"
Chiến Quốc Sách - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến Quốc Sách - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
CHIẾN QUỐC SÁCH
Chú dịch và giới thiệu: Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê Nhà xuất bản: Từ điển Bách khoa
Năm xuất bản: 2006
Số trang: 496
Giá bìa: 60.000đ
Đánh máy: Goldfish
Sửa lỗi: Tuanz, Quocsan
Tạo ebook: QuocSan
http://www.e-thuvien.com
Tạo lại: Goldfish
(Có sửa lỗi và bổ sung)
Ngày hoàn thành: 28.10.2013
TVE-4u
MỤC LỤC
Vài lời thưa trước. 6
PHẦN I GIỚI THIỆU. 13
THỜI CHIẾN QUỐC. 13
NGUỒN GỐC CHIẾN QUỐC SÁCH. 18
GIÁTRỊ VỀ TÀI LIỆU LỊCH SỬ.. 22
XÃ HỘI TRUNG HOA TRONG CHIẾN QUỐC SÁCH. 26
GIÁ TRỊ CHIẾN QUỐC SÁCH VỀ PHƯƠNG DIỆN VĂN HỌC. 37
PHẦN II TRÍCH DỊCH. 51
LỜI DẪN. 51
CHƯƠNG I CHU SÁCH. 54
ĐÔNG CHU. 55
1. TẦN ĐÒI CHÍN CÁI ĐỈNH CỦA CHU (Tần cầu Chu cửu đỉnh) 55
2. TẦN TẤN CÔNG NGHI DƯƠNG – C4,2-123 (Tần công Nghi Dương) 56
4. TÔ TỬ THUYẾT VUA TÂY CHU THÁO NƯỚC CHO ĐÔNG CHU TRỒNG LÚA NẾP – C5,5-124 (Đông Chu dục vi đạo) 58
5. TÔ LỆ NÓI GIÙM CHO TƯỚNG QUỐC CHU (Chiêu Hiến tại Dương Địch) 59
6. TẦN MƯỢN ĐƯỜNG CỦACHU ĐỂ ĐÁNH HÀN (Tần giả đạo ư Chu dĩ phạt Hàn) 59
7. SỞ GIẬN CHU (Sở công Ung Thị) 59
8. KHỎI BỊ CÁCH CHỨC (Chu tướng Lữ Thương kiến khách ư Chu Quân) 60
10. NGƯỜI ĐẤT ÔN KHÉO ĐỐI ĐÁP MÀ KHỎI BỊ GIAM (Ôn nhân chi Chu) 61
17. TRIỆU LẤY TẾ ĐIỀN CỦA CHU – C8,22-11 (Triệu thủ Chu chi tế địa) 61
18. VUA NƯỚC NGHÈO NÊN LỰA BỀ TÔI RA SAO? (Đỗ Hách dục trọng Cảnh Thuý ư Chu) 61 20. TƯỚNG QUỐC CHU KHÔNG MUỐN QUA TẦN (Tam quốc ải Tần) 62
21. XƯƠNG THABỊ GIẾT – 138 (Xương Tha vong Tây Chu) 62
23. CHU SỢ HÀN GIẬN VỀ VỤ NGHIÊM THỊ (Nghiêm Thị vi tặc) 62
TÂY CHU. 63
1. HÀN KHÁNH THUYẾT TIẾT CÔNG (Tiết Công dĩ Tề vị Hàn, Nguỵ công Sở) 63
3. DU ĐẰNG BIỆN HỘ CHO VUA CHU (Tần lịnh Xư Lý Tật nhập Chu) 64
4. TÔ ĐẠI THUYẾT CÔNG TRỌNG (Ung Thị chi dịch) 65
6. TÔ LỆ BÀY KẾ CHO VUACHU KHUYÊN BẠCH KHỞI ĐỪNG ĐÁNH HÀN – C10,6-124 (Tô Lệ vị Chu Quân) 66
10. TẦN VỜI VUACHU QUAĐỂ ĐÁNH NGUỴ(Tần chiêu Chu Quân) 66
11. CƠ MẪU KHÔI THUYẾT VUANGỤY(Tê Vũ bại ư Y Khuyết) 67
14. CUNG THA KHUYÊN CHU ĐỀ PHÒNG TẦN (Cung Tha vị Chu Quân) 67
CHƯƠNG II TẦN SÁCH. 68
TẦN I 68
1. TRUYỆN VỆ ƯỞNG (Vệ Ưởng vong Nguỵ nhập Tần) 68
2. TRUYỆN TÔ TẦN – C11,2-31 (Tô Tần thuỷ tương liên hoành) –QC – BC. 69
3. TẦN HUỆ VƯƠNG MUỐN PHÁ KẾ HỢP TUNG CỦATÔ TẦN (Tần Huệ Vương vị Hàn Tuyền Tử) 74 5. TRƯƠNG NGHI THUYẾT TẦN HUỆ VƯƠNG (Trương Nghi thuế Tần Huệ Vương) 74
7. TƯ MÃ THÁC BÀN VỀ LẼ NÊN ĐÁNH THỤC (Tư Mã Thác thỉnh phạt Thục) 79
10. TẦN GIÚP NGUỴ ĐỂ NUỐT NGUỴ (Sở công Nguỵ) 81
11. TRẦN CHẨN ĐÁP VUATẦN – C14,11-86 (Điền Tân chi vị Trấn Chẩn thuế Tần Huệ Vương) 81 12. TRẦN CHẨN LẠI ĐÁP VUA TẦN – C14,12-85 (Trần Chẩn khứ Sở chi Tần) 83
TẦN II 84
1. SỞ MẮC MƯU TRƯƠNG NGHI (Tề trợ Sở công Tần) 84
2. TRẦN CHẨN THUYẾT VUA TẦN (Sở tuyệt Tề) 86
5. BIỂN THƯỚC MẮNG VUA TẦN – C15,5-1 (Y Biển Thước kiến Tần Vương) 87
6. CAM MẬU SỢ TẦN VŨ VƯƠNG NGHE LỜI GIÈM PHA – C15,6-62 (Tần Vũ Vương vị Cam Mậu) 87
7. PHÙNG CHƯƠNG GẠT VUASỞ (Nghi Dương chi dịch) 89
8. CAM MẬU ĐÁNH NGHI DƯƠNG I – C15,8-64 (Cam Mậu công Nghi Dương) 89
9. CAM MẬU ĐÁNH NGHI DƯƠNG II (Nghi Dương vị đắc) 89
10. HÀN, SỞ ĐỀ PHÒNG NHAU (Nghi Dương chi dịch) 90
11. CAM MẬU KHUYÊN VUA TẦN (Tần Vương vị Cam Mậu) 90
12. TÔ ĐẠI GIÚP CAM MẬU (Cam Mậu vong Tần) 90
13. VUA TẦN ĐUỔI CÔNG TÔN DIỄN (Cam Mậu tướng Tần) 91
16. TUYÊN THÁI HẬU BẮT NGUỴ XÚ PHU CHẾT THEO MÌNH – C16,6-125 (Tần Tuyên thái hậu ái Nguỵ Xú Phu) 92
TẦN III 92
2. KHUYÊN YÊN ĐÁNH TỀ (Tần khách khanh Tạo thuế Nhương Hầu) 92
8. PHẠM TUY DÂNG THƯ LÊN TẦN CHIÊU VƯƠNG (Phạm Tử nhân Vương Kê nhập Tần) 93 9. PHẠM TUY THUYẾT VUATẦN (Phạm Tử chí) – QC – BC. 94
10. BỀ TÔI MẠNH QUÁ THÌ NGUY CHO VUA – C18,12-55 (Ưng Hầu vị Chiêu Vương) 99 11. ĐỪNG TẤN CÔNG ĐẤT MÀ NÊN TẤN CÔNG NGƯỜI – C18,13-120 (Tần công Hàn) 100 13. CÁC KẺ SĨ TRONG THIÊN HẠ TRANH NHAU ĂN (Thiên hạ chi sĩ hợp tung) 101
17. THÁI TRẠCH THUYẾT PHẠM TUY – C19,19- 21 (Thái Trạch kiến trục ư Triệu) 101
TẦN IV. 106
3. VUA TẦN QUYẾT ĐỊNH CẮT ĐẤT (Tam quốc công Tần) 106
7. ĐỐN NHƯỢC THUYẾT VUA TẦN (Tần Vương dục kiến Đốn Nhược) 107
8. HOÀNG YẾT THUYẾT VUA TẦN THÂN THIỆN VỚI SỞ (Khoảnh Tương Vương nhị thập niên) 108 TẦN V. 112
5. LỮ BẤT VI BUÔN VUA(Bộc Dương nhân Lữ Bất Vi) 112
6. CAM LA THUYẾT TRƯƠNG ĐƯỜNG VÀ VUA TRIỆU – C21,6-82 (Văn Tín Hầu dục công Triệu) 114 8. DIÊU CỔ ĐÁP VUATẦN (Tứ quốc vi nhất) 116 CHƯƠNG III TỀ SÁCH. 118
TỀ I 118
3. NƯỚC VỚI CÁ (Tĩnh Quách Quân tương thành Tiết) 118
5. TỀ MẠO BIỆN CỨU TRI KỶ (Tĩnh Quách Quân thiện Tề Mạo Biện) 119
6. TỀ CỨU TRIỆU MÀ HẠI CẢTRIỆU LẪN NGUỴ– C24,6-59 (Hàm Đan chi nan) 120
8. CÔNG TÔN HÃN MƯU HẠI ĐIỀN KỊ (Thành Hầu Trâu Kị vi Tề tướng) 121
12. TRÂU KỊ KHUYÊN VUA TỀ NGHE LỜI CAN GIÁN – C25,12-53 – M116 (Trâu Kị tu bát xích) 121 16. TÔ TẦN THUYẾT VUA TỀ THEO HỢP TUNG
(Tô Tần vi Triệu hợp tung) 122
17. TRƯƠNG NGHI THUYẾT VUATỀ THEO LIÊN HOÀNH (Trương Nghi vi Tần liên hoành) 123 TỀ II 124
2. TRƯƠNG NGHI LẬP MƯU ĐỂ ĐƯỢC VŨ VƯƠNG TIN DÙNG (Trương Nghi sự Tần Huệ Vương) 124
4. VẼ RẮN THÊM CHÂN – C26,4-18 (Chiêu Dương vi Sở phạt Nguỵ) 125
7. TÔ TẦN THUYẾT VUA TỀ GIÚP TRIỆU (Tần công Triệu Trường Bình) 126
TỀ III 127
1. MƯU MÔ TÔ TẦN – C27,1-105 (Sở vương tử) 127
2. ĐOÁN TÂM LÝ VUA (Tề Vương phu nhân tử) 130
