊU VÀ hoang mang một cách lạ lùng về bản thân anh khi đến ngày diễn ra triển lãm Vernissage của Udo Hoff. Anh ngủ không ngon và ngay cả khi cạo râu sáng hôm đó, anh vẫn cảm thấy kì dị và bồn chồn - sự căng thẳng thường thấy khi sắp đi dự triển lãm, và lần này, sắp được gặp lại Hettie Bul. Anh nhúng cây cọ nhỏ vào chén kem cạo râu và bắt đầu bôi kem lên hai má, cằm và xung quanh miệng. Khi mím môi và đưa dao cạo xuống dưới mũi, anh lại tự hỏi mình có nên để ria mép không. Không, cứ bình thường mà đến thôi, câu trả lời đến ngay lập tức. Anh đã từng thử một lần nhưng thấy không hợp; anh nghĩ nó khiến anh cảm thấy bẩn thỉu, như thể anh đã quên lau sạch đi một vết súp đuôi bò ở môi trên. Màu tóc nâu của anh lẽ ra phải là màu của ria mép mới đúng: Mày cần một sự tương phản nổi bật, anh nghĩ. Nó sẽ biện minh cho hàng ria mép trên khuôn mặt non choẹt này như thằng cha Munro ở đại sứ quán ấy, đen và gọn, như thể lão dán nó vào mép vậy. Anh ăn diện có chừng mực, lựa chọn một bộ đồ nhẹ nhàng màu xanh hải quân, giày chuyên leo núi màu đen và một chiếc sơ mi trắng cổ cứng đi kèm với một cà vạt màu tím, có chấm tròn, thắt nhanh trong bốn bước. Thêm mấy mảng màu táo bạo để chứng tỏ tính nghệ sĩ trong anh. Cha anh hẳn sẽ không hài lòng - bản thân ông là người ăn mặc rất bảnh bao và đặc biệt, Halifax Rief luôn cho rằng năm phút là khoảng thời gian cần có để ai đó nhận ra phong cách của bạn, sự tỉ mỉ của bạn, và họ phải hiểu rằng điều ấy ẩn đằng sau lớp trang phục của một người đàn ông. Bất kì sự phô trương nào cũng đều trở nên khiếm nhã. Lysander quyết định đến thăm Bảo tàng Lịch sử Nghệ thuật Vienna trên đường Burgring. Anh hiểu đó là một thử nghiệm hoàn toàn vô ích, nhưng nhờ đó, anh có thể tưởng tượng mình đang ở triển lãm của Hoff, một căn phòng đầy người, tất cả đều là chuyên gia bảo thủ về nghệ thuật, cổ điển lẫn hiện đại. Anh có thể nói gì với những con người trí thức, những nhà phê bình nghệ thuật, những nhà sưu tập và các chuyên gia ấy? Một lần nữa anh lại nhận thức được những lỗ hổng lớn trong phông văn hóa chung của mình. Anh có thể trích dẫn các trang thơ của Shakespeare, Marlowe, Sheridan, Ibsen, Shaw - hay ít nhất là những trích đoạn trong tác phẩm của các nhà soạn kịch anh đã học thuộc lòng trong sự nghiệp của mình. Anh đã đọc rất nhiều thơ ca thế kỉ XIX - những bài thơ anh yêu thích - nhưng anh biết rất ít về những gì được ca tụng là những người tiên phong”. Anh mua báo chí cập nhật các sự kiện trên thế giới, các hoạt động chính trị ở châu Âu chỉ ở chừng mực nhất định. Và anh nhận ra rằng ngay từ ấn tượng đầu tiên, anh đã là đại diện cho một hình mẫu cực kì hợp lí của một người đàn ông khôn ngoan, uyên bác và có giáo dục - nhưng anh cũng hiểu lớp ngụy trang này mỏng manh đến thế nào khi chạm trán với những người có trí tuệ thực sự. Mày là một diễn viên, anh tự rủa mình, thế nên hãy diễn cho thông minh vào! Anh nghĩ còn khối thời gian để trau dồi kiến thức, anh không phải là thằng ngu, có rất nhiều chất xám có sẵn ở ngoài kia. Trình độ học vấn thấp không phải lỗi của anh khi phải chuyển hết trường này sang trường khác. Quãng đời trưởng thành anh đã tập trung vào sự nghiệp ca hát - những buổi thử giọng, diễn tập, những vai nhỏ ngày càng chiếm phần quan trọng hơn. Chỉ trong vở cuối cùng, Bức Tối Hậu thư Si Tình, anh mới có thể được chính thức thừa nhận là một diễn viên chính - dù là thứ chính đi chăng nữa - tên anh cũng xuất