🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến trường K
Ebooks
Nhóm Zalo
Chiến trường K
Viết theo yêu cầu của các đồng đội, có một số nội dung đã đăng trên Quân sử.
https://www.quansuvn.net/index.php/topic, 24518.0.html
Viết theo yêu cầu của các đồng đội trung đoàn 866, F31 để mọi người nhớ lại thời hoa lửa, nhưng tôi chỉ nhớ được những gì mình trải qua, mong mọi người bổ sung.
Chuẩn bị vào Nam
Tháng 7/1977 D8 gồm C10 (C2 cũ) và C17 cối 120 lúc này trực thuộc Bộ tư lệnh sư đoàn đang làm gạch tại Xí nghiệp 22/12 ở xã Hưng Chính, huyện Hưng Nguyên được lệnh hành quân lên Khe Tỳ, Mường Xén (Kỳ Sơn, Nghệ An) để xây dựng doanh trại cho trạm 50. T50 của sư đoàn là nơi nghỉ ngơi bố trí xe cộ đưa đón cán bộ chiến sỹ vào ra mặt trận Cánh đồng Chum (Lào). Mặc dù ta đã rút quân hết về nước từ 6/1976 nhưng vẫn được duy trì. Trạm do chuẩn úy chuyên nghiệp Quốc Xủng bộ đội chống Pháp làm trạm trưởng. Ông Xủng hàm chuẩn úy nhưng cỡ thượng đại úy qua đây phải gọi ông là thủ trưởng thì mới được xếp xe về xuôi sớm nhất.
Lúc đầu đơn vị đi chặt gỗ, độ nửa tháng sau tập trung học nghị quyết đại hội 4. Học nghị quyết xong, việc chặt gỗ làm nhà được dừng lại để tập trung xẻ gỗ làm phản nằm cho bộ đội. Kiểm lâm vào kiểm tra gỗ đòi phạt, lính ta cãi nhau dọa đánh họ mới rút. Lên đây được ăn gạo 100% do nhận ở kho dự trữ chiến đấu của sư đoàn, măng rừng nhiều vô kể, lính đào về cho vào bao tải ném xuống suối vài ngày sau là có măng chua xào thịt lợn, ăn uống đầy đủ lính trở nên béo tốt chứ không như hồi ở Hưng Nguyên.
Quãng tháng 9 anh Hải chính trị viên đại đội gọi tôi lên bảo: đơn vị cho cậu về nhà 5 ngày lấy bằng tốt nghiệp cấp 3 làm hồ sơ để đi học trung cấp xây dựng.
Tôi và các bạn cùng lớp 10 nhập ngũ tháng hai năm 1975 nên mặc dù còn thiếu 3 tháng nữa mới kết thúc năm học nhưng chúng tôi vẫn được công nhận tốt nghiệp cấp 3 đặc cách. Học kỳ hai là giai đoạn đã bắt tay vào ôn thi tốt nghiệp và làm hồ sơ thi Đại học nên về mặt kiến thức coi như đã học hết chương trình. Tôi vẫn nhớ rất rõ nguyện vọng khi đó là thi vào đại học Bách khoa.
Về nhà khi nói việc được cử đi học cha mẹ tôi bàn không nên học trung cấp vì sau khi ra công tác 3 năm nữa mới được thi vào chuyên tu đại học, như vậy mất khoảng 9-10 năm mới có bằng Đại học. Tốt nhất ở lại thêm hai năm cho hết nghĩa vụ rồi về ôn thi đại học, mất thêm khoảng 4-5 năm học nữa là ra công tác yên ổn. Thấy hợp lý tôi bảo bé hàng xóm tìm cho bộ sách tự nhiên lớp 10 (Sau này hắn ta cứ chen vào kể công mỗi khi tôi giáo huấn cho con tôi về sự quyết tâm trong học hành).
Mang chiếc bằng tốt nghiệp lớp 10 đặc cách NVQS to bằng hai trang vở lên đơn vị tôi trình bày nguyện vọng nếu được ôn thi đại học thì đi còn không đi học trung cấp. Anh Hải nghe vậy cũng nhất trí cho ở lại.
Cuối tháng 9/1977 C10 và C17 hành quân về Môn Sơn, Con Cuông cùng với D18 huấn luyện hạ sỹ quan của sư đoàn hợp thành trung đoàn mới mang phiên hiệu 922 (E922). Lúc này D42 pháo binh và D thông tin hợp thành E977. Còn trung đoàn 866 bao gồm các C trực thuộc cũ và D7 vẫn ở xã Long Sơn, Anh Sơn, D bộ D8 và C12 ở Diễn Kỷ, Diễn Châu.
Chúng tôi được quán triệt sẽ đi vào Đồng bằng sông Cửu Long làm ruộng để thực hiện chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực của Đại hội 4. Anh Hải còn nói vào đó đồng hoang bát ngát đi mấy ngày không hết, có chỗ phải ngồi trên lưng voi mới đi qua được vùng lau lách, lúa chỉ vãi giống xuống là chờ thu hoạch không phải chăm sóc, cá bơi đặc nước dân không thèm ăn. Lính nghe há mồm còn tôi không tin là có voi ở khu vực đó.
Đơn vị vào sâu thượng nguồn sông Giăng chặt gỗ để đóng bè xuôi cảng Bến Thủy cho tàu Hải quân kéo vào Nam. Bây giờ nghĩ lại không hiểu ai có ý tưởng đó, chặt mấy cây gỗ tạp rồi đóng bè, dùng tàu kéo hơn 1000km đường biển chỉ để làm lán trại trong khi đó vùng Hòn Đất, Bảy Núi rừng tràm bạt ngàn - một ý tưởng chỉ nảy sinh trong thời bao cấp.
Ở cùng đồng bào được nghe các cụ già kể chuyện họ là dân Kinh ở huyện Thanh Chương hơn 100 năm trước bị quan quân rượt đuổi chạy lên đây sinh sống lâu ngày thành người dân tộc (Bây giờ mới biết là họ thuộc tộc Đan Lai). Dân khổ hết chỗ nói, nhà nào có người đi chặt gỗ cho lâm trường thì thi thoảng có gạo, còn lại phải vào rừng đào củ ăn qua ngày. Lính ta đi rừng mệt, đói nhưng đến bữa vẫn san sẻ cơm cho gia đình mình ở và những đứa trẻ nhà bên. Buổi chiều lính thường ngồi trên nhà sàn nhìn xuống đoạn sông trước bản xem con gái tắm. Thằng Hải liên lạc còn mang ống nhòm ra nhìn. Nghe lính nói ống nhòm nhìn xuyên được màn đêm, nhìn xuyên cả nước nên gái bản không tắm ở bến nước nữa mà đi xa hơn khuất trong rừng.
Đơn vị củng cố tổ chức, tôi bàn giao việc quản lý bếp ăn cho thằng Anh để làm tiểu đội trưởng. Các anh nhập ngũ 5/72 về trước lúc này đã có 5 năm tuổi quân được phục viên hết, chỉ còn số cán bộ tiểu đội là Đảng viên ở lại gồm anh Mùi lính 5/72 Hà Bắc, anh Hồng lính 8/71 Hà Tây (cả hai anh sau đều sang E922 làm C trưởng và hy sinh) anh Lên và anh Long lính 5/72 Yên Bái được đi phép nhưng đào ngũ luôn, anh Chi lính 5/72 Thanh Hóa vào chiến đấu lên C phó C5 rồi đau đi viện ra quân.
Hành quân vào Nam (tiếp).
thiếu phần 2
…Cơm đã được số đến trước lấy sẵn, chúng tôi chỉ việc ăn rồi lăn ra dãy phản kê thấp. Đang chập chờn thì còi báo thức, trực ban đôn đốc các tiểu đội lấy cơm ăn để hành quân tiếp. Hai bữa ăn chính gần nhau khoảng chưa đầy hai tiếng nhưng sức trẻ vẫn giải quyết nhanh gọn triệt để. Chúng tôi chuyển sang đoàn xe ca dân sự của hãng Phi Long chạy dầu đi tiếp khi trời vừa hửng sáng.
Mất ngủ nhưng khi xe qua thị xã Tam Kỳ cả xe vẫn háo hức khi nhìn những đoàn nữ sinh thướt tha trong tà áo dài trắng ôm cặp đến trường, điều mà ở miền Bắc chưa hề thấy.
Càng vào trong làng mạc nhìn có vẻ trù phú hơn phía ngoài, dừa được trồng thành rừng trải dài hai bên. Đến Tam Quan, lái xe tấp vào nghỉ trưa, chúng tôi vào mấy quán ven đường mua thuốc lá. Thằng Hiển (Hương Sơn) đứng xem khách ăn cơm rồi chạy ra nhận xét “trong này thật lạ, ăn cơm chỉ mua thức ăn, còn cơm thoải mái gọi ăn bao nhiêu cũng được.” Tôi giải thích: vì trong này gạo rẻ… Cho đến bây giờ tôi không nhớ chặng này trở vào lính ăn trưa bằng gì.
Chúng tôi đến Quy Nhơn sớm, chỗ nghỉ cũng là một trại lính nguyên vẹn hàng chục lớp rào dây thép gai sáng loáng, phía sau là một ngọn núi, đêm đến có đèn tín hiệu nhấp nháy. Gần nhà nghỉ có một lối mòn nhỏ xuyên qua hàng rào ra đường quốc lộ. Ngoài đường đã có hàng chục chị em tay xách nách mang hỏi mua đồ của bộ đội, lính đem đủ thứ ra bán, tôi đem hai hộp sữa Ông Thọ bán được 6 đồng (giá mậu dịch 3,2 đồng). Tối đến tiểu đội tôi phải gác vì như chỉ huy quán triệt: trong này vẫn còn tàn quân nhiều, nhận lệnh phải chấp hành nhưng nhìn lớp hàng rào trùng điệp tôi nghĩ: ngoài lối mòn đố thằng nào chui vào được mà lo cho ốm người.
Ngày 16/11 Đoàn xe Phi Long tiếp tục chở chúng tôi đến sân bay Thành Sơn, Phan Rang, được ngủ trong các nhà vòm thấp nóng.
Ngày 17/11, đến Hố Nai, ở đây được nghỉ một ngày để chờ xe, giống như ở Quy Nhơn dân vẫn bám bộ đội để mua bán hàng linh tinh. Năm 1979 trở ra Bắc chúng tôi cũng nghỉ tại đây, ở đó ra ga Sóng Thần rất gần.
Từ Đà Nẵng trở vào lắm cầu cống, ở hai đầu cầu nào cũng có lính gác lăm lăm súng, nếu cầu dài còn thêm bốt gác ở giữa. Khu quân sự càng vào Sài Gòn càng nhiều, khu nào cũng dăng dăng dây thép gai sáng loáng đủ dạng, nhiều tầng nhiều lớp dày hàng chục mét nhìn nhức mắt. Bốn phía có lính đứng gác trên các tháp canh cao lêu đêu.
Ngày 19/11/1977 đoàn xe đò khác đến chở, lái phụ xe giúp chúng tôi chất ba lô lên nóc rồi phủ ni lon chằng buộc chu đáo. Xe chạy trên xa lộ Biên Hòa, hồi ở nhà tôi nghe đài ta hay nói nó không phải là đường ô tô mà là đường băng dã chiến khi được phá giải ngăn cách ở giữa, nay tận mắt thấy xa lộ rộng nhưng lắm dốc tôi hiểu đài cũng nói mò. Trố mắt nhìn con đường thấy quá hiện đại nhưng giờ thì nó cũng chỉ tương đương đường tỉnh lộ hay đường trục chính của các thị trấn huyện lỵ.
Đoàn xe rẽ qua Thủ Đức rồi Hóc Môn, 18 thôn vườn trầu vẫn còn xanh mướt ngút mắt. Qua Hóc Môn một quãng tôi ngạc nhiên thấy những núi rác khổng lồ hôi thối, nhiều người dân lầm lỳ cầm chĩa bới bới chọc chọc, không hiểu họ tìm gì? Núi rác và người bới rác ở miền Bắc tôi chưa thấy, chưa nghe ai kể.
Xe chạy theo lộ 4, khi qua Mỹ Thuận lần đầu tiên tôi được thấy chiếc phà khổng lồ hai tầng có mái che chứa được cả chục chiếc ô tô to với hàng trăm bộ đội. Qua phà là khu chợ bán chim, chim trong lồng ríu rít, chim trên giá đã được vặt trụi lông, chim đã nướng vàng đặt trong tủ, trong thúng, đủ loại nhiều vô kể đúng là sản vật của “Đất rừng phương Nam”.
Khi qua Châu Đốc có cậu bé bán trái cây nhảy lên xe nói: “chỗ các ông sắp qua, hôm trước họ bắn sang mấy trái nổ, làm bị thương mấy người nên các ông cẩn thận”. Mọi người nhao lên hỏi lại: ai bắn? cậu bé trả lời: “bên kia bắn sang”…, rồi nhảy xuống. Tôi đoán là tàn quân ngụy nổ lựu đạn thôi chứ không hề nghĩ đến bọn Pốt.
Khoảng 4 giờ chiều chúng tồi đến địa điểm đóng quân, đó là một ngôi chùa ở xã An Tức huyện Bảy Núi tỉnh An Giang. Sau này lên mạng được bạn bè cho bản đồ biết đó là chùa Xoài Ta Hơn. Chùa có một nhà gỗ thấp làm nơi hành lễ và có một nhà sàn to nằm giữa khu vườn nhiều cây cổ thụ, xung quanh là những ngôi tháp nhỏ đựng tro cốt của dân gửi. Chúng tôi trải nilon dưới gầm sàn nằm nghỉ, ngước mắt nhìn lên xà đỡ của sàn tôi thấy một câu thơ của một người lính sư 9 VNCH viết bằng than, nét chữ chân phương đề tháng 3/1975:
“Hỡi thượng đế bao giờ con hết khổ.
Xin trả lời mai mốt đây thôi”.
Lính bên nào cũng khổ như nhau, anh lính VNCH có thể đã chết hoặc sau khi cải tạo anh đã trở về với gia đình. Nói gì thì nói có lẽ đời anh cũng hết khổ từ ngày 5/5/1975 là ngày quân khu 4 VNCH tan rã hoàn toàn. Còn tôi chỉ còn 2 năm nữa là đủ 5 năm nghĩa vụ đời sẽ hết khổ. Lúc đó tôi nghĩ vậy.
Tay dao tay súng
Nghỉ mấy ngày, Tiểu đoàn thành lập thêm C mới lấy phiên hiệu C18 (vì đã có C17) gồm một B của C17 và một B của C10. Thiếu úy Nông Đức Thống người dân tộc Tày, Yên Bái làm C trưởng. Anh Thống vốn là chuẩn úy B trưởng nhận tân binh bọn tôi trong đó có Sỹ Hồng, Nguyễn Công Bình đưa sang Lào. Năm 2015 điện thoại cho anh khi tôi giới thiệu tên anh “À” lên rồi bảo “anh vẫn nhớ hồi sang Lào em nhỏ nhất lại ốm nên ngồi cùng cabin với anh”. Chính trị viên là thiếu úy Trường quê Thanh Giang, Thanh Chương học sỹ quan chính trị ra mới 24 tuổi. Anh Trường chiến đấu cùng với tôi mãi đến khoảng tháng 4/1979 lên làm Dv phó, đi học. Khi đơn vị ra Bắc anh về cục chính trị quân đoàn. Sau nghỉ bệnh binh hàm Đại úy. Anh có thời kỳ buôn bán bị thua lỗ, nợ nần. Mấy năm gần đây làm thêm việc bảo vệ cho chi nhánh Ngân hàng ở chợ Phuống. Các con cũng trưởng thành nên cuộc sống cũng ổn định.
C phó là thượng sỹ Cường lính 8/71 quê Hà Tây nguyên là A trưởng cối 120.
C18 chia làm hai trung đội, tôi làm A trưởng ở B anh Tú quê Thanh Lâm, Thanh Chương. Tiểu đội tôi có 7 thằng gồm Trạm A phó quê Yên Thành C17 chuyển sang, Hiển, Tạo quê Hương Sơn (sau này Hiển hy sinh) Dụ, Hòa (Hoài Đức) Sao (Thường Tín), B kia do anh Mùi Hà Bắc làm B trưởng, được khoảng tháng sau anh Mùi lên làm C phó hàm vẫn trung sỹ, anh Hoan người xã Thanh Mai về thay, Sau này khoảng tháng 7/78 anh Mùi sang E922 làm C trưởng và hy sinh, anh Hoan cũng sang E922 làm C phó bị thương nặng phục viên.