3. TÔ ĐẠI CAN MẠNH THƯỜNG QUÂN – C28,3- 13 (Mạnh Thường Quân nhập Tần) 130
10. THUẦN VU KHÔN VỚI KẺ SĨ (Thuần Vu Khôn nhất nhật nhi kiến thất sĩ) 131
11. CHÓ ĐUỔI THỎ, NÔNG PHU BẮT ĐƯỢC CẢ HAI (Tề dục phạt Nguỵ) 131
TỀ IV. 132
1. PHÙNG HUYÊN LÀM THỰC KHÁCH NHÀ MẠNH THƯỜNG QUÂN (Tề nhân hữu Phùng Huyên) – QC – BC. 132
2. CÔNG TÔN HOẰNG ĐI SỨ TẦN (Mạnh Thường Quân vi tung) 134
3. MẠNH THƯỜNG QUÂN CHƯA BIẾT TRỌNG KẺ SĨ – C29,3-39 (Lỗ Trọng Liên vị Mạnh Thường Quân) 135
4. ĐÀM THẬP TỬ KHUYÊN MẠNH THƯỜNG QUÂN NÊN QUÊN OÁN – C29,4-19 (Mạnh Thường Quân trục ư Tề) 136
5. NHAN XÚC THUYẾT TỀ TUYÊN VƯƠNG (Tề Tuyên Vương kiến Nhan Xúc) – QC – BC. 137 6. VƯƠNG ĐẨU YẾT KIẾN TỀ TUYÊN VƯƠNG – C29,6-2 (Tiên sinh Vương Đẩu) 139
7. TRIỆU UY HẬU HỎI THĂM NƯỚC TỀ – M176 (Tề vương sử sứ giả) 140
9. QUẢN YÊN TRÁCH KẺ SĨ – M176 (Quản Yên đắc tội) 141
TỀ V. 142
1. TÔ TẦN THUYẾT TỀ MẪN VƯƠNG (Tô Tần thuế Tề Mẫn Vương) 142
TỀ VI 147
1. TỀ MẪN VƯƠNG TÀN BẠO, MÀ BỊ GIẾT – C40,1b-15 (Tề phụ quách chi nhân) 147
2. LỖ TRỌNG LIÊN THUYẾT TƯỚNG YÊN – C30,3-67 (Yên công Tề, thủ thất thập dư thành) 149 3. QUÁN CHÂU KHUYÊN TỀ TUYÊN VƯƠNG – C31,4-84 (Yên công Tề, Tề phá) 152
4. ĐIÊU BỘT BÊNH VỰC ĐIỀN ĐAN (Điêu Bột thường ố Điền Đan) 153
5. TẠI SAO ĐIỀN ĐAN KHÔNG THẮNG RỢ ĐỊCH – C31,6-10 (Điền Đan tương công Địch) 155
CHƯƠNG IVSỞ SÁCH. 156
SỞ I 156
1. TỬ TƯỢNG KHUYÊN TỐNG ĐỪNG GIÚP TỀ – C32,1-119 (Tề, Sở cấu nạn) 156
3. CÁO MƯỢN OAI CỌP – C32,3-47 (Tuyên Vương vấn quần thần) 156
5. SỞ CỨU TRIỆU ĐỂ CHIẾM ĐẤT CỦA NGỤY – C32,5-60 (Hàm Đan chi nạn) 157
7. GIANG ẤT GHÉT CHIÊU HỀ TUẤT – C33,7-48 (Giang Ất ố Chiêu Hề Tuất) 157
8. GIANG ẤT GIÈM PHA CHIÊU HỀ TUẤT (Giang Ất dục ố Chiêu Hề Tuất) 157
9. AN LĂNG QUÂN XIN CHẾT THEO VUA (Giang Ất thuế ư An Lăng Quân) 158
15. VUA SỞ LỰA TỂ TƯỚNG CHO TẦN (Sở Vương vấn ư Phạm Hoàn) 159
16. TÔ TẦN THUYẾT SỞ UY VƯƠNG (Tô Tần vi Triệu hợp tung) 160
17. TRƯƠNG NGHI VÌ TẦN MÀ PHÁ THẾ HỢP TUNG (Trương Nghi vi Tần phá tung) 161 19. MẠC NGAO TỬ HOA ĐÁP SỞ UY VƯƠNG – C34,19-124 (Uy Vương vấn ư Mạc Ngao Tử Hoa) 163 SỞ II 166
1. VIỆC ĐỀ CỬ CAM MẬU LÀM TƯỚNG QUỐC NGUỴ(Nguỵ tướng Địch Cường tử) 166
4. CẨN THƯỢNG BÀY KẾ CỨU TRƯƠNG NGHI (Sở Hoài Vương câu Trương Nghi) 166
7. THẬN TỬ GIẢI NẠN CHO SỞ – C35,8-128 (Sở
Tương Vương vi thái tử) 167
SỞ III 170
1. TIẾN HIỀN LÀ VIỆC KHÓ NHẤT (Tô Tử vị Sở Vương) 170
2. GẶP VUASỞ KHÓ NHƯ GẶP THƯỢNG ĐẾ (Tô Tần chí Sở) 171
4. THUẬT XOAY TIỀN CỦA TRƯƠNG NGHI (Trương Nghi chí Sở, bần) 171
SỞ IV. 172
2. TRỊNH DỮU GHEN – M107 (Nguỵ Vương di Sở Vương mỹ nhân) 172
4. TRANG TÂN DÙNG NGỤ NGÔN KHUYÊN SỞ TƯƠNG VƯƠNG – C37,4-50 (Trang Tân vị Tương Vương) – M117 – QC – BC. 173
7. DOẠ CẮT ĐẤT ĐỂ ĐƯỢC GIÚP ĐỠ – C37,7- 130 (Trường Sa chi nạn) 175
8. THUỐC BẤT TỬ – C37,8-115 (Hữu hiến bất tử chi dược) 176
10. CHIM KHÔNG BỊ TÊN CŨNG RỚT (Thiên hạ hợp tung) 176
11. KẺ SĨ KHÔNG GẶP NGƯỜI BIẾT MÌNH – C38,11-48 (Hãn Minh kiến Xuân Thân Quân) 177 12. XUÂN THÂN QUÂN MUỐN LÀM CHAVUA(Sở Khảo Liệt Vương vô tử) 178
CHƯƠNG VTRIỆU SÁCH. 180
TRIỆU I 180
2. TRÍ BÁ QUÁ THAM MÀ BỊ DIỆT (Trí Bá suất Triệu, Hàn, Nguỵ) 180
4. TRUYỆN DỰ NHƯỢNG – C38,4-80 (Tấn Tất Dương chi tôn) 184
8. TÔ TẦN THUYẾT LÍ ĐOÁI – C39,8-130 (Tô Tần thuế Lí Đoái) 186
TRIỆU II 188
2. TÔ TẦN THUYẾT TRIỆU TÚC HẦU THEO HỢP TUNG (Tô Tần tòng Yên chi Triệu) 188
3. TRƯƠNG NGHI THUYẾT TRIỆU VŨ LINH VƯƠNG THEO LIÊN HOÀNH (Trương Nghi vi Tần liên hoành) 191
4. VŨ LINH VƯƠNG MUỐN BẬN HỒ PHỤC (Vũ Linh Vương bình trú nhàn cư) 192
TRIỆU III 197
1. TRIỆU XA GIẢNG TẠI SAO PHẢI TĂNG BINH LỰC (Triệu Huệ Văn Vương) 197
9. VUA TRIỆU DO DỰ KHÔNG BIẾT NÊN CẮT ĐẤT CHO TẦN HAYKHÔNG (Tần công Triệu ư Trường Bình) 198
12. LỖ TRỌNG LIÊN KHÔNG CHỊU TÔN VUA TẦN LÀM ĐẾ – C43,13-71 (Tần vi Triệu chi Hàm Đan) – GC. 201
15. COI QUỐC GIA KHÔNG BẰNG MỘT THƯỚC LỤA– C43,16-132 (Kiến Tín Quân quí ư Triệu) 205 16. NẰM MỘNG THẤY VUA TÁO (Vệ Linh Công cận Ung Thư) 206
TRIỆU IV. 206
1. TỀ THUYẾT TRIỆU NÊN THÂN THIỆN VỚI TỀ (Vi Tề hiến thư Triệu Vương) 206
6. PHẠM TOẠ SUÝT BỊ NGU KHANH HÃM HẠI (Ngu Khanh thỉnh Triệu Vương) 207
12. PHÙNG KỴ YẾT KIẾN VUATRIỆU (Phùng Kỵ thỉnh kiến Triệu Vương) 208
13. LỰANGỰAVÀ LỰATƯỚNG QUỐC – C47,13- 133 (Khách kiến Triệu Vương) 209
14. LƯỢNG NGHỊ ĐI SỨ TẦN (Tần công Nguỵ, thủ Ninh Ấp) 210
18. XÚC CHIỆP THUYẾT THÁI HẬU NƯỚC TRIỆU – C48,18-77 (Triệu thái hậu tân dụng sự) – QC – BC. 211
CHƯƠNG VI NGUỴSÁCH. 213
NGUỴI 213
1. TRÍ BÁVÌ THAM VÀKIÊU MÀ MẤT NƯỚC (Trí Bá sách địa ư Nguỵ Hoàn Tử) 213
2. NHẠC DƯƠNG ĂN THỊT CON (Nhạc Dương vi Nguỵ tướng) 214
4. NGUỴ VĂN HẦU GIỮ LỜI HẸN (Văn Hầu dữ ngu nhân kì liệp) 215
6. ĐỊATHẾ KHÔNG QUAN TRỌNG BẰNG CHÍNH TRỊ (Nguỵ Vũ Hầu dữ chư đại phu phù ư Tây Hà) 215 9. TÔ TẦN THUYẾT VUA NGUỴ HỢP TUNG (Tô Tử vi Triệu hợp tung) 216
10. TRƯƠNG NGHI THUYẾT VUA NGUỴ THEO LIÊN HOÀNH (Trương Nghi vi Tần liên hoành) 217 16. TRƯƠNG SỬU KHÔNG MUỐN CHO TRƯƠNG NGHI VÔ NGUỴ(Trương Nghi tẩu chi Nguỵ) 219
18. UNG THƯ THUYẾT TỀ, SỞ ĐỪNG ĐÁNH NGUỴ(Trương Nghi dĩ Tần tướng Nguỵ) 219 24. KẾ LY GIÁN CỦACÔNG TÔN DIỄN (Tề Vương tương kiến Yên…) 220
26. XEN BÒ VÀO VỚI NGỰA (Công Tôn Diễn vi Nguỵ tướng) 220
NGUỴII 220
4. TÊ THỦ TRẢ THÙ SỬ CỬ (Sử Cử phi Tê Thủ ư vương) 220
5. THÀNH KHÔI KHUYÊN HÀN ĐỪNG VỘI ĐÁNH NGUỴ(Sở Vương công Lương nam) 221
6. HOÃN LẠI NGÀY TÁNG VUA NGUỴ HUỆ VƯƠNG (Nguỵ Huệ Vương tử) 221