hiện với cỡ chữ to không kém so với tên bà Cicely Brightwell trên áp phích quảng cáo. Một dấu ấn không thể tốt hơn cho thấy anh đã tiến xa đến đâu chỉ trong một vài năm, Cha anh hằn phải rất tự hào về anh. Trong bảo tàng, anh thả bước qua các phòng trưng bày tranh lớn trên tầng một, nhìn những hình ảnh tối tăm, u ám được quét sơn dầu của các vị Thánh và Đức mẹ Đồng trinh, những vị thần tưởng tượng và những bức vẽ Chúa bị đóng đinh trên thập tự sầu muộn. Anh bước lại gần, đọc tên người nghệ sĩ phía dưới khung tranh, Cố gắng ghi nhớ. Caravaggio, Titian, Bonifazio, Tintoretto, Tiepolo. Đương nhiên anh biết những cái tên này và bây giờ anh có thể nói, “Ông có biết bức tranh Thần Vệ nữ và Adonis của Bordone không? Cả ngày hôm nay tôi chỉ nhìn chằm chằm vào nó - ồ vâng thật kì quặc - trong Bảo tàng Lịch sử Nghệ thuật này. Thật tuyệt vời, rất xúc động”. Anh bắt đầu thư giãn một chút. Rốt cuộc đó chỉ là một màn diễn, và đó là nghề của anh, biệt tài của anh, xu hướng của anh. Anh tiếp tục thả bộ. Bây giờ tất cả các họa sĩ đều là người Hà Lan - Rembrandt, Franz Hals, Hobbema và Memling. Và đây là gì? Vụ Tấn công của những Tên trộm của Philip Wouverman. Tăm tối và mạnh mẽ, đám kẻ cướp da ngăm đen có trang bị những thanh đoản kiếm bạc và những mũi kích sắc nhọn. “Ông có biết tác phẩm của Wouverman không? Rất đáng kinh ngạc”. Các nghệ sĩ Đức đâu rồi nhỉ? À, họ đây rồi - Cranach, D’Pfenning Albrecht Durer… - Nhưng những cái tên bắt đầu nhảy múa lung tung và biến dạng trong đầu khiến anh cảm thấy một cơn mệt mỏi bất thần ào đến tấn công mình. Quá nhiều thứ nghệ thuật - phát ốm vì bảo tàng. Đã đến lúc hút thuốc và uống cà phê Capuchino. Trong đầu anh đã có đủ những cái tên để đứng vững trong bất kì cuộc nói chuyện phiếm thoáng qua nào - không giống như kiểu anh sắp được phỏng vấn xin việc làm quản lí bảo tàng, vì Chúa. Anh thấy một quầy cà phê gần đường vành đai, ngả người tựa vào quẩy, hút một điếu Virgina và nhấp ngụm cà phê. Đúng là một đại lộ tuyệt vời, anh nghĩ - chẳng có đại lộ nào như thế ở London, Con phố mua sắm là đối thủ duy nhất nhưng so ra vẫn không bằng - những con đường lượn tròn dành cho xe chạy bao quanh thành phố cổ, sự quy hoạch thận trọng giữa các tòa nhà lớn và các cung điện, những công viên và các khu vườn. Rất đẹp. Anh nhìn đồng hồ đeo tay - vẫn còn hơn một tiếng nữa mới đến giờ có thể hợp lí tiến vào galery. Anh tự hỏi Udo Hoff trông sẽ thế nào. Anh hình dung chắc hắn phải rất tự phụ, giống hệt kiểu người có thể mê hoặc và gây ấn tượng như Hettie Bull. Anh đi thong dong dọc đường vành đai về phía con tháp Rathaus cheo leo. Khi đến gần anh có thể nghe thấy giọng rất to đang quát tháo, đến gần hơn, anh thấy một đám đông vài trăm người đang tụ tập tại một công viên nhỏ trước mặt tòa thị chính thành phố. Một sân khấu bằng gỗ đã được dựng lên, cao khoảng hai mét, trên đó có người đàn ông đang phát biểu ầm ĩ qua một chiếc loa. Những chiếc ô tô và xe ngựa chở khách lao nhanh khi ánh ngày dần tàn. Cuộc tháo chạy về nhà tránh tối bắt đầu. Các du khách trên các cỗ xe ngựa kéo chạy lọc cọc dọc mép vỉa hè trông như những dấu tích của một thời đại khác, Xe đạp ở khắp mọi nơi, chạy ngoằn ngoèo xuyên qua làn giao thông. Lysander băng qua đại lộ đến tháp Rathaus, thận trọng quan sát những chiếc xe đang đến gần và hòa vào đám đông đang thì thào. Có vẻ tất cả bọn họ đều là dân lao động, và bị ép phải gấp rút đến dự cuộc họp này