Đại đội rời chùa vào một vườn xoài gần đó căng tăng trải nilon xuống đất ở. Một bữa thằng Trạm đang nằm sấp viết thư thì có một con rắn hổ mang to hơn cổ tay ở đâu đến bò lên lưng. Bọn tôi đang ngồi đánh bài tu lơ khơ thấy vậy rú lên, con rắn bò mất, Trạm hoảng sợ đến nỗi mấy đêm sau ngủ vẫn mớ. Được
mấy ngày thì có một gánh hàng nho nhỏ của một chị người Việt độ ngoài 30 đặt bên vệ đường trước vườn. Chỉ huy thông báo đó là vợ một sỹ quan VNCH đang đi cải tạo. Có hòm thư, chúng tôi viết thư nhờ chị ta đi lấy hàng ngoài thị trấn Tri Tôn gửi bưu điện hộ. Hơn nửa tháng sau không thấy chị ta bán hàng nữa. Anh Trường nói “thư của chúng mày gửi bị chị ta vứt hết dân nhặt được” hèn chi mãi không thấy thư gia đình gửi vào. Từ đó chúng tôi chỉ gửi thư theo đường quân bưu, chậm nhưng chắc.
Chúng tôi được giao nhiệm vụ vào dân xin tre về làm lán trại. Tre vùng này cây nhỏ và đặc chắc giống cây Mai cần ngoài Bắc. Đọc sách thấy nói đó là cây tầm vông. Không biết tiếng, chẳng dám đi đâu xa cả tiểu đoàn cứ tràn vào mấy phum ở gần gặp chủ nhà, xòe tay ra dấu xin rồi lại chỉ vào bụi tre. Dân vận bằng tay nhưng người dân vẫn hiểu. Mấy ngày đầu họ vui vẻ cho, nhưng lính xin nhiều quá họ không cho nữa. Mặc kệ lính cứ xông vào chặt. Dân chỉ biết đứng nhìn, nhiều người ôm mặt khóc. Lúc đầu không hiểu cho là dân ki bo nhưng một bữa đi chơi chợ Tri Tôn, thấy dân bán tre mua gạo tôi hiểu tre là nguồn sống của nhiều gia đình. Trở về nói chuyện với anh Thống C trưởng. Anh thở dài và nói: anh cũng biết thế và đã báo cáo lên D nhưng gỗ ngoài Bắc đưa vào thì chẳng thấy, trên không cấp tiền, không đi xin thì lấy gì làm lán ở. Khi chúng tôi dựng khung lán lên thì cả vùng đã bạc trắng màu lá tre khô. Oái oăm thay chúng tôi lại được giao làm thêm một bộ khung nhà đủ cho một C ở để đón bà con Thái Bình vào khai phá đồng hoang. Lính lại vào dân và chai mặt làm liều. Có thể nói là lính đi cướp tre chứ không phải đi xin. Khi gõ những dòng này tôi vẫn thấy áy náy.
Xã An Tức nằm chạy dài phía Tây núi Cô Tô thuộc huyện Bảy Núi nằm cách biên giới Việt Miên khoảng 10 km. Dân cư hầu hết là người dân tộc Khmer. Chúng tôi được phổ biến tàn quân VNCH còn nhiều, chúng chủ yếu sống trên núi Cô Tô, núi Dài, núi Cấm. Trong dân có Đảng Khmer Krom tích cực hoạt động (Đảng Khmer trắng bây giờ thành Đảng đối lập ở Cam điên
cuống chống Việt Nam). Dân thường xuyên tiếp tế cho tàn quân, chính quyền xã bị khống chế chỉ có Bí thư chi bộ là tin cậy nên lính không bao giờ dám đi một mình, đêm gác xách và đi tuần nghiêm lắm.
Con lộ đất rộng hai xe bò tránh nhau dân trồng thốt nốt hai bên chạy dọc xã. Cây thốt nốt giống cây cọ. Người dân buộc dọc thân thốt nốt nguyên cây tre có các tay ngang để trèo. Loại cây này cũng ra hoa, quả giống cọ, khi ra hoa cắt ngang cuống nước cây sẽ rỉ ra đó người ta hứng lấy về nấu thành đường. Mấy ngày đầu chúng tôi không biết mấy ống tre treo lủng lẳng trên cây để làm gì nhưng khi biết đó là ống đựng nước thốt nốt đêm đi tuần thanh vắng kiểu gì cũng hai thằng canh dưới một thằng trèo lên trút nước vào bi đông mang xuống. Nước thốt nốt hơi ngọt lên men nhẹ nhẹ gần giống bia nửa đêm mát lạnh uống tỉnh cả người, đi tuần vài lần là nghiện.
…Con lộ này chạy từ Tri Tôn vào vòng theo núi Cô Tô sang Long Xuyên. Ven lộ phía ngoài Tri Tôn có mấy nhà vệ sinh công cộng bằng bê tông. Kỳ lạ nhất là các ô ngồi chỉ được xây chắn đến ngang dưới ngực. Buổi sáng người đi vệ sinh đạp xe đến chờ nhau đứng ngồi lộn xộn. Mặc hôi thối người ngồi trong bất kể nam nữ vừa làm công việc dị hóa vừa thò mặt thản nhiên nói chuyện cười đùa với người đứng chờ bên ngoài. Sau này trao đổi với bạn trên mạng mới biết đây là một đặc điểm chung của miền Tây hồi đó.
Cùng với việc làm lán trại là phối hợp với địa phương truy quét tàn quân, cứ 2-3 ngày D lại tập trung súng đủ cho một B để lên núi đi càn. Do làm kinh tế nên súng chúng tôi chỉ trang bị 3 người một khẩu AK. Khi lên núi chỉ thấy những vườn cây ăn quả xanh tốt, có suối trong vắt chảy róc rách phong cảnh hữu tình, tất nhiên đi như vậy thì không thể nào thấy địch.
Bọn tôi có 5 thằng cùng nhập ngũ 2/75 chơi thân với nhau gồm thằng Việt người cùng xóm học sau tôi hai lớp (cùng lớp với hàng xóm). Thằng Tám học 10 B cùng khóa, thằng Trọng dân Quảng Nam tập kết ra ở xã Giang Sơn Đô Lương và thằng Thiêm người Yên Thành lớn tuổi nhất đã có vợ. Khi về Vinh làm gạch, tôi làm quản lý C10, chúng nó lao động vất vả hay mò xuống chỗ tôi xin gạo về ca cóng thêm, tôi cho chúng thỏa mái thế mà kiểm kho không thấy hao hụt gì cả. Khi lập thêm C18 thì Tám, Trọng, Thiêm vẫn ở lại C10.
Chỉ nửa tháng mà xảy ra nhiều chuyện. Đầu tiên là thằng Lan (Hương Sơn) bên D18 đi xin tre bị tàn quân phục bắn chết ở chân núi Tô. Cách đây mấy năm đồng đội đã đưa anh trai Lan vào An Tức tìm mộ nhưng không được. Mộ Lan đã được chuyển vào nghĩa trang liệt sỹ trở thành mộ “chưa biết tên”.
C17 lùng sục trên núi gặp du kích đang tập, thấy bộ đội họ dám xả súng bắn, may không ai việc gì. Anh Phiên C trưởng tức quá chạy khắp tiểu đoàn gom súng lại tổ chức cả C lên bao vây, bắn và hô xung phong. Mấy chục du kích quẳng súng giơ tay xin
hàng, anh cho trói lại dẫn về trung đoàn. Huyện đội nói họ nhầm thế là huề.
Tối ngày 27/11 có tin địch xuống núi, khuya A thằng Việt đi phục có cả anh Thống C trưởng đi cùng. Vừa ra khỏi chỗ trú quân được mấy trăm mét gặp du kích đi ngược, chưa kịp hỏi mật khẩu du kích đã nện liền mấy loạt AR15, sau đó họ lùi lại giã M79 may không dính ai. Nghe tiếng súng nổ gần, số ở nhà đang ngủ chỉ còn mấy khẩu AK nên nháo nhào tay không vọt vào bìa rừng. Trong lúc đó ở phía ngoài anh Thống bình tĩnh cùng một thằng nữa bò vòng lên dí súng vào gáy tổ du kích bắt sống giải giao cho trung đoàn… lại huề. Sau đó mấy ngày Trung đoàn tổ chức phục kích bắt được một toán 5-6 tên cả nam nữ trên núi mò về phum.
Rồi tối 28/11- C10 phục dưới chân núi, thằng Trọng đứng gác phía trước, thằng Bình gác phía sau, đêm sáng trăng, thú chạy giữa ruộng nước bì bõm, Trọng bắn hai phát, thằng Bình đang mơ ngủ phía sau hoảng hồn bóp cò đi cả băng AK, đạn đi trúng thằng Trọng hai phát xuyên từ sau xương chậu ra trước vỡ mất 1/3 chim. Thế mà bây giờ nó đã qua hai đời vợ và có 5 con, nhưng cuộc sống rất vất vả…
Mấy ngày sau khi A tôi đang làm lán cho ban hậu cần Trung đoàn thì nghe tin thằng Tám bị thương. Hôm đó C10 cũng đi càn trên núi Cô Tô về thằng Minh không khóa chốt an toàn. Khi chui vào lán không may cò vướng phải móc tre làm súng nổ, đạn đi trúng khuỷu tay thằng Tám đang nằm đọc quyển sách giáo khoa mượn của tôi. Trước khi lên võng cáng đi hắn vẫn tỉnh táo nhờ gửi trả cho tôi những quyển sách mượn trong đó có quyển toán 10 thấm máu. Tám nằm viện hơn nửa tháng về lại đơn vị với cánh tay khoèo, bọn tôi bàn nó phải tập nếu không tay sẽ thành tật, nó chăm chỉ tập và cái tay hoạt động gần bình thường. Nào ngờ mấy tháng sau đơn vị đi chiến đấu, nó không được ở tuyến sau mà về A cối rồi hy sinh.
1/ ảnh C18 (C7) gặp nhau tại Hương Sơn.
2/ những thương binh nặng C18 (C7) đã từng an dưỡng ở đoàn 200 quân khu 4 gặp nhau tại nhà Tài nhân dịp Tạo cùng vợ, con cháu, em trai sang chơi. (không tìm được)
3/ Năm 2015 trước mộ Tám ở Tân Biên.
(không tìm được)
Ngộ độc
Sau sự kiện du kích bắn lính ta, Trung đội tôi do anh Trường chỉ huy được điều ra ở khu vực chùa Phum Chang Pnum nằm gần cuối xã về phía Tri Tôn, đây là ngôi chùa lớn được xây bằng gạch, tô vẽ nhiều màu, khuôn viên chùa rất rộng có nhiều cây dầu cổ thụ thẳng đuột chót vót đứng gần phải ngửa cổ nhìn mới thấy ngọn. Xung quanh chùa vẫn là những tháp to nhỏ đủ kiểu đựng tro cốt. Đồng bào Khmer có tục khi có người chết là đem ra đồng chất củi đốt, thời gian ở đây ngắn tôi chưa thấy nhưng sang Xiêm Riệp tôi đã được chứng kiến cảnh đốt xác rùng rợn này. Chúng tôi phát cây dựng lán và dọn được một sân bóng chuyền, sáng đi xin tre chiều đánh bóng cùng mấy thầy giáo trọ trong chùa.
Anh Trường có vợ là chị Oanh làm ở nông trường chè Thanh Mai nên mang vào nhiều chè búp, tôi hay vào lán của anh uống trà trò chuyện cùng sư trụ trì. Đạo Phật ở đây giống Lào (phái Nam Tông hay còn gọi là Tiểu thừa): thanh niên 12-13 tuổi xuất gia vào ở chùa để học đạo, học chữ (và trốn lính) sau một thời gian tu hành họ có thể hoàn tục lấy vợ. Cuộc sống ở chùa buồn tẻ, sáng tụng kinh, quét dọn mang bát đi khất thực trong dân, chiều tụng kinh.
Dân nghèo lắm, họ ở nhà sàn bằng cột cây đẽo sơ qua chôn xuống đất, mái lợp cỏ. Sàn nhà thấp chưa đến 1 mét, dưới gầm gà lợn đào bới hôi hám. Con bò là tài sản quý nhất của họ, tối đến người chịu muỗi đốt nhưng bò được ngủ trong màn, nhà không có màn đành thay nhau thức đốt trấu hun muỗi cho bò. Bấy giờ đang mùa khô cánh đồng cạn nước, người khát nhưng bò phải có đủ nước uống sạch. Dân nghèo nên sư cũng chẳng sướng gì.
Vài ngày sau chúng tôi lại quay về chỗ cũ. Tôi được lệnh đưa tiểu đội vác tre lên dựng lán cho ban hậu cần E.
Khi đi nhận 4 ngày gạo nhưng do thực phẩm đưa từ Bắc vào đã hết nên quản lý chỉ cấp cho một dúm muối, và hai quả đu đủ bằng nắm tay cùng một thìa canh bột ngọt.
Đến nơi căng tạm lều ở xong chúng tôi bắt tay vào việc ngay, Nơi ở của E bộ nằm dưới chân một quả đồi thấp cuối dãy Cô Tô. Đặc biệt trên đồi toàn là những tảng đá mồ côi to xếp chồng lên nhau. Các tảng đá được ai đó dùng sơn trắng đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C… và các số tự nhiên, có tảng lại được viết tên người nhìn thật lạ mắt. Sau này đọc báo mới biết đó là đồi Tức Dụp - một di tích lịch sử cách mạng, một điểm du lịch nổi tiếng của An Giang…
…Hai quả đu đủ 7 thằng ăn một ngày đã hết, tôi gặp ban hậu cần (chủ nhà) xin mua chịu thực phẩm nhưng họ không đồng ý mặc dù anh Lựu quân nhu có thời gian ở cùng tôi bên Lào.
Buổi trưa hôm đó ăn cơm với muối rang, buổi chiều tôi cùng Hòa, Sao đi cải thiện. Vào rìa phum thấy một vạt rau giống rau muống thân màu nâu xám đang nở hoa tím bò trên mép ruộng cả bọn mừng rỡ xông vào hái.
Đang hái bỗng có một ông già Khmer dắt theo con bò xuất hiện. Ông xua tay nói một tràng nghiêng ngả cái đầu rồi chỉ vào con bò và nằm lăn ra đất nhắm nghiền mắt. Nghĩ là ông giữ không cho chúng tôi rau thằng Sao nóng tính chửi, tôi phải kêu hắn về.
Buổi tối cả A quây quần bên bữa cơm Hiển tìm đâu thêm một nắm rau lang, Trạm hào phóng cho nhiều bột ngọt. Tuy nồi canh chát lạ nhưng cả bọn tranh nhau húp ngon lành. Ở đây không phải gác vì có vệ binh của trung đoàn Hôm qua ăn tối xong còn hát hò, đi thăm đồng hương, hôm nay ăn xong không hiểu sao cả tiểu đội đi nằm sớm.
Đặt lưng một lát tôi lịm đi cho đến khi mơ màng nghe tiếng kẻng báo thức và tiếng hô thể dục của các đơn vị xung quanh nhưng vẫn không tài nào mở được mắt, cố cựa mình nhưng không được, đầu đau như búa bổ, bụng đầy căng nôn nao khó chịu vô cùng. Quờ tay hai bên lay Hiển và Trạm thấy chúng nó nằm yên, bụng thằng nào cũng căng to khác thường. Tôi cố kêu lên nhưng há mồm không nổi, dùng hết sức trở người, vừa lật nghiêng được là nôn thốc nôn tháo Khi mọi thứ trong bụng được cho ra hết, hơi tỉnh tôi bò ra khỏi lán nhưng không thể đứng lên được. Chống tay thẳng người dậy lại ngã, may thay cậu công vụ ban hậu cần đi gánh nước thấy tôi nằm lả giữa đường hắn kêu lên ầm ĩ. Hầu như cả E bộ đều dồn hết đến lán tôi. Họ hỏi tôi sự việc, lôi hết những thằng trong lán ra rồi tìm mọi cách để cho chúng nôn. Chừng nửa tiếng sau cả lũ đã có thể mở mắt và nói ngọng được. Tôi vẫn không hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra, mọi người cũng vậy, cứ cố đứng lên lại ngã. Khỏe như thằng Tạo thằng Hiển đi đứng vẫn xiêu vẹo không định hướng được, định đi sang Đông chân lại bước sang Tây.
