"
Chiếc Thang Cao Màu Xanh - Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Thang Cao Màu Xanh - Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Chiếc Thang Cao Màu Xanh —★—
Tác giả: Gong Ji Young
Người dịch: Nghiêm Thu Hương
Nhà xuất bản Phụ Nữ 2018
ebook©vctvegroup
Chương 1
LINH HỒN TÔI NHƯ SÁP ONG
Chúng ta tạm dừng chân nơi mặt đất này để học cách chịu đựng tiếng sét ái tình.
- WILLIAM BLAKE -
1
Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối… Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như đã nguội lạnh và phủ đầy rêu phong.
2
Năm ấy, có ba người đã rời xa tôi. Từ sau năm đó, có những khó khăn đến, có cái chết đến, đôi khi có cả những chia li tưởng chừng không chịu đựng nổi, nhưng không có sự biệt li nào quét qua cuộc đời tôi như lần biệt li ấy. Có lẽ phần lớn câu trả lời cho lí do đó là tuổi trẻ của tôi. Khi đó, tôi là một tu sĩ trẻ trong dòng Thánh Benedicto trước Thánh lễ truyền chức linh mục.
3
Dù là tu sĩ của dòng Thánh Benedicto hay dòng Thánh Francis, hay là thành viên của dòng Carmel, thì để giải thích về đời sống trong tu viện quả thật cũng vẫn là điều khó, ngay cả với những tín đồ Thiên chúa giáo. Nếu được hỏi một cách thông thường thì có thể trả lời rằng: Tu sĩ là những người không lập gia đình, thề giữ gìn trinh tiết, từ bỏ tài sản, và hợp chung lại với nhau thành một cộng đồng. Có ai đó đã định nghĩa tu sĩ “là người rời bỏ thế tục để nghe thấy giọng nói thẳm sâu vốn ẩn giấu và bị lãng quên trong
bản thân mỗi người”. Có một tu sĩ trẻ người Tây Ban Nha đầu thế kỉ 20 thì bảo rằng: “Đó là người dám từ bỏ tất cả chỉ để nhận lấy thứ cao quý nhất”.
Để nói đời người là gì, quả thật với vài định nghĩa trên đây khó có thể cho chúng ta câu trả lời đầy đủ, vì vậy tôi muốn mượn lời của Thomas Merton - một tu sĩ của dòng Trappist khi đó. Thomas Merton gọi những nhà thơ nhiệt huyết như Baudelaire và Rimbaud là những tín đồ Thiên chúa giáo đã được khai sáng. Đó là câu nói không cần một chút đắn đo. Ông cho rằng chỉ với lí do “Nếu có thể nhìn thẳng vào cái chết với tinh thần sẵn sàng đối đầu quyết tử thì có thể chạm được đến vực thẳm ‘Hư không’ ở con người, và có thể nhận ra tính tạm thời, không bền vững ở nhân gian để mà giải phóng những người sống cùng thời đại như Heidegger, Camus, Sartre… đã chối bỏ các tín đồ Thiên chúa giáo”. Tôi tâm đắc với quan điểm này nhất. Việc lấy cuộc đời của một người để giải thích về cuộc đời của một người khác là hợp lí. Vậy có thể lấy gì để so sánh với dòng sông chảy? Năm tháng, thời gian, đời người, hay là gió, là mây? Hãy loại ra những thứ chảy trôi này.
4
Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.
Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình - thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về
bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.
5
Trước năm đó, cuộc sống tu viện khá hợp với tôi. Đều đặn ngày năm lần, tôi ngấm dần cách cầu nguyện. Rồi tôi nhập học trường mới và tiếp tục học. Môn Thần học tuy khó nhưng mới mẻ. Tôi nhận được sự tin tưởng của các tu sĩ khóa trên và các tu sĩ lớn tuổi. Tôi muốn lí giải thế giới này, muốn quan sát vũ trụ này.
Tôi thích những giá sách cao ngất chạm tới trần nhà của thư viện trong tu viện. Ở nơi đó, những cuốn sách hàm chứa trí tuệ của các tu sĩ Kitô giáo trong hơn 2000 năm qua đang chờ đôi tay, đang đợi đôi mắt tôi. Với quyết tâm đọc hết tất cả những sách ở đó, hằng ngày tôi chăm chỉ tới thư viện. Vào buổi chiều, sau những lúc đọc sách mệt mỏi, tôi lại thả bộ trong khuôn viên tu viện. Những hàng cây cổ thụ trên năm mươi năm lặng yên đứng xếp hàng như động viên tôi.
Có một ngày, khi tôi đang ngồi uống rượu trong khuôn viên trường đại học thì nhận được thư của người bạn công tác tại một viện hàn lâm đang chuẩn bị thi công chức. Tôi có cảm giác xa vời, thấy mình giống như một chiếc xe đã bỏ lại các bạn mình trong công viên và tiếp tục một mình trên con đường hướng lên đỉnh núi. Điều đó giống như là một người được lựa chọn là người giỏi nhất, và tất nhiên đối với tôi, việc trở thành người được lựa chọn khiến tôi có phần rất tự mãn. Mới có hơn hai mươi tuổi đầu mà đã nếm được mùi vị của sự im lặng, đối với tôi, thiên nhiên hẳn là ngập tràn những món quà lộng lẫy mà mỗi mùa mang lại. Đó là trước năm ấy.
6
Tất nhiên, đối với một người lớn lên trong thế giới ồn ào như tôi thì lúc ban đầu, sự tĩnh lặng của tu viện hoàn toàn không phải là thứ dễ thích nghi. Tôi có thể nhớ được ngày đầu tiên tới tu viện có lẽ cũng là bởi sự im lặng
cố hữu nơi này. Tu viện nằm ngay sau thành phố W. Đó là một đoạn đường đi bộ không đến 5 phút. Ngay khi tôi đưa ra lời đề nghị, người tu sĩ gác cổng đang đợi ngài Abbas (Viện trưởng Tu viện lớn) đã rời khỏi chỗ ngồi để dẫn tôi đi. Có vẻ như là bà nội tôi đã điện thoại báo trước. Hồi tôi còn bé, bà và tôi thường xuyên ghé thăm tu viện này. Tuy nhiên, cảm giác của người tự biết rằng một lúc nào đó mình sẽ chuyển tới sống ở đây đương nhiên sẽ khiến họ có thể nhìn thấy những thứ mà khách tham quan bình thường không thể nào thấy được.
Phía bên trong tu viện trông đơn giản hơn phía bên ngoài, chỉ có dãy hành lang rộng, tối và yên tĩnh. Những câu nói nổi tiếng của thánh Benedicto như “Ora et Labora” (Hãy cầu nguyện và làm việc), “Nếu bạn yêu chân lí, thì hơn tất cả, hãy biết yêu sự im lặng” được dán ở cổng phía trong tu viện. “Xin hãy tắt điện thoại”. Người gác cổng nói bằng một giọng khuôn sáo. Tôi rút điện thoại trong túi áo khoác ra và tắt nguồn, có cảm giác như ai đó dập cầu dao dây thần kinh của mình ngay khi tôi đang đứng giữa khu phố mua sắm. Tôi cảm thấy luồng khí trong ngực mình bỗng như thay đổi, và có cái gì đó như miếng nấc nghẹn không hiểu vì lí do gì mà dâng lên trong cổ. Ngay khi bức màn của sự náo nhiệt hạ xuống, sự im lặng ập đến.
7
Sự im lặng đó, dù tôi có khoác lên mình bao nhiêu chiếc áo đi nữa, nó vẫn xuyên thấu đến tận xương thịt tôi, giống như không khí của mùa đông tăm tối. Đó là thứ chỉ đối diện một lần là đủ thấy sợ. Tôi đã ước mong sự tĩnh
lặng khi chuẩn bị cho cuộc sống tu hành, nhưng tôi đã không thể đoán trước được sự im lặng lại có sức mạnh ghê gớm đến như thế. Tôi không cảm thấy rõ sức mạnh đó có hiện hữu hay không, nhưng tôi thường xuyên lưỡng lự và lại ngoái về phía sau. Dường như tôi nghe thấy đâu đó tiếng còi tàu, con tàu đã chở tôi tới đây rồi rời đi, giống như tôi đã xuống tàu mà để lại tuổi thanh xuân ngắn ngủi của mình trên đó. Những ồn ào và ước vọng, niềm vui và hân hoan, hồi hộp và thổn thức, đố kị và ghen tuông… Tôi lại tiếp tục bước từng bước chân dè dặt trên hành lang dài phủ đầy bóng tối. Lần đầu tiên tôi như nhìn thấy linh hồn mình qua khe hở bức rèm, giữa những tiếng động đang vọng lại từ phía sau.
8
“Sao anh lại trở thành tu sĩ?”, “Sao anh lại đến tu viện này?”. Đó là những câu hỏi còn khó trả lời hơn cả câu: “Anh đã sống thế nào và sẽ tiếp tục sống ra sao?”. Tôi không thể giải thích gì hơn ngoài một lí do mà tôi đã tưởng tượng ra, liên quan đến chuyện bà nội và tu viện này là nơi nhất định tôi phải sống. Có lẽ vì thế mà mọi người hay nghĩ và tin rằng “Đó là ý Chúa”. Nguồn gốc của từ “Gọi” (vocare) trong tiếng Latin là thế. Nếu hỏi “Tại sao ngươi ở đó?” thì câu trả lời là “Chỉ là trả lời cho người đã gọi. Vâng, thưa chủ nhân. Tôi ở đây.”
9
Chúng tôi đứng ở dãy hành lang dài để đi tới phòng của Đức cha Abbas. Lúc đó, tôi trông thấy một người đang đi tới từ cuối hành lang. (Về sau tôi mới biết vị này là tu sĩ Thomas, khi đó đã bảy mươi tuổi. Từ thời tu viện này còn thuộc về vùng Deogwon, tỉnh Nam Hamgyeong, Bắc Hàn, ông ấy đã rời quê hương Đức đến định cư ở đây). Khi tuổi đã cao, ông về hưu và nghỉ ngơi, đọc sách giết thời gian, hoặc lấy việc quét đi quét lại hành lang bằng một chiếc chổi dài làm thú vui qua ngày. Nếu nói “Hãy vừa làm việc, vừa cầu nguyện!” là bổn phận của tu sĩ dòng Thánh Benedicto thì ông hẳn là một tín đồ trung thành cho đến chết. Lúc đó, cái dáng ông đẩy cây chổi cán dài đã gây cho tôi một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ. Ánh nắng hoàng hôn treo trên cửa kính phía tây nhẹ nhàng phủ lên bóng dáng cố nhân trên hành lang, và ông tựa như một con cá thuần khiết đang chầm chậm bơi trong dải ánh sáng đó. Tôi bước những bước chân vội vã, va cả vào ông. Ông có chiều cao hơi khiêm tốn so với một người Đức, lưng hơi còng, gương mặt hằn nhiều nếp nhăn ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì lí do gì, nhưng trong khoảnh khắc đấy, có cái gì đó như sự run rẩy chạy xuyên từ đỉnh đầu đến bàn chân tôi. Trong suốt một thời gian dài tôi vẫn thường xuyên nghĩ về khoảnh khắc đó, có lẽ do sự trong trẻo sáng ngời hay sự bình thản vô lo trong ánh mắt ấy, hay bởi tại nụ cười như chứa đựng lời chúc phúc cho ước vọng của một người trẻ tuổi như tôi đây, đã dẫn lối cho tôi tới tận mãi sau này. Trong buổi nói chuyện
với Đức cha Abbas, Đức cha đã hỏi tôi tại sao lại muốn trở thành tu sĩ, và tôi đã trả lời:
“Vì con muốn được sống và chết như vị tu sĩ già đó, người đang đẩy cây chổi cán dài ở hành lang đằng kia”.
Câu trả lời đã khiến Đức cha đang uống trà bỗng dừng lại, nhìn tôi. Cây thánh giá chữ thập nằm trên bụng phình ra của Đức cha hơi lay động. Đức cha ngẫm nghĩ một chút rồi mỉm cười bảo:
“Hay là thế? Ờ, nhưng đừng như vậy sớm quá nhé!”
10
Tôi đang ngồi viết những dòng này ở phòng chấp sự của mình trong khuôn viên tu viện. Cuộc sống, không một ai biết trước được ngày mai sẽ ra sao, cho nên đến tận tối muộn hôm qua, chính tôi cũng không tưởng tượng nổi rằng mình phải nhớ lại quãng thời gian hơn mười năm trước.
Sau khi kết thúc việc cầu nguyện đêm qua, từ văn phòng, Đức cha Samuel Abbas cho gọi tôi. Đức cha Abbas - người trước đây cho phép tôi nhập về tu viện đã về hưu và được cử đến Tu viện nữ ở bờ biển Masan làm Đức cha hướng đạo. Sau đó, tu viện của chúng tôi tiến cử Đức cha Samuel Abbas bây giờ lên thay.
Cách thức bầu chọn Giám mục trong Hội đồng Giám mục cũng thật đặc biệt. Không có ứng cử viên, những cái tên được viết ngẫu nhiên. Trong số đó, nếu ai có số phiếu chiếm 2/3 thì sẽ được trở thành Giám mục và sẽ chịu trách nhiệm về mọi việc trong tu viện. Mật nghị Hồng y (Conclave) cũng xuất phát từ truyền thống của Giáo hội dòng Thánh Benedicto. Có những Giáo hoàng đã được bầu chọn từ hội nghị nổi tiếng và độc đáo này. “Conclave” tiếng Latin có nghĩa là “Bằng chiếc chìa khóa” (with key). Nó bắt nguồn từ truyền thống khi bầu Giáo hoàng, Hồng y đoàn sẽ vào hội trường diễn ra cuộc bỏ phiếu, và phía ngoài, cửa sẽ bị khóa lại. Mật nghị Hồng y không có ứng cử viên, không có vận động bầu cử, trong thời gian bầu chọn, các Hồng y không được phép thảo luận. Hội đồng giám mục
cũng tương tự như vậy. Có bốn vòng bỏ phiếu, nếu không có ai được 2/3 số phiếu thì sẽ bỏ phiếu đến vòng thứ năm, thứ sáu, và lúc đó, người có số phiếu quá bán sẽ trúng cử. Tuy nhiên, nếu có vị nào phải bỏ phiếu đến vòng thứ bảy mới đạt được quá bán thì vị này sẽ không được công nhận danh hiệu Giám mục ngay, mà chỉ được gọi là Tu viện trưởng quản lí, và sau ba năm sẽ lại tiến hành bỏ phiếu bầu Giám mục. Cách thức độc đáo chọn người đứng đầu suốt cả cuộc đời như thế này ở một khía cạnh nào đó cũng rất hợp lí.
Dù sao, người kế tiếp bây giờ là Đức cha Samuel. Cá nhân tôi biết Đức cha từ thời còn là một tu sĩ trẻ và Đức cha cũng tín nhiệm tôi. Vì thế mà tôi cũng không lấy làm lạ khi tối qua Đức cha cho gọi tôi.
11
Khi đến tìm Đức cha, vừa mở cửa tôi đã cảm nhận được ý nghĩa đặc biệt của lần gọi này. Đức cha dù biết tôi đã vào nhưng vẫn đứng quay lưng lại. Ngoài cửa sổ, sương đêm đang rơi.
Có thể đoán được điều gì đó qua tấm lưng Đức cha đang quay lại phía tôi, nhưng dường như Đức cha đang có quyết tâm gì nghiêm túc lắm, đang có điều gì trọng đại lắm. Những việc tôi đang định làm, từ giờ liệu tôi có thể
làm tốt được hay không, tôi nên đứng yên hay nên bày tỏ một cử chỉ gì đặc biệt nhỉ? Cái cá tính của tôi - hằng ngày thích làm mọi việc một cách lặng lẽ - nhiều khi bị quy chiếu thành tính cách hay do dự hoặc gì đó tương tự, thường khiến tôi trở thành đối thủ nặng kí của các tu sĩ có tính gấp gáp nóng vội đang sống ở đây trong những kì thi sát hạch tính nhẫn nại giữa các tu sĩ. Vậy mà hôm qua, cái dáng phía sau lưng ấy đã làm lưỡng lự mọi phán đoán nóng vội.
“Đức cha cho gọi con ạ? Con là tu sĩ Jeong Yo Han”.
Tôi vừa mở miệng thì Đức cha chầm chậm quay người lại. Nói thế nào nhỉ? Ánh mắt Đức cha như đang nhìn về một nơi rất xa.
“À, tu sĩ. Vào đây nào. Mời ngồi”.
Đức cha lúc đó như vừa tự đánh thức bản thân mình tỉnh giấc, sắc mặt có hơi chút thảng thốt. Đức cha chỉ chỗ mời tôi ngồi và ngồi xuống phía đối diện. Sau đó, hai bàn tay ông chụm lại như đang cầu nguyện, mắt nhắm lại. Tôi không đoán được điều gì. Đức cha và tôi đã sống cùng nhau như Cha và Con trong suốt hai mươi năm qua. Với sự ôn hòa, nhẹ nhàng nhưng khô khan của ông, hầu như chưa bao giờ tôi thấy cảm xúc xao động ở nơi ông như thế này. Tôi là người khá hiểu Đức cha.
“Trước tiên, bắt đầu từ việc dễ, à không, ta cũng không chắc đó có phải là việc dễ không. Có hai việc: một việc công và một việc riêng của ta. Vì thế nên ta mời con đến. Đầu tiên…”
Đức cha ngừng lại đó một chút. Có lẽ là việc thứ hai, việc riêng, việc của cá nhân đã làm cho việc công thứ nhất không đơn thuần là việc công nữa.
“Có tin từ tu viện ở Newton, New Jersey, Mỹ. Chính phủ Mỹ đợt này đang tập hợp các kiệt tác về Chiến tranh Hàn Quốc và sự kiện sáp nhập thành phố Heungnam và Cholsu. Trong đó, câu chuyện của tu sĩ Mariners đương nhiên được đưa vào. Họ yêu cầu chúng ta sắp xếp tư liệu mà tu viện chúng ta đã được truyền lại và gửi cho họ. Dạo ấy, tu sĩ Jeong là tu sĩ thư kí của ta nên con sẽ ghi nhớ và có nhiều tài liệu hơn bất kì ai. Do đó, ta muốn nhờ con việc này”.
“Vâng, nếu là việc này thì không có gì khó cả ạ. Máy tính của con vẫn còn lưu các tài liệu từ khi đó. Và cả trong đầu con nữa ạ”.
Vì bầu không khí nặng nề và không thoải mái nên tôi trả lời với giọng nhẹ nhàng hơn bình thường. New Jersey, Newton, và một ngày thu nọ lóe lên trong trí nhớ tôi giống như một màn hình với thước phim chiếu cảnh ngày hôm đó.
“Ừ, vậy thì tốt”.
Cuối cùng Đức cha nở nụ cười và lại nhắm mắt, sau đó ông chầm chậm mở lời. Bây giờ còn lại công việc thứ hai. Vai tôi tự nhiên theo đó mà cứng lại.
“Ta đã nghĩ nhiều, và cầu nguyện nhiều. Nhưng có lẽ cho con biết thì tốt hơn, nên ta sẽ nói. So Hee… So Hee…”
12
Lời nào có thể diễn tả được cảm giác của tôi khi đó? Giống như từ gương mặt ôn hòa đang nói chuyện với tôi lúc đó, một cây gậy sắt vung ra đập vào má tôi, tựa như sự hoang mang trong khoảnh khắc đầu tiên khi nhận ra đất đang lún xuống và cả tòa nhà sẽ chìm ngay vào lòng đất. Tôi biết là Đức cha đang chăm chú quan sát nét mặt tôi, nhưng ngay cả chút sức lực cuối cùng để tạo ra vẻ mặt thản nhiên dù là gượng gạo cũng hoàn toàn tan biến đi đâu mất. Đây là một đòn bất ngờ. Tôi đứng đó, tan chảy như một cây nến. Sau mười năm, thời gian trôi và chính tôi cũng không ngờ mình lại có phản ứng như vậy khi nghe nhắc đến tên cô ấy.
“Tuần sau, cô ấy sẽ đến đây… Cô ấy thỉnh cầu được gặp tu sĩ Jeong. Con biết đấy, cả gia đình cô ấy đã đi Mỹ hai mươi năm nay rồi. Mối liên hệ duy nhất ở Hàn Quốc chỉ có ta. Cô ấy xin đến đây không phải là để gặp ta mà là vì tu sĩ Jeong”.
Đức cha nâng chén trà để trước mặt đã nguội từ lúc nào. Hẳn nhiên đó không phải là vì Cha muốn uống trà.
“Ta cảm nhận được nỗi thống khổ mà cô ấy đã phải chịu đựng đến tận khi mở lời với ta. Đó là một người vợ tử tế, có chồng có con. Các con đều là người trưởng thành cả nên hãy tự quyết định! Nếu con không muốn thì tuần sau ta có thể cho phép con đi công tác tới một nơi khác để nghỉ ngơi”.
“Vâng, con hiểu ạ”.
Tôi trả lời và đứng dậy. Tôi cũng không rõ mình đã nói câu “Con hiểu ạ” thành lời hay chưa. Chính tôi cũng không biết mình đã hiểu cái gì, và cứ thế quay đi.
Bỗng nhiên sự xấu hổ ùa tới nhuộm đỏ hai vành tai tôi. Rốt cuộc Đức cha đã biết việc này từ bao giờ? Trong suốt mười năm qua, tôi chưa từng kể
với bất cứ ai về chuyện với cô ấy.
Cho đến tận bây giờ, tôi đã tin rằng mình có thể chịu đựng được. Vì thế, tôi đã làm như không có chuyện gì, chôn giấu cơ thể trai trẻ trong bộ quần áo tu sĩ màu đen, chịu đựng việc trói buộc một linh hồn bay nhảy. Vậy mà giờ đây giác quan của tôi chạy đi đâu mất, trí nhớ của tôi cũng mơ hồ, tôi nghĩ việc tôi không nhận ra rằng Đức cha - bậc trưởng thượng của tôi, cũng là chú của cô ấy - đã biết chuyện của chúng tôi từ đầu… Bỗng dưng tôi rùng mình, như đang sống lại tuổi hai mươi chín với cảm giác khinh bỉ, nhạo báng cả thần cả người mười năm trước.
Thật ra việc gặp hay không gặp cô ấy không hoàn toàn là không có vấn đề. Chắc là cô ấy bị chẩn đoán ung thư chăng, tôi bắt mình gượng nghĩ. Tôi không cười nổi dù chỉ là một nụ cười hiu hắt héo hon. Ai đó đã nói vậy! Anh muốn tìm điểm yếu của bản thân ư? Hãy tìm đến vấn đề khiến anh không thể cười nổi.
“Tu sĩ Jeong!”
Cửa mở và Đức cha lại cho gọi tôi.
“Con bé đó đang phải đối diện với cái chết!”
Tôi vừa bắt mình gượng gạo nghĩ, và lúc này tôi phải nghe sự thực, đột nhiên tôi nhận thấy cảm giác khinh bỉ và tội lỗi cùng lúc choán lấy mình. Tôi bảo không, đấy không phải là sự thực, nhưng tôi hoàn toàn không nói nổi một lời.
“Thứ khiến cho ta đắn đo nhất chính là điều này. Rốt cuộc thì ta cũng đã nói ra rồi… Ta… chỉ mong tu sĩ Jeong cảm thấy được thanh thản”.
Tôi hơi ngoảnh lại phía sau. Khi nói đến câu cuối cùng, cổ họng Đức cha dường như nghẹn lại, hình như ông cũng nói “Nỗi buồn đâu chỉ mình con?” Nhưng tôi cũng không thể mở miệng để hỏi lại Đức cha rằng “Vậy sao?” hay “Rốt cuộc, việc gặp New Jersey, Newton và việc gặp cô ấy, chẳng phải là cùng một việc sao?” Tôi đã ghìm câu hỏi đó lại.
13
Chắc tôi không thể trở về căn phòng của mình trong tu viện. Tôi đi bộ chầm chậm trong khuôn viên thư viện. Sương giăng thành những đường viền giữa các tòa nhà, cả tu viện mang vẻ đẹp thần bí như ngưng đọng. Tôi đi rẽ sang bãi đất trống ở góc khuất. Nơi này những người đi qua đi lại tòa nhà gạch đỏ - chỗ ở của các tu sĩ tập sự sẽ không thể nhìn thấy tôi. Cây ngân hạnh hơn sáu mươi năm tuổi đứng ở đó. Mỗi khi cảm thấy nhớ căn nhà thời tôi còn là tu sĩ tập sự, hay những khi thấy buồn vu vơ, tôi thường đến chỗ cây ngân hạnh này, ôm lấy cây hoặc nằm ngủ dưới gốc cây. Đôi khi tôi cũng trèo lên cây nữa.