nên vẫn ăn mặc quần áo lao động đặc trưng. Các thợ mộc mặc đồ vải thô với những chiếc búa giắt lưng, thợ nề mặc tạp dề da, thợ may mặc đồ bảo hộ lao động áo liền quần, tài xế đeo bao tay dài và áo khoác chéo, công nhân lâm trường mang theo những chiếc cưa dài hai cán. Thậm chí có cả một nhóm mười hai người thợ mỏ, muội than đen sì, hàm răng họ vàng ệch trên những khuôn mặt nhọ, lòng trắng trong đôi mắt trông thật ảm đạm và buồn phiền. Lysander đến gần hơn, tò mò, bị mê hoặc một cách lạ lùng bởi những khuôn mặt và bàn tay đen đúa ấy. Anh nhận ra đây là lần đầu tiên anh nhìn tận mặt những người thợ mỏ gần đến vậy, trái ngược hẳn với những hình ảnh của họ trên các tờ báo và tạp chí. Họ tập trung chú ý vào người đang quát tháo về công việc và tiền lương, về chuyện lao động người Slavơ nhập cư đang xén bớt những khoản thu nhập chính đáng của lao động người Áo. Những tiếng reo hò và vỗ tay vang dội khi bài diễn văn ngày càng mang tính kích động hơn, Một người đàn ông đâm sầm vào anh rồi xin lỗi, rất lịch sự, nếu không muốn nói là nồng nhiệt. Lysander quay lại: “Không sao mà”, anh đáp. Người này còn trẻ, tuổi chớm hai mươi, đội chiếc mũ phớt xám, không có dải ruy băng, mái tóc đen dài phủ xuống cổ áo - chòm râu không cạo loang lổ. Thật lạ kì vì thời tiết thì đẹp nhưng anh ta lại đang mặc một chiếc áo khoác ngắn bằng cao su màu vàng dành cho người đi xe đạp. Lysander nhận thấy anh ta không mặc áo sơ mi trong áo khoác - một kẻ lang thang điên rồ - cái mùi khó chịu của sự nghèo đói phả ra từ người anh ta. Những tiếng reo hò inh tai lại rộ lên từ đám đông tán thưởng trước vài câu nói hóm hỉnh của người diễn thuyết. “Họ chẳng hiểu gì cả đâu”, áo khoác đi xe đạp hăng hái nói với Lysander. “Những lời nói trống rỗng, không khí sôi sùng sục”. “Những nhà chính trị”, Lysander đáp, mở to mắt tỏ vẻ đồng cảm, “thế cả thôi mà. Những từ ngữ rẻ tiền”. Anh đang bắt đầu để ý thấy những cái liếc mắt về phía mình. Cái thằng cha đeo cà vạt chấm tròn đang nói chuyện với thằng điên kia là ai thế nhỉ? Đến lúc đi rồi. Anh bước ra khỏi đám thợ mỏ - những con tinh tinh da đen đi lên từ thế giới ngầm đang nhìn ngắm thành phố hiện đại. Bất đồ Lysander cảm thấy ý tưởng về một bài thơ lớn dần lên trong đầu. Galery Bosendorfer-Renz nằm bên phải đường Graben. Lysander ban đầu còn ngập ngừng đứng cách đó vài mét, theo dõi những vị khách đi vào - anh cần những người khác đi cùng để cảm thấy an toàn. Anh đến gần cửa, thư mời cầm tay, nhưng dường như chẳng có ai buồn kiểm tra danh tính các khách mời nên anh bỏ thư vào túi áo, theo sau cặp vợ chồng già đi vào một nơi giống một cửa hàng đồ cổ hơn là một galery nghệ thuật. Trong căn phòng đầu tiên là hai chiếc ghế chạm khảm và một bức tranh tĩnh vật Hà Lan đặt trên một giá vẽ (mấy quả táo, nho và đào với một con ruồi thận trọng đậu trên đó trông thật quen thuộc). Ở phía sau căn phòng là một hành lang - những ánh đèn sáng rực bắt mắt và những tiếng thì thào đang dần to hơn. Lysander hít một hơi thật sâu và đi thẳng vào trong. Đó là một căn phòng rộng trần cao như một nhà kho được sửa sang và thắp sáng bằng ba ngọn chúc đài treo. Những đoạn vách ngăn dài bằng gỗ lắp trên các bánh xe nhỏ ngăn cách không gian. Rất nhộn nhịp, khoảng bốn mươi đến năm mươi người đã đến, thấy thế Lysander lấy làm mừng anh có thể thả lỏng toàn thân. Những bức vẽ sơn dầu của Hoff ở tít trên các móc treo; đây đó có những bức điêu khắc nhở và