🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiến Lược Bảo Vệ Chủ Quyền Biển, Đảo Và Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Biển Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo CHIẾNLƯỢC BẢOVỆCHỦQUYỀNBIỂN,ĐẢO VÀPHÁTTRIỂNBỀNVỮNG KINHTẾBIỂNVIỆTNAM HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG Phó Chủ tịch Hội đồng Q. Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên VŨ TRỌNG LÂM NGUYỄN ĐỨC TÀI TRẦN THANH LÂM NGUYỄN HOÀI ANH PGS.TS.NGUYỄNCHUHỒI CHIẾNLƯỢC BẢOVỆCHỦQUYỀNBIỂN,ĐẢO VÀPHÁTTRIỂNBỀNVỮNG KINHTẾBIỂNVIỆTNAM NHÀXUẤTBẢNCHÍNHTRỊQUỐCGIASỰTHẬT HàNội-2019 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Vùng biển nước ta rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền, chiếm khoảng 29% diện tích toàn Biển Đông. Sự phân hóa tự nhiên như vậy đã tạo nên tính đa dạng về cảnh quan, tài nguyên biển và tiềm năng phát triển các lĩnh vực kinh tế biển, đảo; tạo tiền đề cho bảo đảm an ninh, quốc phòng đất nước từ phía biển. Thừa nhận luận điểm của thời đại: Thế kỷ XXI là kỷ nguyên của đại dương, Đảng và Nhà nước ta coi phát triển kinh tế biển nhanh, hiệu quả và bền vững, gắn với bảo đảm an ninh, chủ quyền biển, đảo là những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt và ưu tiên cao nhất. Quán triệt tinh thần đó, ngày 09 tháng 02 năm 2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết số 09/2007/NQ-TW về ban hành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu chung: Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Ngày 07 tháng 10 năm 2008, Ban Bí thư đã ban hành Thông báo số 188-TB/TW về đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X, trong đó yêu cầu đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, có hệ thống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí chiến lược của biển, đảo. 5 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 10 năm qua, các bộ, ngành và địa phương đã triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với nhiều chương trình, dự án đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững và các hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước ta. Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình khai thác, sử dụng và quản lý biển, đảo ở nước ta vẫn còn đối mặt với những thách thức không nhỏ về suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường, rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu, đặc biệt là các tranh chấp chủ quyền kéo dài, phức tạp, có yếu tố khó lường ở Biển Đông. Trong khi đó, nhận thức và hiểu biết về tiềm năng, lợi thế chiến lược của biển, đảo Việt Nam còn rất khác nhau, chưa đầy đủ, thậm chí có những sai lệch. Điều này đã, đang và sẽ tác động mạnh đến sự nghiệp bảo vệ các quyền và lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông và phát triển bền vững kinh tế biển. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược đã bổ sung và làm rõ mục tiêu chung là: Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn. Để góp phần quán triệt Nghị quyết số 36-NQ/TW, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi. 6 Nội dung cuốn sách cung cấp các thông tin cơ bản về bối cảnh thế giới và khu vực Biển Đông; các thông tin về tiềm năng, thế mạnh, các cơ hội và thách thức đối với phát triển bền vững kinh tế biển nước ta dựa trên nền tảng của kinh tế biển xanh; bảo vệ các quyền và lợi ích của nước ta trên Biển Đông; chủ trương, quan điểm chiến lược và các giải pháp cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nhà xuất bản và tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản tiếp theo. Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc Tháng 8 năm 2019 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT7 8 I BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC BIỂN ĐÔNG 1. Đại dương và biển - nơi dự trữ cuối cùng của loài người “Ngôi nhà chung” - Trái đất của chúng ta là một hành tinh trong hệ Mặt trời với 71% diện tích bề mặt được bao phủ bởi khối nước mặn - được gọi là “Đại dương thế giới”. Đây là điểm khác cơ bản của Trái đất so với các hành tinh khác trong hệ Mặt trời và cũng là điểm khác so với chính tên gọi của Trái đất vì đất liền (lục địa) chỉ chiếm 29% nên người ta còn ví hành tinh này là “Trái nước”. Đại dương thế giới sâu trung bình 3.800 m (nơi sâu nhất là 11.340 m ở hẻm vực Mariana, nằm ở rìa ngoài biển Philippines thuộc Thái Bình Dương) và được chia ra thành 5 đại dương: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương, Nam Đại Dương (còn gọi là Nam Băng Dương) và 57 biển, trong đó có Biển Đông. Nó là một hệ thống tự nhiên mở do có sự trao đổi tương tác mạnh mẽ và thường xuyên giữa nước đại dương với bầu khí 9 quyển bao quanh Trái đất, hình thành chu trình nước (mưa - bốc hơi) toàn cầu. Vì thế, đại dương thế giới còn được xem là một “hệ thống tự nhiên hỗ trợ đời sống của Trái đất”1. Đại dương thế giới đóng vai trò cực kỳ quan trọng: (i) Cung cấp không gian và môi trường sống lý tưởng cho các loài sinh vật, chủ yếu là sinh vật thủy sinh, và loài người; (ii) Sản xuất ra thực phẩm, hàng hoá, nguyên nhiên liệu, năng lượng,... phục vụ phát triển và duy trì các nguồn sinh kế cho cộng đồng địa phương ven biển và trên các đảo; (iii) Điều chỉnh thời tiết và khí hậu; điều hoà môi trường và dinh dưỡng,...; (iv) Giảm thiểu tác động của thiên tai (kể cả sóng thần) và biến đổi khí hậu đối với đất liền thông qua duy trì các hệ sinh thái biển, đảo và ven biển - “kết cấu hạ tầng tự nhiên” bảo vệ vùng bờ biển. Theo thuyết Địa luận, các nhà địa lý cổ đại quan niệm: các đại lục chỉ như những “hòn đảo khổng lồ” trong một đại dương mênh mông, vì thế đại dương sẽ giúp thế giới xích lại gần nhau thông qua các tuyến hàng hải viễn dương và ai thống trị được đại dương sẽ thống trị được cả thế giới. Sau này, đề cập đến vai trò kinh tế của đại dương và biển, các chiến lược gia cũng thống nhất nhận ___________ 1. Seibold E. and Berger W.H.: The Sea Floor: An Introduction to Marine Geology, Springer-Verlag, Berlin Heidelberg-New York, 1982. 10 định: Đại dương và biển là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực, thực phẩm, các nguồn năng lượng và nguyên nhiên liệu khác; đặc biệt khi trên đất liền nhiều dạng tài nguyên thiên nhiên đã bị suy thoái và suy giảm, bị cạn kiệt và nhiều dạng không thể phục hồi hoặc phục hồi chậm. Thực tế lịch sử cũng cho thấy những đột phá phát triển mang tầm thời đại hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia biển/đại dương và mỗi thời đại phát triển lớn trên thế giới đều gắn kết với đại dương và được “định nghĩa” bằng các đại dương, như: Italy và các nước vùng Địa Trung Hải, Anh, Nhật Bản, Mỹ, Australia, Singapore và Trung Quốc,... Khi phân tích giá trị tài nguyên biển, giá trị không gian biển và khối lượng thương mại qua đường biển toàn cầu, Paul Holthus1 chỉ ra rằng kinh tế biển và đại dương ngang bằng với “kinh tế toàn cầu”. Trong biển và đại dương có khoảng 180.000 loài động vật, 20.000 loài thực vật, 500 tỷ tấn hải sản/năm. Sản lượng khai thác cá biển cho phép hằng năm 600 triệu tấn, hiện mới chỉ khai thác gần 100 triệu tấn/năm. Biển và đại dương là đường giao thông huyết mạch của thế giới và các quốc gia có biển, riêng Trung Quốc 85% lượng ___________ 1. Xem FAO: The State of the World Fisheries and Aquaculture, Rome, Italy, 2012. 11 hàng hóa thương mại được vận chuyển qua đường biển. Tiềm năng khoáng sản biển và đại dương cũng rất lớn, như: dầu mỏ và khí thiên nhiên (diện tích các bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu khí biển là 26,395 triệu km2), sắt, mangan, lưu huỳnh, silic, phốtphorít và đặc biệt là nguồn quặng đa kim (niken, côban, v.v.) khổng lồ trên bề mặt đại dương ở độ sâu 3.000-6.000 m, được ví như “món ăn của công nghiệp quốc phòng” hiện đại. Gần đây, thế giới biết thêm một loại khoáng sản nhiên liệu mới - băng cháy (khí hyđrat mêtan), chứa đến 90% khí mêtan và trông ngoài như “cồn khô” để đun bếp. Băng cháy được hình thành trong điều kiện áp suất cao, nhiệt độ thấp và có trữ lượng gấp gần 2 lần tổng trữ lượng dầu mỏ đã tìm thấy ở thềm lục địa trên thế giới. Biển và đại dương còn có tiềm năng lớn về năng lượng thủy triều, sóng và dòng chảy biển, phong điện, năng lượng nhiệt đại dương, năng lượng muối đại dương,... Dự tính, năng lượng biển có thể tạo ra sẽ gấp hơn 10 lần tổng năng lượng đã tạo ra hiện nay trên thế giới để phục vụ phát triển và dân dụng1. Đến nay có khoảng 100 quốc gia lọc nước biển thành nước ngọt, tách ra muối tinh và một số nguyên tố hóa học trong nước biển sử dụng đại trà ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: Cơ sở tài nguyên và môi trường biển, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. 12 trong phát triển kinh tế và đời sống. Tổng năng lực lọc và khử muối nước biển đạt khoảng 65 triệu m3/ngày, giải quyết được vấn đề nước uống cho khoảng 200 triệu người, tương ứng hằng năm lượng nước biển được sử dụng trực tiếp vượt 1.700 tỷ m3, bằng 60 hồ chứa thủy điện cỡ lớn1. Biển, đại dương và đảo còn chứa đựng tiềm năng du lịch to lớn, đa dạng, bao gồm các loại hình du lịch mới như nghề cá giải trí (đánh cá, nuôi cá, câu cá, ngắm cá giải trí và xuất khẩu cá cảnh rạn san hô) và du lịch dưới đáy biển (du lịch lặn, du lịch nghỉ dưỡng trong các nhà kính, aquarium, v.v.). Tổng giá trị quy đổi “nguồn vốn tự nhiên” biển và đại dương có khả năng cung cấp cho con người cũng khoảng 24.000 tỷ USD/năm, còn tổng sản phẩm biển hằng năm (GMP) đến nay mới đạt 2,5 nghìn tỷ USD2. Trên toàn thế giới, khoảng 3 tỷ người có nguồn sinh kế phụ thuộc vào biển, đại dương và các nguồn lợi của chúng đóng góp cho các nền kinh tế trên 5% GDP toàn cầu3. Dự báo khả năng phụ thuộc này sẽ tăng khi số dân toàn ___________ 1. Xem Jiahai Xiang (Edited): Marine Science & Technology in China: A Roadmap to 2050, Chinese Academy of Science, Science Press Beijing-Springer, 2007. 2. Xem Hoegh-Guldberg, O. et al.: Reviving the Ocean Economy: the Case for Action, WWF International, Gland, Switzerland, Geneva, 2015, pp.60. 3. Xem Oceans, http://www.un.org/en/sustainablefuture/ oceans.shtml. 13 cầu vượt mốc 7 tỷ người và khi các nguồn lực trên đất liền sắp cạn kiệt và bị ô nhiễm1. Dựa vào lợi thế của biển và đại dương, phần lớn các vùng kinh tế, các khu đô thị lớn và thịnh vượng với khoảng 60% dân số trên thế giới đều tập trung ở vùng ven biển và đại dương, trong phạm vi cách đường bờ biển 60 km, như: Thượng Hải, New York, Tokyo, Hongkong, Rio de Janeiro, Mumbai, Bangkok, Jakarta, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v.. Đại dương và biển còn là không gian sinh tồn (phát triển và an ninh) của loài người và cũng là nơi cạnh tranh của các nền kinh tế đứng đầu thế giới. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới khan hiếm và khủng hoảng nguyên nhiên liệu; tác động của biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương; gia tăng các vấn đề an ninh biển phi truyền thống; cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia trên biển thường xuyên và gay gắt hơn bao giờ hết2. Kinh tế biển thế giới tái cơ cấu theo hướng dịch chuyển ra ngoài vùng biển quyền tài phán quốc ___________ 1. Xem Global Agenda Councils: “The Future of our Oceans”, http://www.weforum.org/community/global-agenda councils/ future-of-our-oceans. 2. Xem Đỗ Hoài Nam: “Chiến lược biển và tầm nhìn phát triển mới”, Báo cáo đề dẫn, trong Kỷ yếu hội thảo quốc gia Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển ngành thuỷ sản, Hà Nội, 2007. 