"Chiếc Rìu - Gary Paulsen full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Rìu - Gary Paulsen full mobi pdf epub azw3 [Thiếu Nhi] Ebooks Nhóm Zalo GARY PAULSEN CHIẾC RÌU TỐ NGA dịch CÔNG TY NHÃ NAM NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN - 2010 EBook amylee Cộng đồng tve-4u.org Free Read, Free Thinking Copyright © 1987 by Gary Paulsen Dịch từ nguyên bản tiếng Anh: Hatchet của Gary Paulsen, NXB Aladdin Paperbacks, 2006 Tác giả Gary Paulsen (sinh năm 1939) là nhà văn Mỹ xuất sắc chuyên viết những câu chuyện về rừng hoang dành cho tuổi mới lớn. Ông cũng là tác giả của hơn 200 cuốn sách, hơn 200 bài báo, truyện ngắn, và một số vở kịch. Sự nghiệp lẫy lừng của Gary Paulsen được đánh dấu bởi ba Huân chương Newbery (trong đó một lần là vinh danh Chiếc rìu - tác phẩm nổi tiếng nhất của ông) và rất nhiều giải thưởng lớn khác. Ông hiện sống cùng gia đình tại New Mexico (Mỹ). Bìa gập sau “Một câu chuyện hồi hộp đến đứng tim: Dường như trong từng khoảnh khắc Brian đều buộc phải đối mặt với một quyết định sinh tử, và mỗi trang sách đều khiến độc giả kinh ngạc trước mật độ dày đặc chi tiết miêu tả mà Paulsen đã đan dệt một cách cực kỳ nhuần nhuyễn.” — Publishers Weekly “Giọng văn rất thơ và những sự kiện rất thực kết hợp để sáng tạo ra một câu chuyện vượt trên cả phiêu lưu, một cuốn sách đưa độc giả chìm đắm trong trải nghiệm của nhân vật chính.” — Newsday “Paulsen kể một câu chuyện vô cùng kỳ thú, nhưng quan trọng hơn, ông nhấn mạnh vào sự khôn trưởng của nhân vật thông qua một sự cân bằng cảm xúc và lý trí để vượt lên những thách thức sống còn.” — School Library Journal Bìa sau MỘT MÌNH TRONG RỪNG HOANG Brian Robeson, cậu bé mười ba tuổi, là hành khách độc nhất trên máy bay khi tai nạn xảy ra. Đột nhiên Brian thấy cậu chỉ còn lại một mình giữa vùng rừng hoang dã Canada, trong tay chẳng có gì ngoài chiếc rìu được mẹ tặng - và một bí mật khủng khiếp đã khiến cậu vô cùng đau khổ kể từ sau sự chia tay của bố mẹ. Nhưng lúc này đây Brian không có thời gian để tức giận, thương thân, hay thất vọng - cậu phải dành toàn bộ trí lực cùng quyết tâm, và nhiều dũng cảm hơn bao giờ hết, để tồn tại. Với chiếc rìu và với chính bản thân, liệu Brian có khuất phục được rừng hoang hùng vĩ, tuyệt đẹp nhưng cũng vô cùng khốc liệt? Gary Paulsen là nhà văn Mỹ say mê với đề tài rừng hoang và tuổi mới lớn. Tình cảm ấy đã góp phần cùng tài năng mang về cho ông ba Huân chương Newbery. Chiếc rìu - Cuốn sách bán hơn 5 triệu bản trên toàn thế giới - một câu chuyện phiêu lưu hồi hộp và ly kỳ đến nghẹt thở, được cho là có tác động sâu sắc tới nhiều thế hệ thiếu nhi Mỹ trong những thập kỷ qua. Các giải thưởng dành cho Chiếc rìu: A Newbery Honor Book An ALA Best Book for Young Adults An ALA Notable Children's Book A Booklist Editors' Choice A Notable Children's Book in the Field Social Studies Tặng học sinh trường Trung học Hershey 1 Brian Robeson nhìn chằm chằm qua ô cửa sổ của chiếc máy bay nhỏ xuống vùng đất hoang dại phía Bắc xanh rì vô tận ở phía dưới. Đó là chiếc Cessna 406 - một loại máy bay dân dụng nhỏ, động cơ của nó quá ồn ào, quá ầm ĩ và om sòm, quá huyên náo đến nỗi phá hỏng mọi cơ hội chuyện trò. Nhưng cậu cũng chẳng có gì nhiều để nói. Cậu năm nay mười ba tuổi và là hành khách duy nhất trên chiếc máy bay cùng với viên phi công có tên là - tên là gì nhỉ? Jim hay Jake gì đó. Ông ấy khoảng ngoài bốn mươi tuổi và vẫn im lặng từ lúc chuẩn bị cho máy bay cất cánh. Thực ra, từ lúc Brian đến cái sân bay nhỏ ấy ở Hampton, New York để bắt máy bay - mẹ cậu chở cậu tới - viên phi công chỉ nói đúng năm từ với cậu. “Lên khoang lái ngồi đi.” Brian làm theo. Họ cất cánh và đó cũng là những lời cuối cùng của cuộc nói chuyện. Ban đầu cậu thấy rất phấn khích, dĩ nhiên rồi. Cậu chưa từng được đi máy bay một động cơ, và cái cảm giác khi được ngồi trong khoang lái với tất cả thiết bị điều khiển ở ngay phía trước, tất cả các đồng hồ đo như chực ập vào mặt lúc máy bay chạy trên đường băng lấy đà, giật giật rồi lướt trên các luồng gió lúc cất cánh thì thật là thú vị và hứng khởi. Nhưng chỉ năm phút sau, họ đã đạt tới độ cao ổn định ở hai nghìn mét, hướng về phía Tây Bắc và từ đó trở đi viên phi công cứ im lặng suốt, nhìn chằm chằm về phía trước, và tiếng rầm rầm của động cơ là tất cả những gì còn lại. Tiếng rầm rầm của động cơ và biển rừng xanh mướt phía trước mũi máy bay trải dài đến tận chân trời, điểm xuyết những hồ nước, đầm lầy và những con sông, con suối uốn lượn. Giờ Brian ngồi đó, nhìn ra ngoài cửa sổ với tiếng gầm rú của động cơ máy bay trong tai, cố gắng phân định điều gì đã khiến cậu đi chuyến bay này. Cậu bắt đầu nghĩ. Và suy nghĩ của cậu luôn bắt đầu bằng một từ: Ly dị. Từ đó nghe thật chối tai, cậu nghĩ. Một từ đau đớn và xấu xí bao hàm các cuộc cãi vã, to tiếng, các luật sư - Ôi Chúa ơi, cậu nghĩ, sao mà cậu ghét mấy tay luật sư đến thế, họ ngồi đó, cười rất thoải mái và cố gắng giải thích cho cậu bằng những thuật ngữ pháp lý rằng cuộc sống vốn dĩ của cậu sẽ tan đàn sẻ nghé ra sao - và sự tan vỡ, sụp đổ của tất cả những thứ tưởng chừng như vô cùng vững chắc. Mái ấm của cậu, cuộc sống của cậu - tất cả những gì vững chắc. Ly dị. Cái từ tan vỡ, một từ tan vỡ xấu xí. Ly dị. Những bí mật. Không, không phải những mà chỉ là mỗi Bí mật đó thôi. Điều cậu biết nhưng không nói với ai, điều cậu biết về mẹ cậu rằng bà đã gây ra chuyện ly dị, điều cậu biết, điều cậu biết - Bí mật đó. Ly dị. Bí mật đó. Brian cảm thấy mắt bắt đầu cay xè và cậu biết nước mắt sắp chảy ra. Cậu đã từng khóc rất nhiều, nhưng giờ thì không. Giờ cậu không khóc. Chỉ là mắt cậu cay và nước mắt chảy ra, nước mắt chảy ra làm mắt cay chứ cậu không khóc. Cậu lấy ngón tay lau nước mắt và liếc nhìn viên phi công để biết chắc ông ấy không để ý thấy đôi mắt đỏ ngầu và những giọt nước mắt. Viên phi công ngồi trông rất thoải mái, tay cầm nhẹ vô lăng, chân để lên bàn đạp bánh lái. Ông có vẻ giống một cỗ máy hơn là một con người, cứ như là phần thêm vào của máy bay vậy. Trên bảng đồng hồ trước mặt ông ta, Brian nhìn thấy các đồng hồ, công tắc, công tơ, nút bấm, cần số, quay tay, đèn, các tay cầm đang lắc lư và rung rinh - tất cả những thứ đó chẳng cho thấy điều gì mà cậu hiểu được, và cả viên phi công dường như cũng vậy. Ông ta là một phần của máy bay, không phải con người. Khi thấy Brian nhìn mình, viên phi công có vẻ cởi mở hơn một