Chuyến tàu theo dọc dòng sông Nakdonggang từ xa xa chạy lướt qua bên cạnh tôi. Lúc đó tôi nhớ đến cuốn truyện Cây trao tặng hết mình hay Niềm hi vọng cho những bông hoa đã đọc khi còn bé, cái thời có thể đọc ngấu nghiến bất cứ thứ gì có chữ in. Bìa sau cuốn sách có dòng chữ: “Số 369, thành phố W ở Gyeongbuk”. Đối với một đứa trẻ sinh ra và lớn lên tại thủ đô Seoul như tôi đây, đó hẳn là một địa danh hoàn toàn xa lạ. Đứa trẻ con là tôi lúc bấy giờ, liệu có chút dự cảm nào rằng nơi ấy về sau lại là địa chỉ cư trú của bản thân mình hay không?
Thời còn là tu sĩ tập sự, tiếng còi tàu vào thành phố W lúc 4 giờ 40 phút luôn đánh thức tôi dậy trước cả tiếng chuông của tu viện lúc 5 giờ. Hai mươi phút chập chờn mơ hồ giữa ngủ lại và thức dậy đó luôn là một nỗi khó khăn cả về thể chất và tinh thần của người trẻ tuổi. Đó là khoảng thời gian tôi thực sự băn khoăn, liệu tôi có thể sống ở đây cả đời hay không? Trong giấc mơ chập chờn, tiếng chuông báo thức lúc 5 giờ lại vang lên.
Mọi việc ở tu viện đều bắt đầu bằng tiếng chuông và kết thúc cũng bằng tiếng chuông. Nếu không có sự cho phép đặc biệt nào thì mỗi ngày năm lần, các tu sĩ tụ họp và cùng cầu nguyện. Thực tế, thời tiết lúc sáng sớm thật khiến người ta mệt mỏi, và công việc cầu nguyện cũng bận rộn suốt nên đã có tu sĩ tập sự chọn rời bỏ tu viện. Theo cách nói của tôi thì không
phải người ta ghét tiếng chuông vì người ta mệt mỏi. Ở một khía cạnh nào đó, tôi lại yêu tiếng chuông ấy. Bầu trời buổi bình minh, dưới ánh sáng xanh nhạt, tiếng chuông vang vang phát ra từ tháp chuông cao vút. Nếu
trùm kín đầu bằng chiếc mũ màu đen để tránh cái giá buốt buổi sáng sớm, trèo lên tháp chuông có thể cảm thấy những bậc cầu thang ấy như một lối đi vĩnh cửu duy nhất được phép tồn tại trên thế gian này, tiếng bậc cầu thang vang vang như dội xuống. Chính là cái cảm giác giống như không thể chạm tới, không thể níu giữ, không thể dừng lại.
14
Có dạo chán ngán tiếng chuông ấy, tôi đã muốn rời khỏi nơi này. Tôi đuổi theo, nhưng đoàn tàu đã rời đi và bỏ lại tôi. Từ sân ga trống vắng, lúc quay bước trở về tu viện, tôi cảm thấy con đường mà thường ngày đi chưa hết đến 5 phút đó bỗng nhiên dài như vô tận, và trong khoảnh khắc ấy, tiếng chuông từ tu viện lại vang lên. Tiếng chuông như thanh kiếm nặng xém qua, làm đau tận bên dưới trái tim đã khô cằn như đáy giếng cạn. Thay vì nước mắt, một tiếng nấc nghẹn lại thoát ra. Hôm đó, tôi đã nguyền rủa tiếng chuông ấy. Đúng vậy. Và… từ sau đó… có một khoảng thời gian dài tôi đã luôn như vậy.
Có dạo tôi nghĩ rằng, nếu còn gặp lại cô ấy một lần nữa, nhất định tôi sẽ hỏi. Tôi cũng đã từng cầu nguyện, xin hãy cho tôi cơ hội để hỏi. Thế nhưng, chuyện đó đã lâu lắm rồi, đến mức cả câu hỏi đó là gì cũng đã mờ nhòa trong kí ức tôi từ lâu.
Khi cánh cửa tàu mở ra, đôi giày nữ dợm đặt lên bậc tàu, người tu sĩ trẻ từng chao đảo bởi vạt váy mềm mại của cô gái đứng run rẩy lạnh cóng khi ấy, giờ đây đã là một Cha xứ trung niên đầu bạc. Tôi đã để cô ấy đi như thế. Tôi cũng đã đóng gói hành lí và lên con tàu đó để rời đi, đi tiếp một chuyến máy bay đến Roma, nhận huấn luyện để trở thành Đức cha theo đúng như kế hoạch. Nhận học vị ở Roma và trở về, tôi cũng xuống từ chính con tàu đó. Lúc ấy tiếng chuông cũng ngân lên…
15
Tôi đã không thể cảm thấy bất cứ điều gì trong thực tại. Sự trở về, cái chết, sự hội ngộ, mãi cho đến tận khi tôi cảm thấy cái lạnh của sương ẩm
ướt kích thích khí quản vốn đã yếu đi vì cảm lạnh của mình, tôi đội mũ trùm đầu lên, quay bước. Vài tu sĩ tập sự tay cầm mấy chai rượu nho, cúi đầu chào khi trông thấy tôi.
“Linh mục phụ trách đào tạo nói là giờ tu luyện hôm nay sẽ dành thời gian để mọi người làm quen với nhau ạ”.
Một tu sĩ tập sự trong nhóm tự nhiên giải thích mặc dù tôi không hỏi.
Liệu có thể so sánh với cuộc sống khổ hạnh của đạo Phật không? Giúp đỡ, cầu nguyện, tu dưỡng. Phải trải qua sự lao động và tu luyện với cường độ cao trong suốt ba năm liền mới qua được giai đoạn huấn luyện ban đầu. Rồi lại tiếp tục trải qua bốn năm thề nguyền nữa. Đến lúc đó mới xem xét người nào đó có thích hợp với tu viện không, tu viện có phải là nơi phù hợp với người đó không? Nơi này dù sao cũng là khởi đầu của cuộc sống tu hành, nên trong việc lựa chọn các thành viên cùng chung sống, khó mà tránh khỏi sự khắt khe.
“Sáng mai phải dậy sớm nên đừng uống tới khuya quá nhé!” Các tu sĩ trẻ tươi cười và đồng loạt đáp:
“Vâng!”
Không biết có phải bởi ảnh hưởng của khí chất tươi tắn ở nhóm tu sĩ trẻ vừa gặp hay không, mà lòng dạ tôi vốn đã đóng chặt lại như được mở ra trong chốc lát. Điều đó phải chăng là sức mạnh của thời gian? Tàu đang tiến vào ga W.
16
Bạn đồng khóa ở tu viện là những mối nhân duyên không thể tránh khỏi. Khi tôi nhập tu Tòa thánh Benedicto năm đó, tổng cộng có tám người xin nhập tu. Vị linh mục phụ trách huấn luyện - người chỉ dạy cho chúng tôi, như cách nói ở trường học thì có thể gọi là thầy chủ nhiệm - là một Cha xứ
gốc Đức đã luống tuổi. Ông thường tập hợp chúng tôi lại và than thở bằng một giọng tiếng Hàn còn pha ngữ điệu Đức:
“Lần đầu tiên tôi gặp phải một lớp không chịu nghe lời và mệt mỏi như cái lớp này! Năm nay thật là một năm dị thường. Tu sĩ phải tuân lệnh, tu sĩ phải khiêm tốn. Hãy ghi nhớ cho rằng: con người (humanitas), đất (humus), khiêm tốn (humilitas) đều có chung nguồn gốc chữ Latin đấy!”
Chúng tôi tự thấy bản thân không phải là những người ngoan ngoãn nên ai nấy chỉ cúi đầu, lặng yên, không nói câu nào.
Về sau này tôi mới biết, vị ấy năm nào cũng nói câu này. Và năm nào cũng thế, tất cả các tu sĩ nghe câu đó đều cúi đầu tự nhủ: “Thành thật mà nói, chúng mình đúng là như vậy!” và năm nào cũng là bầu không khí đầy hối cải đó. Đến mức mọi người còn truyền nhau lời nói đùa rằng, đó là truyền thống của Tòa thánh Benedicto.
Trước khi làm lễ thề nguyện đầu tiên rằng “Tôi sẽ sống ở đây!” là khoảng thời gian ba năm lao động cực nhọc. Không có thời gian và không gian cho những hoạt động cá nhân. Lao động cùng với những người xa lạ, lần đầu tiên gặp trong đời là một việc không dễ dàng.
Nếu không phải là năm lần cầu nguyện và chuẩn bị cho các hoạt động lễ, lễ Misa thì quãng thời gian đó đúng là những ngày vô cùng mệt nhọc.
Khoảng nghỉ cho phép xen kẽ trong thời gian cầu nguyện cũng như giữa các giờ lao động đã giúp giảm bớt sự vất vả của thời khóa biểu dày đặc, đẩy con người đến gần với nhau hơn, và tạo ra những khoảng lặng nhẹ nhàng. Có một điều may mắn là nhóm tám người chúng tôi dù chẳng hề
hợp ý với nhau trong chuyện giặt giũ, dọn dẹp hay việc chuẩn bị lễ, nhưng lại luôn có một điều vô cùng thống nhất với nhau. Đó là việc ăn và uống.
Vào năm mà chúng tôi nhập tu, Tòa thánh Benedicto đã xây một tu viện ở Trung Quốc. Vì tất cả các tu viện đều tự chủ và tự lập thông qua lao động, nên tu viện ở Trung Quốc này đã mở một nhà máy rượu nho. Ở Trung Quốc khi đó, nhu cầu về rượu nho chưa nhiều. Do vậy, để giúp đỡ tu viện mới, tu viện chúng tôi đã nhập về và tiêu thụ hai container rượu nho.
Chúng tôi dùng số rượu đó vào các buổi hành lễ, hoặc làm quà cho những người có công đóng góp với Tòa thánh.
Hai container là một khối lượng rượu khổng lồ. Nếu bước vào khu vực nhà kho xếp rượu nho sẽ thấy toàn là rượu nho xếp cao ngất, kín cả căn phòng kho. Tám người chúng tôi thi thoảng lại lẻn vào hầm rượu, dùng đủ mọi lí do để lấy rượu mang về cất trữ. Lúc thì chúng tôi nói là để chuẩn bị cho dịp hành lễ, lúc lại bảo là linh mục phụ trách huấn luyện sai chúng tôi đến lấy, và lí do thì nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Vị tu sĩ người Đức quản lí hầm rượu, không biết có phải là ông đã thật sự tin hết mọi lời giải thích của chúng tôi hay không, hay là vì ông muốn nhanh chóng làm cho chỗ rượu nho chất cao như núi đó có thể vơi đi trước ngày tận thế, mà chúng tôi hễ cứ hỏi là ông lại dễ dàng cấp cho chúng tôi.
Ở tu viện, quãng thời gian sau thời gian cầu nguyện lúc 8 giờ tối cho đến tận sáng hôm sau là khoảng thời gian rất tĩnh mịch. Và đèn ở phòng sinh hoạt chung của các tu sĩ tập sự thì muộn nhất là đến 9 rưỡi là phải tắt hết.
Linh mục phụ trách huấn luyện cứ 9 rưỡi là đi kiểm tra đèn nhỏ ở phòng ngủ rồi trở về phòng của mình. Sau đó, tám người chúng tôi, một, hai người sẽ bật dậy, lấy màn che cửa sổ để cho ánh sáng đèn không thể lọt ra ngoài, rồi chúng tôi lôi ra một cái bát ăn mì to đã lấy về từ nhà ăn, đổ đầy rượu nho vào đó.
Một chai rượu nho rót đầy được cái bát loa ăn mì làm bằng sắt không rỉ ấy. Trong bóng tối, chúng tôi chuyền tay nhau uống bát rượu. Sau một vòng chuyền qua tám người, cái bát cạn sạch sành sanh. Xúc xích thì phải lấy từ xưởng làm xúc xích nên đồ nhắm lúc có, lúc không.
Chuyền tay nhau một vòng, thứ rượu nho vốn chẳng phải là rượu để chúc tụng ấy, đối với chúng tôi, nó còn mang đến sự khích lệ lớn hơn cả những lời chúc mừng. Có lần, một vị tu sĩ già bắt chước theo, và giữa chúng tôi nảy ra cuộc tranh luận gay gắt về đức tin. Rồi có hôm, khi nghe câu chuyện buồn về gia đình của một tu sĩ khác, hết thảy chúng tôi đều khóe mắt rưng rưng. Có bữa thì tất cả chúng tôi đều thao thức suốt đêm chỉ vì ngẫu nhiên đã bật ra câu chuyện về mẹ.
Chúng tôi đã từ từ bỏ lại bản thân mình, từ từ bỏ lại thế tục đã từng ấp ôm chúng tôi như thế, nhận lấy việc lao động cực khổ và nhận ra rằng, phải ở nơi thấp đến cùng cực mới có thể thấy được nơi cao tột cùng. Mỗi ngày, chuyến tàu 4 giờ 40 phút sáng rung chuyển mặt đất lại chạy qua. Và đến 5 giờ, tiếng chuông từ trên trời lại đổ xuống.
Cứ đến chủ nhật, sau khi hết lễ Misa, chúng tôi được có chút thời gian nghỉ ngơi. Có lẽ vì thế nên trên mỗi bàn ăn trưa ngày chủ nhật trong tu viện, lại có một chai rượu nho, tức là cứ bốn người thì sẽ chung nhau một chai. Chúng tôi có tám người nên tất nhiên là chúng tôi có được hai chai. Thế nhưng với tửu lượng của chúng tôi mà nói thì hai chai rượu đó chưa thỏa, chúng tôi có thể uống cả chai rượu nho được phân phát ấy như uống nước lạnh, thế nên hai chai rượu này chỉ đủ để chúng tôi nhấm nháp gọi là mà thôi. Vài vị tu sĩ lớn tuổi chỉ nhìn qua chai rượu được phát rồi mang đặt lên bàn của chúng tôi, nháy mắt và đi ra ngoài. Chúng tôi thường nhận được khoảng năm chai rượu theo kiểu như thế. Ngoài ra, cũng là thừa cơ được uống rượu ở bàn ăn một cách công khai, nên chúng tôi cũng thường mỗi người giấu sẵn dưới bàn một chai rượu khác đã chuẩn bị từ trước.
Dù chúng tôi còn trẻ, dù chúng tôi hằng đêm đã quen uống rượu thì việc uống rượu giữa ban ngày cũng khó tránh khỏi để lại những dấu vết, kiểu như mặt mũi thì đỏ ửng, môi thì săn lại. Ngẩng đầu lên, chúng tôi đột nhiên nhận ra linh mục phụ trách huấn luyện đã đứng ở đầu bàn chúng tôi đang ngồi từ khi nào.
“Mỗi bàn một chai! Một chai cơ mà!”
Định thần lại, tôi nhận ra trên hai mặt bàn mà chúng tôi đang ngồi đã lù lù năm vỏ chai rượu. Hôm đó, chúng tôi bị linh mục phụ trách huấn luyện gọi đến nghe giáo huấn hàng giờ đồng hồ về đủ điều bằng thứ tiếng Hàn thành thục nhưng hơi khó nghe của cha xứ người Đức và nhận hình phạt.
Đó là hình phạt sau giờ cầu nguyện tối, không được tụ tập nói chuyện ở phòng nghỉ, tất cả phải lên phòng sách và đọc kinh sách cho đến tận 10 giờ. Nhỡ mà linh mục phụ trách huấn luyện thấy mấy chai còn lại giấu dưới gầm bàn thì làm sao đây? Có lẽ cả hội chúng tôi sẽ phải gói ghém hành lí
và lên đường trở về nhà. Từ sau hôm đó, thay vì lấy màn che đèn ở phòng ngủ để uống rượu, chúng tôi phải tụ tập ở phòng sách sáng trưng để đọc sách. Đương nhiên là chúng tôi không uống rượu dưới ánh đèn che bởi màn nữa… mà uống rượu dưới ánh đèn phòng đọc sách. Tất nhiên là chúng tôi khéo che cái bát to bằng những quyển sách dày sao cho mùi rượu không tỏa ra.
Cuối năm đó, khi đi qua hầm rượu, linh mục phụ trách huấn luyện sửng sốt thốt lên:
“Lạ thật! Năm nay đã uống hết cả một container rượu nho… Thế mà mình cứ lo là trước ngày tận thế liệu có thể uống hết nổi chỗ rượu nho này hay không! Hẳn một container đấy. Ôi! Giỏi thật, giỏi thật!”
17
Thời gian cứ thế trôi, tiếng chuông từ bầu trời xanh cứ đều đặn dội xuống. Đang phơi quần áo, tôi bất giác nhìn về phía xa kia, dòng sông vẫn chảy và đoàn tàu vẫn lăn bánh. Có những buổi chiều thứ bảy, khi đang đá bóng hoặc làm vài việc lặt vặt với các tu sĩ cùng khóa, tôi lại bất chợt thẫn thờ. Đó thường là khi đoàn tàu đang đi qua.
“Cậu sao thế?”
Người bạn cùng khóa hỏi.
“Ờ… Tớ đang đếm xem đầu tàu kéo theo mấy toa”.
Tôi tỉnh bơ trả lời như thể chẳng có chuyện gì. Sao thế nhỉ? Hay là tôi đang nhớ ga cuối con tàu đó tới là một thành phố có tên là Seoul, nhà tôi ở đó, có em gái, em trai, bà nội và bố.
Có lần, tôi đến Daegu làm việc mấy việc lặt vặt thì tình cờ gặp cô bạn học cùng khóa trường đại học cũ ở ga Dongdaegu. Cô bạn hỏi tôi với vẻ mặt và nụ cười khó hiểu:
“Tu viện á? Sao lại cậu có lựa chọn viển vông như thế?”
Cô bạn ấy ân cần đãi tôi một tách cà phê và kể chuyện rằng cô định đi du học Pháp, ghé về nhà bố mẹ ở Daegu, và giờ đang trên đường trở lên Seoul. Cô ấy bảo rằng bây giờ đi, chắc có lẽ ba năm nữa cũng chưa quay về. Không hiểu sao, tôi tiễn cô ấy đến tận sân ga, và đứng đó vẫy tay theo một lúc lâu.
Khi đoàn tàu đã đi khuất dạng, tôi vẫn còn đứng lại ở sân ga thêm một lúc. Có lẽ tôi cũng đã từng có ý nghĩ, hay là mình cứ như cô ấy và đi lên Seoul nhỉ? Suốt mấy ngày sau đó, hễ cứ thấy đoàn tàu đi qua là gương mặt cô bạn ấy lại hiện lên trong tâm trí tôi. Biết gọi sự lóe lên đó là gì nhỉ? Chắc chắn đó không phải là suy nghĩ về một con người cụ thể nào cả. Thế nhưng đó cũng có thể coi là một nỗi nhớ, nỗi nhớ về một nơi nào đó đã bị bỏ lại, là giấc mơ về nơi nào đó không thể tới, về một nơi nào đó không thể quay lại. Một góc nào đó nơi trái tim tôi đã bỏ lại. Tôi đang đi qua thế giới này, và cứ mỗi khi đoàn tàu chạy qua, những bông hoa trên tuyến đường sắt ấy rung rinh, rung rinh, là góc đó trong trái tim tôi lay động.
18
Đó là một buổi đi dã ngoại với các bạn cùng khóa. Sau các hoạt động thể thao và những cốc bia mát lạnh mà vị linh mục phụ trách huấn luyện mua cho, chúng tôi đã chơi đùa rất vui. Đoàn tàu trở về tối cuối tuần thật đông đúc. Tôi bắt chuyến tàu trở về thành phố W. Tôi nhận ra chỉ có vị trí ngồi của mình là được sắp xếp ở toa khác, bèn chẳng do dự, đi đến chỗ của mình, phó mặc tấm thân cho cái ghế đang rung lên bần bật rồi chìm vào một giấc ngủ ngọt ngào. Thế nhưng khi chợt tỉnh giấc, tôi nhận ra con tàu đã chạy qua thành phố W và xuống đến tận Gumi. Khi nhận ra là mình đã bị bỏ lỡ mất ga phải xuống, tôi vội vàng chạy xuống khỏi đoàn tàu một cách khó khăn như thể để tẩu thoát, trước khi cánh cửa tàu khép lại, và tôi nhận ra rõ ràng là các bạn cùng khóa đã bỏ quên tôi lại một mình.
Đó là thời mà tu sĩ tập sự không được phép dùng điện thoại, và tôi không có cách nào để liên lạc được với ai, tất nhiên trong túi tôi cũng chẳng còn đồng nào, may ra còn có tấm vé tàu đến thành phố W đã được phát cho lúc nãy. Tôi đã lên tàu với ý tưởng rằng nếu bị kiểm tra vé thì tôi sẽ giải thích tình huống là như thế, nếu không thì tôi sẽ bảo họ gọi điện về tu viện để
xác minh, và tôi cứ thế lên một chuyến tàu chạy ngược lại rồi vào một toa bất kì. May là chẳng có chuyện kiểm soát vé nào cả, và sự mệt mỏi cũng tự nhiên xua bỏ cảm giác căng thẳng lo lắng này.
Tàu đến gần thành phố W, tôi từ từ đứng dậy khỏi chỗ của mình, chuẩn bị xuống. Nhưng đoàn tàu không giảm tốc. Hóa ra chuyến tàu này không dừng ở thành phố W. Tôi cứ đinh ninh rằng đương nhiên nó sẽ dừng lại ở thành phố W nên mới bước lên, tôi bỗng nhiên thấy bực đến run người, mồ hôi chảy ròng ròng như có thứ gì nóng rực rơi trúng da. Trước mắt tôi, tu viện đang trôi qua.
Đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống theo đường tàu, tu viện xa xa với những khung cửa sổ lác đác ánh sáng. Từ trong sâu thẳm trái tim tôi, ánh sáng ngọn đèn ước vọng chiếu sáng rực rỡ, cứ như thể tôi đang mải miết đi trên con đường hướng đến miền cực lạc, nơi vĩnh viễn không thể đến được. Và lạ thay, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, hình như tôi lại nhìn thấy rất rõ đường nét của đỉnh đồi nơi tôi đã thường đứng trên đó mà thẫn thờ nhìn đoàn tàu đi qua. Đỉnh ngọn đồi không có tôi hình như trống vắng. Một bên lồng ngực tôi cồn cào không sao kể xiết. Tôi sớm cảm nhận được sự đau khổ của những người đã bị đuổi khỏi tu viện. Tôi vốn dĩ đã ngụp lặn đến chìm nghỉm trong nỗi nhớ nhung khó tả của người chỉ đứng bên ngoài toa tàu nhìn vào, giờ đây, vào cái giây phút đoàn tàu chạy qua tu viện, ở bên trong toa tàu, tôi bỗng nhiên trở thành đối tượng của nỗi nhớ ấy.
Tôi đi đến tận Daegu và chuyển tàu khác. Phải đến tận nửa đêm tôi mới về đến trước cánh cổng chính tu viện. Cảm giác của tôi khi đó là sự bình tâm trở lại sau cơn giận run người vì các bạn cùng khóa đã bỏ về trước, hơn là nỗi thất vọng về việc họ đã bỏ rơi tôi.
19
Tất cả đèn ở tu viện đều đã tắt. Phía sau tu viện, tấm rèm xanh đen của màn đêm rủ xuống bao phủ. Cứ lặng yên như thế, trên tấm rèm xanh thẫm ấy, những vì sao to tròn lặng lẽ lấp lánh. Những vì sao cũng như dòng sông, lấp lánh nhẹ nhàng như đang vẽ một đường viền lên mái nhà và tường tu viện. Vũ trụ, sự thanh vắng, sự im lặng, và sự hiện hữu của Người
trong khung cảnh im lặng này như đang bao trùm cả tu viện. Lúc đó, lần đầu tiên tôi đã nghĩ “Đến bây giờ thì đây đúng là nhà của mình rồi. Mình sẽ ở đây suốt đời.” Tôi bỗng ngạc nhiên rằng, khoảnh khắc ngắn ngủi lóe lên bất chợt như thế đã mang đến cho tôi sự khẳng định rằng nơi này chính là mái nhà dành cho mình. Tôi chắp hai tay lại. Chao ôi! Đâu đâu cũng thấy được sự hiện hữu của Người!