14 gia (ngoài 200 hải lý), tiến ra đại dương1, đóng cửa biển quốc gia ra khai thác đại dương, “lấy đại dương nuôi đất liền”. Chuyển từ tư duy khai thác sang tư duy phát triển bền vững hướng tới tăng trưởng xanh; chú trọng phát triển các loại hình kinh tế dựa vào bảo tồn thiên nhiên (thuận thiên) thông qua khai thác, sử dụng hiệu quả các giá trị không gian biển đảo và các giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái biển - ven biển. Trong bối cảnh loài người đang phải đối mặt và nỗ lực ứng phó với những tác động khôn lường của biến đổi khí hậu, thì biển và đại dương một lần nữa lại chứng tỏ vai trò quan trọng toàn cầu của nó. Các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu sử dụng đại dương để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu khi thấy rằng các hệ thực vật trong biển và đại dương như: rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và vi thực vật phù du biển (phytoplankton),... có khả năng thu - giữ một lượng CO2 thừa của bầu khí quyển gây hiệu ứng nhà kính, làm nóng lên toàn cầu (Hộp 1). Tình trạng như hiện nay, đại dương thế giới có thể thu giữ được 30% lượng CO2 thừa từ bầu khí quyển. Gần đây, các nhà khoa học thế giới đã thành công trong việc thử nghiệm khả năng rải bột sắt ___________ 1. Công ước Luật biển năm 1982 quy định: các quốc gia có biển hoặc không có biển đều được quyền ra khai thác các vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia và được đăng ký khai thác đáy đại dương. 15 để “bón phân” cho đại dương (ocean fertilizing) nhằm phục hồi và kích thích sự phát triển của các thảm thực vật dưới biển và đại dương nói trên. Ngoài ra, các nhà khoa học còn dự định lợi dụng một số “bẫy địa tầng” và các cấu trúc “rỗng” sau khai thác mỏ dưới lòng đất của đáy biển và đại dương để “chôn” khí CO2 thừa của bầu khí quyển1. Hộp 1: Khả năng tích luỹ cácbon của rừng ngập mặn và thực vật phù du biển Rừng ngập mặn ven biển có khả năng tích lũy một lượng lớn cácbon, tạo “bể chứa” cácbon làm giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Sự tích lũy cácbon trong cây ngập mặn và trong đất rừng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: mật độ cây, loài cây, tuổi cây, sự phân giải vật chất hữu cơ trong đất và mức độ ngập nước thuỷ triều; trong đó, mức độ ngập nước thuỷ triều thường xuyên và mức độ phân huỷ vật chất hữu cơ trong môi trường yếm khí là yếu tố chủ đạo tạo điều kiện cho đất rừng ngập mặn trở thành bể chứa khí nhà kính. Do sống trên đất than bùn giàu cácbon, các thảm rừng ngập mặn tích lũy được nhiều cácbon trên một hécta hơn rừng nhiệt đới trên cạn. Đó là lý do tại sao chúng ta phải bảo vệ các “kho cácbon” khổng lồ trong các rừng ngập mặn và trên các vùng đất than bùn ở Việt Nam và châu Á. Rừng ngập mặn cung cấp hơn 10% lượng cácbon hữu cơ hòa tan cần thiết cho đại dương, nhưng chỉ ___________ 1. Xem Biliana Cicin-Sain, Ed.: Oceans and Climate Change: Issues and Recommendations for Policymakers and for the Climate Negotiations, Brief Ocean Policy of Global Ocean Forum, 2009. 16 dưới 1% rừng ngập mặn toàn cầu được bảo vệ hiệu quả. Mất thêm rừng ngập mặn sẽ tăng khả năng phát thải một lượng lớn cácbon tạo ra điôxít cácbon và mêtan - các khí nhà kính. Ngoài ra, thực vật phù du biển hằng năm giúp giảm được hơn 50 tỷ tấn cácbon thông qua hấp thụ CO2 - một loại khí nhà kính gây ra hiện tượng nóng lên của Trái đất và biến đổi khí hậu. Nguồn: Nguyễn Chu Hồi: “Biến đổi đại dương: Vấn đề và tiếp cận ứng phó”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 19 (686)/2014, tr. 6-12. Trong khoảng 50 năm gần đây, khoa học - công nghệ biển/đại dương trên thế giới đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thực sự đóng vai trò định hình chính sách phát triển các ngành kinh tế biển và tăng cường đáng kể sức mạnh quốc phòng, an ninh biển. Cùng với việc mở rộng khai thác biển và đại dương theo hướng vươn ra xa hơn và xuống sâu hơn, các lĩnh vực khoa học - công nghệ biển then chốt cũng được phát triển mạnh1. Thêm nữa, toàn cầu hóa ảnh hưởng đến các quốc gia và khu vực, ngược lại sự phát triển đúng hướng và hiệu quả của một quốc gia sẽ đóng góp không nhỏ cho các vấn đề toàn cầu. ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ biển và đại dương: Một số kinh nghiệm quốc tế”, Tổng luận Nghiên cứu biển và đại dương của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, số 2/2014, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2014. 17 Trong một thế giới chuyển đổi như vậy, Việt Nam cần thay đổi tư duy phát triển và đổi mới công nghệ để giải quyết những thách thức nói trên, hướng đến một nền kinh tế biển xanh và phát triển bền vững kinh tế biển; trong đó, liên kết quốc tế phải là một trong những cách tiếp cận cơ bản và dài hạn để giải bài toán phát triển và bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia. Vì vậy, “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương” trở thành luận điểm chung toàn cầu và được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận khi xây dựng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. 2. Bối cảnh khu vực Biển Đông 2.1. Biển Đông - Ngã ba đường của thế giới Biển Đông là 1 trong 57 biển trên thế giới và là một biển rìa nửa kín có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, đứng thứ 4 trên thế giới1, lớn gấp 1,5 lần Địa Trung Hải và 8 lần Hắc Hải. Khoảng 90% chu vi Biển Đông được bao bọc bởi đất liền, chiều dài trên 3.000 km, chiều rộng tới 1.000 km, nằm trong hệ tọa độ từ 3o vĩ Bắc đến 26o vĩ Bắc và từ 100o kinh Đông đến 121o kinh Đông. Độ sâu bình quân của Biển Đông là 1.140 m và khối lượng nước khoảng 3,928.106 km3. Thềm lục địa ở Biển Đông thuộc loại rộng nhất thế giới với diện tích 1,755 triệu km2 và ___________ 1. Biển Philippines (S=5.000.000 km2), biển San Hô (S=4.791.000 km2) và biển Arab (S=3.862.000 km2). Nguồn: Wikipedia-the free encyclopedia. 18 độ sâu bình quân gần 100 m, mở rộng trong vịnh Bắc Bộ ở phía bắc và vịnh Thái Lan ở phía nam, thắt lại ở khu vực biển miền Trung. Trên bề mặt thềm lục địa có mặt các dấu vết của lòng sông cổ, có các rãnh ngầm ở rìa ngoài thềm lục địa và sườn dốc lục địa (trên bản đồ là các vết hằn bề mặt). Ngoài dầu khí dưới lòng đất thềm lục địa, trong phạm vi các lòng sông cổ ở lớp trầm tích gần bề mặt thềm lục địa có thể tìm thấy các mỏ sa khoáng “chôn vùi” (Hình 1). Hình 1: Việt Nam và các quốc gia ven Biển Đông 19 Biển Đông là tên gọi của người Việt Nam như một cụm danh từ riêng, đã có từ bao đời1. Biển Đông có tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh là South China Sea, hay tiếng Pháp là Mer de Chine Méridionale do Tổ chức Thủy đạc Quốc tế (IHO) đặt dựa vào tên của quốc gia ven biển có diện tích lãnh thổ đất liền lớn nhất, nhưng không nhất thiết quốc gia đó phải có diện tích biển lớn nhất hoặc đường bờ biển dài nhất. Nghĩa là cách đặt tên này cho Biển Đông không hàm ý về chủ quyền, tương tự như trường hợp Ấn Độ Dương2. Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của quốc gia ven biển, quốc đảo phải được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Luật biển năm 19823. Tiếp giáp với Biển Đông có 9 quốc gia (Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Brunei, Malaysia, Campuchia, Thái Lan, Indonesia và Singapore) và 1 vùng lãnh thổ (Đài Loan) với khoảng 300 triệu dân có sinh kế hằng ngày phụ thuộc vào nguồn lợi từ Biển Đông. ___________ 1. Tên gọi Biển Đông đã được ghi trong Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi năm 1428 và trên bản đồ Hồng Đức năm 1490 thời vua Lê Thánh Tông. 2. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên), Vũ Hải Đăng: An ninh môi trường và hòa bình ở Biển Đông, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2016. 3. Xem Trần Bông: “Biển Đông: Địa chiến lược và Tiềm năng kinh tế”, Nghiên cứu Biển Đông, thứ ba, 29/12/2009. 20 Hình 2: Tuyến hàng hải quốc tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương qua Biển Đông Ghi chú: 0,9 là 0,9 nghìn tỷ feet các dòng khí tự nhiên hóa lỏng. Biển Đông là không gian nối kết hai đại dương thông qua tuyến hàng hải quốc tế Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, nên còn được ví là “Ngã ba đường của thế giới”. Hai eo biển quan trọng: eo Malacca (phía Tây Nam) và eo Luzon (phía Đông Bắc) là các cửa ra vào chính của tàu thuyền qua Biển Đông. Đặc biệt, eo Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới sau eo biển Hormuz (Iran). Thông qua hai eo biển chính này và các eo biển “phụ” khác, Biển Đông thực hiện chức năng trao đổi nước với các biển và đại dương lân cận, cũng như vận hành thuận lợi các hoạt động hàng 21 hải. Tuyến hàng hải “huyết mạch” nhộn nhịp này hằng ngày có khoảng 300 tàu, trong đó 200 tàu chở dầu đi qua, khoảng 50% tàu có trọng tải hơn 5.000 tấn và hơn 10% tàu có trọng tải 30.000 tấn trở lên, điểm gần nhất cách Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) khoảng 36 km (Hình 2). Hơn 90% lượng vận tải thương mại trên thế giới thực hiện bằng đường biển và 60% trong số đó phải đi qua Biển Đông với tổng giá trị hàng hóa hằng năm khoảng 5,3 nghìn tỷ USD, trong đó Mỹ chiếm 1/5. Lượng dầu lửa và khí hóa lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng lớn và hiện đại cấp thế giới nằm trong khu vực Biển Đông là cảng Singapore và Hongkong. Nhiều quốc gia khu vực Đông Nam Á và Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào các tuyến hàng hải này, thậm chí Mỹ dù nằm rất xa Biển Đông, nhưng luôn khẳng định có lợi ích liên quan đến quyền tự do hàng hải và hàng không qua Biển Đông theo quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển năm 1982. Như vậy, Biển Đông không chỉ mang lại lợi ích cho các quốc gia trong khu vực mà còn cả các quốc gia ngoài khu vực liên quan đến quyền tự do hàng hải và hàng không qua Biển Đông. Nói cách khác, đây là khu vực biển cực kỳ quan trọng đối với tất 22 cả các quốc gia trong và ngoài khu vực về mặt địa chiến lược (địa chính trị, địa kinh tế và địa văn hóa). Trong bối cảnh như vậy, việc đa phương hóa quan hệ ngoại giao và đa dạng hóa lợi ích có thể là những gợi ý chính sách quan trọng để bảo vệ các quyền và lợi ích biển của Việt Nam trên Biển Đông theo cách tiếp cận hòa bình. Vì vậy, từ lâu vùng biển này là yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển không chỉ của các nước quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc khác trên thế giới. Vị trí của Biển Đông tạo thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế giữa nước ta với thế giới, đặc biệt là với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực phát triển kinh tế năng động ở thế kỷ XXI. Theo các chiến lược gia, trong trường hợp xảy ra xung đột kéo dài ở Biển Đông gây ách tắc hoặc tàu thuyền không đi qua được và phải đi vòng qua Indonesia và Thái Bình Dương thì không những gây tốn kém về thời gian, nhiên liệu và tiền của,... mà cuối cùng sẽ đẩy một số nền kinh tế rơi vào suy thoái, trước hết là Nhật Bản và các đồng minh kinh tế của Nhật Bản - nước có 70% lượng xuất và nhập qua đường biển đều đi qua Biển Đông. Mỹ sẽ mất vai trò chiến lược ở Đông Á và có thể đổ vỡ Sáng kiến Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở nếu Mỹ và đồng minh mất quyền tự do hàng hải và hàng không qua Biển Đông. Vì thế 23 Mỹ không thể “bỏ” Biển Đông mà phải cố gắng phối hợp với các đồng minh để duy trì các hoạt động kiểm soát tự do hàng hải và hàng không ở vùng biển này. 2.2. Tiềm năng và lợi ích đa dạng của các bên Đặc biệt, dù là một biển rìa lục địa nhưng Biển Đông lại mang những nét đặc trưng của đại dương với sự tồn tại của một bồn trũng nước sâu “kiểu đại dương” chiếm hơn 50% diện tích toàn bộ đáy Biển Đông với độ sâu trung bình khoảng 2.200 m (độ sâu trung bình toàn Biển Đông là 1.149 m). Bồn trũng nước sâu này có hình thái cấu trúc dạng một “lưỡi bò” với trục chính chạy theo tuyến đông bắc - tây nam đã cung cấp tiền đề cho việc tìm kiếm các loại hình khoáng sản “nguồn gốc đại dương” và nguồn lợi hải sản thích nghi với môi trường sinh thái kiểu đại dương (cá ngừ đại dương, v.v.). Hoạt động tương tác giữa khối nước với bề dày 2.200 m của bồn trũng nước sâu với khối khí quyển bên trên Biển Đông đã tạo ra các “nhiễu loạn nội vùng” chu kỳ ngắn, khiến cho các dự báo ngắn hạn về các cơn bão nhiệt đới trong khu vực gặp nhiều khó khăn và thiếu độ chính xác mong muốn. Nhìn từ góc độ tài nguyên, có thể xem bồn trũng nước sâu này là một “kho báu” trong Biển Đông mà đến nay chưa được khám phá hết. Có lẽ, không phải ngẫu nhiên, Trung Quốc đòi nhận kho báu này bằng cách khoanh một 24 “đường chín đoạn” khuôn theo hình thái của bồn trũng nước sâu dạng lưỡi bò nói trên1 (Hình 3). Hình 3: Địa hình đáy và hình thái “bồn trũng nước sâu” của Biển Đông Nguồn: Morton, B., and G. Blackmore: South China Sea (Biển Đông - BT), Marine Pollution Bulletin 42 (12): 1236-1263, 2001. ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Bí ẩn đáy biển sâu ở Biển Đông”, Tạp chí Tuyên giáo, số 3/2019, ISSN 1859-2295, tr.76-77. 25 Trong Biển Đông có gần 10.000 đảo lớn nhỏ. Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm ở khu vực trung tâm Biển Đông, ở hai phía của tuyến hàng hải quốc tế Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Các đảo và quần đảo thuộc phạm vi bồn trũng nước sâu cấu thành bởi các rạn san hô là nơi sinh nở, trú ngụ, cung cấp nguồn giống và nguồn lợi hải sản cho phát triển nghề cá, cũng như nguồn sinh kế cho hàng triệu ngư dân trong vùng, trong đó có Việt Nam. Biển Đông có nguồn lợi hải sản phong phú và giàu có trên thế giới, vì vậy, khai thác hải sản trở thành ngành kinh tế rất quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực. Biển Đông được xếp thứ 4 trong số 19 khu vực đánh cá tốt nhất trên thế giới về tổng sản lượng đánh bắt hải sản hằng năm1. Mức đa dạng sinh học cao cả về số loài, các hệ sinh thái và nguồn gen, kéo theo là nguồn lợi sinh vật biển phong phú với hơn 160.000 loài, bao gồm gần 10.000 loài thực vật và 260 loài chim biển. Trữ lượng các loài động vật biển ước tính khoảng ___________ 1. Xem Jorge Csirke: “Global Marine Production and State of Marine Fishery Resources”, in FAO: Review of the State of the World Fisheries Resources, FAO Fisheries Technical, p.457 (Rome: FAO, 2005). 26 32,5 tỷ tấn, trong đó các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng (trong đó có hơn 1.000 loài cá kinh tế, hơn 90 loài tôm và hơn 70 loài thân mềm1). Mỗi năm, có khoảng 6 triệu tấn hải sản được đánh bắt tại đây (chủ yếu là cá sòng, cá thu, cá ngừ và tôm), tương đương 10% tổng lượng hải sản được đánh bắt trên toàn thế giới và 23% tổng lượng hải sản đánh bắt ở châu Á2. Ngoài ra, Biển Đông còn có nhiều loài động vật quý hiếm, như: đồi mồi, rắn biển, chim biển và thú biển; cung cấp nhiều loài rong biển có giá trị kinh tế3. Đây là ___________ 1. Xem Pakjuta Khemakorn: “Sustainable Management of Pelagic Fisheries in the South China Sea (Biển Đông - BT) Region” (New York: the United Nations, 2006), p.19; Kuan-Hsiung Wang: “Bridge over Troubled Waters: Fisheries Cooperation as a Resolution to the South China Sea (Biển Đông - BT) Conflicts”, The Pacific Review 14, no.4 (December 2001), p.536. 2. Xem Kenneth Sherman and Gotthilf Hempel (Chief author): The UNEP Large Marine Ecosystem Report: A Perspective on Changing Conditions in LMEs of the World of Regional Seas, UNEP Regional Seas Report and Studies No.182 (Nairobi: UNEP, 2009), p.299; Tom Naess: “Dangers to the Environment”, in Timo Kivimaki (Chief author): War or Peace in the South China Sea (Biển Đông - BT) (Copenhagen: Nias Press, 2002), p.54. 3. Xem John W. McManus: Offshore Coral Reef Damage, Overfishing, and Paths to Peace in the South China Sea (Biển Đông - BT), In E-book on Environmental and Maritime Security for a Blue South China Sea (Biển Đông - BT), Hai Phong, 2016, p.63. 27 nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và là nguồn dược liệu phong phú đặc trưng cho một vùng biển nhiệt đới. Các loài rong biển dễ gây trồng, ít bị mất mùa và cho năng suất thu hoạch cao nên là nguồn thực phẩm và dược phẩm quan trọng của con người trong tương lai. Một số loài rong biển đã được chế biến ra nhiên liệu sinh học có giá trị. Bên cạnh đó, Biển Đông cũng là nơi có nhiều loài sinh vật được Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xếp hạng đang có nguy cơ tuyệt chủng như rùa biển, cá voi hay bò biển. Biển Đông là một trung tâm đa dạng sinh học của thế giới1 với các hệ sinh thái tiêu biểu, như: rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, đảo nhỏ, rạn đá (đáy cứng) và đáy mềm, cồn cát ven biển, v.v.. Biển Đông tập trung 12% tổng diện tích rừng ngập mặn (mangroves) của thế giới và 30% tổng diện tích rừng ngập mặn của châu Á. Đây cũng là nơi có 20% tổng diện tích rạn san hô của khu vực Đông Nam Á (khu vực này lại chiếm 34% ___________ 1. Xem Liana Talaue-McManus: “Transboundary Diagnostic Analysis for the South China Sea”, EAS/RCU Technical Report Series No.14 (Bangkok: UNEP, 2000), p.1; Wilkinson C. and other authors: South China Sea (Biển Đông - BT), GIWA Regional Assessment 54 (Kalmar: University of Kalmar, 2005), p.18. 28 tổng diện tích san hô của thế giới)1. Rạn san hô là hệ sinh thái quan trọng và dễ bị tổn thương nhất và là ngôi nhà chung của hơn 3.000 loài sinh vật trong Biển Đông. Riêng phần nam Biển Đông tồn tại một “Tam giác san hô” bao quanh quần đảo Trường Sa và mở rộng vào bờ biển đảo Luzon (Philippines), Brunei và Khánh Hòa - Ninh Thuận (Việt Nam) (Hình 4). Đây là nơi có đa dạng loài san hô cao nhất (khoảng 517 loài), gần bằng mức độ đa dạng loài san hô (566 loài) của “Tam giác san hô quốc tế” giàu có nhất thế giới với trung tâm là vùng biển Indonesia và Philippines2. Bản thân Biển Đông cũng là một trong những hệ sinh thái biển lớn (large marine ecosystem) rất quan trọng trên thế giới. Theo lượng giá của De Groot và đồng nghiệp (năm 2012), tổng giá trị kinh tế của một hécta rạn san hô khoảng 350 ___________ 1. Xem UNEP: Mangroves in the South China Sea (Biển Đông - BT), UNEP/GEF/SCS Technical Publication No.1 (Bangkok: UNEP, 2004), p.2; Coral Reefs in the South China Sea (Biển Đông - BT), UNEP/GEF/SCS Technical Publications No.2 (Bangkok: UNEP, 2004), p.2. 2. Xem Võ Sĩ Tuấn: Khu hệ san hô tạo rạn biển Việt Nam, Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ II về sinh học biển và phát triển bền vững, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2014, tr.315-322. 29 nghìn USD/ha/năm1. Điều này cho thấy, bảo vệ được môi trường biển và các hệ sinh thái rạn san hô của các quần đảo ngoài khơi sẽ bảo đảm được an ninh môi trường, đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản toàn Biển Đông, đồng nghĩa với việc duy trì được nghề cá (gồm cả nuôi trồng và đánh bắt thủy sản) và cuộc sống của khoảng 22 triệu người ở các quốc gia ven Biển Đông2. Hình 4: “Tam giác san hô” trong Biển Đông Nguồn: Võ Sĩ Tuấn: Khu hệ san hô tạo rạn biển Việt Nam, Tlđd. ___________ 1. Xem De Groot et al.: Global Estimates of the Value of Ecosystems and Their Services in Monetary Units, Ecosystem Services 1, 2012, pp. 51-60. 2. Xem FAO: “Number of Fishers 1970-1997”, FAO Fisheries Circular/No.929, Revision 2 (Rome: FAO, 1999). 30 Hệ thống dòng chảy bề mặt trong Biển Đông có tính chất “phân kỳ” và “hội tụ” theo mùa: khu vực giữa Biển Đông, đông bắc Trường Sa dòng chảy hội tụ vào mùa đông và phân kỳ vào mùa hè. Dòng chảy luân chuyển theo mùa như vậy đã điều hòa ổn định nồng độ muối và chất dinh dưỡng ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt năm và là động lực liên kết, phát tán ấu trùng và nguồn giống hải sản giữa các hệ thống rạn san hô trung tâm Biển Đông với phần còn lại và với các vùng biển lân cận1. Trong Biển Đông còn có mặt các vùng nước trồi (upwelling) và vùng nước chìm (downwelling), nơi xảy ra sự hòa trộn giữa vật chất tầng mặt và tầng đáy biển (dòng chảy thẳng đứng). Kèm theo những vùng nước trồi thường là những ngư trường quan trọng đối với đánh bắt hải sản, còn vùng nước chìm, vùng nước xoáy thường là nơi nguy hiểm đối với tàu thuyền. Có nơi xoáy mạnh đến mức có thể hút cả tàu thuyền xuống đáy biển. Các tâm nước trồi mạnh thấy ở vùng biển ven bờ Thái Lan và nam Việt Nam, lớn nhất là vùng nước trồi ở vùng biển Ninh Thuận - ___________ 1. Xem Matthias Tomczak and Stuart Godfrey: Regional Oceanography, Great Britain, London, 1994. 31 Bình Thuận. Ở ngoài khơi Biển Đông có một số vùng nước chìm, quy mô nhỏ không gây nguy hại lớn. Biển Đông được coi là một trong những bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới, phát hiện chủ yếu ở các bồn trũng: Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Kông, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang (Trung Quốc), Hoàng Sa và Trường Sa. Đến nay các nước trong khu vực đều đã khai thác và sản xuất dầu khí xuất khẩu, trong đó Indonesia là thành viên của OPEC. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này, sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm và có thể duy trì được trong vòng 15-20 năm tới1 (Hình 5). ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên): Quản lý bền vững biển, đảo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.42. 32 Ngoài ra, Biển Đông được đánh giá là một trong bốn khu vực biển ở Đông Á có triển vọng băng cháy1 (khí hyđrat mêtan) lớn, tập trung ở sườn lục địa, chân lục địa cửa vịnh Bắc Bộ và khu vực biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ở khu vực biển Hongkong và Đông Sa người ta đã tìm thấy băng cháy và năm 2016 Trung Quốc đã khai thác thử nghiệm băng cháy quy mô công nghiệp trong cấu trúc nằm ngoài cửa sông Châu Giang và tây nam Đông Sa. Trữ lượng băng cháy lớn, nhưng tự “bốc hơi” trong điều kiện nhiệt độ, áp suất bình thường trên mặt đất nên phải khai thác có trách nhiệm và công nghệ bảo quản băng cháy phải tốt2. Ngoài triển vọng dầu khí, băng cháy và các khoáng sản rắn ngoài khơi, phần biển nông ven bờ của các quốc gia trong khu vực Biển Đông còn có tiềm năng về quặng sa khoáng chôn vùi, thiếc, vàng, sắt, mangan, đất hiếm và các loại vật liệu xây dựng, cát thủy tinh,... Có thể nói, một khi tiềm năng dầu khí và băng cháy còn lớn, chưa được khai thác sẽ kích thích các yêu sách chủ quyền đơn phương đối với các vùng biển, đảo ở ___________ 1. Băng cháy là hỗn hợp khí hyđrat mêtan (90% là mêtan) hình thành trong điều kiện áp suất cao nhiệt độ thấp, phân bố ở trong lòng đất của đáy biển ở độ sâu 100-600 m. 2. Xem Nguyen Nhu Trung: “The gas hydrate potential in the South China Sea (Biển Đông - BT)”, Journal of Petroleum Science and Engineering, No. 88– 89/2016, pp.41–47. 33 Biển Đông, nhất là vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thực tiễn tranh chấp quốc tế cũng cho thấy, vùng biển nào giàu tài nguyên thì việc phân định ranh giới chủ quyền thường khó khăn và phức tạp hơn. 2.3. Thiên tai và nhân tai ở Biển Đông Bên cạnh tiềm năng to lớn, Biển Đông cũng chịu nhiều thách thức, sức ép cả từ thiên nhiên (thiên tai) và con người (nhân tai). Hằng năm, Biển Đông phải gánh chịu tác động của nhiều cơn bão với tần suất xuất hiện ngày càng nhiều, mức độ công phá ngày càng khốc liệt. Đây còn là vùng biển luôn xảy ra sự cố tràn dầu và dầu tràn (chủ yếu là loại dầu vón) không rõ nguồn gốc. Đặc biệt, trong các năm 2014-2016, Trung Quốc đã tôn tạo, mở rộng 7 bãi cạn rạn san hô ở vùng biển Trường Sa của Việt Nam để xây dựng các đảo nhân tạo khiến cho môi trường Biển Đông bị hủy hoại nghiêm trọng. Với việc xây dựng các kết cấu hạ tầng quân sự trên 7 đảo nhân tạo này ở quần đảo Trường Sa và một số đảo ở Hoàng Sa, Trung Quốc đã “quân sự hóa” Biển Đông, kéo theo xu thế “quốc tế hóa” với sự can dự sâu của Mỹ và đồng minh1. Biển Đông luôn là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng truyền thống của các nước lớn trong lịch ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Dự báo tình hình an ninh Biển Đông năm 2017”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược (Bộ Công an), số 2/2017, tr.74-76. 