chút và mỉm cười. Ông ngả lưng ra sau, nhấc ống nghe bên phải ra khỏi tai và kéo lên thái dương, nói to để át tiếng động cơ: “Đã bao giờ đi máy bay mà được ngồi trong khoang lái chưa?” Brian lắc đầu. Cậu chưa bao giờ đi máy bay, chưa bao giờ nhìn thấy buồng lái của máy bay ngoại trừ trên phim ảnh và ti vi. Nó thật ồn ào và khó hiểu. “Lần đầu tiên ạ.” “Nó không phức tạp như ta tưởng đâu. Máy bay tốt như loại này có thể tự bay được.” Viên phi công nhún vai. “Điều đó khiến cho công việc của chú dễ dàng.” Ông cầm lấy tay trái của Brian. “Đây, đặt tay lên phần điều khiển, đặt chân lên bàn đạp bánh lái, chú sẽ cho cháu thấy những gì chú vừa nói.” Brian lắc đầu. “Có lẽ cháu không nên.” “Yên tâm. Cứ thử đi...” Brian với tay, cầm chặt lấy vô lăng đến độ chỗ khớp ngón tay cậu trắng bệch ra. Cậu nhấn chân xuống bàn đạp. Máy bay đột ngột quay sang phải. “Đừng căng thẳng quá. Nhẹ nhàng thôi, nhẹ thôi.” Brian thả lỏng người, nới tay trên vô lăng. Khi cảm nhận máy bay rung qua vô lăng và bàn đạp, ngay lập tức cậu quên đi đôi mắt cay xè. Máy bay như là một thực thể sống vậy. “Thấy chưa?” Viên phi công bỏ tay khỏi vô lăng, giơ tay lên và nhấc chân ra khỏi bàn đạp để Brian thấy rằng cậu thực sự đang lái máy bay một mình. “Rất đơn giản. Giờ hãy xoay vô lăng về bên phải một chút và đạp nhẹ vào bàn đạp phải.” Brian nhẹ nhàng xoay vô lăng và máy bay ngay lập tức nghiêng sang phải, và khi cậu nhấn bàn đạp phải, mũi máy bay lướt ngang trời hướng sang bên phải. Cậu thả chân, giữ thẳng vô lăng và máy bay tự quay sang phải. “Giờ cháu có thể quay. Hãy quay nó về phía trái một chút.” Brian xoay vô lăng về phía trái và nhấn bàn đạp trái. Máy bay lại quay lại về hướng cũ. “Đúng là dễ thật.” Cậu mỉm cười. “Ít nhất là việc này.” Viên phi công gật đầu. “Tất cả thao tác lái máy bay đều dễ. Chỉ phải học thôi. Cũng như mọi thứ khác vậy. Cũng như mọi thứ khác vậy.” Ông cầm lại điều khiển rồi vươn vai và xoa vai trái. “Các cơn đau và nhức mỏi - chú đang già đi rồi.” Brian bỏ tay ra khỏi hệ thống điều khiển và nhấc chân khỏi bàn đạp khi viên phi công để tay vào vô lăng. “Cảm ơn chú...” Nhưng viên phi công đã đeo lại ống nghe vào tai và lời cám ơn của Brian biến mất trong tiếng ồn của động cơ, mọi việc lại quay về như lúc nãy khi Brian nhìn biển rừng xanh mướt cây cối và sông hồ ngoài cửa sổ. Mắt cậu không cay nữa, nhưng ký ức lại trỗi dậy, tràn ngập tâm trí cậu. Những từ ấy. Luôn là những từ ấy. Ly dị. Bí mật đó. Những cuộc cãi vã. Chia ly. Một cuộc chia ly lớn. Cha của Brian còn không hiểu bằng Brian, ông chỉ biết rằng mẹ Brian muốn cuộc hôn nhân tan vỡ. Sự chia ly đã đến và sau đó là ly dị, mọi thứ diễn ra quá nhanh, và tòa đã quyết định để cậu ở với mẹ, trừ thời gian nghỉ hè và cái mà tòa gọi là “quyền thăm nom.” Nghe thật trịnh trọng. Brian ghét các quan tòa không thua gì ghét các vị luật sư. Các ngài quan tòa ngồi tựa vào ghế và hỏi Brian xem cậu có biết cậu muốn sống ở đâu và tại sao không. Quan tòa có cái nhìn tỏ vẻ quan tâm nhưng chẳng nghĩa lý gì khi các luật sư nói toàn những thuật ngữ pháp lý sáo rỗng. Vào mùa hè Brian sẽ ở với bố còn trong năm học cậu ở với mẹ. Đó là những điều quan tòa nói sau khi nhìn vào đống giấy tờ trên mặt bàn và nghe các vị luật sư nói. Nói. Từ ngữ. Giờ máy bay lắc nhẹ sang phải và Brian nhìn viên phi công. Ông lại đang bóp vai và chợt có mùi rắm trong máy bay. Brian quay đi để tránh làm viên phi công ngại ngùng, rõ ràng trông ông đang rất khó chịu. Chắc là bệnh dạ dày đấy mà. Vì vậy mùa hè này, mùa hè đầu tiên cậu được phép có “quyền thăm nom” cha cậu, với cuộc ly dị chỉ mới xảy ra cách đây một tháng, Brian đi lên phía Bắc. Cha cậu là kỹ sư cơ khí, người đã thiết kế hay phát minh ra mũi khoan dầu mới, có thể tự làm sạch và tự mài sắc. Ông đang làm việc ở khu khai thác dầu mỏ của Canada, phía bên kia rặng cây nơi bắt đầu vùng cực Bắc và là nơi kết thúc của các khu rừng. Brian đang bay đến đó từ New York cùng với một số thiết bị khoan - chúng được buộc lại và để ở phía cuối máy bay, bên cạnh một cái túi vải mà người phi công gọi là túi cứu sinh, trong đó để những vật dụng dành cho trường hợp họ phải hạ cánh khẩn cấp - được sản xuất riêng ở trong thành phố, cậu đang ngồi trên chiếc máy bay dân dụng nhỏ cùng với viên phi công tên là Jim hay Jake gì đó, người mà không ngờ lại rất tử tế, cho cậu lái máy bay và nhiều điều khác nữa. Ngoại trừ cái mùi ấy. Giờ đây mùi ấy thường xuyên xuất hiện, Brian lại quay sang nhìn viên phi công, thấy ông ta đang bóp vai và giờ bóp xuống cả cánh tay, cánh tay trái, xì thêm rắm và nhăn nhó. Có thể là do ông ấy ăn phải cái gì đó, Brian nghĩ. Mẹ cậu chở cậu từ thành phố đến Hampton để đón chiếc máy bay này - nó đã tới đây để lấy một số dụng cụ khoan. Sự im lặng bao trùm suốt chuyến đi, một chuyến đi dài trong im lặng. Hai tiếng rưỡi đồng hồ ngồi trong xe ô tô, cậu nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, у như giờ đây cậu đang nhìn chằm qua cửa sổ máy bay vậy. Một lần, sau một giờ lái xe, khi họ đã ra khỏi thành phố, mẹ cậu quay sang cậu. “Con à, liệu chúng ta có thể nói rõ chuyện này được không? Chúng ta nói ra được không? Con không thể nói cho mẹ biết điều làm con phiền muộn à?” Và những từ ấy lại xuất hiện. Ly dị. Chia ly. Bí mật đó. Làm sao cậu có thể nói cho mẹ điều cậu biết? Vì vậy cậu vẫn im lặng, lắc đầu và tiếp tục nhìn chằm chằm vô định vào vùng đồng quê, còn mẹ cậu thì quay lại với việc lái xe và chỉ nói với cậu thêm một lần nữa khi họ gần đến Hampton. Bà với tay ra ghế sau và cầm một túi bằng giấy. “Mẹ có cái này cho con, cho chuyến đi này.” Brian cầm túi và mở ra. Bên trong là một chiếc rìu nhỏ, loại có cán bằng thép và một tay cầm bằng cao su. Đầu rìu bọc trong túi da cứng có một cái đai gắn đinh tán bằng đồng. “Nó hợp với thắt lưng của con đấy.” Mẹ cậu nói mà không nhìn cậu. Có vài chiếc xe tải nông trại đang chạy trên đường nên bà phải lái xe len lỏi qua những chiếc xe này và phải chú ý đến giao thông. “Người đàn ông ở cửa hàng nói con có thể dùng nó. Con biết đấy. Trong rừng với bố của con.” Bố, cậu nghĩ. Không phải “bố của con.” Bố con. “Cám ơn mẹ. Nó rất đẹp.” Nhưng những từ này có vẻ giả tạo, ngay cả Brian cũng cảm thấy vậy. “Đeo thử đi. Xem nó trông thế nào với thắt lưng của con.” Và thường thì cậu sẽ nói là không, thường thì sẽ nói là không vì đeo một chiếc rìu ở thắt lưng trông cứ như dở hơi ấy. Thường