các mô hình nằm trên những cột chân tường cao đến ngực. Anh quyết định đi quanh phòng thật nhanh xem các bức họa, nói lời chào với cô Bull, chúc mừng Hoff và biến vào bóng đêm, xong nghĩa vụ. Mới nhìn qua, tác phẩm của Hoff có vẻ như tuân theo quy ước và không có ngoại lệ - những phong cảnh, cảnh quan thành phố, một hai tấm chân dung. Nhưng xem xét kĩ hơn, Lysander để ý thấy những hiệu ứng ánh sáng lạ lùng và tinh tế. Một cảnh đồng cỏ với khu rừng xa xa có vẻ như đang tắm trong chùm những ánh sáng hình cung mạnh mẽ. Những bóng phủ một màu đen dày đặc, phân chia giới hạn rõ rệt, biến toàn bộ khung cảnh tầm thường này thành một cái gì đó đe dọa như trong sách Khải huyền. Nó khiến bạn phải tự hỏi cái ánh sáng rực rỡ nào trên bầu trời kia đã gây ra thứ ánh ngũ sắc đầy đe dọa như thế. Một mặt trời Sahara chiếu sáng trên thung lũng miền Bắc Âu. Có một cảnh mặt trời lặn trong kì dị và khủng khiếp đến mức như thể chính bầu trời đang mắc bệnh và rữa nát. Trong một bức về quang cảnh thành phố - Ngôi làng trong Tuyết - Lysander chợt nhận ra hai ngôi nhà không có cửa ra vào, không có cửa sổ, và nhà thờ làng có một chữ ”O” tròn trên gác chuông thay cho dấu thánh giá. Những bí mật gì bị che giấu ở trong ngôi làng bình thường này thế nhỉ? Khi đi quanh phòng chiêm ngưỡng những khác thường độc đáo này, Lysander thấy rằng anh đang ngày càng ấn tượng với những hình ảnh xiên lệch, âu lo của Hoff. Bức tranh lớn nhất là một chân dung khổ lớn của một người phụ nữ trang điểm đậm, mặc áo dài thêu, ngồi trên một cái ghế - Chân dung GustlCantor xứ Canstro nhưng phải nhìn đến lần thứ hai mới thấy được chiếc áo dài trong lòng bà ta không cài cúc, để lộ ra xương mu. Đầu nhọn của mái tóc đen có vẻ như là một phần của mô típ diềm trang trí trên chiếc áo dài thêu đẹp lộng lẫy. Khi ngắm kí bức tranh này, Lysander cảm thấy ớn lạnh thực sự vì sốc khi nhận ra mình đang nhìn cái gì. Ánh mắt chằm chằm thẳng thừng của người đàn bà có khuôn mặt khô khan này như chỉ tập trung trực tiếp vào anh, biến anh hoặc trở thành kẻ đồng lõa với hành động phô trương tình dục của bà ta - bà cởi nút áo chỉ vì anh - hoặc giả anh là một kẻ nhìn trộm bị bắt quả tang. Anh quay đi và thấy một bồi bàn đang đi quanh, bưng khay đựng mấy cốc rượu. Lysander tự lấy một cốc - là rượu Riesling hơi nặng. Anh đi tránh sang một góc phòng để theo dõi đám đông phần lớn mọi người mải nói chuyện hơn là ngắm những tác phẩm hội họa của Udo Hoff. Anh tự hỏi ai là Hoff. Bạn có thể nhận ra các nghệ sĩ - một người đầu nhẵn thín, một người không mang cà vạt, một người có râu mặc chiếc áo khoác văng đầy sơn như thế vừa bước ra từ studio. Thật vô lí khi tự để lộ mình một cách rõ ràng đến thế, Lysander nghĩ - không xuất sắc. Tuy nhiên anh không thấy bóng dáng Hettie Bull đâu cả. Anh đặt chiếc cốc không lên bàn và dừng bước, liếc nhìn vào thứ đang treo trên những bức vách ngăn di động. Anh giật mình đứng lại, gần như thấy tức cười trước những gì anh được thấy tiếp theo. Khi rẽ vào một góc phòng để tìm hiểu cái gì ở mặt kia vách ngăn chứa đầy các họa tiết chai lọ, bình cỡ nhỏ, viền khung, anh thấy mình đứng trước một bức biếm họa, thiết kế nguyên bản - tấm áp phích của một nhà hát, Chính là nó - một người phụ nữ bán khỏa thân hai tay ôm ngực khi một con quái vật hình rồng có khuôn mặt ác độc đang chồm lên, như một con lươn có vảy như vảy cá, đe dọa cô ta - một con mắt màu cam sáng rực và một cái lưỡi chẻ """