🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến Thắng Tây Bắc 1952 - Tầm Vóc Lịch Sử Và Bài Học Kinh Nghiệm
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung: TS. LÊ HỒNG SƠN PHẠM NGỌC KHANG
TRẦN TRUNG THÀNH
ĐINH ÁI MINH
PHAN THỊ HƯƠNG GIANG
PHẠM THỊ NGỌC AN
NGUYỄN PHƯƠNG THÙY
NGUYỄN THỊ VÂN
PHẠM DIỆU THU
Trình bày bìa: ThS. PHÙNG MINH TRANG Chế bản vi tính: NGUYỄN QUỲNH LAN Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT Đọc sách mẫu: NGUYỄN VÂN - DIỆU THU
BAN CHỈ ĐẠO HỘI THẢO
* TRƯỞNG BAN:
Thượng tướng LÊ HUY VỊNH Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
ĐỖ ĐỨC DUY Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái
PHAN XUÂN THỦY Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
* PHÓ TRƯỞNG BAN:
Trung tướng TRỊNH VĂN QUYẾT Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
Thượng tướng PHÙNG SĨ TẤN Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Thiếu tướng PHẠM HỒNG CHƯƠNG Tư lệnh Quân khu 2
TẠ VĂN LONG Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái
Thiếu tướng NGUYỄN HOÀNG NHIÊN Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, Bộ Quốc phòng
* CÁC ỦY VIÊN:
Thiếu tướng NGUYỄN VĂN CHÍNH Phó Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng
Trung tướng NGUYỄN VĂN ĐỨC Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị
Thiếu tướng CHU VĂN ĐOÀN Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Đại tá LÊ HỒNG TRƯỜNG Phó Cục trưởng Cục Tài chính, Bộ Quốc phòng Đại tá NGUYỄN ĐĂNG HƯỞNG Phó Chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu
VŨ THỊ HIỀN HẠNH Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái
ĐINH THỊ MAI Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương
NGUYỄN MINH TUẤN Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái
Đại tá TRẦN CÔNG ỨNG Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái
BAN NỘI DUNG
* TRƯỞNG BAN:
Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Trung tướng PHẠM ĐỨC DUYÊN Chính ủy Quân khu 2
* PHÓ TRƯỞNG BAN:
Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN VĂN SÁU Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Đại tá, PGS.TS. DƯƠNG HỒNG ANH Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự
TS. ĐINH THỊ MAI Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
NGUYỄN MINH TUẤN Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái
* CÁC ỦY VIÊN:
Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG Trưởng phòng Kế hoạch, quản lý khoa học và đào tạo, Viện Lịch sử quân sự
Đại tá PHẠM VIẾT KHÁNH Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái
NGUYỄN THANH SƠN Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái
Đại tá, TS. LÊ THANH BÀI Trưởng phòng Lịch sử Tư tưởng - Tổ chức quân sự, Viện Lịch sử quân sự
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN QUYỀN Phó Trưởng phòng Lịch sử Tư tưởng - Tổ chức quân sự, Viện Lịch sử quân sự
Thượng tá, TS. TRẦN ANH TUẤN Trưởng phòng Lịch sử quân sự Thế giới, Viện Lịch sử quân sự
Thượng tá, TS. CÔNG PHƯƠNG KHƯƠNG Phó Trưởng phòng Lịch sử Nghệ thuật quân sự, Viện Lịch sử quân sự
Trung tá, TS. LÊ VĂN CỬ Phó Trưởng phòng Lịch sử kháng chiến, Viện Lịch sử quân sự
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ, BỘ QUỐC PHÒNG
VỤ TUYÊN TRUYỀN, BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY YÊN BÁI
T
LỜI GIỚI THIỆU
hu - Đông 1952, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, giải phóng nhân dân,
phá âm mưu chiếm giữ Tây Bắc để khống chế căn cứ địa Việt Bắc, chia cắt chiến trường trong cả nước với chiến trường Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ Chỉ huy chiến dịch, sau gần hai tháng (14/10 - 10/12/1952), trải qua ba đợt chiến đấu, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Tây Bắc 1952; giải phóng gần 30 nghìn km2 đất đai, trên 25 vạn dân, đạt mục tiêu chiến dịch đã đề ra, tạo nên dấu mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thắng lợi Chiến dịch Tây Bắc 1952 là kết quả của quá trình thực hiện đường lối “kháng chiến, kiến quốc”, vừa chiến đấu vừa xây dựng, tạo cho quân và dân ta có đủ sức mạnh thực hiện được chiến dịch tiến công quy mô lớn trên địa bàn rừng núi, xa hậu phương; là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chiến đấu mưu trí, dũng cảm của lực lượng vũ trang; là sự đóng góp to lớn của đồng bào trên địa bàn chiến dịch và nhân dân cả nước đã tạo nên chiến thắng mang tầm chiến lược, đánh dấu bước phát triển mới, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc, thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tỉnh ủy Yên Bái tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia: “Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm”.
Các tham luận đã phản ánh khá toàn diện về Chiến dịch Tây Bắc 1952, khẳng định và làm sâu sắc hơn về tầm nhìn chiến lược của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh,
8 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Bộ Chỉ huy chiến dịch; ý chí, tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của bộ đội chủ lực và các lực lượng tham gia chiến dịch; phân tích, làm rõ thêm những nét đặc sắc, sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam, ý nghĩa của chiến thắng Tây Bắc với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở các bài tham luận, Ban Tổ chức Hội thảo đã phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách cùng tên, giúp cho đông đảo độc giả có tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về chiến thắng mang tầm chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cuốn sách gồm 3 phần:
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung.
Phần thứ hai: Bước phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phần thứ ba: Tầm vóc, ý nghĩa và bài học lịch sử.
Tuy Ban Tổ chức Hội thảo và Nhà xuất bản đã rất cố gắng nhưng cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Rất mong bạn đọc góp ý để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 10 năm 2022
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC Thượng tướng, TS. LÊ HUY VỊNH*
Thưa các đồng chí!
Cách đây 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã mở Chiến dịch Tây Bắc và giành thắng lợi. Chiến thắng Tây Bắc là một sự kiện quan trọng trong tiến trình kháng chiến chống thực dân Pháp, thể hiện tầm nhìn chiến lược, chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh. Nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc (1952-2022), Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Yên Bái tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề: “Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm”.
Thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Ban Chỉ đạo Hội thảo, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo các cơ quan Trung ương; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Yên Bái và các tỉnh, thành tham dự Hội thảo; các đồng chí lão thành cách mạng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhân chứng lịch sử; các đồng chí tướng lĩnh, sĩ quan; các nhà khoa học; các quý vị đại biểu, khách quý, cùng toàn thể các đồng chí về dự Hội thảo khoa học quan trọng này. Kính chúc các đồng chí luôn mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
_____________
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo.
10 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thưa toàn thể các đồng chí!
Nhằm giành lấy những thắng lợi quan trọng để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đi đến thắng lợi quyết định, Hội nghị Ban Chấp Trung ương lần thứ ba (tháng 4/1952) đã nghiêm túc kiểm điểm, quán triệt đường lối kháng chiến trường kỳ, phương châm, nhiệm vụ chiến lược và thống nhất chủ trương: Tiếp tục phát huy quyền chủ động chiến lược, mở chiến dịch tiến công địch trong Thu - Đông 1952 với phương châm: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm sơ hở của địch mà đánh. Theo đó, tháng 9/1952, trên cơ sở phân tích, đánh giá tương quan lực lượng khách quan và khoa học, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch tiến công Tây Bắc nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, giải phóng đất đai, giành dân, phá âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Sau gần 2 tháng tiến hành chiến dịch (14/10 - 10/12/1952), trải qua 3 đợt chiến đấu, mặc dù trong đợt 3 đánh tập đoàn cứ điểm Nà Sản không thành công, nhưng về tổng thể, ta đã thực hiện thắng lợi quyết tâm của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng phần lớn đất đai và nhân dân các dân tộc trên địa bàn chiến lược, phá được âm mưu chiếm đóng của địch; nối thông Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thượng Lào và căn cứ địa cả nước.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc là tổng hợp của nhiều nhân tố, là kết quả của quá trình 7 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, là kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, trực tiếp là các đơn vị chủ lực của Bộ cùng quân và dân các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Lai Châu (nay là Lai Châu và Điện Biên) và các chiến trường phối hợp. Thắng lợi của chiến dịch đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam, đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên tầm cao mới; tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để quân và dân ta giành được thắng lợi quyết định trong Đông - Xuân 1953-1954, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), để lại nhiều bài học quý báu, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO KHOA HỌC 11
Thưa các đồng chí!
Cuộc Hội thảo khoa học hôm nay được tổ chức trên mảnh đất Yên Bái lịch sử, là nơi mở màn Chiến dịch Tây Bắc, giành được thắng lợi to lớn trong đợt 1 của chiến dịch, đập tan toàn bộ phòng tuyến vòng ngoài của địch từ hữu ngạn sông Thao đến tả ngạn sông Đà, tạo đà cho quân và dân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến dịch đề ra.
Hội thảo khoa học là hoạt động thiết thực kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc, là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ôn lại truyền thống đấu tranh anh dũng của các thế hệ cha anh, tưởng nhớ đến đồng bào, đồng chí đã chiến đấu, hy sinh trong cuộc kháng chiến trường kỳ bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, trong đó có Chiến dịch Tây Bắc. Kết quả của Hội thảo sẽ góp phần hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ và khát vọng hòa bình, củng cố niềm tin và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng đoàn kết một lòng vượt qua mọi gian lao, thử thách; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phủ nhận giá trị lịch sử và hiện thực của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, Chiến dịch Tây Bắc nói riêng; đồng thời, thông qua Hội thảo giúp chúng ta nhận thức sâu sắc tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
Với ý nghĩa đó, thay mặt Ban Chỉ đạo, tôi tuyên bố khai mạc Hội thảo khoa học: “Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm”.
Xin trân trọng cảm ơn!
PHÁT BIỂU
CHÀO MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC
ĐỖ ĐỨC DUY*
Kính thưa các đồng chí!
Tỉnh Yên Bái rất vinh dự, tự hào được lựa chọn để phối hợp cùng với Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm”, là hoạt động tiêu biểu trong chuỗi sự kiện kỷ niệm 70 năm Chiến dịch Tây Bắc (1952-2022).
Thay mặt Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Yên Bái, tôi nhiệt liệt chào mừng, trân trọng cảm ơn và xin gửi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; lãnh đạo các cơ quan Trung ương và địa phương, các nhân chứng lịch sử, nhà khoa học, quý vị đại biểu, khách quý về dự Hội thảo khoa học quan trọng và đầy ý nghĩa này. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Kính thưa các đồng chí!
Chiến thắng Tây Bắc 1952 là dấu mốc có ý nghĩa to lớn cả về quân sự và chính trị, khẳng định tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta; là tiền đề quan trọng cho những chiến thắng tiếp theo, tiến tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
_____________
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái, đồng Trưởng ban Chỉ đạo Hội thảo.
PHÁT BIỂU CHÀO MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC 13
Là địa bàn diễn ra đợt 1 của chiến dịch, quân và dân Yên Bái tự hào đã đóng góp sức người, sức của làm nên chiến thắng, cùng bộ đội chủ lực giải phóng quê hương, tạo tiền đề cho Chiến dịch Tây Bắc giành thắng lợi. 70 đã năm trôi qua nhưng âm vang thắng lợi vẫn in đậm trong tâm trí của quân và dân các dân tộc tỉnh Yên Bái, là niềm tự hào và là nguồn động lực to lớn, thôi thúc các thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, khí thế tiến công, tinh thần chiến thắng của Chiến dịch Tây Bắc, ra sức thi đua cống hiến cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển quê hương, đất nước.
Kính thưa các đồng chí!
70 năm sau chiến thắng Tây Bắc, từ một tỉnh nghèo, nền kinh tế tự cung tự cấp, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến nay Yên Bái đã xây dựng nền kinh tế vững chắc với tốc độ tăng trưởng GRDP hằng năm luôn ở mức khá so với các tỉnh trong vùng và so với mặt bằng chung cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực.
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, các huyện vùng cao luôn ở tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, nay trở thành một tỉnh có nền nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa, chuyên canh, tập trung quy mô lớn với hàng chục sản phẩm chủ lực, đặc sản; hàng trăm sản phẩm OCOP chất lượng cao; xây dựng nông thôn mới là điểm sáng của các tỉnh khu vực Tây Bắc.
Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế được quan tâm đầu tư đồng bộ; trên địa bàn tỉnh có 8 cây cầu bắc qua sông Hồng, cùng với hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai góp phần hoàn thiện hệ thống giao thông liên kết vùng, liên vùng, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Văn hóa - xã hội luôn được quan tâm chăm lo và có nhiều tiến bộ. Từ chỗ trên 90% dân số mù chữ, đến nay 100% huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non, chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3,
14 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2; chất lượng giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân không ngừng được nâng lên. Bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn, phát huy, trở thành động lực cho phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần, chỉ số hạnh phúc của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng - an ninh được giữ vững.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực; phương thức lãnh đạo của Đảng được đổi mới mạnh mẽ; vai trò, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp được nâng lên; khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường.
Kính thưa các đồng chí!
Trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, đến nay Yên Bái có diện tích tự nhiên gần 6.887km2, gồm 9 đơn vị hành chính cấp huyện (trong đó có 1 thành phố, 1 thị xã), có 173 xã, phường, thị trấn; dân số trên 84 vạn người với trên 30 dân tộc anh em. Người dân Yên Bái có truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước nồng nàn; anh hùng, bất khuất trong đấu tranh cách mạng; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, quân và dân tỉnh Yên Bái luôn đoàn kết, đồng lòng cùng với quân và dân cả nước viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử, là những chứng tích oanh liệt về những chiến thắng vẻ vang của dân tộc, những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những nét đẹp văn hóa, con người Yên Bái, cũng như những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển tỉnh Yên Bái. Đó là: Địa danh Chiến khu Vần - nơi có vai trò quyết định trong việc chuẩn bị lực lượng giành chính quyền hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ trong Cách mạng Tháng Tám; khu di tích Căng và Đồn Nghĩa Lộ đã trở thành tượng đài của chiến thắng Tây Bắc; đèo Lũng Lô, bến Âu Lâu lịch sử đã đi vào huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; hồ và thủy điện Thác Bà - cánh chim đầu đàn của ngành thủy điện Việt Nam với diện tích trên 23.000 ha và trên 1.300 đảo được ví như vịnh Hạ Long trên núi; danh thắng quốc gia đặc biệt ruộng bậc thang Mù Cang Chải là kết tinh của quá trình lao động sáng tạo, chinh phục thiên nhiên của đồng bào Mông; nghệ thuật
PHÁT BIỂU CHÀO MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC 15
Xòe Thái mê đắm lòng người đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, v.v..
Thay mặt lãnh đạo, nhân dân tỉnh Yên Bái, trân trọng kính mời các quý vị đại biểu, khách quý sau Hội thảo hãy dành thời gian lưu lại để đi thăm, tìm hiểu và trải nghiệm về những địa danh gắn liền với chiến thắng Tây Bắc; về truyền thống, văn hóa, lịch sử, những nét đẹp của mảnh đất và con người Yên Bái anh hùng, bất khuất trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và nay đang đoàn kết, quyết tâm, xây dựng Yên Bái theo hướng “Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”.
Kính thưa các đồng chí!
Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái luôn trân trọng, ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã không tiếc xương máu, anh dũng chiến đấu, hy sinh góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Tây Bắc năm 1952 nói riêng và trong suốt sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc nói chung.
Hội thảo là dịp để chúng ta hiểu rõ hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến thắng Tây Bắc năm 1952; tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; tự hào về lịch sử vẻ vang và những thành tựu to lớn mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã đạt được. Đây cũng là dịp để củng cố, bồi đắp thêm về lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc; giáo dục truyền thống, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường và khát vọng cống hiến cho thế hệ trẻ cả nước nói chung, trong đó có tỉnh Yên Bái; càng thêm tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần tiếp thêm sức mạnh, nghị lực và quyết tâm phấn đấu cho mục tiêu xây dựng, phát triển quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh hạnh phúc.
Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự quan tâm chỉ đạo, động viên của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự tham gia nhiệt huyết, trách nhiệm của các nhân chứng lịch sử, nhà khoa học trong và ngoài quân đội, cuộc Hội thảo khoa học hôm nay sẽ thành công tốt đẹp và có sức lan tỏa sâu rộng, theo đúng mục đích, yêu cầu đề ra.
16 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trong quá trình phối hợp đăng cai tổ chức Hội thảo, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, song do điều kiện cơ sở vật chất của Yên Bái còn nhiều khó khăn nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, bất tiện, rất mong các đồng chí thông cảm và chia sẻ.
Một lần nữa, kính chúc quý vị đại biểu, khách quý cùng toàn thể các đồng chí sức khỏe và hạnh phúc; chúc Hội thảo thành công tốt đẹp! Xin trân trọng cảm ơn!
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC Trung tướng TRỊNH VĂN QUYẾT*
Kính thưa các đồng chí!
Cách đây 70 năm, vào Thu - Đông năm 1952, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Tây Bắc, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường, tạo đà để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đi đến thành công.
Từ sau thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy: Tây Bắc vừa là địa bàn chiến lược quan trọng, vừa là hướng tiến công phù hợp với sở trường tác chiến rừng núi của quân đội ta, nhưng lực lượng địch mỏng, bố phòng thiếu chắc chắn; làm chủ được vùng Tây Bắc không những bảo vệ vững chắc An toàn khu Trung ương, tạo thế liên hoàn nối Việt Bắc với Liên khu 3, Liên khu 4, mà còn có điều kiện thuận lợi trong củng cố, phát triển liên minh chiến đấu Việt - Lào cùng chống kẻ thù chung.
Căn cứ vào thực tiễn chiến trường, tương quan giữa ta và địch, đầu tháng 9/1952, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch tiến công lên Tây Bắc. Trực tiếp tham gia chiến dịch có 3 đại đoàn bộ binh: 308, 312, 316; Tiểu đoàn bộ binh 910; 6 đại đội sơn pháo 75 mm; 3 đại đội súng cối 120 mm; Trung đoàn công binh 151 và 11 đại đội bộ đội địa phương cùng lực lượng du kích các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La,
_____________
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Hội thảo.
18 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Lào Cai1. Ngoài ra, có khoảng 35.000 thanh niên xung phong, dân công2 được huy động làm nhiệm vụ sửa đường, vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, dụng cụ y tế và thuốc men từ hậu phương ra tiền tuyến, cùng sự đóng góp sức người, sức của của đồng bào các dân tộc Tây Bắc.
Chiến dịch Tây Bắc được thực hiện trong một thế trận chung, có sự phối hợp chặt chẽ với các chiến trường cả nước, từ Bắc Bộ đến Trung Bộ và Nam Bộ, từ nông thôn đến thành thị và từ đồng bằng đến miền núi. Nhờ chuẩn bị chu đáo, sau gần hai tháng tiến hành chiến dịch (14/10 - 10/12/1952), với ba đợt tiến công, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng gần 30.000 km2với 250.000 dân3, đập tan âm mưu chiếm đóng và lập “xứ Thái tự trị” trên địa bàn Tây Bắc của thực dân Pháp, hoàn thành cơ bản các mục tiêu của chiến dịch đề ra.
Chiến thắng Tây Bắc là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng, khẳng định tính đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở để Đảng ta tiếp tục đề ra những chủ trương chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta ngày càng phát triển và đi đến thành công.
Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc (1952-2022), Ban Bí thư Trung ương Đảng giao Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tỉnh ủy Yên Bái tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm”, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 90 bài tham luận khoa học của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; các cơ quan Trung ương, các địa phương; các đồng chí tướng lĩnh, sĩ quan, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội. Các tham luận đã đề cập một cách tương đối toàn diện, sâu sắc những vấn đề cơ bản mà Hội thảo đặt ra.
Hội thảo hôm nay, Ban Chỉ đạo Hội thảo mong muốn các đại biểu, các nhà khoa học, nhân chứng lịch sử, với quan điểm, phương pháp khách quan, _____________
1. Xem Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công Tây Bắc (Thu - Đông 1952), Hà Nội, 1992, tr.14.
2. Xem Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm nhìn chiến lược của Đảng và bài học lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012, tr.59.
3. Xem Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.195-196.
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC 19
toàn diện, với tầm nhìn và tư duy đổi mới, khoa học, dựa trên những tư liệu tin cậy đã được thẩm định, tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, phân tích, đánh giá, làm rõ bối cảnh, tình hình quốc tế, khu vực trong những năm đầu thập niên 1950; âm mưu, thủ đoạn mở rộng chiếm đóng và lập “xứ Thái tự trị” ở vùng Tây Bắc của thực dân Pháp, để làm rõ thuận lợi, khó khăn khi tiến hành chiến dịch.
Thứ hai, làm rõ chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, khẳng định tầm nhìn chiến lược và tài thao lược của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh khi quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc; trong đó có vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Đây là những nhân tố quyết định để Chiến dịch Tây Bắc giành thắng lợi.
Thứ ba, làm rõ quá trình chuẩn bị, tổ chức và thực hành tác chiến của các lực lượng vũ trang; vai trò của đảng bộ các địa phương và các lực lượng dân quân du kích, thanh niên xung phong, dân công; sự phối hợp của các chiến trường, các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương trong Chiến dịch Tây Bắc. Qua đó làm sáng tỏ bước phát triển của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thứ tư, nêu bật nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch. Đó là: nghệ thuật chọn hướng tiến công; nghệ thuật sử dụng lực lượng; nghệ thuật tổ chức và thực hành chiến dịch; nghệ thuật chọn mục tiêu chủ yếu, đánh trận then chốt; cách đánh sáng tạo được hình thành và phát triển trong suốt quá trình chiến dịch.
Thứ năm, phân tích, luận giải, làm sâu sắc hơn tầm vóc to lớn, ý nghĩa quan trọng và nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của chiến thắng Tây Bắc; đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Kết quả của Hội thảo sẽ góp phần nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc về tầm vóc, nguyên nhân, ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Chiến dịch Tây Bắc; đồng thời, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để chúng ta vận dụng trong xây dựng thế trận quốc phòng
20 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
toàn dân, xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đồng thời, Hội thảo hôm nay là dịp để chúng ta tôn vinh, tưởng nhớ và tri ân đồng bào, chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh cho thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc và sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; củng cố vững chắc cơ sở khoa học để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá và phản bác kịp thời, hiệu quả những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử của các thế lực thù địch, phản động. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào của dân tộc anh hùng, quân đội anh hùng; góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục truyền thống lịch sử cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Thay mặt Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức và Đoàn Chủ tịch Hội thảo, kính chúc các quý vị đại biểu cùng toàn thể các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
C
CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952
BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
Đại tướng, TS. PHAN VĂN GIANG*
ách đây 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã mở Chiến dịch Tây Bắc giành thắng lợi. Đây là
thắng lợi lịch sử có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và vận dụng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sau Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950, để tiếp tục phát triển thế tiến công chiến lược, ta mở một số chiến dịch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, nhưng chưa đạt được mục đích đề ra. Đảng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm, đề ra chủ trương: Cần tập trung lực lượng đánh vào những nơi rất hiểm yếu nhưng địch lại sơ hở nhằm khoét sâu nhược điểm cơ bản của đối phương, giành thắng lợi từng phần, tạo chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta, tiến lên giành những thắng lợi quyết định. Sau thắng lợi Chiến dịch Hòa Bình (2/1952), Bộ Chính trị có chủ trương mở chiến dịch trên hướng Tây Bắc và chỉ thị Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh xúc tiến công tác chuẩn bị chiến dịch.
Tháng 9/1952, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc, nhằm mục đích: “Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân; giải phóng
_____________
* Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
24 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
một bộ phận đất đai có tính chất quan trọng về chiến lược”1. Tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến, và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi”2. Đây là chiến dịch đầu tiên ta đưa lực lượng quy mô lớn đánh quân Pháp ở vùng rừng núi phía tây của đồng bằng Bắc Bộ. Đó là sự chuyển hướng đúng đắn và phù hợp, thể hiện sự nhạy bén của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy trong chỉ đạo chiến lược.
Sau gần 2 tháng liên tục tiến công, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã hệ thống kìm kẹp của quân Pháp ở Tây Bắc, đập tan âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của địch, giải phóng một vùng đất rộng lớn ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc; phá vỡ “bình phong” che chở cho địch ở Thượng Lào, tạo thế chiến lược thuận lợi cho ta giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy quân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động. Đây là cơ sở, tiền đề để ta phát huy quyền chủ động chiến lược, tiến lên đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Thu - Đông 1952 là Thu - Đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động”3.
Chiến thắng Tây Bắc khẳng định bước phát triển mới trong tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Đó là kết quả của việc nắm vững quy luật vận động cách mạng và chiến tranh giải phóng ở nước ta; khẳng định bước phát triển của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội ta. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc là cơ sở quan trọng giúp Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy củng cố
_____________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.304.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.481. 3. Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, Hà Nội, 1963, t.2, tr.217.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 25
và xây dựng quyết tâm chiến lược: Tây Bắc sẽ là điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng giữa ta và địch.
70 năm đã trôi qua, chiến thắng Tây Bắc 1952 càng khẳng định tầm vóc lịch sử, giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, để lại nhiều bài học quý về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đó là:
Một là, quán triệt, thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới. Chiến thắng Tây Bắc 1952 bắt nguồn từ tầm nhìn chiến lược, đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng, trong đó nội dung cốt lõi là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Phương thức tiến hành chiến tranh là toàn dân, toàn diện, tiến công địch bằng sức mạnh tổng hợp, đánh chắc, tiến chắc; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận. Phát huy cao độ tư tưởng chiến lược tiến công, luôn tìm cách giành và giữ quyền chủ động chiến lược; nắm chắc cục diện chiến trường, mục tiêu, đối tượng tác chiến để chuyển hướng tiến công chiến lược chính xác, kịp thời, sát với thực tế và bối cảnh chung của cuộc kháng chiến, phù hợp với trình độ tổ chức, tác chiến của bộ đội ta; phối hợp tác chiến chặt chẽ, linh hoạt giữa ba thứ quân, giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động của chủ lực... Thực tiễn khẳng định, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo của tình hình thế giới và khu vực hiện nay, Đảng ta đã tăng cường tổng kết kinh nghiệm, đổi mới tư duy, nhận thức, bổ sung, phát triển lý luận bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác định rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng, phương thức tiến hành, các tình huống chiến lược... bảo đảm phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến
26 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện hiệu quả các chiến lược, đề án, nhất là Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia... Tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, nhất là cơ quan tham mưu chiến lược phải luôn bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình; dự báo chính xác các nguy cơ, thách thức, các tình huống chiến lược và loại hình tác chiến mới; nghiên cứu đặc điểm của chiến tranh công nghệ cao; phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân đối phó với các hình thái chiến tranh xâm lược mới; chủ động xây dựng, triển khai kế hoạch tác chiến trên phạm vi cả nước và trên từng địa bàn, khu vực. Kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, lý luận xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới và các chiến lược chuyên ngành để chủ động đối phó hiệu quả với các tình huống, các loại hình chiến tranh xâm lược.
Hai là, chú trọng xây dựng tiềm lực quốc phòng ngày càng vững mạnh. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng, Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân cả nước vừa chiến đấu, vừa tích cực tham gia xây dựng chính quyền, phát triển văn hóa, giáo dục; đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tiến hành giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất cho nông dân. Ở vùng tự do, hậu phương, căn cứ địa, ta vừa ra sức xây dựng nền kinh tế kháng chiến, vừa phát triển công nghiệp quốc phòng, nghiên cứu, chế tạo, sửa chữa vũ khí, trang bị đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của chiến trường.
Đường lối “kháng chiến, kiến quốc” đúng đắn của Đảng đã huy động được sức mạnh của toàn dân trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa; phát huy được sức mạnh của các yếu tố nội lực, truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của nền
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 27
quốc phòng toàn dân, của thế trận chiến tranh nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường; lực lượng vũ trang nhân dân có bước trưởng thành vượt bậc: Từ du kích, phân tán, tiến lên tập trung, chính quy, có lực lượng cơ động mạnh và lực lượng chiến đấu tại chỗ đông đảo làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Sau hơn 7 năm “kháng chiến, kiến quốc”, tiềm lực kháng chiến của ta ngày càng lớn mạnh; căn cứ địa, hậu phương của chiến tranh nhân dân ngày càng vững chắc. Trong Chiến dịch Tây Bắc, ta đã phát huy được sức mạnh của toàn dân và hệ thống chính quyền các cấp; huy động được hàng trăm nghìn lượt dân công phục vụ tiền tuyến; các địa phương đã cung cấp hàng chục nghìn tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược,... góp phần bảo đảm hậu cần cho chiến dịch.
Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, phải thường xuyên chú trọng xây dựng, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học và công nghệ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là nền quốc phòng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Đặc biệt, phải thường xuyên chú trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng vững mạnh theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Trước hết, phải coi trọng xây dựng, phát huy tiềm lực chính trị - tinh thần, ưu thế tuyệt đối của chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ Tổ quốc; phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân đối với mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chủ động phòng, chống và đấu tranh hiệu quả với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.
28 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Xây dựng tiềm lực kinh tế: kinh tế là nền tảng vật chất của quân sự - quốc phòng, tiềm lực kinh tế là khả năng tiềm tàng về kinh tế có thể khai thác, huy động phục vụ cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Biểu hiện của tiềm lực kinh tế là ở trình độ, khả năng phát triển, nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, nguồn dự trữ tài nguyên, nhân lực, vật lực, tài lực có thể huy động phục vụ cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và sức sống của nền kinh tế trước các thử thách ác liệt của chiến tranh. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: “Tập trung thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, ổn định mô hình tăng trưởng, đưa nền kinh tế đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn, có tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, tạo nền tảng cho công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc”.
Trong tình hình hiện nay cần tập trung giải quyết 3 nội dung: 1- Tăng cường dự trữ cơ sở vật chất cho quốc phòng, đầu tư có trọng điểm cho quốc phòng, nhất là việc mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang, nâng cao khả năng tác chiến ở tầm cao, vùng biển, đảo xa bờ và tác chiến trong chiến tranh vũ khí công nghệ cao; 2- Nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là kết hợp chặt chẽ từ chiến lược đến quy hoạch, kế hoạch, ngành nghề, vùng miền; nâng cao hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng, nghiên cứu xây dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng trên một số vùng biển, đảo; 3- Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ: tiềm lực khoa học - công nghệ là khả năng của nền khoa học công nghệ quốc gia có thể huy động phục vụ cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học vào lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Tiềm lực khoa học công nghệ là ở trình độ phát triển khoa học công nghệ, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học; thành tựu khoa học đạt được và khả năng ứng dụng các thành tựu đó trong lĩnh vực
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 29
quân sự quốc phòng, phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự, kỹ thuật quân sự, chính trị, xã hội, nhân văn quân sự... Trong đó, tập trung nghiên cứu các giải pháp phòng, chống có hiệu quả vũ khí công nghệ cao của địch; nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào bảo quản, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí trang bị; nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,...