13. TRỒNG KHÓ, NHỔ DỄ (Điền Nhu quí ư Nguỵ Vương) 222
14. TÔ ĐẠI THUYẾT VUA NGUỴ CHO THÁI TỬ LÀM TƯỚNG QUỐC (Điền Nhu tử) 222
16. VUASỞ PHẢN TẦN BỊ TẦN PHẢN LẠI (Tần, Sở công Nguỵ) 223
17. NGHE RIẾT RỒI THÌ TIN – C53,16-49 (Bàng Thông dữ thái tử) – M115. 224
18. VUALỖ KHUYÊN VUALƯƠNG (Lương Vương Nguỵ Anh trường chư hầu) – QC. 224
NGUỴIII 225
4. CHU HÂN CAN VUA NGUỴ ĐỪNG VÔ TẦN (Tần bại Nguỵ ư Hoa) 225
5. TÔN THẦN CAN VUA NGUỴ ĐỪNG CẮT ĐẤT CHO TẦN (Hoa quân chi chiến) 227
6. THUẦN VU KHÔN CAN VUA TỀ ĐỪNG ĐÁNH NGUỴ(Tề dục phạt Nguỵ) 227
7. MẠNH THƯỜNG QUÂN THUYẾT CHƯ HẦU CỨU NGUỴ(Tần tương phạt Nguỵ) 228
8. VÔ KỴ THUYẾT VUA NGUỴ ĐỪNG NGHE LỜI TẦN MÀ ĐÁNH HÀN (Nguỵ tương dữ Tần công Hàn) 229
NGUỴIV. 231
1. CÓ NGƯỜI KHUYÊN TẦN ĐỪNG ĐÁNH LƯƠNG MÀ ĐÁNH SỞ (Hiến thư Tần Vương) 231 2. ĐỪNG NÊN TRÔNG CẬY Ở NƯỚC KHÁC (Bát niên… vi Nguỵ Vương) 232
3. TRƯƠNG MAO KHUYÊN VUA ĐỪNG ĐÁNH HÀN (Nguỵ Vương vấn Trương Mao) 233
7. KHÔNG CẤM ĐƯỢC CHÓ SỦA – M116 (Bạch Khuê vị Tân Thành Quân) 233
10. BÌNH ĐÔ QUÂN KHUYÊN NGUỴ ĐỪNG TIN TẦN (Trường Bình chi dịch) 233
16. CÀNG HÀNH ĐỘNG CÀNG XA MỤC ĐÍCH – M115 (Nguỵ Vương dục công Hàm Đan) 234 20. ĐƯỜNG THƯ THUYẾT VUATẦN CỨU NGUỴ (Tần Nguỵ vi dữ quốc) 234
21. NÊN QUÊN RẰNG MÌNH CÓ ÂN ĐỨC VỚI NGƯỜI (Tín Lăng Quân sát Tấn Bỉ) – QC. 235 22. SÚC CAO VÀ AN LĂNG QUÂN KHÔNG CHỊU NHỤC (Nguỵ công Quản nhi bất hạ) 235
23. KHÉO TON HÓT (Nguỵ Vương dữ Long Dương Quân) 237
25. ĐƯỜNG THƯ KHÔNG LÀM NHỤC SỨ MỆNH – M116 (Tần Vương sử nhân vị An Lăng Quân) – QC. 237
CHƯƠNG VII HÀN SÁCH. 238
HÀN I 239
5. TÔ TẦN THUYẾT VUA HÀN THEO HỢP TUNG (Tô Tần vi Sở hợp tung) 239
6. TRƯƠNG NGHI THUYẾT VUAHÀN THEO LIÊN HOÀNH (Trương Nghi vi Tần liên hoành) 240 11. NGUỴ THUẬN CỨU NƯỚC THỊ KHÂU (Ngũ quốc ước nhi công Tần) 241
16. HÀN MẮC MƯU SỞ (Tần, Hàn chiến ư Trọc Trạch) 242
HÀN II 243
1. TRƯƠNG THUÝ XIN TẦN GIÚP HÀN ĐÁNH SỞ (Sở vi Ung Thị) 243
6. ĐỪNG KHINH TẦN (Vị Công Thúc) 244 11. CÔNG THÚC MUỐN GIẾT KI SẮT (Công Thúc tương sát Ki Sắt) 244
17. PHÉP CHÍNH DANH (Sử Tật vi Hàn sứ Sở) 245
19. TRUYỆN HIỆP SĨ NHIẾP CHÍNH (Hàn Khôi tướng Hàn) 245
HÀN III 248
1. CÁI LỢI LÀM TRUNG GIAN TRONG CÁC HOÀ ƯỚC (Hoặc vị Hàn Công Trọng) 248
2. CÓ NGƯỜI KHUYÊN HÀN HỢP VỚI TẦN (Hoặc vị Công Trọng) 249
3. TÔ TẦN BIỆN HỘ CHO HÀN (Hàn nhân công Tống) 250
4. LÀM SAO CỨU ĐƯỢC SƠN ĐÔNG? (Hoặc vị Hàn Vương) 251
5. MUỐN DỰNG NGHIỆP BÁ THÌ NÊN SỚM THỜ TẦN (Vị Trịnh Vương) 251
6. HAI CÁCH TẤN CÔNG (Tích giả, Tần Mục Công nhất thắng ư Hàn Nguyên) 253
23. KHÔNG BIẾT DÙNG SỞ TRƯỜNG (Đoàn Can Việt Nhân vị Tân Thành Quân) 254
CHƯƠNG VIII YÊN SÁCH. 255
YÊN I 255
1. TÔ TẦN THUYẾT VUA YÊN THEO HỢP TUNG (Tô Tần tương vi tung) 255
4. TÔ TẦN THUYẾT VUA TỀ TRẢ MƯỜI THÀNH CHO YÊN (Yên Văn Công thời) 256
5. TÔ TẦN TỰ BIỆN HỘ – C68,5-36 (Nhân hữu ố Tô Tần ư Yên Vương giả) 257
6. TRƯƠNG NGHI THUYẾT VUAYÊN THEO LIÊN HOÀNH (Trương Nghi vi Tần phá tung) 259 9. VUA YÊN NHƯỜNG NGÔI CHO TỬ CHI (Yên Vương Khoái tức vị) 260
10. YÊN CHIÊU VƯƠNG CHIÊU HIỀN – C69,11- 65 (Yên Chiêu Vương thu phá Yên) 262
13. ÍCH LỢI CỦABỌN TRUNG GIAN (Yên Chiêu Vương vị Tô Đại) 264
YÊN II 264
1. TÔ ĐẠI CAN VUA YÊN ĐỪNG THỜ TẦN (Tần
triệu Yên Vương) 264
4. TÔ ĐẠI NHỜ THUẦN VU KHÔN GIỚI THIỆU VỚI VUATỀ (Tô Đại vi Yên thuế Tề) 267
5. TÔ ĐẠI PHẢN TỀ (Tô Đại tự Tề sử nhân vị Yên Chiêu Vương) 267
7. TRẦN THUÝ THUYẾT YÊN THÁI HẬU (Trần Thuý hợp Tề, Yên) 268
10. THƯ NHẠC NGHỊ ĐÁP YÊN CHIÊU VƯƠNG (Xương Quốc Công Nhạc Nghị) – QC – BC. 269 11. CÁC NƯỚC YẾU NÊN ĐOÀN KẾT VỚI NHAU (Hoặc hiến thư Yên Vương) 272
13. TRAI, CÒ GĂNG NHAU, CHỈ LỢI ÔNG CHÀI (Triệu thả phạt Yên) 273
YÊN III 274
5. THÁI TỬ ĐAN VÀ KINH KHA– M99 (Yên thái tử Đan) 274
CHƯƠNG IXTỐNG, VỆ SÁCH. 281
TỐNG.. 281
1. KINH HỨAHÃO VỚI TỐNG (Tề công Tống) 281 2. MẶC TỬ CAN VUA SỞ ĐỪNG ĐÁNH TỐNG (Công Thâu Ban vi Sở thiết cơ) 282
5. MUỐN KHỎI MẤT ĐỊAVỊ (Vị Đại Doãn viết) 283 6. TÔ TẦN KHUYÊN TỀ CHO TỐNG CẦU HOÀ (Tống dữ Sở vi huynh đệ) 283
7. THUẬT BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG (Nguỵ thái tử tự tướng) 283
8. TRUYỆN CON SẺ ĐẺ CON NHẠN – C72,8-134 (Tống Khang Vương chi thời) 284
VỆ. 285
9. NAM VĂN TỬ ĐOÁN ĐƯỢC DÃ TÂM CỦA TRÍ BÁ(Trí Bá dục phạt Vệ) 285
10. NAM VĂN TỬ MỘT LẦN NỮAĐOÁN ĐƯỢC DÃ TÂM CỦATRÍ BÁ(Trí Bá dục tập Vệ) 285
12. NGÔ HẠTIÊN SINH NÓI GIÚP KHÁCH NƯỚC VỆ (Vệ sứ khách sự Nguỵ) 285
14. NÓI KHÔNG NHẰM LÚC (Vệ tự quân thời) 286
CHƯƠNG XTRUNG SƠN SÁCH. 287
2. TRƯƠNG ĐĂNG DÙNG MƯU GẠT TỀ (Tê thủ lập ngũ vương) 287
4. CÔNG TÔN HOẰNG NÓI THỰC MÀ BỊ NGHI (Tư Mã Hi sứ Triệu) 289
5. ĐIỀN GIẢN GIÚP TƯ MÃ HI – C74,5-117 (Tư Mã Hi tam tướng Trung Sơn) 289
6. TƯ MÃ HI NGẦM GIÚP ÂM CƠ – C74,7-118 (Âm Cơ dữ Giang Cơ tranh vi hậu) 290
7. TRỌNG KẺ HIỀN THÌ NGUY CHO NƯỚC (Chủ phụ dục phạt Trung Sơn) 291
8. ÂN VÀ OÁN (Trung Sơn Quân hưởng đô sĩ đại phu) 291
10. BẠCH KHỞI KHUYÊN CHIÊU VƯƠNG ĐỪNG ĐÁNH TRIỆU (Chiêu Vương ký tức dân) 292 PHỤ LỤC. 296
NIÊN BIỂU ĐỜI CHIẾN QUỐC. 296
ĐỌC THÊM: CÁC DANH NGÔN TRONG CHIẾN QUỐC SÁCH. 298
Vài lời thưa trước
Đọc danh mục sách của cụ Nguyễn Hiến Lê, chúng ta thấy có khá nhiều tác phẩm cụ viết chung với cụ Giản Chi. Riêng hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí của Tư Mã Thiên, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:
“Chiến Quốc sách đã được các nhà Nho trong Nam Phong trích dịch vài chục bài; Sử ký được Nhượng Tống dịch dăm chương. Ông Giản Chi và tôi tính làm kỹ hơn, phân công nhau: tôi giới thiệu bộ Chiến Quốc sách và trích dịch, chú thích hết các bài hay; ông Giản Chi tuyển dịch độ một phần tư bộ Sử ký và chú thích rất kỹ; tôi giới thiệu
tác giả cùng tác phẩm. Người này làm xong, đưa người kia coi lại.
Chúng tôi sưu tập tất cả các sách Hoa và Anh, Pháp viết về hai tác phẩm đó, để giúp độc giả hiểu thời đại, nguồn gốc, nội dung, giá trị về sử liệu, giá trị về phương diện văn học (điều mà các nhà khác không chú trọng tới mấy) của mỗi tác phẩm.
Riêng về Chiến Quốc sách, chúng tôi còn dùng tài liệu trong tác phẩm để vẽ lại xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc. Trong bộ Sử ký, chúng tôi nhấn mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư Mã Thiên, nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương pháp viết sử của ông ra sao.
Bộ Chiến Quốc sách có phụ lục: Niên
biểu thời Chiến Quốc, Nhân danh và Địa danh. Bộ Sử ký có hai bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung Hoa thời Hán.
Bị hạn chế về phương tiện in, chúng tôi không thể dịch trọn hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của chúng tôi – 700 và 800 trang – độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt rồi, và chúng tôi mong rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộ Sử ký. Ai cũng nhận hai bộ đó của chúng tôi có giá trị”[1].
Theo Wikipedia thì “Chiến Quốc sách là cuốn cổ sử Trung Quốc viết về lịch sử thời Chiến Quốc, từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN, lúc Cao Tiệm Ly[2]không
thành công ám sát Tần Thuỷ Hoàng”[3]; nhưng theo hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê bảo: “(…) bộ Chiến Quốc sách – thực ra chưa đáng gọi là sử – chép việc của mười một nước: Chu, Tần, Tề, Sở, Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tống, Vệ, Trung Sơn[4]từ năm 453 (đời Đông Chu Định Vương) tới năm 221 trước Tây lịch (tức năm 16 đời Tần Thuỷ Hoàng, năm mà Tần diệt xong lục quốc và thống nhất Trung Hoa)” (trang 15). Hai cụ còn cho biết thêm: “(…) xét về nội dung Chiến Quốc Sách thì phần lớn không phải là tài liệu đáng tin về sử, mà có lẽ chỉ là những luận thuyết, biện thuyết dựa vào lịch sử mà viết” (trang 18); và “chúng ta đừng nên coi Chiến
Quốc Sách là tác phẩm của Sử-phái đời Tiên Tần mà nên coi nó là tác phẩm của Luận-phái đời Tiên Tần hoặc đời Tây Hán; mà đọc Chiến Quốc sách thì chúng ta đừng nên tìm tài liệu lịch sử trong đó, chỉ nên tìm hiểu xã hội Trung Hoa, tư tưởng và chính sách của bọn chính khách, mưu sĩ thời Chiến Quốc, nhất là thưởng thức giá trị nghệ thuật tự sự, luận thuyết, tức giá trị về văn học của bộ đó thôi”[5](trang 26).
Cũng theo Wikipedia thì “Sách này (tức Chiến Quốc sách «戰國策») có khoảng 120.000 chữ và chia thành 33 chương và 497 tiết đoạn[6], gồm có 12 sách lược như sau: Đông Chu sách («東周策»), Tây Chu sách («西周策»), Tần
sách («秦策»), Tề sách («齐策»), Sở sách («楚策»), Triệu sách («趙策»), Ngụy sách («魏策»), Hàn sách («韓策»), Yên sách («燕策»), Tống sách («宋策»), Vệ sách («衛策»), Trung Sơn sách («中山策»)”. Và theo hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê thì Lưu Hướng là người thu thập và chỉnh lý bộ Chiến Quốc sách[7]. Hai cụ bảo: “…ngày nay, còn lưu lại bài Tựa Chiến Quốc sách của ông, trong đó đại ý nói rằng khi thu thập các tài liệu, ông tìm được nhiều quyển sắp đặt lộn xộn, lại thấy tám thiên chép riêng về các nước, nhưng không đủ, ông bèn theo từng nước và theo thứ tự thời gian mà sắp đặt lại thành ba mươi ba thiên[8], hiệu đính lại
nhiều chữ sai lầm”[9].
Vì Lưu Hướng không sắp đặt tất cả các bài trong trọn bộ Chiến Quốc sách theo thứ tự thời gian, cho nên đọc những bài do hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch, ta thấy bài Trí Bá quá tham mà bị diệt (Triệu I 1), có thể xemnhư bài đầu tiên chép việc xảy ra đầu thời Chiến Quốc lại không phải là bài đầu tiên trong Chu sách, và bài chép việc xảy ra cuối thời Chiến Quốc là bài Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5), cũng không phải là bài cuối cùng trong Trung Sơn sách. Cũng vì các bài trong Chiến Quốc sách được chia ra thành nhiều “sách”, cho nên ta thấy các bài liên quan đến việc Tần đánh Nghi Dương
nằm trong Đông Chu sách (bài 2), và trong Tần sách (bài II 6, bài II 7, bài II 8, bài II 9, bài II 10). Người chỉ huy trận đánh đó là Cam Mậu, mà muốn tìm hiểu về nhân vật này, ngoài các bài vừa nêu, chúng ta cần đọc thêm 3 bài trong Tần sách: bài II 11, bài II 12, bài II 13, và cả trong Sở sách nữa như bài I1 5… Các bài viết Tô Tần, được xem là nhân vật chính trong Chiến Quốc sách, còn nhiều hơn nữa và nằm rải rác trong nhiều “sách” hơn nữa: Tần sách, Tề sách, Sở sách, Triệu sách, Nguỵ sách, Yên sách, Tống sách. Mà ngay trong một thiên, ví dụ như thiên Tần II, chúng ta thấy có hai bài viết về nhân vật Cam Mậu vừa kể trên cũng không theo đúng thứ tự thời
gian: bài Tần II 12 (Tô Đại giúp Cam Mậu) chép việc xảy ra vào đời Tần Chiêu Tương Vương, và bài Tần II13 (Vua Tần đuổi Công Tôn Diễn) chép việc xảy ra vào đời Tần Vũ Vương, mà Tần Chiêu Tương Vương (307 tr.T.L. -250 tr.T.L.) là người kế vị Tần Vũ Vương (311 tr.T.L. – 307 tr.T.L.), cho nên theo chúng tôi thì bài Tần II12 phải đặt sau bài Tần II 13 mới phải.