Chúng tôi đã được học rằng “chúng ta mệt mỏi nhưng đầy đủ, thiếu thốn nhưng tràn đầy”, và “những bước đi ban đầu, nhưng thực tế cuộc đời thì ai cũng phải sống với những quyết tâm ban đầu”. Chúng ta nhận ra và cảm nhận được điều gì đó quý giá, những điều không thể tìm thấy được giữa ánh đèn của khu phố buôn bán. Khi nhận ra được chân lí thì từ giây phút đó, chúng ta quả cảm và liều lĩnh nghĩ, “ngay cả sinh mạng cũng không còn quan trọng nữa”. Chúng tôi muốn trở thành một cái gì đó thiêng liêng. Chúng tôi lúc đó thật là còn quá trẻ.
20
Trong số những người trẻ ấy, có những cá thể nổi bật. Đó là tu sĩ Michael, và tu sĩ Angelo xinh đẹp nữa. Ba người chúng tôi: Michael, Angelo và tôi - Yo Han thân thiết như anh em ruột, đi đâu cũng dính với nhau. Mọi người hay gọi tắt chúng tôi là các tu sĩ Mi - An - Yo.
Michael thì đi đâu cũng được chú ý. Khi nhắc đến tên cậu ấy, ai cũng thắc mắc: “Sao lại từ chối một trường đại học tốt như thế mà đi tu?”. Michael lớn hơn tôi hai tuổi, trước khi tới đây thì cậu ấy đã tốt nghiệp một trường đại học danh tiếng. Cậu ấy rất cao, tay cũng dài nữa. Cân nặng chẳng cân
đối chút nào với chiều cao, có lúc trông cậu ta yếu ớt, loạng choạng như sắp đổ, nhưng được chiếc cằm bướng bỉnh, sống mũi nhọn và nước da ngăm ngăm bù lại. Việc cậu ấy nổi trội trong số các bạn cùng khóa và luôn thu hút sự chú ý cũng là điều dễ hiểu.
Ở trường học mới, tài năng của cậu ấy được thể hiện. Giờ học tiếng Latin là giờ học làm chúng tôi khổ sở nhất. “Các bà các mẹ đã tiết kiệm từng đồng xu còm cõi, gom thành tiền công đức dâng ở chính điện là để cho các con được học miễn phí ở đây. Các bà chắt chiu như vậy là bởi họ tin chắc
rằng các con sẽ trở thành những người có thánh chức”. Đó là lời giáo huấn cổ điển (nhưng lúc nào nghe những lời ấy, chúng tôi cũng cảm thấy nhói tim) của vị linh mục - giáo sư tiếng Latin thông thái, khiến chúng tôi mở rộng tầm mắt. Tôi nghĩ là các vị trưởng thượng trong tu viện đã có ý định sẽ cử cậu ấy đi du học ở Roma hay ở Đức sớm hơn so với các tu sĩ khác, thay vì để cậu ấy như vậy.
Michael là người thức dậy sớm nhất, trước tất cả mọi người, luôn vào lúc đúng 5 giờ. Cậu ấy cũng là người mặc bộ đồ tu sĩ ngay ngắn, gọn gàng nhất. Sau buổi hành lễ, trong số các thức ăn như bánh mì, sốt hay mứt được bày trên bàn ăn, cậu ấy chỉ uống một chút sữa. Sau bữa ăn, cậu ấy lại cầm tràng hạt cầu nguyện và đi dạo ở vườn sau tu viện, vừa đi vừa cầu nguyện. Sau khi kết thúc giai đoạn sinh hoạt của tu sĩ tập sự và làm việc có thời hạn, mỗi người sẽ được phép ở một phòng riêng. Phòng của Michael luôn là phòng sáng đèn muộn nhất. Mỗi khi tới thư viện của tu viện để mượn sách, thì những cuốn sách mà tôi muốn mượn đều đã ghi tên người mượn trước là tu sĩ Michael.
Cậu ấy hầu như chưa một lần vắng mặt trong giờ cầu nguyện. Cứ có thời gian là cậu ấy đến thánh đường vắng, ngồi đọc kinh. Rồi đến một ngày, tôi thấy cậu ấy bắt đầu chỉ uống một chút rượu nho thôi. Vào mùa chay (trước ngày lễ Phục sinh, kéo dài bốn mươi ngày, trong thời gian này, các giáo dân nhịn ăn và tiết chế để tưởng nhớ đến những nỗi khổ đau) hay mùa vọng (bốn tuần trước lễ Giáng sinh), nhịn ăn vào mỗi thứ tư và thứ sáu, Michael lúc nào cũng cúi đầu và bước đi chầm chậm. Ai cũng biết là cậu ấy đang suy ngẫm sâu sắc. Dáng vẻ của cậu ấy lúc đó trông như thể dáng nhìn nghiêng của Thánh Michael trong bức thánh họa ở bảo tàng châu Âu.
Michael thi thoảng ghé vào phòng tôi, hỏi xem tôi đang đọc sách gì và kể về cuốn sách cậu ấy đang đọc. Một lần, cậu ấy đến phòng tôi, trên tay cầm cuốn sách của Charles de Foucauld. Cuốn sách kể về con trai của một gia đình quý tộc sống những ngày tháng tuổi trẻ với ác cảm về tín ngưỡng, nhưng sau đó anh ta đi đến sa mạc và hằng ngày yên lặng sám hối, cầu nguyện.
“Yo Han, cậu thử nghe đoạn này nhé?”
Cậu ấy mở cuốn sách và đọc thành tiếng cho tôi nghe.
“Chúa của con, con chỉ sợ cái ác. Con không thể đồng ý với cái ác, cũng không thể yêu nó được. Chúa khiến cho con thấy được sự trống rỗng cay đắng, bắt con nếm trải nỗi buồn. Nỗi buồn ấy khiến cho con hoàn toàn trở
thành một người câm lặng, khiến con buồn phiền dai dẳng mỗi dịp lễ hội và yến tiệc. Ở các bữa tiệc được tổ chức, cứ được một lát là con chìm vào sự im lặng và rốt cuộc, mọi thứ trở nên chán ngắt”.
Đọc xong, cậu ấy ôm cuốn sách vào lòng, rồi nhìn tôi tha thiết như thể nếu tôi hiểu được những điều này thì tốt biết bao.
“Yo Han, cậu xem này! ‘Nỗi buồn ấy khiến con hoàn toàn trở thành người câm lặng… Rốt cuộc, mọi thứ trở nên chán ngắt’. Đoạn văn này đã chạm tới trái tim tớ, văng vẳng từ sáng, ám ảnh tớ suốt cả ngày, nên tớ đến đây.”
Trước khi đến tu viện, tôi mới chỉ sống hai mươi mốt năm được thấy mặt trời mọc trên thế gian này, tôi chưa bao giờ đi vòng vo hay sống phung phí. Đối với một người sống bình bình như tôi, ở thời điểm đó, tôi hoàn toàn chưa hiểu được việc sống phung phí trở thành nỗi buồn, việc sống phung phí sẽ làm ta trở thành một người câm lặng nghĩa là gì. Thậm chí đến cả chuyện điều gì trở nên chán ngắt tôi cũng chưa hiểu, nhưng tôi tin là lời nói của cậu ấy chứa đựng sự bộc bạch về sự tồn tại không thể có đối với bất cứ ai. Đó là sự im lặng gắn kết sâu sắc tình bạn hay sự tâm giao (koinonia) giữa chúng tôi.
21
Bên cạnh Michael là Angelo. Cậu này thấp và nhỏ con, nhưng lại sở hữu một gương mặt đẹp như khắc như tạc. Trên khuôn mặt ấy, cái mũi rất cao, đôi mắt trong, đáy mắt rộng và sâu, đôi môi đỏ và nét, mái tóc xoăn màu nâu bồng bềnh trên gương mặt trắng mịn. Có lúc nhìn gương mặt ấy, tôi cũng có cảm xúc kì lạ. Có dạo, cậu ấy nuôi dài mái tóc xoăn mềm mại ấy, khiến cho những người ghé thăm tu viện sửng sốt nghi ngờ “chẳng lẽ con gái cũng sống ở đây?”. Sau đó, nghe theo lời khuyên của linh mục huấn luyện, cậu ấy đã cắt tóc ngắn. Xem ra ngày mà bóng đen của cậu ấy vô tình
xuất hiện nơi cuối ánh nhìn của tôi, khiến trái tim tôi đập thình thịch, chẳng phải rõ ràng cho thấy tôi là một người nam rất đặc biệt hay sao? Cho dù kể cả linh mục huấn luyện không nhắc nhở mà cứ để như vậy đi chăng nữa, thì cũng sẽ không tốt khi mọi người cứ hiểu lầm mình là con gái, có lẽ đó là lí do duy nhất khiến cậu ấy cắt đi mái tóc mềm. Từ sau ngày bị nhắc nhở, Angelo đã cắt sạch mái tóc mà chẳng chút luyến tiếc.
Angelo khi nói về bản thân mình thường tự nhận là “trẻ mồ côi từ trong bụng mẹ”. Cậu ấy đã từ chối khi linh mục huấn luyện khuyên nên nhập học vào trường Thần học.
“Con đến đây sống không vì điều gì cả. Mẹ ruột của con trước khi mất đã dặn con là sau khi học xong cấp ba, hãy đến tu viện. Con không biết phải làm như thế nào. Con không thể thông minh như Michael, không thể kỉ luật như Yo Han. Thậm chí, hồi đi học, con học dốt. Cơ thể con yếu ớt và chẳng có sức lực. Con chỉ cần ngày được ăn ba bữa và làm công việc nho nhỏ là mãn nguyện rồi. Trường Thần học ấy ạ? Con không có tư cách trở thành một Giám mục đâu ạ. Vả lại, chỉ nghĩ đến việc đứng trước mọi người và giảng đạo thôi là con đã thấy sợ rồi”.
Nhưng thật là kì lạ, mọi người đều yêu mến Angelo chứ không phải là Michael và cũng không phải tôi. Angelo - một người hay trễ hẹn, hay quên đồ dùng, hay quên những nhiệm vụ được giao. Nói chung, đó là một người luôn trở thành “vật cản” trong khi tất cả mọi việc khác đều đang được tiến hành thuận lợi, khiến cho người giỏi chịu đựng nhất cũng phải kêu lên. Khi được giao nhiệm vụ làm bếp, cậu ta thường làm cháy nồi. Khi được giao nhiệm vụ chế tạo thủy tinh thủ công như làm cốc thủy tinh màu, cậu ta để khí nóng quá làm vỡ vụn thủy tinh nhập khẩu. Khi được giao nhiệm vụ trồng trọt, mới cuốc được vài nhát thì cậu ta bị đau lưng. Các tu sĩ đã đảm nhận công việc trước đó đều nói “Cậu này không được!” nhưng vẫn yêu mến cậu ta. Nếu hỏi họ “Tại sao?” thì họ đều không trả lời được lí do là gì.
Angelo… Angelo là như thế này. Khi mọi người nhịn ăn vào ngày thánh thứ sáu (kỉ niệm ngày Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá), Angelo gom số chocolate thường ngày cậu ta dè sẻn lại và mang tới các phòng bệnh. Các vị tu sĩ già tám mươi, chín mươi tuổi tất nhiên vẫn có đồ ăn
trong ngày đó, nhưng không khí tu viện dù sao vẫn không tránh khỏi sự ảm đạm và trầm lắng. Angelo đến bên các tu sĩ già bị bệnh và nở một nụ cười đặc biệt. Biết diễn tả nụ cười đó như thế nào nhỉ? Nếu diễn đạt bằng chữ thì là cười khanh khách, còn nếu diễn tả bằng âm hệ thì đó là âm cao kéo dài hai quãng tám. Nếu biểu đạt bằng nhịp thì 8 giây có khoảng 4 nốt nhạc nối tiếp nhau.
“Phải rồi! Hôm nay là ngày Chúa tạ thế, chúng ta phải hối lỗi. Các vị tu sĩ gầy guộc quá! Vì thế, hãy hối lỗi bằng những thanh chocolate này. Khi mà tất cả chìm vào nỗi buồn và sự khổ đau, thì ở nơi phòng bệnh này, các vị tu sĩ đang thật sự chịu nỗi đau như của chúa Jesus, cần phải được an ủi. Nào, xin mời. Và xin hãy đón nhận để an ủi tấm lòng của tôi, khắc khổ nhịn đói”.
Angelo đưa miếng chocolate vào miệng các vị tu sĩ già, và các vị này tự lấy cơm từ hộp cơm, đưa lên miệng mình.
“Chúa đau đớn vì bị đóng vào cây thánh giá nên thực sự mong muốn chúng con cũng phải chịu nỗi đau đớn đó sao? Linh mục Thomas, người có thật sự nghĩ như vậy không? Mẹ của con khi nằm trên giường bệnh, đau quá nên không uống nổi ngụm nước. Nhưng mẹ con rất thích khi nhìn thấy con ăn bánh mì và uống nước hoa quả mà họ hàng mang đến”.
Đối với các vị tu sĩ già, suốt đời sống theo những quy định nghiêm ngặt và noi gương Đức Chúa, lời nói thoáng nghe cũng đã thấy hiểm hóc đó lại không hề khiến họ nhăn mặt hay bị uy hiếp gì, có lẽ là bởi tiếng cười của Angelo nối tiếp sau câu đó. Tiếng cười giòn tan tựa như những chú chim non bé nhỏ, phát ra từ hàm răng trắng, đều tăm tắp trên gương mặt đẹp ngời sáng. Hi………. hi…….. hi…… hi……… hi…… hi………. hi…… hi………..
22
Angelo lại còn thế này nữa! Trong thời gian tập sự, cậu ấy đã có một lần vắng mặt giờ cầu nguyện ban ngày. Khi bị linh mục huấn luyện gọi đến cảnh cáo, cậu ấy đã thanh minh:
“Con đã đến xưởng làm xúc xích để phụ giúp ạ. Tu sĩ ở xưởng làm xúc xích bảo con cọ cái vỉ nướng. Là cái hộp sắt to dài thi thoảng chúng ta vẫn nướng thịt đó Cha. Con đang định cọ bỗng giật mình sửng sốt, vì khi nâng tấm ván gỗ dày đậy trên cái hộp sắt thì con thấy phía trong có một tổ chim. Những quả trứng chim trắng to hơn ngón tay cái của con, nằm đầy trong tổ. Thưa Đức cha, cha có thể tưởng tượng được không? Chim mẹ bé nhỏ bay ra bay vào cái lỗ hộp sắt bé tẹo thông gió, xây tổ và đẻ trứng ở đó.
Cái đó… con biết diễn tả thế nào được nhỉ? Nó rất đẹp ạ. Con xin lỗi, nhưng con thấy nó đẹp hơn thánh thể của Chúa mà chúng ta vẫn được nhận trong giờ thánh lễ. Con vô tình chạm tay vào, ôi… thậm chí nó còn ấm nữa. Nhưng bất chợt con ngẩng đầu lên. Thật kì lạ! Chim mẹ từ trên không trung hốt hoảng nhìn con. Đúng thế đấy! Rõ ràng chim mẹ từ trên không trung hốt hoảng… Lúc đó, con mới hiểu là mình có tội với lũ chim đó biết bao. Chim mẹ đã bay đi mất.
Con đậy cái nắp trở lại như cũ. Một lúc rất lâu sau, chim mẹ mới xuất hiện. Lúc đó, tiếng chuông báo giờ cầu nguyện ban ngày reo, nhưng con đã không thể động đậy được. Nếu con nhúc nhích là lại làm cho chim mẹ sợ và bay đi mất. Tuy là tiết xuân nhưng gió vẫn lạnh. Nếu thế thì trứng chim non đang ấm áp sẽ lạnh cóng mất, nếu thế thì… ôi, ôi, nếu thế thì không được! Thế là con ngồi dưới gốc cây mộc liên, ngồi như thể một bức tượng đã có ở đó từ lâu. Chim mẹ bay quanh con nhiều lần. Thế là con không thể động đậy thêm được nữa. Vì con thấy có lỗi, lúc trước con thấy có lỗi vì làm chim mẹ hốt hoảng…”
Vị linh mục người Đức chịu trách nhiệm huấn luyện chúng tôi hễ cứ nói đến nước Đức là ông ấy lại nhớ đến tất cả mọi thứ ở quê nhà. Ông ấy là người logic và nguyên tắc, một khi đã quyết định là rất cương quyết. Ông ấy là người ghét sự lười biếng, dối trá, phá vỡ nguyên tắc, biện minh dài dòng. Ông ấy đã từng đuổi năm, sáu tu sĩ tập sự khỏi tu viện. Có giai thoại nổi tiếng về chuyện ông ấy đã đuổi khỏi tu viện một tu sĩ tập sự tuân thủ nội quy và sống khá toàn diện, chỉ bởi cậu ta hay nói dối. Khi cậu ấy trình bày rằng: “Con thấy sinh hoạt ở đây tốt ạ. Được sinh hoạt ở tu viện này là hạnh phúc”, thì ông ấy đã nói: “Người như cậu mà nghĩ được thế thì đó là trò đùa của ma quỷ.” Rồi đuổi cậu ấy khỏi tu viện. Ông ấy còn đuổi cả tu sĩ
tập sự tuân thủ nội quy, sống toàn diện và không hề nói dối. Có một tu sĩ tập sự gương mẫu nọ nhập tu, nhưng cậu ta không trả lời được lí do tại sao muốn nhập tu. Linh mục huấn luyện đã hỏi cậu ta thế này: “Làm thế nào bây giờ? Không phải cậu, mà là mẹ của cậu có thánh chức. Không phải thánh chức của cậu mà là của mẹ cậu đấy!”
Một tu sĩ khác một lần vắng mặt trong giờ cầu nguyện ngày, đã biện minh dông dài. Ngay lập tức người đó bị trách mắng nặng lời. Nhưng linh mục huấn luyện sau khi nghe câu chuyện của Angelo đã không nói gì. Ông chỉ nói:
“Bắt đầu từ hôm nay, con hãy đi đánh giày cho các tu sĩ đồng môn trong vòng một tuần. Đó là Culpa[1].
Nghe Angelo kể lại mà tôi còn không thể tin nổi nữa, nhất là chuyện sau khi Angelo đáp:
“Vâng, con xin tuân mệnh!”
Rồi bước đi, linh mục huấn luyện gọi lại hỏi:
“Thế rồi chim mẹ lại chui vào đó để ấp trứng chứ?”
Angelo trả lời:
“Vâng, đúng vậy ạ!”
Đức cha bèn viết vội vài chữ: “Ở đây có trứng chim” và dặn Angelo:
“Người khác không biết, có thể động tay vào hoặc mèo có thể ăn, nên con lấy cái này dán gần chỗ đó đi”.
“Nhờ” vị linh mục đó mà suốt mùa xuân và mùa hè, chúng tôi không thể mong chờ có món xúc xích hay là thịt nướng!
23
Michael tốt nghiệp đại học rồi đến tu viện này. Còn Angelo thì học xong cấp ba là vào đây. Chúng tôi chênh nhau hai tuổi nhưng vẫn chơi với nhau như thế. Tuy vậy, không phải lúc nào chúng tôi cũng hòa thuận, không có mâu thuẫn gì. Thi thoảng tôi thấy kiểu nói lí luận thái quá của Michael khiến Angelo bị tổn thương. Lần nọ, có một tu sĩ nổi tiếng lười nhác trong tu viện, đến cả việc của bản thân cũng không làm mà sai Angelo làm. Điều này khiến cho Michael rất tức giận.
“Rốt cuộc thì những loại như thế vào tu viện để làm gì? Ham chơi lười biếng, bỏ giờ cầu nguyện… Không có nơi nào thích hợp hơn tu viện để sống cuộc sống lười nhác chắc?”
Angelo đáp:
“Đừng thế mà tu sĩ Michael. Tớ đã nói là tớ giúp trước. Nếu mà nói lười thì tớ cũng lười mà. Tớ cũng là người biết sống có chừng mực mà. Thật ra, chúng ta có thể không biết đấy thôi. Trước Chúa, tất cả chúng ta đều vậy mà”.
Thế là, đôi lông mày mỏng của Michael lập tức cau lại như tờ giấy nhăn, các mạch máu ở hai bên thái dương chảy rần rật.
“Đừng nói tu viện là nơi đến của những kẻ lười biếng và không có chỗ nào để đi nhé! Cậu nói thế thì chúng tớ đều bảo là không phải vậy đâu. Đó chỉ là lỡ lời khi nóng giận mà thôi”.
Cả ngày hôm đó, mặt Angelo trắng bệch. Giờ cầu nguyện, đến lượt cậu ấy hát thánh ca Gregorian (Đó là thứ âm thanh có thể gọi là âm nhạc hoặc có thể gọi là sự im lặng, không hề có nhạc cụ, tất cả các âm đều được đơn giản hóa, người biểu diễn chỉ bằng giọng mộc, đứng với tư thế khiêm tốn, hai tay chắp thấp và hát, có từ 1500 năm trước), tôi không thấy gương mặt vui tươi mọi khi. Angelo có chất giọng tuyệt hay. Và có một lí do nữa khiến cho tất cả mọi người đều yêu mến cậu ấy, đó là cậu ấy hát thánh ca Gregorian hay và đẹp hơn bất cứ ai. Dù sao thì, sau buổi cầu nguyện tối hôm đó, Angelo ghé vào phòng tôi, mang theo một miếng cơm cháy mỏng và giòn.
“Tu sĩ Yo Han, cậu ăn cái này đi. Ban nãy sau giờ ăn tối, không phải là ca trực nhưng tớ vẫn tới giúp vị linh mục nhà bếp nên vị ấy đã cho tớ đấy. Bùi và ngon lắm”.
Tôi nhận miếng cơm cháy từ tay Angelo.
“Ngon đúng không? Vị linh mục nhà bếp quả là một người tốt bụng. Tớ thấy mọi người trong tu viện này đều thật tốt”.
Angelo cười hềnh hệch như có điều gì u uất buồn. Quan hệ giữa tôi và linh mục nhà bếp không tốt. Vậy mà lạ thay, khi nghe Angelo nói thế, chút thiện ý trong cái tên mà cậu ấy gọi lên dường như đã khai thông định kiến trong tôi. Đó là năng lực thần bí của Angelo.
“Có vẻ tớ đã làm cho tu sĩ Michael tức giận. Ban nãy, trong giờ cầu nguyện, lúc đang hát thánh ca Gregorian, ánh mắt chạm nhau, tớ định cười với cậu ấy thì thấy ánh mắt đã bớt lạnh lùng và có vẻ hối hận. Cậu biết còn gì? Tu sĩ Michael nổi giận đùng đùng bao nhiêu thì trong lòng lại nhanh hối hận vì sự nóng tính của mình bấy nhiêu. Nhưng vì lòng tự ái nên cậu ấy không thể hiện ra. Tớ đã cầu nguyện cho cậu ấy có được sự thoải mái ở trong lòng. Chắc giờ cậu ấy đang thấy nặng nề. Sau khi trút giận, người mệt mỏi nhất là bản thân mình… Thế nhưng mà, Yo Han này, cái sai của việc tức giận là gì nhỉ?”
24
Angelo đi về rồi thì lúc nửa đêm, Michael vào phòng tôi đem theo một chai rượu nho.
“Cậu ấy mở sách và đọc đoạn này: ‘Chúa Giáng thế. Ồ, nhân gian ấy! Chúa hãy thấu hiểu nhân gian. Sự khiêm tốn hoàn hảo của Chúa khiến người thấu hiểu’. Haizz… Những lúc như thế này là mệt mỏi nhất đấy.
Chúa Giáng thế đã dạy rằng: ‘Nếu con mang theo sự ngạo mạn mà hướng thiện thì thà rằng hãy phạm lỗi bằng sự khiêm tốn’. Tớ cứ lăn tăn vì chuyện sáng nay đã tức giận với Angelo. Yo Han à, tớ không thể kiềm chế được với những người ngu dốt, những người không chịu quay đầu lại,
những người mà phải nhắc lại hai lần cùng một câu nói. Tớ nghĩ rồi. Tớ thông minh, tớ nghe là hiểu ngay. Thế nhưng, tớ không phải nỗ lực để đạt được điều đó. Tớ được Chúa Trời ban cho. Angelo không thông minh không phải lỗi của cậu ấy. Thế mà Yo Han à, không chịu học hành, lười nhác, coi là tốt cả và bỏ qua… Tớ không chịu nổi kiểu đó. Nhưng tại sao tớ nổi giận đùng đùng với những người như vậy? Vì cứ nghĩ đến là tớ thấy ghét và phát cáu!”