Cần tập trung nghiên cứu các giải pháp bảo quản, bảo dưỡng đối với các loại vũ khí, trang bị, nâng cao khả năng tác chiến của các loại vũ khí, trang bị; nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là phát triển lý luận về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện chiến tranh hiện đại; các giải pháp bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các hình thái chiến tranh mới.
Xây dựng tiềm lực quân sự: tiềm lực quân sự là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự và chiến tranh. Biểu hiện của tiềm lực quân sự là ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển năng lực chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang; khả năng mở rộng các năng lực quân sự khi có chiến tranh; khả năng dự trữ sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, chiến tranh. Trước hết, tập trung làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng và toàn dân. Cùng với coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, rộng khắp. Thực hiện chủ trương “động viên toàn dân, vũ trang toàn dân” trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, vững chắc. Thế trận đó cho phép
30 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
thực hiện chiến tranh chính quy bằng lực lượng chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân du kích; giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, giữa chiến trường chính và chiến trường phối hợp..., đẩy quân Pháp vào tình thế bị động. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, trong Chiến dịch Tây Bắc, ta có điều kiện tập trung lực lượng tiến công địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược, buộc địch phải điều lực lượng ứng cứu, tạo cơ hội cho ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ.
Ngày nay, hình thái chiến tranh có nhiều thay đổi, tác động đến việc triển khai xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng trên toàn lãnh thổ, đòi hỏi phải chú trọng tổng kết những kinh nghiệm xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc để nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân phù hợp với tình hình mới. Phải thường xuyên chú trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, khoa học, tạo sức mạnh tổng hợp cao. Trước hết, phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Làm tốt công tác quy hoạch và tiếp tục tăng cường xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo thế và lực mới cho thế trận quốc phòng toàn dân ở từng địa phương, khu vực và trên phạm vi cả nước, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng thời bình và sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh.
Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc, đặc biệt chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân”. Bố trí các đơn vị bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương bảo đảm hợp lý. Phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan quân sự địa phương các cấp trong tham mưu, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, tổ chức triển khai xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Luôn
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 31
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, sớm phát hiện, nhận rõ kẻ thù; chủ động về tư tưởng, lực lượng, thế trận; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng và xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để đất nước bị động, bất ngờ.
Bốn là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Trải qua quá trình vừa xây dựng, vừa chiến đấu, đến năm 1952, lực lượng vũ trang có bước trưởng thành lớn mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nghệ thuật tác chiến, vũ khí trang bị... Với phương châm vừa chiến đấu, vừa huấn luyện, trải qua các đợt học tập chính trị, huấn luyện quân sự, bộ đội ta đã nắm vững và sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị, thành thạo kỹ thuật, chiến thuật. Trình độ tổ chức, chỉ huy của đội ngũ cán bộ có tiến bộ rõ rệt; các hình thức chiến thuật đánh vận động phục kích, diệt cứ điểm, chống càn quét... từng bước được phát triển về lý luận và thực tiễn. Về quy mô, từ các chiến dịch cấp tiểu đoàn, trung đoàn, ta đã tiến lên đánh tập trung quy mô đại đoàn, có hiệp đồng giữa bộ binh, pháo binh và công binh. Đến năm 1952, ta xây dựng được 6 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo cùng một số trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc Bộ; bộ đội chủ lực ở các liên khu, phân khu và bộ đội địa phương, dân quân du kích có bước phát triển toàn diện, rộng khắp. Sự trưởng thành nhanh chóng về số lượng và chất lượng của lực lượng vũ trang ba thứ quân là một trong những nhân tố quyết định làm nên chiến thắng Tây Bắc 1952.
Trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phải tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, có cơ cấu, thành phần hợp lý. Đặc biệt, phải quán triệt mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo
32 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
đức, tổ chức và cán bộ”1. Trước hết, phải xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giữ vững và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Tăng cường công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, nhạy bén, quyết đoán trước mọi diễn biến của tình hình. Xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao. Không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; tích cực, chủ động ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; nâng cao trình độ tác chiến, kỹ năng sử dụng vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các quân, binh chủng đã được hiện đại hóa; tổ chức diễn tập hiệp đồng quân - binh chủng, diễn tập cơ động và diễn tập khu vực phòng thủ, nhất là tác chiến trên biển, đảo theo nhiều tình huống giả định khác nhau.
Tăng cường xây dựng chính quy kết hợp chặt chẽ với rèn luyện kỷ luật nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động trong mọi hoạt động, công tác của bộ đội và các đơn vị, trọng tâm là nâng cao trình độ chính quy trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, quản lý con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật. Nâng cao chất lượng công tác hậu cần, kỹ thuật bảo đảm tốt cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, trở thành một trong những trụ cột đối
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.I, tr.157-158.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 33
ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trong quan hệ đối ngoại, phải hết sức tỉnh táo, giữ vững nguyên tắc chiến lược. Kiên quyết kiên trì đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và cơ chế, quy tắc khu vực; tránh xung đột, đối đầu.
Chiến thắng Tây Bắc 1952 đã trở thành một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ hôm nay và mai sau. Vận dụng những bài học kinh nghiệm quý từ chiến thắng Tây Bắc, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về nhiệm vụ quân sự quốc phòng; phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CHIẾN THẮNG TÂY BẮC (THU - ĐÔNG 1952) THÀNH CÔNG XUẤT SẮC VỀ CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC SÁNG SUỐT, TÀI TÌNH CỦA ĐẢNG
VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG*
T
hực hiện chủ trương chiến lược đề ra, Thu - Đông 1952, quân và dân ta đã mở chiến dịch tiến công quy mô lớn và giành chiến thắng vang dội
trên chiến trường Tây Bắc1, giáng đòn nặng nề vào chính sách xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo đà cho thắng lợi mang tính quyết định của cách mạng trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thành công của Chiến dịch Tây Bắc, nhưng nguyên nhân có ý nghĩa quyết định là sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
1. Nắm chắc tình hình, xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng và phương hướng đấu tranh quân sự đúng đắn, làm cơ sở cho việc mở chiến dịch
Đầu năm 1952, cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai của thực dân Pháp bước sang năm thứ 7, tuy chịu nhiều tổn thất nhưng vẫn
_____________
* Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
1. Địa bàn Tây Bắc thời điểm này gồm 4 tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, có diện tích rộng khoảng 44.300 km2, với 44 vạn dân, gồm nhiều dân tộc thiểu số như Thái (200.000 người), Mông (70.000 người), Tày (47.000 người), Mường (36.000 người)... Phần lớn đất đai là núi cao, rừng rậm, dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 35
chưa đạt mục tiêu đề ra. Trong khi đó, những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước ngày càng tăng lên, càng làm cho tình hình nội bộ nước Pháp rối ren. Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thực dân Pháp chủ trương tiếp tục dựa vào sự giúp đỡ của Mỹ để theo đuổi chiến tranh hòng tìm kiếm thắng lợi trong danh dự. Lợi dụng tình thế đó, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho thực dân Pháp nhằm phục vụ chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ráo riết bình định vùng tạm chiếm (đặc biệt là vùng đồng bằng), ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân, tăng cường bắt lính, áp dụng triệt để chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Tại đồng bằng và trung du Bắc Bộ, trong Xuân - Hè 1952, địch mở 20 cuộc càn quét lớn (có cuộc kéo dài 2 tháng, có trận càn quy mô 18 - 20 tiểu đoàn), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch lập “vành đai trắng” nhằm bao vây vùng tự do, phá hoại tiềm lực của cách mạng.
Về phía ta, sau thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình (2/1952), lực lượng vũ trang trưởng thành về nhiều mặt. Hầu hết các đơn vị chủ lực của Bộ được bổ sung về quân số, trang bị, từng bước nâng cao chất lượng huấn luyện kỹ, chiến thuật, nhất là cách đánh các cứ điểm công sự kiên cố. Bộ đội địa phương, dân quân du kích có bước phát triển mới. Ở vùng sau lưng địch, chiến tranh du kích được duy trì và đẩy mạnh. Nhân dân cả nước phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hăng hái đóng góp sức người, sức của và thực hiện mọi nghĩa vụ cho kháng chiến. Xét về tổng thể, cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn nắm quyền chủ động chiến lược, nhưng chưa tạo được ưu thế áp đảo so với địch. Lực lượng cơ động chiến lược hai bên gần ngang bằng nhau (ta có 54 tiểu đoàn, địch có 55 tiểu đoàn); quân địch hơn ta về trang bị kỹ thuật và tổng quân số; sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới (1950), ta phá được thế bị bao vây, cô lập và tiếp nhận một số viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến, nhưng trong nội bộ ta lại xuất hiện tư tưởng muốn dựa vào viện trợ nước ngoài hoặc tỏ ra nôn nóng muốn “đánh lớn, thắng nhanh”.
Để tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến phát triển vững chắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba khóa II (4/1952) đã đánh giá tình hình tổng quát
36 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
các mặt, thấy rõ khả năng chiến thắng trên chiến trường của ta, cũng như điểm yếu của địch; đồng thời, phê phán nhận thức, tư tưởng sai lầm (muốn tổng phản công thắng nhanh, hoặc ỷ lại viện trợ nước ngoài...); từ đó, quán triệt sâu sắc hơn về đường lối kháng chiến trường kỳ và phương châm tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Căn cứ thực tiễn tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, Trung ương Đảng xác định 3 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng giai đoạn này là: Tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích; phá chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch; bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, của kháng chiến1.
Về đấu tranh quân sự, Trung ương Đảng nhìn nhận, đánh giá: Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới (1950), phát huy quyền chủ động, trong năm 1951, ta mở liên tiếp 4 chiến dịch ở Bắc Bộ2 nhưng đều không hoàn toàn đạt mục đích chiến lược đề ra và chịu một số tổn thất. Nguyên nhân chính là do ta chủ quan trong nhận định tình hình, chọn hướng tiến công chiến lược chủ yếu vào trung du và đồng bằng Bắc Bộ không phù hợp, vì quân địch còn đông, hệ thống phòng thủ tương đối vững chắc, hỏa lực mạnh, sức cơ động cao; trong khi đó, trình độ, trang bị của bộ đội chủ lực ta có mặt còn hạn chế, nên chưa thể phát huy được sức mạnh và sở trường của mình. Trung ương Đảng chỉ rõ phương hướng đấu tranh quân sự thời gian tới là: Chọn hướng tiến công chiến lược phải phù hợp với thế và lực của ta. Cần chọn chỗ địch yếu, có nhiều sơ hở để đánh trước, làm cho chúng suy yếu dần; qua đó, giành thắng lợi từng phần, tạo ra chuyển biến so sánh lực lượng ngày càng có lợi, tiến lên mở những chiến dịch quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định của chiến tranh. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba khóa II có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cơ sở để Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch hướng Tây Bắc.
_____________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.165.
2. Bao gồm: Chiến dịch Trần Hưng Đạo (25/12/1950 - 18/1/1951) ở trung du Bắc Bộ, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (23/3 - 7/4/1951) ở đường số 18 (từ Phả Lại đến Uông Bí), Chiến dịch Quang Trung (28/5 - 20/6/1951) ở Hà Nam Ninh, Chiến dịch Lý Thường Kiệt (29/9 - 10/10/1951) ở Nghĩa Lộ (Yên Bái).
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 37
2. Chọn hướng tiến công chiến lược chính xác, đề ra mục đích và nhiệm vụ chiến dịch phù hợp
Chấp hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba khóa II, Bộ Chính trị họp bàn, xác định hướng tiến công chiến lược của ta trong Thu - Đông 1952 (đã được sơ bộ đề ra từ tháng 2/1952). Báo cáo của Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị (4/1952) nêu rõ: Lực lượng chủ yếu của quân Pháp vẫn ở chiến trường Bắc Bộ. Tại đây, địch có 88 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có 32 tiểu đoàn cơ động), nhưng tập trung chủ yếu ở đồng bằng. Riêng địa bàn Tây Bắc, lực lượng địch có 8 tiểu đoàn và 43 đại đội bộ binh, bố trí thành 144 cứ điểm thuộc bốn phân khu (Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn La) và ba tiểu khu độc lập (Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo). Hệ thống công sự ở một số vị trí then chốt đã được cải tiến, đầu tư xây dựng kiên cố (xi măng cốt sắt), còn phần lớn vẫn làm bằng gỗ và đất. Do Tây Bắc là địa bàn có tầm quan trọng chiến lược của địch, uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc của ta và che chở cho quân địch ở Thượng Lào, nếu bị tiến công, chúng sẽ tăng viện đối phó nhưng không thể khắc phục những khó khăn do ở thế bị động, chiến trường rộng lớn, địa hình chia cắt.
Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị quyết định lựa chọn Tây Bắc làm hướng tiến công chủ yếu; đồng thời, chỉ đạo các chiến trường khác (đặc biệt là đồng bằng Bắc Bộ) đẩy mạnh đấu tranh phối hợp kìm chân địch. Bộ Chính trị chỉ rõ: Ta tập trung binh lực đánh lên Tây Bắc (hướng chủ yếu) là chiến trường rừng núi có tầm quan trọng chiến lược, lực lượng địch phòng thủ yếu, khó phát huy sức mạnh về pháo binh, không quân; nhưng là nơi phù hợp với trình độ tác chiến và sở trường của bộ đội ta. Ở đồng bằng Bắc Bộ, nơi địch tập trung lực lượng cơ động, trang bị kỹ thuật mạnh nhất, ta chỉ sử dụng một bộ phận chủ lực phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát động quần chúng vùng dậy phá tề, trừ gian, kết hợp với các hình thức đấu tranh chính trị, kinh tế nhằm phối hợp với chiến trường chính.