Trong phần dịch, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê bảo là chỉ “lựa khoảng nửa số bài trong Chiến Quốc sách”, và: “Tất nhiên chúng tôi dịch hết những bài có giá trị về nghệ thuật, chúng tôi lại dịch thêm những bài để dẫn chứng cho phần I (phần giới thiệu), và một số
bài khác có tính cách vui vui nữa”. Trong những bài đó ắt hẳn có vài chục bài, như lời hai cụ, đáng coi là những viên ngọc quý nhất của cổ văn Trung Quốc, đến Sử ký và Nam Hoa kinh cũng không hơn được (trang 64). Hai cụ không nêu tên những “viên ngọc quý đó”, nhưng về phương diện văn học, hai cụ bảo hai bài Tư Mã Thác bàn lẽ đánh Tần (Tần I 7) và Nhạc Nghị đáp Yên Chiêu Vương (Yên II 10) được mọi học giả Trung Hoa khen là hay; các bài Truyện Tô Tần (Tần I 2), Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5), Đường Thư không nhục sứ mệnh (Nguỵ IV25), Phùng Uyên làm thực khách nhà Mạnh Thường Quân (Tề IV 1), Nhan Xúc
thuyết Tề Tuyên Vương (Tề IV 5), Dự Nhượng (Triệu I 4), Nhiếp Chính (Hàn II 19)… đạt tới mức cao về nghệ thuật kể truyện và miêu tả tính tình nhân vật, cảmđộng nhất là truyện Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5); các bài Trương Mao khuyên vua [Nguỵ] đừng đánh Hàn (Nguỵ IV 3), Thuốc bất tử (Sở IV 8), Tử Tượng khuyên Tống đừng giúp Tề (Sở I 1), Trai, sò găng nhau, chỉ lợi ông chài (Yên II 13), Vẽ rắn thêm chân (Tề II 4), Cáo mượn oai cọp (Sở I 3), Trang Tân dùng ngụ ngôn khuyên Sở Tương Vương (Sở I1 2), Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18), Khỏi bị cách chức (Đông Chu 9), Người đất Ôn khéo đối đáp mà khỏi bị giam (Đông
Chu 10), Du Đằng biện hộ cho vua Chu (Tây Chu 3), Cam La thuyết Trương Đường và vua Triệu (Tần V 6)… có giá trị cao về thuật thuyết phục.
Bài Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18) được hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê cho là cho là toàn bích và cụ Nguyễn Hiến Lê chép vào Phụ lục cuốn Đắc nhân tâm cùng với bài Ân và Oán (Trung Sơn 8) và bài Nên quên rằng mình có ân đức với người (Nguỵ IV 21). Sau khi dẫn gần trọn bài Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18), cụ Nguyễn Hiến Lê kết luận:
“Tâm lý của con người phương Đông cũng như phương Tây, thời xưa cũng
như thời nay. Thuật thuyết phục của Xúc Chiệp ăn khớp với học thuyết của Dale Carnegie: sinh trước Carnegie trên hai ngàn năm mà chỉ trong một câu chuyện với Thái hậu, ông bất giác tìm ra được sáu qui tắc của Carnegie trong phần IV (qui tắc 1, 2, 3, 4, 7, 9) cộng với ba qui tắc nữa của Carnegie trong chương I phần II (tự đặt mình vào địa vị người, chú trọng tới cái lợi của người), trong chương độc nhất phần V (xin người ban cho mình một ân huệ để cho người được vui lòng) và trong chương II phần I (khen người một cách tự nhiên, tế nhị). Chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn cổ nhân, nhưng cái khôn của cổ nhân vẫn còn đáng cho ta học.
Đó là một nguồn vui khi ta đọc sách của cổ nhân”.
Trong ba bài ngụ ngôn mà hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê cho là bất hủ: Trai sò găng nhau, chỉ lợi ông chài (Yên II 13), Vẽ rắn thêm chân (Tề II 4), Cáo mượn oai cọp (Sở I 3), có hai bài, Yên II 13 và Sở I 3), đã được hai cụ Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân tuyển vào bộ Cổ học tinh hoa tức bài Con cò và con trai và bài Hồ mượn oai cọp[10].
Nhan đề ba bài ngụ ngôn đó, tức: - Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi «蚌鷸相持,漁翁得利» (Trai, sò găng nhau, chỉ lợi ông chài – Yên II 13), - Hoạch xà thiêm túc «畫蛇添足»
(Vẽ rắn thêm chân – Tề II 4),
- Hồ giả hổ uy «狐假虎威» (Cáo mượn oai cọp – Sở I 3)
cũng là những thành ngữ được nhiều người sử dụng. Chiến Quốc sách còn cho ta một số thành ngữ khác như:
- Bất dực vô phi «不翼而飛» (Chưa đủ cánh thì chưa thể bay cao được – Tần II 2),
- Huy hãn thành vũ «揮汗成雨» (Mồ hôi vẩy thành mưa – Tề I1 6),
- An bộ đương xa «安步當車» (Thủng thẳng đi bộ thì cũng thích như ngồi xe – Tề III 5),
- Giảo thỏ hữu tham quật «狡兔有叄窟» (Thỏ khôn phải có ba hang – Tề IV 1),
- Vong dương bổ lao «亡羊补牢» (Mất cừu rồi mới lo rào chuồng – Sở IV 4),
- Thương cung chi điểu «傷弓之鳥» (Chim bị thương sợ cành cong – Sở IV 10),
- Cao chẩm vô ưu «高枕無忧» (Gối cao ngủ kỹ – Nguỵ I 10)…
Xuất xứ của hai chữ “tựa cửa”, tức “ỷ môn” «倚門», cũng từ Chiến Quốc sách: “Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng” «女朝出而晚來,則吾倚門而望» (Sáng con ra đi mà chiều về thì mẹ tựa cửa ngóng con – Tề VI 1). Điển tích này được Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều: Xót người tựa cửa hôm mai, Đặng Trần Côn dùng trong
Chinh phụ ngâm khúc: Lão thân hề ỷ môn «老親兮倚門» (Đoàn Thị Điểmdịch là: Lòng lão thân buồn khi tựa cửa[11]).
Chiến Quốc sách cũng lưu lại nhiều danh ngôn như:
- Ta hồ! Bần cùng tắc phụ mẫu bất tử, bảo quý tắc thân thích úy cụ. Nhân sinh thế thượng, thế vị phú quí, cái khả hốt hồ tai!
«嗟乎!貧窮則父母不子,寶貴則 親戚畏懼。人生世上,勢位富貴,蓋 可忽乎哉!»
Ôi! Nghèo khốn thì bố mẹ không nhận làm con, giàu sang thì thân thích sợ sệt. Người sinh ở đời, thế lực, chức vị và tiền của có thể coi thường được đâu!
(Tần I 2),
- Dĩ tài giao giả, tài tận nhi giao tuyệt; dĩ sắc giao giả, hoa lạc nhi ái du.
«以財交者,財盡而交絕;以色交 者,華落而愛渝。»
Dùng tiền bạc kết giao, hết tiền thì hết tình; dùng nhan sắc mà kết hợp, sắc suy thì tình đổi (Sở I 9),
- Tích vũ trầm chu, quần khinh chiết trục, chúng khẩu thước kim.
«積羽沈舟,群輕折軸,衆口鑠金。» Chất lông nhiều quá có thể làm chìmthuyền, vật nhẹ mà nhiều cũng làm cho gẫy xe, nhiều người nói quá thì vàng cũng chảy. (Nguỵ I 10)…[12]
Bản đồ thời Xuân Thu
Trong Đời viết văn của tôi, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Văn Chiến Quốc sách rất cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch thoại, lại phải tra hai bộ từ điển Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch được một trang. Trong khi dịch bộ đó tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ một chút rồi ngồi lên viết tiếp. Năm đó nhà tôi qua Pháp, tôi phải dạy thay mấy tháng, nên tôi làm việc quá sức. Bộ đó tôi phải dựa vào ba chặng, cuối mỗi chặng nghỉ nửa
tháng”[13]. “Năm đó” là năm 1965, cụ bà Trịnh Thị Tuệ qua Pháp để dự đámcưới của con trai của hai cụ là Nguyễn Nhật Đức[14]. Trong cuốn Chiến Quốc sách này, ta thấy ngày cụ Nguyễn Hiến Lê viết bài Lời dẫn (trong phần II: Trích dịch) là ngày 15.11.1966. Đến 1968, cuốn Chiến Quốc sách được nhà xuất bản Lá Bối in lần đầu, và được tái bản vào năm 1973[15].