25
Những mối quan hệ thật là kì lạ. Khi đã đóng một vai trò gì đó, nói chung, vai trò đó cứ thế cố định mà tiếp diễn. Nếu tôi bắt đầu một mối quan hệ bằng việc nghe tâm sự của một ai đó, thì cứ thế, khi gặp người đó, tôi sẽ là người nghe họ giãi bày. Nếu tôi bắt đầu một mối quan hệ bằng việc thổ lộ lo lắng với một ai đó, thì cứ khi tôi có điều cần chia sẻ, tôi sẽ lại tìm đến người đó. Trong mối quan hệ với những người khác, tôi có thể trở thành người công kích hoặc có thể trở thành người bị tổn thương. Trường hợp của ba chúng tôi, Michael và Angelo ở vào tình thế đó, còn tôi thì chen vào giữa. Không phải thường xuyên nhưng thi thoảng Michael nổi giận, Angelo tổn thương. Tôi hiểu chuyện Michael nổi giận làm cho Angelo mệt mỏi. Cassianus từng nói rằng: “Kẻ yếu tuyệt đối nhẫn nhịn trước kẻ mạnh rồi không chịu đựng nổi!” Thế nhưng, người mềm yếu lúc nào cũng là Michael, không phải là Angelo.
Cứ thế, dòng sông chảy, những chuyến tàu rời đi, tiếng chuông đổ xuống. Mỗi mùa đến rồi qua, mưa rơi, mộc liên núi trải tấm áo trắng lên một phía tu viện đã tám lần nở rồi tàn.
26
Khi nhớ lại tất cả thời gian và sự kiện làm đảo lộn cuộc sống của mình, chúng ta nhận ra rằng những dấu hiệu mà mình đã không nhận ra khi đó giống như là những thước phim trên mành chiếu được sắp đặt ở nhiều chặng trên con đường đời. Trước khi cảm thấy mùa xuân qua cơn gió chạm vào làn da, thì đây đó, những mầm hoa dại đã nhú lên. Rồi ta bất ngờ
bắt gặp những đóa hoa violet sắc tím nở nơi ngập tràn ánh sáng. Như thể những dấu hiệu của mùa xuân đã có trước khi cơ thể ta cảm nhận được nó.
Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn.
Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ?
Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng… Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.
“Cháu gái của Đức giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.
Tu sĩ Joseph nói với tôi thế, dù tôi chẳng hỏi.
“Sáng nay, cô ấy đến ăn sáng ở nhà ăn của chúng ta. Các tu sĩ cứ gọi là há hốc miệng. Cô ấy xinh mà”.
Cậu ta cười ha ha như nói đùa. Tôi không hề có ý cười theo. Lúc đó tôi nghe tin bà nội phẫu thuật nên lên Seoul, và ghé qua tu viện Joseph. Hoa lê nở trắng đầy sân tu viện Joseph trên núi Bulamsan, mà lòng tôi nặng trĩu vì nghĩ đến người thân lâu ngày chưa gặp.
27
Không thể nói tất cả là tại gia đình, nhưng chuyện tôi chỉ học hai năm đại học rồi tới tu viện này, khiến tôi lúc nào cũng phải lặng thinh và cúi đầu buồn bã, cứ phải trốn trong phòng mình và vặn loa đài lên thật to, thật sự là có nguyên nhân gia đình trong đó.
Bà tôi vốn được sinh ra ở đất Bắc Hàn, trong thời chiến tranh theo dòng chạy loạn qua cảng Heungnam mà xuống Geoje. Bà vốn là một thiếu nữ thông minh từng làm việc ở tu viện Benedicto gần Wonsan. Bà là một cô gái trẻ có tài năng nổi trội hiếm có. Lần đầu tiên trong đời, bà nhìn thấy
cây trà có hàng rào, và hoa trà nở suốt mùa đông trên mảnh đất phía nam. Bà quăng mình xuống như gói hành lí. Với một thiếu nữ mà trước đó, cả thế giới quan là trận bão tuyết kéo dài suốt sáu tháng ở phương Bắc giá lạnh, thì đây là một vùng đất ấm áp và xanh tươi đến không thể hiểu nổi. Lúc đó bà địu bố tôi, vẫn còn là một đứa bé vừa mới sinh trên lưng, và bắt đầu làm việc tại cảng quân đội Mỹ. Bà gom tiền kiếm được rồi mở quán miến lạnh Naengmyeon. Từ Geoje đến Busan, từ Busan lên Seoul, Naengmyeon của bà giờ đã thành công ty có chuỗi cửa hàng trên cả nước.
Bà đến mảnh đất này sống với niềm tin duy nhất là Đạo Thiên chúa. Bà tin rằng Chúa trời tuyệt đối không để đứa bé đã ban cho mình bị đói khát, tả tơi. Chỉ có điều, thực tế là niềm tin tuyệt đối ở bà khi đó hoàn toàn chẳng có giá trị gì, không thể sánh với giá trị của trình độ tiếng Anh hay tiếng Đức lưu loát, và hình ảnh một phụ nữ trẻ đơn độc chẳng phải là vẻ đẹp đầy ý nghĩa hay sao? Thế nhưng, bà lại yêu mến Yo Han tôi - con trai cả của con bà - hơn cả đứa con trai đã khiến người phụ nữ trẻ năm nào nghiến răng chịu đựng mà sống tiếp.
28
Tôi là người cháu trai mà bà hài lòng. Theo như bà nói thì tôi hòa nhã, sâu sắc và sùng đạo. Tôi đã cố gắng suốt đời để làm hài lòng bà. Nhưng rốt cuộc, bố đã không công nhận tôi như một người con trai. Mẹ tôi đã phục tùng bà như tay sai nhưng không được thừa hưởng gì. Tôi được đối xử như một cậu ấm và cứ thế lớn lên. Thỉnh thoảng khi nghĩ về bố và mẹ, tâm trí tôi chợt lóe lên hình ảnh tôi là một diễn viên phụ được huy động nhằm hiến dâng lên bàn thờ Chúa tình yêu thương của bà, và tôi luôn đứng lùi về phía sau sân khấu.
Bà yêu tôi, bố yêu tôi, mẹ cũng yêu tôi. Nhưng không phải vì thế mà tôi hạnh phúc. Họ bất hòa. Và tôi gánh chịu sâu sắc nỗi bất hạnh nảy sinh từ sự bất hòa trong những mối quan hệ giữa họ, hơn là hưởng thụ tình yêu mà họ dành cho tôi.
Tôi không biết làm sao mà từ thời thơ ấu, tôi đã có cảm giác hoài nghi như thế về chuyện yêu một người phụ nữ. Tôi chợt nghĩ về bộ sưu tập ảnh của tác giả Choi Min Sik. Những khi thấy mệt mỏi vì sách chữ in, tôi thường mở bộ sưu tập ảnh của ông ấy được để sát ở một bên dãy thư viện. Ảnh của ông ấy có tính tả thực ở chỗ, chúng hàm chứa hình ảnh những con người tự nhiên, tiêu biểu. Nhưng từ hiện thực đó, ông ấy chỉ thể hiện bằng màu sắc giả tưởng: đen và trắng. Đó là những ảo ảnh.
Một ngày nọ, ngày ánh nắng chói chang một góc thư viện, tôi đã phát hiện thấy bức ảnh một đôi nam nữ đang ngồi trên ghế công viên ở Roma, tựa sát vào nhau, môi chạm môi. Về sau, trong suốt giai đoạn du học ở Roma, tôi đã chứng kiến cảnh tượng này nhiều vô kể, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi - một tu sĩ đang mặc trên người bộ quần áo thầy tu thì dáng vẻ những đôi nam nữ nước ngoài ngồi tựa sát vào nhau trên đường như vậy thật là gây choáng váng. Có lẽ là bởi ngày xuân chăng? Trong ánh nắng chiếu qua cửa sổ thư viện, xúc giác của sống lưng như được hâm nóng, và hơi ấm tỏa ra từ sự say đắm giữa đôi nam nữ ấy. Tất cả hòa trộn vào nhau và ập đến trong khoảnh khắc.
Thật là kì diệu. Tôi xem phần ghi chú thì thấy bức ảnh này được chụp từ khoảng hơn hai mươi năm trước. Như vậy thì bây giờ những người này đã ở tuổi trung niên. Tôi tò mò liệu họ đã thay đổi như thế nào. Họ vẫn hôn nhau như thế này chăng? Họ vẫn ôm nhau chặt thế này chăng? Sau hai mươi năm, họ vẫn như thế ư? Và sau hai mươi năm nữa… Hữu hạn và vô hạn, nhất thời và vĩnh cửu, tình yêu và thời gian, những bông hoa màu hồng bên ngoài cửa sổ và một bộ quần áo tu sĩ màu đen… Đó là một chiều thứ bảy, tia nắng mùa xuân chiếu sáng ngoài cửa sổ, bầu trời rất xanh sau những chùm lá bạch dương non mới nhú.
Lúc đó, tôi lại quyết tâm một cách mơ hồ. Không phải bởi vì tôi không ước mong một cuộc sống như thế này, mà là tôi muốn đắm mình vào một điều gì đó lâu dài hơn, vĩnh cửu hơn. Cảm xúc đó dâng tràn trong lồng ngực. Tôi tự cảm thấy niềm tự hào của một người đàn ông đã gác lại sự vị kỉ hèn mọn để chọn đi con đường cô độc với chông gai. Tôi nhớ đến vùng biển xanh ở một đất nước phía nam, nơi có những cây dừa. Ở bãi cát trắng đó, tôi đang vút bay lên trời cao với khát vọng liều lĩnh mà bầy đom đóm và đàn muỗi hay đàn sâu róm không thể nào trải nghiệm được. Và nó cũng giống như một người vừa chinh phục được khoảng không của dãy Himalaya, dù có gặp cơn gió sắc lạnh như dao khoét vào má cũng chẳng hề cảm thấy khiếp sợ.
Tôi tự hỏi trong những thứ không thể thì có những gì nhỉ?… À à, bây giờ khi nghĩ về sự tự tin tràn đầy và liều lĩnh đó, thật sự tôi thấy rùng mình và bật cười. Thế nhưng ngẫm lại, nếu không phải là sự liều lĩnh ấy, thì ai sẽ gan dạ leo lên dãy Himalaya, ai sẽ thám hiểm những nơi tận sâu đáy biển,
ai sẽ đặt nền móng khoa học ở những vùng địa cực đóng băng, và ai sẽ nói mãi mãi yêu một người con gái?
29
Hôm đó tôi cố ý không về ngôi nhà ở Seoul mà ở lại tu viện Joseph một ngày và dâng thánh lễ buổi sáng. Các tu sĩ chúng tôi mặc trang phục thầy tu màu đen, đội Mũ Sợ Chúa[2] và bước vào thánh đường. Các vị nữ tu sĩ ở tu viện nữ gần đó cũng tới và ngồi lác đác ở ghế giáo dân cùng những người
đến tu viện ở ẩn. Thánh lễ kết thúc, tôi xuống sân đứng. Những bông hoa lê trắng nở bung trong giá buốt của sáng sớm. Tôi đi bộ giữa những bông hoa lê ấy, đến nhà ăn. Chồi lá xanh biếc và hoa lê trắng đón ánh nắng ban mai, tỏa sáng. Vừa bước vào nhà ăn, tôi bắt gặp cô ấy. Cô ấy đã bỏ thánh lễ
buổi sáng và đến ngồi ở đây từ trước.
Kim So Hee. Trên chiếc đĩa trắng của cô ấy có một chút ít dâu rừng như thể cho chim ăn, một thìa sữa chua, và nửa miếng bánh mì nướng. Cô ấy đủ ý thức được việc mọi người đến nhà ăn sau thánh lễ buổi sáng, nhưng làm ra vẻ không biết, cụp mắt xuống và uống cà phê như thể hơi xấu hổ. Cô thể hiện sự kiêu hãnh của người thừa biết rằng những ánh mắt ghen tị đang đổ dồn về phía mình. Từ cô toát lên sự ý thức của một cô gái đẹp về
vẻ đẹp của bản thân, một thứ ánh sáng chói lóa khiến cho người khác cảm thấy rụt rè.
Trước lời chào vui vẻ của tu sĩ Joseph, cô mỉm cười gượng gạo và lại cúi mặt trên cốc cà phê. Tôi cương quyết không nhìn về phía đó. Nhưng rốt cuộc chỉ một lát sau, tôi lại thấy rõ những ngón tay mảnh mai, trắng ngần lẳng lặng đưa lên miệng che cái ngáp dài.
30
Tối hôm đó, trên chuyến tàu trở về tu viện, có một sự xáo trộn nhỏ đã xảy ra. Đó là tin Michael vắng mặt trong giờ cầu nguyện tối do bị cảnh sát bắt.
Tu viện của chúng tôi kể từ thời của Park Chung Hee đã nổi tiếng với những hoạt động tuyên truyền dân chủ hóa, phản đối độc tài, cùng với các vị linh mục người Đức quan tâm đến quyền con người và dân chủ. Bộ phim tài liệu của một người Đức tên là Hincheupeteo về vụ thảm sát ở Gwangju đã được đưa ra nước ngoài, cho toàn thế giới biết về Gwangju. Tu viện chúng tôi đã lần đầu tiên chiếu phim tài liệu này ở vùng Gyeongbuk. Ở Daegu, các tu sĩ của tu viện chúng tôi được cử đến các giáo đường vào những năm 70, 80. Họ trở thành đối tượng bị theo dõi. Mỗi giờ thánh lễ, phía ngoài thánh đường đều có xe khởi hành. Các tu sĩ tiền bối lâu dần lấy đó là niềm kiêu hãnh. Nhưng đó là lần đầu tiên một người tu sĩ trẻ đang hành động đơn độc thì bị bắt.
Vừa về đến tu viện, tôi được Đức giám mục cho gọi và lái xe của Đức giám mục cùng đến sở cảnh sát ở Daegu.
Trong suốt hơn 40 phút trên đường đến Sở cảnh sát Daegu, Đức giám mục không nói một lời nào. Không nhận được sự cho phép của Trưởng thượng mà tự ý ra ngoài đã là tội lớn của Michael. Trước thánh lễ nhận xứ (thánh lễ để chịu chức linh mục) mà xảy ra chuyện này là một việc nghiêm trọng đối với cả tu viện. Liệu có thể so sánh với chuyện chú rể bị cảnh sát bắt ngay trước lễ cưới không nhỉ? Tôi có thể cảm nhận được sự phẫn nộ và chết lặng của Đức giám mục đang nhắm mắt ngồi ở ghế sau. Chẳng hiểu sao, cảm giác thấp thỏm ập đến. Bây giờ, chỉ còn đặt hi vọng vào phẩm hạnh tốt thường ngày và trí óc thông minh của Michael. Duy chỉ có chuyện dạo này giữa Michael và Đức giám mục bắt đầu nảy sinh bất đồng là điều khiến tôi thấy gợn trong lòng.
Michael thường xuyên vắng mặt vào các giờ cầu nguyện sáng. Thời gian học ở trường Thần học tại Daegu, cậu ấy cũng thường xuyên vắng mặt vào giờ cầu nguyện tối. Một người đã thề dâng hiến cả thể xác và tâm hồn trước Chúa lại nhiều lần không thấy mặt trong giờ cầu nguyện. Ai cũng thấy đây hẳn là biểu hiện có vấn đề gì nghiêm trọng đã xảy ra trong tâm hồn của người đó. Đó là điều có thể thấy ngay dù bạn chỉ mới nhập tu một ngày ở tu viện Benedicto có lịch sử hơn 1500 năm này.
Tất nhiên, tôi ở gần Michael nhất nên tôi khá hiểu cậu ấy. Cậu ấy chong đèn đọc sách đến khuya. Thi thoảng ở phòng sinh hoạt cộng đồng, cậu ấy ngồi trước máy tính và viết rất dài, thế nên lễ cầu nguyện buổi sáng sẽ trở nên mệt mỏi. Rõ ràng là cậu ấy phải nhận được sự đối xử khác với những tu sĩ giấu rượu nặng trong phòng, uống đến say mèm và vắng mặt vào giờ cầu nguyện buổi sáng.
Nhưng dạo này một tuần phải hai lần đến trường Thần học để nghe hướng dẫn làm luận văn, tôi lại thấy có vẻ như cậu ấy hợp với nhóm mới. Đó là nhóm những người muốn trở thành chủ tế thực thụ. Nói đúng hơn đó là những người mang tính cách mạng của Kitô giáo, đi đến những nơi thấp kém nhất, cùng chia sẻ với những con người đau khổ nhất. Nếu không phải làm nhiệm vụ thư kí cho Đức giám mục thì tôi đã cùng tham gia với
cậu ấy. Nếu trừ ra những con người nghèo khổ và bị đè nén thì giáo lí Kitô giáo còn có thể là gì đây. Hiềm một nỗi, tôi luôn phải xử lí những công việc thực tế Đức giám mục giao cho nên điều đó là không thể. Michael đi cùng nhóm đó, tham gia cả những bữa tiệc rượu. Sau đó, cậu ấy bắt chuyến xe cuối cùng và thường hớt hơ hớt hải trở về tu viện.
“Chẳng phải bây giờ đã đến lúc cần có người chỉnh đốn lại những méo mó của nhà thờ Thiên chúa giáo sao? Yo Han à, Chúa Trời đã chôn những mìn và bom ác ở khắp nơi trên thung lũng thế gian đầy nước mắt này và chỉ bí
mật ban bản đồ bãi mìn cho các bậc Trưởng thượng, Giáo hoàng và Giáo chủ. Vì thế mà chúng ta dự thánh lễ vào chủ nhật hằng tuần để nhận được một chút thông tin về mìn ác. Chẳng phải chúng ta đang ở trong tình cảnh đó hay sao!”
Giọng mỉa mai của Đức giám mục trở nên sắc sảo.
“Những vị phu nhân của các nhà tư sản đến nhà thờ, cầu nguyện rơi nước mắt vì chồng. Thậm chí thi thoảng họ ra đường, những bàn tay đẹp ấy chia sẻ đồ ăn, thức uống. Nhưng họ đâu biết ở nhà máy, công trường thì chồng
họ đã mạt sát hay sa thải nhân viên một cách không chính đáng. Và tự họ tin rằng bản thân là con chiên của Chúa, họ dự thánh lễ, nhưng họ cũng không thể nhận thấy cảm giác tội lỗi nào cả. Đó là hiện thực của chúng ta đấy. Và lực lượng ủng hộ đông đảo nhất cho hiện thực này là giáo xứ, là tu viện! Là Giáo chủ và các bậc Trưởng thượng!
Quả thật, nếu Chúa giáng thế thì Người sẽ nói gì với những con người đó? Ta nghĩ, nếu Chúa có giáng thế thì những người đó sẽ là những người đầu tiên phải bước ra mà bị đóng đinh trên thánh giá. Hoặc là lũ chuột, lũ chim sẽ giam cầm họ dưới địa ngục. Mà không! Trong hiện thực không có cách
đó. Khả năng họ bị phê phán rất cao. Cách tốt nhất là dùng truyền thông để biến họ thành những kẻ ngớ ngẩn, là viết ra những bài báo nắm lấy những sơ hở trong nhất cử nhất động của họ. Ta từng được mời đến một ngôi nhà, ta đã hỏi một người phụ nữ trẻ tên thánh là Maria Magdalene. Thậm chí, cô ta dùng loại dầu thơm xa xỉ trị giá 2 triệu won để thoa chân. Ta bảo những người đó, ngày thường hãy bán đi những thứ mình có mà chia sẻ với người nghèo”.
Những lời về Michael được nối tiếp dài hơn.
“Nhãn hiệu của loại hương liệu đó được săn tìm, giá cả được công khai, hương liệu của Đảng cánh tả. Mà không, có khi còn là hương liệu của Chúa Jesus nữa không biết chừng. Người ta lớn tiếng thông báo rằng chỉ cần bán thứ hương liệu đó cho một phần cư dân thôi, là có thể đủ tiền ăn cho ba mươi đứa trẻ trong một tháng. Và thế này! Vấn đề là Chúa Jesus đã ủng hộ cô ấy. Thật không biết nói thế nào, thứ hương liệu đó xoa vào chân tốt thật ư? Có giả thiết cho rằng giữa Jesus và Maria Magdalene[3] có quan hệ đặc biệt. Điều này vẫn chưa được làm rõ. Nhưng theo giả thiết đó thì họ còn có một đứa con chung. Có thể như thế lắm chứ. Nếu tra cứu về Jesus Nazareth sẽ thấy hình ảnh Maria Magdalene. Một thời, Jesus và Maria Magdalene được gắn với chủ đề thế này: Jesus có thật sự độc thân? Và bài báo đó liên tục được chú ý đến. Jesus tự nhận là con của Thượng đế. Có ngày Jesus dạy phải tuân thủ quy tắc. Có ngày Jesus dạy rằng luật lệ là vì con người, nên Người và các con chiên có thể được miễn tội. Người triền miên trong men rượu. Thậm chí, có lúc Người đã tự nhủ với bản thân là hãy rời bỏ rượu. Và Người đã được mệnh danh là người nghiện rượu làm nên phép màu đầu tiên. Thế đấy!
Ban đầu, điều này có vẻ quá nặng nề đối với người vốn nghĩ tốt về Jesus. Nhưng hôm nay, những hình ảnh đó được phơi bày. Cho nên nói ngắn gọn, nếu ngày ngày chỉ khám phá trong phạm vi những sơ hở trong dấu tích sự nghiệp của Jesus, và chồng chất lên những hình ảnh như vậy, thì rốt cuộc, Jesus sẽ chẳng khác nào quái vật… Ý ta là vậy đấy. Thứ kinh khủng đó là
sát nhân mang tên Hiện thực. Thập tự giá của Hiện thực chính là truyền thông, hình phạt trên thập tự giá chính là hình phạt truyền thông”.
Tôi nắm lấy vô lăng mà trong lòng cầu nguyện thiên thần hộ mệnh cho Michael.
“Xin hãy bảo vệ Michael. Xin hãy giúp cậu ấy không bị quá khích, xin hãy giúp cậu ấy không dùng những cách giải quyết phi hòa bình. Xin hãy giúp cậu ấy đi trên con đường này bằng biện pháp hòa bình và cuối cùng chiến thắng bằng cái thiện, bằng sự im lặng, bằng sự tuân mệnh”.
Dù cầu nguyện thiên thần hộ mệnh Michael như thế, điều khôi hài là thay vì hình ảnh thiên thần hộ mệnh Michael, đầu tôi lại hiện ra hình ảnh thiên thần là một người chiến binh đứng trước mặt tôi đang cầm kiếm và giáo,
đứng đầu mặt trận tấn công cái ác. Tôi toan cầu nguyện Thánh John của tôi thì đúng lúc đó, có tiếng la mắng Thánh John và những vị có quyền lực thời đại ấy hãy sống trong sạch hơn Jesus. Họ không ăn đồ ăn dành cho giới thượng lưu. Thậm chí, đầu của những người bị cắt cổ vì lạm dụng quyền lực còn được đặt trên những chiếc mâm bạc như hoa quả đã chín và được trưng bày ở bữa tiệc. Tôi định cầu nguyện Thánh Samuel của Đức giám mục. Thế nhưng, Samuel theo ý thượng đế, sớm đuổi Saul khỏi vương vị và lập David - xuất thân là một mục đồng nghèo, trở thành một ông vua mới.
Nghĩ đến đây, tôi tự hỏi sao lại vậy nhỉ? Đột nhiên, cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng tôi.
“Hòa bình ơi, hòa bình!” Tôi nhớ đến Francesco, người đã thực hiện cầu nguyện vì hòa bình. Tôi định cầu đến vị ấy. Nhưng ngẫu nhiên tôi lại nhớ đến lai lịch của ông. Người ấy sau khi nhập tu, muốn trở thành một nhà tu hành hành khất thì bị cha ruột của mình kiện cáo. Là một thương nhân giàu có thời đại ấy, người cha không thể hiểu được và không thể chấp nhận được con trai mình. Đứng trước tòa án, khi nghe lời của người cha đã cho ăn, cho mặc, cho học hành, người đó đã nói rằng: “Nếu vậy thì cha hãy lấy lại quần áo đã mua cho con đi” và cởi hết quần áo cha mua cho, quăng ra ngay tại đó, và bước ra khỏi pháp đình với thân thể trần trụi, trở thành người tu hành như mong muốn. Khi nhìn bằng con mắt của những người bình thường thì có thể đó là hành động thiếu ôn hòa, phi lí và vô đạo đức. Đó có thể là một hành động điên rồ. Người cha hẳn là xấu hổ biết bao!