Trưa y sỹ của E cho chúng tôi ăn cháo, anh nói là cả bọn bị ngộ độc rau muống dại, thứ đó trâu bò ăn phải cũng chết, người ăn nhẹ thì miệng nôn trôn tháo, nặng thì chết, ở đây may mà chỉ ăn canh chứ ăn rau luộc thì khó cứu. Hú hồn, hóa ra ông già ngăn không cho chúng tôi hái rau này vì nó rất độc, thế mà cả bọn nghĩ oan cho lòng tốt của ông. Sau này khi chốt ở đền Angkor Wat, D28 Trinh sát Quân Đoàn cũng luộc loại rau này ăn và có 3 anh hy sinh. Khi E thông báo tình hình nhắc nhở bộ đội không được hái thứ rau trông giống rau muống để ăn, anh Trường chính trị viên nửa đùa nửa thật giao cho tôi quán triệt cho anh em vì đã có kinh nghiệm thực tế.
Tôi may mắn ăn ít hơn nên bị nhẹ nhất nhưng đến chiều đầu óc vẫn quay cuồng, người cứ nôn nao nhìn thấy núi vẫn ngả nghiêng chân tay bủn rủn. Anh Trường cùng anh Cường C phó và 3 thằng Tám, Thiêm Việt mang nửa cân đường lên pha cho chúng tôi uống, uống nước ngọt đến đâu tỉnh đến đó nhưng vẫn mệt (hôm sau thằng Tám bị thương).
Ngày sau cả bọn vẫn nằm bẹp không thiết ăn uống, mà muốn ăn cũng chẳng có gì nấu ngoài mấy cân gạo mốc, rồi tiểu đội khác đến thay, chúng tôi về nghỉ. Đến cả tuần sau chúng tôi mới trở lại bình thường.
Bây giờ mới biết những lần bị ngộ độc như vậy nạn nhân thường bị ảnh hưởng gan, thận, thần kinh, phải chuyền nước và tiêm các loại thuốc giải độc, súc rửa ruột… Nhưng hồi đó chúng tôi chỉ biết lấy sức trai tráng để chống đỡ, được ly nước đường là quá quý.
Sau này khi ở Suối Ky gần Bàu Cỏ, Tây Ninh tôi thấy một thùng phuy nhỏ đã cũ không rõ ký hiệu, khui ra liền bị mắt cay xè, lúc sau thì mặt sưng mới biết là thùng chất độc của Mỹ nhưng thần kinh cũng không đến nỗi bị liệt như khi ăn rau muống dại.
Ảnh khu du lịch đồi Tức Dụp hiện nay, nơi cách nay gần 40 năm 7 thằng bị ngộ độc.
Mượn súng đánh hôi
Miền Tây những ngày cuối năm trời nắng khô nhưng không nóng, gió thổi cát bụi trên đường bay mù mịt, ban đêm đã phải dùng chăn, có lẽ ở ngoài Bắc trời rét lắm. Vào đây đã gần một tháng, chúng tôi cơ bản làm xong lán trại cho mình, chỉ còn phải làm khung nhà cho dân Thái Bình đi kinh tế mới.
Ngày lại ngày xin tre về đục đẽo rồi đi càn, đi tuần. Không có báo đọc, không có đài nghe, không giao tiếp được với dân vì không biết tiếng, thi thoảng đại đội thông báo tin địch trên các núi. Ở cách biên giới độ 10 km mà chúng tôi hoàn toàn mù tịt về chiến sự.
C trưởng đã đi trinh sát địa hình đào kênh. Cuốc xẻng được nhận về đủ mỗi người một chiếc.
Chiều 17/12/1977 đang chuẩn bị dụng cụ thì chúng tôi được lệnh tập trung nghe anh Trường quán triệt, anh nói đại ý: bọn phản loạn gây nhiều tội ác với dân ta đã bị quân khu 9 đánh chạy sang bên kia biên giới, đơn vị được lệnh phối thuộc cùng E3 F330 chiến đấu. Nghe vậy mọi người nghĩ đó là các đơn vị tàn quân của ngụy còn sót lại chứ không hề nghĩ đến quân Khmer Đỏ.
Tiểu đoàn làm công tác chuẩn bị, mỗi người được nhận một túi cấp cứu cá nhân của Trung Quốc và một chiếc võng. Súng đạn trung đoàn “mượn” của các đơn vị bạn phải nửa đêm mới có nhưng cũng không đủ. A tôi 8 người nhưng chỉ có 5 AK với cơ số mỗi khẩu 120 viên, thằng Trạm được giao cho khẩu B40 và 3 quả đạn, không biết hắn có nhớ cách bắn không vì đã gần hai năm làm gạch rồi còn gì. Thằng Sao và Bình nhỏ con tôi cho mang mỗi đứa 4 quả lựu đạn chày và dặn cứ chạy sau khi nào có ai bị thương vong thì lấy súng mà dùng. Chỉ C10 và C tôi được trang bị hai khẩu B40, còn C17 nguyên là cối 120mm thì nhận thêm một khẩu cối 60 cùng 2-3 chục viên đạn gì đó… Sử dụng
cối 120 chắc hẳn khác với cối 60 nhưng cối gì cũng là cối. Biết na ná còn hơn không.
Tối đó cả C vẫn ngủ ngon lành, không có gì là hồi hộp, lo âu như các trận đánh sau này vì ai cũng nghĩ đánh tàn quân thì đơn giản.
Sáng 18/12/1977 mãi 9 giờ xe mới đến đón, khi đến cửa khẩu Tịnh Biên phải chờ công binh bắc cầu qua sông Vĩnh Tế. Con sông này do Thoại Ngọc Hầu chỉ huy đào sát đường biên Việt Cam từ thời vua Gia long Tại đây F330 cho mỗi đại đội mượn một tổ thông tin vô tuyến PRC25 để liên lạc. Phố xá bị đạn phá đổ nát, hàng quán vẫn còn, lính đi lại nhộn nhịp. Chúng tôi thích thú xem một bà già ngồi trên mấy cọc bê tông giữa sông câu cá, hai tay hai cần bà giật lia lịa, có cảm giác như bà thả nhựa dính chứ không phải là mồi câu, những chú cá trắng to bằng 1-2 ngón tay cứ dồn hết vào đó, chỉ chừng 30 phút cái xô đã đầy bà ta lại đi vào bờ đổ vào bao tải. Mặc cho những tiếng nổ đâu đó bà vẫn cần mẫn ngồi câu như mọi chuyện không liên quan gì tới mình.
Bất ngờ tôi gặp anh Hòa con bà Thịnh người cùng xã đi bộ đội khi tôi đang học cấp 2. Anh kéo tôi và thằng Việt vào quán, bên li cà phê anh cho biết đang là lính thông tin của Quân khu 9. Anh nói ta đang đánh Khmer Đỏ làm tôi ngạc nhiên, rồi anh kể địch hay bắn pháo vào Tịnh Biên, hôm đánh qua biên giới, chúng chỉ có một khẩu 12 ly 7 nhưng cầm chân một D của F330, bên ta hy sinh 4 người, hết đạn nó ôm súng lặn xuống ao chui vào hầm bí mật mất tăm, ta mới “lên” được, bọn địch này gan lắm. Chia tay anh dặn vào trận cố tìm gốc cây ụ mối mà nằm và cho chúng tôi 10 đồng. Nghe chuyện tôi hiểu nhiệm vụ không đơn giản như mọi người nghĩ và bài học vỡ lòng lính cựu truyền cho đầu tiên là “rúc ụ mối”.
Đơn vị đi bộ qua cầu dã chiến, bờ bên kia cầu là đất tỉnh Tà Keo của Campuchia. Thế là gót chân viễn chinh đã đưa tôi và đồng đội đặt chân lên 3 nước Đông Dương. Nhìn bộ đội và ô tô qua sông, nhớ lại ngày sang Lào, xe chạy theo đường 7 qua phà Lưu Sơn vượt sông Lam cách nhà tôi độ 3 km. Người nhà nhiều đồng đội như Sỹ Hồng, Việt… biết trước đã đạp xe đuổi theo đoàn ô tô đến bến phà để gặp con em. Hồi đó cha tôi đi vắng, mẹ nghe tin cũng nhờ người chở đến bến phà. Khi xe chở quân đã sang sông đang leo dốc thì mẹ tôi mới tới. Đứng hẳn lên thành xe tôi kêu to: mẹ ơi, bên kia sông mẹ tôi cũng gào khóc gọi con nhưng giữa bạt ngàn màu áo xanh bộ đội làm sao mẹ thấy được tôi. Hình ảnh mẹ già nhỏ bé không kịp gặp đứa con trai mới 16
tuổi trước khi đi chiến trường đổ sụp bên bờ sông Lam ngày đó luôn ám ảnh trong tâm can tôi. May mắn sang Lào tôi không phải đánh nhau và trở về thăm mẹ nguyên vẹn Giờ đây tôi lại vượt sông sang một đất nước xa lạ. Con sông cách đây mấy trăm năm Thoại Ngọc Hầu đã cho đào để phòng thủ đất nước, con sông mà lớp đàn anh chống Mỹ gọi là sông Vĩnh Biệt vì mỗi lần từ căn cứ bên Cam vượt sông này để về Việt Nam thường bị phục kích khó thoát. Đã ba tuổi quân, tôi cứng cáp lên nhiều nhưng với chiến trận thì vẫn là tân binh. Mẹ ơi con sẽ về.
Đoàn xe chạy trên con lộ số hai đắp cao lượn giữa đồng, những đám ruộng đã gặt trơ gốc rạ xen lẫn thảm lúa vàng rục, những chủ nhân của chúng đã bỏ của chạy lấy người không kịp thu hoạch Khi qua chỗ một căn hầm đắp đất dày khoét bên lộ, phía cửa được bịt bằng những thùng phuy đổ đầy đất lỗ chỗ vết đạn, mấy cậu thông tin xác nhận đây là nơi địch đặt khẩu 12ly7 chặn đứng một tiểu đoàn ta suốt buổi sáng.
Qua biên giới độ 2km con lộ chạy giữa những phum xác xơ, vườn tược nhà cửa cháy đen nham nhở, những cây dừa đổ gục, xác trâu bò trương phình la liệt Giữa cảnh hoang tàn tôi thấy những người dân vượt biên sang hôi của, họ mang về Việt Nam
bất kể cái gì miễn là mang được từ cái cày đến bao lúa… mà không ai ngăn cản, thật lạ lùng!!
Giữa chiều chúng tôi xuống xe, lính sư 330 từ trong phum ùa ra, họ hỏi phiên hiệu đơn vị, nhận đồng hương, một số vai mang súng tay xách 3, 4 con gà đòi đổi thuốc lá. Từ khi vào Nam dến nay chưa được ăn thịt tươi chúng tôi mừng rỡ đem thuốc đổi, lúc đầu một bao Vàm Cỏ đổi 2 con rồi 4 con, được một đống. Sau này mới biết mình thật dại vì gà được nuôi trong các phum rất nhiều tha hồ bắt.
Đơn vị được giao chốt phía tây một phum lớn để bảo vệ E bộ, cách cánh đồng độ 1km là địch. Tối và sáng hôm sau chúng tôi ngồi lì bên công sự, không có gì xảy ra. Đầu chiều, bất ngờ địch bò vào cách C10 độ 3-400m bắn loạn xạ, từ chỗ tôi nhìn sang
thấy rõ khoảng chục cái đầu lấp ló sau ruộng lúa. D lệnh chờ địch vào thật gần mới nổ súng. Độ 30 phút chúng vẫn nằm một chỗ bắn vào. C10 lúc này do anh Phúc quê Nam Đàn làm C trưởng, anh Hải quê Diễn Châu làm chính trị viên vẫn im lặng. Anh Trịnh Quang Tuyến D trưởng cùng thông tin PRC25 chạy hẳn lên hầm tôi để chỉ huy, anh lệnh cho một B của C17 xuất kích đánh tạt sườn, họ chạy qua chỗ B tôi rồi bắt đầu bò. Mấy năm không huấn luyện họ bò lổm ngổm nhìn mà lo. Lạ lùng là có cả một anh mang khẩu cối 60 sau lưng, phía sau là một người mang ba lô đạn và cầm hai tay hai quả đạn cối cùng bò trong đội hình, không hiểu sao họ không giá cối trong phum để bắn ra? Bò theo bộ binh làm gì? Khi cách địch khoảng 100m tất cả đứng dậy hô xung phong và bắn, chúng tôi cũng nhảy lên khỏi hầm hò reo. Bọn địch chạy về bên kia cánh đồng bỏ lại một xác. Trận đầu làm địch chạy ai cũng hỉ hả bàn tán xôn xao.
Sáng 20/12/1977 C tôi chuyển về chốt theo trục lộ 2, phía trước cách gần 500m có một phum bộ đội sư 330 đang chốt, xa hơn chút là dãy núi thấp ta và địch đang dành nhau. Rút kinh nghiệm hôm qua lính C10 có hai người bị thương do đạn M79, bọn tôi tích cực làm hầm. Đất ở vùng này pha cát như ở An Giang, xẻng xắn vào ngọt xớt nên chẳng mấy chốc tôi và thằng Hiển đã có căn hầm chữ U có nắp bằng gỗ dỡ từ nhà dân chắc chắn.
Tầm 9 giờ, phía trước súng rộ lên từng chập, rồi có vài chục lính của E3 F330 xách súng chạy lui qua đội hình chúng tôi. Lúc sau một anh có lẽ là cán bộ chạy về chửi ầm ĩ gọi đám lính quay lại. Số đông theo anh về chốt còn 4, 5 vị vào chỗ hầm tôi ngồi.
Họ cho biết là lính nhập ngũ 7/77, quê Hà Nam Ninh, đã đánh được 3, 4 trận. Tôi hỏi tại sao chạy, một anh kể địch mặc đồ đen, cổ quàng khăn rằn, đầu chít băng đỏ cứ bám gốc dừa bò vào, bắn mãi không trúng. Chúng vẫn bò vào, sợ quá một đứa chạy thế là cả B chạy… Kể xong anh hỏi phía sau ta còn đơn vị nào không? Tôi trả lời yên tâm đi, có hẳn một tiểu đoàn đang chốt ở đây. Chỉ nắp hầm tôi hỏi anh đất dày hơn 40 phân thế này có chịu được đạn M79 không? Anh nói: tốt rồi, cối 60 cũng không sợ nhưng cần khoét cửa rộng thêm để dễ xoay xở, dễ vọt. Câu trả lời của anh làm tôi yên tâm hẳn.
Hơn một năm sau, khi đánh chiếm căn cứ đầu não của chính phủ kháng chiến Khmer Đỏ ở Tà Sanh sát biên giới Thái Lan, C tôi thu hai hòm tài liệu to… Giữa đống giấy tờ lộn xộn chữ Cam tôi lục được tập bản thảo ký sự và ảnh chụp bộ đội ở số 4 Lý Nam Đế của một nhà văn quân đội đi theo Quân đoàn 4 đánh vào Nông Pênh bị địch thu cùng một tập độ trên chục bản khai của tù binh Việt Nam bị lính Pốt bắt trên các mặt trận trong đó có một bản người khai quê ở Hà Nam Ninh nhập ngũ tháng 7/1977 thuộc sư đoàn 330. Đọc bản khai đơn giản nét chữ nghiêng nghiêng chưa đầy trang vở học trò, tôi lại nhớ đến người lính đã truyền kinh nghiệm làm hầm chiến đấu cho mình ở Tà Keo. Không biết anh còn sống hay chết, giữa anh và người tù binh đã khai bản này có mối liên hệ nào không? Còn những người lính Việt Nam bị địch bắt chắc chắn sau khi viết lời khai xong các anh đã bị hành quyết vì Khmer Đỏ không có khái niệm tù binh.