thì cậu sẽ nói như thế. Nhưng giọng mẹ cậu quá mỏng manh, như thể sẽ vỡ tan nếu ai đó chạm vào, và cậu thấy ân hận vì đã không nói chuyện với mẹ. Bất kể điều cậu biết, cả cơn giận nữa, cơn giận sôi sục với mẹ, cậu vẫn cảm thấy có lỗi khi không nói chuyện với bà, thế nên để làm bà vui, cậu nới lỏng thắt lưng, kéo phần thắt lưng bên phải ra, để chiếc rìu vào rồi cài lại thắt lung. “Xoay người để mẹ xem nào!” Cậu xoay người trên ghế, cảm thấy hơi lố bịch. Mẹ cậu gật đầu. “Trông giống như một hướng đạo sinh vậy. Cậu hướng đạo sinh bé nhỏ của mẹ.” Có niềm âu yếm trong giọng nói của bà như hồi cậu còn bé, sự dịu dàng mà bà dành cho cậu thời thơ ấu mỗi khi cậu bị ốm vì cảm lạnh, rồi bà đặt tay lên trán cậu, và mắt cậu lại cay xè, cậu phải quay mặt đi, nhìn ra cửa sổ, quên bẵng chiếc rìu vẫn giắt ở thắt lưng thế nên cậu lên máy bay với chiếc rìu vẫn ở thắt lưng. Vì đây là chiếc máy bay dân dụng bé cất cánh từ một sân bay nhỏ nên không có kiểm tra an ninh, và khi cậu đến nơi, chiếc máy bay đang chờ sẵn, động cơ đã chạy, thế nên cậu túm va li với ba lô và chạy đến máy bay mà không hề dừng lại để bỏ chiếc rìu ra. Do vậy mà chiếc rìu vẫn ở trên thắt lưng của cậu. Đầu tiên cậu thấy ngượng nhưng viên phi công chẳng nói gì về chiếc rìu thế nên Brian quên luôn nó khi họ cất cánh và bắt đầu bay. Giờ lại có thêm mùi. Tệ thật. Brian quay lại liếc nhìn viên phi công, ông đang đặt cả hai tay lên bụng, nhăn nhó vì đau đớn, và Brian thấy tay ông lại với lên vai trái. “Cháu biết không...” những lời viên phi công nghe như tiếng gió, chỉ vừa đủ nghe. “Rất đau ở đây. Rất đau. Chú tưởng là do chú ăn phải cái gì đó nhưng...” Ông ngừng lại bởi một cơn đau do co thắt mới xảy ra. Ngay cả Brian cũng nhận thấy sự tồi tệ của cơn đau này - nó khiến cho viên phi công bật ngả người ra sau ghế, ngả người ra sau rồi gập xuống. “Chú chưa bao giờ bị như thế này...” Viên phi công với tới nút công tắc để bật micro, tay ông chỉ với lên cao được một chút xíu so với bụng, rồi ông búng nhẹ công tắc và nói, “Đây là chuyến bay bốn mươi sáu...” Và giờ người ông bị giật nảy lên như búa bổ, mạnh đến nỗi ông như bị ấn ngược xuống ghế, và Brian với tay sang ông, lúc đầu cậu không thể hiểu chuyện này là gì, không biết được. Và rồi cậu hiểu. Brian hiểu. Miệng viên phi công cứng đờ, ông chửi rủa và co giật từng cơn ngắn trên ghế, tay ôm lấy vai. Ông chửi rủa và rít lên, “Ngực! Ôi chúa ơi, ngực con như đang vỡ ra!” Giờ thì Brian hiểu. Viên phi công đang bị đau tim. Có lần Brian đang ở một cửa hàng mua sắm với mẹ thì thấy người đàn ông đứng trước gian hàng Paisley bị đau tim. Ông gục xuống và la ó về ngực của mình. Một người đàn ông lớn tuổi. Già hơn viên phi công nhiều. Brian hiểu. Viên phi công đang bị đau tim và khi cậu còn đang hồi tưởng thì viên phi công lại ngã vật ra ghế, thêm một lần ông đau đớn ngã vật ra sau ghế và chân phải của ông giật mạnh, khiến cho chiếc máy bay đột ngột nghiêng về một bên, đầu ông chúi về phía trước và nước bọt phun ra phì phì. Nước bọt phun phì phì ra từ các ngóc ngách ở trong miệng ông và chân của ông co lại, co về ghế, mắt ông trợn ngược lên, chỉ còn lòng trắng. Chỉ còn lòng trắng trong mắt ông và mùi càng thêm tồi tệ, bao trùm cả khoang lái, và mọi thứ diễn ra quá nhanh, nhanh đến mức ban đầu đầu óc của Brian không thể hiểu được. Chỉ có thể nhìn nó diễn ra mà thôi. Chỉ vài phút trước đây, viên phi công còn đang nói, phàn nàn về cơn đau. Ông mới vừa đang nói. Rồi những cơn co giật đã xuất hiện. Những cơn co giật khiến viên phi công phải im lặng đã xuất hiện, giờ đây Brian ngồi và có một cảm giác kỳ lạ về sự im lặng trong tiếng gầm rú của động cơ - một cảm giác im lặng kỳ lạ và cô độc. Brian bị ngưng trệ. Mọi thứ ở cậu đều ngưng trệ. Bên trong cậu ngưng trệ. Cậu không thể nghĩ về những điều cậu nhìn thấy, những gì cậu cảm thấy. Tất cả đều bị ngưng trệ. Đáy lòng cậu, tâm con người Brian Robeson bị ngưng trệ và như thể bị một tia chớp của nỗi sợ hãi đánh trúng, một nỗi kinh khiếp dữ dội đến độ hơi thở, suy nghĩ và cả trái tim cậu cũng như ngừng lại. Ngừng lại. Vài giây trôi qua, những giây đã trở thành tất cả cuộc sống của cậu, và cậu bắt đầu nhận thức được điều cậu đang trông thấy, bắt đầu hiểu được điều cậu nhìn thấy và như thế còn tệ hơn, tồi tệ đến mức cậu muốn đầu óc mình đông cứng lần nữa. Cậu đang ngồi trong một chiếc máy bay dân dụng nhỏ kêu ầm ầm ở độ cao hai nghìn mét trên khu vực hoang dã ở phía Bắc với một viên phi công vừa bị một cơn đau tim dữ dội và giờ ông đã hoặc chết hoặc gần như hôn mê. Cậu đang một mình. Trong chiếc máy bay đang gầm rú và không có phi công, cậu đang một mình. Một mình. 2 Trong một khoảnh khắc Brian không hiểu rằng cậu chẳng thể làm gì cả. Ngay cả sau khi trí óc cậu bắt đầu hoạt động trở lại và cậu nhận thức được điều đã xảy ra thì cậu cũng chẳng biết làm gì. Như thể tay chân cậu đã đông cứng lại vậy. Rồi cậu tìm các cách để điều đó không xảy ra. Hãy ngủ thôi chú nhé, cậu thầm hét với viên phi công. Chỉ là ngủ thôi và mắt chú sẽ mở ra, đôi tay chú sẽ cầm điều khiển, chân chú sẽ chạm vào bàn đạp - nhưng điều đó không xảy ra. Người viên phi công bất động, chỉ trừ cái đầu đang lắc lư trên cổ một cách bất lực khi chiếc máy bay đi vào khoảng thời tiết xấu. Máy bay. Dù gì thì máy bay vẫn đang bay. Một vài giây trôi qua, khoảng gần một phút, máy bay tiếp tục bay như thể chưa có chuyện gì xảy ra và cậu phải làm gì đó, phải làm gì đó nhưng chưa biết là gì. Cứu. Cậu phải cứu. Cậu với một tay tới viên phi công, thấy rằng tay mình đang run, và chạm vào ngực viên phi công. Cậu không biết phải làm gì. Cậu biết có các bước chữa trị, rằng cậu có thể hô hấp nhân tạo cho những nạn nhân bị bệnh tim và ấn ngực họ - hồi sức tim phổi - nhưng cậu không biết làm việc đó như thế nào và dù sao cậu không thể làm như thế với viên phi công, ông đang ngồi trên ghế và còn đeo dây an toàn. Vì vậy cậu chạm đầu ngón tay vào người ông ta, chạm lên ngực và không cảm thấy gì hết, không thấy tiếng tim đập, không thấy nhịp thở. Điều này có nghĩa viên phi công hẳn đã chết. “Làm ơn.” Brian nói. Nhưng không biết hỏi gì và hỏi ai. “Làm ơn...” Chiếc máy bay lại chòng chành, gặp thêm nhiều vùng thời tiết xấu, và Brian cảm thấy mũi máy bay chúc xuống. Máy bay không lao xuống nhưng mũi nó đã hơi chúi xuống và góc chúi xuống làm tăng tốc độ, và cậu biết với góc bay như thế, chỉ chúi thêm một chút