34 sử, các cường quyền chính trị trên thế giới và các nước trong khu vực. Trong số 10 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc khu vực Biển Đông thì 9 quốc gia có yêu sách về chủ quyền biển, đảo dẫn đến các tranh chấp đa phương và song phương, tạo ra những mâu thuẫn cả về đối ngoại, cả về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Các dạng tranh chấp cụ thể cũng khác nhau: tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán (tức là tranh chấp về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); tranh chấp về tài nguyên biển; tranh chấp đảo, bãi cạn và tranh chấp vùng trời trên biển (vùng thông báo bay - FIR). Những tranh chấp như vậy ở Biển Đông kéo dài, phức tạp và nhiều bên nhất trong lịch sử tranh chấp trên thế giới. Đặc biệt, sau 3 năm xem xét, ngày 12/7/2016 Tòa Trọng tài Quốc tế Hague (Tòa Trọng tài) đã ra phán quyết về vụ kiện Trung Quốc của Philippines, trong đó đã phán quyết Trung Quốc không có quyền lịch sử đối với “đường chín đoạn” và quyền khai thác tài nguyên trong phạm vi “đường chín đoạn” ở Biển Đông; đồng thời cho rằng Trung Quốc đã hủy hoại vĩnh viễn môi trường Biển Đông liên quan đến hoạt động tôn tạo mở rộng các bãi cạn để làm đảo nhân tạo ở quần thể đảo Trường Sa1. Tuy nhiên, Trung Quốc đã tuyên bố ___________ 1. Xem Trần Công Trục (Chủ biên) và Nnk: Phán quyết vụ Philippines kiện Trung Quốc về Biển Đông, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2016. 35 không tham gia vụ kiện, không thừa nhận và không thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài bất chấp dư luận và công lý thế giới. Điều này làm gia tăng các bất ổn về chính trị, bất an trong sản xuất trên biển, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế, an ninh trật tự và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển của các bên liên quan, trong đó có Việt Nam1. Như trên đã đề cập, các quốc gia đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đứng đầu thế giới đều tập trung ở khu vực Biển Đông, như: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines; trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5-2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7-8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới2. Hơn 1,72 triệu tàu thuyền đánh cá, trong quá trình khai thác, bên cạnh lợi ích kinh tế, đã để lại các hậu quả về môi trường và tài nguyên lâu dài. Trước hết là hiện tượng đánh bắt cá quá mức (overfishing) làm sụt giảm nguồn lợi thủy sản nhanh chóng. Các loài cá trong Biển Đông đã bị tổn thất nghiêm trọng: năm 2008 các loài cá đánh ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Phán quyết về môi trường Biển Đông trong vụ Philippines kiện Trung Quốc”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 11/2016, ISSN 1859-4794, tr.61-65. 2. Xem Trần Bông: “Biển Đông: Địa chiến lược và Tiềm năng kinh tế”, Tlđd. 36 bắt chiếm khoảng 25% thì 50% bị đánh bắt quá mức, nhưng tình hình hiện nay còn trở nên nghiêm trọng hơn nhiều do quy mô của các đội tàu cá quá lớn càn quét phần lớn Biển Đông, đặc biệt ở các ngư trường ngoài khơi giàu tiềm năng1. Ngư dân còn dùng các thiết bị nổ hoặc hóa chất độc để đánh cá nên thường bị các quốc gia liên quan bắt giữ. Chỉ một vụ nổ “bom chai” có thể giết chết san hô trong vòng bán kính 0,5-1,5 m nhưng để phục hồi san hô trong trường hợp này thì mất khoảng 5-10 năm2. Trong thực tế chưa có cách nào bảo đảm chắc chắn ngư dân không tái phạm, ví dụ: 9 ngư dân Trung Quốc được Philippines thả đã lại bị bắt giữ tại bãi Trăng Khuyết (Half Moon shoal) do đánh bắt 555 con rùa biển3. Trữ lượng một số loài cá kinh tế như cá ngừ, cá thu ___________ 1. Xem Nguyễn Ngọc Trường: Trung Quốc “càn quét” chưa từng có, Biển Đông sắp cạn kiệt cá, VTC News ngày 30/8/2016. http://www.vtc.vn/trung-quoc-huy-hoai-bien dong-khong-thuong-tiec-nghe-ca-truoc-nguy-co-sup-do d273742.html 2. Xem J. Akamine: Who is to be Blamed? Socio Cultural Notes on Blast Fishing in the Spratly Islands, In Proceedings of the 10th International Coral Reef Symposium (Okinawa, International Society for Reef Studies, 2006), pp. 1427-1433. http://www.reefbase.org/ resource_center/publication/icrs.aspx; accessed 18 August, 2015 by John MacManus. 3. Xem E.D. Gomez: Destroyed reefs, vanishing giant clams, Philippine Daily Inquirer, 2015. http://opinion.inquirer. net/84595/ destroyed- reefs-vanishing-giant-clams. 37 và cá mập, đã giảm hơn 50% từ năm 1960 đến năm 2000. Điều này chứng tỏ hiệu quả lớn của các khu bảo tồn biển trong khu vực này, nhưng đang thiếu một mạng lưới khu bảo tồn biển như vậy chung cho toàn khu vực Biển Đông1. Các quốc gia trong khu vực tập trung thiết lập hệ thống khu bảo tồn biển ở vùng ven bờ nhưng quản lý chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, việc Philippines bắt giữ thường xuyên các ngư dân từ Trung Quốc và Việt Nam đến đánh bắt trái phép (IUU) các loài hải sản được bảo vệ như rùa biển, trai tai tượng và việc Trung Quốc gây cản trở ngư dân Philippines và Việt Nam đánh bắt cá ở Biển Đông tiếp tục khiến cho tình hình trên biển thêm căng thẳng. Tình trạng này có lẽ chỉ giải quyết được khi các bên tôn trọng các quy định pháp lý đối với một vùng biển còn đang tranh chấp và từ bỏ tuyên bố đơn phương, thảo luận các cam kết phối hợp quản lý và đối xử nhân đạo với ngư dân. Cùng với sự nhộn nhịp của các hoạt động hàng hải, nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông cũng ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Biển Đông được xem là một trong ba địa ___________ 1. Xem John W. McManus: Offshore Coral Reef Damage, Overfishing, and Paths to Peace in the South China Sea (Biển Đông - BT), Ibid, p.67. 38 bàn cướp biển nổi tiếng của thế giới: cướp biển Caribe, cướp biển Somalia (biển Arab) và cướp biển trên Biển Đông. Hình thức và động cơ “cướp biển” trên Biển Đông hết sức phức tạp, không chỉ vì động cơ kinh tế thông thường, có thể xen lẫn động cơ chính trị. Xu hướng gia tăng các vụ cướp biển sẽ cản trở các hoạt động kinh tế trên biển của các quốc gia trong khu vực và hoạt động hàng hải quốc tế qua khu vực biển này. Eo biển Malacca đã xảy ra nhiều vụ cướp biển hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới với 41% số vụ xảy ra tại Đông Nam Á từ năm 1995 đến năm 2013, khiến 136 thủy thủ thiệt mạng, gấp đôi so với khu vực biển Somalia1. Không ít tàu của Việt Nam đã từng bị cướp biển tấn công ở khu vực eo biển Malacca. Ví dụ: tàu Sunrise 689 bị tấn công vào tháng 10 năm 2014 khi đang chở 5.226 tấn dầu từ Singapore về cảng Cửa Việt. Chỉ 2 tháng sau, tàu VP ASPHALT-2 chở nhựa đường cũng từ Singapore về Việt Nam lại bị cướp biển tấn công. Mới đây, theo Cục Hàng hải Việt Nam, đã xảy ra khoảng 6 vụ cướp biển có vũ trang tấn công và bắt cóc ___________ 1. Xem Trần Đức Thạnh: “Tiềm năng của biển đối với phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu”, Dự thảo “Tài liệu tập huấn về biển, đảo”, lưu tại Cục Thông tin cơ sở, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2016. 39 thuyền, tàu lai dắt trong vùng biển Đông Sabah và Nam Philippines trong khoảng thời gian từ cuối tháng 3 năm 2016 đến tháng 2 năm 2017. Cục Hàng hải Quốc tế (IMB) cũng cho biết, hoạt động cướp biển có xu hướng giảm trên phạm vi quốc tế, song gia tăng tại khu vực Đông Nam Á. Cướp biển chủ yếu nhằm vào các tàu chở dầu quốc tế khi đi qua Biển Đông. Trong bối cảnh của một thế giới chuyển đổi và một Biển Đông như đã đề cập ở trên đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi tư duy chiến lược, cách tiếp cận và đổi mới công nghệ để giải quyết những thách thức và khó khăn, hướng đến một nền kinh tế biển xanh và bền vững. Đồng thời tăng cường, mở rộng liên kết quốc tế, liên kết vùng và gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh, quốc phòng và bảo vệ các quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông1; góp phần thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Kinh tế biển Việt Nam nhìn từ góc độ tài nguyên và môi trường”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5/2013, tr.30-41. 40 II TIỀM NĂNG, LỢI THẾ CỦA BIỂN, ĐẢO VÀ VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM 1. Định vị một Việt Nam biển Phù hợp với các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 và căn cứ vào các Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 1977, Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam năm 1982; Luật Biên giới quốc gia năm 2003 và Luật Biển Việt Nam năm 2012 có thể xác định: Biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông, rộng gấp hơn 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền, tương ứng 29% diện tích toàn Biển Đông, bao gồm: các vùng biển nằm trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và lòng đất dưới thềm lục địa, có nơi kéo dài ra ngoài 200 hải lý nhưng không vượt quá 350 hải lý, hai quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa và Trường Sa, và vùng trời trên vùng nội thủy và lãnh hải1. ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên) và Vũ Hải Đăng: An ninh môi trường và hòa bình ở Biển Đông, Sđd. 41 Việt Nam là một quốc gia biển với sự phân hóa lãnh thổ theo tỷ lệ một phần đất có ba phần biển, và một trăm kilômét vuông lãnh thổ đất liền có một kilômét chiều dài đường bờ biển, tức là chỉ số biển - hàng hải (Maritime Index) là 0,01, gấp 6 lần chỉ số trung bình toàn cầu. Nằm trải dài ven bờ tây Biển Đông theo hướng Á kinh tuyến, phần lãnh thổ đất liền Việt Nam có lợi thế “mặt tiền” hướng biển, hướng ra “ngã ba đường” của thế giới nói trên và biển đã thực sự gắn bó với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân các dân tộc Việt Nam từ bao đời. Phần lục địa nước ta không có nơi nào cách xa biển quá 500 km, nơi thắt hẹp nhất ở Quảng Bình, tính từ bờ biển tới biên giới Việt - Lào chỉ gần 50 km, nên yếu tố biển (tự nhiên và phát triển) đều có thể ảnh hưởng sâu vào không gian kinh tế nội địa, đến mọi miền đất nước. Thế đứng tự nhiên và lịch sử như vậy đã tạo cho nước ta ngày nay có một vị thế địa chính trị, địa kinh tế và địa văn hóa cực kỳ quan trọng trong hình thế chiến lược phát triển không chỉ trong khu vực Biển Đông, mà còn trên bình diện toàn cầu. Biển và hải đảo là không gian sinh tồn và phát triển của các dân tộc Việt Nam, tạo ra thế và lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Biển nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên, có cảnh quan biển, đảo và vùng ven biển đẹp, kể cả cảnh quan ngầm 42 dưới đáy biển của các rạn san hô, là nơi nương tựa của hàng chục triệu người dân đất Việt, là địa bàn chiến lược trong bảo vệ và phát triển đất nước, là phần Tổ quốc thiêng liêng không tách rời của đất nước ta. Quá trình toàn cầu hóa càng được đẩy mạnh, Đông Á càng bùng nổ phát triển thì vị thế đó của Việt Nam càng được củng cố và nâng cao. Vì vậy, tiến ra biển là xu thế tất yếu của dân tộc ta để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm,... cho tương lai. Đó là một hướng đi đúng, một cách nhìn xa, trông rộng và trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục thực hiện quyết tâm chính trị, tính nhất quán về chủ trương và kỷ cương trong hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, của cả