Đến chiều đã có chừng mươi cáng thương được gánh đi qua chốt bọn tôi về phía sau. Đại đội được lệnh tập trung giữa phum nhận nhiệm vụ: C tôi được E3 giao cho đánh vận động lấy lại một chốt vừa bị mất. Sau khi nghe anh Thống quán triệt cả đơn vị lặng ngắt Tôi nghĩ F330 với trang bị mạnh như vậy còn bỏ chạy huống chi mình chỉ có mấy khẩu AK vớ vẩn làm sao đột chốt được?? Mà súng cũng đâu có đủ, chết là chắc rồi.
Nhiều người cúi xuống run rẩy buộc lại dây dày, kiểm tra lại súng đạn như kéo thêm tý thời gian để tự trấn an. Gần 50 người lầm lũi men con lộ theo người dẫn đường đi về hướng súng nổ. Thằng Sao, thằng Bình mặt tái nhợt cầm lựu đạn tụt xuống cuối đội hình cùng mấy anh cũng tay không như chúng. Hôm qua đuổi địch chạy hồ hởi bao nhiêu thì bây giờ không khí nặng nề bấy nhiêu, Vừa vào đến phum mới, thấy anh em sư 330 đang đứng ngồi lố nhố, chưa xác định được hướng địch thì liên lạc chạy lên phấn khởi truyền lệnh rút.
Sau này mới biết khi nghe D báo về ông Tê là F trưởng F31 đã điện cho F330 đề nghị không sử dụng C tôi đánh chốt vì vũ khí trang bị lúc đó không bằng du kích, lại là lính làm gạch chứ đâu được huấn luyện gì mà dám đánh địch trong công sự. Quyết định sáng suốt đó đã cứu được hàng chục mạng người.
Bổ sung / Bình luận:
Tai Le: Với toàn cục là vậy nhưng với cá nhân thì mình nghĩ số phận là quyết định, có cái gì đó khó lý giải mà lính thường đúc kết là: may hơn khôn. Cách đây hai tháng bọn mình thăm Tạo, anh Trường Chính trị viên nói (nguyên văn): thằng Tài có bề trên che chở nên nhiều lần tau tưởng hắn chết rứa mà hắn cứ sống nhăn răng (bề trên mình hiểu là thần linh). Mình nói: số em may mắn hơn người khác nên không chết.
…Quay về chỗ cũ một lúc chúng tôi lại được lệnh lui tiếp độ 1km để bảo vệ trận địa pháo. Có lẽ E3 cũng biết chúng tôi đi
phối thuộc cho vui chứ chẳng nước non gì.
Đào xong công sự thì trời đã gần tối, thế mà thằng Sao còn trèo chặt được một đống dừa. Mấy thằng tôi uống thỏa cơn khát xong lại dùng nước dừa để gội đầu, lau người. Báo hại suốt cả đêm bứt rứt không ngủ được vì kiến chui vào khắp người, thật chẳng cái dại nào giống cái dại nào.
Mấy ngày tiếng là bảo vệ trận địa pháo nhưng tôi chẳng biết nó nằm ở đâu và cũng không nghe nó bắn. Lính tráng ban ngày thay nhau ngủ, trèo dừa bắn trâu bò, bắt gà. Dân ở đây chắc vẫn sống theo từng gia đình riêng rẽ, nhà cao ráo hơn nhà dân ta ở An Tức. Họ chạy hết bỏ lại hàng đàn gà lợn trâu bò nuôi tập trung của công xã, lính muốn ăn cứ bắn bắt thả phanh không ai cản, vài phát đạn AK là một con bò hoặc lợn lăn quay chỉ việc mổ bụng lấy tim gan bỏ xác lại. Mấy ngày chỉ độc ăn cơm với gà, tim gan bò lợn luộc ngán tận óc, ai cũng thèm rau thế mà tìm cả phum rộng mênh mông không có một cọng nào.
Ngày lễ 22/12 cũng chỉ có món gà luộc, không biết theo sáng kiến của ai tôi được giao chỉ huy 5-6 thằng đi chặt dừa cải thiện. Cứ hai thằng một cây thay nhau cầm búa phang cho ngã, búa của dân Cam cực sắc, cán chỉ dài độ 3-40 phân cầm một tay vung thoải mái, khi không dùng dắt vào lưng quần đi lại dễ dàng khác hẳn búa bổ củi cán dài ngoẵng bên ta. Khi dừa ngã chỉ việc nhằm chỗ những lá dừa non mọc đẽo phía ngoài lấy phần lõi non phía trong trên cùng gọi là “óc” mang về cho nuôi quân, óc dừa giống óc cây Khủa dân miền Tây Nghệ An vẫn thường ăn chống đói mùa giáp hạt nhưng ngon hơn. Đó là một khối trắng mềm thái mỏng ăn sần sật ngòn ngọt gần như đậu củ nhưng ngai ngái. Để có được cái óc dừa to độ 3, 4 nắm tay người lớn, hai người phải hì hục cả buổi, có được miếng ăn không đơn giản.
Nửa đêm 24/12, toàn D được lệnh hành quân về Việt Nam, đi trước kề C tôi là D bộ, bọn D bộ đi chậm vì phải cáng thằng Nhân quê ở Yên thành nhập ngũ cùng đợt với tôi, cùng học lớp quản
lý của mặt trận 31, là nhân viên thống kê đang sốt rét, nằm trên võng nó rên hừ hừ ai nghe cũng nóng ruột. Đi độ một giờ khi qua một phum bất ngờ phía bên phải bắn ra một loạt AK. Cả D tán loạn, C tôi lùi lại nằm bẹp bên mép đường, Lúc sau có lệnh hành quân tiếp, hóa ra lính gác của đơn vị nào đó thấy chúng tôi hành quân về tưởng là địch, bắn nhầm, may không trúng ai. Mới đi được vài chục bước lại được lệnh dừng lại chờ D bộ, cả D bộ đang nháo nhác tìm thằng Nhân, khi nghe súng nổ mấy thằng khiêng đang lúng túng thì nó đã nhanh chân vọt xuống võng chạy mất tăm, tiếng gọi tiếng chửi ầm ĩ cả vùng. Một lúc sau C10 đi đầu báo về hắn đang đi trên đó, mọi người mới thở phào, vừa tức vừa buồn cười, bọn D bộ thề là sau này thằng Nhân có chết cũng không khiêng nữa.
Khoảng 8 giờ sáng hôm sau chúng tôi vượt qua cầu phao Vĩnh Tế, nghỉ lại ở thị trấn Tịnh Biên chờ xe. Dẫn tiểu đội đến nơi tạm dừng, thật bất ngờ tôi thấy trên mấy cọc bê tông giữa sông bà già mấy hôm trước vẫn ngồi câu như chưa hề rời khỏi chỗ, với bà chiến tranh chết chóc là việc của thiên hạ. Mặc bà, chúng tôi vứt ba lô xuống đất và lăn ra bờ kênh nằm ngủ.
…Chiều 25/12/77 đơn vị hành quân về An Tức. Cấp trên thật thoáng cho lính nghỉ hẳn 3 ngày kiểm kê lau chùi vũ khí và đưa đi trả. Một tuần đi “chiến đấu” là cả một kho chuyện, lính ở các đơn vị bạn cứ há hốc mồm khi nghe chúng tôi nổ. Anh Quyền quê Triệu Sơn, Thanh Hóa là A trưởng - mới chỉ học lớp 4/10 - lấy được mấy cái đài bán dẫn hỏng, với đoạn thép đập bẹp một đầu, vài hòn than đỏ đựng trong vỏ thịt hộp tý toáy hàn, ghép
thế nào mà lắp lại thành một đài nói được hẳn hoi. Ai đến chơi anh cũng khoe: “chiến lợi phẩm thu của chỉ huy địch đấy”. Công bằng mà nói cái đài có vỏ Hitachi màu trắng nhìn sang ra phết, tuy dùng 1-2 ngày lại phải tháo ra chọc ngoáy nó mới nói ọt ẹt được, nhưng quây quần căng tai lọc giữa những tiếng sẹt sẹt để nghe trọn bài Cô gái tưới đậu, hay Người đi xây hồ Kẻ Gỗ… cũng là nguồn vui mới của bọn tôi.
Trả súng xong lại tiếp tục xin tre, đục đẽo, cắt cỏ để lợp lán trại.
Chiều 14/1/1978 chúng tôi được lệnh đi chốt ở Phú Cường. Chắc sư đoàn đã hiểu là đánh nhau thật chứ không phải trò đùa nên lần này đã cử một trợ lý tác chiến đi cùng tiểu đoàn. Sư cũng cố gắng trang bị cho lính đầy đủ hơn. Mỗi B đã được thêm một khẩu B 40 và một M79, không còn ai phải đi tay không. C17 có hẳn một khẩu 12 ly 7 và một cối 82. Thông tin 2W cũng là người nhà, do sư đoàn tăng cường, không phải mượn quân khu 9. Anh Trường Chính trị viên cũng không úp mở mà nói rõ là đơn vị đi chốt chặn quân Campuchia được sự giúp đỡ của nước ngoài sang cướp phá dọc biên giới. Khi đó nghe xong ai cũng nghĩ nước đó là Mỹ chứ không ai ngờ là Trung Quốc.
Chập tối toàn D lên xe chạy theo hướng Tây Bắc Khi đi qua núi Dài vẫn thấy doanh trại của F4 vẫn đỏ điện, quá nửa đêm gần đến Phú Cường, Xuống xe đi bộ theo người dẫn đường của F4 chúng tôi được bố trí ở hướng nam của một phum. Cả B đào công sự ngay trên con đường có hàng cây thốt nốt chạy từ phum ra đồng, xuôi tay trái về Ba Chúc (tháng 4/1978 Khmer đỏ đã vào Ba Chúc giết hại hơn một ngàn người dân vô tội). Xong hầm thì trời cũng vừa sáng rõ, anh Thống đi từng B giới thiệu địa hình. Trước mặt chúng tôi là cánh đồng đã gặt rộng độ gần nửa cây số rồi đến một phum cây cối tốt tươi ôm lấy hai ngọn núi thấp, trên núi địch đã chiếm, chân núi và phum đó cho đến mấy ngọn núi phía tay phải đều do quân ta giữ…Nhìn địa hình tôi
yên tâm vì địch muốn đánh chúng phải chạy giữa đồng trống, điều đó khó xảy ra.
Mấy ống nước trên cây thốt nốt đã được bọn tôi trèo lấy uống hết trong đêm. Ban ngày yên tĩnh, tôi tranh thủ vào phum tìm nước. Dân đã sơ tán hết nhưng giữa phum vẫn còn có nhóm người đang nấu đường. Những người đàn ông Khmer đen trũi cho tôi mấy ống đổ vào bi đông. Qua chuyện biết được địch đã đánh sang Việt Nam mấy ngày trước, họ tiếc mẻ đường thốt nốt chưa kịp nấu nên liều ở lại.
Đêm tôi vừa thay gác xong bỗng có1 tiếng nổ to chếch về tay trái độ 200m, cả B chồm dậy nhảy xuống hầm chờ và thức cho đến sáng. Hôm sau C thông báo tiếng nổ khi đêm là do một A của F4 hành quân về, chiến sỹ vác B41 khi trèo qua đường bị vấp lao cả quả đạn đã tháo bảo hiểm vào gốc cây thốt nốt, đạn nổ bị hy sinh hai người. Sau này tôi hay lấy đó làm ví dụ khi giao súng chống tăng cho anh em.
Tối ngày 15/1 đang nằm nằm ngắm trăng tán chuyện ‘quê choa’ bỗng Pình, Pàng… những tiếng nổ xé tai liên tiếp, lăn xuống công sự nhìn ra giữa cánh đồng chớp lửa nhoang nhoáng, tôi hiểu địch tập kích hỏa lực, nhưng chúng chỉ bắn vào phum phía C10. Lần đầu được nếm DKZ, B40, B41, cả D chúi vào công sự không một tiếng súng bắn trả, bắn độ 15 phút không thấy gì địch bỏ đi. Sáng sau nhìn cụm thốt nốt giữa đồng nơi địch giá DK bắn nằm giữa chốt bọn tôi và chốt F4 mới thấy địch quả là liều. Cả ngày tiếng súng vẫn rộ lên hướng mấy ngọn núi tay phải, khu vực D tôi vẫn yên ắng.
Chập tối ngày 16/1 chúng tôi bàn giao vị trí cho một đơn vị Quân khu 9 lên ô tô hành quân về lại An Tức mà không hề biết mình đã tham gia vào việc chuẩn bị cho một trận đánh lịch sử ngày 19/1/1978 của Quân khu 9: trận Phú Cường.
Trận này quân khu 9 đã diệt trên 1000 tên địch, có những thửa ruộng chúng chết hơn 100 thằng vì thằng sống lấy xác thằng chết làm công sự.
Về đến An Tức thì thằng D. lính A tôi và hai người cùng quê Hà Tây đào ngũ. Anh Trường họp mắng cán bộ không quản được lính nhưng tôi cho đó là bình thường, không bỗng dưng mà lính truyền nhau.
“Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay.
Hà Tây anh dũng trốn ban ngày.
Thanh Hóa mất mùa xin ở lại.
Nghệ Tĩnh thấy thế cũng giơ tay”.
Chỉ băn khoăn không biết chúng lấy tiền ở đâu chi phí cho chặng đường hơn 2000km để về quê.
Con kênh ta đào
Để khai phá tứ giác Long Xuyên, Bộ Quốc phòng thành lập binh đoàn số 14 thuộc Tổng cục xây dựng kinh tế, gồm sư 31, sư 4 và sư 15.
Sư 15 công binh vốn là láng giềng của D8 bọn tôi ở Anh Sơn, Nghệ An làm nhiệm vụ mở đường Trường Sơn từ Thanh Chương sang Tân Kỳ. Hồi đó lính của sư 31 ở Lào về được phát dép rọ Liên Xô dành cho sỹ quan. Lính đi dép rọ sư 31 và lính đi dày ba ta sư 15 gặp nhau thế nào cũng cà khịa gây chiến tranh. Anh Bình quản trị trưởng người đen lầm lỳ ít nói đã có vợ con nhưng cũng cưa được một em nhập ngũ 74 bên đó, chủ nhật thím thường sang C tôi chơi. Vào đây sư 15 đóng ở xã Lương Phi, sau này sang Cam cũng thuộc quân đoàn 3 chốt bảo vệ đường 5 Pua sát - Bát tam Bang.
Sư 4 chủ yếu là lính Bắc vốn của Quân khu 9 chuyển sang làm kinh tế đã khai hoang được cánh đồng hàng chục ha gần biên giới, bọn Pốt đánh sang họ phải đi chiến đấu, chỉ để số ít coi máy móc và thuê dân gặt lúa.
Sư 31 lúc này được tiếp nhận thêm một trung đoàn cơ giới máy cày máy múc.
Ngày 19/1/1978, từ mờ sáng, tiếng súng lớn nổ mạn Phú Cường vọng tới như sấm rền. Mặc kệ, khoảng 9 giờ ăn cơm xong chúng tôi hành quân, qua chân đồi Tức Dụp rồi xuyên đồng hoang chưa người khai phá về hướng Nam. Không biết cánh đồng hoang cùng những đám cháy mùa khô với thằng Cò, thằng An trong “Đất phương Nam” của Đoàn Giỏi lắm rùa cá cỡ nào? Cánh đồng chúng tôi đi qua chỉ có năn lác lau sậy cao lút người, khô ráp. Chủ quan không mang nước, lính khát phải uống nước ở những đìa nhỏ thi thoảng mới gặp, thứ nước có váng vàng khè chua khét làm chân răng khít lại.
Kế hoạch sẽ nấu cơm chiều ở nơi mới nhưng chỉ huy đi đầu cắt đường loanh quanh nên trời tối một hồi chúng tôi vẫn lạc
giữa đồng hoang. Đi mãi đến khi thấy mấy ánh đèn le lói, chỉ huy quyết định cắt vào đó, Lính đoán là đã đến nơi mừng rỡ hô “trô… trô” (xung phong, lên), bỗng ánh đèn tắt ngóm từ đó bắn ra hai phát AK. Chúng tôi nằm bẹp xuống cỏ im lặng chờ, D bộ bắn 3 phát đạn vạch đường trả lời, hồi lâu sau mới có lệnh đi vào.