nữa, cuối cùng cậu sẽ đâm vào rừng cây. Cậu thấy cây cối xa xa phía chân trời, nơi lúc trước cậu chỉ nhìn thấy bầu trời. Dù sao thì cậu cũng phải lái nó. Phải lái chiếc máy bay. Cậu phải tự cứu mình. Viên phi công đã chết, cậu không thể làm gì để giúp ông ta nữa. Cậu phải cố gắng và phải lái chiếc máy bay. Cậu quay người lại trên ghế, hướng mặt về phía trước và đặt tay - vẫn còn run rẩy - lên vô lăng điều khiển, chân đặt nhẹ lên bàn đạp. Ta kéo cần về phía mình để máy bay bay lên cao, cậu đã biết điều đó nhờ đọc trong sách. Ta luôn phải kéo vô lăng về phía mình. Cậu kéo mạnh nó và nó trượt về phía cậu dễ dàng. Quá dễ. Máy bay, với tốc độ đã tăng vọt do bị nghiêng xuống, hăm hở nhào lên khiến cho ruột gan Brian lộn tùng phèo. Cậu đẩy vô lăng về như cũ, lần này cậu làm hơi mạnh, khiến mũi máy bay chúi xuống phía dưới và tốc độ động cơ tăng lên với cú chúi đó. Quá mạnh. Cậu lại kéo lại, lần này nhẹ nhàng hơn, và mũi máy bay lại nâng lên, hơi quá nhưng không mạnh như lần trước, và sau đó chúi xuống hơi sâu một chút, rồi lại lên như cũ, rồi lại chúi xuống hơi sâu, rồi lại lên, rất dễ dàng, thế là phần mũi máy bay đã ổn định. Khi cậu cho máy bay hướng về phía chân trời và nó dường như đã vững vàng, cậu giữ vô lăng đúng tư thế, thở ra sau khi đã nín thở từ nãy tới giờ, và cố gắng nghĩ xem sẽ làm gì tiếp theo. Đó là một ngày trời trong xanh, đây đó có một vài đám mây mỏng, cậu nhìn ra ngoài cửa sổ trong chốc lát, hy vọng nhìn thấy gì đó, một thị trấn hay một ngôi làng, nhưng chẳng có gì cả. Chỉ là màu xanh của cây cối, màu xanh vô tận, cùng các hồ rải rác ngày càng nhiều và san sát hơn khi máy bay bay qua - đây là đâu? Cậu đang bay nhưng không biết là ở đâu, không có ý niệm gì về nơi cậu đang đến. Cậu nhìn vào bảng đồng hồ của máy bay, nghiên cứu các mặt đồng hồ với hy vọng sẽ có được chút ít trợ giúp, hy vọng tìm thấy một cái la bàn, nhưng tất cả đều thật khó hiểu, một mớ bòng bong các con số và đèn hiệu. Một cái đèn hiện ở phía trên trung tâm của bảng đồng hồ cho thấy con số 342, một cái khác bên cạnh hiển thị số 22. Phía bên dưới là các mặt đồng hồ với các đường kẻ có vẻ như biểu thị sự di chuyển của cánh máy bay, đang lật nghiêng hay đang di chuyển, một đồng hồ với kim đang chỉ số 70, cậu nghĩ cái này - chỉ là nghĩ thôi - có thể là thiết bị đo độ cao. Thiết bị này cho cậu biết độ cao của cậu so với mặt đất lúc này. Hoặc là so với mực nước biển. Đâu đó cậu đã đọc một vài điều về các thiết bị đo độ cao, nhưng cậu không thể nhớ là cái gì, ở đâu hay bất cứ thứ gì về chúng. Hơi chếch về bên trái, phía dưới thiết bị đo độ cao, cậu nhìn thấy một tấm bảng nhỏ hình chữ nhật có một đồng hồ phát sáng và hai núm vặn. Mắt cậu đã từng lướt qua nó hai ba lần trước khi cậu nhìn thấy điều được viết bằng những chữ nhỏ xíu phía trên tấm bảng. MÁY PHÁT TÍN HIỆU 221, được dập vào tấm kim loại và cuối cùng đập vào mắt cậu, đó chính là cái bộ đàm. Bộ đàm. Dĩ nhiên. Cậu phải dùng bộ đàm. Khi viên phi công đã - đã bị như thế (cậu không thể bắt mình nói rằng ông đã chết, không thể nghĩ như thế), ông đã cố sử dụng bộ đàm. Brian nhìn viên phi công. Cái ống nghe vẫn ở trên đầu ông, hơi nghiêng một chút khi ông ngã vật ra ghế, và công tắc của micro được gắn vào dây đeo an toàn. Brian phải lấy ống nghe từ viên phi công. Phải vươn tới và lấy ống nghe từ viên phi công nếu không cậu không thể dùng bộ đàm để gọi giúp đỡ. Cậu phải vươn người sang... Tay cậu lại bắt đầu run. Cậu không muốn chạm vào viên phi công, không muốn với sang người ông. Nhưng cậu phải làm. Phải lấy bộ đàm. Cậu nhấc đôi tay khỏi vô lăng, rất nhẹ nhàng, và giữ yên chúng chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Máy bay bay bình thường, trơn tru. Được rồi, cậu nghĩ. Bây giờ. Bây giờ làm điều đó. Cậu quay người và với lấy ống nghe, kéo nó khỏi đầu viên phi công, một mắt nhìn vào chiếc máy bay, chờ đợi nó chúi xuống. Cái ống nghe nhấc lên khá dễ dàng, nhưng nút công tắc micro ở dây đeo an toàn của viên phi công bị kẹt nên cậu phải kéo để nới lỏng nó ra. Khi cậu kéo, khuỷu tay cậu va phải vô lăng và đẩy nó vào trong, thế là chiếc máy bay bắt đầu chúi xuống một chút. Brian túm lấy vô lăng và kéo nó lại, lại quá mạnh, và máy bay lại trải qua một quá trình nhào lộn lên xuống làm ruột gan cậu lộn tùng phèo trước khi cậu có thể đưa nó vào tầm kiểm soát. Khi mọi thứ ổn định lại, cậu kéo dây micro thêm lần nữa và cuối cùng cũng giật được dây micro ra. Phải mất thêm một hai giây nữa cậu mới đeo được ống nghe lên đầu mình và đặt ống micro nhỏ phía trước miệng. Cậu đã nhìn thấy viên phi công sử dụng nó, đã nhìn thấy ông ta ấn nút công tắc ở dây đeo an toàn, vì vậy Brian nhấn nút bật công tắc và thổi vào micro. Cậu nghe thấy hơi thở của mình trong ống nghe. “A lô! Có ai đang nghe không đấy? A lô...” Cậu nhắc lại câu đó hai hay ba lần và sau đó chờ đợi mà chẳng nghe thấy gì ngoại trừ hơi thở của chính mình. Nỗi sợ hãi lại trỗi dậy. Cậu đã từng sợ, đã từng đờ đẫn vì sợ hãi những điều đang diễn ra, nhưng giờ khi nỗi sợ hãi quay lại thì cậu bắt đầu hét vào micro, hét đi hét lại. “Cứu! Ai đó cứu tôi với! Tôi ở trong chiếc máy bay này và không biết... không biết... không biết...” Và cậu bắt đầu vừa khóc vừa hét, khóc và đập tay lên vô lăng của máy bay, làm nó giật xuống, rồi lại lắc lên. Nhưng một lần nữa, cậu chẳng nghe thấy gì ngoại trừ âm thanh rên rỉ của chính mình, những tiếng kêu la của cậu như đang chế giễu cậu, vẳng lại tai cậu. Chiếc micro. Cậu chợt nhớ ra. Cậu đã từng dùng bộ đàm trong xe tải của chú cậu. Ta phải tắt micro thì mới nghe được những người khác. Cậu với tai lên dây đeo an toàn và ngắt công tắc. Trong giây lát, những gì cậu có thể nghe được là tiếng ù ù của các đợt sóng vô tuyến vô nghĩa. Thế rồi, trong tiếng ồn và tiếng nhiễu khí quyển, cậu nghe thấy một giọng nói. “Ai đang gọi qua bộ đàm, tôi nhắc lại, hãy ngắt công tắc micro của anh - anh đang chặn tín hiệu của tôi. Anh đang chặn tín hiệu của tôi. Hết.” Giọng nói ngừng và Brian bật công tắc micro. “Cháu nghe thấy chú. Cháu nghe thấy chú. Là cháu đây...!” Cậu ngắt công tắc. “Roger. Giờ tôi nghe thấy anh rồi.” Âm thanh phát ra rất yếu và thường bị đứt quãng. “Xin hãy nêu tình trạng khó khăn và tọa độ của anh. Hãy nói hết để báo hiệu kết thúc truyền tin. Hết.” Hãy nêu tình trạng khó khăn của mình, Brian nghĩ. Chúa ơi. Sự khó khăn của mình. “Cháu đang ở trong máy bay với