Ebook này, tôi gõ theo bản của nhà xuất bản Từ điển Bách khoa in năm 2006 mà tôi mua được vào ngày 06.07.2010. Sau khi gõ được vài bài trong Tần sách, tôi tình cờ tìm thấy bản của nhà xuất bản Lá Bối in năm 1973 (bản scan do TimSach.com cung cấp). Sau khi đối
chiếu vài ba trang, thấy bản Từ điển Bách khoa 2006 có nhiều chỗ sai sót so với bản Lá Bối 1973, nên tôi nhờ bạn Tuanz dùng bản Lá Bối 1973 để sửa lại và sửa cả những lỗi do tôi gõ sai; mà tôi thì gõ sai nhiều lắm! Rồi sau khi gõ được vài bài trong Tề sách, ngày 11.09.2010, tôi lại mua được từ một cửa hiệu bán sách cũ một bản của nhà xuất bản Trẻ in năm 1989, bản này in trên giấy xấu, lại cũ, đọc rất mệt mắt, nhiều chỗ không đọc được, nhưng có cái lợi là chữ Hán được in đầy đủ như bản Lá Bối 1973. Tôi không biết bản Trẻ 1989 in lại từ bản nào vì bản Lá Bối 1973 thì có in bản đồ thời Chiến Quốc còn bản Trẻ 1989 thì không, và vì trong bản Trẻ 1989 có một
số chữ Hán không giống với chữ Hán tương ứng trong bản Lá Bối 1973 (về chữ Hán thì bản Tự điển Bách Khoa 2006 lược bỏ gần hết)[16]. Còn bản Tự điển Bách Khoa 2006 thì, theo tôi đoán, in lại từ bản Trẻ 1989 vì trong bài Hai cách tấn công (Hàn III6), cả hai bản đều in chú thích (1) là: “…coi chú thích (2) trang 430…”, nhưng câu đó chỉ đúng trong bản Trẻ 1989 mà thôi (lẽ ra thì bản Tự điển Bách Khoa 2006 phải sửa lại là: “…coi chú thích (1) trang 390…” mới phải). Tuy có được ba bản, nhưng tôi vẫn dùng bản Từ điển Bách Khoa 2006 để gõ tiếp, gặp chỗ nào ngờ sai thì dò hai bản kia, nếu sai thì châm chước mà sửa lại; có khi cả ba bản đều sai thì phải tìm
thêm các tài liệu khác, thường gặp nhất là nhan đề thứ hai, tức mấy chữ Hán Việt đầu bài, tôi phải theo các bản chữ Hán tìm thấy trên mạng mà sửa lại. Bạn Tuanz vẫn tiếp tục giúp tôi sửa lỗi đến cuối ebook cũng như góp ý về các chú thích mà tôi thêm vào (để khỏi rườm, nhiều chỗ chúng tôi sửa sai mà không chú thích). Xin chân thành cảm ơn 2 bạn Tuanz, Quocsan và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
*
Trong eBook mới này, ngoài việc sửa thêm một số lỗi, chúng tôi còn bổ sung Bài đọc thêm: “Các danh ngôn trong Chiến Quốc Sách” ở cuối eBook.
Goldfish
Tháng 10 năm 2010
Sửa chữa và bổ sung tháng 12 năm 2011
Bổ sung tháng 10 năm 2013
PHẦN I
GIỚI THIỆU
Trong phần này chúng tôi sẽ:
- đặt Chiến Quốc sách vào thời đại của nó về phương diện lịch sử và phương diện văn học;
- tìm hiểu nguồn gốc của nó: tác giả, nhan đề, và các bản được hiệu đính; - nhận định giá trị của nó về phương diện tài liệu (lịch sử, xã hội);
- trình bày ít lời phê bình của một số học giả từ đời Hán tới nay;
- sau cùng phân tích giá trị của tác phẩm về phương diện văn học.
Bản đồ Trung Hoa vào khoảng năm 330 trước T.L
(Bản Lá Bối 1973, bản scan của Tìm Sách)
THỜI CHIẾN QUỐC
Đời Chu chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng đô ở đất Phong, đất Cảo (miền Thiểm Tây bây giờ), nên gọi là Tây Chu (1134-770); đến đời Chu Bình Vương, bị rợ Hiểm Doãn và rợ Khuyển Nhung uy hiếp, nhà Chu phải dời đô qua Lạc Dương (Hà Nam) ở phương đông, từ đó bắt đầu thời kỳ thứ nhì gọi là Đông Chu (770-221).
Các sử gia chia thời Đông Chu này làm hai thời kỳ nữa: thời Xuân Thu (722-479) và thời Chiến Quốc (479- 221).
Sự phân chia đó chỉ dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng Tử, bộ Xuân
Thu. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ẩn Công (722) đến năm thứ mười bốn đời Lỗ Ai Công (481), gồm242 năm; năm 479 là năm Khổng Tử mất. Chữ Xuân Thu mới đầu trỏ một năm(người ta lấy mùa xuân và mùa thu để tượng trưng một năm); rồi trỏ những bộ sử chép việc từng năm (vì vậy ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử, còn nhiều bộ sử khác như của Công Dương, Cốc Lương, Tả Khâu Minh… cũng gọi là Xuân Thu).
Nhiều nhà đã thấy năm 722 và năm481 (hoặc năm 479) không đánh dấu một biến chuyển nào lớn lao trong lịch sử, nên đã chia lại như sau: thời Xuân Thu: 770-403, từ đời Chu Bình Vương tới
cuối đời Chu Uy Liệt Vương; thời Chiến Quốc: 403-221, từ đời Chu An Vương đến khi nhà Tần diệt Tề và thống nhất Trung Quốc.
Lối phân chia này hợp lý hơn (lấp được chỗ trống từ 770 tới 722) nhưng cũng vẫn là ép vì suốt đời Đông Chu, lịch sử và xã hội Trung Hoa biến chuyển liên tục, không bị gián đoạn, từ chế độ phong kiến tới chế độ quân chủ chuyên chế, từ tình trạng phân tán tới tình trạng thống nhất; mà năm 403 cũng không có một biến cố nào quan trọng đủ để mở đầu một thời đại.
Từ khi dời đô qua phía đông, nhà Chu suy nhược lần lần: đất đai thì phải chia cắt để phong cho các vương hầu công
khanh, nên mỗi ngày một thu hẹp lại, chỉ còn trông vào sự cống hiến của các chư hầu mà chư hầu thì như nước Lỗ, trong 242 năm chỉ triều cống có ba lần; không những vậy, vì cái danh nghĩa thiên tử đôi khi còn phải giúp lương thực cho chư hầu những năm họ mất mùa hoặc có chiến tranh.
Nhà Chu tuy suy, nhưng các nước chư hầu chưa dám bỏ, vì chưa nước nào đủ mạnh để dẹp tất cả các nước khác. Họ lộng quyền, tranh giành, đánh nhau không ngớt, lại mượn danh nghĩa tôn Chu để sát phạt nhau nữa.
Số chư hầu trước kia trên một ngàn, tới đầu đời Đông Chu chỉ còn lại trên một trăm, vì nhiều nước nhỏ đã bị các
nước lớn thôn tính. Nhưng trong số trên một trăm nước đó, thời Xuân Thu chỉ có mười lăm nước là đáng kể: Tấn, Tần, Tề, Ngô, Việt, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Trâu. Trong số mười lăm nước đó lại chỉ có năm nước là hùng cường, kế tiếp nhau làm minh chủ, tức là ngũ bá: Tề (Hoàn Công), Tấn (Văn Công), Tống (Tương Công), Sở (Trang Công), Tần (Mục Công).
Qua thời Chiến Quốc, số chư hầu giảmxuống còn trên một chục: Tề, Tần, Sở, Triệu, Nguỵ, Hàn (ba nước này xưa là nước Tấn), Tống, Lỗ, Trâu, Đằng, Yên, Trung Sơn…; nhưng chỉ có bảy nước lớn tranh hùng với nhau (thất hùng), tức: Tần, Tề, Sở, Hàn, Nguỵ, Triệu, Yên.
Trong số thất hùng, mạnh nhất là Tần, Sở, Tề vì đất đai đã rộng (rộng nhất là Sở) mà tài nguyên lại nhiều.
Các nước đó tổ chức những liên minh để đánh lẫn nhau. Có hai kế hoạch liên minh lớn nhất là kế hoạch “hợp tung” của Tô Tần và kế hoạch “liên hoành” của Trương Nghi. Tung có nghĩa là đường dọc, mà hoành có nghĩa là đường ngang. Các nước từ Bắc tới Nam, tức từ Yên đến Sở liên hợp với nhau thành một cái trục dọc để chống lại Tần, cho nên gọi là hợp tung. Để chống lại thế đó, Trương Nghi thuyết phục một số nước ở phía đông Tần cắt đất cầu hoà với Tần thành một trục ngang để đánh với các nước kia, cho nên gọi là liên hoành. Tới cuối thời
Chiến Quốc, rốt cuộc các mâu thuẫn lần lần tập trung lại thành mâu thuẫn giữa Tần và sáu nước: Hàn, Nguỵ, Triệu, Yên, Tề, Sở.
Càng gần tới mãn cục thì chiến tranh càng khốc liệt mà tình cảnh càng bi đát: có nước bắt lính tới một phần năm dân số, ông già bảy chục tuổi cũng phải tòng quân, có nước thu thuế của dân tới hai phần ba huê lợi mới đủ nuôi quân đội. Trong khi đó, các chính khách, các nhà du thuyết bôn tẩu không ngớt từ nước này qua nước khác, tấp nập trên đường, xe ngựa nối nhau, tán lọng chạm nhau, vàng bạc châu báu tuôn ra để mua chuộc nhau, ly tán nhau, phản gián nhau.
Thời đó là thời “đánh nhau để tranh
đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành”[17], thời “không có bực thánh vương nào ra đời, các vua chư hầu thì phóng túng, bọn xử sĩ thì bàn ngang, luận càn”, thời “không dùng uy quyền thì không đứng được, không dùng thế lực thì không thi hành được chính trị”.
Sở dĩ có cảnh loạn lạc đó, là vì xã hội Trung Hoa đương biến chuyển mạnh về phương diện chính trị, văn hóa, kinh tế.
Cái thế ở đầu đời Chu (trong nước có cả ngàn chư hầu) chỉ tạm vững khi nhà Chu còn mạnh. Khi nhà Chu bắt đầu suy, dời đô qua phía đông thì các nước chư hầu tất tranh giành nhau, vua Chu can thiệp, ngăn cản không được, do đó có
nước thì mạnh lên, có nước thì suy đi. Một nước mà suy thì tất có một bọn quí tộc mất địa vị. Muốn phục hồi địa vị, họ phải dùng những người tài giỏi về chính trị, quân sự, kinh tế, trong mọi giới, cả trong giới bình dân. Nhờ vậy mà bọn này thoát li được giai cấp của mình mà lên giai cấp sĩ phu, lần lần tranh được quyền hành của bọn quí tộc.