Có lẽ quy định hỏi 2 đáp 3 cộng lại thành 5 để nhận nhau ngoài chiến trường dễ làm, dễ nhớ nên khi ở Tà Keo, về đây rồi lên Tây Ninh các đơn vị quân ta đều thực hiện, trở thành phản xạ tự nhiên.
Trên bờ kênh to có nhà dân ở rải rác, chúng tôi chỉ gặp hai lính F4 coi mấy chiếc máy cày, chính họ là người đã bắn để liên lạc. Họ nói dân nghe hô tiếng Miên giữa đồng nên hoảng sợ lên xuồng chạy ra hướng Rạch Giá hết. Hôm sau nghe tin khi đó lính E866 ở đầu các kênh 6, 7 cũng bỏ chạy theo dân.
Nơi chúng tôi đến là xã Nam Thái Sơn, huyện Châu Thành, Kiên Giang, nay thuộc huyện Hòn Đất. Từ đây theo hướng Nam tới núi Hòn Đất giáp biển có Chị Sứ, Thằng Xăm, Bà Cà Sợi chưa đến 10km.
Con kênh to Rạch Giá - Hà Tiên được Pháp đào năm 1924 với bờ Nam là quốc lộ 80 cùng rất nhiều kênh tỏa ra hai bên trong đó có kênh lớn Tri Tôn chạy qua xã nối về sông Hậu, Kênh Tri Tôn đoạn này lại có các kênh xương cá được đánh số từ 1 đến 8… Theo ông Gu gồ: một người Pháp xin khai khẩn vùng đất phía đông kênh Tri Tôn đã mộ dân từ Nam Định, Thái Bình lập đồn điền thuộc làng Sóc Sơn nên chính quyền ta lập xã Nam Thái Sơn (dân Nam Định, Thái Bình trên đất Sóc Sơn). Có lẽ chính dân này đã đào nên các kênh xương cá……
Ảnh1: đườngđỏchạyĐôngNam lênTâyBắclàlộ80trênbờkênhRạchGiá- HàTiên.
Ảnh 2: ảnh chụp từ vệ tinh một phần xã Nam Thái Sơn hiện nay, trục to thẳng Tây Nam - Đông Bắc là kênh Tri Tôn, các đường ngang là kênh xương cá. Cả sư đoàn dồn về Nam Thái Sơn để đào kênh, thau phèn, khai phá đồng hoang - nơi mà năm 1941 ông Tây Belot đã làm nhưng
phải bỏ dở vì ta cướp chính quyền. Ông Tây hồi đó chủ yếu khai thác vùng phía Đông kênh Tri Tôn, ra đi để lại hệ thống kênh xương cá được đặt tên bằng các số tự nhiên tính từ Kênh Rạch Giá - Hà tiên sang hướng An Giang. Đóng quân gần lộ 80 là E977, khoảng giữa các kênh 5-7 là E866 rồi đến E922 bọn tôi ở mạn giáp An Giang. Các E được ở nhà dân riêng E922 đào kênh mới nối kênh Tri Tôn theo hướng Tây Bắc ở giữa đồng.
Bộ đội căng tăng dựng lán dọc theo cọc mốc được cắm sẵn chạy từ bờ kênh Tri Tôn xuyên vào cánh đồng hoang vu mênh mông. Lán bọn tôi cách kênh Tri Tôn khoảng nửa cây số nhưng nước ăn uống tắm giặt đều phải ra đó. Nhìn dòng nước lờ đờ đục
ngầu lềnh bềnh mọi thứ ô uế của hàng ngàn con người thải ra mà rùng mình. Có lần tôi bơi ra giữa dòng múc giúp một bà má gánh nước. Bà cảm ơn rối rít, chiều hôm sau ra đứng đợi cho tôi một xâu rắn liu điu nhưng tôi không dám lấy làm bà ngạc nhiên. Sau này đọc sách mới biết đó là mồi nhậu quý của dân miền Tây.
Năm 2015 đi xuống Hà Tiên để ra Phú Quốc. Khi đi qua thị trấn Hòn Đất tôi chỉ cho hàng xóm nơi đầu nguồn kênh Tri Tôn mà mình đã tắm rửa, ăn uống. Hàng xóm nói “Đi đã ngái (xa), nước bẩn rứa không trách chi người toàn sẹo ghẻ”.
Mỗi ngày B tôi cử hẳn ra hai người đi cải thiện. Cứ sáng gánh đôi thùng đi vào trong đồng tìm các vũng nước sót lại mò cá, gần trưa đã đầy gánh. Đều đặn chúng tôi được ăn cơm độn cá. Sát cá nhất phải kể đến thằng Toàn đen theo đạo công giáo quê Sơn Tiến, Hương Sơn. Hắn chỉ cần đi ra khỏi lán một tiếng đồng hồ là đã gánh đầy cá về.
Định mức được khoán cho từng người tầm 4 giờ chiều đã đào xong. Đất từ mặt sâu xuống độ 3-40 phân tạm gọi là có độ cứng vì rễ cây cỏ chằng chịt, tiếp đó là lớp bùn đen chỉ ấn khẽ là lưỡi leng đã ngập sâu, hất lên đất trơn tuột, bay xa. Leng là dụng cụ đào đất ngoài bắc gọi là Mai nhưng khác chỗ là hai bên khum vào để giữ được bùn. Thi thoảng đôi đoạn dưới sâu vẫn gặp cây cỏ bị chôn thành lớp chưa kịp hóa thành bùn. Cả ngàn năm dâu bể các thảm thực vật thay nhau chết đi bị phù sa vùi lấp chuyển hóa làm nên độ màu mỡ của đồng bằng miền Tây đang chờ bàn tay con người khai phá.
Sinh ra trong gia đình công chức, lớn lên trong no đủ, chỉ việc chơi và học. Vào bộ đội năm đầu ở Lào là vất vả, sau làm quản lý đại đội không phải lao động chân tay nên ngày lại ngày phơi mình giữa nắng nóng đào bới bùn đất đối với tôi quả là một cực hình. Hai bàn tay phồng rộp, đau rát. Người cháy khét, đêm đến ê ẩm, mệt lử; nằm trên nền đất, kê đầu lên chiếc ba lô đựng bộ quần áo và mấy quyển sách nghĩ tới chặng đường mù mịt hai
năm nữa mà lo không biết có vượt được không. Tuy vậy, khi anh Thống bảo chuẩn bị đi học kỹ thuật nông nghiệp tôi vẫn không đi, chỉ mơ ngày hết nghĩa vụ để về đi học tiếp.
Cha tôi viết thư vào hỏi chuyện chiến sự, động viên tôi rất nhiều. Từ khi 5-6 tuổi theo cha đi sơ tán tôi đã thấy cha ngày hai buổi đều đặn ôm chiếc đài Ô Răng Tông to tướng để nghe thời sự của đài BBC. Tôi hiểu không dấu được cha nhưng sợ mọi người ở nhà lo lắng nên vẫn viết thư về nói biên giới ở đây bình yên. Từ ngày vào Nam đơn vị chỉ đào kênh để làm lúa, vài năm nữa đất nước sẽ thoải mái lúa gạo vì có nhiều đơn vị quân đội trồng.…
Được gần nửa tháng “con kênh ta đào chưa có nước chảy qua” xuyên giữa đồng hoang đã dài tít tắp. Người đứng đầu này không nhìn thấy người đầu kia. Chúng tôi được lệnh hành quân về lại An Tức để lên Tây Ninh gia nhập quân đoàn 3 chiến đấu bảo vệ biên giới. Cuộc chiến giữ nước ở biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh bắt buộc của dân tộc Việt Nam. Chiến tranh đã đẩy cuộc đời tôi ngoặt sang hướng khác, có lẽ đó là số phận.
Những năm đầu 1980 đọc báo thấy đưa tin Nhà nước dùng máy bay để sạ lúa trên nông trường Lúa Vàng, không biết có phải là nơi chúng tôi đã đổ mồ hôi khai phá không? Bây giờ qua ảnh vệ tinh nhìn ruộng đồng, dân cư Nam Thái Sơn thật đẹp và quy củ.
Ba lần ăn Tết Mậu Ngọ
Trở lại An Tức chúng tôi trả cuốc xẻng và chờ đợi. Hai thằng Trọng, Tám cũng đã về đơn vị, Trọng xanh như tàu lá, đi đứng lệch hẳn một bên về thanh toán giấy tờ để ra Bắc. Năm thằng chúng tôi lại được bên nhau chuyện trò đủ thứ. Có lần chúng tôi hè nhau vật Trọng ra để xem chim còn đến đâu, ai ngờ vừa cởi cúc quần nó òa khóc thế là buông tay ứa nước mắt với nó. Tay thằng Tám hơi khoèo co duỗi khó khăn, giấy ra viện ghi về đơn vị bố trí việc nhẹ, chúng tôi khuyên nó nên tự tập để trở lại bình thường và hắn cũng rất chăm tập luyện. Lúc ấy đó là lời khuyên đúng, sau này lắm lúc nhớ lại tôi cứ day dứt: Giá như khi đó bọn tôi đừng khuyên thế, giá như thằng Tám không tự tập, cái tay cứ khoèo không phải đi đánh nhau nó sẽ không hy sinh, nó sẽ thành thương binh trở về học tiếp hoặc chuyển ngành công tác.
Ngày 2/2/1978, mặc dù mới là 25 tháng Chạp nhưng Trung đoàn 922 tổ chức ăn Tết trước để hành quân. Trên cấp mỗi người hai gói thuốc lá và mấy lạng gạo nếp. Bữa ăn Tết chỉ có bát cơm nếp với mấy miếng thịt, anh Trường nói: “phải ăn Tết lại” thế là cùng với bọn hậu cần mang mì cua đi một ngày ròng rã đổi được một con lợn độ 30 kg và khá nhiều gạo nếp cùng mấy lít rượu. Tiếng lợn kêu eng éc, tiếng dao thớt kỳ cạch và bữa cơm Tết “làm lại” có đủ rượu thịt với hương vị nếp đã làm cho cả khu vườn xoài vui vẻ náo nhiệt hẳn.
Ngày 4/2 tức 27 Tết chúng tôi hành quân bằng ô tô theo con đường vòng quanh núi Cô Tô qua Long Xuyên. Tối nghỉ tại ngoại ô Cần Thơ, mấy thằng lại tụ tập bên gốc xoài liên hoan chia tay thằng Trọng bằng thuốc lá và gói cơm nếp ăn dở lúc trưa. Tôi viết thư tay nhờ hắn cầm về và cho hắn cái áo pha lon trắng mà hồi ở Vinh hay diện.
Hôm sau đoàn xe dừng ở ngã tư An Sương thành phố Hồ Chí Minh, Trọng xuống xe để về trạm giao liên ra Bắc nhập đoàn an
dưỡng 200 Quân khu 4. Trọng là người Thương binh đầu tiên của Sư đoàn ở biên giới Tây Nam.
Ba năm tròn sướng khổ với nhau, mai sau biết ai còn ai mất? Trọng không nói gì nước mắt chảy dài tập tễnh đi dọc đoàn xe bắt tay từng người để tạm biệt. Xe chạy, cả tiểu đoàn vẫy tay chào hắn, hắn đứng đó một mình xiêu vẹo giữa phố phường nhộn nhịp người xe đi sắm Tết.
Chiều muộn chúng tôi được đổ xuống một khu rừng phía sau Lò Gò, khẩn trương đào hố chiến đấu cá nhân… Rừng ở đây rậm rì ngang dọc lạch nước cùng bãi lầy, có rất nhiều cây Dầu rái vươn thẳng đứng cao tầm 3-40 mét, gốc to độ 2-3 người ôm đã bị dân vạt hốc sâu để lấy dầu thắp sáng, quét sơn gỗ. Tuy cách tiền duyên phòng ngự của F320 độ 1km nhưng hôm sau đơn vị đã khẩn trương chặt cây đào hầm lập chốt.
7/2/78 chúng tôi trả súng cũ nhận súng mới. Suốt ngày lo lau chùi những khẩu AK, M79, B41 còn nguyên dầu mỡ bảo quản trong ống nhựa, gần chiều bỗng quản lý gánh về một gánh bánh chưng và nhu yếu phẩm mọi người mới biết là đã Mồng Một Tết, đã sang năm mới. Mỗi A được phân một gói trà Blao, mỗi người được thêm một bao thuốc lá và hai người chung một bánh chưng của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gói tặng, có bánh đã mốc chua nhưng không ngăn được sự háo hức của lính. Thế là chúng tôi lại được ăn Tết lần nữa, buổi tối lính quây quần bên bi đông nước chè chuyện trò, hát nhạc vàng, nhạc đỏ đủ giọng râm ran.
Quá khuya không ai chịu ngủ, nghe ai đó nghêu ngao “Con biết xuân này mẹ chờ tin con…”, tôi nhớ nhà kinh khủng, mới đó mà đã 3 Tết xa nhà, đang nằm tưởng tượng cái Tết ở quê bỗng hai phát AK nổ. Ôm súng lăn vội xuống hầm chờ mãi không thấy gì hóa ra thằng Việt đang gác nghe tiếng động của thú đi ăn đêm liền bắn nhưng chừng đó cũng đủ cho cả C thức trắng.
Ảnh: Từ trái sang: Trọng, Việt, Tài, Hải, em trai Tạo tại sân nhà Tài.
Về lại trung đoàn
Cuối tháng hai năm 1978, sư 31 chính thức thuộc Quân đoàn 3 lúc này đang rải quân đóng chốt dăng ngang cùng Quân khu 7, Quân đoàn 4 bảo vệ biên giới tỉnh Tây Ninh. Từ biên giới về thành phố Hồ Chí Minh chỉ khoảng trên 100 km nên bọn Khmer Đỏ tập trung lực lượng quyết đánh và ta cũng tập trung chủ lực quyết giữ.
Là đơn vị làm kinh tế chuyển sang chiến đấu, sư đoàn phải tổ chức lại biên chế trang bị để phù hợp nhiệm vụ. Quân đoàn đã điều động hàng ngàn cán bộ chiến sỹ ở các đơn vị và hơn 2000 tân binh bổ sung kiện toàn lại sư đoàn. Tân binh chủ yếu là của Nghệ Tĩnh, riêng xã tôi có đến 6-7 đứa nhập ngũ tháng 11/1977 được bổ sung vào trung đoàn 922.
Các tiểu đoàn 7, 8, 924 được biên chế về lại E866. Không những thu quân cũ kiện toàn lại cho mình mà E866 còn phải rút bớt cán bộ bổ sung cho E922, E977.
E922 chỉ còn lại D18, được sư 320 đưa cán bộ, chiến sỹ sang làm nòng cốt xây dựng. Trung đoàn trưởng vẫn là Đại úy Ngô Doanh nguyên E phó E335 nổi tiếng ở Lào nhưng không hiểu đánh đấm thế nào mà độ khoảng tháng 9/1978 tôi thấy anh Doanh làm trạm trưởng trạm khách của sư đoàn ở Bàu Cỏ.
E977 gồm D42 pháo binh, D25 công binh, được sư đoàn 10 đưa cán bộ chiến sỹ sang xây dựng kiện toàn.
Gần một tháng di chuyển đào hầm loanh quanh trong rừng Lò Gò, ngày 3/3/1978 chia tay E922, chúng tôi rút ra con suối gần Bàu Cỏ phía Tây núi Bà Đen khoảng 10-15km, về lại đội hình của E866. Trên chặng đường từ Lò Gò ra sân bay Thiện Ngôn có một em gái mặc bộ bà ba với giọng ca không thua ca sỹ chuyên nghiệp đứng ven đường say sưa hát cải lương bài này sang bài khác cho bộ đội nghe. Trong lúc ngồi nghe hát, quản lý Lương Đình Vơn nghịch khẩu M79 làm súng cướp cò may quả đạn bay xa rơi vào rừng mới nổ không gây thương vong, vì vụ
này Vơn bị kỷ luật cảnh cáo. Hơn một tháng sau Vơn bị thương, do địch vây không ra được nên mất máu nhiều, hy sinh. Lúc hấp hối Vơn nói với anh Trường đừng ghi kỷ luật vào lý lịch. Hôm tháng 5/2017 gặp nhau ở nhà Tạo ai đó nhắc chuyện Vơn, anh Trường xúc động ứa nước mắt, mãi mới nói: “Hồi đó tao dọa rứa chứ thời gian mô mà tìm lý lịch để ghi”. Vơn là người lính trọng danh dự sống mãi trong ký ức của chúng tôi.