một viên phi công đã - ông ấy không thể lái máy bay được. Và cháu không biết làm sao để lái máy bay. Giúp cháu. Giúp...” Cậu tắt công tắc micro mà không kết thúc truyền tin đúng cách. Có một chút chần chừ trước khi có giọng trả lời. “Tín hiệu của cậu bị gián đoạn nên tôi hầu như chẳng nghe thấy gì. Hiểu không... phi công... cậu không biết lái máy bay. Đúng không? Hết.” Thật khó để Brian nghe được ông ấy, chủ yếu chỉ nghe thấy tiếng ồn và tiếng nhiễu khí quyển. “Đúng ạ. Cháu không biết lái máy bay. Giờ máy bay đang bay nhưng cháu không biết nó sẽ bay được trong bao lâu. Hết.” “... mất tín hiệu. Hãy cho biết tọa độ của cậu. Số máy bay... tọa độ... ết.” “Cháu không biết số máy bay cũng như tọa độ. Cháu không biết gì cả. Cháu đã nói với chú rồi mà, hết.” Giờ cậu chờ đợi, chờ đợi nhưng chẳng có gì xảy ra. Một lần, trong vài giây, cậu nghĩ cậu đã nghe thấy có tín hiệu trong tiếng ồn, bập bõm một từ gì đấy, nhưng đó cũng có thể là nhiễu khí quyển. Hai, ba phút, mười phút, máy bay gầm rú và Brian lắng nghe nhưng chẳng thấy tiếng ai. Rồi cậu lại bật công tắc lần nữa. “Cháu không biết số máy bay. Cháu tên là Brian Robeson và chúng cháu đi từ Hampton, New York hướng tới khu khai thác dầu mỏ ở Canada để thăm bố cháu và cháu không biết lái máy bay còn viên phi công...” Cậu buông micro. Giọng cậu bắt đầu bối rối và cậu cảm giác như mình có thể hét lên bất cứ lúc nào. Cậu hít một hơi dài. “Nếu ai đó đang nghe mà có thể giúp cháu lái máy bay, xin hãy trả lời.” Một lần nữa, cậu buông mirco mà chẳng nghe thấy gì ngoài âm thanh lạo xạo trong ống nghe. Sau nửa giờ nghe ngóng và lặp lại những lần gào thét cầu cứu, cậu tức giận giật ống nghe và ném xuống sàn. Có vẻ như tất cả thật vô vọng. Ngay cả khi nếu cậu có liên lạc được với ai đó, thì người ta cũng làm được gì chứ? Nói cậu hãy cẩn thận ư? Tất cả thật vô vọng. Cậu cố tìm hiểu các đồng hồ một lần nữa. Cậu nghĩ cậu có thể biết cái nào chỉ vận tốc - nó là một con số sáng đèn, con số 160 - nhưng cậu không biết liệu đó chính xác là dặm trên giờ hay kilômét trên giờ, hay phải chăng con số đó chỉ cho biết vận tốc máy bay đang bay trong không khí, chứ không phải trên mặt đất. Câu biết vận tốc trên không khác với vận tốc trên mặt đất, nhưng không biết cụ thể thế nào. Nhiều phần trong các cuốn sách cậu đã đọc về hoạt động của máy bay hiện ra trong đầu cậu. Hai cánh làm việc như thế nào, cánh quạt kéo máy bay trong bầu trời ra sao. Những điều đơn giản như thế giờ đây chẳng giúp gì cậu cả. Giờ đây chẳng có gì có thể giúp cậu được. Một giờ trôi qua. Cậu nhặt ống nghe lên và thử lại lần nữa - cậu biết, đó là điều cuối cùng cậu có thể làm - nhưng không có tiếng trả lời. Cậu cảm giác như là một tù nhân, bị giam trong một xà lim bay ầm ầm trên bầu trời với vận tốc cậu nghĩ là 160 dặm một giờ, hướng tới - cậu không biết là đâu - chỉ hướng tới nơi nào đó cho đến khi... À. Cho đến khi nào nhỉ? Cho đến khi máy bay hết nhiên liệu. Khi máy bay hết nhiên liệu, nó sẽ rơi. Một khoảng thời gian trôi qua. Hoặc cậu có thể kéo van ra và để cho máy bay rơi xuống ngay bây giờ. Cậu đã nhìn thấy viên phi công đẩy van để tăng tốc độ. Nếu cậu kéo van lại, động cơ sẽ chậm lại và máy bay sẽ rơi xuống. Đó là những sự lựa chọn của cậu. Cậu có thể đợi cho máy bay hết nhiên liệu và rơi, hoặc cậu có thể đẩy van và khiến cho điều đó xảy ra sớm hơn. Nếu cậu đợi cho đến khi máy bay hết nhiên liệu, cậu sẽ đi được xa hơn - nhưng cậu không biết mình đang đi đâu. Khi viên phi công co giật ông đã làm chuyển hướng máy bay, nhưng Brian không thể nhớ chính xác bao xa hay là nó đã quay lại đường bay ban đầu. Vì dù sao cậu cũng không biết đường bay ban đầu và chỉ có thể đoán những hiển thị trên thiết bị mà cậu nghĩ là cái la bàn - thiết bị đang hiện số 342 - cậu không biết cậu đã ở đâu và đang đi đâu, nên nếu cậu rơi xuống bây giờ hay chờ đợi thì cũng chẳng có gì khác biệt. Mọi thứ trong cậu phản kháng chống lại việc dừng động cơ và rơi xuống ngay. Cậu có một cảm giác mơ hồ là cậu đang mắc sai lầm khi giữ máy bay hướng theo hướng nó đang đi, một cảm giác là cậu có thể rơi xuống ở một địa điểm chệch hướng, nhưng cậu không thể tự dừng động cơ để rơi được. Hiện giờ cậu đang an toàn, hay an toàn hơn là rơi xuống - máy bay đang bay, cậu vẫn đang hít thở. Khi động cơ dừng lại, cậu sẽ rơi xuống. Vì vậy cậu để máy bay tiếp tục bay, giữ độ cao, và tiếp tục thử bộ đàm. Cậu đặt ra một trình tự. Cứ mỗi mười phút trôi qua - biểu thị trên chiếc đồng hồ nhỏ được lắp trên bảng điều khiển - cậu lại liên lạc qua bộ đàm với một tin nhắn đơn giản: “Cháu cần giúp đỡ. Có ai đang nghe cháu không?” Trong thời gian giữa những lần truyền tin ấy, cậu cố gắng chuẩn bị tinh thần cho điều cậu biết đang sắp đến. Khi máy bay hết nhiên liệu, nó sẽ bắt đầu rơi. Cậu đoán là khi không có cái cánh quạt kéo, cậu sẽ phải đẩy mũi xuống để giữ cho máy bay tiếp tục bay - cậu nghĩ có thể cậu đã đọc điều ấy ở đâu đó, hoặc chỉ là tự nhiên nó xuất hiện trong đầu cậu. Dù thế nào thì nó cũng có nghĩa. Cậu sẽ phải đẩy mũi máy bay xuống để duy trì tốc độ bay và sau đó, ngay trước khi đâm, cậu sẽ phải kéo mũi máy bay lên để làm giảm tối đa tốc độ bay. Tất cả có vẻ hợp lý. Lao xuống, sau đó giảm tốc máy bay và đâm. Đâm. Cậu sẽ phải tìm một chỗ quang đãng khi lao xuống. Vấn đề là cậu chưa nhìn thấy một chỗ trống nào kể từ khi họ bắt đầu bay qua rừng. Có một vài đầm lầy, nhưng chúng có cây cối rải rác bên trên. Không có đường nhựa, không có đường mòn, không có các khu đất trống. Chỉ có các hồ, và cậu nghĩ rằng cậu sẽ phải sử dụng một hồ nước để hạ cánh. Nếu cậu đâm xuống giữa đám cây, cậu chắc chắn sẽ chết. Cây cối sẽ xé nát máy bay thành nhiều mảnh khi nó lao vào chúng. Cậu sẽ phải đâm xuống hồ. Không. Ở ven bờ hồ. Cậu sẽ phải đâm xuống gần bờ hồ và cố gắng làm chậm máy bay hết sức có thể trước khi nó lao vào nước. Nói thì dễ, cậu nghĩ, làm mới khó. Nói thì dễ, làm mới khó. Nói thì dễ, làm mới khó. Câu đó thành lời nói đều đều hòa nhịp với động cơ máy bay. Nói thì dễ, làm mới khó. Bất khả thi. Cậu lặp lại mười bảy lần gọi qua bộ đàm trong các khoảng ngắt mười phút, tiếp tục tính xem mình sẽ làm gì vào giữa các cuộc truyền tín hiệu. Một lần nữa cậu với tới viên phi công và chạm vào mặt ông ta, những làn da đã lạnh, lạnh cứng, cái lạnh chết chóc, và Brian quay lại bảng điều khiển. Cậu làm điều cậu có thể làm, thắt chặt đai an toàn, ngồi