Việc chọn hướng chiến dịch (Tây Bắc) được Bộ Chính trị nhanh chóng thông qua, nhưng việc xác định mục đích, nhiệm vụ chiến dịch lại được Bộ Chính trị họp bàn kỹ lưỡng, chọn phương án tối ưu. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, địch chiếm lại Tây Bắc và thành lập “xứ Thái tự trị”,
38 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
tổ chức “Liên khu độc lập Tây Bắc” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Từ sau thất bại tại mặt trận Biên giới (1950), địch tăng cường củng cố phòng thủ vùng Tây Bắc nhằm uy hiếp, cắt liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc của ta với Liên khu 3, Liên khu 4, đồng thời tạo “lá chắn” che chở cho chúng ở Thượng Lào. Nhân dân Tây Bắc căm ghét sự thống trị của giặc Pháp và tay sai nhưng hiểu biết về cách mạng, về đường lối kháng chiến của Đảng còn chưa đầy đủ. Mặt khác, do địch thường xuyên khủng bố, tuyên truyền xuyên tạc, lừa bịp, một bộ phận quần chúng chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch; cơ sở cách mạng còn yếu. Phong trào du kích phát triển không đều giữa các tỉnh, khi có chủ lực hoạt động mạnh ở một địa phương thì phong trào nơi đó lên cao, khi chủ lực rút đi, bị địch càn quét mạnh thì phong trào lại xuống, chậm phát triển so với các chiến trường khác ở Bắc Bộ. Kinh tế vùng Tây Bắc vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị địch ra sức vơ vét, bóc lột, nên đời sống nhân dân khó khăn, khả năng hậu cần tại chỗ cho chiến dịch hạn chế. Căn cứ tình hình thực tế chiến trường, Bộ Chính trị xác định mục đích, nhiệm vụ chiến dịch tiến công Tây Bắc: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; tranh thủ nhân dân; giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc1. Ba nhiệm vụ chiến dịch có mối quan hệ mật thiết với nhau: “Có tiêu diệt sinh lực địch thì mới tranh thủ được nhân dân và giải phóng được đất đai. Có tranh thủ được nhân dân thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai. Ngược lại, có giải phóng đất đai thì mới củng cố được cơ sở nhân dân một cách vững chắc, mới bồi dưỡng và động viên được lực lượng kháng chiến của nhân dân để tiêu diệt thêm nhiều sinh lực địch”2. Trong ba nhiệm vụ đó, tiêu diệt sinh lực địch là nhiệm vụ chính. Ngày 28/9/1952, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị, yêu cầu: “Phải phổ biến sâu rộng ý nghĩa và mục đích của chiến dịch trong quân đội và nhân dân để xây dựng quyết tâm từ trên xuống dưới, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ giành toàn thắng cho chiến dịch”3.
_____________
1. Dẫn theo Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.186.
2. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.296.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr.305.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 39
Như vậy, việc chọn hướng, xác định mục đích, nhiệm vụ chiến dịch phù hợp với tình hình thực tế chiến trường, đã khẳng định nhận thức lý luận về chính trị, quân sự và trình độ chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta có bước phát triển mới. Đây là kết quả của việc nắm vững và vận dụng sáng tạo quy luật vận động của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam; phản ánh sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ quân sự với nhiệm vụ chính trị, cũng là nét mới về tư duy, nghệ thuật quân sự nói chung, nghệ thuật chiến dịch nói riêng.
3. Công tác chuẩn bị và thực hành chiến dịch chặt chẽ, kịp thời, phát huy sức mạnh tổng hợp và quyết tâm giành thắng lợi
Do tầm quan trọng của Chiến dịch Tây Bắc nên ngay từ khi có ý định sơ bộ (2/1952), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến dịch.
Về tổ chức lực lượng, Bộ Chính trị nhất trí với đề nghị của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh, đã điều động các đại đoàn chủ lực 308, 312, 316 và một số đơn vị binh chủng cùng lực lượng vũ trang địa phương tham gia chiến dịch, do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định cử đồng chí Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch; đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng làm Tham mưu trưởng chiến dịch; đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chủ nhiệm Chính trị chiến dịch. Công tác giáo dục chính trị được Trung ương Đảng rất coi trọng. Bộ đội học tập tài liệu “Trường kỳ kháng chiến”, tự lực cánh sinh, qua đó xác định rõ lập trường, quan điểm, nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần chiến đấu. Đặc biệt, trong chiến dịch này, do yêu cầu nhiệm vụ tranh thủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thảo và ký ban hành “Tám điều mệnh lệnh”1của _____________
1. Gồm: 1. Bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; 2. Bảo vệ nghề nghiệp làm ăn của nhân dân; 3. Tịch thu tài sản của giặc Pháp và của bọn phản quốc; 4. Bảo vệ đền chùa, nhà thờ, trường học, nhà thương và các cơ quan văn hóa, xã hội khác; 5. Thưởng người có công, phạt người có tội; 6. Giữ gìn trật tự và trị an; 7. Nhân dân, đặc biệt là nông dân, nên tổ chức lại; 8. Bảo vệ tính mạng, tài sản của kiều dân nước ngoài. Dẫn theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.487-489.
40 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã đến dự Hội nghị cán bộ bàn kế hoạch tác chiến (diễn ra từ ngày 6/9 đến ngày 9/9/1952), động viên cán bộ, chiến sĩ toàn mặt trận quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết thực hiện nhiệm vụ chiến dịch đề ra.
Để chuẩn bị cơ sở chính trị trong quần chúng, ngày 17/7/1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra nghị quyết thành lập Khu Tây Bắc, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Khu ủy Tây Bắc lãnh đạo quân, dân và Đảng bộ Tây Bắc thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách do Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra. Căn cứ vào điều kiện và nhiệm vụ quân sự, Trung ương giao Khu ủy Tây Bắc một số công tác trọng tâm hướng vào việc chuẩn bị chiến trường: Mở lớp đào tạo cán bộ cơ sở, phân công cán bộ thâm nhập vùng địch tạm chiếm xây dựng cơ sở chính trị; tổ chức trang bị, huấn luyện các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, nhất là ở những vùng trọng yếu; điều tra, nắm vững tình hình địch; chuẩn bị nhân lực, vật lực phục vụ chiến dịch...
Công tác bảo đảm hậu cần được Trung ương Đảng đặc biệt quan tâm, coi trọng, vì Tây Bắc là chiến trường xa căn cứ hậu phương, đường vận chuyển tiếp tế phải đi qua nhiều núi cao, đèo dốc, rừng rậm, trong khi khả năng huy động nhân lực, vật chất tại chỗ còn hạn chế. Trung ương chỉ thị Tổng cục Cung cấp và cấp ủy, chính quyền các địa phương phải “tập trung lực lượng, khắc phục mọi khó khăn để bảo đảm cung cấp kịp thời và đầy đủ cho hoạt động lâu dài và liên tục của bộ đội”1. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, các Liên khu Việt Bắc, Khu Tây Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 cùng các bộ, sở, ban, ngành của Trung ương và địa phương đều có sự chuẩn bị chu đáo, phân công cụ thể, hiệp đồng chặt chẽ. Với quyết tâm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, ta đã huy động được 191.474 dân công với tổng số 6.926.546 ngày công tham gia phục vụ chiến dịch; 11.744 tấn gạo, cùng hàng trăm tấn thực phẩm, vật chất khác được huy động cho chiến trường Tây Bắc2.
_____________
1. Ban Khoa học hậu cần: Công tác hậu cần Chiến dịch Tây Bắc (Thu - Đông 1952), Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1980, tr.24.
2. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công Tây Bắc (Thu - Đông 1952), Hà Nội, 1992, tr.83.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 41
Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 14/10/1952, bộ đội ta nổ súng mở màn Chiến dịch Tây Bắc. Trong quá trình diễn biến của chiến dịch, trên cơ sở nắm bắt tình hình thực tế, Trung ương Đảng tiếp tục chỉ đạo chiến lược kịp thời, chính xác đối với mặt trận Tây Bắc và các chiến trường khác có liên quan nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi.
Đợt 1 chiến dịch diễn ra từ ngày 14 đến ngày 23/10/1952, quân ta tiến công phân khu Nghĩa Lộ, tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm, đập tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của địch từ hữu ngạn sông Thao đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai. Ngày 25/10/1952, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi điện khen ngợi các cán bộ ở mặt trận Tây Bắc đã lãnh đạo bộ đội giành thắng lợi to lớn. Bên cạnh biểu dương những thành tích vừa giành được, Trung ương Đảng chỉ ra “những khuyết điểm nghiêm trọng” phải rút kinh nghiệm, như: Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu chưa thật nghiêm và triệt để; chưa nắm vững tư tưởng chiến thuật, chưa thật tích cực bao vây tiêu diệt địch; công tác cung cấp có lúc còn chậm, để bộ đội ăn đói; còn coi nhẹ công tác ngụy vận, địch vận; chưa thật chú trọng công tác dân vận, chưa ráo riết thi hành chính sách dân tộc thiểu số của Đảng để tranh thủ nhân dân. Từ đó, Trung ương Đảng nhắc nhở cán bộ toàn mặt trận “không nên tự mãn với những thắng lợi vừa qua, không nên chủ quan, khinh địch. Cần chuẩn bị vượt những khó khăn mới. Cần nắm vững phương châm “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc”. Cần nghiêm khắc tự phê bình và phê bình để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nêu cao tinh thần anh dũng, quả cảm, liên tục chiến đấu, để tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn”1. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Tây Bắc kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quán triệt nghiêm túc, nhanh chóng khắc phục những thiếu sót, tích cực chuẩn bị bước vào đợt chiến đấu tiếp theo.
Trước sự tiến công của ta, thực dân Pháp tăng viện cho Tây Bắc, dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm Nà Sản (Sơn La), đồng thời mở cuộc hành quân Loren (Lorraine) tiến công lên Phú Thọ (từ ngày 28/10/1952) nhằm kéo chủ lực ta về đối phó, giảm áp lực cho quân Pháp ở Tây Bắc.
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr.338.
42 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Theo dõi sát và nắm chắc tình hình, Bộ Chính trị chỉ đạo tiếp tục mở đợt 2 Chiến dịch Tây Bắc (từ ngày 7 đến ngày 22/11/1952). Quân ta vượt sông Đà tiến công hệ thống phòng ngự của địch trên cao nguyên Mộc Châu, kết hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai, giải phóng Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ, buộc địch ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản. Ngày 12/11/1952, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho quân, dân ta trên mặt trận Phú Thọ “ra sức bám sát địch, phá hoại, đánh phục kích các đường giao thông thủy, bộ, tập kích các vị trí pháo binh và đánh cạnh sườn địch để kiềm chế, tiêu hao và tiêu diệt những bộ phận nhỏ của địch”, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân của chúng. Đồng thời, chỉ đạo các cấp ủy, lực lượng vũ trang vùng sau lưng địch tận dụng thời cơ “đẩy mạnh chiến tranh du kích, phục hồi các cơ sở bị càn quét trong thời gian qua, mở rộng các khu du kích và căn cứ du kích”1. Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, sáng tạo, quân, dân ta trên chiến trường Tây Bắc và sau lưng địch cùng giành thắng lợi to lớn, đẩy quân Pháp vào tình thế bị động, sa lầy và thất bại.
Từ ngày 30/11 đến ngày 10/12/1952, quân ta mở đợt 3 chiến dịch, tiến công địch ở Nà Sản nhưng không thành công. Trước tình thế đó, để bảo toàn và củng cố lực lượng, giữ vững thành quả vừa giành được, theo đề nghị của Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Chính trị đồng ý kết thúc Chiến dịch Tây Bắc. Kết quả toàn chiến dịch, quân ta diệt và bắt hơn 6.000 địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng (khoảng 28.500 km2với 250.000 dân), nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Chiến thắng Tây Bắc khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và kiên quyết của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân, dân ta, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng của ba nước Đông Dương và phong trào phản chiến của nhân dân Pháp. Thắng lợi to lớn của Chiến dịch Tây Bắc đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc, toàn diện và vững chắc của quân đội ta. Chiến dịch tiến công _____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.13, tr.341-342.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 43
Tây Bắc đã nêu lên nhiều bài học quý báu, không những có giá trị trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây mà còn có giá trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc (Thu - Đông 1952), chúng ta nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về tầm vóc, giá trị và ý nghĩa to lớn của chiến thắng lịch sử này; qua đó, khẳng định rõ vai trò của Đảng, bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, tổ chức thực hiện thắng lợi Chiến dịch Tây Bắc, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới. Đây thực sự là thành công về chỉ đạo chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính đúng đắn, sáng tạo của cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất định thành công của cách mạng Việt Nam.
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 TRONG TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC
TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
NGUYỄN TRỌNG NGHĨA*
C
ách đây 70 năm, vào mùa Thu năm 1952, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, quân
và dân Việt Nam mở Chiến dịch Tây Bắc giành thắng lợi. Thắng lợi to lớn của chiến dịch làm thất bại âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng, lập “xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai và dân cư rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, tạo cơ sở nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh và Thượng Lào.
Chiến thắng Tây Bắc 1952 là một trong những chiến công oanh liệt, có ý nghĩa làm chuyển biến cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta, góp phần tạo thế và lực mới tiến tới giành thắng lợi cuối cùng trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mãi là niềm tự hào to lớn của quân và dân cả nước nói chung, đồng bào các dân tộc Tây Bắc nói riêng. Để tiếp tục phát huy giá trị chiến thắng Tây Bắc 1952 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, khẳng định và làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách _____________
* Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 45
mạng Việt Nam; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh luôn có sự cân nhắc và quyết định đúng đắn trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của chiến tranh cách mạng, phân tích, đánh giá chính xác tình hình địch - ta, kịp thời nắm bắt thời cơ, tập trung mọi nỗ lực, giáng những đòn tiến công quân sự, tạo đột biến về thế bố trí chiến lược và tương quan lực lượng giữa ta và địch, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Chọn Tây Bắc để mở chiến dịch tiến công trong Thu - Đông 1952 cũng như sự lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình chiến dịch thể hiện sự chủ động và linh hoạt, nhạy bén và quyết đoán, sáng tạo và khoa học, phù hợp giữa yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược với thực tế chiến trường. Việc đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu, phân tích, nhấn mạnh vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và sự chỉ đạo đúng đắn, tài tình của Đảng. Qua gần 2 tháng với 3 đợt tác chiến ác liệt, trên địa bàn rừng núi rộng lớn, hiểm trở, quân và dân ta đã khắc phục được hạn chế, phát huy được sở trường, khoét sâu vào những sơ hở về lực lượng và vũ khí trang bị của địch. Thắng lợi của chiến dịch đã góp phần củng cố và giữ vững thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, đẩy quân địch ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động: Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định; các nước lớn tiếp tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng, với mức độ, quy mô khác nhau ở khu vực; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực với nhiều đặc điểm mới. Các thách thức an ninh phi truyền thống, như: an ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, ô nhiễm và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, buôn lậu ma túy, di cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia... tiếp tục là
46 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
những thách thức đối với các quốc gia trên thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt...
Trong bối cảnh đó, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng là điều kiện tiên quyết, động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Những bài học kinh nghiệm trong Chiến dịch Tây Bắc cần tiếp tục được tuyên truyền, giáo dục sâu rộng để các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và nhân dân vận dụng sáng tạo trong triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới... Công tác tuyên truyền, giáo dục cần đổi mới nội dung, phương thức góp phần nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định; tập hợp lực lượng, phát huy trí tuệ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, khẳng định tầm nhìn chiến lược đúng đắn, nhạy bén của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy trong chỉ đạo chiến tranh; sự phát triển,
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 47
trưởng thành vượt bậc trong nghệ thuật chỉ đạo, điều hành chiến dịch của Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Chỉ huy chiến dịch; gợi mở, vận dụng và phát huy giá trị những bài học kinh nghiệm vào sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng.
Nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chiến dịch chính xác, kịp thời là nét nổi bật và thành công xuất sắc của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trong Chiến dịch Tây Bắc 1952. Thắng lợi của chiến dịch đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc, toàn diện và vững chắc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã có sự phát triển thể hiện ở nghệ thuật tổ chức chiến tranh nhân dân, nghệ thuật sử dụng lực lượng, nghệ thuật điều hành chiến dịch... Trong đó nổi bật là nghệ thuật chọn hướng tiến công; xác định mục tiêu, cách đánh chính xác, phù hợp; thực hiện thành công phương châm “đánh điểm, diệt viện” và công tác nghi binh chiến dịch; tập trung ưu thế lực lượng trong những trận then chốt, phá vỡ khu vực phòng ngự mạnh của địch; chủ động trong mở màn và kết thúc chiến dịch... Diễn biến và kết quả thắng lợi to lớn của Chiến dịch Tây Bắc thể hiện sự thành công trong củng cố, kiện toàn tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, biên chế tổ chức đơn vị, sự phối hợp giữa các đơn vị trên chiến trường, trên hướng chiến lược, hướng chủ yếu, hướng thứ yếu và hướng nghi binh.
Tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của chiến thắng Tây Bắc Thu - Đông 1952 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, công tác tuyên truyền, giáo dục cần tiếp tục khẳng định và nêu cao vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với quân đội, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tiếp tục phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và chế độ sẵn sàng chiến đấu; làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, pháp luật về quân sự, quốc phòng;
48 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
chủ động xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, ngăn chặn, xử lý chính xác, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, không để bị động, bất ngờ. Chú trọng kiện toàn biên chế tổ chức theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, môi trường văn hóa; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới, nhất là trên địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; là lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn có mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy hiểm, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và làm công tác dân vận... góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó mật thiết quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, thiết bị quân sự hiện đại, nhằm tạo sức mạnh sẵn sàng đối phó với mọi cuộc chiến tranh xâm lược dưới bất kỳ hình thức nào. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc tế, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế của dân tộc Việt Nam yêu hòa bình và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trên trường quốc tế.
Ba là, tích cực, chủ động làm tốt công tác tư tưởng, công tác dân vận; phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân chiến thắng kẻ thù xâm lược, tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam.
Xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm huy động sức mạnh tổng hợp cho cuộc kháng chiến trường kỳ nói chung và Chiến dịch Tây Bắc Thu - Đông 1952 nói riêng. Các đơn vị tham gia chiến đấu đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, cụ thể hóa trong việc hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ làm công tác dân vận, địch vận; chủ trương liên hệ, phối hợp,
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 49
thống nhất với cấp ủy, chính quyền địa phương trong các hoạt động phá tề, trừ gian, diệt đồn bốt... trong và sau chiến dịch. Các đơn vị chủ lực tích cực tham gia xây dựng cơ sở, giáo dục, huấn luyện, trang bị cho các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương có nhận thức đúng về mục đích của chiến dịch, phương châm tác chiến, cách đánh của ta và âm mưu, thủ đoạn của địch, nhất là về mưu đồ xây dựng “xứ Thái tự trị” ở Tây Bắc, “dùng người Việt đánh người Việt”. Nhờ đó, ta không chỉ huy động được đông đảo dân công tích cực tham gia làm đường, sửa đường, vận chuyển vũ khí, đạn dược mà còn nhận được nhiều lương thực, thực phẩm từ đồng bào các dân tộc Tây Bắc phục vụ chiến dịch. Các lực lượng trên hướng tiến công chủ yếu cũng như thứ yếu, trực tiếp chiến đấu cũng như bảo đảm, trong lúc thuận lợi cũng như gặp khó khăn đều xác định tốt nhiệm vụ, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của từng trận đánh và cả chiến dịch, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
Tích cực vận dụng bài học kinh nghiệm của chiến thắng Tây Bắc 1952 trong giai đoạn cách mạng hiện nay, các cấp, các ngành cần đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân. Trước hết, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về đường lối, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo sự đồng thuận cao về nhận thức và hành động trong toàn xã hội. Chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vững mạnh, đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân. Quan tâm chăm lo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như: thanh niên, công đoàn, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp; mở rộng tổ chức, phát triển thành viên vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tập hợp, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt công tác vận động, tập hợp và phát huy vai trò của người có uy tín, lực lượng cốt cán trong cộng đồng dân cư, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp, truyền thống của dân tộc, đi đôi với loại trừ các hủ tục, mê tín dị đoan. Các cấp ủy đảng và chính quyền cần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ngày vì người nghèo”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo cuộc sống của các
50 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
gia đình chính sách, người có công với cách mạng, nạn nhân chất độc da cam/dioxin, trợ giúp nhân dân khắc phục thiên tai... Thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở... Đó chính là những phương thức thiết thực để tập hợp, khơi dậy truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các tầng lớp nhân dân, củng cố và xây dựng tiềm lực, nội lực ngày càng lớn mạnh. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn tìm cách chia rẽ Đảng với nhân dân, nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... của các thế lực thù địch.
Bốn là, tôn vinh và tri ân các anh hùng, liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trực tiếp tham gia chiến đấu trên mặt trận Tây Bắc 1952 gồm nhiều đơn vị, lực lượng, trong đó có một số trung đoàn chủ lực thuộc các đại đoàn 308, 312 và 316, Trung đoàn 148 mặt trận Tây Bắc cùng các đơn vị binh chủng phối hợp; bộ đội địa phương các tỉnh Điện Biên, Hòa Bình, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái và dân quân, du kích Tây Bắc; sự tham gia của lực lượng thanh niên xung phong, dân công và sự đóng góp nhân lực, vật lực của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Nhiều cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã anh dũng chiến đấu và ngã xuống trong các trận đánh chiếm phân khu Nghĩa Lộ, tiểu khu Phù Yên, tập đoàn cứ điểm Nà Sản... Các địa danh Ca Vịnh, Chân Mộng - Trạm Thản, Chiềng Pan, Mai Sơn, Mường La, Mộc Châu, Sa Piệt, Sài Lương, Sông Con, Tạ Khoa, Tạ Say, Yên Châu... không chỉ ghi dấu tên đất, tên vùng mà còn in đậm máu xương của những anh hùng, liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chúng ta mãi ghi nhớ công lao và sự hy sinh to lớn của những người đã cống hiến máu xương cho nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan tâm chăm lo thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Đồng bào ta trên khắp mọi miền của Tổ quốc luôn thể hiện lòng biết ơn công lao của thương binh, liệt sĩ với nhiều việc làm hiệu quả, thiết thực đối với các gia đình có công với
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 51
cách mạng, gia đình chính sách, tặng quà, xây nhà tình nghĩa, lập Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc da cam/dioxin, giúp đỡ thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, tìm mộ liệt sĩ...
Việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất, giảm bớt một phần khó khăn trong cuộc sống cho thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ là tình cảm, trách nhiệm và bổn phận của toàn xã hội. Mỗi chúng ta từ những việc làm nhỏ bé, thiết thực hãy làm tốt hơn nữa công tác chăm sóc thương binh và gia đình chính sách, coi đây là nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội. Điều này không chỉ góp phần ổn định và nâng cao mức sống của thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ mà còn góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; có tác dụng giáo dục toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta; về lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm là, tăng cường xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Chiến dịch Tây Bắc Thu - Đông 1952 của quân và dân ta diễn ra vào lúc phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh, có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng được củng cố và lớn mạnh. Sự đoàn kết, thống nhất của các nước xã hội chủ nghĩa tạo chỗ dựa cho phong trào đấu tranh cách mạng trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Khối đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương được củng cố và tăng cường. Cách mạng Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ với đảng cộng sản và chính phủ các nước Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ về vật chất và tinh thần từ bên ngoài. Thế và lực của cuộc kháng chiến đều lớn mạnh, lại có sự ủng hộ về chính trị và giúp đỡ về vật chất từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đó là thuận lợi rất lớn,
52 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
nhưng yếu tố quyết định thắng lợi vẫn là sức mạnh bên trong của cuộc kháng chiến trường kỳ.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng chính trị - tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các chiến lược về quốc phòng, an ninh, như: Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia... Không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng vững mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ cơ hội từ hội nhập để xử lý hiệu quả những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh an toàn không gian mạng... góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 53
Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quan trọng làm nên chiến thắng Tây Bắc Thu - Đông 1952. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm, phát huy sức mạnh dân tộc và xác định đây là chủ trương xuyên suốt, nhất quán, sức mạnh nội sinh để làm nên chiến thắng. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, tăng cường nội lực, tận dụng triệt để các nguồn lực trong nước và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại ngày nay là tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc, như Bác Hồ từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Trên tinh thần dân chủ được mở rộng, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân được lắng nghe, tiếp thu, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm cho nhân dân luôn gắn bó với Đảng, với chính quyền, với Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết hiện nay phải gắn với bảo đảm các lợi ích, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của người dân; phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, bảo đảm để nhân dân thật sự là chủ, làm chủ như Hiến pháp quy định.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Do đó, phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; tận dụng tối đa các nguồn lực, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ, động viên các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân vượt qua
54 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
khó khăn, thách thức, chung sức, đồng lòng, quyết tâm phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, khôi phục và duy trì phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân.
Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Tây Bắc (1952-2022) là dịp để chúng ta ôn lại và tự hào về trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của dân tộc anh hùng, của quân đội anh hùng; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn nữa về ý nghĩa, giá trị lịch sử của thắng lợi, về công lao của Đảng quang vinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân anh hùng, sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ. Phát huy tinh thần và hào khí của chiến thắng Tây Bắc Thu - Đông 1952, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.
CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952
THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ĐỖ VĂN CHIẾN)
T
rong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tây Bắc là địa bàn chiến lược không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cả ba
nước Đông Dương. Sau khi tái chiếm Việt Nam, thực dân Pháp triệt để thực hiện âm mưu “chia để trị”, lập “xứ Thái tự trị” để chia rẽ đồng bào dân tộc Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số; giữa các dân tộc thiểu số với nhau nhằm thống trị lâu dài khu vực này. Mặc dù đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, nhân dân các dân tộc Tây Bắc nghe theo tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng đứng lên chống lại cuộc chiến tranh tái xâm lược nước ta của thực dân Pháp và các thế lực phong kiến, tích cực tham gia kháng chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch diễn ra trên địa bàn, đặc biệt là trong Chiến dịch Tây Bắc năm 1952.
Tây Bắc là vùng đất rộng lớn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Khu Tây Bắc bao gồm 4 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Sơn La và Lai Châu. Phía tây vùng đất này giáp với hai tỉnh Phôngsalỳ và Sầm Nưa (Hủa Phăn) của nước Lào; phía bắc giáp với tỉnh Vân Nam của Trung Quốc; phía đông và nam giáp với các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình và Thanh Hóa. Tây Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng, nằm ở vị trí “bản lề”, vừa nối Việt Nam với Thượng Lào và Nam Trung Quốc, vừa nối liền với Liên khu 3, Liên khu 4 và vùng căn cứ địa Việt Bắc. Tây Bắc là vùng có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc _____________
) Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
56 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
thiểu số, đông nhất là dân tộc Thái, Mông, Mường, Dao, Tày, Nùng; trình độ phát triển giữa các dân tộc không đồng đều.
Do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên không thuận lợi nên kinh tế ở vùng Tây Bắc còn lạc hậu; chủ yếu kinh tế nông nghiệp, mang nặng tính tự cung, tự cấp. Đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, thiếu đói quanh năm, nhất là những tháng giáp hạt. Trình độ dân trí thấp, đồng bào bị “bó buộc” bởi các phong tục tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội, như tục tin vào trời đất, cúng ma, rượu chè, thuốc phiện...
Lợi dụng đời sống thấp kém, lạc hậu về nhiều mặt của đồng bào dân tộc thiểu số, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách thâm độc, xảo quyệt hòng chia rẽ, gây thù hằn giữa các dân tộc. Chúng còn dùng muối, gạo, vải mua chuộc đồng bào, phát súng cho dân đi săn; lôi kéo thầy mo, thầy cúng là những người trực tiếp có uy tín trong bộ tộc đi theo chúng. Chúng còn tuyên truyền, kích động nhân dân bằng những khẩu hiệu chính trị có tính chất kinh tế như “giết Kinh lấy muối”, “giết Thổ lấy vàng”, “giết Mán lấy bạc”, “giết Mèo lấy thuốc phiện” để kích động và gieo rắc nghi kỵ giữa các dân tộc.
Thực dân Pháp chiếm Tây Bắc ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập “xứ Thái tự trị”, tổ chức “Liên khu độc lập Tây Bắc” nhằm thống trị lâu dài nhân dân địa phương, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam, thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Đến năm 1952, “Liên khu độc lập Tây Bắc” do Trung tá Tơrăngca chỉ huy, Sở Chỉ huy đặt ở Lai Châu, có lúc ở Nà Sản. Địch chia Tây Bắc thành 4 phân khu: Sơn La, Nghĩa Lộ, Lai Châu, Sông Đà và tiểu khu độc lập Tuần Giáo.
Sau khi thành lập các phân khu, tiểu khu quân sự, chúng gấp rút đôn quân, bắt lính, xây dựng ngụy quân, mở rộng các cuộc càn quét, lấn chiếm; củng cố các vị trí đã chiếm đóng. Từ năm 1951, sau thất bại ở Chiến dịch Biên giới, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công chiếm lại Phong Thổ, Sa Pa; sáp nhập Mộc Châu, Sơn La thành phân khu Sơn La. Các khu du kích của ta ở Mai Châu, Mường La (Sơn La), Tuần Giáo, Điện Biên (Lai Châu)... lần lượt bị phá vỡ, lực lượng vũ trang bị tổn thất nặng nề.
Đồng thời với việc mở các cuộc càn quét, thực dân Pháp tiến hành tuyển thanh niên các dân tộc đi lính để xây dựng các tiểu đoàn người dân tộc
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 57
thiểu số mà chủ yếu là người Thái. Tại Tây Bắc, thực dân Pháp đã xây dựng được 5 tiểu đoàn lính ngụy là người dân tộc thiểu số.
Cùng với việc chiêu mộ, xây dựng lực lượng ngụy quân người dân tộc thiểu số, thực dân Pháp còn tăng cường nuôi dưỡng, gây dựng, sử dụng lực lượng thổ phỉ để chống lại cách mạng. Dựa vào các thổ ty, lang đạo, phìa tạo ở các địa phương, thực dân Pháp đã dụ dỗ được nhiều thanh niên nhập vào hàng ngũ phỉ. Năm 1951, lực lượng phỉ mà thực dân Pháp gây dựng được ở Lào Cai là 2.000 tên, đến giữa năm 1952 là 3.500 tên1. Việc xây dựng các tổ chức phỉ của thực dân Pháp đã gây rất nhiều khó khăn cho phong trào kháng chiến của nhân dân ta.
Như vậy, đến thời điểm năm 1952, hầu hết các địa phương Tây Bắc nằm trong vùng kiểm soát của thực dân Pháp và chính quyền tay sai Pháp. Nhân dân các dân tộc Tây Bắc vốn có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Từ khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, nhân dân các dân tộc Tây Bắc nghe theo tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng đứng lên chống lại ách nô dịch của thực dân Pháp và các thế lực phong kiến, tích cực tham gia kháng chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Biên giới năm 1950 và nhất là trong Chiến dịch Tây Bắc năm 1952, giải phóng quê hương.
Tháng 7/1952, căn cứ tình hình và yêu cầu của cuộc kháng chiến, Ban Bí thư ra quyết định thành lập Khu Tây Bắc, gồm 4 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai và Yên Bái.
Sau khi được thành lập, Khu ủy Khu Tây Bắc đã chỉ đạo các tỉnh đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở cách mạng, trước hết là tổ chức đảng tại các địa phương. Đến cuối năm 1952, toàn Khu Tây Bắc đã có 145 chi bộ với tổng số 3.848 đảng viên và 495 cán bộ, trong đó có 17 chi bộ bộ đội địa phương, 51 chi bộ cơ quan, 1 chi bộ xí nghiệp2.