Về đây tôi gặp lại đồng hương cùng xã như lão Bình con ông Hường học cùng lớp, Toản con ông Chước học 10E, Hòa con ông Lương Quy sau hơn một năm phân tán. Gặp cả thằng Chinh học lớp 10I cùng khóa, hắn đi ôn văn hóa thi đại học trượt mới vào ở B vệ binh, nghe hắn nói chuyện mới biết ngoài quê cống Hiệp Hòa bị sập làm chết gần 100 người chủ yếu là dân Thanh Chương.
C17 trở lại là C cối 120mm trực thuộc E, C12 cối 82 do anh Phúc (Hà Nam) làm C trưởng, anh Điền “nháy” người Vĩnh Phú làm CV sau một năm phiêu bạt đi xây doanh trại kho tàng cũng trở về đội hình của D8 và đổi thành C8.
C18 bọn tôi đổi thành C7, C10 đổi thành C5. Thành lập thêm C6 do trung úy Quyền quê Nam Đàn làm C trưởng, anh Quyền sau sang E922 lên trung đoàn phó, chuẩn úy Toàn quê Bắc Thái làm Chính trị viên, bọn tôi hay gọi là “Toàn nhăn” vì lúc nào mặt cũng cau có, khi ra Bắc anh lên ban Tổ chức Sư đoàn về hưu hàm đại úy.
D8 lúc này đổi thành D2, D7 đổi thành D3 và D924 đổi thành D1, E866 gọi là E1, E922 là E2, E97 7là E3 và Sư 31 tên húy là đoàn Lam Hồng được gọi là đoàn Thịnh Long. Cái tên đoàn “Thịnh Long” là do tôi đọc thấy trên tờ tin hàng tháng của sư đoàn, không biết có phải đó là ngẫu hứng của mấy ông viết lách không mà sau này không thấy ai nhắc lại.
Thằng Tám đã lành tay, được phân làm A trưởng cối C5, thằng Thiêm sang C7 bọn tôi làm A trưởng cối, thằng Việt được điều sang lại E922 làm A trưởng.
Việt nhận lệnh về E922 là lúc hắn và thằng Hải ở xã Lạc Sơn đang chơi cờ tướng trong lán tôi. Dù đã khoác ba lô lên vai nhưng hắn vẫn nán lại cãi chí chóe thắng thua với Hải, tôi phải can rồi tiễn hắn ra cửa rừng. Thằng Việt sang E922 bị thương ngay trận đầu ra coi kho đoàn 37 thu dung còn thằng Hải cũng bị thương lạc 3 ngày trong rừng bò về được. Năm 2014 lính C7 Nghệ Tĩnh tụ tập tại nhà tôi, hai thằng nhớ về ván cờ đánh dở năm xưa rồi cãi nhau thách nhau đánh lại. Thằng Việt chạy về nhà lấy bộ cờ mang đến và hai thằng bày cờ ngoài thềm để đấu trí mặc đồng đội ngồi ôn cố tri tân. Một ván cờ của hai thằng lính kéo dài 36 năm mà tôi được chứng kiến từ đầu đến cuối.
Bổ sung / Bình luận:
Tai Le: Anh Quyền hồi ở K là trợ lý chính trị E, trận Tà Sanh xong anh ấy xuống thấy tôi đang lục hòm tài liệu (đã nói ở phần trước về lời khai của lính ta…) thì anh gọi đúng tên làm tôi ngạc nhiên, từ đó mới biết anh. Sau anh về Chính trị viên D2 với tôi cãi nhau suốt. Ra Bắc tính ra chỉ có Võ Thắng, Ngọ Bạc là tôi không cãi.
…Chỉ huy tiểu đoàn hai lúc này là ba trung úy gồm Trịnh Quang Tuyến D trưởng, Lương Minh Tuận Chính trị viên và anh Phúc vốn C trưởng C10 mới lên làm D phó.
Anh Tuyến ở thời gian ngắn rồi sang E977 làm D trưởng. Anh Tuận khi ở Bàu Cỏ có lần lên lớp chính trị cho D bộ, đang nói đến gương Anh hùng lấy thân mình lấp lỗ châu mai… anh quên mất tên cứ lúng túng Phan, Phan… anh Việt y tá nhập ngũ 8/71 quê Nghi Lộc nhắc đểu “Phan Đình Phùng” anh mừng quá liền nói to “anh hùng lấy thân lấp lỗ châu mai Phan Đình Phùng” làm cả đơn vị cười no bụng. Anh Tuận đánh bóng chuyền vị trí chuyền hai rất hay, có lẽ vì vậy mà đơn vị khi ở An Giang, lên Lò Gò, về Bàu Cỏ và ngay cả ở thị trấn O răng Âu bên Công Pông Chàm kiểu gì anh cũng tổ chức chơi bóng chuyền. Trên đường lên Xiêm Riệp, lúc qua phà Công pong Chàm, khi xuống xe không may lính để lựu đạn nổ, anh bị thương ở chân, khi ra Bắc được xếp hạng thương binh 1/8 sang làm Dv D24 quân y và về hưu hàm Đại úy.
Anh Phúc là C trưởng của tôi từ hồi ở Lào quê Nam Đàn. Anh thường mặc bộ quân phục Pha thét Lào, có cầu vai bằng vải Tô Châu, đeo súng ngắn sệ hông làm nổi bật nước da trắng và mái tóc bồng bềnh nhìn rất lãng tử. Hồi ở Anh Sơn anh bị chị Minh nhân viên cửa hàng ăn chinh phục. Thi thoảng chủ nhật anh rủ mấy thằng tôi từ Long Sơn lên tận Phúc Sơn thăm người yêu và chị Minh bao giờ cũng chiêu đãi phở cả đoàn. Anh Phúc nóng tính, có lần cầm lựu đạn US đánh anh Thao C phó C13 sưng cả đầu vì giữ đường lên chốt C7 nhưng vẫn để địch phục kích làm ta thương vong, cả anh Trường anh cũng không tha chửi. Năm 1986 tôi gặp anh khi đó là thượng úy chuyển ngành làm bảo vệ ở cơ quan Mặt trận tỉnh Nghệ An. Ít lâu sau nghe tin anh nghỉ chế độ một cục 176 vì bệnh.
D trưởng D1 là anh Hoàng Ngọc Thổ người Cao Bằng, tôi nghe anh Trường kể có lần họp quân chính E anh Thổ phát biểu “Thổ này làm kinh tế không biết tính toán nhưng đánh nhau chỉ có
lên” tôi nghĩ ý của anh là thể hiện quyết tâm chiến đấu nhưng mọi người cho là anh nói lên chức lên cấp. Quả thật vào chiến đấu anh tỏ rõ là người chỉ huy dũng cảm mưu trí được lính kính phục, tháng tư vào trận thì tháng 7 anh đã lên Tham mưu trưởng E. Khi lên kiểm tra chốt C7 bọn tôi, trên đường trở về cách chốt độ 300m anh bị địch phục kích và hy sinh, thằng Văn vệ binh đi bảo vệ bị thương. Văn sau đi học sỹ quan hậu cần về quân đoàn 4.
D trưởng D3 là anh Côi người Tày Cao bằng lấy vợ ở Nghĩa Đàn Nghệ An. Hồi đơn vị ở Kiên Giang anh và anh Giáp B trưởng C9 đi phép, trả phép thì trung đoàn 866 đã di chuyển. Hai anh hỏi dân và chính quyền địa phương không ai biết đơn vị đi đâu. Địa phương giới thiệu hai anh ở nhờ nhà một bà má. Hai người quyết đi tìm đơn vị nhưng không có tiền nên má cho mỗi người một chỉ vàng, mấy chục kg gạo và tiền mặt đi đường (hồi đó đối với nhiều người là một tài sản lớn). Ra tỉnh đội, vào quân khu 9 ở Cần Thơ hỏi không ai biết sư đoàn 31 ở đâu, lên thành phố Hồ Chí Minh vào quân khu 7 hỏi cũng không được, ròng rã cả tháng lang thang, tiền gạo hết, có người bày cho vào viện 175 là nơi tuyến cuối cứu chữa thương binh nặng ở phía Nam để hỏi và cuối cùng hai anh biết sư đoàn đang chiến đấu ở Sa Mát, Tây Ninh. Về đến Trung đoàn anh Côi lĩnh lương xin quay về Kiên Giang để trả cho bà má rồi sang làm D trưởng D2 thay anh Nguyệt. Anh rất giỏi về pháo cối và cắt góc phương vị đi trong rừng… chuyện về anh rất nhiều tôi sẽ kể sau.
Năm 2014 qua trang Quân sử, lão Hồng Nguyên Quang liên lạc với đồng đội phía Nam, tìm ra địa chỉ bà má và đã “chiêu đãi” anh Giáp một chuyến thăm má sau gần 40 năm bặt tin. Má vẫn khỏe, rất vui khi gặp lại những người lính mà má tưởng đã gửi xác nơi chiến trường và họ đã không quên má.
Nhiều năm tôi hỏi tìm anh Côi, anh Tuận sau mãi đến năm ngoái mới biết tin thì hai anh đã mất, thật buồn, quả thực đời người như bóng câu qua cửa sổ.
Bổ sung / Bình luận:
Tai Le: Bác Hợp khi hy sinh là tham mưu phó F, trinh sát không phát hiện mìn, bác ấy phát hiện dừng lại dò theo dây, khi dò dây mìn nguyên tắc dùng mu bàn tay nhưng bác dùng lòng bàn tay nên khi địch bắn không trúng đạn nhưng giật mình nắm dây nên mìn nổ… khi C7 bọn tôi bị vây nghe nói giao ban bác đã khóc. Khi C7 thất bại trận 12/6 bác chửi toét loe. Nhưng trận đó bác Hợp cũng phải chịu trách nhiệm (tôi nghĩ)… Tháng 12/1979 bác Hợp được truy tặng AHLLVT.
Phú Vân Đoàn: Hôm nay anh mới biết rõ về trường hợp hy sinh của thủ trưởng Hợp… hôm thủ trưởng Hợp bị phục, bọn anh đang, phòng ngự ở rãnh đồi bên này, có thấy khói mù mịt.
Tai Le: Phú Vân Đoàn dần dần em kể đến đó bác ạ, khi qua chốt D4 một quãng thì bị mặc dù trước đó E922 đã đi thông đường.
Chuẩn bị vào trận
Cả tiểu đoàn ở bám bình độ dọc con suối tôi không biết tên. Rừng bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh mới tái sinh, chen lẫn giữa thảm cây mênh mông là những trảng cỏ. Thi thoảng có cây to đã chết khô vì chất độc hóa học sừng sững nhô lên khỏi tán rừng với những cành cụt chĩa lên trời thi gan với thời gian. Từ đây vượt suối qua E bộ và các đơn vị trực thuộc rồi đi ra lộ ô tô đất đỏ khoảng 1km, con lộ chạy về núi Bà Đen hai bên là rẫy bỏ hoang cùng ruộng lúa bãi lầy, thưa thớt nhà dân. Nếu tôi không nhầm thì vùng này bây giờ thuộc thi trấn Tân Châu.
Về đây việc đầu tiên là làm mỗi A một lán để ở. Lần này tôi đã biết cách lợp nhà (lán) bằng rơm lấy trong rẫy về rũ rối rải từng lớp nẹp lại theo cách của dân đồng bằng Bắc Bộ. Mọi sinh hoạt vẫn theo điều lệnh: sáng thổi còi tập thể dục, làm việc, đến bữa xếp hàng ăn cơm… chiều chơi bóng chuyền, tối không sinh hoạt thì nằm hát nghêu ngao.
Đại đội nhận thêm lính cựu của các C trực thuộc và vài lính của F320 đã trải qua đánh Miên. Số lính F320 chắc “bầy hầy” nên nhân dịp này bị tống đi cho khuất mắt chứ không phải để làm nòng cốt cho đơn vị mới như ý tưởng của Quân đoàn. Có một lính trinh sát người Hà Bắc từ F320 bổ sung về được vài ngày bị sốt rét rồi rút chốt lựu đạn tự tử. Một cái chết lãng xẹt làm lính bàn tán xôn xao. Nhiều người cho rằng anh ấy bị ức chế gì đó rồi tự tử. Bây giờ khi đã hiểu biết nhiều hơn tôi cho rằng anh bị bệnh dẫn đến trầm cảm mà tìm đến cái chết.
Từ hồi thành lập ở An Giang đại đội chỉ có hai B nay lập thêm một B nữa để đủ biên chế theo quy định do anh Hồ Sỹ Liễu người Quỳnh Lưu ở D7 sang làm B trưởng. Anh hay kể chuyện cô sinh viên Cao đẳng sư phạm Huế quê Diễn Châu nơi đơn vị đóng quân lao động xây ga Si cho chúng tôi nghe. Gần 30 năm sau thấy trong quyển danh bạ điện thoại ghi số nhà riêng cô giáo hiệu trưởng trường Tiểu học xã Quỳnh Dị với cái tên quen
quen. Nhớ chuyện tôi điện hỏi thăm may mắn đúng nhà anh Liễu, anh lên đến Thiếu tá về bệnh binh và làm phó bí thư Đảng ủy xã.
Gần chỗ đóng quân có mấy cái lán dân ở để trông coi rẫy. Bộ đội về họ nhanh chóng mở quán bán rượu sắn, kẹo và thuốc lá cuốn bỏ trong bao bóng có tờ nhãn Lá Vàng hoặc nhãn CAPSTAN, lính ta dịch là “Cho anh phát súng tim anh nát” hoặc “Con anh phá sản tại anh ngu”. Quán nào sang thì có thêm bao Vàm Cỏ hút tức cả ngực và bao Slem bạc hà rởm khi hút ngậm vào vẫn thấy the the. Lính đem quân trang nhu yếu phẩm ra đó bán, đổi nhộn nhịp.
Hòm thư của đại đội lúc này là 3R 2049 Tây Ninh. Chị gái công tác ở Ngân hàng Hà Nội có lần đã bỏ trong thư 10 đồng gửi cho tôi. Tối đến tôi kéo cả tiểu đội ra quán chiêu đãi một bữa đến khuya về quá giờ bị anh Thống nạt.
Trung đoàn mở lớp tập huấn. “Cố vấn” truyền đạt kinh nghiệm đánh Pôn Pốt là anh Minh quê Anh Sơn, Nghệ An trợ lý tác chiến của F10. Có chuyện anh kể là trong trận F10 đánh ở cửa khẩu Sa Mát khi xung phong áp sát mới phát hiện tên địch đang quỳ ngắm bắn B41 sau ụ mối. Một cán bộ của ta đã nhanh tay rút quả đạn trong súng của địch và đập vào đầu hắn, liên lạc đi kèm lúc đó mới xoay súng bắn chết.
Từ tháng 3/1978, Đài ta liên tục phát đi thông báo tình hình Khơ Me đỏ gây chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam, mời Liên hiệp quốc cử phái đoàn vào quan sát để chứng minh tội ác của chúng và thiện chí của Việt Nam. Lúc này quân ta đã rút về hết bên Việt Nam cắm chốt dọc biên giới giữ đất kiểu “be bờ ngăn nước”.
Từ đây cho đến hết năm 1978 là giai đoạn khó khăn gian khổ nhất, hy sinh nhiều nhất trong suốt cuộc chiến Tây Nam. Tỷ lệ thương vong cấp quân khu, quân đoàn trở xuống là 12%. Quân đoàn 3 tính từ tháng 11/1977 đến tháng 6/78 hy sinh trên 1600 người, quân bình bắn một, hai tấn đạn thì mới diệt được
một tên địch. Đã có nhiều chỉ huy nổi tiếng trong đánh Mỹ thân bại danh liệt bởi đối tượng tác chiến mới này. Vì lượng đạn tiêu thụ quá lớn nên khi F31 vào thực hành chiến đấu, Quân đoàn luôn nhắc việc tiết kiệm. Có lẽ do được cấp ít đạn nên Sư đoàn đã phải tổ chức xe ra kho dự trữ hồi giúp Lào chống Mỹ ở tận huyện Con Cuông Nghệ An cách cả ngàn km để vận chuyển vũ khí vào Tây Ninh, coi như là của riêng vậy.