dân tộc để biến lợi thế của biển thành lợi ích của đất nước. Dựa vào lợi thế của biển, đảo và vùng ven biển, các thế hệ người dân Việt Nam và các triều đại Nhà nước Việt Nam đã thực thi liên tục chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển và hai quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc gia và phù hợp với luật pháp quốc tế (Công ước Luật biển năm 1982). Từ sau khi đất nước giành được độc lập và non sông thống nhất về một dải, Đảng và Nhà nước ta đã liên tục ban hành các chính sách, chiến lược kinh tế mở và tạo các đột phá thành công cho nền kinh tế đất nước, trong đó có kinh tế biển. 43 Có thể nói, các vấn đề biển của nước ta vừa chứa đựng yếu tố quốc gia, vừa chứa đựng yếu tố quốc tế. Do đó, chính sách biển nước ta một mặt phải có tác động điều chỉnh hành vi phát triển của các ngành kinh tế biển, tạo ra một trật tự pháp lý ổn định trên biển Việt Nam với sự góp sức của người dân, mặt khác phải có khả năng hội nhập quốc tế, phù hợp với tinh thần của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển năm 1982. Trong quá trình phát triển chú trọng cả yếu tố truyền thống và hiện đại, phát huy bản sắc văn hóa biển của dân tộc, bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, chú trọng phát triển các nghề biển xa và từng bước chuẩn bị điều kiện để vươn khơi, vươn ra đại dương. Trong bối cảnh thế giới tiến ra biển và đại dương ở thế kỷ XXI với các chiến lược biển quốc gia đầy tham vọng, và trong xu thế thế giới đang “lấy đại dương nuôi đất liền” như đã đề cập ở trên thì việc nhận diện đúng đắn một “Việt Nam biển” và vị trí trọng yếu của nó đối với chiến lược phát triển đất nước cũng chính là một cách nhìn mới và đầy đủ về “chân dung kinh tế” nước ta. Biển là không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam và phải trở thành yếu tố trọng yếu, không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế và trong việc lựa chọn con đường đi tới của dân tộc ta. Trong lịch sử chống ngoại xâm, đã không ít hơn 15 lần quân xâm lược tấn công nước ta từ phía biển. Vì vậy, 44 bảo vệ vững chắc các quyền và lợi ích biển của Việt Nam trên Biển Đông là bảo vệ một phần “máu thịt” thiêng liêng của Tổ quốc. Đương thời, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đánh giá vai trò và tầm quan trọng của biển đối với sự tồn vong của dân tộc qua câu thơ: Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ/Đất Việt trăm năm vững trị bình (tức là, cả dân tộc chung tay giữ được Biển Đông thì nước Việt Nam ta yên bình mãi mãi). Nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển, ngày 6 tháng 5 năm 1993, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt và đã chỉ rõ: “Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển”1. Quan điểm kinh tế - chính trị như vậy tiếp tục được cụ thể hóa trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng. Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006- 2010) đã chỉ rõ: “Phát triển mạnh kinh tế biển ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.52, tr.574. 45 vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế”1. Ngày 9 tháng 02 năm 2007, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 09/2007/NQ-TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết đã đưa ra 3 quan điểm chỉ đạo làm cơ sở xác định mục tiêu tổng quát: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”2. Phát triển kinh tế phải dựa trên thế mạnh, tính đặc thù và việc phát huy lợi thế của biển nước ta trong bối cảnh cụ thể của khu vực Biển Đông, cũng như việc bảo đảm lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế về biển. Quan điểm này đã được cụ thể hóa trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội ___________ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.225. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.76. 46 đại biểu toàn quốc lần thứ XI: tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo; tăng cường năng lực quản lý vùng biển chủ quyền và thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong phạm vi các vùng biển, đảo quốc gia,... phù hợp với quy định của luật pháp quốc gia và Công ước Luật biển năm 1982. Trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế, kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và thực trạng biển Việt Nam, ngày 22 tháng 10 năm 2018 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030). Nghị quyết đã bổ sung vào mục tiêu chung là không chỉ “Phấn đấu trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển”, mà còn phải dựa vào biển và hướng ra biển (xem kỹ ở phần sau). 2. Lợi thế, tiềm năng của vùng ven biển Về mặt địa lý, khác với trên đất liền, không gian kinh tế biển nước ta rộng mở, khá đa dạng, có tính liên kết và luôn tương hỗ nhau cả về mặt tự nhiên và phát triển. Từ góc nhìn như vậy có thể thấy tiềm năng phát triển kinh tế biển nước ta còn rất lớn, tập trung vào các mảng không gian (vùng biển) chính: (i) Không gian vùng ven biển (duyên hải), (ii) Không gian biển, 47 (iii) Không gian đảo1. Đối với mục tiêu kinh tế biển, cả ba mảng không gian này đều rất quan trọng vì chúng có tiềm năng, lợi thế và tạo tiền đề khác nhau cho phát triển bền vững kinh tế biển đất nước trong thời gian tới. Vùng ven biển là không gian chuyển tiếp giữa lục địa và biển, nơi gặp gỡ giữa sông và biển, nên luôn chịu tác động tương tác qua lại giữa các quá trình lục địa (sông) và biển (sóng, dòng chảy và thủy triều). Đây là mặt tiền hướng biển của đất nước, vừa có lợi thế trong phát triển kinh tế vừa là tuyến phòng thủ tầm chiến lược. Năng lực nội sinh và nhu cầu nội vùng của dải ven biển nước ta rất đáng kể: tập trung đa dạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hệ thống tài nguyên và hệ sinh thái quan trọng bậc nhất, tạo tiền đề cho phát triển đa ngành, đa mục tiêu (multi-use). Khoảng hơn 50% dân số cả nước (dân số cả nước khoảng 96 triệu người) sống ở 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển và khoảng 30% (tính cho 125 huyện ven biển, trong đó có 12 huyện đảo); khoảng 50% các đô thị lớn với kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và khoảng 300 khu công nghiệp, khu kinh tế và khu chế xuất lớn ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên), Nguyễn Thị Ngọc Hoàn và Nnk: Quy hoạch không gian biển và vùng bờ biển: Sách tham khảo cho Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 2013. 48 đang được đầu tư phát triển mạnh, trong đó có ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia. Vùng ven biển có dân cư tập trung khá đông đúc, nguồn lao động khá dồi dào với khoảng trên 25 triệu dân sống ở các huyện ven biển và huyện đảo, bằng khoảng gần 30% dân số cả nước, trong đó có khoảng 13 triệu lao động. Số dân này cư trú tại 151 quận, huyện, thị xã, thành phố và 2.390 xã của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển, đảo (bao gồm các huyện đảo và xã đảo) trong cả nước, tạo nên những cộng đồng dân cư ven biển gắn bó với nhau và bám biển sinh kế. Dự báo đến năm 2020, dân số vùng này khoảng 30 triệu người với 19 triệu lao động1. Một dải đất hẹp với bờ biển dài hơn 3.260 km, khúc khuỷu, có nhiều eo vụng với hơn 100 bãi cát biển (trong đó có 21 bãi biển đạt tiêu chuẩn quốc tế) và 114 cửa sông đổ ra biển đã tạo cho nước ta có các cảnh quan ven biển đẹp, tiền đề cho phát triển du lịch biển đảo và hệ thống cảng biển. Đặc biệt là các cảng “cửa ngõ quốc tế” thông thương với thế giới bên ngoài, như: các cảng lớn Lạch Huyện (Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Chân Mây (Thừa Thiên Huế), Đà Nẵng (Đà Nẵng), Dung Quất (Quảng Ngãi), ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và ven biển”, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn phòng Trung ương Đảng, số 6/2011. 49 Vân Phong và Cam Ranh (Khánh Hòa), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu) , v.v.. Với các lợi thế như vậy, vùng ven biển được Đảng và Nhà nước ta xác định là vùng kinh tế động lực, có khả năng phát triển nhiều ngành, nghề khác nhau, cho nên đầu tư vào vùng này đúng hướng và hiệu quả sẽ tạo đột phá và làm trụ đỡ cho phát triển kinh tế biển, kinh tế đảo trong bối cảnh phức tạp, khó lường ở Biển Đông. Điều này tạo tiền đề cho việc hoạch định một chiến lược kinh tế biển tầm cỡ gắn với một nền quốc phòng và an ninh trên biển vững chắc, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Vùng ven biển còn là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động ở các vùng biển xa bờ. Do đó, đánh thức tiềm năng vùng ven biển và xây dựng chuỗi đô thị ven biển hiện đại gắn với cảng biển nước sâu sẽ tạo ra các “cực tăng trưởng” có bán kính ảnh hưởng rất lớn đối với các vùng lãnh thổ sâu trong đất liền, tạo khả năng kết nối với không gian kinh tế biển và kinh tế đảo bên ngoài. Rộng hơn, nhiều khu vực của vùng ven biển nước ta có thể kết nối với vùng lãnh thổ tây nam Trung Quốc, Lào, đông bắc Thái Lan và Campuchia thông qua phát triển hệ thống cảng biển, đường sắt và đường bộ hiện đại. Đặc biệt, có khả năng “đối trọng” với các cực phát triển lớn của các quốc gia trong khu vực Biển Đông, trong đó có Sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI với “chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc đi qua vùng biển nước ta. 50 Ngoài ra, nét đặc trưng của vùng ven biển này còn là sự có mặt của dải đồng bằng cát ven biển trải dài suốt từ Thanh Hóa tới Bình Thuận1. Ven biển của các đồng bằng cát là các vũng, vịnh (bay) với các cung bờ cát được ngăn cách bởi các mũi nhô đá gốc và các cửa sông dạng “cúc áo”2. Dọc ven biển miền Trung, hơn 500 km bờ biển từ Quảng Bình trở vào phía nam chịu tác động mạnh của gió biển, nên đã hình thành một dãy cồn, đụn cát cao đôi khi đến 30 m. Đây là kiểu cảnh quan độc đáo của vùng ven biển nước ta và thuộc loại độc nhất vô nhị trong khu vực Đông Á. Các cồn cát đỏ ở ven biển Ninh Thuận và Bình Thuận cao khoảng 15-20 m, kết thành các hệ thống cồn hình “cánh gà” vuông góc với hướng gió thổi từ biển vào3. Đi kèm với các cồn cát này thường là các mỏ sa khoáng của các nguyên tố hiếm titan-zircon phân bố ở chân cồn cát (như mỏ sa khoáng trữ lượng lớn ở hệ cồn cát đỏ Ninh Thuận - Bình Thuận), cát thủy tinh (Cam Ranh, Ba Đồn,...) và vật liệu xây dựng phân bố rộng. Các giá trị cảnh quan và tiềm năng phát triển vùng cát này là rất lớn, thậm chí có thể dùng làm “con đê cát tự ___________ 1. Xem Phan Liêu: Đất cát ven biển Việt Nam, Nxb. Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội, 1981. 2. Xem Lê Đức An: Hệ thống đảo ven bờ Việt Nam: Tài nguyên và phát triển, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2008. 