Tháng 9/1952, dựa vào so sánh thế và lực giữa ta và địch trên chiến trường, căn cứ vào đề nghị của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tham mưu, _____________
1. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam tập 11 (từ năm 1951 đến năm 1954), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr. 271.
2. PGS. Cao Văn Lượng, PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Khu Tây Bắc (1945-1954), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr.340.
58 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc nhằm mục đích: “Tiêu diệt sinh lực địch; tranh thủ nhân dân vùng Tây Bắc; giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc”1; và cử đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị, đồng chí Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm hậu cần chiến dịch.
Với địa hình khó khăn và phức tạp của vùng Tây Bắc, Trung ương Đảng xác định để chiến dịch thắng lợi, ngoài việc tập trung binh lực mạnh, ta còn phải huy động lực lượng lớn nhân lực để vận chuyển lương thực, vũ khí, khí tài từ căn cứ địa Việt Bắc, từ vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh lên Tây Bắc. Không những vậy, với sự hạn chế của nhận thức của đồng bào cùng âm mưu chia để trị thâm độc của thực dân Pháp, việc tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc là nhiệm vụ rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thành bại của chiến dịch.
Để thực hiện thắng lợi chiến dịch, cùng với việc sử dụng các đơn vị chủ lực, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở cách mạng ở các tỉnh Tây Bắc; huy động sự đóng góp của toàn dân, từ nhân dân Liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4, và đặc biệt là nhân dân các dân tộc vùng Tây Bắc.
Việc xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch chiếm đóng rất được coi trọng. Tại Yên Bái, sau một thời gian ngắn, ta đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các xã, bản của huyện Văn Chấn như Man La, Hố Pèng, Man Bó Siêu, Nga Hai, Văn Ngân, Dao Luôn và Khe Lóng... Các cơ sở ở Sơn Lương, Gia Hội, Mường Khoa, Thân Thuộc được khôi phục và sau đó phát triển vào các huyện Than Uyên, thị xã Nghĩa Lộ. Tại Sơn La, với vị trí là chiến trường chính của chiến dịch, sau khi được Khu ủy tăng cường cán bộ, các cơ sở tại đây đã phát triển mạnh khắp khu vực Quang Huy, Khu Mèo 99, hữu ngạn sông Đà. Các tổ vũ trang tuyên truyền tiến vào Tạ Khoa, Cò Nòi và sát thị xã Sơn La. Tỉnh ủy đã phân công các đồng chí tỉnh ủy viên trực tiếp phụ trách các huyện; đồng thời quyết định thành lập 3 ban cán sự Yên Châu,
_____________
1. Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu xuất bản, 1963, tập 2, tr.140.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 59
Mai Sơn, Thuận Châu; mở lớp huấn luyện cho cán bộ về việc nội dung công việc tiếp quản vùng giải phóng; trang bị phương pháp vận động quần chúng để động viên mọi tầng lớp nhân dân dồn sức người, sức của cao nhất để phục vụ chiến dịch. Tỉnh còn thành lập Ban cung cấp tiền phương do một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy làm Trưởng ban.
Tại Lai Châu, cùng với việc cử các quần chúng trung kiên đi đào tạo cán bộ do Khu tổ chức, Ban Cán sự Đảng đã điều động hơn 100 cán bộ tiến vào nội tỉnh để phục hồi cơ sở chính trị và vũ trang, tích cực chuẩn bị chiến trường; cử cán bộ sang Điện Biên gây dựng lại cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang.
Để vận động đồng bào dân tộc thiểu số tham gia kháng chiến, tháng 8/1952, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết Bộ Chính trị về chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay; Ban Bí thư ra Chỉ thị về “Thi hành chính sách dân tộc thiểu số ở Khu Q.T1”.
Nghị quyết Bộ Chính trị về chính sách dân tộc thiểu số của Đảng nêu rõ: “Hiện nay, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đang xâm lược lại Việt Nam. Chúng ra sức thi hành chính sách mua chuộc, lừa bịp, chia rẽ, đàn áp, hăm dọa, gây hằn thù giữa các dân tộc, nhằm mục đích phá hoại khối đoàn kết của các dân tộc ở Việt Nam hòng chiếm lại Việt Nam. Chúng lập ra các xứ tự trị giả hiệu như “xứ Thái”, “xứ Tây Kỳ”, lăm le khôi phục lại “xứ Mường tự trị”, “xứ Nùng tự trị”; dùng bọn bù nhìn thiểu số để vơ vét nhân lực, vật lực của các dân tộc miền núi sống dưới ách của chúng. Nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại đoàn kết chặt chẽ hơn bao giờ hết, kiên quyết kháng chiến cùng, đặng tiêu diệt quân xâm lược, giành lấy tự do, độc lập, thống nhất hoàn toàn cho dân tộc và bảo vệ hòa bình thế giới”2.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ: Củng cố và phát triển khối đoàn kết các dân tộc. Mọi hoạt động đều phải nhằm vào việc tập trung lực lượng toàn dân kháng chiến tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh bại bọn can thiệp Mỹ, đánh đổ bọn Việt gian bù nhìn, giành độc lập, tự do và hạnh phúc cho các
_____________
1. Tức Quang Trung - một mật danh của khu Tây Bắc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.260-261.
60 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
dân tộc ở Việt Nam. Tăng cường việc giáo dục tinh thần yêu nước của các dân tộc; phá tan âm mưu chia rẽ của giặc; vạch cho mọi người hiểu rõ kẻ thù chung của các dân tộc ở Việt Nam là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bọn Việt gian bù nhìn; còn các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, dù đa số hay thiểu số đều là anh em, phải đối với nhau một cách bình đẳng và đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến và cải thiện sinh hoạt.
Tháng 9/1952, Khu ủy Tây Bắc triệu tập Hội nghị cán bộ mở rộng quán triệt chính sách vận động đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng. Hầu hết các bí thư tỉnh ủy, huyện ủy và cán bộ các ban, ngành của Quân khu đều có mặt. Hội nghị đã học tập chính sách vận động đồng bào dân tộc thiểu số, Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vận động đồng bào dân tộc thiểu số vùng mới giải phóng; đồng thời đặt chương trình, kế hoạch để động viên cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân trong toàn Khu huy động mọi tiềm lực phục vụ chiến dịch.
Về quân sự, lực lượng chủ lực tham gia Chiến dịch Tây Bắc gồm Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Đại đoàn 316 (thiếu), Tiểu đoàn 910 thuộc Trung đoàn 148, 6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội súng cối 120mm, 1 Trung đoàn công binh 151, Đại đoàn công pháo 315 và 11 đại đội địa phương của các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La và Lào Cai.
Về vấn đề huy động dân công, giao cho Ban Dân công các tỉnh đảm nhiệm nhằm huy động đủ lực lượng, nhằm bảo đảm cơ sở vật chất và vận chuyển vũ khí trang bị, lương thực thực phẩm phục vụ cho chiến dịch.
Ngày 6/9/1952, tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị Chiến dịch Tây Bắc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh việc tranh thủ nhân dân trong Chiến dịch Tây Bắc là đặc biệt hệ trọng vì ở đây địch thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc rất thâm độc. Thực dân Pháp đã thất bại trong việc lập xứ Tày, xứ Nùng, xứ Mường, xứ Thái tự trị ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Lào Cai, Hòa Bình, nhưng ở Tây Bắc, các thế lực thù địch còn mạnh, còn khống chế được đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số. Do vậy, ta phải tranh thủ được nhân dân vùng Tây Bắc để đánh bại âm mưu thâm độc chia để trị, “dùng người Việt đánh người Việt” của địch.
Ngày 9/9/1952, đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “...Chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi... Quyết tâm đó
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 61
phải thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”1. Người đặc biệt nhấn mạnh chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số: “Chính phủ đã có quy định, các chú và bộ đội phải làm cho đúng. Đó là một cách tranh thủ nhân dân để phá tan âm mưu của địch “lấy người Việt hại người Việt”. Phải làm cho mỗi chiến sĩ là một người tuyên truyền... Phải làm thế nào để khi mình đến thì đồng bào hoan nghênh, khi đóng quân thì đồng bào vui vẻ giúp đỡ... Như thế là một đại thắng lợi”2. Đối với đồng bào dân công, Người căn dặn: “Phải giáo dục, phải chăm nom thân mật, phải giải thích tuyên truyền cổ động, phải làm cho đồng bào vui vẻ công tác... Đó là một điều giúp cho mình chiến thắng”3.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội và nhân dân các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã dốc sức, dốc lòng cho chiến dịch giải phóng Tây Bắc.
Do chiến trường Tây Bắc ở xa hậu phương lại là vùng núi cao hiểm trở, do vậy việc vận chuyển vũ khí, lương thực gặp rất nhiều khó khăn. Vận chuyển nhân lực, vật lực, Trung ương giao cho các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc phục vụ hướng Nghĩa Lộ; các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nam... phục vụ hướng đường 41 Sơn La.
Để chiến dịch thành công, ta đã huy động gần 200.000 dân công với 7 triệu ngày công, vận chuyển 11.750 tấn gạo, 164 tấn muối, 235 tấn thịt, 44 tấn thực phẩm, 83 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng cho chiến trường Tây Bắc. Trong số đóng góp đó, đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã huy động tại chỗ phục vụ chiến dịch 1.140 tấn gạo, 40 tấn thịt, 41 tấn thực phẩm khác cùng với 150.000 ngày công4.
Sau hai tháng mở chiến dịch, riêng Mặt trận Tây Bắc ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn, đại đội thuộc các binh đoàn cơ động của Pháp. Một vùng lãnh thổ rộng lớn khoảng 28.500 km2với 250.000 dân thuộc các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Yên Bái được giải phóng, nối liền Tây Bắc với
_____________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.481, 483.
4. PGS. Cao Văn Lượng, PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Khu Tây Bắc (1945-1954), Sđd, tr.372.
62 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
căn cứ địa Việt Bắc1. Thế uy hiếp của địch với Việt Bắc từ phía tây và uy hiếp Thượng Lào từ phía đông bị phá vỡ. Chiến thắng Tây Bắc của ta ngày càng đẩy quân Pháp vào thế bị động, thế thua. Đến cuối năm 1952, cục diện trên chiến trường Đông Dương đã thay đổi, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc là kết quả của việc huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc của Đảng, sự hy sinh vượt khó của các đơn vị bộ đội, sự đóng góp sức người, sức của của nhân dân vùng căn cứ Việt Bắc, vùng tự do Liên khu 3, 4 và nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Chiến thắng Tây Bắc đã làm thất bại âm mưu củng cố “xứ Thái”, “xứ Nùng tự trị” của thực dân Pháp, mở rộng và củng cố khối đoàn kết các dân tộc. Chiến thắng Tây Bắc đã khẳng định đường lối xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất của Đảng là đúng đắn. Khối đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được xây dựng và đã phát huy cao độ trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1954.
Thắng lợi Chiến dịch Tây Bắc 1952 đã để lại bài học về phát huy khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp, cần được nghiên cứu, vận dụng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực để thực hiện thành công khát vọng xây dựng nước Việt Nam hùng cường.
_____________
1. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học, Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên): Lịch sử Việt Nam tập 11, từ năm 1951 đến năm 1954, Sđd, tr.271.
CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952
BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC THAM MƯU CHIẾN LƯỢC Thượng tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG*
T
ừ ngày 14/10 đến ngày 10/12/1952, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân ta
đã tiến hành Chiến dịch Tây Bắc và giành thắng lợi vang dội. Trên cả hai mặt trận Tây Bắc và Trung du, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, trong đó diệt gọn 4 tiểu đoàn và 28 đại đội, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn trên địa bàn chiến lược quan trọng Tây Bắc với khoảng 30.000km2và 250.000 dân1. Chiến thắng Tây Bắc góp phần bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng, nối liền Tây Bắc với Việt Bắc và Thượng Lào, đánh bại âm mưu, thủ đoạn chiếm đóng Tây Bắc của địch; tạo thế, tạo lực mới thuận lợi cho ta trong quá trình phát triển thế tiến công và phản công chiến lược trên chiến trường, tiến lên giành những thắng lợi quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Tây Bắc 1952 là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, công tác tham mưu chiến lược đóng vai trò đặc biệt quan trọng. 70 năm đã trôi qua, nhưng những bài học về công tác tham mưu chiến lược trong Chiến dịch Tây Bắc vẫn còn nguyên giá trị, có thể vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
_____________
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. 1. Bộ Quốc phòng: Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, q.1, tr.276.
64 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Một là, nhận định, đánh giá đúng tình hình, tham mưu chính xác cho Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc giành thắng lợi, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển lên bước mới.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình (10/12/1951 - 25/2/1952), thế và lực của ta ngày càng lớn mạnh. Các đơn vị chủ lực thực hiện củng cố biên chế tổ chức, bổ sung lực lượng và vũ khí trang bị, tiến hành chỉnh huấn, chỉnh quân, đồng thời chú trọng công tác tổng kết, rút kinh nghiệm tác chiến. Qua đó, bộ đội ta có bước phát triển mới cả về tư tưởng, tổ chức lực lượng, trình độ kỹ chiến thuật, nhất là trình độ tác chiến ở địa bàn rừng núi. Cùng với đó, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao... được Đảng và Chính phủ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo không ngừng phát triển, đạt nhiều thành tựu mới, có tác dụng tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến tiếp tục tiến lên, giữ vững và phát triển thế tiến công chiến lược.
Trong khi đó, thực dân Pháp ngày càng gặp nhiều khó khăn cả về quân sự, chính trị và kinh tế. Để giành lại quyền chủ động, được sự giúp sức của Mỹ, thực dân Pháp và chính quyền tay sai tăng cường bắt lính, phát triển ngụy quân, xây dựng nhiều đồn bốt “boongke” kiên cố, đẩy mạnh bình định và mở rộng phạm vi chiếm đóng. Để đối phó với chủ lực ta, địch thành lập các đơn vị Âu - Phi cơ động; nhiệm vụ chiếm đóng chủ yếu do lực lượng ngụy quân đảm nhiệm. Trên địa bàn Tây Bắc, binh lực chiếm đóng của địch có 3 tiểu đoàn Âu - Phi, 5 tiểu đoàn và 43 đại đội ngụy, 4 trung đội pháo, rải ra trên 144 cứ điểm (trong đó có khoảng 40 cứ điểm do 2 đại đội đóng giữ)1. Các cứ điểm của địch đóng trên địa hình hiểm trở, dễ bị bao vây, cô lập, khó cơ động ứng cứu cho nhau. Sau khi ta tiến công Nghĩa Lộ (10/1951) không thành công, quân Pháp ở Tây Bắc khá chủ quan, cho rằng ta chưa thể có đủ điều kiện tiến công lên địa bàn rừng núi này. Vì vậy, sau thất bại ở Hòa Bình, trong Hè - Thu 1952, thực dân Pháp tập trung càn quét vùng tạm chiếm ở
_____________
1. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.175.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 65
đồng bằng và trung du Bắc Bộ nhằm phá hoại hậu phương và các khu du kích, căn cứ du kích của ta. Trong khi ở Tây Bắc, địch không tăng cường gì lớn. Vì vậy, Tây Bắc là hướng địch sơ hở và mỏng yếu nhất trên chiến trường chính Bắc Bộ lúc này.