Ngày 10/4/78 Trung đoàn tổ chức bắn kiểm tra đạn thật bài “bia thằng còm” tại núi Bà Đen cho cán bộ A, B. Trong lúc chờ đến lượt tôi đang xem mấy chiếc xe tăng chạy ra chạy vào bắn lô cốt ở bãi bên cạnh thì có lệnh lên ô tô về cứ. Về đến nơi được phổ biến: làm công tác chuẩn bị để vào Sa Mát thay chốt. Như vậy là chỉ mới có cán bộ được tập huấn còn đơn vị chưa hề được huấn luyện chiến đấu.
Ngày nhập ngũ đã xác định không trở về nhưng miền Nam giải phóng tôi lại mơ hết nghĩa vụ 5 năm để phục viên rồi học đại học. Không ngờ cùng đồng đội bị đẩy vào cuộc chiến mới.
Người xưa nói “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay người đi chinh chiến có mấy ai trở về). Tôi cũng không hy vọng ngày trở về. Gói đôi dép nhựa trắng Tiền Phong chiếc kính râm Đức cùng mấy thứ lặt vặt gửi lại hậu cứ với ý nghĩ nếu tôi ngã xuống thì đó sẽ là di vật kỷ niệm của mình để lại cho gia đình. Tôi viết thư về nhà nói rõ là đi chiến đấu và an ủi cha mẹ rằng: Nhà ta đông con trai nhưng chỉ có con làm nghĩa vụ xương máu với Tổ quốc, nếu có bề gì mong cha mẹ đừng buồn vì so với nhiều gia đình khác sự hy sinh của con chẳng thấm tháp gì…
Bỏ quyển nhật ký vào đáy ba lô, còn mấy quyển sách giáo khoa cô bé hàng xóm cho nghĩ cũng chẳng để làm gì nên đem đốt. Nhớ tới người cho sách, tôi viết mấy dòng gửi về đại khái thông báo là đã đốt hết sách giáo khoa mà hắn ta dày công tìm kiếm để gửi cho tôi ôn thi đại học… mọi chuyện sau chiến tranh nếu còn sống về sẽ tính tiếp. Thư đề ngày gửi 11/4/1978, bây giờ đã gần 40 năm vẫn còn trong tủ của hắn. Mỗi khi tôi lên lớp
cho con của tôi về ý chí khát vọng được học tập, hắn vẫn hay chen ngang khoe công lao đã tìm sách cho tôi vì thời đó sách giáo khoa cực hiếm.
Công bằng mà nói nhờ những cuốn sách đó mà năm 1995 khi Bộ Quốc Phòng chủ trương “Đại học hóa sỹ quan” tôi bị cử đi học Sỹ Quan Lục Quân một để “hoàn thiện kiến thức” lấy bằng đào tạo dài hạn. Do nghĩ học hay không học thì mình cũng chỉ đến thế nên tôi chần chừ định không đi suýt bị kỷ luật. Khi xuống trường thì học viên đã tập trung trước cả tháng ôn môn toán và chiến thuật để thi đầu vào. Chỉ có duy nhất một buổi nghe thầy hệ thống lại kiến thức hôm sau thi tôi đã làm được 4/5 bài toán trong khi gần như toàn bộ sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường quân sự quân khu mới thôi học phổ thông 3-4 năm dù đã được học ôn vẫn ngồi gặm bút. Thầy giám thị xem bài làm của tôi gật gù rồi bỏ ra ngoài để cho họ tự do chuyền tay chép theo. Bài thi toán của tôi - lính già nhất bỏ bút cầm súng đã 20 năm - được 7 điểm cao nhất khóa.
Vào trận
Sau hai tháng được nhập về quân đoàn 3 biên chế của sư 31 vẫn chưa hoàn thiện. Ngoài trung đoàn 866 bọn tôi đã ổn định được tổ chức tuy rằng cán bộ đại đội chưa biết hết mặt lính và quan trọng nhất là chưa được huấn luyện chiến đấu thì trung đoàn 922 vẫn chưa kiện toàn xong. Thậm chí E977 mới thành lập được hai tiểu đoàn, còn một tiểu đoàn đang nằm trên giấy tờ, quân chưa có. Mặc dù vậy do yêu cầu nhiệm vụ quân đoàn quyết định đưa trung đoàn 866 vào thay chốt cho đơn vị bạn ra củng cố.
…Ngày 12/4/1978 chúng tôi nhận 10 ngày lương thực và một cơ số đạn hành quân bộ ra biên giới. Đến Tân Lập gần sân bay Thiện Ngôn nghỉ mấy ngày tranh thủ đi chợ Sa Mát cách tiền duyên phòng ngự độ 2-3 km. Chợ trong tầm pháo cối của địch nhưng vẫn nhộn nhịp người mua bán với sản phẩm nhiều nhất là rượu, thuốc rê. Lính không có tiền, đi đầu dãy đến cuối dãy giả vờ mua rượu rồi đòi thử mỗi hàng chỉ một chén là say khật khừ. Thuốc rê Tây Ninh nặng, khét chưa từng có vẫn vo cuốn hút thử rồi dập lửa cho vào túi quần mang về dự trữ. Dân biết phần đa lính chỉ thử để uống hút chạc nhưng vẫn mời chào đon đả Nếu không có những người lính đầu tóc quần áo đỏ quạch đất ở chốt ra mang AK có hai băng đạn buộc tráo đầu nhau hoặc thắt lưng đeo sệ lựu đạn US đi lại ngó nghiêng xem hàng, thử hàng hay ngồi nhâm nhi ly cà phê thì khách phương xa đến chắc hẳn không ai biết đó là chợ đường biên thời chiến. Đạn bom chết chóc dường như ở tận nơi nào chứ không phải ở đây.
Chúng tôi được xem một tối phim đặc biệt trong đó có phim tài liệu “Tội ác trời không dung, đất không tha” nói về tội ác của Khmer đỏ tháng 9 năm 1977 đã bao vây đánh chiếm đồn biên phòng Sa Mát, tràn vào xã Tân Lập nơi chúng tôi đang tạm dừng
giết hơn 500 người dân và thầy cô giáo để bộ đội xác định quyết tâm chiến đấu.
Đến lúc này tôi chỉ mới biết tên được khoảng quá nửa đại đội vì quân mới bổ sung nhiều trong đó có lính hỏa lực vừa học 3 tháng ở Dục Mỹ ra. Tiểu đội có thêm hai thằng Tường, Sợi người Hải Hưng xạ thủ B41 nhưng thằng B quê Hoài Đức, Hà Tây lại đảo ngũ. B. đã có vợ và hát nhạc vàng hay, đêm tối nằm giữa rừng hắn hát “…đom đóm chiều hôm bay thật nhiều…” rồi bài “…Tôi chỉ là người lính phong trần thấy hoa nhớ người yêu phương xa…” nghe buồn nhưng tôi thích.
Mọi người khâu lên nắp áo trái một miếng vải trắng ghi chữ T2U7 (ký hiệu tiểu đoàn hai đại đội 7) để dễ nhận nhau cả lúc sống và chết. Lính F10 khi đó khâu bằng vải vàng cũng nắp túi trái còn lính Quân khu 7 khâu vải vàng bên vai trái.
Khuya ngày 17/4/1978 toàn D hành quân theo trục đường 22 thẳng tiến rồi rẽ phải. Khi C tôi rẽ được độ hơn 100m thì hàng loạt đạn đại liên và cả M79 bắn vào C6 phía trước. Nằm chờ rất lâu mới có lệnh đi tiếp, hóa ra đồn Biên phòng 27 Sa Mát thấy động bắn ra may không ai việc gì? Chẳng hiểu sao hồi đó không chọn đường khác mà lại phải đi trước mũi súng của chốt biên phòng?
Nắm dây ba lô nhau lần mò trong rừng mờ sáng ngày 18/4/1978 cả tiểu đoàn đến trận địa cối 82 của E28 gần đường Trần Lệ Xuân. Con đường do vợ Ngô Đình Nhu mở dọc biên giới từ Sa Mát sang Cà Tum để khai thác gỗ từ năm 1962 trở thành con đường máu lửa trong trận càn Gianxonxiti của Mỹ tấn công vào căn cứ của Trung ương Cục Quân giải phóng giờ lại là con đường máu lửa thời đánh Miên.
Trong lúc ngồi nghỉ hỏi han tìm đồng hương, lính E28 kể cho chúng tôi địch thường phục kích trên đường này. Chúng cài mìn vào gốc cây, ụ mối ven đường rồi núp trong rừng chờ ta đi ngang là nổ súng. Lính ta theo phản xạ thường lao vào gốc cây, ụ mối tránh đạn là bị dính mìn. Có lúc chúng ăn mặc giống bộ đội Việt
Nam đội mũ cối sụp mặt đi ngang nhiên trên đường khi đến gần ta chúng xả súng bắn rồi chạy vào rừng. Trò đánh lén của địch làm ta tổn thất nặng nề nhất là lính thông tin, vận tải đi lẻ.
Đến giữa buổi sáng C tôi theo trinh sát vào K1 thay chốt cho một đơn vị của E28 ra nghỉ củng cố. Con đường tăng tính từ đường Trần lệ Xuân vào K1 dài chỉ khoảng 7-800m đi dưới tán rừng nguyên sinh là con đường đẫm máu nhất trên toàn tuyến Cà Tum đến Lò Gò vì kể từ khi chúng tôi thay chốt cho đên khi bàn giao cho sư 302 Quân khu 7 chỉ 4 tháng đã có vài chục bộ đội ta hy sinh chưa kể số bị thương bới địch phục kích.
Nơi chúng tôi thay chốt là bình độ 30 trên đó có đài quan sát K1 của quân đoàn, đó là điểm chốt nằm nhô ra cao nhất trên tuyến chốt của sư đoàn, các đơn vị trước đây vẫn gọi là khu Tam giác xanh vì nhìn trên bản đồ UTM của Mỹ đó là một tam giác màu xanh thể hiện rừng già.
E866 gọi là chốt K1 hay chốt U7 (C7).
Đài quan sát K1 của quân đoàn nằm phía Bắc của chốt là một cây cổ thụ to độ 3-4 người ôm cao khoảng 3-40m nhô khỏi tán rừng, ngọn của cây bị đạn phát quang trơ lại những cành cụt toe đan ngang dọc, thân phía địch dày đặc vết đạn nát thành xơ, thân phía ta được đóng đinh cầu làm bậc để trèo. Tôi cũng đã có lần trèo lên đó để quan sát, đứng trên đài nhìn rộng hai bên hàng chục km sâu vào quá đường 7 trên đất địch. Nếu địch bắn 12 ly 7 cũng yên tâm vì đạn không thể xuyên cây. Dưới gốc của nó là hầm của trinh sát, thông tin bộ, pháo đủ các cấp từ trung đoàn đến Quân đoàn. Mạnh ai nấy đào nên rất lộn xộn khó tác chiến khi địch tấn công vào mặc dù quân số tính ra có khi gần cả trung đội.
Từ Đài K1 đi vài chục mét hết rừng cây rồi qua bãi trảng lúp xúp bụi rộng 1-200m là đầm nước. Phía Tây bắc đầm trên đất địch có một đường bình độ nhìn trên bản đồ giống hình con vịt nên lính gọi là đồi Con vịt. Ở đó chúng bố trí một khẩu 12 ly 7 mm thường xuyên bắn sang chốt làm ta bị thương vong nhiều, Riêng thằng xạ thủ 12.7 địch có biệt tài bắn súng theo nhịp điệu đánh trống mà ngay cả các tay trống đám cưới bây giờ chưa chắc đã gõ hay bằng. Mỗi lần nó bắn nghe bên kia nổ: tùng tùng… tùng…tùng tùng đạn bay sang ta trúng cây nổ toác toác… toác…toác toác, …cây to bằng bắp chân người lớn chỉ cần trúng
một viên là ngã gục, Có lần tôi và Tường đi tắm về nhảy xuống hầm nuôi quân tán phét thì có một lính thông tin của Đài gánh hai ống DKZ lấy nước đi sau trên dưới 10 mét bị nó bắn trúng lưng phá banh ngực. Nghe đâu đó là con của một cán bộ cấp tá trên bộ tư lệnh Quân đoàn. Đứng trên Đài thấy rất rõ khẩu 12 ly
7 vì chúng không thèm ngụy trang. Xót lính và cay cú cuối tháng 6 anh Côi D trưởng đã sử dụng cối 82 quyết diệt. Lúc đầu B trưởng cối trèo đài chỉnh đạn, bắn hơn 30 quả vẫn không trúng nên đích thân anh Côi trèo lên để chỉnh và đến quả thứ 43 thì đạn đánh đáo trúng cửa hầm tiêu diệt hoàn toàn khẩu đội 12 ly 7 này, địch phải khênh 6-7 cáng về phía sau. Chắc chúng khiếp ba đời nên từ đó không thấy thay khẩu khác để bắn sang nữa.
Đầm nước này là khởi nguồn con suối Đà Ha chạy ngay trên đường biên giới phía Tây chốt xuôi về Lò Gò đổ vào sông Vàm cỏ Đông. Khi học quân chính ở Hiệp Hòa Hà Bắc có trung tá Thược làm hiệu phó nguyên là một trong những chỉ huy F10 hồi đánh Mỹ nổi tiếng nhưng khi giữ chốt trên tuyến Sa Mát Lò Gò bị xiêu điêu nên học viên hay ngâm nga trêu ông.
“Sư mười đánh suối Đà Ha.
Cha con ông Thược cứt ra cả quần”.
Sông Vàm cỏ Đông gắn với bài hát “Anh ở đầu sông em cuối sông”, trong đám cưới của tôi có 3 người lên hát đều hát duy nhất bài này vì lúc đó tôi đang ở phía Bắc và hàng xóm đang ở trong Nam.
Phía Tây, Tây Nam của chốt là rừng cây nối dài sang đất Miên, Ngay sát đường biên dịch về phía Sa Mát địch chốt trên đường bình độ lính ta gọi là đồi Củ Lạc vì có hình giống củ lạc. Ở đó chúng bố trí cối 60, 82 và ĐKZ. Xa hơn cách biên giới độ 3-4 km là phum KhLong có một cụm pháo 105, bọn này ít bắn.
Hướng Đông bắc cách khoảng 1km là chốt C6 ở ngay ngầm Phum Soa, Tiểu đoàn bộ hai và C5, C8 được bố trí phía sau sát đường Trần Lệ Xuân, riêng C8 ở gần C6 hơn.
Lui hướng Đông sâu trong đất ta 3-4 cây số là Bò cây Sai nơi D1 chốt đồng thời cơ động cho E. Chẳng biết địch đi vào bằng đường nào nhưng ở Bò cây Sai chúng rất nhiều, từ đó đến Cầu 15 vẫn là địa bàn của F10 sau này E977 thay. Từ Cầu 15 đến suốt huyện Lộc Ninh là Quân khu 7 đảm nhiệm.
Chếch hướng Nam C7 có chốt của C9. Từ C9 qua đường 22 đến Bàu Lung Tung là hướng đảm nhiệm của D3. Từ đó xuôi đến Lò Gò là tuyến chốt của E52 F320 sau này E922 thay thế rồi tiếp đến chốt Quân đoàn 4 vùng Mỏ Vẹt kéo xuống tận Long an.
Như vậy cả Trung đoàn 866 đã thành một cụm chốt liên hoàn có tiền duyên khoảng 7-8 km và chiều sâu 5-6km. Theo hợp đồng E28 sẽ để lại toàn bộ cơ số đạn và gạo dự trữ nhưng khi thay chỉ thấy hầm còn đạn gạo không có, thậm chí chúng tôi chưa vào đến nơi bạn đã rút ra hết. Cũng cung cách như vậy phía cửa khẩu Sa Mát khi D3 chưa vào E28 đã rút ra địch bám theo nhảy vào chốt nên D3 phải đánh chiếm lại. Do Miên ít quân nên hậu quả không lớn, ở Vị Xuyên Hà Giang nếu thay quân kiểu đó thì mất sạch chốt.