3. Xem Phan Liêu: Đất cát ven biển Việt Nam, Sđd. 51 nhiên” ngăn nước biển dâng trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nhưng trong suốt thời gian dài các nhà quản lý và nhà đầu tư đã “định kiến” khi từng nhìn nhận chúng như là một “yếu thế” của vùng này. Vùng nước lợ ven biển có diện tích hẹp, nhưng cực kỳ quan trọng đối với phát triển “quỹ đất dự phòng quốc gia” và thuỷ sản bền vững. Đây là vùng đất thấp ven biển phân bố ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, là nơi cư trú tự nhiên, nơi sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thuỷ sản không chỉ ở ngay vùng ven biển mà còn từ ngoài biển vào theo mùa (khoảng 90% các loài thuỷ sản sống ở vùng biển thềm lục địa và biển xa có tập tính gắn bó với vùng nước cửa sông, ven bờ). Các hệ sinh thái ven biển quan trọng như: thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, bãi cát biển, bãi triều bùn,... tập trung ở vùng này có năng suất sinh học và tính đa dạng sinh học cao, là ngôi nhà chung của nhiều loài thủy sản và là các bãi giống tự nhiên phục vụ nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Rừng ngập mặn còn lại khoảng 252.500 ha, tập trung ở ven biển đồng bằng sông Cửu Long (191.800 ha). Sống dưới tán thảm thực vật ngập mặn nước ta có khoảng 1.600 loài sinh vật, trong đó có nhiều thuỷ đặc sản chỉ sống gắn bó với môi trường rừng này. Đặc biệt, các hệ sinh thái ven biển có tính liên kết (connectivity) mật thiết với nhau và với các hệ sinh thái biển bên ngoài để hình thành những 52 chuỗi “dây xích sinh thái” quan trọng đối với toàn vùng biển, mà một trong các mắt xích bị tác động sẽ ảnh hưởng đến các mắt xích còn lại. Ngoài ra, các hệ sinh thái ven biển còn là “kết cấu hạ tầng tự nhiên” một giải pháp phi công trình để cản phá các tác động của hiểm họa thiên tai, kể cả sóng thần và biến đổi khí hậu. Nói cách khác, để mất các hệ sinh thái ven biển như vậy đồng nghĩa với việc làm mất dần nguồn lợi hải sản ở vùng bờ biển và biển bên ngoài. Vì vậy, đầu tư cho các hệ sinh thái ven biển chính là đầu tư cho tương lai đất nước. Vùng ven biển nước ta có các loại đất, phần lớn bị nhiễm mặn và các hệ sinh thái đất ngập nước khác nhau, nhiều vùng đất trũng thấp, dễ bị tổn thương bởi các hoạt động của con người và thiên tai, đặc biệt là nước biển dâng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Đây là một trong những khu vực đặc trưng về đa dạng sinh học, giàu tài nguyên thiên nhiên. Đáng chú ý là tiềm năng các bãi triều lầy (tidal marsh) và bãi bùn triều (mudy tidal flat) thuộc nhóm đất ngập nước triều (tidal wetland) với tổng diện tích khoảng 1.000.000 ha, có chức năng và vai trò sinh thái rất quan trọng và cũng là đối tượng khai thác từ nhiều năm nay của người dân ven biển. Trên bãi triều phía Bắc nước ta có 387 loài sinh vật đáy, 106 loài giáp xác, 174 loài thân mềm sinh sống. Khoảng 90% nguồn giống hải sản có mặt ở vùng triều và chủ yếu ở vùng triều lầy. Khoảng 95% loài thủy sản có giá 53 trị đều sống trên các vùng triều lầy như ngao, ngó, vọp, tôm rảo. Sản lượng khai thác ngao trên vùng triều lầy ở phía Bắc nước ta đạt khoảng 26- 30 nghìn tấn/năm, ở Đông Nam Bộ: sản lượng khai thác ngao là 60 nghìn tấn/năm và sản lượng khai thác sò các loại khoảng 20-30 nghìn tấn/năm. Khoản lợi nhuận thuần có thể thu được từ một số hệ sinh thái ven biển nước ta sơ bộ ước tính khoảng 80 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, chúng còn có giá trị cực kỳ quan trọng, như: điều chỉnh khí hậu và điều hòa dinh dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình sinh địa hóa; là nơi cư trú, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thủy sinh vật không chỉ ở ngay vùng bờ, mà còn từ ngoài khơi và theo mùa, trong đó có nhiều loài hải đặc sản. Các hệ sinh thái cung cấp các giá trị dịch vụ (service value), có tiềm năng to lớn về bảo tồn đa dạng sinh học, nguồn lợi sinh vật biển và nguồn giống hải sản tự nhiên. Vì vậy, chúng là yếu tố duy trì sự phát triển ổn định đối với một số ngành kinh tế biển và một số ngành nghề biển mới dựa vào tài nguyên thiên nhiên (giá trị vật chất và phi vật chất) như ngành thuỷ sản, du lịch, bảo tồn thiên nhiên và nghề cá giải trí, du lịch lặn,... Do đó, bảo tồn biển và phát triển kinh tế biển là hai mặt của một vấn đề trong phát triển bền vững biển. Ở nước ta, diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở vùng triều khoảng 1.000.000 ha; 54 diện tích trồng lúa, cói và làm muối hiệu quả thấp ở ven biển có thể chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản khoảng gần 500.000 ha. Diện tích có khả năng phát triển thuỷ sản của 12 đầm phá thuộc các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận khoảng 12.000 ha. Ngoài ra, có khả năng đưa 20.000 ha vùng bãi ngang sát biển (bãi cát ven biển) vào nuôi trồng thuỷ sản với điều kiện phải bảo vệ nguồn nước ngầm ngọt khan hiếm ở đây. Thời gian qua, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản nước lợ (chủ yếu tôm sú và tôm chân trắng) ở vùng ven biển đã đóng góp gần 60% tổng sản lượng thuỷ sản toàn quốc, góp phần đáng kể vào thị phần xuất khẩu thủy sản cả nước, cũng như bổ trợ nguồn protein động vật cho người dân. Hơn 20 tỉnh, thành phố trong tổng số 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển của nước ta có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích khoảng 15.000 ha và hơn 80.000 lao động nghề muối. Nghề muối biển Việt Nam sản xuất được bình quân khoảng 1.000.000 tấn muối/năm. Một số đồng muối ở miền Trung Việt Nam được đánh giá là có thể sản xuất muối sạch, muối ngon của thế giới, có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn muối công nghiệp và muối sạch cho nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước. Ngoài ra, ven biển Nam Trung Bộ còn là nơi duy nhất ở nước ta có nguồn lợi yến tự nhiên. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là nước có nguồn năng lượng gió lớn nhất trong vùng 55 Đông Nam Á. Một số công trình về điện gió đã bước đầu triển khai như: Turbine gió ở Bạch Long Vĩ, Dự án điện gió công suất ở bán đảo Phương Mai (Quy Nhơn), Khu điện gió ở Khánh Hòa và ở đảo Phú Quý, v.v.. Đặc biệt, ở xã Vĩnh Trạch Đông, tỉnh Bạc Liêu đã khởi công xây dựng nhà máy điện gió ngày 09 tháng 9 năm 2010. Đây là một trong những dự án điện gió lớn đầu tiên tại Việt Nam, đến tháng 8/2016 những turbine đầu tiên đã đi vào hoạt động. Dự án điện gió tương tự đang được triển khai ở ven biển các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Cà Mau. Với tiềm năng phong phú và đa dạng như vậy, vùng ven biển nước ta tập trung sôi động các hoạt động phát triển của nhiều ngành (đa ngành); tập trung các danh hiệu thế giới về bảo tồn như: các di sản thiên nhiên và văn hóa biển - ven biển (vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn,...), các khu dự trữ sinh quyển ven biển (Cát Bà, ven biển châu thổ sông Hồng, Cần Giờ, Phú Quốc,...), các vịnh đẹp thế giới (Hạ Long, Nha Trang, Lăng Cô,...). Mũi Đại Lãnh (Phú Yên) là điểm lồi xa nhất của lãnh thổ đất liền của Việt Nam và cũng là điểm đất liền duy nhất trong hệ thống đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tiềm năng và thế mạnh nói trên kéo theo nhu cầu liên kết vùng và giảm thiểu mâu thuẫn 56 lợi ích trong phát triển dựa vào hệ sinh thái, kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng khu vực phòng thủ ven biển. Để phát huy lợi thế (thế mạnh) và hạn chế điểm yếu (yếu thế), việc tổ chức lại lãnh thổ ven biển, tập trung vào đa dạng hóa và kết nối các loại hình phát triển theo vùng tự nhiên - sinh thái ven biển khác nhau là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Cần chú trọng phát huy tính trội (lợi thế), tạo ra sự “khác biệt” vùng miền để tránh các “hội chứng” xấu trong quá trình liên kết phát triển. Đặc biệt cần xóa bỏ “định kiến” để tìm giải pháp chuyển “yếu thế” thành “lợi thế”, rồi chuyển lợi thế thành “lợi ích”. 3. Lợi thế, tiềm năng của vùng biển Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982, vùng biển nước ta bao gồm các vùng biển “pháp lý” thuộc chủ quyền (vùng nội thủy và lãnh hải, và vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (vùng biển tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, bao gồm cả lòng đất thềm lục địa). Về góc độ địa lý biển, đó cũng là các mảng không gian biển khơi, vũng vụng ven bờ, vùng biển nông ven bờ (vùng ven bờ),... với các đặc trưng và tiềm năng phát triển rất khác nhau. Vùng biển khơi rộng lớn ở phía ngoài là không gian phát triển các hoạt động vận tải biển (hàng hải), khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đánh bắt 57 hải sản, đồng thời là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập kinh tế biển sôi động, và các hoạt động quốc phòng. Biển là không gian mở của quốc gia để thực hiện giao lưu và hội nhập quốc tế, nhưng đó chỉ là những lợi thế “tĩnh” (lợi thế tự nhiên) và vẫn cần các lợi thế “động” với “độ mở” của các cơ chế, chính sách quốc gia để chủ động “mở cửa” tham gia hội nhập quốc tế trên biển, góp phần xây dựng Biển Đông thành “khu vực biển hoà bình” và để bảo vệ các lợi ích quốc gia trên biển. Trước hết, vùng biển nước ta là môi trường sống của khoảng 12.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó ba vùng biển ven bờ: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Đại Lãnh và Đại Lãnh - Vũng Tàu có mức đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Trong tổng loài sinh vật được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá, trong đó trên 100 loài cá kinh tế; 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Con số trên chắc còn thấp hơn số lượng loài thực tế do mức độ điều tra, khảo sát còn rất hạn chế, chưa được tiến hành định kỳ, đặc biệt đối với các vùng biển sâu. Mặc dù vậy, vẫn có nhóm loài cụ thể bị giảm do có nguy cơ đe dọa rất mạnh. 58 Trong vùng biển nước ta có khoảng 1.122 km2 rạn san hô với khoảng 350 loài san hô đá phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam, nhưng chỉ 20% rạn còn ở tình trạng (mức) tốt và rất tốt. Sống gắn bó với các vùng rạn san hô là trên 2.000 loài sinh vật đáy và cá, trong đó có khoảng trên 400 loài cá rạn san hô và nhiều đặc hải sản. Các thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0 đến 20m, có tổng diện tích khoảng trên 5.583 ha, tập trung ở ven bờ đảo Phú Quốc, Côn Đảo, Trường Sa và một số cửa sông miền Trung. Theo các nghiên cứu cứ 01 m2 thảm cỏ biển sản sinh ra 10 lít ôxy hoà tan/ngày và tổng số loài cư trú trong thảm cỏ biển thường cao hơn vùng biển bên ngoài khoảng 2-8 lần. Vì vậy, đây là những nơi thuận lợi cho quá trình sinh sản, ươm nuôi nguồn giống hải sản và là những bãi hải sản quan trọng ở vùng biển ven bờ. Ngoài ra, bản thân cỏ biển và cây ngập mặn còn cung cấp các nguyên vật liệu và hoá phẩm sử dụng trong đời sống hằng ngày như vật liệu bao gói, thảm đệm, làm phân bón, làm thuốc nhuộm, lie làm mũ, sơn ta,... Bước đầu các nhà khoa học đã phát hiện 125 loài động vật đáy và 158 loài rong biển sống trong và dưới thảm cỏ biển. Trong thảm cỏ biển còn có nhiều loài có giá trị kinh tế cao sinh sống như ngó đen, ngó đỏ, hến, cua, tôm, hải sâm,... 