Đầu đời Chu, chỉ hạng quí tộc mới được cầm quyền, mới được học. Khi họ sa sút mà thành bình dân thì trong giới bình dân bắt đầu có người học rộng. Khổng Tử là hạng người đó; ông đã mở phong trào tư nhân dạy học, bất kỳ giới nào xin vô học ông cũng nhận, và ông có công lớn trong sự khai hoá quần chúng.
Đời sau, Mặc Tử, một triết gia trong giai cấp bình dân, tiếp tục công việc đó mà sự giảng học phát triển rất mạnh. Nhờ vậy, trong giai cấp bình dân, có nhiều người tài giỏi như Tô Tần, Trương Nghi, Cam Mậu, Phạm Tuy, Ngô Khởi, Bạch Khởi… Chính bọn này đã đóng vai trò quan trọng trong cái thế chiến quốc.
Lại thêm kinh tế mở mang cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự biến chuyển về chính trị nữa.
Dân số tăng lên (tổng số nhân khẩu thất quốc đời Đông Chu đã tới hai chục triệu), chế độ công điền, “thực ấp” hồi trước không còn hợp thời và nông dân oán trách bọn chủ nhân là “không cày không cấy mà lúa chứa đầy vựa”.
Thương Ưởng một phần vì hiểu rõ sự thế tự nhiên của thời đại, một phần vì muốn khuếch trương kinh tế cho Tần được mạnh, cho nhân dân tự do khai khẩn (nông bản chủ nghĩa: coi Thương Quân thư, thiên Nông chiến và thiên Khẩu lệnh), do đó có một số bình dân thành phú gia, mà một khi địa vị đã cao thì quyền lợi cũng phải thay đổi, gây thêmmột mâu thuẫn nữa trong xã hội.
Phương pháp canh tác cũng tiến bộ: thời Xuân Thu người ta đã biết dùng bò kéo cày, thời Chiến Quốc người ta đã chế tạo dụng cụ bằng sắt[18], nhờ vậy mà cày sâu hơn, nhanh hơn; người ta lại biết bỏ phân, làm hai mùa, đào kênh dẫn nước, tháo nước. Sự khẩn hoang (đặt biệt
ở Tần) phát triển mạnh, và để khuếch trương công việc thuỷ lợi, bọn chủ điền muốn thống nhất đất đai, nhất là thống nhất những nước nhỏ cùng nằm trên một dòng sông[19].
Chính sách thực sản của Quản Trọng ở nước Tề (khai mỏ đúc tiền, nấu nước bể làm muối, phát triển công nghệ, lập kho lẫm…) có kết quả rất tốt, ảnh hưởng tới nhiều nước khác và làm cho nền kinh tế chung tiến thêm một bước nữa.
Thương mại cũng có những hiện tượng mới: những nơi như Hàm Dương ở Tần, Lâm Tri ở Tề, Hàm Đang ở Triệu, Đại Lương ở Nguỵ đều là những thành phố phát đạt về thương mại, dân chúng các nơi di cư lại thành một hạng thị dân. Bọn
phú thương rất có thế lực, mua quan bán tước và bắt đầu tham gia chính trị, muốn phá bỏ biên giới giữa các nước chư hầu để cho giao thông và thương mại khỏi bị trở ngại. Sử còn chép những thương gia danh tiếng như Y Đốn (người nước Lỗ, thời Xuân Thu), Bạch Khuê (người nước Ngụy, thời Chiến Quốc), Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ (Tử Cống)… Họ chẳng những buôn hàng hoá mà có khi còn buôn cả vua nữa, như Lã Bất Vi.
Sau cùng còn tâm lý chung này nữa: làm dân một nước nhỏ thì phải chịu nhiều gánh nặng, nhiều nỗi điêu đứng khốn khổ trong thời loạn, cho nên ai cũng mong được làm dân một nước lớn, được thấy Trung Quốc thống nhất.
*
Trước cảnh loạn lạc ấy, làm sao vãn hồi được trật tự? Điều đó làm cho các triết gia Trung Hoa đời Chu thắc mắc. Đại loại có hai chủ trương:
Một chủ trương muốn giữ lại chế độ cũ, chế độ phong kiến, tăng uy quyền cho thiên tử, bắt các chư hầu phải phục tòng.
Một chủ trương muốn đạp đổ chế độ cũ vì biết rằng nó không thể tồn tại được lâu nữa, mà lập một chế độ mới.
Theo chủ trương thứ nhất có Nho gia và Mặc gia. Mới đầu Khổng Tử muốn cứu vãn nhà Chu. Rồi sau, Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, bất lực quá, không thế cứu được, mong có một vị minh quân thay nhà Chu để
thống nhất Trung Quốc mà thi hành chế độ cũ sau khi sửa đổi ít nhiều.
Rõ nhất là chủ trương của Mạnh Tử. Một lần Lương Tương Vương hỏi ông: “Khi nào thiên hạ yên định được?”. Ông đáp: “Khi nào thống nhất thiên hạ thì yên định được… và không ai thích giết người thì thống nhất được… Hiện nay trong thiên hạ chẳng có bậc chăn dân nào mà chẳng ham giết người. Nếu có một vị vua có lòng nhân chẳng ham giết người hại chúng thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay đầu ngỏng cổ trông về vị ấy” (Lương Huệ Vương). Nghĩa là ông không tin gì nhà Chu nữa, muốn gặp bất kỳ một nhân quân nào biết theo đạo của ông để ông phò tá mà thống nhất thiên hạ.
Theo chủ trương thứ nhì có Đạo gia và Pháp gia. Đạo gia muốn dùng chính sách phóng nhiệm, giảm thiểu chính quyền, cứ theo tự nhiên như thời sơ khai; họ tin rằng khi không còn giai cấp thì sẽ hết loạn, chẳng thống nhất mà cũng như thống nhất. Như vậy phái này đả đảo một cái cựu (chế độ phong kiến) để trở về một cái cựu hơn nữa (chế độ bộ lạc).
Pháp gia trái lại, không muốn trở về cái cựu mà muốn tiến tới một chế độ mới: họ muốn dùng chính sách độc tài, dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến mà lập chế độ quân chủ chuyên chế. Họ cho đạo “vô vi”[20]của Lão, Trang là hoang đường, họ muốn cực “hữu vi”; họ lại cho “vương đạo” của Khổng Mạnh chỉ làm
cho quốc gia thêm loạn[21], nên họ chủ trương “bá đạo”.
Chỉ xét sự biến chuyển về ý nghĩa của hai tiếng vương, bá, ta cũng thấy được đại cương của sự biến chuyển về tư tưởng chính trị trong thời Đông Chu.
Suốt đời Xuân Thu, tiếng vương trỏ vua Chu, tiếng bá trỏ vị đứng đầu chư hầu, nghĩa là chỉ có sự phân biệt địa vị chứ tuyệt nhiên không có ý nghĩa gì về chính sách trị dân, về tư cách ông vua.
Qua thời Chiến Quốc, Mạnh Tử là người đầu tiên dùng hai tiếng đó làmdanh từ chính trị: vương là chính sách dùng nhân nghĩa, bá là chính sách dùng sức mạnh mà trị dân. Trong thiên Công Tôn Sửu ông viết: “Người dùng sức
mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân là bá; người làm bá phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương, người làm vương không đợi có nước lớn”.
Đời sau, Tuân Tử cũng theo nghĩa của Mạnh Tử, chỉ khác một điều là Mạnh Tử trọng vương mà rất ghét bá, cho vương và bá là hai chính sách trái ngược nhau, còn Tuân Tử thì không ghét hẳn bá, mặt dầu vẫn trọng vương.
Tới Hàn Phi, môn đệ của Tuân Tử, thì nghĩa của vương, bá đổi hẳn: ông vua nào giỏi dùng pháp, thuật mà có cái thế mạnh thì là vương, ông vua nào cũng dùng pháp, thuật mà thế không mạnh thì là bá; chính sách vương hay bá chỉ là
một.
Hết thảy các nước đời Chiến Quốc đều theo chủ trương của Pháp gia. *
Như trên, chúng tôi đã nói, trong số thất hùng, chỉ có Tần và Sở mạnh nhất, rồi tới Tề.
Tần nhờ địa thế hiểm trở (cửa HàmCốc khi mà đóng lại thì không đội binh nào qua được), nhờ đất đai rộng (Tần đã chiếm thêm được miền Ba Thục), nhờ dùng “biến pháp” của phái Pháp gia (Thương Ưởng, Lý Tư), nhờ tài cầmquân của Bạch Khởi, mà lần lần chiếmưu thế về chính trị, kinh tế, quân sự, thôn tính các nước Hàn, Triệu, Nguỵ, rồi uy hiếp Sở. Sở đáng lý phải thay đổi chính
sách trị nước, liên hiệp với Tề mà chống Tần, phải ủng hộ chính sách hợp tung mà phản đối chính sách liên hoành; nhưng từ vua tới quan, đều mờ ám, không nghĩ tới dân, tới nước, chỉ cầu an nhất thời nếu không phải là mưu tư lợi – Khuất Nguyên rất đau đớn về tình trạng đó – thành thử bị Tần diệt. Tướng Tần là Bạch Khởi, sau khi chiếm Sở, phân tích nguyên nhân thất bại của Sở như sau: “Vua (Sở) thì mê muội, cậy nước lớn, không để ý đến chính trị suy đồi; quần thần thì tranh quyền đoạt lợi, xu nịnh vua, hãm hại người trung, không sửa thành quách, không lo phòng thủ”.