Ở Vị Xuyên trước khi thay chỉ huy C, B phải đến từng hầm để nắm địa hình, cách bố trí binh hỏa lực, thuộc lòng các phương án tác chiến của đơn vị cũ và tình hình địch các hướng, về nhà lên kế hoạch bố trí đến từng cá nhân. Thay mỗi chốt phải kéo dài ít ra 5-7 ngày vì từng hầm quân mới phải thay dần quân cũ, bao giờ quân mới quen địa hình và cách tác chiến của Tàu quân cũ mới rút hết và khi quân cũ đã rút hết chỉ huy cũ phải ở lại kèm chỉ huy mới vài ngày nữa mới yên tâm. Chính C7 do chủ quan và nể đồng hương khi thay chốt lão Ninh C trưởng cho chỉ huy cũ thuộc Quân khu hai rút ra ngay nên sau bàn giao chưa đầy 24 tiếng đã để mất mỏm H3 trên điểm cao 685. (Ở Sa Mát (Tây Nam) và Vị Xuyên (phía Bắc) C7 đều phải ở nơi ác liệt nhất của cụm chốt trung đoàn).
1-bản đồ bố trí cụm chốt E866 ở Sa Mát năm 1978.
2-Rừng miền Đông.
3-Mỏm H3 ở Vị Xuyên Hà Giang C7 để mất ngày 2/12/1985.
Anh Thống quán triệt E28 đã cài mìn xung quanh chốt yêu cầu lính không đi lại lung tung nhưng thực tế chỉ có bãi mìn từ chỗ Đài quan sát ra hướng Đông Bắc do lính trinh sát cài để ngủ
cho ngon vì hướng đó không có bộ binh chốt. Còn lại suốt quá trình ra vào khắp các hướng tôi chỉ thấy duy nhất một quả lựu đạn cài dưới gốc cây săng lẻ cách hầm mình độ 15m. Sau khi phá vây đi thăm đồng hương bên đài quan sát tôi thấy một hầm toàn mìn râu tôm của Mỹ hóa ra E28 nhận mìn nhưng không cài mà vẫn nói là có, thật là nguy hiểm nếu cứ tin vào đơn vị bạn.
Đại đội chốt theo hình móng ngựa, khẩu đại liên cùng B9 do anh Hoan (Thanh Mai, Thanh Chương) B trưởng giữ hướng Tây tây bắc, đây là hướng chủ yếu nhưng thực tế địch chưa bao giờ đánh vào đó.
Anh Hoan ở D7 về làm B trưởng thay anh Mùi lên C phó nên tôi mới quen sơ. Sau khi phá vây anh sang E922 làm C phó rồi bị thương nặng ra Bắc. Năm 2005 tôi và anh Quang nguyên tác chiến E là phó chủ tịch hội CCB huyện đến thăm, anh không nhớ
tôi phải nhắc chuyện chốt U7 anh mới nhận ra. Được mấy năm sau thì anh mất do bạo bệnh.
Tiểu đội Đại liên do Nguyễn Hồng Trường quê Diễn Châu chỉ huy, Trường sau này làm trợ lý thanh niên Quân đoàn nghỉ hưu hàm thượng tá mới mất cách đây ít năm vì bệnh hiểm nghèo. Khẩu đội trưởng khẩu một là Luật ở F320 sang, người nhỏ quắt mắt luôn nhìn xuống. Trong tất cả các trận có sử dụng đại liên thì thường khẩu hắn chỉ huy thường chỉ bắn 1-2 loạt rồi hô súng hóc không bắn nữa. Trải qua hàng chục trận đánh nhưng khẩu đại liên này có lẽ bắn chưa hết một băng đạn, ra Bắc Luật cũng lủi thủi một mình rồi phục viên.
Đại liên lúc đầu có hai khẩu sau quân số hao hụt nhiều đại đội chỉ sử dụng một khẩu, đến đợt 4 chiến dịch A88 đánh vào Rô Viêng ở Puốc Sát không sử dụng đại liên nữa, súng được trả cho trên, lính biên chế về các trung đội bộ binh.
Khu vực chốt trước đó là sở chỉ huy của trung đoàn 28 khi ta đánh sang Cam phu chia dạo tháng 12/1977 nên các hầm được làm tương đối chắc chắn. Trước cửa hầm trú ẩn nào cũng có hầm thùng để sỹ quan sinh hoạt nhưng không phù hợp cho bộ binh tác chiến. Đơn vị chốt trước đây cũng không hề cải tạo, họ chỉ đào giao thông hào nối từ hầm chỉ huy sang hầm cối và hầm hậu cần, còn lại phải cơ động trên mặt đất.
Hầm đại đội to nhất, 3-4 người mắc võng nằm ngang được tưởng chừng như nằm giữa đội hình nhưng thực tế sau này khi địch tấn công nó lại nằm gần rìa chốt.May là phía đó có hàng rào sừng hươu rộng trên dưới 30m và hai bên cánh nhô ra là các hầm của trung đội tôi bảo vệ Trong chốt có rất nhiều cây cổ thụ to cỡ vài người ôm, lối đi lại nối các hầm được phát quang. Rừng xung quanh vẫn còn nguyên sơ 3 tầng. Tầng cao nhất là những cây cổ thụ cỡ người ôm trở lên, dưới tán của nó là những cây to bằng cổ chân cho đến gần bằng thân người chen nhau vươn. Tầng thấp là cây.
nhỏ và bụi rậm rạp chắn ngang tầm mắt cách độ 10-15 mét khó thấy nhau.
Tiểu đội tôi được bố trí phía nam của chốt gồm hai hầm gần nhau khoảng 7-10m, cách hầm C khoảng 5-60m, hầm thằng Trạm rộng hơn ở 4 người, hầm tôi 3 người.
Tôi giữ M79 cùng Tường tuy học B41 nhưng giữ AK và thằng Phước trung liên ở một hầm. Căn hầm làm theo kiểu chữ A. Một kiểu hầm mà khi tôi mới 5, 6 tuổi đã thấy cha mẹ tôi làm để tránh bom Mỹ và tôi thường được ngủ dưới đó mỗi đêm khi máy bay Mỹ đánh. Nền hầm lát bằng gỗ thùng đạn hai người nằm nghiêng mới đủ. Ngoài cửa hướng Đông là hầm thùng đào sâu độ 1, 4 m rộng vài mét vuông, phía trên được che bằng cành cây lá đã khô, khi trời mưa chỉ cần căng tăng phía dưới là ổn. Trung đoàn 28 quân ít hơn nên ở hai người một hầm, khi đánh nhau mỗi người một cửa đứng bắn, chúng tôi đông gấp đôi nên quá chật. Do đó ăn trưa xong tôi dục mọi người đào hào nối hai hầm để có chỗ chiến đấu. Đất ở đây mềm nhưng lắm rễ cây khó đào nên cả buổi chiều chỉ sâu được ngang đầu gối. Buổi tối hầm nào gác hầm đó đề phòng địch tập kích.
Quá trưa 19/4 hướng C6, C8 súng nổ rộ từng đợt từng đợt, đến tối mới tạm lắng… Sau này mới biết là bên đó đêm tối địch vào đào công sự ở gần chốt ta chúng hút thuốc thơm quá nên thằng Tình người Diễn Châu ở C6 tưởng là quân ta chạy sang vỗ vai xin thuốc bị địch bắn chết treo xác lên ngọn đa, C6 mới vào chưa biết mô tê gì đã phải đánh hất địch ra xa lấy lại xác.
Lấy được xác thằng Tình nhưng địch lại tấn công cả vào C6 và C8, cả hai C phải đánh trả cả ngày vất vả.
Đêm tối thằng Th. quê Hà Tây ở C8 ném lựu đạn rồi hô diệt được mấy tên địch. Hồi đánh Tà Keo, Th khi đó ở C5 bị thương nhẹ ở trán vẫn chiến đấu, nay để khích lệ lính anh Điền CV liền đề nghị trên thưởng huân chương và sang tháng 5 thấy tờ tin của đoàn Thịnh Long viết về hắn. Đáng tiếc khi ai đó ngồi viết
bản tin thì Th đã đảo ngũ. Chuyện diệt địch là bịa, anh Điền sau phải cải chính với tiểu đoàn.
Trong vòng vây
Ngày 20/4, tầm 9 giờ sáng đang ăn cơm bất ngờ một loạt đạn B40-B41 từ ngoài phóng vượt qua hầm nổ sâu hướng C bộ rồi hàng loạt đạn đại liên trung liên đanh giòn bắn vào. Chúng tôi vội về vị trí chiến đấu. Lần đầu tiên trong đời bị bắn, thấy thần chết lừng lững trước mặt, nghe tiếng bép… bép của đầu đạn chạm vào lớp cây che trên hầm thùng có cảm giác như đạn nổ hai lần tôi hơi run phải khom người nép vào thành hào không dám thò đầu lên còn mấy thằng kia lại quỳ hẳn xuống lòng hào nhìn tôi. Đến khi nhìn dấu đạn trên cây thấy đường đạn địch đi cao so với thành hầm hơn một mét tôi mới dám đứng thẳng để quan sát. Mọi người thấy thế cũng bình tĩnh làm theo. Địch ở gần đến mức chỉ chốc lát khói súng của chúng đã trùm trận địa ta, tôi nhắc anh em chờ chúng vào sát thấy rõ hãy bắn.
Địch chưa phát hiện trận địa ta ở đâu nên cứ bắn loạn xạ đến khi trước công sự tôi mấy chục mét có một thằng bắn quả B41 đi chệch ra ngoài chốt (.Cây rậm tôi chỉ thấy đụn khói bùng lên và điểm nổ xiên ra phía ngoài trận địa chứ cũng không thấy người địch) Ngon ăn thằng Sợi nhanh tay thổi một quả b41 trùm lên đám khói, vừa lúc tôi cũng dóng thẳng nòng M79 bóp cò, quả M79 va vào cây rồi rơi xuống không nổ. Tôi quát thằng Phước bắn trung liên nhưng nó đã chui vào hầm từ khi nào. Hét mãi nó mới chui ra ghếch càng súng lên bờ hào rồi chúi cổ bóp cò đạn bay lên trời. Anh em khác lúc này cũng đồng loạt bắn AK thế là trận địa bị lộ.
Lát sau địch ngừng bắn, chúng dùng cối từ đồi Củ Lạc, đồi Con Vịt và pháo lớn từ bên kia biên giới câu vào trận địa. Chúng tôi chui vào hầm, chỉ để thằng Tường cảnh giới. Hắn được huấn luyện nhiều ở quân trường Dục mỹ nên có vẻ bình tĩnh. Dứt loạt pháo cối là địch thi nhau bắn vào và hô… trô trô… Đứng trong công sự chúng tôi cứ nhằm vào nơi có tiếng hô mà bắn. Tôi bắn hết một dây M79 thì địch lùi ra và tiếp tục dã cối rồi súng bộ
binh bên ngoài lại bắn vào. Bọn này nghèo mỗi đợt chuẩn bị hỏa lực chỉ có vài chục quả chứ không như ở Vị Xuyên bọn Tàu phải nện vài ngàn quả. Ta cũng chẳng hơn gì địch, hôm vào chốt A cối chỉ mang được mấy chục quả nên im re không dám bắn sợ hết đạn.
Khói mù mịt khắp chốt, chúng tôi chẳng thấy gì chỉ nghi chỗ nào có địch là hướng nòng súng vào đó bắn. Mấy đợt như vậy thì địch im không bắn không hô nữa, chúng im cho đến mai. Ngày đầu mở hàng như vậy là tạm được, mọi người đã quen tiếng nổ, cả tiểu đội an toàn. Chỉ tội cổ họng tôi đắng ngắt khạc ra đờm lẫn từng sợi đen của khói rất khó chịu. Mấy cây cổ thụ bị bị cối nổ trên cành cũng te tua xác xơ. Hố pháo cối rải khắp nơi may không quả nào đánh đáo trúng hầm.
Trong loạt đạn B41 đầu tiên của địch có hai quả trúng nóc hầm của tiểu đội cối. Thằng S. trước ở tiểu đội tôi mới về cối bị choáng xỉu. Hắn người bé hay tẩm quất cho tôi và cùng bị ngộ độc rau muống dại ở An Giang. Đến tối S được đưa ra viện cùng mấy anh nữa rồi không quay lại đơn vị. Tháng 10/1978 tôi bị thương đi viện lần hai gặp hắn ở trạm Thu dung 37 của quân đoàn. S. ghé tai nói thật là khi ở trong chốt giả vờ xỉu, ra viện giả vờ điếc và giám định tạm thời được 21% xếp hạng 8/8 chờ ra Bắc, như vậy nó ở chốt được gần hai ngày. S. đi lính 7/77, năm ngoái hỏi tin biết nó ra quân về làm nghề thầy bói có tiếng ở huyện Thường Tín.
Ở hướng Tây, tây nam là anh Tú B trưởng phụ trách có 4 hầm, lúc sáng thằng Thu (Hương Sơn) và anh Tú thấy toán địch đi ngang chỉ cách trước hầm độ 10 mét nhưng nằm im không bắn để rồi chúng hợp với bọn khác tấn công hướng tôi. Khuya địch mò vào ném lựu đạn, thằng D. người Thường Tín lợi dụng tiếng nổ tự thương cụt ngón tay.
Sáng hôm sau 21/4/78 anh Quyền A trưởng cho hai người đưa nó về tiểu đoàn. Đi khỏi chốt một quãng thì bị phục kích D. bị trúng đạn vào sườn mọi người cõng nó chạy quay lại chốt,
mấy ngày sau nó hy sinh. Giá như nó đừng tự thương thì biết đâu vẫn sống đến ngày nay (tôi không viết tên đầy đủ vì dù sao nó cũng đã là liệt sỹ). Buổi trưa vận tải tiểu đoàn lên lấy thương binh đến đó lại bi phục kích phải cõng nhau chạy về. Địch đã thêm lực lượng hướng Đông Nam chốt chặn đường tăng nối C7 với tiểu đoàn. Anh Thống điện sang đài K1 hỏi tình hình, họ cũng không nắm được, chắc là lo chui hầm.
Rồi tiểu đội anh Quyền (Thanh Hóa) được phái đi xoi đường một lúc cũng phải quay về cõng theo thằng Vơn bị mảnh đạn trúng động mạch chủ ở bẹn máu chảy đầm đìa.
Không chịu bó tay anh Thống điều khẩu đại liên giá ngay trên mặt đất và gọi mấy A trưởng giữ M79 tập trung tại đoạn hào mới đào của bọn tôi rồi cho tiểu đội của anh Đông (10/74 Thanh Hóa) bò lên đánh thông đường. Khẩu đại liên khóa tầm hướng bắn từng loạt dài vào rừng, hai khẩu cối 60 cùng 6- 7 khẩu M79 đồng loạt bắn yểm hộ. Tôi cũng tham gia bắn hú họa vì chẳng biết địch ở đâu nhưng tiếng nổ của chừng ấy súng bắn cầu vồng chắc cũng đủ làm cho chúng hoảng sợ. Nổ súng khoảng 30 phút tiểu đội anh Đông quay trở về bị thương thêm 3 người, thằng Toàn đen kể nó đang quỳ định bắn B41 thì địch bắn trúng đầu đạn làm quả đạn nổ trên vai, nó chỉ bị một mảnh ở trán… Không ai nói gì nhưng tôi nghĩ chắc cu cậu giật mình bóp cò đạn nổ bay đi chứ nó nổ trên vai thì tan xác rồi (năm 2013 gặp nhau nó vẫn tin là bị đạn nổ trên vai).
Anh Đông A trưởng bị thương nhẹ ở tay báo cáo phía đó có nhiều hầm của ta trước đây nay địch ở và chúng đã chạy…… Ảnh 1: hình thái phòng ngự tháng 4/1978 ta đỏ địch xanh.
Ảnh2: Khuchiếnngàynayđãkhácxưa, chốtC7làdi tíchAnNinh, ngầm Phum Soađếncầu15làdi tíchTrungươngcục.