Phân tích, đánh giá toàn diện tình hình chiến trường, đặc biệt là chiến trường chính Bắc Bộ, Bộ Tổng Tham mưu nhận định: Do thất bại nặng nề ở Hòa Bình, lúc này thực dân Pháp buộc phải quay về phòng ngự chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ trong thế bị động về chiến lược. Trong khi đó, lực lượng ta ngày càng trưởng thành, được tăng cường củng cố và mạnh lên. Tuy nhiên, tương quan lực lượng giữa ta và địch chưa có gì thay đổi lớn, nhìn chung, ta vẫn ở thế yếu hơn địch. Trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng rừng núi Tây Bắc rộng lớn là chiến trường địch còn kiểm soát, nhưng bố phòng của địch mỏng yếu và nhiều sơ hở hơn đồng bằng, trung du Bắc Bộ; hỏa lực không quân, pháo binh khó phát huy sức mạnh. Trái lại, chiến trường rừng núi là nơi ta phát huy được sở trường tác chiến, sức mạnh của ta, khoét sâu chỗ yếu của địch. Trên cơ sở nhận định đó, đồng thời rút kinh nghiệm việc lựa chọn hướng chiến lược trong các chiến dịch đã được mở vào Xuân - Hè 1951, cùng thực tiễn nóng hổi sau Chiến dịch Hòa Bình khi ta chuyển hướng tiến công chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu xác định hướng chiến dịch trong Thu - Đông 1952 vẫn là chiến trường rừng núi. Bộ Tổng Tham mưu đã tham mưu cho Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc trong Thu - Đông 1952. Đầu tháng 9/1952, căn cứ đề nghị của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Chính trị chính thức quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc.
Chọn Tây Bắc làm địa bàn chiến dịch, cơ quan tham mưu chiến lược đã quán triệt đúng phương châm tránh chỗ địch mạnh, đánh chỗ địch yếu và phát huy tốt nhất sở trường chiến đấu của bộ đội. Chiến dịch Tây Bắc diễn ra và giành thắng lợi vang dội đã chứng minh cho việc lựa chọn hướng tiến công chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu là chính xác, có ý nghĩa quyết định thành công của chiến dịch.
Từ bài học về công tác tham mưu chiến lược, nhận định, đánh giá chính xác tình hình và quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc 1952, trong sự nghiệp
66 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, căn cứ vào tình hình thực tế, yêu cầu về công tác tham mưu chiến lược đặt ra ngày càng cao, đòi hỏi các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, nòng cốt là Bộ Tổng Tham mưu phải chủ động bám sát, nắm chắc tình hình, thực hiện tốt công tác dự báo chiến lược về quân sự - quốc phòng. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu của công tác tham mưu chiến lược. Cơ quan tham mưu chiến lược cần “tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”1theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI... Trên cơ sở đó, nắm chắc tình hình, dự báo chính xác âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; kịp thời tham mưu, đề xuất các đối sách hợp lý để giải quyết tốt các vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; xác định đúng hướng, mục tiêu chiến lược nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia cả trên bộ, trên biển, trên không và trên không gian mạng. Tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng kiến nghị với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương bảo vệ Tổ quốc và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành Quân đội nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng kế hoạch tác chiến sát tình hình thực tế, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ củng cố, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và công tác chuẩn bị chiến dịch.
Ngay từ cuối Chiến dịch Hòa Bình (2/1952), Bộ Chính trị đã có chủ trương mở chiến dịch trên hướng Tây Bắc2. Thực hiện ý định của Bộ Chính trị,
_____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.160.
2. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công Tây Bắc (Thu - Đông 1952), Sđd, tr.10.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 67
Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp lãnh đạo công tác chuẩn bị chiến dịch. Bộ Tổng Tham mưu được phân công điều hành chung, đã khẩn trương triển khai trinh sát địch tình, địa hình, dự kiến kế hoạch chiến dịch, chuẩn bị cơ sở quần chúng, lực lượng tham gia chiến dịch, hậu cần, giao thông... Qua nghiên cứu chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu nhận thấy Tây Bắc có địa hình rừng núi rộng lớn, hiểm trở, xa hậu phương nên cơ động lực lượng và bảo đảm hậu cần khó khăn. Về phía địch, lực lượng bố trí phân tán trên một địa bàn rộng, quân số ít, khá sơ hở, đa số là quân ngụy người Thái, khả năng chiến đấu kém, công sự yếu hơn so với trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Địch tổ chức vùng Tây Bắc thành Liên khu độc lập gồm 4 phân khu: Nghĩa Lộ, Sơn La, Lai Châu, Sông Đà và 3 tiểu khu độc lập: Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo. Tại hai vị trí Nghĩa Lộ và Mộc Châu, chúng bố trí mỗi nơi 1 tiểu đoàn với hệ thống công sự, vật cản tương đối vững chắc, nhằm bảo vệ cửa ngõ vào Tây Bắc. Với đặc điểm như trên, Bộ Tổng Tham mưu cho rằng, nếu xây dựng kế hoạch tác chiến phù hợp, làm tốt công tác chuẩn bị, giữ được bí mật, bất ngờ thì chiến dịch vẫn có thể giành thắng lợi trên cả 3 mục tiêu đặt ra là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tranh thủ nhân dân và giải phóng đất đai.
Đầu tháng 4/1952, Kế hoạch tác chiến Chiến dịch Tây Bắc được Bộ Tổng Tham mưu dự thảo xong, gồm 2 phương án1. Kế hoạch được báo cáo Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh và phổ biến sơ bộ cho các lực lượng để chuẩn bị chiến dịch. Tiếp tục theo dõi diễn biến chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu từng bước hoàn thiện phương án tác chiến. Trong 2 ngày 4 và 5/7/1952, Tổng Quân ủy họp mở rộng, quyết định chọn phương án 2 do Bộ Tổng Tham mưu đề xuất để chuẩn bị tiếp. Nội dung kế hoạch do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng báo cáo tại hội nghị gồm một số điểm chính: 1. Chọn Nghĩa Lộ làm hướng chủ yếu và là trận then chốt mở màn chiến dịch; lực lượng gồm 6 trung đoàn (phương án 1 là 8 trung đoàn). 2. Phù Yên là hướng thứ yếu; lực lượng 2 trung đoàn. 3. Phối hợp là lực lượng còn lại đánh vào Sơn La, Yên Châu, Mai Sơn, Mường Lay...
_____________
1. Xem Bộ Tổng Tham mưu: Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.426-427.
68 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Cùng với xây dựng kế hoạch tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo công tác xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến dịch. Ngay khi Bộ Chính trị có ý định mở chiến dịch hướng Tây Bắc, Bộ Tổng Tham mưu đã tập trung chỉ đạo củng cố, phát triển lực lượng, tổ chức thêm 1 trung đoàn bộ binh cho Mặt trận Trung Lào; chấn chỉnh, củng cố 6 đại đoàn chủ lực, 9 trung đoàn, 12 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công - pháo, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 đại đội cao xạ, 18 tiểu đoàn, 193 đại đội và 194 trung đội bộ đội địa phương1. Các đơn vị chủ lực trên chiến trường chính Bắc Bộ dự kiến tham gia Chiến dịch Tây Bắc được biên chế gọn nhẹ, tinh giản; được tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật, vừa có thể đánh được công kiên vừa đánh được vận động, phù hợp với đặc điểm chiến trường Tây Bắc. Đến tháng 9/1952, về cơ bản, công tác củng cố, chuẩn bị lực lượng đã sẵn sàng để mở màn chiến dịch.
Về công tác bảo đảm, do Tây Bắc có địa hình phức tạp, phải vượt qua nhiều đèo cao, suối sâu và sông lớn, thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của bộ đội và dân công; mặt khác chiến dịch dự kiến sẽ diễn ra dài ngày, nên việc bảo đảm hậu cần, bảo đảm giao thông sẽ rất khó khăn. Nắm chắc tình hình, Bộ Tổng Tham mưu đã cùng với Tổng cục Cung cấp bàn kế hoạch chuẩn bị bảo đảm vật chất cho Chiến dịch Tây Bắc và thống nhất đề nghị cho sửa chữa các đường trục vận chuyển bằng ôtô trên đường 13, đường 6 và đường từ Hồi Xuân - Thanh Hóa lên Suối Rút; khôi phục đường sắt từ Yên Bái đi Mậu A; cho công binh và dân công sửa chữa trước những quãng đường xa địch, bố trí lực lượng phòng không bảo vệ các trọng điểm giao thông... Trên cơ sở quyết tâm chiến dịch, cơ quan tham mưu cùng cơ quan hậu cần lựa chọn phân hướng, phân tuyến, đường cơ động, cách thức và lực lượng tham gia. Trước khi chiến dịch mở màn, cơ quan tham mưu đã hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận, giữ vững yếu tố bí mật, điều hành một lực lượng lớn bộ đội, trang bị kỹ thuật đến khu vực tập kết an toàn, đúng quy định.
Qua quá trình chuẩn bị chiến dịch, có thể thấy, cơ quan tham mưu chiến lược đã nắm chắc tình hình, xây dựng kế hoạch tác chiến phù hợp,
_____________
1. Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, tr.421.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 69
đồng thời xúc tiến chỉ đạo xây dựng lực lượng, công tác bảo đảm được chuẩn bị chu đáo, góp phần vào thắng lợi chiến dịch.
Hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thế giới, tuy nhiên, vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột cục bộ. Chiến tranh hiện đại (nếu xảy ra), địch sử dụng vũ khí công nghệ cao với khả năng cơ động lực lượng nhanh, hỏa lực mạnh, tình huống diễn biến mau lẹ, phức tạp, ác liệt. Vì vậy, cơ quan tham mưu chiến lược phải chủ động bám sát tình hình, kịp thời xây dựng kế hoạch tác chiến phù hợp; coi trọng chỉ đạo tham mưu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy tốt vai trò nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Công tác tham mưu chiến lược cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước về xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng những chủ trương lớn nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Điều chỉnh, kiện toàn cơ cấu tổ chức biên chế quân đội, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương theo hướng tinh, gọn, mạnh, cơ động, có sức chiến đấu cao, thế bố trí chiến lược phù hợp; trước mắt chỉ đạo toàn quân triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 230-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo”. Chú trọng tham mưu đẩy mạnh hiện đại hóa các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, phấn đấu đến 2030 xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; đề xuất các giải pháp chiến lược thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, đưa công nghiệp quốc phòng trở thành mũi nhọn công nghiệp quốc gia.
70 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác tham mưu, tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, tổ chức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng ở các bộ, ngành và địa phương nhằm bảo đảm khai thác tốt nhất các nguồn nhân lực, vật lực, đáp ứng yêu cầu bảo đảm về hậu cần, kỹ thuật khi có tình huống xảy ra, sẵn sàng bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ba là, dự báo chính xác các tình huống, chỉ đạo, điều hành linh hoạt hoạt động tác chiến chiến dịch giành thắng lợi
Trong kế hoạch tác chiến Chiến dịch Tây Bắc do Bộ Tổng Tham mưu xây dựng, dự kiến chiến dịch có thể diễn ra từ 2 đến 3 đợt. Trong đợt 2 chiến dịch, Bộ Tổng Tham mưu dự kiến 2 tình huống. Nếu đợt 1 hoàn thành nhiệm vụ thuận lợi thì nhanh chóng đánh vào Sơn La, cắt đường 41, khu vực Cò Nòi và đánh xuống phía Nam theo đường 41. Nếu đợt 1 gặp khó khăn thì đánh vùng Nam Sơn La trước bằng 2 cánh: một cánh từ Tạ Khoa tiến ra Cò Nòi theo đường 13 cắt đường 41 tiến xuống đông nam; một cánh từ Vạn Yên ra Mộc Châu và từ đông nam đánh lên; đồng thời, cho một bộ phận nhỏ vào vùng địch hậu phát động nhân dân, hoạt động du kích nhằm cô lập Sơn La, tạo điều kiện cho đợt 3 đánh vào Sơn La. Đề phòng địch đánh lên vùng tự do của ta ở Phú Thọ, sau đợt 1, hai trung đoàn thuộc Đại đoàn 308 quay về bảo vệ hậu phương chiến dịch.
Thực tiễn diễn biến chiến dịch, trong đợt 1, thực hiện phương châm “đánh điểm, diệt viện”, Bộ Chỉ huy Chiến dịch sử dụng ưu thế binh, hỏa lực (2 đại đoàn, 1 trung đoàn bộ binh và toàn bộ pháo binh chiến dịch) tiêu diệt hàng loạt vị trí, tạo điều kiện đưa lực lượng vào tiêu diệt Nghĩa Lộ - trận then chốt thứ nhất của chiến dịch, đồng thời tổ chức tiến công các cứ điểm nhỏ, vừa đánh viện tiêu diệt 1 tiểu đoàn dù của địch nhảy xuống Tú Lệ, vừa truy kích địch từ Tú Lệ đến Ít Ong, hình thành mũi vu hồi chiến dịch đánh vào phía nam Lai Châu. Thành công của đợt 1 chiến dịch tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta vượt sông Đà, tiến công Sơn La. Rõ ràng, đây là bước trưởng thành của cơ quan tham mưu trong việc xác định phương châm tác chiến và chỉ huy, điều hành chiến dịch.
Đúng như dự đoán của Bộ Tổng Tham mưu, sau đợt 1, ngày 28/10/1952, thực dân Pháp mở cuộc Hành quân Loren (Lorraine) đánh lên
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 71
vùng tự do Phú Thọ hòng phá kế hoạch chiến dịch tiến lên Tây Bắc của ta. Vận dụng kinh nghiệm trong Chiến dịch Biên giới 1950, khi địch mở cuộc hành quân Phoque đánh lên Thái Nguyên, Bộ Chỉ huy chiến dịch và cơ quan tham mưu xác định quyết tâm giữ vững quyền chủ động, vẫn tiến hành đợt 2 chiến dịch theo kế hoạch, đồng thời lệnh cho Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 quay về phối hợp với lực lượng tại chỗ bảo vệ hậu phương Phú Thọ, làm nên chiến thắng Chân Mộng - Trạm Thản (17/11/1952), đánh bại âm mưu đánh vào hậu phương ta của địch.
Sang đợt 2 chiến dịch, Bộ Chỉ huy chiến dịch tiếp tục sử dụng 6 trung đoàn của các đại đoàn 308, 312, 316 cùng lực lượng binh chủng tiến công địch ở khu vực Ba Lay, Mộc Châu, Bản Hoa. Các lực lượng khác trên các hướng được lệnh nổ súng trước để nghi binh ở khu vực Nam Lai Châu (hướng vu hồi), tổ chức một mũi đánh vào Tuần Giáo, Lai Châu rồi tiến sâu vào Điện Biên Phủ; một mũi đánh vào Thuận Châu và truy kích về Sơn La, buộc địch phải rút chạy về Nà Sản. Thắng lợi trong trận then chốt thứ hai ở Mộc Châu đã đập tan lá chắn của địch trên đường 41, buộc địch phải rút khỏi Chiềng Pan, Sông Con, Tạ Say, Sa Piệt, Tạ Khoa... Cửa ngõ tiến vào Tây Bắc theo đường 41 được khai thông hoàn toàn, tạo điều kiện cho quân ta thọc sâu giải phóng Mường Sài, Sơn La và vùng Nam Lai Châu.