ngay ngắn, ôn lại trong đầu một lần nữa, rồi lần nữa quy trình cậu sẽ làm. Khi máy bay hết nhiên liệu, cậu sẽ giữ cho mũi máy bay chúi xuống và hướng về phía cái hồ gần nhất, cố gắng lái máy bay bay một phần vào nước. Đó là cách cậu tính toán cho chuyện này. Lái một phần máy bay vào nước. Và ngay trước khi nó đâm, cậu sẽ kéo vô lăng lại và giảm tốc máy bay để hạn chế va chạm. Năm lần bảy lượt trong đầu cậu hình dung ra hình ảnh về những điều sẽ xảy ra. Máy bay hết nhiên liệu, lái máy bay lao vào nước, va chạm - từ những hình ảnh cậu đã nhìn thấy trên ti vi. Cậu cố hình dung nó. Cậu cố gắng sẵn sàng tinh thần. Nhưng giữa lần truyền tin thứ mười bảy và mười tám, bỗng nhiên máy bay khục khặc, kêu ầm lên vài giây rồi chết máy. Im lặng đột ngột, chỉ có tiếng cánh quạt đang quay vù vù và gió thổi qua buồng lái. Brian đẩy mũi máy bay xuống và nôn thốc nôn tháo. 3 Sắp chết rồi, Brian nghĩ. Mình sắp chết, sắp chết, sắp chết - trong sự im lặng đáng sợ, đầu cậu vang lên những tiếng kêu chết chóc. Sắp chết. Cậu đưa tay lên quệt miệng và giữ mũi máy bay chúi xuống. Chiếc máy bay bay như trượt, một đường trượt rất nhanh nuốt chửng cả khoảng cách không trung, và đột nhiên, xung quanh chẳng có cái hồ nào cả. Tất cả những gì mà Brian nhìn thấy khi mà chiếc máy bay bắt đầu bay ngang qua khu rừng là các hồ nước, nhưng bây giờ thì chúng đã đi đâu mất. Chúng đã xa rồi. Ở đằng trước, xa xa phía chân trời, cậu có thể nhìn thấy rất nhiều hồ, về phía bên phải và bên trái còn có nhiều hồ hơn, lấp lóa sắc xanh trong ánh mặt trời buổi chiều muộn. Nhưng Brian cần có một cái hồ ở ngay trước mặt. Cậu rất cần một cái hồ ở ngay phía trước máy bay nhưng tất cả những gì cậu nhìn thấy qua tấm kính máy bay chỉ là cây cối, những cây xanh đầy vẻ chết chóc. Nếu phải đổi hướng, nếu cậu phải đổi hướng, cậu không nghĩ là mình có thể giữ máy bay tiếp tục bay được. Dạ dày cậu co thắt liên tục và hơi thở của cậu trở nên dồn dập... Kia rồi! Không hẳn là ở phía trước mà là hơi chếch về phía bên phải, Brian đã nhìn thấy một cái hồ. Cái hồ có hình chữ L, với các góc tròn, và chiếc máy bay gần như hướng vào cạnh dài của chữ L, bắt đầu từ điểm đáy chữ L và hướng lên trên đỉnh. Cái hồ chỉ chếch sang bên phải cậu một chút. Brian kéo nhẹ bàn đạp phải của bánh lái và mũi máy bay bắt đầu rẽ hướng. Những cú ngoặt vừa rồi hơi mạnh, thế nên cái hồ bây giờ lại ở phía trên mũi máy bay. Brian nhẹ kéo ngược vô lăng và mũi máy bay nâng lên. Nhưng như thế lại khiến cho máy bay đột ngột mất đà và gần như đứng khựng lại giữa không trung. Bộ điều khiển máy bay trở nên mất kiểm soát khiến cậu sợ hãi, lại phải kéo vô lăng ngược lại. Đà kéo khiến cho tốc độ tăng lên một chút nhưng lại làm cho kính của máy bay bị cây cối che khuất hết, đồng thời khiến cho cái hồ ở trước mũi máy bay và ngoài tầm với. Trong khoảng ba hay bốn giây, mọi thứ gần như đứng khựng lại, lơ lửng. Chiếc máy bay vẫn đang bay, nhưng rất chậm chạp, chậm chạp... có vẻ như nó sẽ không bao giờ đáp xuống hồ. Brian nhìn ra bên ngoài và thấy một cái ao nhỏ, phía cuối ao có một con vật trông to lớn - cậu nghĩ là một con nai sừng tấm - đang đứng trong làn nước. Khi Brian lướt qua cái ao, với độ cao từ máy bay xuống mặt đất giờ đây chỉ còn khoảng chừng một trăm tới một trăm hai mươi mét, tất cả dường như tĩnh lặng, đứng yên, hồ nước, con nai và cây cối - khung cảnh trông như một bức tranh. Ngay sau đó mọi vật bỗng dưng thay đổi. Cây cối đột nhiên hiện ra rõ mồn một, màu xanh chiếm hết tầm mắt cậu, lúc này Brian nghĩ rằng cậu sẽ lao vào chúng và chết, sẽ chết, nhưng thần may mắn vẫn mỉm cười với cậu, đúng lúc Brian sắp va vào lùm cây thì chiếc máy bay đi vào một làn đường quang đãng với những thân cây đã gãy và hướng thẳng tới hồ. Chiếc máy bay - giờ đây chắc chắn là sắp rơi và đâm - lao xuống như một tảng đá và rơi vào một khu vực rộng rãi, Brian thả lỏng tay trên vô lăng và lên gồng để chống lại cú va chạm. Tuy nhiên máy bay chỉ còn bay với vận tốc cực chậm, khi Brian kéo vô lăng, mũi máy bay nổi lên, cậu thấy phía trước là màu xanh của mặt hồ, và vào đúng lúc đó, chiếc máy bay va phải lùm cây. Khi hai cánh máy bay va phải một bụi thông ở ven khoảng rừng trống và vỡ toang, máy bay bị giật mạnh và bị dội ngược lại. Bụi bẩn từ mặt đất thổi lên bay vào mặt cậu dữ dội đến nỗi cậu tưởng phải có một vụ nổ. Trong chốc lát Brian không nhìn thấy gì, người cậu lao về phía trước, đầu đập mạnh vào vô lăng. Sau đó một tiếng va chạm dữ dội vang lên, tiếng kim loại vỡ, và máy bay lộn về bên phải, bay qua những tàng cây, nhoài ra trên mặt nước và lao xuống, đâm thẳng vào hồ, trượt qua mặt nước cứng như bê tông, làn nước xé toạc cả kính chắn gió phía ngoài và làm vỡ tan các ô cửa hai bên, nước cũng làm cho Brian bị dội ngược lại vào ghế. Có ai đó đang kêu thét, kêu thét lên khi chiếc máy bay lao xuống nước. Tiếng kêu đau đớn và sợ hãi nghèn nghẹt giống như của một con thú, và cậu đã không biết rằng đó là tiếng của chính mình, rằng cậu gào lên để chống lại làn nước đang dìm cậu và chiếc máy bay xuống sâu hơn, nhấn chìm xuống dưới hồ. Lúc này Brian không còn thấy gì ngoài sự chán nản thất vọng và màu xanh lạnh lẽo, rồi cậu nhìn vào cái móc khóa của dây an toàn, cậu đưa một tay nới lỏng cái móc khóa. Brian cố hết sức kéo ra cho đến khi cái dây an toàn được nới lỏng - nhưng làn nước vẫn đang cố gắng giết cậu, kết thúc cuộc đời cậu - và không biết bằng cách nào mà Brian đã thoát được ra khỏi cánh cửa kính trước đã bị vỡ và cậu cố nhoài người lên trên, cảm thấy có vật gì đó kéo người cậu lại, cảm thấy cái áo gió bị xé toạc và cậu đã được tự do. Tự do nhanh chóng. Tự do tuyệt vời. Nhưng xa quá! Lúc này Brian đang ở quá xa mặt nước, phổi cậu không còn đủ không khí, cũng không thể nín thở để ngoi lên và cậu bị sặc nước, cậu cố gắng đạp nước, rồi - cuối cùng - thành công, cuối cùng cậu cũng bơi lên được, đầu cậu ngoi lên mặt nước và cậu vừa phì nước ra khỏi mồm vừa bơi, bơi mà không biết mình là ai, đang làm gì. Không biết bất cứ một điều gì. Bơi cho đến khi tay cậu chạm phải đám rong rêu và rác rưởi, bơi và hét cho đến khi tay cậu cuối cùng cũng chạm vào đám cỏ và bụi cây, và Brian cảm thấy ngực của mình đã ở trên mặt đất, cảm nhận được khuôn mặt cậu đã ở trên những cọng cỏ thô ráp và cậu dừng lại, lúc này mọi thứ như cùng dừng lại. Một màu sắc mà Brian chưa bao giờ nhìn thấy trước đây xuất hiện, một