Tôi ngừng cầu nguyện, xe đến một sở cảnh sát gần Daegu. Không như chúng tôi nghĩ, Michael ngồi thản nhiên như không. Nhưng hãy xem thái độ của Đức giám mục, Đức giám mục như bị đông cứng tại chỗ. Đến tôi là người hiểu hơn ai hết sự kì vọng của Đức giám mục dành cho cậu ấy, còn thấy run bần bật.
Sự việc đơn giản hơn chúng tôi nghĩ. Có một nữ công nhân bị đuổi việc khỏi nhà máy dệt, bèn trèo lên tháp điện đường dây cao áp gần Daegu và la hét. Phía dưới, có những thành viên của công đoàn cùng bị sa thải. Có vẻ là khi rảnh rỗi, Michael thường đến chỗ này. Hôm ấy, Michael xuất hiện ở đó đúng lúc cảnh sát đang dùng cần cẩu để đưa cô gái chiếm cứ tháp một cách bất hợp pháp đó xuống. Vì thế mà giữa cảnh sát và nhóm thành viên công đoàn xảy ra xô xát. Michael đang ở đó nên bị cảnh sát bắt đi.
Ở vùng này, dù không thuộc khu vực tu viện chúng tôi quản lí, hay không phải mối quen biết với Đức giám mục đi chăng nữa thì những sự vụ không lớn, cảnh sát chỉ cần dọa một lần là vụ việc được xử lí một cách đơn giản. Chúng tôi đưa Michael trở về tu viện. Vấn đề không phải là độ nặng nhẹ của hình phạt hình sự. Trước hết, dù là làm việc có thời hạn đi chăng nữa, thì một người tu hành cũng phải cống hiến hết mình, kể cả thể xác lẫn tâm hồn. Điều đó giải thích tại sao việc tuân mệnh lại quan trọng đến như vậy.
31
Có giai thoại khôi hài về một người tu sĩ dòng Benedicto mà chúng tôi hay được nghe từ vị linh mục huấn luyện, hồi chúng tôi còn là tu sĩ tập sự.
Khoảng 1000 năm trước, ở một tu viện dòng Benedicto nọ, có một vị tu sĩ cứ hễ nghe lời về Jesus, Chúa Thánh thần, Thượng đế là niềm vui ngập tràn, cơ thể bay lơ lửng trên không trung. Đó hẳn là kết quả của ân phước. Thế nhưng, những người bạn đồng tu ở tu viện cảm thấy rất khó chịu vì cậu ấy có thể bay lên lơ lửng được như thế. Điều đó làm cản trở việc tụng niệm của họ trong giờ cầu nguyện hay giờ thánh lễ. Thế là nổ ra các cuộc bàn tán đầy ghen tị về chuyện tại sao Thượng đế lại chỉ cho một mình cậu ta có khả năng đó.
Một ngày nọ, thánh đường được sửa sang lại, người ta phải treo một cây thánh giá to chừng một tấn lên nóc tu viện. Vị tu sĩ nọ xung phong làm nhiệm vụ đó. Tại sân thánh đường, tất cả các tu sĩ đồng môn hô vang: “Jesus, Chúa Thánh thần, Thượng đế”. Thế là vị tu sĩ ôm cây thánh giá nặng, bay lên trên nóc tu viện và đặt ở đó. Nhưng khi định quay lại mặt đất
thì bầu không khí trở nên lạnh nhạt. Tất cả các tu sĩ đã quay mặt đi và trở về phòng của họ. Trưởng thượng lo lắng, gọi tu sĩ lại bảo:
“Từ hôm nay, con đừng bay lên nữa!”
Vị tu sĩ đó bay lên được không phải bởi ma thuật, cũng không phải bởi cậu ta muốn vậy, thậm chí là cậu ấy đã dùng khả năng của mình vào việc tốt. Nhưng vì tu sĩ đã thề nguyện nên dù không muốn, cậu ấy vẫn phải tuân mệnh Trưởng thượng. Kể từ đó, vị tu sĩ nọ không nghe lời của Jesus, Chúa Thánh thần, Thượng đế nữa, thân thể bị trói buộc lại nơi mặt đất.
Sau khi kể câu chuyện này, vị linh mục huấn luyện quay lại nhìn chúng tôi một lượt.
“Thế nên, từ lúc đó cho đến mấy chục năm sau, vị tu sĩ nọ trở thành một thánh nhân chân chính”.
Những người trẻ tuổi chúng tôi sau khi nghe chuyện thì nghĩ: “Nếu là thời bây giờ thì việc gì phải tuân mệnh thế? Tải lên mạng Internet đoạn phim về việc lập kỉ lục, thành lập một hội tu sĩ thì các tín đồ từ cả nước sẽ ùn ùn đến. Và sàn của hội tu sĩ ngay lập tức sẽ được trải bằng thảm tiền…” Chúng tôi nghĩ thế và đùa nhau rúc rích cười. Nhưng thật ra đó là một câu chuyện hài khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều điều.
Bên cạnh đó, có người nói, sống là con đường mệt mỏi và gian nan. Hiện thực bây giờ là thế. Nhưng hơn 1500 năm qua, việc tuân mệnh được duy trì và có thể được ví như “bí quyết kinh doanh” của một tổ chức.
“Hôm nay hãy nghỉ ngơi đi. Chúng ta sẽ nói chuyện sau khi kết thúc giờ cầu nguyện sáng mai!”
Giọng của Đức giám mục lạnh băng. Michael không hề cúi đầu. 32
Angelo đang loanh quanh ở bãi đỗ xe. Sau khi Đức giám mục vào trong tòa nhà, chúng tôi không ai bảo ai cùng đi vào phòng nến sáp ong ở xưởng nến
mà Angelo mới nhận nhiệm vụ làm việc gần đây. Trong phòng nến, mùi mật ong tự nhiên ẩm ẩm ngọt ngọt lan tỏa.
“Cậu chắc đói bụng nhỉ? Tớ đã xin linh mục nhà bếp ít kimpap và cất sẵn đây”.
Angelo đưa cho chúng tôi cái đĩa nhỏ.
“Cảm ơn cậu. Nhưng mà có chút rượu nho chứ?”
Michael chỉ uống rượu nho, không động đến miếng kimpap nào.
Lí do tôi vẫn nhớ như in ngày đó, có lẽ là bởi đó là lần mà tôi không cùng uống rượu với họ đến khi kết thúc mà đứng dậy trước. Khoảng thời gian đó, tu viện của chúng tôi nhận được lệnh từ Đan viện St.Otilien, một trong
những tổ chức quốc tế của St.Benedicto, đề nghị tiếp nhận tu viện Newton ở New Jersey, Mỹ. Là thư kí của Đức giám mục, tôi phải chuẩn bị tài liệu về tu viện Newton và hỗ trợ Đức giám mục báo cáo trong hội nghị ngày mai. Do bà nội bất ngờ đi phẫu thuật nên tôi phải lên Seoul, lúc về lại vì chuyện của Michael mà đến Daegu, nên tôi hầu như chưa chuẩn bị được mấy. Vì phải thức đêm để chuẩn bị nên không thể uống say cùng các cậu ấy được.
Lúc đó đã có chuyện không ngờ về Michael rồi, nên tôi nóng lòng muốn làm việc để Đức giám mục yên tâm. Thật sự, nếu mà không như vậy thì Michael có thể sẽ có kết quả không tốt. Phải như thế thì khi Đức giám mục hỏi, tôi mới có thể bênh vực được cho Michael một chút.
“Càng nghĩ càng không thể tưởng tượng nổi. Ông giám đốc đã đuổi việc cô công nhân đó, là tín đồ Thiên chúa giáo đấy. Ông ấy là người đã quyên góp nhiều cho tu viện của chúng ta. Nhưng mà thế này. Nếu nhìn vào sự thật thì những nhà tư sản trước khi trở thành nhà tư sản, vốn đã không có lương tâm rồi. Trong một buổi sáng, chỉ vì tình hình kinh doanh sa sút mà đuổi việc những người công nhân đã làm việc hai ba chục năm cho công ty để rút vốn, sang Mianmar xây xưởng may mới. Trước khi tớ đến, những người đó đang đánh nhau. Hơn nữa, người nữ công nhân kia leo lên trên tháp điện cao áp, không rửa mặt, chẳng gội đầu, đến đại tiểu tiện cũng giải
quyết ở trên đó luôn… Thật là không thể làm ngơ được. Những người đó không cướp giật, không phải là những kẻ ăn không ngồi rồi. Họ là những công nhân lao động cơ mà. Thế mà hôm nay, cảnh sát thậm chí còn không cho nữ công nhân đó ăn tối. Tớ không thể bỏ giờ cầu nguyện để đến đó.
Làm sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ mà đến giờ cầu nguyện tối…”
“Không thể ngoảnh mặt làm ngơ được. Nếu là tớ thì tớ cũng sẽ làm như vậy. Tu sĩ Michael, cậu đã làm đúng”.
Michael vò đầu, trong khi Angelo nước mắt lưng tròng.
“Tất nhiên, tớ thấy có lỗi khi ra ngoài mà chưa được phép, và gây phiền hà cho mọi người trong tu viện chúng ta đến vậy. Tớ xin lỗi. Lần đầu tiên tớ thấy tổn thương. Tớ đã được sống, được mặc bộ sắc phục này vì Chúa. Thế mà chính bộ đồ tu sĩ này lại thành trở ngại cho việc sống vì những con người nghèo khổ, trở ngại cho chính lí do mà tớ đã nguyện thề hiến dâng thân mình cho Chúa”.
Chúng tôi im lặng một lúc. Đêm đó, chúng tôi nói chuyện thêm một chút nữa, rồi tôi đứng dậy trước và trở về phòng làm việc. Lúc đi, tôi thấy chai rượu nho đã vơi đi một nửa. Có lẽ hai người họ sẽ ngủ ngon. Tôi pha bình cà phê đặc, uống liên tục và sắp xếp số tài liệu tiếng Anh và tiếng Đức.
Khi chuông báo giờ cầu nguyện sáng reo, tôi mới biết là mình đã ngủ gục trên bàn. Tôi vội vàng chạy cho kịp giờ cầu nguyện sáng thì thấy Angelo đến với bộ mặt như xác chết vậy. Nhìn ánh mắt, tôi đoán sau khi tôi rời đi
tối qua, hai cậu ấy đã mở thêm vài chai rượu nho nữa. Tôi không thấy Michael. Angelo và tôi nhìn nhau lo lắng, trong đầu thoáng hiện lên vẻ cau mày của Đức giám mục.
Từ lúc kết thúc giờ cầu nguyện sáng đến lúc bắt đầu thánh lễ có 20 phút giải lao. Angelo chạy đến phòng của Michael trước, còn tôi chạy ngay về văn phòng của mình để pha cà phê. Chúng tôi muốn tranh thủ thời gian. Tôi cho lượng cà phê gấp đôi bình thường. Cả tôi, cả Michael phải nhanh chóng tỉnh táo lại, nếu không thì…
33
Chúng tôi bắt Michael uống cà phê để tỉnh lại. Trước giờ thánh lễ, chúng tôi phải đứng chờ ở hành lang. Việc này gọi là Statio. Statio là một quy định khi sinh hoạt ở tu viện, và là một việc quan trọng. Trước hết, nó bắt nguồn từ chữ “stare”, nghĩa là đứng chờ.
Chúng tôi mong rằng sẽ nhận được sự thông cảm nên đã dùng nghi lễ đứng chờ truyền thống của tu viện Benedicto. Thông thường ở tu viện, chuông reo trước giờ cầu nguyện 5 phút, mọi người sẽ dừng việc mình đang làm, chuẩn bị sách và ra đứng xếp hàng ở hành lang trước thánh đường. Một lát sau, khi cửa thánh đường mở, các tu sĩ đi vào trong. Việc đứng xếp hàng này được thực hiện ngày ba lần: thánh lễ buổi sáng, giờ cầu nguyện buổi tối, và sau khi kết thúc giờ cầu nguyện buổi tối. Việc xếp thành một hàng dài ở hành lang này không đơn giản chỉ là xếp hàng. Đó là việc nhiều người đứng trong sự im lặng. Đó là sự tập trung tâm trí trước giờ cầu nguyện hay trước giờ thánh lễ. Đó là sự im lặng hướng lòng mình về Thượng đế, sự ngẫm nghĩ về một ngày mình vừa sống.
Cửa sổ tu viện của chúng tôi ở hướng tây, sự khác nhau của mỗi mùa rất rõ rệt. Sau tiết Xuân phân, ánh sáng chiếu qua ô kính màu của cửa sổ bắt đầu nhuộm màu hành lang phía đông cho đến tiết Thu phân, con đường ánh sáng đó dài hơn rồi rút ngắn lại. Tôi nhớ, mình cứ nhìn cái bóng nắng từ cửa sổ đổ dài trên hành lang ấy mà biết mỗi mùa sang.
Mùa hè, những tu sĩ đang đổ mồ hôi nơi đồng ruộng hay trong nhà bếp, ở phòng thủ công hay làm việc ngoài trời, lũ lượt về phòng tắm rửa, thay bộ y phục tu sĩ sạch sẽ gọn gàng rồi tập trung ở hành lang. Vì thế bộ y phục tu
sĩ không có mùi mồ hôi mà là mùi hương thơm ngát. Có khi trong đầu tôi thoáng nghĩ, cái hay khi cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau sinh hoạt chẳng phải là những lúc dừng chân trước cửa như thế sao? Khi tu viện của chúng
tôi có dịp tiếp đón một vị tu sĩ nào đó đến thăm quan, khi kết thúc, điều đọng lại trong tâm trí vị đó chính là hình ảnh xếp hàng đẹp đẽ này. Trước giờ cầu nguyện, khi tôi đi trên con đường dốc hướng lên tu viện, thấy một người vác cuốc trên vai đi tới, dáng bộ nhếch nhác, tôi vốn đinh ninh rằng đó là một người công nhân làm việc ở đây. Tôi chào, hỏi thăm anh. Lúc
xếp hàng chờ, tôi gặp lại anh đứng ngay trước tôi, đã tắm rửa, trên mình khoác bộ đồ tu sĩ mùa hè màu trắng sạch sẽ. Sự ngạc nhiên vẫn còn như mới đây.
Nếu hiểu sai về việc an cư vốn được nhấn mạnh ở tu viện chúng tôi, thì không biết chừng có thể sẽ cho rằng đây là một thế giới lười nhác. Thế nhưng khi lưu lại một thời gian, tìm kiếm động lực, sống bận rộn thì sẽ cảm nhận được khoảnh khắc ngưng lại, như những sợi chỉ đan xen vào nhau là cuộc sống mà chúng tôi theo đuổi ở tu viện này.
34
Hôm đó, tiếng chuông báo giờ thánh lễ vừa reo là chúng tôi đã đứng xếp hàng ở hành lang. Michael mím chặt môi. Tôi nghĩ trước hết việc cậu ấy dự thánh lễ là quan trọng, nên tôi chẳng mấy để ý đến bộ mặt trắng bệch của cậu ấy. Nhưng chính lúc đoàn người đang di chuyển liên tục đó, khi tôi
bước một bước lên phía trước thì sau lưng tôi chợt có gì đó ấm ấm dội vào. Tôi không kịp quay lại. Michael đứng lờ đờ phía sau lưng tôi đang nôn thốc nôn tháo vào bộ quần áo tu sĩ của tôi. Đoàn người xếp hàng thơm phức trước giờ thánh lễ buổi sáng bị bao phủ bởi mùi hôi thối của rượu nho chua lòm xộc lên.
Tôi lấy tay bịt miệng, sợ mình sẽ hét lên. Nhưng khoảnh khắc đó, sự im lặng kéo dài đến ớn lạnh khiến chúng tôi cảm nhận được thứ gì đó đang phun trào. Âm thanh của thứ chất lỏng bốc mùi đang òng ọc trào ra từ cổ
họng của Michael vang cả dãy hành lang dài. Những ánh mắt chỉ đổ dồn về Michael, tôi và Angelo trong chốc lát, rồi lạnh lùng ngoảnh đi. Hàng người chuyển động vào trong thánh đường. Hành lang chỉ còn lại tôi với bộ áo tu
sĩ vấy bẩn, Michael với bộ mặt trắng bệch sắp ngất và Angelo nước mắt ròng ròng. Trong thánh đường, giai điệu thánh ca Gregorian vang vọng.
Liệu tôi có thể quên được ánh mắt của Michael ngày hôm đó không nhỉ? Giá như đó là Michael kém sạch sẽ gọn gàng hơn ngày thường một chút, giá như đó là Michael ít kiêu hãnh hơn ngày thường một chút, giá như đó là một tu sĩ Michael phiền toái và bất tài, giá như đó là một Michael nhanh
nhẹn hơn một chút… Ôi! Ôi! Giá mà! Được thế thì sáng hôm đó tôi đã không bị nguyền rủa đến như vậy.
35
Đối với một tu sĩ thề nguyện hiến dâng cho Chúa trọn đời, một sinh viên trường Thần học trước lễ truyền chức linh mục, chuyện bị cảnh sát bắt và nôn vào buổi sáng, một loạt tai tiếng liên tiếp như thế là điều không may
mắn. Sáng hôm đó, sau thánh lễ, đến gần giờ cầu nguyện ban ngày, Đức giám mục không cho gọi Michael như dự định. Đức giám mục một khi đã tin tưởng ai, dù người đó có làm điều gì sai trái đến độ mọi người đều phải cau mày, thì ông ấy cũng vẫn sẽ tin và chịu đựng người đó. Đôi khi, ưu điểm ấy biến thành nhược điểm. Một khi đã mất niềm tin vào ai, Đức giám mục sẽ không hài lòng ngay cả khi người đó làm tốt. Tôi hiểu rằng, tương đương với việc tôi kì vọng ở Michael bao nhiêu thì sự thất vọng của Đức giám mục chuyển thành sự phẫn nộ cũng nhiều bấy nhiêu. Điều này còn xui xẻo hơn, bởi ông ấy là người có quyền ra lệnh cho chúng tôi gói ghém hành lí và ra khỏi tu viện bất cứ lúc nào.
Sau khi nôn hết mọi thứ đã ăn vào buổi sáng, Michael nằm im không nhúc nhích trong phòng. Angelo hẳn cũng đang ngủ trong phòng cậu ấy. Gần đến giờ cầu nguyện ban ngày, tôi vào phòng Angelo trước.
“Cậu cũng mệt à?”
Tôi vừa dứt câu hỏi, Angelo lắc đầu.
“Bình thường, tớ không uống mấy. Đêm qua, nói thật là rượu nho hơi thiếu. Có vẻ như Michael muốn uống thật nhiều”.
“Thế sao cậu còn nằm đây? Đến cậu mà cũng nằm nữa thì chẳng phải càng to chuyện sao?”
Tôi nhăn nhó, Angelo ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:
“Vậy sao? Tu sĩ, nếu thế thì tớ sai rồi, tớ sẽ phải ngồi dậy nhỉ? Tớ vẫn còn ngốc dại đúng không. Nhưng tớ thì lại nghĩ thế này. Nếu tớ cứ đứng dậy và ngang nhiên đi lại thì tất cả mọi vấn đề sẽ không còn là chuyện của riêng cá nhân Michael nữa. Ba người chúng ta lúc nào cũng bên nhau, thế mà Yo Han và Angelo thì không sao, nghĩa là chỉ mình Michael thiếu kiềm chế và gây phiền toái… Chứ đến cả tớ mà cũng ngang nhiên nữa thì vấn đề sẽ không phải chỉ là vấn đề của Michael nữa, mà có khi là vấn đề chung của các tu sĩ trẻ ngày nay. Trong mắt của các tu sĩ lớn tuổi thì kiểu gì cũng không chỉ riêng Michael là người bị khiển trách… Nhưng mà tớ cũng không biết nữa! Liệu bây giờ tớ có nên ngồi dậy không nhỉ?”
Nói xong, Angelo tránh ánh mắt tôi. Cậu ấy cười gượng khe khẽ. Nghe những lời của cậu ấy, đáy trái tim tôi như có hòn đá nhỏ ném xuống. Cộc! Không hiểu sao, lúc đó tôi lại trả lời một cách hết sức cộc lốc:
“Không! Cậu cứ nằm đi!”
Có lẽ là bởi hòn đá đã chạm đến tận đáy trái tim tôi. Angelo quan sát nét mặt tôi rồi lại nói:
“Yo Han à, trước đây khi mẹ tớ còn sống, bà đã nói thế này. Mẹ tớ bảo, lúc nào tớ cũng đúng. Đến tuổi dậy thì, có lần tớ hỏi mẹ: Con không tin lời mẹ được. Lúc nào mẹ cũng bảo con đúng là sao? Mẹ tớ đã trả lời: ‘Mẹ xin lỗi.
Nhưng mẹ thấy dường như là lúc nào con cũng đúng. Thật ra mẹ cũng không biết cái gì là đúng cái gì là sai đâu. Angelo này, nhưng mà dù con có sai, thì mẹ vẫn muốn nói là con đúng. Có như thế, khi con làm điều gì sai, con sẽ không cô đơn…’ Về sau tớ mới nghĩ nhiều về lời mẹ tớ đã nói. Tớ có thể làm gì cho Michael đây? Tớ chỉ muốn đứng về phía cậu ấy. Để cậu ấy không thấy đơn độc vì đã làm sai”.
Tôi không thể đồng tình với những lời của Angelo lúc đó. Đó là bởi tôi thấp thỏm, tôi biết sự im lặng của Đức giám mục nghĩa là sự phẫn nộ ghê gớm, giống như khi một người mẹ không thể la mắng đứa con mình. Một thời gian lâu sau, mỗi khi nghĩ về những lời nói này của Angelo, và mỗi khi nhớ hai cậu ấy, tôi lại khóc một mình.
36
Hôm đó, trước giờ cầu nguyện buổi tối thì tôi nhận được thư của Đức giám mục. Bức thư kèm theo một chỉ thị đã được in và yêu cầu tôi dán ở bảng thông báo trước giờ cầu nguyện.
Yun Michael gần đây chưa được sự cho phép của Trưởng thượng mà tự ý tham gia biểu tình, bị cảnh sát bắt đi. Sau đó lại có hành động không đẹp trước đoàn tu sĩ. Ta đã nghe ý kiến của Hội đồng giáo dục, Hội Trưởng lão, sau khi cân nhắc thận trọng vấn đề này, quyết định như sau:
- Gia hạn thêm 1 năm tập sự đối với tu sĩ Michael. Lễ truyền chức linh mục cho Michael sẽ được xem xét sau.
- Tu sĩ Michael được tiếp tục theo học trường Thần học. Cấm đến các địa điểm ngoài trường Thần học mà không có sự cho phép của Trưởng thượng trong vòng 1 năm.
- Lệnh cho Michael trong vòng 6 tháng phải đến thăm các tu sĩ già và tình nguyện làm những việc họ cần.
- Trưởng tu viện: Cha Park Samuel -
Cầm tờ giấy in mà tay tôi run run. Đây là một hình phạt. Tôi nghĩ nếu để Michael phải thấy thông tin này từ bảng thông báo thì hơi tàn nhẫn, nên trước khi đem nó đi dán, tôi ghé vào phòng cậu ấy trước. Đúng lúc đó Angelo cũng tới phòng cậu ấy. Không hiểu sao, tôi nghĩ lúc đó có Angelo cùng ở đấy lại là điều may mắn. Ánh mắt hai người bạn chuyển từ mặt tôi hướng sang đến tờ giấy đang nằm trong tay tôi. Có vẻ họ đã đoán được phần nào tình hình.
“Hình phạt à?”
Đặt chai sữa đậu cắm ống hút đang uống dở lên cái bàn cạnh giường, Michael hỏi. Tôi cố gắng trấn an cậu ấy hãy xem nhẹ những điều đó. Tôi đưa tờ giấy cho cậu ấy. Tôi thấy môi trên của Michael run lên. Tôi tưởng
tờ giấy trong tay Michael sắp sửa bị vò nát. Nhưng không ngờ, Michael nhẹ nhàng đẩy tờ giấy in về phía tôi, cười mỉm.