Sở đã bị diệt rồi thì tới phiên Tề, và lúc đó, ở Sơn Đông mọi người đều kinh
khủng, lo cho thân phận của mình. Người ta nghĩ tới lời của Lỗ Trọng Liên (coi bài Triệu III12), thấy cái nguy cơ sắp phải chịu cảnh lưỡi gươm Tần kề cổ, hốt hoảng hô hào một lần chót sự đoàn kết để chống Tần (coi bài Yên II11), và tiếng kêu của thái tử nước Yên vang lên ai oán vô cùng (coi bài Yên III5). Nhưng đã quá trễ. Vua Yên phải nhẫn tâm giết thái tử là Đan, dâng thủ cấp cho Tần Thuỷ Hoàng mà Tần Thuỷ Hoàng cũng không tha, san phẳng kinh đô Yên để kết thúc thời Chiến Quốc, mà hoàn thành công việc thống nhất Trung Quốc. Thế là “lục vương tất, tứ hải nhất”[22].
NGUỒN GỐC CHIẾN QUỐC SÁCH
Thời đại đó là thời đại quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa, nên nhiều sử gia ghi lại; nhưng những bộ sử căn bản làm nguồn tài liệu cho đời sau thì rất ít.
- Về đời Xuân Thu, ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử, có những bộ: Tả Truyện, còn gọi là Tả Thị Xuân Thu, một bộ sử biên niên chép tình hình ngoại giao, quân sự, chính trị của các nước từ năm 722 (đầu đời Lỗ Ấn Công) đến năm478 trước Tây lịch (đời Lỗ Ai Công). Quốc ngữ chép lịch sử tám nước: Chu, Lỗ, Tề, Tần, Trịnh, Sở, Ngô, Việt từ năm990 (đời Tây Chu Mục Vương) đến năm453 trước Tây lịch (Đời Đông Chu Định
Vương).
- Về đời Chiến Quốc chỉ có mỗi một bộ Chiến Quốc sách – thực ra chưa đáng gọi là sử – chép việc của mười một nước: Chu, Tần, Tề, Sở, Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tống, Vệ, Trung Sơn từ năm453 (đời Đông Chu Định Vương) tới năm 221 trước Tây lịch (tức năm 16 đời Tần Thuỷ Hoàng, năm mà Tần diệt xong lục quốc và thống nhất Trung Hoa).
Một học giả gần đây của Trung Hoa, La Căn Trạch, căn cứ vào câu này trong Sử ký của Tư Mã Thiên: “Khoái Thông[23]giỏi về trường đoản thuyết[24], có tám mươi mốt bài luận về thuật quyền biến thời Chiến Quốc” mà khẳng định rằng Khoái Thông là tác giả Chiến Quốc
sách. Nhưng thuyết đó chưa được nhiều người chấp nhận và hiện nay các sách viết về văn học sử Trung Quốc đều theo thuyết cổ: Chiến Quốc sách do nhiều người viết và Lưu Hướng thu thập, chỉnh lý lại, trễ lắm là năm 8 trước Tây lịch.
Lưu Hướng (79-8), tự là Tử Chính, người đất Bái, là tôn thất nhà Hán, khoảng hai mươi tuổi làm chức Gián Đại phu, dưới triều Tuyên Đế. Tính tình giản dị, không có uy nghi, ít giao du, chỉ thích sách vở, đúng là một học giả. Ông có tài văn chương (dâng mấy chục bài phú, tụng, được Tuyên Đế rất khen), giỏi về ngũ kinh, lại thích cả thiên văn, phương thuật, có lần dâng cách luyện kim, suýt bị tội là gạt vua. Thời Nguyên Đế, ông ghét
bọn ngoại thích chuyên quyền, tính can vua, nhưng bị chúng hãm hại, bị truất làmdân thường trong mười năm. Thời Thành Đế, ông lại được bổ dụng, mới đổi tên cũ là Cánh Sinh ra tên mới là Hướng, làmtới chức Quang lộc đại phu, lãnh việc hiệu đính ngũ kinh bí thư. Nhưng bọn ngoại thích họ Vương lại chuyên quyền, ông dâng thư can vua, vua hiểu lòng ông, muốn dùng ông làm chức Cửu khanh, mà bị họ Vương ngăn cản. Ông mất được mười ba năm thì Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán.
Các sách (Từ Hải, Từ Nguyên, Trung Quốc văn học gia liệt truyện – Quang Hoa thư điếm) chỉ chép rằng ông lưu lại những tác phẩm: Hồng phạm ngũ hành
truyện luận, Liệt nữ truyện, Liệt tiên truyện, Tân tự, Thuyết uyển, và ba mươi ba bài phú mà bài Cửu thán nổi danh nhất; không nhắc đến việc ông thu thập, chỉnh lý Chiến Quốc sách, có lẽ cho rằng công đó không đáng ghi chăng?
Nhưng ngày nay, còn lưu lại bài Tựa Chiến Quốc sách của ông, trong đó đại ý nói rằng khi thu thập các tài liệu, ông tìmđược nhiều quyển sắp đặt lộn xộn, lại thấy tám thiên chép riêng về các nước, nhưng không đủ, ông bèn theo từng nước và theo thứ tự thời gian sắp đặt lại thành ba mươi ba thiên, hiệu đính lại nhiều chữ sai lầm. Các bản ông dùng có nhiều tên khác nhau: Quốc sách, Quốc sự, Đoản trường, Sự ngữ, Trường thư hoặc Tu
thư; ông nghĩ rằng sách chép những mưu mô của bọn du sĩ thời Chiến Quốc, nên đặt tên là Chiến Quốc sách[25].
Theo bài tựa đó thì Chiến Quốc sách không phải của một người viết. Đọc qua một lượt, ai cũng nhận ngay ra rằng tác phẩm không thuần nhất, tất phải là công trình của nhiều tác giả.
Vì cùng một việc mà mỗi chỗ chép một khác.
Chẳng hạn truyện Tần tấn công Nghi Dương (đất của Hàn). Bài Tần II 7, chép rằng Phùng Chương khuyên vua Tần mua lòng Sở, đem Hán Trung hứa tặng Sở, để Sở Hàn đừng liên kết với nhau; còn bài Tần II 10, chép rằng Sở phản Tần mà liên kết với Hàn, vua Tần sợ, Cam Mậu
bảo vua Tần không có gì đáng lo. Hai bài đó chỉ cách nhau có một trang, cũng chép việc xảy ra trước khi Tần chiếmđược Nghi Dương, mà đã chép việc khác nhau như vậy. Còn một bài thứ ba nữa, bài Đông Chu 2, thì không chép gì về việc Sở liên kết với Hàn cả, mà Cảnh Thuý, tướng Sở, đi nước đôi để được cả thành của Tần lẫn bảo vật của Hàn. Những tài liệu đó không hẳn là mâu thuẫn nhau, nhưng nếu do một người viết thì tất đã gom lại để có sự nhất quán.
Lại thêm tên một vài người cũng không được nhất trí, chẳng hạn bài Đông Chu 21, chép là Xương Tha; bài Tây Chu 14, chép là Cung Tha; Giang Ất có chỗ chép là Giang Nhất hoặc Giang Doãn; Chu
Tối có chỗ chép là Chu Tụ.
Bút pháp cũng không đều, điểm này chúng tôi sẽ xét riêng trong đoạn “Giá trị Chiến Quốc sách về phương diện văn học” ở dưới.
*
Vậy Chiến Quốc sách do nhiều người viết, điều đó đã hiển nhiên. Nhưng những người đó ở thời nào? Hồi xưa người ta cho rằng Chiến Quốc sách là tài liệu của sử quan các nước thời Chiến Quốc. Ngày nay đa số các học giả nghi ngờ thuyết đó vì hai lẽ:
Năm 213 trước Tây lịch, Tần Thuỷ Hoàng ra lệnh đốt các sách thời Tiên Tần để thống nhất tư tưởng, diệt tinh thần địa phương; mặc dầu sử chép rằng mỗi cuốn
còn lưu lại một bản ở Gác Thạch Cừ (thư viện triều đình), nhưng những tài liệu về sử, nhất là những tài liệu có hại cho Tần, không chắc gì Tần đã chịu giữ lại.
Vả lại, xét về nội dung Chiến Quốc sách thì phần lớn không phải là tài liệu đáng tin về sử, mà có lẽ chỉ là những luận thuyết, biện thuyết dựa vào lịch sử mà viết; điểm này chúng tôi sẽ xét thêmở một đoạn sau.
Vì vậy, hiện nay người ta tạm cho rằng Chiến Quốc sách do các chính khách hoặc các nhà văn học viết trước đời Tần và do Lưu Hướng thu thập, xếp đặt lại[26].
Nhưng chính bản của Lưu Hướng thì
chúng tôi không thấy ai nhắc tới nữa, mà chỉ thấy nhắc tới những bản do người đời sau hiệu đính lại.
Trong bài Tựa cuốn Bạch thoại dịch giải Chiến Quốc sách độc bản của Diệp Ngọc Lân (Quảng Ích thư cục – 1947) có chép: “Những nhà hiệu đính Chiến Quốc sách thì Tăng và Diêu là đúng hơn cả; những nhà chú thích Chiến Quốc sách thì Bão và Ngô là minh bạch hơn cả”.
Tăng là Tăng Củng (1019-1073), một văn sĩ đời Tống, đồng thời với Vương An Thạch, Tô Thức, và cùng với hai nhà này, nổi tiếng về cổ văn, đứng vào hàng “bát đại gia” của Trung Quốc.
Diêu là Diêu Bá Thanh là một người đời Tống, đồng thời với Nhạc Phi.
"""