màu sắc bùng lên trong tâm trí cậu cùng với những đau đớn, và cậu ngất đi sau những gì vừa trải qua, cậu trôi tuột vào một thế giới khác, một thế giới trống rỗng. Trống rỗng. 4 Ký ức như một lưỡi dao cứa vào tim cậu. Xoáy sâu vào lòng cậu bao chán ghét. Bí mật đó. Brian đang đạp chiếc xe đạp có bộ điều khiển mười tốc độ cùng với một cậu bạn tên Terry. Chúng đạp xe trên một con đường và quyết định quay lại đi theo một con đường khác, con đường này sẽ dẫn hai đứa qua Khu phố Amber. Brian nhớ lại mọi chuyện rõ mồn một. Cậu nhớ chiếc đồng hồ của ngân hàng trong khu phố, lúc đó đang nhấp nháy chỉ 3 : 31, sau đó đến nhiệt độ, 28 và ngày tháng. Tất cả các con số là một phần trong ký ức cậu, tất cả cuộc đời cậu là một phần của ký ức. Terry vừa quay sang cười với cậu về một điều gì đó, Brian nhìn qua đầu Terry và thấy bà. Mẹ cậu. Bà đang ngồi trong một chiếc xe ô tô, một chiếc xe lạ. Cậu thấy bà nhưng bà lại không trông thấy cậu. Brian định vẫy hoặc gọi bà, nhưng một điều gì đó đã ngăn cậu lại. Có một người đàn ông ngồi trong ô tô. Người đàn ông có mái tóc vàng. Mặc một chiếc áo tennis cổ lọ màu trắng. Brian nhìn thấy như vậy, và hơn thế nữa, cậu còn chứng kiến Bí mật đó và sau đó là nhiều điều khác nữa, những ký ức của cậu chia thành từng mảnh, từng cảnh giống kiểu thế này - Terry cười, Brian nhìn qua đầu Terry thì thấy chiếc xe ô tô và mẹ cậu đang ngồi cùng với người đàn ông, thời gian và đồng hồ đo nhiệt độ, bánh trước chiếc xe đạp của cậu, mái tóc vàng của người đàn ông, chiếc áo trắng của người đàn ông, những dòng ký ức đáng ghét hiện ra rõ mồn một trong tâm trí cậu. Bí mật đó. Brian mở mắt và hét lên. Trong một vài giây cậu không biết mình đang ở đâu, chỉ nhớ là vụ va chạm vẫn đang tiếp diễn và mình sắp chết, và cậu cứ hét lên như vậy cho đến khi hết hơi. Sau đó là sự im lặng, cùng với những tiếng nức nở của cậu phát ra trong không khí, gần như khóc. Sao lại yên tĩnh quá? Mới lúc trước còn ồn ào, va chạm và đổ vỡ, kêu gào, giờ thì yên lặng như tờ. Vài con chim đang hót líu lo. Làm sao mà chúng có thể hót được vào lúc này nhỉ? Brian thấy hai chân ướt ướt, cậu lấy hai tay nhấc người lên và nhìn xuống chân. Hóa ra hai chân cậu đang ở trong lòng hồ. Kỳ lạ thật. Hai chân cậu đang ở dưới nước. Brian cố gắng cử động, nhưng cơn đau như bị búa bổ khiến cậu phải thở gấp, Brian đành dừng lại, hai chân cậu vẫn ở dưới nước. Đau đớn. Ký ức. Brian quay đầu lại và thấy ánh mặt trời chiếu lên mặt nước, ánh trời chiều, chiếu thẳng vào mắt khiến cậu phải quay mặt đi. Vậy là cuối cùng nó đã trôi qua. Vụ va chạm. Cậu đã sống sót. Cú va chạm đã kết thúc và mình vẫn còn sống, Brian nghĩ. Rồi cậu nhắm mắt và cúi đầu xuống trong một lúc dường như khá lâu. Khi cậu mở mắt ra thì trời đã tối và một vài vết đau đớn trên người giờ đã dịu đi - có rất nhiều vết thương âm ỉ - và vụ va chạm lại quay trở lại ngập tràn tâm trí cậu. Xuyên qua cây cối và lao ra phía ngoài bên trên hồ nước. Chiếc máy bay đã đâm xuống hồ và chìm trong nước còn Brian bằng cách nào đó đã thoát được ra ngoài. Cậu kéo người ngoi lên và bò ra khỏi mặt nước, kêu lên vì đau khi di chuyển. Chân cậu như có lửa bên trong, còn trán thì như có ai đang gõ búa vào, nhưng cậu vẫn có thể di chuyển được. Brian cố kéo chân ra khỏi hồ nước rồi bò bằng hai tay và đầu gối cho đến khi ra khỏi khu vực bờ hồ ẩm ướt và tới gần một bụi cây. Sau đó Brian ngồi xuống, cậu chỉ có lúc này để nghỉ ngơi, để cứu bản thân mình. Cậu nằm nghiêng và gối đầu lên cánh tay rồi nhắm mắt lại, đó là tất cả những gì cậu có thể làm trong lúc này, tất cả những gì cậu nghĩ là mình có thể làm được. Cậu nhắm mắt và ngủ ngon lành, không mơ màng, không mộng mị. Khi Brian tỉnh dậy, trời tối om không chút ánh sáng. Bóng tối dày đặc và trong giây lát, cậu lại bắt đầu rơi vào sợ hãi. Phải nhìn được, cậu nghĩ. Nhìn được là tất cả. Brian chẳng nhìn thấy gì. Nhưng khi quay đầu nhìn quanh mà không xoay người, cậu thấy một vệt sáng mờ vắt ngang hồ nước, là ánh sáng mặt trời đang bắt đầu le lói, và cậu nhớ ra khi cậu đi ngủ là lúc trời tối. “Chắc bây giờ đang là buổi sáng...” Brian lẩm bẩm, gần như thì thầm bằng giọng khàn khàn. Khi giấc ngủ trôi qua, mọi việc lại tái hiện. Cậu vẫn bị đau, toàn thân ê ẩm. Đôi chân tê liệt và cứng đơ, lại đau nữa, không thể cử động được, khi cậu cố gắng động đậy thì lại thêm cái lưng cũng đau. Đây là tình huống tồi tệ nhất mà cậu gặp phải, ý nghĩ này vang lên trong đầu cậu, làm thổn thức từng nhịp đập của trái tim cậu bé. Dường như toàn bộ vụ va chạm đã đổ lên đầu cậu. Cậu co lưng lại và cảm thấy hai bên sườn cùng đôi chân cử động chậm chạp. Brian xoa xoa cánh tay; không có dấu hiệu gì cho thấy tay cậu bị gãy hay bị bong gân nghiêm trọng cả. Có lần khi lên chín tuổi, Brian đã lao chiếc xe đạp nhỏ bẩn thỉu của cậu vào một bãi đỗ xe ô tô và bị bong gân mắt cá chân, sau đó chân cậu bị bó bột trong tám tuần liền, nhưng bây giờ chẳng có một dấu hiệu nào giống lần đó cả. Không có gì bị gãy. Chỉ bị bầm dập chút thôi. Sờ vào trán, cậu thấy nó sưng phồng lên, gần giống như một ụ đất trước mắt cậu, đau đến nỗi khi tay chạm vào, cậu suýt phát khóc. Nhưng cậu chẳng thể làm gì cho bớt đau, và, giống như các bộ phận khác trên cơ thể cậu, nó cũng bị thâm tím chứ không bị gãy. Mình vẫn còn sống, cậu nghĩ. Mình vẫn còn sống. Mọi chuyện có thể đã khác. Có khi đã xảy ra chết chóc. Mình có thể đã chết rồi. Giống như viên phi công, bỗng dưng cậu nghĩ. Viện phi công trên chiếc máy bay, lao xuống nước, bị kẹt trong ghế lái, chìm trong làn nước xanh... Cậu ngồi lên, hay nói đúng hơn là cố gắng ngồi lên. Lần đầu tiên cậu ngã ngược trở lại. Brian cố gắng lần nữa và rên lên khi gồng mình, cậu cố gắng tiến đến chỗ có thể ngồi được và nghiến răng nghiêng người ngồi xuống, rồi lưng cậu cũng dựa được vào một cái cây nhỏ, mặt cậu hướng ra ngồi hồ, ngắm bầu trời đang sáng dần lên nhờ ánh bình minh. Quần áo của Brian đã ướt hết và ngấm lạnh, Brian rùng mình vì cóng. Cậu bé kéo manh áo gió tả tơi còn sót lại - thực ra chỉ còn là những mẫu vải - quanh vai, cố gắng giữ lại chút hơi ấm cho cơ thể. Cậu không thể nghĩ, không thể sắp xếp các ý nghĩ đâu ra đó được nữa. Mọi thứ như thước phim quay đi quay lại, lẫn lộn giữa thực tại và tưởng tượng - chỉ khác một điều là tất cả đều có thật. Trong một giây Brian dường như chỉ hình dung được là có một vụ đâm máy bay, và cậu đã cố gắng hết sức