“Nhà thờ dạy hãy chăm sóc những người nghèo khổ mà lại không hề quan tâm xem vì sao họ trở nên nghèo khổ, nhà thờ cảnh cáo không được phá thai mà không hề muốn biết một chút gì về những người mẹ trẻ tại sao muốn giết đứa con trong bụng họ, nhà thờ không thể cảnh báo về việc bán vũ khí của các cường quốc định sát thương hàng trăm mạng người! Nhà thờ bảo li dị là tội lỗi mà giả vờ như không thấy những người không thể li dị sống bất hạnh như thế nào! Nhà thờ biết về xu hướng đồng tính là gì! Kiểu nhà thờ đó ăn quỵt giá trị lao động của những anh em tu sĩ trong tu viện, phạt những tu sĩ bỏ chạy bằng sự canh gác. Tolstoy đã nói rằng: ‘Khi những kẻ giàu có khoe khoang của cải thì chúng che giấu đi sự trấn lột, cướp bóc; khi sĩ quan chỉ huy báo tin thắng trận, ông ta che giấu đi những vụ tàn sát hàng loạt; khi một quan chức cấp cao tự đắc về quyền thế, ông ta giấu đi sự bạo lực. Nếu sự hiển nhiên này mà cũng không nhìn thấy thì hãy hoài nghi rằng chính bản thân chúng ta cũng đang ở trong sự lùng nhùng dối trá đó!’”
Gương mặt Angelo trở nên trắng bệch. Tôi ngậm miệng. Michael hỏi tôi với một giọng nhỏ nhẹ:
“Có còn lí do gì để tớ ở lại chỗ này không?”
Lí do khiến người ta khó chấp nhận những lời phê phán là bởi vì các nhà phê bình đã khéo léo giấu ẩn đi những nội dung chỉ trích trong lời phê phán đó. Chúng ta tức giận về những lời phê phán bởi chúng ta hiểu rằng những lời chỉ trích ấy nhắm vào chúng ta - người thực hiện hành vi - chứ không phải chính hành vi đó. Giả sử việc phê phán không hàm chứa sự chỉ trích mà chỉ xuất phát từ tình yêu và sự lo lắng thì nhân loại sẽ giúp cho biết bao người hối cải.
Hôm đó, tôi đã cực kì thất vọng vì quyết định vội vàng của Đức giám mục về tương lai của một người trẻ tuổi. Thế nhưng sự phẫn nộ đó hình như không giúp ích được gì cho một Michael đang hoài nghi. Tôi biết, đây cũng là thời điểm nhạy cảm nếu nói về những nhược điểm của nhà thờ đã kéo
ẳ
dài dai dẳng kể từ sau khi Jesus qua đời. Tôi lưỡng lự. Có lẽ tôi cần nói điều gì đó để an ủi và xoa dịu Michael. Nhưng lúc đó, Angelo đã nắm lấy tay Michael.
“Tu sĩ à, giá mà tớ nhận sự trừng phạt đó thì tốt biết bao. Tớ thi thoảng cũng nghĩ, mình có lí do gì ở lại đây không nhỉ. Tớ… nếu ra ngoài thì tớ cũng chẳng có chỗ nào để đi. Nhưng giả sử nếu có chỗ nào đó để đi thì tớ biết tớ có lí do không thể ra đi. Lí do đó chính là tu sĩ Yo Han, là tu sĩ Michael. Hai cậu quá tốt nên tớ đã quyết định ở lại đây. Còn lí do nào lớn hơn lí do này không? Chúng ta là anh em. Chúng ta thật sự là anh em cùng sống dưới một mái nhà!”
Michael bực bội, gạt tay Angelo ra như thể không chịu đựng được nữa. Trước khi hai người đó cảm thấy gượng gạo, đến lượt tôi nói:
“Trong cuộc đời dài như thế, việc chậm một năm cũng chẳng có gì khác đi đâu mà. Thi thoảng tớ cũng ngẫm nghĩ về những lời của linh mục huấn luyện dạy chúng ta khi chúng ta còn là những tu sĩ tập sự. Ra ngoài cũng tốt. Có thể việc thay đổi con đường đi cũng không xấu. Nhưng quyết định quan trọng đó nhất định phải được hình thành trong hòa bình”.
Lúc đó mắt Michael long lên. Đó là lời chỉ trích bảo vệ cho sự xấu hổ và danh dự mà cậu ấy đang kiếm tìm. Đôi môi cậu ấy run run.
“Phải rồi! Yo Han à! Mọi lời giải đáp luôn luôn có trong sự cô độc và đau khổ! Tớ nhất thời quên mất điều đó”.
Angelo chắp hai tay lại như cầu nguyện. Cậu ấy đang chú ý đến cuộc hội thoại của hai chúng tôi. Ánh mắt cậu ấy nhìn chúng tôi ánh lên tình yêu và sự tôn trọng. Cậu ấy nói hùa theo những lời giữa chúng tôi bằng một giọng không rõ là tự lẩm bẩm hay là để chúng tôi nghe thấy:
“Quyết định nhất định phải trong hòa bình, ừ ừ, trong hòa bình! Cô độc và đau khổ! Ừ, ừ, phải rồi. Cô độc và đau khổ!”
Tôi khuyên Michael hãy cứ ở phòng cậu ấy cho đến tận tối, và nhờ Angelo lấy một ít thức ăn từ bếp mang vào phòng cho Michael. Đó là cách tránh
cho Michael - đang trong trạng thái quá nhạy cảm - khỏi những tổn thương nếu cậu ấy nghe thấy những lời mỉa mai thường ngày của các vị tu sĩ già, hoặc những lời đồn thổi của mọi người. Có lẽ làm như vậy là tốt. Cơn gió nồm làm rát làn da giữa mùa hè không phải bởi cơn gió đó nóng, mà vì da
tôi trở nên yếu đi. Trong nhân loại, hỏi liệu có mấy người dũng cảm mà bước qua được trước những cơn mưa gió bão bùng như thế?
“Hay là tớ kiếm thêm một chai rượu nho nữa nhỉ?”
Tôi vừa dứt câu hỏi, Michael cười. Giờ “rượu nho” là hai tiếng khiến cậu ấy rùng mình.
37
Hôm đó, trước giờ cầu nguyện tối, Đức giám mục lại cho gọi tôi một lần nữa. Sự hoài nghi về một Đức cha mà tôi đã tin tưởng lâu nay khiến cho thái độ của tôi trở nên cứng nhắc. Thế nhưng dường như lúc nào Đức giám mục cũng có sự bình tĩnh đúng như tính cách của Cha. Nét mặt Cha thản nhiên:
“Có lẽ cháu ta sẽ đến đây trước bữa tối. Nó bảo có một ít hành lí nên phiền con ra ga đón nó. Con hãy đặt một phòng yên tĩnh ở nhà khách và giúp đỡ nó. Con bé sẽ lưu lại khoảng gần một tháng. Nó nói rằng sẽ viết luận văn về áp lực tinh thần của những người theo đạo”.
Phải chăng lúc đó, tôi mới biết sự thật rằng đúng là Đức giám mục có một người cháu gái? Phải chăng lúc đó, tôi mới nhớ về hình ảnh người con gái mặc bộ áo len dài rộng màu đỗ đỏ và váy trắng, nghiêng đầu cười khúc khích ở tu viện Joseph, nơi có những bông hoa lê đẹp lộng lẫy? Phải chăng lúc đó, tôi mới biết rằng người mà tôi sẽ ra đón ở ga W chính là người con gái ấy? Phải chăng lúc đó tôi mới hiểu về nỗi buồn của người anh em Michael - người đã hiến dâng cả tuổi trẻ, lên đến đỉnh cao, chỉ vì gặp tai họa từ chính quyền mà phải gác lại hoàn toàn tương lai trước mắt. Hay là lúc đó hóa ra tôi đang hồi hộp mong chờ nhìn những ngón tay của người con gái ấy đưa lên vuốt tóc, bộ váy trắng ngang đầu gối phất phơ bay…
38
Đôi khi cuộc đời như phản bội lại chúng ta, và điều này thường xảy ra khi trong lòng ta có điều gì kì vọng. Tôi đã cố gắng đóng cửa sổ tầng hầm để tránh chỗ ô cửa có những cái đầu người thương tâm được trưng bày trong
suốt mấy triệu năm qua. Nhưng tôi chưa một lần chiến thắng được, và nếu có lần tôi chiến thắng được đi chăng nữa, thì có một sự phản công từ nơi hỗn độn nào đó ập đến, hạ gục nỗ lực đáng thương ấy.
Tôi vội vàng về văn phòng của mình, xử lí mấy việc rồi chạy ra ga W. Trong trí nhớ của tôi thì đó là một tối mùa xuân. Đường vào cổng chính tu viện phủ đầy vệt trắng của lá và hoa mộc liên rừng. Tôi giẫm lên những vệt trắng ấy mà chạy. Tiếng chuông báo giờ cầu nguyện tối văng vẳng sau lưng tôi. Ngày trở nên dài hơn tôi tưởng, và từ đâu đó dường như có mùi hương hoa lan tỏa. Trên con đường dốc đi từ tu viện chúng tôi đến ga W, xa xa những con sóng sông Nakdong nhuốm màu nắng hoàng hôn đang trôi đi.
Thế đấy. Rõ ràng tôi đã thấy những dấu hiệu đau khổ mà định mệnh mở ra… Nhưng liệu có phải thế chăng? Khi viết ra những dòng chữ này, trái tim tôi như lạc giữa ảo giác và kí ức. Dù sao thì ngay từ khi bắt đầu viết,
mọi thứ đều được gói ghém trong những ảo giác rồi. Và khi đó, tôi là một chàng trai trẻ chưa đầy hai mươi chín tuổi, khao khát về giới tính chứa chan như nước hồ. Tôi không khác gì một người đang ngủ trên mảnh đất hoang, lần đầu tiên khai quật thấy mỏ dầu và tin rằng mình không phải là ngọn lửa mà chỉ có dòng chất lỏng màu đen kia mới là vấn đề.
Đoàn tàu đến trong bóng tối chạng vạng. So Hee đã đến với chúng tôi như thế.
39
“Thời tiết lạnh hơn em tưởng. Em chỉ mang theo áo mỏng”.
Tôi bê hai cái rương to đùng của cô ấy vào phòng. Lúc tôi quay lại, cô ấy nói với tôi. Tôi nhớ những lời đầu tiên này của cô ấy có lẽ bởi đó là lần
đầu tiên ánh mắt của cô ấy và ánh mắt của tôi chạm nhau. Đôi mắt của cô ấy ánh lên màu mắt đen chất phác. Đôi mắt ấy từ chối sự đắn đo, đôi mắt ấy nói lên một cuộc sống chưa từng gặp điều gì phức tạp và đau buồn, đôi
mắt ấy dường như chỉ nhớ đến những khoảng thời gian vui vẻ, những ngày tháng nhận được tình yêu vô điều kiện. Đôi mắt ấy ánh lên sự thản nhiên, đường hoàng tới độ thể hiện sự than phiền, thất vọng rằng việc đến thăm nơi toàn nam giới sống như nơi này với trang phục mỏng manh thế này làm sao mà được.
Tôi bối rối, ngần ngừ không biết phải nói gì. Gương mặt cô ấy cứng đờ rồi giãn ra. Cô ấy bật cười:
“À, chỉ là nói thì nói thế thôi. Chứ em không định nhờ anh mua hộ quần áo hay nhờ anh ôm cho ấm đâu, nên anh không cần phải quá căng thẳng như thế”.
Lúc đó, cô ấy lại đưa những ngón tay dài và trắng muốt lên che nửa miệng đang cười. Hình như đó là thói quen từ lâu.
“Chú em bảo là nhờ tu sĩ Yo Han điều gì cũng được, liệu anh có thể tập trung các vị tu sĩ giúp em không? Em phải làm phiếu điều tra. Thật ra, em đang viết luận văn về áp lực của những người theo đạo. Không biết là anh đã nghe về điều này chưa? Đặc biệt là sự kìm nén tình cảm khác giới của những người mong muốn có thánh chức trong đạo Thiên chúa là một chủ đề quan trọng. Tu sĩ Yo Han đã yêu bao giờ chưa? Các vị tu sĩ yêu như thế nào? Em muốn nghe những câu chuyện tình yêu”.
Cô ấy lại cười.
40
Ý nghĩ đầu tiên là cảm giác không thoải mái. Tôi có thể hiểu đó là khách, là cháu gái của Đức giám mục. “Hãy đón tiếp khách nồng nhiệt như đón tiếp chúa Jesus”. Dù điều này không được ghi ở trang 53, Nội quy Benedicto thì
sự hết lòng đối với bất kì ai đến thăm tu viện cũng là điều mà tu viện Benedicto chúng tôi tự hào. Đúng là tôi không cảm thấy sự phản cảm gì
lớn đối với việc này. Nhưng trên hết tất cả, việc cô ấy tìm đến chúng tôi để hỏi về “tình yêu, những câu chuyện tình yêu hay gì đó” vào lúc này khiến cảm giác thất vọng của tôi về Đức giám mục thêm đậm nét.
Một mặt, tôi không hiểu nổi ý đồ của Đức giám mục khi giao nhiệm vụ cho một tu sĩ trẻ chưa hoàn toàn rũ bỏ triệt để những khao khát về giới. Cô ấy rõ ràng là có diện mạo xinh đẹp hơn một cô gái thông thường, gương mặt trắng trẻo búng ra sữa, rõ ràng chưa từng một lần bị tổn thương trong cuộc sống. Một cô gái được sang Mỹ từ năm thứ nhất trung học, và được học suốt ở đó. Cô gái đang mặc chiếc áo phông làm lộ rõ đường cong trên khuôn ngực. Đã lâu kể từ hồi rời trường học ở Seoul để đến thành phố W này, tôi có lòng tin sâu sắc là mình đã quen với dáng vẻ của các bà xơ và nữ tu sĩ. Vậy mà trước kiểu ăn mặc tự do thoải mái của cô ấy, đôi mắt tôi run rẩy, bối rối không biết đặt ánh nhìn của mình vào đâu. Thế nên, dù có có cháu gái của mình đi chăng nữa thì chẳng thà Đức giám mục giao việc hướng dẫn cô ấy cho một vị tu sĩ lớn tuổi có thể chịu đựng được mọi thứ chứ. Tôi thấy bối rối và không thoải mái khi Đức giám mục lại giao cho một người trẻ như tôi nhiệm vụ ra vào phòng của So Hee - phòng riêng của khách mà không phải ai cũng có thể bước vào. Đức giám mục không tinh ý hay là không quan tâm, hay là ông ấy nghĩ người trẻ này đã đặt tất cả sức sống sôi sục của mình dưới bộ sắc phục đen nên thật sự mọi cảm giác đã chết, và chỉ thực hiện theo quy định, sống “không gây lội lỗi gì”…
Sau khi hướng dẫn So Hee cách pha cà phê, cho cô ấy biết cách sử dụng chung tủ lạnh, chậu rửa bát và trở về, tôi nghĩ bản thân mình có thể kìm nén cảm xúc khó chịu lúc đó là do tôi đã nghiêng về phía cho rằng đó chỉ là những vô tâm của Đức giám mục chứ không phải là ác ý. Ở nơi này, việc tuân thủ nội quy giống như là giữ gìn tính mạng của mình, nên việc Michael vi phạm nội quy và bị phạt nặng cũng là điều có thể hiểu được.
Với cậu ấy, cuộc sống được hình thành bằng nhiều hàng rào, và điều quan trọng đối với cậu ấy là biết xem phạm vi lãnh địa của mình là từ hàng rào nào đến hàng rào nào. Michael và tôi là kiểu quan tâm tại sao cái hàng rào kia lại chặn chúng tôi tới đó, tại sao cái hàng rào lại chỉ được mở rộng đến
đây thôi, ai hay thế lực nào là người định ra cái hàng rào ấy. (Ồ, ồ, thế nhưng mà nói thêm là một thời gian dài sau đó, khi tôi đã trở thành linh
mục huấn luyện, tôi cũng đã giao cho một tu sĩ trẻ việc hướng dẫn một người phụ nữ trẻ. Nói cho cùng thì đó là việc dồn chú sư tử con vào chân tường. Đó là việc càng phải làm khi đào tạo một tu sĩ. Nhưng chỉ có Chúa mới biết giữa Đức giám mục và tôi có cùng suy nghĩ đó hay không.)
41
Hôm đó, sau khi kết thúc giờ cầu nguyện tối, Đức giám mục ra lệnh cho tôi tập hợp các tu sĩ trẻ chưa thề nguyện trọn đời phụng sự Chúa và cho họ gặp So Hee. Michael chẳng có lí do gì để rời khỏi phòng, các tu sĩ trẻ thiếu ngủ
và mệt mỏi vì lao động. Thật là khó để nói với họ hãy miễn cưỡng dành thời gian quý giá buổi tối cho việc này. Tôi chỉ đề nghị vài người đồng môn chúng tôi thì nghe thấy câu đùa:
“Cô gái đó xinh không?”
Tôi ngại nhỡ anh ta thấy tình cảm của tôi nên chỉ trả lời:
“Ừ”.
Tôi chỉ nhận được lời từ chối.
“Nếu thế thì tu sĩ Yo Han đến gặp cô ta là được mà!”
Tôi biết. Đó là một sự phản ứng đồng loạt của các tu sĩ trẻ đối với hình phạt của Michael được công bố trên bảng thông báo trước giờ cầu nguyện tối, và là sự chống đối thẳng thừng với Đức giám mục.
Nhưng kiểu nói đùa này trong tình hình hiện nay lại có phần tích cực.
“Học hành mười năm như thế có uổng không? Tu sĩ Michael đã bị trừng phạt rồi, cô ấy lại còn định đến hỏi chúng ta về chuyện áp lực cơ à! Thật là không còn gì để nói! Thế thì chúng ta cứ đi gặp cô ấy rồi bảo thẳng như thế này nhé! Căng thẳng ấy à? Cái đối tượng chính luôn gây căng thẳng cho chúng tôi không ai khác mà chính là Cha - tức là chú của em đấy! Hay là chúng mình nói như thế đi?”
Nghe những lời đó, đến tôi là tu sĩ thư kí, chỉ là người chuyển lời của Đức giám mục thôi cũng cảm thấy nóng mặt. Tất cả mọi người đều từ chối. Đến người còn lại cuối cùng không bao giờ từ chối và không biết từ chối như Angelo cũng bỏ bữa tối và ở bên cạnh Michael. Tôi không thể bảo cậu ấy đến gặp So Hee. Không còn cách nào khác, tôi và So Hee, chỉ hai người chúng tôi, đành ngồi đối diện nói chuyện. Đó là ở trong phòng tiếp tân của tu viện.
“Nhiều người đã đi ngủ rồi. Không có gì ngoài đồ dùng của nam, hay là tôi mua áo khoác và chăn cho cô nhé!”.
Tôi bước vào phòng tiếp tân, nhìn So Hee và hỏi. Thay vì trả lời, So Hee cầm cái khăn vuông kẻ caro nhỏ bằng vải sợi lên. Đó là mảnh vải sợi caro hài hòa màu ngà, màu bạc hà và màu hồng. Những màu sắc đó bất chợt làm tôi nhớ tới hoa lê ở tu viện Joseph.
“Em tìm đến tận đây gặp mà chỉ có một người. Không sao. Cảm ơn anh”.
So Hee ngồi trên ghế sô-pha, đối diện với tôi. Cô ấy lấy ra từ túi xách một cuốn sổ tay và máy ghi âm. Rồi cô ấy phủ mảnh khăn vuông lên chiếc quần bò đang mặc cùng áo len trắng. Dưới quần bò màu xanh là đôi giày thể thao trắng.
“Tôi phải chuyển lời xin lỗi. Dạo này là thời gian kiểm tra giữa kì đối với học viên mới. Hơn nữa, hôm nay ở tu viện có chút việc nên không có ai trong số các tu sĩ có thể đến được”.
Có lẽ là sự thất vọng. Lúc tôi nói, gương mặt So Hee hơi sầm lại. Cô ấy nín lặng một lát rồi cười tươi ngay.
“Biết làm sao được”.
Môi cô ấy nhỏ nhắn, nhưng mỗi khi cười, hàm răng thoáng lộ ra.
“Em sẽ ở lại đây khoảng một tháng rưỡi nên không sao. Vậy thì hôm nay, em sẽ phỏng vấn riêng tu sĩ Yo Han nhỉ. Như thế, có vẻ sẽ thú vị”.
Cô ấy nói một cách miễn cưỡng và bật máy ghi âm lên. Đúng lúc kí hiệu màu đỏ của máy ghi âm được bật lên, tôi trở nên cực kì bối rối.
“Xin lỗi, tôi là tu sĩ thư kí nên chỉ theo lệnh của Đức giám mục, hướng dẫn cho cô thôi. Tôi học xong hai năm đại học rồi vào tu viện này. Đúng hơn, tôi là một thầy tu trẻ nên xin lỗi là tôi không có kinh nghiệm gì về tình yêu đâu”.
Chính tôi cũng nghe thấy giọng mình hơi run. Bỗng nhiên, trong đầu tôi thoáng hiện lên gương mặt đầy tàn nhang của một thiếu nữ tôi thường gặp ở thánh đường thời học sinh trung học. Tim tôi đập nhanh như đang nói dối. Giả sử đó là tình yêu tựa như một bộ phim mà tôi không thể kể với bất cứ ai thì tại sao tôi phải nói với cô ấy chứ. Gương mặt tôi trở nên đanh lại.
“Nếu vậy thì anh không luyến tiếc về thời trai trẻ không được nếm trải tình yêu sao? Thi thoảng khi anh nhìn thấy những đôi bạn trẻ yêu nhau, hay khi anh xem phim, đọc tiểu thuyết…”
“Không hề”.
Tôi ngắt lời cô ấy. So Hee khẽ cúi đầu, ghi chép vào cuốn sổ tay và giữ ở tư thế đó rồi ngước lên nhìn tôi chằm chằm. Ánh đèn chói lóa của phòng tiếp tân phản chiếu trên mái tóc xõa hờ trên trán cô ấy, bóng của mái tóc đó chảy thành một đường mảnh trên sống mũi bị che một nửa.
Giây phút đó, nếu chuông điện thoại không reo lên thì nét mặt tôi sẽ như thế nào nhỉ? Tiếng chuông điện thoại kêu trong túi xách của So Hee. So Hee đưa những ngón tay mảnh dẻ lên vuốt tóc rồi lục túi cầm điện thoại di động lên nghe. Cô ấy bảo “Chờ em một chút. Điện thoại quốc tế” rồi dời khỏi chỗ ngồi. Tôi thẫn thờ nhìn mảnh khăn caro hài hòa màu ngà, màu bạc hà và màu hồng trải trên chỗ So Hee vừa ngồi. Những việc vừa xảy ra trong mấy ngày nay chạy qua lộn xộn trong tâm trí tôi. Việc phẫu thuật của bà nội, tu viện Joseph, việc Michael bị cảnh sát bắt và bị phạt… “Vâng, em đây.” Giọng So Hee nghe điện thoại loáng thoáng ngoài hành lang. Chưa kịp nghĩ là mệt, tôi nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi ngay tại đó.
42
Tôi tỉnh dậy bởi tiếng chuông báo hết giờ cầu nguyện. Giật mình mở mắt, tôi trông thấy cô ấy đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Tôi không biết là từ bao giờ, nhưng hình như là tôi đã từng thấy cô ấy ngồi nhìn như thế kia. Đây hoàn toàn là việc lần đầu tiên xảy ra trong đời, nhưng tôi cảm thấy quen thuộc như một sự tiên đoán bất ngờ. Từ dáng ngồi nghiêng nhìn ra cửa sổ lúc đó của cô ấy, tôi cảm thấy xấu hổ như đang xem trộm nhật kí của ai đó. Như thể tôi thấy một cái hộp châu báu nhỏ, bị rơi xuống đáy hồ sâu nào đó đã lâu, một nửa vùi trong lớp cát đáy hồ. Đột nhiên, tôi thấy phía sau mạng che mặt bay phất phơ, một người đang đau khổ. Có một chút gợn trong lòng tôi. Tôi không biết nữa. Tôi cảm giác lúc đó mình đã hiểu được về cô ấy nhiều.
Một lát sau, cô ấy chuyển ánh nhìn từ phía ngoài cửa sổ về phía tôi, cười không nói gì. Bất ngờ, tôi thấy nụ cười đó thoáng buồn. Tiếng chuông báo giờ cầu nguyện cuối trong ngày reo cũng là lúc bóng tối đen sẫm ngoài cửa sổ ập xuống. Sự ập đến đó, đâu chỉ có tiếng chuông. Những giọt mưa màu đen cũng đổ xuống, gõ nhòa khung cửa sổ. Nhìn xuống, tôi thấy trên đầu gối mình, mảnh khăn vuông phủ trên đầu gối cô ấy trước đó.
“Xin lỗi!”
Tôi bối rối, cầm mảnh khăn vuông trên đầu gối mình, đưa cho cô ấy. “Em thấy anh hình như bị lạnh… Không sao đâu. Anh cứ đắp đi”.