59 Trữ lượng cá biển nước ta khoảng 5,3 triệu tấn với khả năng khai thác bền vững là 2,3 triệu tấn/năm (đó là chưa tính đến trữ lượng tôm biển, mực và các loài sinh vật đáy trong vùng triều). Đến nay đã xác định được 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó có 12 bãi cá phân bố ở vùng biển ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi, cũng như các bãi tôm quan trọng ở vùng biển sát bờ thuộc vịnh Bắc Bộ và biển Tây Nam Bộ. Đặc trưng nổi bật nhất về mặt nguồn lợi hải sản ở vùng biển nước ta là quanh năm đều có cá đẻ, nhưng thường tập trung từ tháng 3 đến tháng 7. Cá biển nước ta thường phân đàn nhưng không lớn: đàn cá nhỏ dưới 5 x 20 m chiếm 84%, đàn cá lớn cỡ 20 x 500 m chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Chính vì thế, nghề cá nước ta là “nghề cá đa loài” và là nghề cá nhỏ gắn bó chặt chẽ với sinh kế của người dân ven biển và trên các đảo ven bờ. Đây cũng là nơi phát triển nghề đánh bắt hải sản với số lượng tàu thuyền khá lớn (khoảng 130.000 chiếc) và hằng ngày có khoảng 10.000 tàu thuyền đánh cá của ngư dân hoạt động trên biển. Vì thế, ngư dân chính là lực lượng không thể thiếu vừa làm kinh tế vừa góp phần bảo vệ an ninh vùng biển của Tổ quốc, góp phần thực hiện “chủ quyền dân sự” của Việt Nam trên Biển Đông. Trong bối cảnh Biển Đông có nhiều thiên tai và nhân tai, ngư dân cần phải ra biển với 4 chữ “Liên”: liên kết ra biển, liên hoàn trên biển, liên thông thông tin khi hoạt động trên biển và liên tục bám biển. 60 Nếu như trên đất liền khả năng canh tác chỉ đạt đến độ sâu khoảng 1,5 m (đối với cây có củ), thì ở dưới biển con người có thể nuôi hải sản trong lồng đến độ sâu hơn 50 m. Nhìn từ góc độ đó thì tiềm năng nuôi hải sản (nuôi biển) ở nước ta còn khá lớn, nhưng đòi hỏi công nghệ cao và suất đầu tư lớn cho nuôi cá biển lồng bè. Bên cạnh đó, cần nắm vững đặc trưng của các “yếu tố đại dương” trong Biển Đông và quy luật ảnh hưởng vào vùng biển thềm lục địa Việt Nam để tận dụng phát triển nghề đánh bắt một số loài đặc hải sản di cư theo mùa vào vùng biển nước ta, như cá ngừ đại dương,... Ngoài ra, còn có thể đưa trên 500.000 ha mặt nước ở vùng biển nông ven bờ vào phát triển nuôi biển. Thời gian qua, hoạt động khai thác hải sản ở các vùng biển ven bờ và thềm lục địa chiếm gần 80% lượng thủy sản khai thác toàn quốc. Vùng biển nước ta có tiềm năng bảo tồn cao và đến nay đã xác định sơ bộ 9 cụm biển - đảo cần được ưu tiên bảo tồn với 16 khu bảo tồn biển đầu tiên được thiết lập. Hệ thống 16 khu bảo tồn biển quốc gia chiếm khoảng 0,3% diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế; bảo tồn khoảng 70.000 ha rạn san hô, 20.000 ha cỏ biển, một phần rừng ngập mặn, phần lớn các bãi giống, bãi đẻ của các loài sống ở vùng biển ven bờ và khoảng 100 loài quý hiếm sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt trong hệ thống 61 khu bảo tồn biển này1. Ngoài ra, nhiều di sản thiên nhiên và văn hóa có giá trị toàn cầu và quốc gia đều phân bố ở vùng biển nông ven bờ và vùng nội thủy, đôi khi kết nối với các khu di sản ven biển, như Khu dự trữ sinh quyển quốc tế Cù Lao Chàm - Hội An,...; các vùng biển quan trọng về Sinh học và Sinh thái học (EBSA) thuộc quần thể đảo đá vôi Hạ Long - Cát Bà theo quy định của Công ước Đa dạng sinh học (CBD); các vùng biển đặc biệt nhạy cảm về môi trường (PSSA) theo quy định của Công ước MARPOL do Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) điều phối. Theo Công ước Luật biển năm 1982, thềm lục địa pháp lý của nước ta kéo ra đến 200 hải lý và 2 khu vực thềm lục địa mở rộng ra ngoài 200 hải lý2. Như trên đã đề cập, khu vực biển nông thuộc thềm lục địa tự nhiên (sâu nhất đến 200 m) phân bố ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan thuộc Việt Nam, vùng biển trước châu thổ sông Cửu Long và thắt hẹp lại ở miền Trung nước ta. Độ dốc thềm lục địa miền Trung lớn, có nơi cách bờ chưa tới 3 hải lý đã có độ sâu 50 m, cách bờ trung bình 20 ___________ 1. Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020. 2. Tháng 3 năm 2009, Việt Nam trình hồ sơ ra Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc xin mở rộng thềm lục địa ra không quá 200 hải lý ở 2 khu vực biển. 62 hải lý có độ sâu khoảng 100 m và cách bờ trung bình 30 hải lý có độ sâu là 200 m. Dòng chảy mạnh từ eo biển Đài Loan ngang qua Hoàng Sa (vận tốc 1 hải lý/giờ), xuống ngang bờ Trung Bộ Việt Nam tăng tốc, tối đa lên đến 3-4 hải lý/giờ1. Do ảnh hưởng của địa hình như vậy, các dòng chảy biển khơi Biển Đông đã “bị ép” vào gần bờ nên có nhiều loài cá nổi lớn vào theo, như: cá ngừ sọc dưa, ngừ bò, ngừ chấm, ngừ vằn, cá cờ, nhám, nục đỏ đuôi, v.v., mà trong môi trường sinh thái biển ven bờ ở nước ta không thể có. Điều kiện môi trường tự nhiên biển khơi tiếp cận trực tiếp gần bờ như vậy rất thuận lợi cho phát triển nghề khai thác hải sản biển xa của các tỉnh Nam Trung Bộ, như cá ngừ đại dương2. Ngoài tài nguyên sinh vật, biển nước ta cũng như phần đáy và lòng đất dưới đáy biển tiềm chứa một nguồn tài nguyên khoáng sản to lớn. Đến nay, trong vùng biển Việt Nam đã biết khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý, khoáng sản lỏng. Dựa trên kết quả ___________ 1. Xem Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa - Trường Sa, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.120. 2. Xem Tổng cục Thủy sản: Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2018; Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch năm 2019, Báo cáo lưu trữ tại Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Hà Nội, 2018. 63 nghiên cứu địa chất - địa vật lý đã xác định được 7 bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu khí ở thềm lục địa nước ta. Đó là bồn trũng sông Hồng, bồn trũng Phú Khánh, bồn Cửu Long, bồn Nam Côn Sơn, bồn Mã Lai - Thổ Chu, bồn Tư Chính - Vũng Mây và nhóm bồn Trường Sa - Hoàng Sa. Các mỏ dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác từ lòng đất dưới đáy biển khu vực thềm lục địa phía Nam, nơi có độ sâu 50 - 200 m nước và trong tầng cấu trúc sâu từ hơn 1.000 m đến hơn 5.000 m. Một số mỏ ở bồn trũng Cửu Long (được xem là bồn có chất lượng tốt nhất) như mỏ Bạch Hổ và mỏ Đại Hùng ở bồn trũng Nam Côn Sơn là những mỏ có chứa dầu cả ở tầng đá móng. Mỏ Bạch Hổ cũng được xem là trường hợp ngoại lệ của một mỏ lớn nhất thế giới chứa dầu trong tầng đá móng (chứa khoảng 80% dầu di chuyển từ nơi khác đến trong hệ thống khe nứt đá móng). Nguồn dầu khí đã thăm dò, khảo sát của Việt Nam có trữ lượng tiềm năng khoảng trên 4 tỷ m3 dầu quy đổi và gần đây đã phát hiện một số mỏ mới cho phép gia tăng trữ lượng dầu khí của Việt Nam. Trong 5 năm 2006-2010 có 12 phát hiện dầu khí mới, gia tăng trữ lượng dầu khí đạt 333 triệu tấn quy dầu, riêng năm 2010 có 7 phát hiện dầu khí mới, gia tăng trữ lượng đạt 43 triệu tấn quy dầu. Dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam được chia thành 170 lô và cũng còn có những vùng chồng lấn với các nước láng giềng. Trong vùng chồng lấn vịnh Bắc Bộ có khoảng 4 lô, ở phía đông nam tranh chấp với 64 Indonesia khoảng 13 lô và 16 lô trong vùng chồng lấn với Thái Lan và Malaysia, khu vực Hoàng Sa rộng khoảng 16.000 km2 với 30 lô. Vùng quần đảo Trường Sa rộng 160.000 km2, trong đó có 16 lô nằm trong vùng tranh chấp giữa 5 nước và vùng lãnh thổ: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Philippines. Hoạt động khai thác dầu khí được duy trì tại 6 mỏ ở thềm lục địa phía nam: Bạch Hổ, Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc và PM3 (Bunga Kekwa). Sản lượng dầu thô khai thác ở nước ta tăng hằng năm 30% và tổng sản lượng khai thác hằng năm tăng nhanh. Mức tăng trưởng như vậy đã đưa ngành dầu khí trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và là một trong những ngành luôn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu. Tính đến ngày 31/12/2017, tại thềm lục địa Việt Nam đã xác định được gần 119 phát hiện dầu khí (57 mỏ phát hiện dầu, 62 mỏ phát hiện khí) với tổng trữ lượng có thể thu hồi vào khoảng trên 9 tỷ thùng dầu quy đổi, trong đó có trên 30 mỏ/phát hiện dầu khí đã được đưa vào khai thác với tổng sản lượng chiếm gần 40% tổng trữ lượng đã phát hiện có thể thu hồi toàn thềm lục địa Việt Nam. Hết năm 2017, tổng sản lượng dầu thô/condensate khai thác cả nước đạt trên 383 triệu tấn, trong đó đóng góp lớn vào tổng sản lượng này phải kể đến là các mỏ Bạch Hổ, Ruby, Sư Tử Đen, Rạng Đông. Tổng sản lượng khí được khai thác hằng năm hầu như liên tục tăng, mấy năm gần đây đều đạt trên dưới 10 tỷ m3/năm. Tính đến hết tháng 12/2017, tổng 65 sản lượng khí được khai thác/thu gom từ thềm lục địa Việt Nam đã đạt trên 123 tỷ m3 khí, trong đó các nguồn khí chính phải kể đến là Lan Tây, Lan Đỏ, Bạch Hổ, Rồng Đôi/Rồng Đôi Tây, PM3-CAA. Tổng sản lượng khai thác năm 2018 là 4,25 triệu tấn quy dầu (toàn đề án: 10,17 triệu tấn), đạt 109% kế hoạch năm; trong đó, khai thác dầu/condensate là 3,18 triệu tấn và khai thác khí là 1.068 triệu m3. Tổng doanh thu ước đạt 37,50 nghìn tỷ đồng (đạt 146% kế hoạch năm), tăng 11% so với cùng kỳ năm 2017; lợi nhuận trước thuế ước đạt 12,35 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước ước đạt 10,52 tỷ đồng (164% kế hoạch năm, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2017). Đưa cụm mỏ Bunga Pakma Lô PM3-CAA vào khai thác từ ngày 12/5/2018 (trước kế hoạch đặt ra 19 ngày), tổng lưu lượng khí xuất hiện tại khoảng 160 triệu bộ khối/ngày; tiếp tục thực hiện các hạng mục phát triển với mục tiêu đưa mỏ Cá Tầm lô 09-3/12 vào khai thác trong tháng 01/20191. Cùng với việc khai thác dầu, hằng năm phải đốt bỏ gần 1 tỷ m3 khí đồng hành, bằng với số ___________ 1. Xem Hoàng Thị Phượng, Cao Thị Thu Hằng, Nguyễn Phương Thảo: “Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững ngành dầu khí Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội, 2018; và Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2019 ngành dầu khí. 66 nhiên liệu cung cấp cho một nhà máy điện turbine khí có công suất 300 MW. Để tận dụng nguồn khí này, Chính phủ đã cho xây dựng một Nhà máy điện khí Bà Rịa (nay là Công ty Nhiệt điện Bà Rịa) và đưa vào hoạt động năm 1996. Nhà máy lọc dầu đầu tiên cũng đã được xây dựng và đưa vào hoạt động ở Dung Quất (Quảng Ngãi). Cuối năm 2018 Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) chính thức vận hành thương mại,... Phương hướng cơ bản sắp tới là đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí trên thềm lục địa và vươn ra xa, đi xuống sâu hơn; xác định các cấu trúc có triển vọng và xác minh trữ lượng công nghiệp có khả năng khai thác; tiếp tục đưa các mỏ mới vào khai thác. Vùng biển Việt Nam được chia thành 4 khu vực dự báo để đánh giá tiềm năng băng cháy: quần đảo Hoàng Sa và kế cận, Phú Khánh, Tư Chính - Vũng Mây, quần đảo Trường Sa và kế cận. Năm 2010, Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 796/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hyđrat ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Theo đó, sau giai đoạn nghiên cứu (2007-2015) kết thúc giai đoạn tiếp cận, nghiên cứu công nghệ, đến giai đoạn 2015-2020 bắt đầu đánh giá, thăm dò băng cháy trên những vùng biển và thềm lục địa có triển vọng. Đến nay hơn 60 biểu hiện băng cháy đã được phát hiện. 67 Gần đây, đã phát hiện một số mỏ cát dưới đáy biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng với trữ lượng khoảng trên 100 tỷ tấn. Cát thuỷ tinh nổi tiếng ở mỏ Vân Hải (trữ lượng 7 tỷ tấn), Vĩnh Thực (20.000 tấn) và một dải cát thạch anh ngầm dưới đáy biển Quảng Ninh (gần 9 tỷ tấn). Tiềm năng tài nguyên nước biển của nước ta cũng rất lớn với tư cách là “hóa phẩm tổng hợp” có thể chắt lọc ra phần lớn các nguyên tố có mặt trong Bảng tuần hoàn Mendeleev và để sản xuất nước ngọt. Ở nước ta, nước biển được sử dụng trước hết để sản xuất muối và phát triển diêm nghiệp - một lĩnh vực kinh tế biển khá đặc thù ở Việt Nam với khoảng 60.000 ha ruộng muối biển. Vùng biển Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình. Sự biến đổi hoàn lưu khí quyển theo mùa dẫn đến các hệ thống thời tiết cơ bản lần lượt hình thành và hoạt động: mùa hạ và mùa thu là mùa bão, mùa đông và mùa xuân là thời kỳ gió mùa đông bắc. Chính vì thế, vùng ven bờ và đảo Việt Nam còn tiềm chứa các dạng năng lượng sạch, thay thế của gió (sức gió mạnh và khá ổn định trong năm), của mặt trời. Chế độ sóng của vùng biển này chia thành hai mùa rõ rệt, phù hợp với chế độ gió ở từng khu vực biển1. ___________ 1. Xem Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Biển Đông, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2009, t. I, II, III và IV. 68 Ví dụ: vùng ven bờ từ Đà Nẵng trở vào Bình Thuận là vùng biển mở (open sea) nên sóng mạnh. Trong tháng 1 hướng sóng thịnh hành là Đông Bắc, độ cao trung bình 0,9-1 m, độ cao sóng cực đại đến 4 m. Từ tháng 5 đến tháng 9, hướng sóng thịnh hành là Tây Nam, độ cao sóng trung bình 0,8-1 m, độ cao sóng cực đại đạt 3,5 m. Từ tháng 10 đến tháng 12, hướng sóng thịnh hành là Bắc, Đông Bắc; độ cao sóng trung bình 0,9 m, độ cao sóng cực đại đạt 3,5-4 m. Sóng và dòng chảy ở vùng biển Nam Trung Bộ cung cấp tiềm năng cho phát triển năng lượng biển ở nước ta (ngoài năng lượng gió biển và mặt trời) mà đến nay còn chưa khai thác. Các vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ có tiềm năng năng lượng sóng cao nhất. Một số ý tưởng về khai thác năng lượng sóng biển đã được đề xuất ở nước ta. Tiềm năng năng lượng sóng dọc vùng ven bờ nước ta tương đối phong phú và phụ thuộc trực tiếp vào chế độ gió mùa. Mật độ cao nhất tại vùng biển Phú Quý đạt 40 kW/m. Năng lượng thủy triều ở nước ta ít triển vọng vì biên độ thủy triều thấp dưới khả năng cho phép sản xuất điện thủy triều đại trà (tối thiểu 6 m), cao nhất ở Móng Cái (Quảng Ninh) cũng chỉ ở mức trung bình 5 m. Các tuyến hàng hải quốc tế và khu vực đi qua Biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam. Bên cạnh cơ hội đem lại, các hoạt động hàng hải trong 69 Biển Đông cũng tiềm ẩn gia tăng các sự cố tràn dầu và thải dầu cặn khi đi qua vùng biển này, và dưới ảnh hưởng của gió mùa, dầu tràn không được xử lý tốt sẽ đều tác động vào bờ biển nước ta, gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường sinh thái, cho ngành thủy sản và du lịch, cho sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển. 4. Lợi thế, tiềm năng của hệ thống đảo 4.1. Đặc điểm chung Trong không gian biển nước ta có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có khoảng 2.773 đảo ven bờ phân bố thành các tuyến/cụm đảo và hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Tổng diện tích các đảo nước ta vào khoảng 1.700 km2, trong đó có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km2 (đó là: đảo Phú Quốc ở tỉnh Kiên Giang, đảo Cái Bầu ở tỉnh Quảng Ninh và đảo Cát Bà ở thành phố Hải Phòng), 23 đảo có diện tích lớn hơn 10 km2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng trên 1.400 đảo nhỏ chưa có tên. Các đảo ở nước ta phân bố thành các tuyến và cụm đảo tập trung ở vùng biển ven bờ các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng (khoảng 2.500 đảo lớn nhỏ), hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa là các hệ thống đảo rạn san hô. Các đảo được cấu tạo bởi các thành tạo địa chất tuổi 70 khác nhau, nên hình thù và các đặc trưng về đất, đá cũng rất khác nhau1. Độc đáo nhất là quần thể gần 2.400 đảo đá vôi lớn nhỏ bị karst hóa ở khu vực vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), quần đảo Cát Bà và quần đảo Long Châu (Hải Phòng) chứa đựng các giá trị di sản toàn cầu và quốc gia. Đảo Bạch Long Vĩ là đảo tiền tiêu nằm xa bờ nhất của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ. Vùng biển quanh đảo có nhiều bãi giống, sinh sản và các ngư trường đánh bắt hải sản, các đảo là điểm đến của du lịch biển - đảo nổi tiếng, như: Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Hòn Câu và Phú Quý (Bình Thuận), v.v.. Nhiều đảo có các giá trị “kỳ quan địa chất” như Lý Sơn, Phú Quý, v.v.. Các đảo có hình dạng rất khác nhau, đôi khi kỳ dị, tạo ra các thắng cảnh tuyệt vời, như: Hòn Cỏ, Hòn Gió, v.v.2. Đặc biệt, đảo Chim có nhiều hải âu đen trú ngụ, nên là điểm rất hấp dẫn du lịch. Các cụm đảo - biển ven bờ cũng kết thành những tấm bình phong án ngữ mặt tiền phía đông của nước ta: mỗi hòn đảo là một “viên ngọc xanh” trên nền biển bạc, một “tiền đồn vững chắc”, một ___________ 1. Xem Lê Đức An: Tiềm năng kinh tế - xã hội hệ thống các đảo của Việt Nam, Nxb. Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 2008. 2. Xem Trần Đức Thạnh và Nnk: Biển đảo Việt Nam - Tài nguyên vị thế và những kỳ quan địa chất, sinh thái tiêu biểu, Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2012. 71 “chiến hạm” không thể bị đánh chìm, một “cột mốc chủ quyền” trong bảo vệ an ninh, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc1. Đảo Lý Sơn từng được chọn làm căn cứ hậu cần và xuất phát của Hải đội Hoàng Sa thời nhà Nguyễn, và đảo Phú Quý là điểm trung chuyển lý tưởng cho Trường Sa. Các đảo và mũi nhô là 10 điểm “mốc” trên đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam là: Cồn Cỏ (Quảng Trị), Hòn Hải (thuộc cụm đảo Phú Quý, Bình Thuận), Hòn Đôi (Khánh Hòa), mũi Đại Lãnh (Phú Yên), hòn Ông Căn (Bình Định), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi),... Một số đảo còn là cơ sở và có hiệu lực pháp lý để xác định đường biên giới quốc gia trên biển và vùng chồng lấn với các nước láng giềng2. Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh chân đảo còn quy tụ các hệ sinh thái như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn,..., rất quan trọng đối với nguồn lợi hải sản và bảo tồn thiên nhiên biển, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Các quần đảo rạn san hô ngoài khơi (Hoàng Sa, Trường Sa) là các trung tâm ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: Vị thế, tiềm năng của biển, đảo Việt Nam trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc, trong Tài liệu tuyên truyền biển, đảo (Dành cho cán bộ làm công tác thông tin cơ sở), Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2017, tr.157. 2. Xem Lưu Văn Lợi: Đất, biển, trời Việt Nam, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2012. 72 phát tán dinh dưỡng, nguồn giống thủy sản và đóng vai trò sinh thái quan trọng cho toàn Biển Đông. Trên các đảo có các làng cá, di tích văn hoá và lịch sử thuần Việt phản ánh “văn hoá vạn chài” và “văn minh biển cả”,... hay còn gọi chung là “văn hóa ứng xử biển cả”, góp phần tạo nên các giá trị du lịch biển, đảo mà đến nay chưa được khai thác và phát triển theo đúng nghĩa. Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý, kinh tế, dân cư, có thể chia các đảo, quần đảo ở Việt Nam thành các nhóm1: - Hệ thống đảo tiền tiêu, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh - quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đó là các đảo, quần đảo: Hoàng Sa, Trường Sa (giữa Biển Đông), Chàng Tây (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Thổ Chu, Phú Quốc (Kiên Giang). - Các đảo, quần đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, như: Cát Bà (Hải Phòng), Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v.. ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên) và Vũ Hải Đăng: An ninh môi trường và hòa bình ở Biển Đông, Sđd. 73 - Các đảo ven bờ gần đất liền, có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta, như: các đảo thuộc huyện đảo Cát Bà (Hải Phòng), huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang), v.v.. Nhiều cụm đảo có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế biển - đảo và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động biển xa nói chung và cho các hoạt động khai thác biển cũng như hoạt động du lịch nói riêng. Nhiều khu vực ven biển, đảo nước ta kết hợp tạo ra lợi thế địa lý rất quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng của đất nước từ phía biển. Các hệ thống đảo là nền tảng cho phát triển kinh tế đảo với thế mạnh là bảo tồn thiên nhiên biển, đảo và du lịch sinh thái. Các đảo/cụm đảo có lợi thế địa lý, diện tích lớn, đông dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v. có thể xây dựng thành “chuỗi đô thị đảo” gắn với các khu kinh tế đảo theo hướng liên kết toàn diện và hiện đại. Các đô thị đảo gắn với khu kinh tế đảo như vậy đóng vai trò của những “cực phát triển” và có bán kính ảnh hưởng lan tỏa rộng ra vùng biển xung quanh và là các “tiếp nối” quan trọng giữa chuỗi đô thị ven biển trong không gian kinh tế vùng ven biển với không gian vùng biển phía ngoài trong bình đồ tổ chức không gian biển cho phát triển kinh tế cả nước. 74 Vùng biển - đảo nước ta là môi trường sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài chim nước, chim di cư, các loài động thực vật trên các đảo, và là môi trường sống lý tưởng của con người. Đến nay, trên các đảo đã phát hiện khoảng 1.300 loài động thực vật. Số lượng lớn đảo chỉ có sinh vật sinh sống, và không ít đảo nhỏ hoang sơ, hoang dã có tiềm năng bảo tồn cao và thuận lợi cho phát triển kinh tế sinh thái, kinh tế biển “xanh”. Về mặt hành chính, đến nay ở nước ta có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển. Ngoài ra, có 125 huyện ven biển và 12 huyện đảo1, nhưng chỉ trên 66 đảo có dân sinh sống với tổng số khoảng 250.000 người (dân thường trú) và mật độ dân số trung bình là 100 người/km2 (cả nước 315 người/km2). Mật độ dân số cao nhất ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) với 2.200 người/km2. Hiện nay, Việt Nam có khoảng trên 6 triệu người đang làm việc trong các ngành kinh tế biển, trong đó thuỷ sản có khoảng trên 5 triệu lao động, hàng hải 1 triệu lao động và dầu khí 1,5 vạn lao động, và đặc biệt, một lực lượng ngư dân đông đảo với khoảng 10.000 tàu thuyền hàng ngày hoạt ___________ 1. Đó là các huyện: Vân Đồn, Cô Tô (Quảng Ninh); Cát Hải, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng); Cồn Cỏ (Quảng Trị); Hoàng Sa (Đà Nẵng); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Trường Sa (Khánh Hoà); Phú Quý (Bình Thuận); Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); Kiên Hải, Phú Quốc (Kiên Giang). 75 động rộng khắp trên biển. Khoảng 20 triệu người dân ven biển và trên các đảo có sinh kế trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nguồn lợi biển đem lại1. Tuy nhiên, trình độ dân trí ở nhiều nơi còn thấp, cuộc sống của số đông cư dân, nhất là vùng bãi ngang ven biển còn rất khó khăn và chịu nhiều rủi ro. Đặc biệt, năm 2004 có khoảng 157 xã bãi ngang ven biển đang trong tình trạng nghèo khó, gần 10 năm sau (2013) con số xã nghèo này không những không giảm, mà còn tăng lên gấp 2 lần2. Các đơn vị hành chính và lực lượng cư dân nói trên chiếm vị trí và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển - đảo, thực hiện “chủ quyền dân sự” trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, góp phần giữ vững chủ quyền và an ninh - quốc phòng vùng biển quốc gia. Quốc gia biển phải có công dân biển, do đó các huyện đảo của nước ta được xem là những trung tâm kinh tế - dịch vụ biển xa kết hợp xây dựng đơn vị phòng thủ trên biển, là “cánh tay nối dài” để gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng - an ninh biển, đảo. Với nhận thức như vậy, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi: “Đẩy mạnh công tác dân số vùng biển, đảo và ven biển trong tầm nhìn đến năm 2020”, Tạp chí Cộng sản (online ngày 18/9/2012). 2. Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01 tháng 4 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh sách các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2013-2015. 76 nhấn mạnh đến “cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển”1; “Nâng cao đời sống dân cư vùng ven biển, trên các đảo và những người hoạt động trên biển”2;... “tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho những người dân hoạt động trên biển, đảo”3. Đặc biệt, nhiều trong số huyện đảo nói trên có vị trí pháp lý quan trọng do có 10 điểm trong hệ thống 11 điểm mốc xác định “Đường cơ sở” để tính chiều rộng lãnh hải nước ta. 4.2. Quần đảo Hoàng Sa Quần đảo Hoàng Sa (tiếng Anh: Paracel Islands, chữ Hán: 黄沙 hay 黄沙渚, có nghĩa là cát vàng hay bãi cát vàng) gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô, đá ngầm và bãi cạn được chia thành hai nhóm: nhóm An Vĩnh ở phía đông và nhóm Lưỡi Liềm ở phía tây (Hình 6). Quần đảo Hoàng Sa nằm cách đảo Lý Sơn (Cù lao Ré) của Việt Nam khoảng 120 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý. Tổng diện tích phần đất nổi tự nhiên của quần đảo này khoảng 10 km2, đảo lớn nhất và quan trọng nhất là đảo Phú Lâm có chiều dài 1,7 km, rộng 1,2 km và diện tích đảo khoảng 1,5 km2 4. ___________ 1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr.76, 77, 78. 4. Xem Ủy ban Biên giới Quốc gia: Những vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2017, tr.32. 77 Hình 6: Vị trí quần đảo Hoàng Sa (ảnh trên) và 2 nhóm đảo (ảnh dưới) Nguồn: Wikipedia. 78