Đợt 3 chiến dịch, ta tập trung lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Tuy nhiên, các trận tiến công của ta không đạt mục đích đề ra. Theo sát diễn biến chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu nhận thấy, ta chưa nắm chắc địch, trước mắt chưa đủ khả năng tiêu diệt Nà Sản, cần có thời gian chuẩn bị chu đáo, huấn luyện bộ đội và nghiên cứu kỹ lưỡng kiểu phòng ngự mới của địch. Trên cơ sở đề nghị của cơ quan tham mưu, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch. Các đơn vị được lệnh cơ động ra vùng hậu cứ để củng cố lực lượng.
Có thể nói, Chiến dịch Tây Bắc đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Bộ Tổng Tham mưu trong xác định phương châm tác chiến chiến dịch, dự báo các tình huống và chỉ đạo điều hành chiến dịch giành thắng lợi.
Kế thừa và vận dụng bài học kinh nghiệm rút ra từ Chiến dịch Tây Bắc, trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cơ quan tham mưu chiến
72 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
lược cần nghiên cứu, nắm bắt chuẩn xác tình hình, chủ động tham mưu, dự báo các tình huống có thể xảy ra; đồng thời chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân sẵn sàng các phương án xử lý kịp thời, linh hoạt, có hiệu quả các tình huống. Hiện nay, để đối phó có hiệu quả với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi công tác chỉ đạo xử lý các tình huống an ninh, quốc phòng phải hết sức nhạy bén, linh hoạt. Trên cơ sở làm tốt công tác dự báo chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu xác định chuẩn xác đối tượng tác chiến, dự báo đúng các tình huống chiến lược có thể xảy ra, các tình huống phức tạp do các thế lực thù địch gây ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các phương án sẵn sàng chiến đấu, xử lý thắng lợi mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm phạm chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đe dọa chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, không để bị động, bất ngờ. Nâng cao chất lượng công tác tổng kết, nghiên cứu, bổ sung phát triển khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, sẵn sàng ứng phó với mọi âm mưu, thủ đoạn của địch. Đây là yêu cầu quan trọng, cấp thiết hiện nay đối với công tác tham mưu chiến lược, đòi hỏi trách nhiệm, nỗ lực cao của các cơ quan và đội ngũ cán bộ ở cơ quan tham mưu chiến lược. Để thực hiện tốt yêu cầu đó, Bộ Tổng Tham mưu và các cơ quan tham mưu chiến lược cần chú trọng chỉ đạo, hướng dẫn các vấn đề chiến lược phù hợp, sát hình hình thực tiễn; nâng cao chất lượng huấn luyện, sát với thực tiễn chiến đấu trong điều kiện mới để đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, kể cả chiến tranh hiện đại, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến tranh điện tử, chiến tranh trên không gian mạng của địch. Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân chủ động, sáng tạo, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống, quản lý chặt chẽ, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng điểm của Tổ quốc.
Bốn là, chỉ đạo, điều hành chặt chẽ, hiệu quả hoạt động phối hợp giữa các lực lượng, các chiến trường
Theo kế hoạch tác chiến do Bộ Tổng Tham mưu xây dựng và đã được thông qua, lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 đại đoàn bộ binh: 308 (3 trung đoàn), 312 (3 trung đoàn), 316 (2 trung đoàn), Tiểu đoàn bộ binh 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội sơn pháo 75mm (24 khẩu), 3 đại đội súng cối 120mm
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 73
(12 khẩu), Trung đoàn công binh 151 Đại đoàn công pháo 351 và 11 đại đội bộ đội địa phương cùng lực lượng du kích các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai. Bên cạnh đó, khoảng 35.000 dân công được huy động làm nhiệm vụ sửa đường, vận chuyển lương thực, thực phẩm (hơn 9.000 tấn), vũ khí và dụng cụ y tế, thuốc (khoảng 120 tấn) từ hậu phương ra tiền tuyến.
Như vậy, các lực lượng tham gia chiến dịch rất lớn. Để bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, các địa phương, sau khi hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, từ ngày 6 đến ngày 9/9/1952, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các chính ủy và trung đoàn trưởng trở lên thuộc các đại đoàn tham gia chiến dịch. Tham dự hội nghị có đại diện cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh, Liên khu Việt Bắc, mặt trận Tây Bắc, Liên khu 3, Liên khu 41. Đồng chí Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tổng Quân ủy phổ biến nghị quyết của Trung ương Đảng mở Chiến dịch Tây Bắc. Đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng trình bày kế hoạch tác chiến chiến dịch. Theo đó, sử dụng 7 trung đoàn bộ binh chủ lực và các đơn vị hỏa lực tiêu diệt địch ở phân khu Nghĩa Lộ và tiểu khu Phù Yên, phát triển tiến công lên Sơn La; đồng thời, sử dụng Tiểu đoàn 910 luồn sâu vào vùng địch hậu Quỳnh Nhai làm nhiệm vụ củng cố và mở rộng cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương; Trung đoàn 176 Đại đoàn 316 đứng chân ở Phú Thọ sẵn sàng đánh địch lên cứu viện. Liên khu 3 được giao nhiệm vụ tăng cường hoạt động kiềm chế, không cho địch tăng viện lên chiến trường chính Tây Bắc hoặc đánh ra vùng tự do của ta; đẩy mạnh chiến tranh du kích chống địch càn quét, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tranh thủ mở rộng vùng căn cứ du kích; tăng cường công tác dân vận, địch vận, phá tề, trừ gian, phá âm mưu, thủ đoạn cướp bóc của địch đi đôi với hành động quân sự để bình định vùng quan trọng.
Thực hiện nhiệm vụ, trong suốt quá trình diễn ra Chiến dịch Tây Bắc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, sự điều hành trực tiếp của Bộ Tổng Tham mưu, các đơn vị tham gia chiến dịch đã phối hợp nhịp nhàng, tạo điều kiện hỗ trợ nhau giành thắng lợi. Các đơn vị
_____________
1. Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Sđd, tr.433.
74 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương có sự phối hợp chặt chẽ trên cả hướng chính diện và hướng phối hợp. Liên khu 3 đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp với bộ đội chủ lực, vừa tiêu diệt, vừa căng kéo lực lượng địch, làm tốt công tác nghi binh chiến lược, đồng thời huy động vật chất, dân công vận chuyển phục vụ chiến dịch. Tại Liên khu 4, quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh huy động lương thực, thực phẩm cung cấp cho chiến dịch với hàng nghìn dân công làm nhiệm vụ vận chuyển; quân và dân Bình - Trị - Thiên đẩy mạnh chiến tranh du kích. Quân và dân Liên khu Việt Bắc đẩy mạnh tác chiến bảo vệ hậu phương chiến dịch; đồng thời huy động lương thực, thực phẩm, vật chất, phương tiện bảo đảm cung cấp và phục vụ chiến dịch; đẩy mạnh phá tề, trừ gian... phối hợp với chiến dịch.
Sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các lực lượng, các chiến trường theo kế hoạch thống nhất của cơ quan tham mưu chiến lược là nhân tố quan trọng góp phần đưa đến thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc.
Qua thực tiễn Chiến dịch Tây Bắc, bài học về chỉ đạo, điều hành linh hoạt, hiệu quả hoạt động phối hợp giữa các lực lượng, các chiến trường của cơ quan tham mưu chiến lược đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Vận dụng và phát huy bài học đó, cơ quan tham mưu chiến lược cần tập trung nghiên cứu, tham mưu đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu tham mưu chiến lược trong tình hình mới, trong đó tập trung tham mưu xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên từng địa bàn và cả nước; xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh cả về tiềm lực và thế trận, chú trọng thế trận quân sự và “thế trận lòng dân”. Lực lượng vũ trang trong các khu vực phòng thủ có tính cơ động, linh hoạt cao, sẵn sàng phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ khi có tình huống xảy ra. Ngay từ thời bình, phải chuẩn bị sẵn sàng các phương án phòng thủ, tiến công; xác định đối tượng; nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; phương châm, phương thức tiến hành chiến tranh; xây dựng thế trận; vận dụng các hình thức tác chiến... sẵn sàng phối hợp chiến đấu, giành và giữ quyền chủ động trong mọi tình huống.
Việc sử dụng lực lượng cần phải có khả năng chuyển hóa thế trận kịp thời, linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình, nhất là ở hướng chủ yếu, trọng điểm. Điều đó đòi hỏi chất lượng, khả năng tác chiến và sự phối hợp
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 75
giữa các lực lượng quân, binh chủng phải nhịp nhàng, sáng tạo, chặt chẽ. Tăng cường nâng cao chất lượng huấn luyện, chú trọng công tác huấn luyện đáp ứng yêu cầu tác chiến trong chiến tranh hiện đại, sử dụng vũ khí công nghệ cao, trên các môi trường tác chiến mới (không gian mạng, không gian vũ trụ). Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ tư duy quân sự của người chỉ huy và cơ quan tham mưu chiến lược, chiến dịch về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng, điều hành, chỉ huy tác chiến hiệp đồng trong khu vực phòng thủ và giữa các chiến trường trong chiến tranh hiện đại.
Cùng với đẩy mạnh và nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phải chú trọng nâng cao khả năng khai thác, sử dụng các loại vũ khí, khí tài được trang bị, đặc biệt là các loại vũ khí, khí tài mới, hiện đại; tăng cường diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng và diễn tập phối hợp các lực lượng trong khu vực phòng thủ ở các quy mô khác nhau; diễn tập và huấn luyện các lực lượng đặc nhiệm, tác chiến biển, đảo, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai... nhằm nâng cao trình độ và năng lực tổ chức, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc 1952 đã để lại những bài học quý về công tác tham mưu chiến lược. 70 năm đã trôi qua, những bài học được đúc rút từ chiến thắng lịch sử Tây Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp vẫn nóng hổi tính thời sự, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong công tác tham mưu chiến lược hiện nay, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 -
BƯỚC TRƯỞNG THÀNH
CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Thượng tướng, TS. LÊ HUY VỊNH*
S
au chiến thắng Biên giới Thu - Đông năm 1950, nhằm tiếp tục phát triển thế tiến công chiến lược, ta chủ trương mở liên tiếp các chiến dịch
trong Xuân - Hè năm 1951, tiến công địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, cả ba chiến dịch (Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Quang Trung) đều không đạt được mục đích về mặt chiến lược, lại bị tổn thất về lực lượng. Chỉ đến khi Chiến dịch Hòa Bình giành thắng lợi đã khẳng định địa bàn rừng núi là nơi quân đội và nhân dân ta phát huy được ưu thế, hạn chế được thế mạnh về hỏa lực và khả năng cơ động nhanh của địch. Từ thực tế đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa II (4/1952), Trung ương Đảng đã nhận định, trong tương quan địch còn mạnh hơn ta về trang bị kỹ thuật và tổng quân số, ta nắm quyền chủ động, nhưng chưa đủ ưu thế áp đảo. Vì vậy, việc chọn hướng mở chiến dịch phải phù hợp với thế và lực của ta, cần tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, khoét sâu nhược điểm của địch, làm chúng suy yếu dần, ta trưởng thành từng bước, giành thắng lợi từng phần, tạo ra chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta, tiến lên những trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định.
Trên cơ sở phân tích và so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, căn cứ vào đề nghị của Bộ Tổng Tham mưu và Tổng Quân ủy, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc. _____________
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 77
Đó là một quyết định đúng đắn, “phù hợp với thế và lực của ta, nó quyết định bước phát triển của ta trong giai đoạn giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược”1. Với quyết tâm: “Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một bộ phận đất đai có tính chất quan trọng về chiến lược”2. Sau gần 2 tháng (14/10 - 10/12/1952), Chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi, ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng; từng bước mở rộng và giữ vững quyền chủ động về chiến lược, đánh dấu bước phát triển, trưởng thành mới của quân đội ta, góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.
Chiến thắng Tây Bắc năm 1952 đã đi vào lịch sử, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc trên nhiều phương diện của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, Chiến dịch Tây Bắc khẳng định sự phát triển không ngừng về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, trình độ tổ chức huấn luyện quân sự và bản lĩnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thu - Đông năm 1952, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc là một thử thách lớn đối với quân và dân ta. Bởi, chiến trường Tây Bắc có địa hình phức tạp, dân cư thưa, giao thông khó khăn; cơ sở chính trị còn yếu do bị địch khủng bố thường xuyên. Hơn nữa, trước các hoạt động tác chiến của ta, “địch sẽ đối phó quyết liệt bằng việc tăng viện hoặc rút về co cụm và có thể tổ chức các cuộc hành quân đánh sâu vào hậu phương ta để phá hoại”3.
Do tính chất quan trọng của Chiến dịch Tây Bắc, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp lãnh đạo công tác chuẩn bị. So với các chiến dịch trước đó, Chiến dịch Tây Bắc có thời gian chuẩn bị dài hơn. Trong đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, _____________
1. Bộ Tổng Tham mưu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử: Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, Hà Nội, 1991, tr.574.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.13, tr.304. 3. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Phát triển thế tiến công chiến lược, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014, t.5, tr.524.
78 CHIẾN THẮNG TÂY BẮC 1952 - TẦM VÓC LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Tổng Quân ủy quan tâm chỉ đạo. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba khóa II (4/1952) đã đề ra những nhiệm vụ cấp thiết lúc này phải “xây dựng quân đội mạnh hơn nữa, tiến hành chỉnh quân để nâng cao chất lượng chính trị của bộ đội, đề cao tư tưởng của cán bộ, cũng như đề cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật của toàn quân”1. Trên cơ sở đó, Tổng Quân ủy chỉ rõ: “Việc thống nhất tư tưởng, quán triệt sâu sắc quyết tâm mở chiến dịch của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là điều kiện tiên quyết không thể thiếu được để đánh thắng quân địch”2.
Tháng 5/1952, các đơn vị tiến hành giáo dục chính trị cho cán bộ và chiến sĩ. Đây là cuộc chỉnh huấn chính trị tập trung lớn nhất của quân đội ta kể từ khi thành lập. Bộ đội được học tập tài liệu “Trường kỳ kháng chiến”, tự lực cánh sinh; được quán triệt đầy đủ “10 điều kỷ luật chung và 3 điều kỷ luật chiến trường” của Bộ Tổng Tư lệnh... Thông qua đợt chỉnh huấn chính trị, bộ đội có nhiều chuyển biến lớn về nhận thức tư tưởng, xác định được quan điểm, lập trường, nâng cao trách nhiệm và tinh thần chiến đấu. Đặc biệt, do tầm quan trọng của công tác tranh thủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo và ký “Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Người đã vượt suối lũ để đến dự Hội nghị cán bộ bàn kế hoạch tác chiến. Tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của Người tác động sâu sắc đến ý chí, quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Tây Bắc.
Sau đợt chỉnh huấn chính trị, các đơn vị chủ lực bước vào chỉnh huấn quân sự. Bộ đội được huấn luyện 5 kỹ thuật chiến đấu cơ bản, học cách đánh công sự cải tiến, đánh cả ban ngày và ban đêm; nhiều trung đoàn diễn tập tác chiến hiệp đồng bộ binh với pháo binh; được phổ biến các kinh nghiệm chiến đấu của các chiến dịch Biên giới, Hòa Bình. Từ đơn vị cơ sở đến đại đoàn đều được biên chế phù hợp với cách đánh công kiên và đánh vận động theo hướng tăng thêm lực lượng trực tiếp cầm súng trên chiến trường. Trang bị vũ khí được tăng cường mạnh, thống nhất theo _____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.13, tr.70.
2. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công Tây Bắc (Thu - Đông 1952), Sđd, tr.76.