So Hee trả lời. Nói là trông tôi có vẻ bị lạnh, nhưng thực sự cô ấy mới là người đang bị lạnh. Trong giọng nói của cô ấy dường như có mong muốn của một đứa trẻ trong đêm mưa, ôm chăn của mình đến bên giường mẹ và chờ đợi được nằm cùng. Bất giác, tôi gạt bỏ cảm xúc, khẽ lắc đầu. Tiếng
chuông ngân lên hòa cùng tiếng những giọt mưa, trong bóng tối và trong sự yên lặng. Tôi vừa đưa mảnh khăn vuông cho So Hee thì cô ấy nhận lấy và đắp luôn lên đầu gối mình. Khoảnh khắc, tôi cảm giác như đầu gối của mình và đầu gối của So Hee chạm vào nhau phía trong chiếc khăn vuông
ấy. Có một sự run rẩy chạy dọc sống lưng tôi. Tiếp nối sự run rẩy đó, chỗ ngồi như bị nóng rực lên.
“Em đã không phải với một người đang mệt mỏi. Ban nãy, vị linh mục gác cổng nói với em, đây là tiếng chuông báo giờ cầu nguyện cuối trong ngày, chắc anh phải đi cầu nguyện ạ?”
Có phải sự mệt nhọc vì bất chợt thức giấc, hay là do tiếng mưa, hay là bởi sắc mặt của người con gái ấy do bị lạnh, hay là vì tôi cảm thấy có lỗi, thấy mình vô trách nhiệm khi ngủ quên mất trong lần nói chuyện đầu tiên. Chính tôi cũng lắc đầu không hiểu mình.
“Không đâu. Chúng ta nói chuyện nhé! Tôi không biết về tình yêu nam nữ, nhưng tôi có thể nói về những tình yêu khác. Ví dụ như là tình cảm anh em, tình yêu với thánh giá, tình yêu dành cho bạn bè đến độ có thể hi sinh mạng sống…”
“A, thật ạ?”
Gương mặt So Hee rạng rỡ trở lại. Dường như có luồng ánh sáng mạnh phía sau gương mặt ấy, tựa ánh đèn đang reo vui. Nét mặt So Hee rạng ngời trở lại cũng là lúc trong lòng tôi vui lên như có thêm một bóng đèn được thắp sáng.
43
Đêm hôm đó, gió lộng. Âm thanh những giọt mưa theo gió đập mạnh vào cửa sổ như những nhịp sóng đến và đi, âm thanh ấy xen giữa tiếng So Hee hỏi và tiếng tôi trả lời. Tôi không còn nhớ em đã hỏi gì đêm đó. Tôi cũng không còn nhớ mình đã trả lời ra sao, nhưng chắc chắn có một sự khác biệt giữa tôi và em. Bầu không khí lúc bấy giờ có chút lắng đọng, So Hee thỉnh thoảng bật cười trước câu chuyện không mấy buồn cười của tôi.
Lúc sắp hết giờ cầu nguyện, tôi cầm ô, tiễn So Hee đang cầm một chiếc ô khác đến tận cửa nhà khách. Đứng trước bậc thang lối vào nhà khách, tôi nói:
“Vậy cô nghỉ ngơi thoải mái nhé!”
Em hạ ô xuống, mỉm cười.
“Vâng, cảm ơn tu sĩ. Em chỉ tin anh thôi”.
Lúc đó, tôi không thể nhìn vào mắt em. Ánh mắt tôi vội vàng chuyển xuống đôi giầy trắng của em. Trên đó, có vài giọt bùn mưa bắn lên tự bao giờ. Trên đường về phòng mình, tôi cứ nghĩ về giọt mưa trên đôi giầy trắng của em. Không hiểu sao, tôi bước khe khẽ một mình trên mặt sân ướt mưa.
44
Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.
Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt nhoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã… “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn.
“Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để
cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi!
45
Tình yêu ấy đến từ đâu? Ai mang tình yêu ấy đến cho chúng ta? Theo các nhà khoa học thì phần nếp nhăn của não phía trước khiến con người rơi vào trạng thái yêu chỉ hoạt động trong 1/1000 giây. Lí luận này cũng có căn cứ, nhưng các nhà khoa học khác đã phản đối thời gian 1/1000 giây này và đưa ra thời gian dài nhất là 8 giây. Shakespeare đã mượn lời Juliet nói: “Điều này là rất gấp gáp, rất không bình thường và vô cùng bất ngờ. Điều này nhanh và bất ngờ giống như một tia chớp, thậm chí còn kết thúc trước cả khi chúng ta kịp nói xong lời ‘tia chớp kìa!’”. Lời thoại này thật đúng. Tình yêu giống như là tai nạn giao thông, vì nó xảy ra trong chớp mắt mà ta không kịp nhấn phanh. Tình yêu giống như việc bước vào một bãi lầy và cứ thế mà trơn tuột xuống.
Đêm đó, trong giấc mơ sâu, tôi dường như thấy mình không phải là một tu sĩ trẻ trước lễ truyền chức linh mục, cũng không phải là một tu sĩ của tu viện Benedicto trước lễ thề nguyện. Một lần nữa tôi lại muốn mượn những lời của Juliet để biện minh: “Sao tên của chàng lại là tên của kẻ thù Montague? Hãy đổi tên đi. Mà không, vô ích thôi! Với cái mà chúng ta gọi tên là hoa hồng, dù có gắn cho nó một cái tên gì khác, thì mùi hương của nó vẫn ngọt ngào như nó vốn vậy”.
46
Giờ cầu nguyện sáng hôm sau, So Hee ngồi giữa các tín đồ. Tôi bước vào thánh đường và nhìn thấy em. Thánh đường lờ mờ tối, nhưng nơi em ngồi tỏa ra luồng ánh sáng chói lòa. Tôi nhận ra em ngay giữa hàng ghế rộng rãi
với các tín đồ. Nơi em ngồi dường như là cánh cửa kính trong suốt mở đến một thế giới mới, một thế giới có những bông hoa lạ, cây cỏ và chim muông. Linh hồn tôi như vượt qua khung cửa kính trong suốt ấy, lén nhìn
những bông hoa, cây cỏ và chim muông. Tôi muốn gõ cửa khe khẽ, muốn mở cánh cửa đó, bước vào trong. Tôi thoáng bận lòng vì Michael lại vắng mặt trong buổi lễ cầu nguyện sáng. Nhưng sự có mặt của So Hee là tia sáng mạnh hơn bóng tối do sự vắng mặt của cậu ấy. Tôi giả như không để ý đến sự reo vui trong lòng mình bởi ánh sáng chói lóa đó và bớt tự giày vò.
Trước giờ cầu nguyện sáng, khi tôi đang trên đường đến xưởng nến gặp Angelo thì gặp So Hee ở trước cửa nhà khách. So Hee đang đeo tai nghe ở cả hai bên tai và đi bộ ở khu vườn sau tu viện. Cơn mưa đêm qua đã tạnh, một buổi sáng có ánh mặt trời chiếu rọi. Tôi vẫy tay để em có thể nhìn thấy tôi từ xa. Em cũng vẫy tay đáp lại. Lần đầu tiên tôi thấy những bông hoa xuân trong tu viện nở màu hồng, màu lam tím và màu trắng sữa. Lần đầu tiên tôi cảm nhận sự nhẹ nhàng của cơn gió vuốt ve trên mái tóc tôi. Ngày hôm đó, lần đầu tiên tôi cảm thấy tia nắng nhẹ âu yếm chùm lá non, thì thầm yêu thương. Ngày hôm đó, lần đầu tiên tôi hiểu sự khác biệt ở nơi em xuất hiện và ở nơi không có em. Chỉ một người con gái đến đây mà đã khiến nơi này biến đổi thành một chốn hoàn toàn khác. Khi tên của một người đã khắc vào lòng mình thì tự nhiên từ khi nào không rõ, tên thành phố nơi cô ấy sinh sống cũng trở thành một cái tên khác và mang một ý nghĩa khác.
47
Ở xưởng làm nến của Angelo, ngoài Angelo còn có một tu sĩ khác cùng khóa với chúng tôi đang ở đấy. Hai người họ đang nói chuyện về Michael.
“Tu sĩ Yo Han, cậu đã xem thư mà Michael gửi cho chúng ta đêm qua chưa?”
Angelo vừa hỏi thì tôi mới nhớ ra sáng nay tôi chưa kiểm tra hòm thư.
“Hôm qua, cậu ấy gửi thư cho tất cả chúng ta, nói rằng ngoài việc cầu nguyện trong một tháng thì cậu ấy sẽ giữ im lặng. Vậy là tốt phải không? Việc này sẽ tốt lên…”
“Cậu ấy là người thông minh nên sẽ nhanh chóng đứng dậy được nhỉ?”
Tôi vừa trả lời, cậu tu sĩ cùng khóa cũng gật đầu tiếp lời:
“Hôm nay ở ghế dành cho tín đồ, tớ nhìn thấy một gương mặt chưa gặp bao giờ. Cô ấy có phải là cô gái hôm qua gặp mặt nói chuyện với tu sĩ Yo Han không?”
Chúng tôi gọi cậu tu sĩ cùng khóa này là tu sĩ ARS 303. Làm thế nào mà cậu ấy biết được nhỉ? (có lẽ là biết thông qua vị linh mục gác cổng) Cậu ấy thường kể chuyện, dù là về các nữ tu sĩ hay là một cô gái trẻ mới đến ngồi ở ghế dành cho tín đồ. “Các vị nữ tu đến từ Daegu có mạng che mặt trắng kia kìa. Họ đến đây ẩn tu năm ngày rồi sẽ đi. Còn khoảng hai mươi cô gái ở đằng kia thì là các giáo viên của trường Juil. Họ từ Seoul đến. Tiếc là mai họ sẽ dời đi thì phải”… Cậu tu sĩ đó sống ở phòng 303, và chúng tôi hễ cứ có điều gì tò mò thì sẽ hỏi cậu ấy. “Xin chào! Đây là mạng thông tin ARS 303. Bạn muốn biết điều gì? Về các nữ tu sĩ ấn phím 1, về các tín đồ nữ thông thường ấn phím 2. Tuyệt đối đừng hỏi tôi về các tín đồ nam, tu sĩ già và các bà. Hãy hỏi vị linh mục gác cổng về điều đó.” Chúng tôi hay tán gẫu, trêu chọc cậu ấy kiểu như “Tớ nghe nói là có thông tin về tín đồ nam mà, có mà!” Cậu ta không giấu được niềm vui khi biết được thông tin mới.
“Kim So Hee, cháu gái của Đức giám mục, tốt nghiệp đại học gì đó ở New York, đang học thạc sĩ cũng ở trường đại học đó, đang viết luận văn, sẽ kết hôn vào mùa thu này. Mùa thu này, khi tu viện chúng ta tiếp quản tu viện Newton ở New Jesey, Đức giám mục sẽ đích thân làm chủ lễ cho hôn sự đó”.
Sau lễ cầu nguyện sáng hôm đó, tôi không đến nhà ăn mà ở lại thánh đường tối om. Tôi thấy trong người khó chịu nên không thể ăn nổi bữa trưa. Lòng tôi như quả bóng bay đang đung đưa, gặp gió, bóng bay tôi nhảy nhót trên không trung, vùng vẫy theo ý mình và cười khẩy. Ngẫm ra thì thực tế đã có gì đâu nào. Chưa có chuyện gì xảy ra, chưa có gì đến và đi, cũng chưa có sự hứa hẹn gì. Dù cô ấy không có một người bạn trai nào đi chăng nữa, thì tôi cũng đâu làm được gì? Đó là điều đương nhiên. Thế nhưng thân thể tôi rã rời, tôi thấy cay đắng như một người bị người mình tin tưởng, người mình yêu phản bội.
Sau khi nhập tu, không phải là không có người con gái nào từng khiến tôi dao động trong vài ngày. Nếu nói chưa hề có người con gái nào khiến tôi muốn cùng đi ăn uống, cùng xem phim hay mong muốn được gặp lại thì là tôi đã nói dối. Nhưng chuyện thế này là lần đầu tiên. Nếu là giai đoạn đầu mới đi tu thì tôi sẽ có thể tự an ủi bản thân được phần nào. Nhưng khi đã tu tập được gần mười năm, khi nghĩ rằng thế này là đủ rồi thì chuyện tôi trượt chân, rơi vào sự xao động đến thế này thật là đầy mâu thuẫn, tôi thấy lòng tự trọng của mình bị tổn thương. Tôi không thể xóa được gương mặt tròn trắng mịn của em đã mở lòng tôi, đi vào trái tim tôi trong bóng tối đêm qua. Tôi như con cừu đực đang cắm sừng vào hàng rào, không thể vào được, cũng không thể ra được nữa. Tôi chẳng thể làm được gì.
“Những điều con đã biết trước đây, giờ trở thành hư vô. Tất cả những điều con nghĩ là con đã biết, tất cả những điều con nghĩ con đã đạt được, tất cả những điều con nghĩ tồn tại xung quanh con dường như đã biến mất. Xin đội ơn Chúa đã dạy cho con biết lòng tự trọng và lòng tự tin cũng yếu mềm như cát. Chúa đã khiến con tìm về là một kẻ nghèo hèn không xu dính túi thảm thương. Xin nhận vinh quang này”.
Tôi đã cầu nguyện như thế. Tôi đã được học cầu nguyện như thế. Tôi có thể nhận được chút an ủi với dáng vẻ cầu nguyện khiêm tốn như thế. Chúa luôn không nói lời nào. Nhưng trước sự im lặng của Chúa, tôi có thể nhận được sự an ủi. Lần đầu tiên, tôi cảm tạ sự im lặng của Chúa. Nhưng hình như những lời cảm tạ và ngợi ca Chúa của tôi không thành thật, bởi nếu không phải thế thì chiều hôm đó đã không xảy ra cuộc cãi cọ nho nhỏ giữa So Hee và tôi.
“Tu sĩ Yo Han đã viết trong sổ là tình yêu đến từ Chúa. Vậy thì tình yêu nam nữ cũng là do Chúa ban tặng. Nhưng đạo Thiên chúa lại cấm điều này. Anh nghĩ sao về vấn đề này?”
Hình như đó không phải là thái độ vặn hỏi của So Hee. Nhưng tôi đang nhạy cảm. Có lẽ cũng vì cái dạ dày đang trống rỗng.
“Đó không phải là điều cấm mà là một sự dâng hiến. Yêu ai cũng có nghĩa là cho ai đó quyền ưu tiên. Quyền ưu tiên nghĩa là hi sinh tất cả những thứ
không được ưu tiên. Những tu sĩ Thiên chúa giáo chân chính là những người đặt quyền ưu tiên là Chúa, chứ không phải là không thể yêu con người. Không phải là không thể yêu, mà là không gắn bó. Dù sao thì sự ham muốn là vấn đề. Khi yêu một người con gái thì không thể che giấu dục vọng mãi được. Nếu mọi người chỉ yêu một người con gái của mình thôi thì nhân loại đã không tồn tại những dãy phố lầu xanh. Nghiêm chỉnh một vợ một chồng liệu có tồn tại nổi trong nhân loại này không? Những người đàn ông đã lập gia đình, đau khổ khi phải lòng người con gái khác, những cô gái đã có vị hôn phu vẫn nhòm ngó những người đàn ông khác có đầy ở phòng xưng tội. Đã thề nguyện sống kính yêu Chúa rồi lại còn rung động trước con người, đó chẳng phải là giống với bản tính hay sao?”
Trong câu nói của tôi về những người đàn ông đã lập gia đình, đau khổ khi phải lòng người con gái khác, có hình ảnh của vị hôn phu trên gương mặt hơi cau lại của So Hee. Điều đó làm cho câu về những cô gái đã có vị hôn phu vẫn nhòm ngó những người đàn ông khác trở nên cứng nhắc.
Nghĩ về ngày hôm đó, giờ tôi vẫn còn thấy đỏ mặt. Tôi đã dội vào gương mặt đang đanh lại của em lời phê phán ác độc hơn.
“Thực ra, bản thân cái ý kiến chỉ hiểu là trạng thái thiếu thốn tình dục ở các tu sĩ nghe thật rất khó chịu. Khi yêu một người con gái, người con trai thề nguyện trung trinh với cô ấy trở thành một người anh hùng lãng mạn. Còn tu sĩ chúng tôi thề nguyện giữ trinh tiết trong sáng là vì theo đuổi chân lí mang tên Chúa. Chúng tôi là những vòng nguyệt quế lãng mạn sẽ dần khô và trở về với Chúa. Tôi ghét cái hiện thực lúc nào cũng xoáy vào chuyện tượng trưng cho cấm đoán và đè nén tình dục”.
Những lời nói chưa cân nhắc liệu có thể được nhận sự tha thứ không? Những lời nói lần đầu liệu có thể được thấu hiểu? Đôi mắt tôi còn đê hèn soi mói ngón tay gầy trắng muốt kia không đeo nhẫn đính hôn. Trước những lời cay độc của tôi, gương mặt em dường như đông cứng, đôi mắt mở to không chớp kia ầng ậng nước dường như sắp khóc. Tôi cảm thấy thoải mái như thể đã trả thù cho sự xấu hổ của bản thân khi cho phép trái tim mình yêu đơn phương đêm qua. Tôi nói bằng giọng thấp trầm để che
giấu cảm xúc của tình cảm đơn phương nơi mình, nhưng giọng tôi chua cay, vẻ mặt tôi đầy cương quyết và điệu bộ tôi khoa trương tự đại.
“Tôi không biết là tu sĩ lại cảm thấy khó chịu đến mức như vậy. Tôi xin lỗi. Tốt hơn là tôi nên đứng dậy trước”.
So Hee cất máy ghi âm và cuốn sổ rồi đứng dậy. Giây phút đó, tôi hiểu ra là mình đã gây ra điều gì. Nhưng có lẽ đã muộn. So Hee khẽ gật đầu chào với bộ mặt nghiêm nghị, bước ra khỏi phòng tiếp tân với điệu bộ cứng nhắc.
Giờ cầu nguyện tối và giờ cầu nguyện cuối trong ngày, So Hee ngồi ở hàng ghế dành cho tín đồ. Nỗi lo bị em tẩy chay hay giữ khoảng cách mãi mãi khiến tôi không dám nhìn sang chỗ em ngồi. Từ nơi em ngồi vẫn tỏa ra ánh sáng như trước đây, em tựa như cánh cửa lối vào thảo nguyên, nhưng dường như cánh cửa đó đã bị khóa và mãi mãi không thể mở ra được nữa.
Trái tim tôi muốn xin lỗi, nhưng lí trí lại động viên rằng thà như thế này còn hay hơn. Tôi không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng tất cả sự náo loạn, sự phẫn nộ quá mức, sự cách li này không dập tắt được ngọn lửa tình yêu dành cho em, mà trái lại, còn làm cho ngọn lửa ấy cháy lên rừng rực. Sau lễ cầu nguyện cuối, tôi ở lại thánh đường, bởi vì tôi sẽ tìm ra chính bản thân mình khi lắng tai nghe những dấu hiệu trong bóng tối. Giờ cầu nguyện cuối cùng kết thúc, tôi sẽ về phòng mình, em về nhà khách, ngoài ở thánh đường, sẽ không còn khả năng gặp mặt. Tôi thấy So Hee ngồi lại thánh đường sau giờ cầu nguyện cuối. Tôi cứ ngồi yên ở ghế dành cho tu sĩ. Tôi còn không có nổi can đảm nhìn về phía em.
Khoảnh khắc tôi ngẩng đầu lên, thánh đường chỉ còn bóng tối. Tôi mong chờ điều gì? Tôi mong em sẽ tiến lại gần tôi và bảo “Chúng ta nói chuyện nhé!” chăng? Đúng rồi. Đúng thế. Nhưng em đã một mình bỏ đi mất. Điều đó là đương nhiên. Vậy mà tôi đã ngồi đó hơn một tiếng đồng hồ để đợi em. Tôi ngu ngốc đến đáng kinh ngạc.
48
Đêm đó, tôi tự cười nhạo sự ngu xuẩn của bản thân và từ bỏ mọi thứ. Lúc trở về văn phòng, tôi không ngờ là có điện thoại gọi đến. Đó là So Hee.
“Em không ngủ được. Anh mời em uống rượu nhé?”
Tôi như người thực hiện lời hẹn ước được tiên định từ thuở khai thiên lập địa. Tôi vớ lấy rượu nho, đi tới phòng tiếp tân nhà khách như thể bị mê hoặc. Em mặc bộ váy liền màu đen, khoác chiếc áo len đan rộng màu be và đang đợi tôi. Nhìn thấy tôi, em mỉm cười.
“Em đã tức giận. Vì anh đã lăng mạ luận văn của em ngay trước mặt em”.
So Hee vừa gắp lát pho-mát vào chiếc đĩa nhỏ vừa nói. Tôi đang lưỡng lự không biết phải nói lời xin lỗi như thế nào thì em lại tiếp tục.
“Nhưng em muốn tha thứ cho anh. Bên ngoài có lạnh không? Anh đang run quá kìa”.
“Tôi xin lỗi. Nói ra rồi tôi mới thấy cảm xúc thực của tôi hoàn toàn khác cơ… Tức là ý nghĩ của tôi lại bị tôi biểu đạt sang một chiều hướng khác. Tôi cũng muốn xin lỗi. Tôi xin lỗi”.
Đúng như em nói, tôi đang run. So Hee đứng khoanh tay nhìn tôi chằm chằm. Không như tôi tưởng, ánh mắt em ấm áp và dịu dàng. Ánh mắt ấy chứa đựng sự thương hại như khi một người chị cả nhìn em trai. Bằng trực giác, tôi cảm nhận được rằng em đã biết được nỗi buồn và sự dao động của tôi mất rồi.
“Em nói những lời này, có thể anh sẽ thấy không vui, nhưng tu sĩ Yo Han chính là người mà em kiếm tìm bấy lâu nay”.
So Hee đẩy cốc rượu nho đỏ về phía tôi.
“Lí trí, đặc biệt là tình cảm lí trí dường như đã khiến anh chịu rất nhiều áp lực. Luận văn của em thật ra là nghiên cứu về điều này. Xin lỗi, nhưng mà em muốn gặp anh và nghiên cứu thêm. Em cần phỏng vấn nhiều. Tất nhiên anh có thể từ chối”.
So Hee khẽ cười. Tôi không cảm thấy nhục nhã như một tù binh bị kẻ thù bắt và bị lột trần. Tôi thích nụ cười của em. Tôi đắm chìm trong cảm giác xúc động của một người được tha thứ cho tội lỗi tưởng chừng không thể dung thứ. Đêm về khuya, dù đây là phòng tiếp tân của nhà khách nhưng chỉ có em và tôi, chỉ có hai người chúng tôi. Tôi vui sướng. Tôi là đối tượng trắc nghiệm, là “người chịu áp lực về cảm xúc lí trí”, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ bị em tẩy chay, có thể tôi sẽ nhận được lời mời bước qua khung cửa kính phía sau em để đến thảo nguyên đó nữa. Trái tim tôi đập rộn ràng.
Lúc đó, từ trong túi áo của em, tiếng chuông điện thoại reo. Hình như đó là điện thoại của vị hôn phu mà em sẽ làm đám cưới vào mùa thu tới. Lúc đó đã quá 10 giờ. So Hee dáng điệu ngẫm nghĩ, cầm điện thoại lên rồi tháo pin. Tại em đang cân nhắc điều gì chăng? Dường như có điều gì đó giống với nỗi buồn ẩn chứa trên gương mặt em lúc nhìn đăm đăm qua khung cửa sổ ngắm mưa rơi đêm qua khi tôi tỉnh giấc.
“Hình như là điện thoại quốc tế, lẽ ra em cứ nghe đi chứ!”
So Hee quay về phía tôi, gương mặt với chiếc răng khểnh chìa ra, nghiêng đầu cười. Lúc đó, tôi thấy em rất đẹp đến độ tôi không thể nói thêm bất cứ điều gì.
“Bây giờ đang thực hiện phỏng vấn mà. Em muốn tập trung”.
Em thận trọng giải thích. Lúc đó, trái tim tôi nhảy nhót reo vui niềm vui của người được chọn.
Đêm đó chúng tôi ở cùng nhau. Lần đầu tiên tôi biết sự thật là em bằng tuổi tôi. Trước khi gia đình em di cư sang Mỹ, em sống cùng khu phố với tôi, và đương nhiên là học ở trường tiểu học lân cận. Em biết về món miến lạnh của bà nội tôi, em thích món ăn đó, và khi ở Mỹ em vẫn nhớ hương vị đó. Thế là đêm đó, lúc trở về phòng, tôi còn hứa với em rằng “Lần tới khi em lên Seoul, tôi sẽ mời em ăn thỏa thích món miến lạnh ở cửa hàng do chính bà nội tôi tự tay pha nước dùng”.
Khi tôi đứng dậy cất dọn cốc rượu, em chìa tay ra. Tôi chần chừ rồi cũng chìa tay về phía em. Lúc đó, tôi nhận ra rằng mỗi khi em cử động, có một
mùi hương thanh nhã tỏa ra. Mùi hương đó thoang thoảng như đêm mùa xuân, nhẹ nhàng như mùi dầu gội dưới làn tóc. Đầu tôi quay quay. Tay em tựa như nắm bột mềm mới nhào xong, dẻo dẻo và thanh mảnh. Nhận thức được sự mềm mại ấy, tôi ngượng ngùng định rụt tay lại. Em láu lỉnh nắm lấy tay tôi đang định rụt lại và nói với giọng nũng nịu:
“Tu sĩ Yo Han, khi không có ai thì em gọi là anh Yo Han được không? Chúng ta là bạn mà. Với cả, lúc không có ai thì anh có thể chỉ gọi em là So Hee thôi, thế được không?”
Trong lúc bối rối, tôi gật đầu đồng ý sẽ như vậy rồi đi ra ngoài. Không ngờ, So Hee đi theo tôi. Trên tháp chuông, trăng đầu tháng mỏng manh, tựa như một mẩu giấy dán trên tường trời, tựa như hình móng tay cắt nhẹ là rời ra. Trong không khí ấm áp, không còn chút đe dọa nào của mùa đông, mùi hương hoa từ đâu đó tỏa ra…
“Em về nghỉ đi nhé!”
Tôi vừa nói xong, nét mặt So Hee trở nên vui vẻ và em tiến đến đứng gần tôi, nói:
“Anh đi đâu thế? Em sẽ tiễn anh”.
“Như vậy sao được!”
Lời của tôi khiến em dừng bước, đứng yên chỗ đó và mở to mắt. Không biết có phải là bởi bóng dáng in đậm dưới ánh đèn trước cửa xưởng kính chăng, mà khi đó tôi thấy mắt em mở to, đen nhánh.
“Sao lại không được? Đó là quan niệm cổ hủ mà. Đi thôi. Lần trước em thấy hình như là đi lối này, đúng không?”
Em vừa nói vừa bước, đi vượt lên trước tôi. Tôi bối rối, bước theo em đến tận chỗ hàng rào nhỏ.
“Vậy anh đi cẩn thận nhé! Đối tượng mô tả trong luận văn của em! Đêm xuân tuyệt quá, có lẽ em sẽ đi bộ thêm một lát nữa”.
So Hee lè lưỡi, cười như một cô bé tinh nghịch. Tôi nhìn em bước một bước chân vào bóng tối. Không hiểu sao, tôi quay lại chỗ em.
“Tối rồi. Trong tu viện không nguy hiểm, nhưng em đi một mình, hơi…”
So Hee bước nhanh như thể trêu tôi. Tôi vất vả đuổi theo thì em dừng bước và lại đùa:
“Nếu thế thì anh tiễn em nhé! Đến tận nhà khách cơ!”
Tôi gật đầu và bước theo em. Tu viện chìm trong sự im lặng. Tiễn em đến tận nhà khách, tôi chào “Vậy nhé!” rồi dợm quay bước đi. Lần này thì So Hee lại đi theo tôi.
“Định tha thứ thì phải tiễn như thế này khoảng ba lần nhỉ? Chúa đã nói với người đệ tử Bedro phản bội Người vào ngày bắt Bedro rằng: ‘Bedro, con có yêu ta không?’ Chúa đã hỏi ba lần rồi tha thứ. Ban nãy anh nói xin lỗi em đúng không? Vậy thì chúng ta làm như thế này thêm hai lần nữa nhé”.
So Hee lại che miệng bằng những ngón tay mảnh mai, cười khúc khích. Tu viện chìm sâu trong sự tĩnh mịch. Tôi biết tiếng cú mèo kêu từ phía xa kia không thể che giấu được tiếng đập trái tim tôi. Liệu em có nghe thấy không nhỉ? Tôi cố gắng thở nhẹ. Cứ thế đi đi về về ba lần.
“Bây giờ anh về đi”. Em lại đưa tay về phía tôi. “Em lại nhờ anh tiễn thêm nữa chắc là anh sẽ cười em. Hì hì… Về cẩn thận nhé! Anh Yo Han”.
Em nói.
Tôi… Tôi không biết nữa. Tôi đã nói ra tên em rồi chăng? Tôi quay bước đi như thể trốn chạy. Không rõ lúc đó em có nhìn dõi theo tôi không, hình như tôi đã thẳng lưng lại rồi bước đi.
49
Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại
như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa
xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.
Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.
50
Cứ thế hoa tàn, cứ thế lá mọc, những ngày xuân trôi đi. Cứ thế em và tôi gặp nhau mỗi ngày. Chúng tôi nói chuyện với nhau cả giờ đồng hồ hoặc hơn thế. So Hee cũng nói chuyện với Angelo và đã thân hơn. Em ghé thăm xưởng làm nến và ngồi uống cà phê với cậu ấy. Angelo với ai cũng vậy, và cậu ấy đương nhiên cũng quý mến thân thiện với So Hee. Tu sĩ ARS 303 thỉnh thoảng ở đó cùng chúng tôi. Em giữ khoảng cách và cư xử với tôi, Angelo và ARS như nhau. Chỉ khi thật sự không có ai, em mới gọi tôi là anh Yo Han và nói chuyện theo kiểu thân mật.
Thi thoảng, tôi đứng ở một góc phòng khách nhận điện thoại của Đức giám mục, hoặc khi tôi đang làm việc gì đó, em chống cằm và nhìn tôi chăm chú. Những lúc như thế, tôi không thể hiểu được ánh sáng long lanh ấy trong mắt em. Tôi xấu hổ trước ánh mắt ấy và hỏi:
“Sao thế? Sao cô lại nhìn tôi như thế?”
Em bĩu môi, phụng phịu vẻ giận dỗi.
“Sao anh không làm như đã hứa? Chúng ta đã bảo làm bạn cơ mà. Thế nên anh Yo Han, anh phải gọi em là So Hee chứ!”
Vì thế tôi cũng gọi “So Hee” ở chỗ chỉ có hai chúng tôi, dù chưa quen như em.
Tôi tuyệt đối không mong gì hơn việc có em là người bạn quan trọng nhất ở đây. Duy chỉ có lần tôi đến Daegu làm vài việc lặt vặt Đức giám mục giao. Những người con trai, con gái bỗng nhiên trở nên tình tứ trước mặt tôi. Trước đây không hề như vậy! Tôi bắt đầu để ý. Họ nắm tay nhau cùng dạo bước, người con trai gối trên đùi người con gái dưới bóng cây, họ trao cho nhau những nụ hôn dài ngay góc phố tôi đang đứng. Những lúc đó, một bên trái tim tôi như có ai rót rượu Soju lạnh, cảm giác tê tái. Nhưng tôi không dám mong ước, không dám tưởng tượng. Thay vào đó, thi thoảng, có những cơn đau không rõ lí do ùa đến như gặm nát một góc trái tim tôi.
Buổi tối muộn một hôm nào đó, có cuộc điện thoại gọi đến. Tôi đang mặc bộ quần áo tu sĩ, chuẩn bị bước ra khỏi văn phòng để dự lễ cầu nguyện tối. Tôi nhấc điện thoại.
“Yo Han, em xin lỗi. Anh đến đón em với. Em không biết bây giờ mình đang ở đâu”.
Giọng So Hee hơi run. Đầu dây bên kia, tiếng gió đang thổi mạnh. “Em lạnh quá. Hình như em bị lạc đường”.
Tiếng nấc nối tiếp câu nói của So Hee. Hình như là em đã uống rượu. “Ở đó em trông thấy gì? Có gì đó như là bảng hiệu hay không?”
“… Không biết. Em chẳng thấy gì. Chẳng thấy có cái gì. Không, em chẳng muốn trông thấy gì…”
So Hee nói giọng như một đứa trẻ, rồi bắt đầu khóc qua điện thoại. Tim tôi đập mạnh.
“Có chuyện gì thế? Em gọi tôi như thể đã có chuyện gì xảy ra vậy”. Bất ngờ So Hee đáp:
“Ưm”.
“Có chuyện gì thế? Sao cơ? Em bị thương à?”
Tôi bối rối và bắt đầu một tay cởi bộ sắc phục.
“Em bị thương. Đau lắm! Rất đau!”
“Em đọc cho anh số điện thoại của cửa hàng gần đó. Không có chỗ nào để ngồi tạm được sao?”
Sau khi thuyết phục được So Hee vào một cửa hàng tiện lợi nhỏ ở gần đó, tôi cởi bộ đồ tu sĩ, chạy đến xưởng làm nến. Lúc đó, tiếng chuông báo lễ cầu nguyện tối lại vang lên. Angelo đang khóa cửa phòng xưởng nến. Tôi
kể đầu đuôi câu chuyện cho cậu ấy nghe rồi lấy chìa khóa xe. Angelo có một chiếc xe Benz chuyên để chở nến ở xưởng nến. Rồi tôi lao đến siêu thị cạnh bờ sông nơi có So Hee đang ngồi. Trong lòng tôi vang lên tiếng lễ cầu nguyện tối ở tu viện. Tôi lo lắng cầu Chúa hơn bất cứ buổi tối nào khác.
“Kính Chúa, xin Chúa hãy cứu giúp con. Thượng đế, xin hãy mau cứu giúp con. Thượng đế xin hãy cứu giúp cô ấy. Thượng đế, xin mau lên! Cứu cô ấy!”
51
So Hee đang đứng trước cửa một siêu thị nhỏ bên bờ sông. Tóc em bay rối bời trong gió lộng. Tôi tưởng như cơn gió sắp quật ngã em. Tôi vội vàng quay xe, đỗ trước mặt em. Tôi vừa xuống xe, So Hee bất ngờ chạy đến như định ôm chầm lấy tôi, nhưng không hiểu sao, tôi lùi lại một bước. Chúng tôi giữ một khoảng cách không rõ ràng và cứ đứng như thế. Trên mí mắt So Hee thoáng đọng lại ánh nhìn thất vọng. Tôi nhanh mắt quan sát em. Trông tư thế đứng và quần áo không có vẻ gì là bị thương nặng.
“Em bị thương ở đâu? Em bị thương nặng không? Chúng ta cứ đến bệnh viện đã!”
“Đêm mùa xuân gì mà lạnh thế này? Lạnh quá! Anh vào xe đi đã rồi nói chuyện!”
So Hee vào xe Benz. Tôi vừa ngồi vào ghế lái, em vòng tay tự ôm lấy mình và khẽ run run.
“Ngày hôm qua nóng như mùa hè ý. Em mặc áo mỏng đi, suýt lạnh chết cóng”.
“Em bị thương ở đâu?”
“Không đến mức phải đi bệnh viện đâu”.
So Hee xòe tay phải ra. Có vết xước dài và máu đang ứa ra. “Em bị ngã”.
Em trả lời, nét mặt ỉu xìu. Tôi muốn vuốt ve bàn tay ấy, nhưng tôi không thể làm thế được. Tôi muốn chạm môi thật sâu vào vết thương đang ứa máu của em để lau đi, nhưng tôi không phải là người như vậy.
“Bị ngã như em bé ấy hả? Em có… đau lắm không?”
Khoảnh khắc đó So Hee ngước đôi mắt đen huyền nhìn thẳng vào tôi. Phút bối rối, tôi đón nhận ánh nhìn ấy như nhận một quả bóng đang bay tới và bất động như thể vừa bị bắt. Có điều gì gọi là vĩnh cửu không? Vĩnh cửu là thời gian ngừng trôi hay là thời gian không thể chi phối chúng tôi, hay là quá khứ không thể quyết định tương lai? Giả sử nếu là vậy, thì có lẽ khoảnh khắc đó, tôi đã cảm nhận được sự vĩnh cửu. Tôi vẫn còn nhớ khoảnh khắc đó. Khi khoảnh khắc đó lóe lên trong tâm trí, tôi lại thoáng thấy đáy mắt thăm thẳm của em. Mười năm trôi qua, tôi vẫn thấy dường như đang ở đó, thế nhưng tôi không biết đó có phải là sự vĩnh cửu không.
So Hee từ từ gật đầu.
“Dù sao thì, mới chỉ như thế thôi là may rồi. Em còn khóc nữa… Có biết anh lo sợ thế nào không? Về đến tu viện có thuốc cấp cứu nên hôm nay em hãy tạm thoa thuốc đó đã”.
Tôi khởi động xe, đặt tay lên cần gạt số. Lúc đó, So Hee đặt tay lên tay tôi đang định đặt lên cần gạt số. Tay tôi dừng cứng lại dưới tay em. Không rõ là em cảm thấy tay tôi cứng nhắc hay là chính em không hiểu nổi hành động của bản thân mình, em rụt nhanh tay lại, mím môi rồi nói:
“Cứ ở đây thêm một chút nữa đi anh. Em sẽ để anh về trước giờ cầu nguyện cuối. Cứ ở đây ngắm mặt trời đang lặn trên mặt nước sông kia, cho đến khi biến mất hẳn, nhé anh?”
Lúc này tôi mới để ý thấy những vệt nước đã khô trên mí mắt em.
Tôi biết sự thật là cuộc đời… cuộc đời thật ngang trái. Linh hồn và thể xác cũng vậy. Linh hồn tôi hiểu lời So Hee là ý gì. Bàn tay tôi trong khoảnh khắc được ấp dưới tay em cũng cảm thấy điều đó ý nghĩa gì. Thế nhưng, tâm trí cứ ngoan cố từ chối tất cả sự thật này. Tôi nói:
“Anh phải trả xe lại cho xưởng nến. Nếu tu sĩ phụ trách xưởng nến mà biết là anh sẽ bị phạt. Vắng mặt trong buổi lễ cầu nguyện tối thế này cũng không được”.
“Không được sao? Thực sự là không được sao?”
So Hee không nhìn tôi. Em đang nhìn dòng sông chảy qua cửa kính xe ô tô, lẩm bẩm:
“Đúng thế. Không được. Anh đã bảo là không được mà!”
Mặt trời sau những đám mây xám vẽ đường sáng mờ dần, nghiêng đầu trên dòng sông rồi lặn khuất. Có gì đó như từ trường mạnh mẽ đang kéo tôi xuống dòng sông kia. Nếu khởi động xe và đi thẳng về phía trước, chiếc xe này sẽ vượt qua làn sóng kia, đưa chúng tôi đến một nơi xa. Liệu có thể vậy chăng, tôi muốn được như vậy.
“Mai em phải lên Seoul sớm”.
So Hee đột nhiên nói vậy.
“Vậy sao? Có chuyện gì…?”
“Em thấy em nên ra đi thì tốt hơn. Nếu mà không như vậy thì… có lẽ là vì điều mà anh nói, vì điều ‘không thể được’…”
Tôi nhìn chăm chú, không hiểu chuyện gì xảy ra, em nói tiếp:
“Em không thể bảo người đó đến đây được. Nơi có chúng mình đang ở đây!”
So Hee nói đến đây thì bưng mặt khóc. Tôi ép người co lại hết mức có thể. Đó là cách tốt nhất để xa khỏi em đang ngồi rất gần tôi. Vai So Hee co lại một cách đau đớn. Tôi không thể chịu đựng được cơn lũ cảm xúc ào đến như thủy triều của em. Hơi thở dồn dập, tôi không chịu đựng được. Mồ hôi lạnh tứa ra không ngừng làm trán tôi ướt đẫm. Ở cái khoảnh khắc bùng nổ như núi lửa phun trào ấy, tôi làm động tác khởi động xe. Nhưng ngay lập tức sau đó, tôi cảm thấy mình như bị đông cứng, như hóa thạch sau mấy trăm năm bị nham thạch phủ kín. Tiếng khóc của So Hee lắng dần. Em yên lặng một lát, thở một hơi dài lấy lại bình tĩnh rồi mở túi xách. Em lấy kẹo bạc hà trong một cái hộp nhỏ, tự cho vào miệng một cái, và để một cái kẹo vào lòng bàn tay, đưa về phía tôi. Màu trắng của kẹo bạc hà khiến tôi đau nhói. Tôi lưỡng lự một lát, rồi cầm lấy cái kẹo bạc hà nhỏ màu trắng trên tay So Hee. Em nhìn lòng bàn tay trống không và nói:
“Anh chỉ cảm nhận được lông tơ trên tay em thôi. Chỉ những lông tơ rất nhỏ trên tay em thôi”.
Chính lúc đó, tôi nhận ra mình đang rất đề phòng em, em lại nói chuyện theo kiểu vậy. Xin lỗi. Là em gợi ra những chuyện đau lòng, nhưng tôi không thể giúp được gì. Tôi thậm chí còn không thể chạm vào một ngón tay của em.
“Đừng khóc nữa. Cô vốn hay khóc vậy à?”
Tôi vừa hỏi, So Hee nhìn tôi chằm chằm như oán trách:
“Anh, sao anh toàn dùng những từ khách khí thế? Đã nói là làm bạn cơ mà!”
“Xin lỗi cô! Tôi xin lỗi!… Được rồi! Anh xin lỗi, người bạn ạ”.
Sóng nhấp nhô không ngừng. Mặt trời nấp giữa những đám mây xám. Gió thổi như muốn cuốn, trói gọn những lá cờ dọc bờ sông. Những hàng cờ thẳng hàng.
“Em không thể bảo người đó đến đây được. Nơi có chúng mình đang ở đây”.
Cô ấy nói “chúng mình”. Điều đó có ý nghĩa giống như là tôi đã có được cả thế gian. Từ trong lồng ngực tôi, lời cầu nguyện vang lên.
“Anh sẽ không làm em buồn. Anh sẽ cầu nguyện vì em, sẽ chúc phúc cho em và cầu mong cho hạnh phúc của em. Đừng đau đớn. Đừng khóc và đừng khổ sở. Em xinh đẹp nên em phải sống thật rực rỡ. Anh hứa đấy. Dù em là ai, dù em ở đâu, cùng với ai… anh vẫn cứ yêu em, mãi mãi, mãi mãi”.
52
Ngày hôm sau, có cuộc họp sau giờ cầu nguyện sáng. Tôi kiểm tra trên mạng thì thấy có chuyến tàu hỏa đi Seoul lúc 10h. Kết thúc họp là 9h50’. Tôi chạy về phía tường rào tu viện, chạy qua ngọn đồi vẫn thường đứng dõi theo những đoàn tàu, chạy đến tận hàng rào dưới của tu viện. Tôi nhìn thấy So Hee đang đứng trên sân ga. Chiếc áo khoác trắng của em bay phần phật trong gió xuân. Có lẽ So Hee không thể nhìn thấy tôi. Em đang nói chuyện điện thoại với người nào đó. Đôi lúc, em đưa tay lên vuốt những sợi tóc đang bay trong gió, và lại nghiêng đầu về phía sau cười như thế. Một lát sau, tàu vào ga, xóa khuất mọi thứ, rồi tàu đi.
Hôm đó, tôi đứng ở hàng rào dưới cho đến tận giờ cầu nguyện ban ngày. Lúc đi từ ga đến tu viện, tôi bước từng bậc cầu thang một. Đếm ra, có năm bức tường. Tôi đặt lòng mình vào bức tường thứ năm.
53
Trong khoảng thời gian So Hee đến và đi như thế, Michael hoàn toàn tự tách khỏi chúng tôi, ngoan cường giữ im lặng và không xuất hiện ở đâu. Một ngày nọ, tôi gặp cậu ấy ở vườn sau tu viện. Cậu ấy gầy đi nhiều. Hôm đó tôi đã thu lấy can đảm để chạy đến bên Michael và gọi cậu ấy. Ánh mắt Michael nhìn tôi sáng, nhưng là một ánh sáng lộng lẫy. Đó là ánh mắt của một người chứa đựng rất nhiều hơi nóng trong cơ thể. Đã hết một tháng kể từ khi Michael chịu phạt theo lệnh Đức giám mục, và đến chăm sóc giường bệnh.
“Tớ đang rảnh rỗi, chúng ta cùng đến phòng bệnh nhé! Tớ sẽ cùng giúp cậu”.
Michael nhíu cặp mắt sâu mỉm cười. Chúng tôi cùng đi dạo ở vườn sau tu viện.
“Phải đến khi vào tu viện, lần đầu tiên tớ mới có suy nghĩ như vậy. Hồi đại học, lúc nghe bạn bè hỏi về Chủ nghĩa tư bản hay sự bóc lột, tớ hầu như không mấy để ý. Tớ cứ nghĩ rằng nhà tư bản là nhà tư bản và có phần của nhà tư bản, người lao động có phần của người lao động. Thế nhưng từ khi vào tu viện, tớ nghĩ về sự bóc lột một cách bất hợp lí. Lễ cầu nguyện sáng, thánh lẽ buổi sáng, lễ cầu nguyện ban ngày, lễ cầu nguyện tối, lễ cầu nguyện cuối… chúng mình có năm lần cầu nguyện, thời gian lao động của chúng mình, nói thẳng ra cũng là năm, sáu tiếng cầu nguyện đấy. Thứ bảy, chủ nhật chúng mình được nghỉ ngơi, vậy là mỗi tuần chỉ lao động hai mươi lăm tiếng đồng hồ. Không phải vì có bề trên mà việc lao động trở nên quá sức. Thêm vào đó, không phải tất cả đều là lao động chân tay. Tất cả chúng ta lại được ăn no. Tất cả chúng ta được có giường nằm công bằng như nhau, được nhận quần áo miễn phí. Và còn những thứ khác nữa. Thế nếu giả sử ai đó không phải là làm việc ba mươi tiếng mà là sáu mươi tiếng, không được ăn no, không có chỗ ở, lại còn vì không có tiền viện phí
mà phải chết, vậy thì ai đã lấy đi tất cả những thứ đó? Điều này có ý nghĩa gì? Tớ đã nghĩ thế đấy!”
Michael cùng tôi bước đi trong im lặng. Nhưng từng lời, từng lời cậu ấy nói trước đây hiện ra trong đầu tôi. Thật là kì lạ. Giả sử bây giờ chúng tôi nói chuyện thành lời với nhau thì chúng tôi sẽ nói về ngày xuân, về So Hee, về lễ truyền chức sắp tới. Nhưng cậu ấy cứ cố thủ trong sự im lặng. Những lời nói kia như thể đang lặn sâu dưới đáy hồ chợt nổi lên trên mặt nước. Có lẽ, đó là tiếng nói thần bí, vang lên từ sự im lặng.
54
Linh mục Thomas đang nằm trên giường bệnh. Lần đầu tiên tôi đến tu viện để nhập tu, người đẩy cây chổi lau dài ở hành lang có ánh nắng hoàng hôn chiếu rọi ấy, một năm trước, đã bị ngã và không thể lau hành lang được nữa. Lần đầu tiên tôi đến tu viện để nhập tu, câu nói “Con muốn được sống và chết như vị tu sĩ già đó, người đang đẩy cây chổi cán dài ở hành lang đằng kia” bỗng lóe lên trong đầu tôi.
Michael đỡ vị linh mục từ giường ngồi dậy và bón cháo cho ông. Tôi giúp cậu ta. Linh mục Thomas vừa trông thấy tôi là cười vui vẻ. Michael xúc từng thìa, từng thìa cháo mà nhà bếp đã chuẩn bị cho các bệnh nhân vào miệng ông. Thìa cháo được đưa vào đến nửa miệng trên gương mặt ngây ra, rớt lộp bộp xuống phía dưới. Michael kiên trì vét chỗ cháo rớt đó, bón lại vào miệng linh mục Thomas. Ông ấy như một con chim non, mải miết ăn những thìa cháo Michael đang bón.
Tôi đang giúp Michael mở cửa thông gió và đổ thùng rác thì nghe thấy tiếng sụt sịt. Tôi quay lại, thấy Michael đang xúc động. Tim tôi thắt lại, tôi ngồi xuống. Nước mắt Michael đang chảy ròng ròng. Tôi đưa giấy thấm cho Michael và nhận lấy bát cháo từ tay cậu ấy. Linh mục Thomas nhìn hai người chúng tôi một lát rồi lại lặng lẽ ăn những thìa cháo. Cháo cứ rớt bên ngoài miệng của ông. Tôi lại làm giống như Michael, vét những thìa cháo ấy và bón vào miệng ông. Hình như linh mục Thomas từng tự giới thiệu là ông được sinh ra ở Bayern, Đức. À mà không, có lẽ ông đã kể là ông xuất thân từ vùng Deogwon, Hamgyeongnam-do. Ông là một người Đức thấp
"""