để thoát ra khỏi chiếc máy bay bị chìm và bơi được vào bờ; rằng tất cả những sự việc đó đã xảy ra với ai đó hoặc trong một bộ phim đang chiếu trong tâm trí cậu. Lúc sau, cậu cảm nhận được quần áo mình, ẩm ướt và lạnh lẽo, ý nghĩ của Brian bị cắt ngang bởi vết đau trên trán, khiến cho cậu biết mọi chuyện là có thật, sự việc thực sự đã xảy ra. Nhưng tất cả vẫn còn mơ hồ, tất cả chìm trong một thế giới mơ hồ. Rồi cậu ngồi và nhìn chằm chằm về phía cái hồ, cảm nhận cơn đau lại bùng lên và lan tỏa từng đợt, cậu ngắm mặt trời dần nhô lên phía cuối hồ nước. Phải mất một tiếng đồng hồ, có lẽ là hai tiếng - cậu chưa tính được thời gian và cũng chẳng quan tâm đến thời gian - mặt trời mới hiện ra được một nửa. Mặt trời làm cho không khí ấm áp hơn, đó là điều trước tiên cậu cảm nhận được, nhưng cùng với hơi ấm là sự xuất hiện hàng loạt côn trùng - dày đặc, đám muỗi lũ lượt kéo đến vây lấy người Brian, trông như một cái áo côn trùng sống trên những chỗ da thịt hở, chúng bít kín lỗ mũi cậu khi cậu hít, lao vào mồm khi cậu há ra để thở. Thật không thể tin được. Không thể như thế này. Cậu đã thoát khỏi vụ đâm máy bay, nhưng lũ côn trùng này thì không thể. Cậu ho khạc ra, xua chúng đi, hắt hơi, nhắm mắt lại và phủi mặt, vừa xua vừa đập đám muỗi hàng chục, hàng trăm lần. Nhưng ngay sau khi cậu xua được một đám, ngay sau khi cậu giết được đám muỗi này, thì những đám khác lại bay đến, thậm chí còn dày đặc hơn, chúng phát ra những tiếng kêu vo vo. Muỗi và một số con ruồi màu đen nhỏ mà Brian chưa nhìn thấy bao giờ. Tất cả cùng lao vào đốt, cắn, tấn công Brian. Trong giây lát, đôi mắt Brian đã sưng vù, híp tịt lại và mặt mày cậu cũng sưng húp, trông thật tương xứng với cái trán bị sưng ban nãy. Cậu kéo những miếng vải còn lại của chiếc áo gió tả tơi qua khỏi đầu và cố gắng ẩn náu trong đó nhưng cái áo toàn những chỗ rách nên chẳng có tác dụng gì. Thất vọng, Brian kéo áo phông lên che mặt, nhưng lại làm cho phần thắt lưng bị hở và lũ ruồi muỗi lại xô đến khu vực mới này, chúng dữ dội đến nỗi cậu lại phải kéo áo xuống. Cuối cùng, Brian ngồi, kéo áo gió lên trên để che thân, dùng tay phủi và chịu đựng, cậu suýt khóc vì thất vọng và đau đớn. Cậu chẳng biết làm gì nữa cả. Sau đó mặt trời hiện ra hết và chiếu thẳng vào mặt cậu, làm khô dần bộ quần áo ẩm ướt Brian đang mặc và tắm đẫm cậu trong khí ấm, lũ ruồi muỗi cũng biến mất. Gần như rất đột ngột. Một phút trước cậu còn ngồi giữa một đám ruồi muỗi; phút sau, chúng đã biến mất và mặt trời chiếu lên người cậu. Lũ ruồi muỗi như những con ma cà rồng, Brian nghĩ. Đương nhiên là chúng không thích bóng đêm, có lẽ vì trời quá lạnh, và chúng cũng không thể chịu được ánh sáng mặt trời chói chang. Nhưng trong khoảng thời gian mờ sáng đó, khi mọi thứ bắt đầu trở nên ấm áp và trước khi mặt trời hiện ra hoàn toàn và tỏa khí nóng - cậu không tin được là chúng đã xuất hiện. Chưa bao giờ, trong tất cả những câu chuyện cậu từng đọc, trong các bộ phim mà cậu đã xem trên ti vi về thế giới bên ngoài, chưa bao giờ cậu thấy người ta nhắc đến lũ ruồi muỗi. Tất cả những gì mà họ miêu tả trong các chương trình về thế giới tự nhiên là phong cảnh xinh đẹp hoặc những con vật nhảy nhót tận hưởng không gian tươi đẹp. Chưa thấy ai nhắc đến ruồi muỗi bao giờ. “Uuuuuuu.” Brian rên lên khi kéo người mình từ từ đứng lên tựa vào thân cây và duỗi người ra, cử động này tạo ra những cơn đau nhức mới. Những bắp thịt ở lưng cậu chắc cũng đã bị tổn thương - vì chúng bị giật mạnh khi cậu duỗi người - và trong khi vết thương trên trán cậu dường như đang có phần dịu bớt đi, thì chỉ cố gắng đứng lên thôi cũng đã làm cho cậu mệt đến nỗi gần như ngã sụp xuống. Mu bàn tay Brian sưng rộp và đôi mắt cậu gần như bị kéo sụp lại vì lũ muỗi, cậu chỉ nhìn được mọi vật qua một khe hở nhỏ trên mắt. Cũng chẳng có nhiều thứ để nhìn, cậu nghĩ, rồi gãi vào những vết muỗi cắn. Phía trước mắt cậu là cái hồ, nước sâu và trong xanh. Cậu bất chợt nhớ đến cảnh chiếc máy bay, nó đang chìm trong lòng hồ, chìm dần trong làn nước màu xanh với viên phi công vẫn đang bị kẹt trong ghế lái, tóc lượn sóng... Brian lắc đầu. Càng đau thêm. Thôi lúc này chẳng nghĩ đến điều đó làm gì. Cậu nhìn quanh một lần nữa. Hồ nước trải dài phía dưới, cách chẳng bao xa. Cậu đang ngồi ở cạnh đáy của hồ nước hình chữ L, cậu nhìn lên cạnh dài của chữ L, đoạn ngắn ở phía bên phải. Trong ánh sáng ban mai, mặt nước hoàn toàn tuyệt đối tĩnh lặng. Cậu có thể nhìn thấy bóng của những thân cây ở phía cuối hồ bên kia. Lộn ngược trong nước trông chúng dường như giống một khu rừng khác, một khu rừng lộn ngược đối xứng với khu rừng thật. Brian nhìn thấy một con chim lớn - trông nó giống một con quạ nhưng có vẻ lớn hơn - bay ra từ đỉnh khu rừng thật, và con chim phản chiếu dưới mặt nước cũng bay, cả hai con chim cùng bay qua trên mặt nước. Mọi thứ đều xanh tươi, màu xanh khiến cậu choáng ngợp quá. Khu rừng bạt ngàn thông và gỗ sam, những bụi cây thấp lấm bẩn rải rác, những bụi cỏ dày và một số loại cây nhỏ li ti khác mọc khắp khu rừng. Cậu chẳng nhận ra loài cây nào trong số đó - ngoại trừ cây thường xanh - và một vài cây rậm lá, cậu nghĩ có thể đó là những cây dương lá rung. Brian đã được xem trên ti vi những bức hình có loài cây này mọc trên núi. Khu vực xung quanh hồ có địa hình đồi núi, nhưng những ngọn đồi thì lại nhỏ - trông chỉ như những gò đất - và nơi đây có rất ít đá ngoại trừ phía bên trái cậu. Có một dãy đá cao khoảng sáu mét nhìn ra phía hồ. Nếu như chiếc máy bay chỉ cần lao chệch xuống phía bên trái một chút thôi thì có lẽ nó đã lao vào những phiến đá này mà không bao giờ đáp xuống hồ nước. Nếu vậy thì chắc là cậu đã tan xác. Chết. Cái từ đáng sợ này xuất hiện. Nếu vậy thì chắc là mình đã chết, đã tan xác và chết. Lao vào những tảng đá và chết. May mắn quá, cậu nghĩ. Mình đã gặp may, lúc đó mình đã gặp may. Nhưng Brian biết là không phải vậy. Nếu như cậu may mắn thì bố mẹ cậu đã không ly dị bởi Bí mật đó và cậu đã không phải đi trên chuyến bay với một viên phi công bị đau tim và cậu đã không ở đây, nơi mà phải gặp may cậu mới thoát chết. Nếu như ta cứ đi ngược lại với may mắn, cậu nghĩ, thì ta sẽ gặp xui xẻo. Brian lại lắc đầu - nhăn mặt đau đớn. Lại thêm một điều nữa mình không nên nghĩ đến. Dãy đá có hình tròn, trông như là một khối sa thạch, có một vài phiến đá màu tối hơn sắp thành từng lớp, dính chặt vào. Từ dãy đá nhìn thẳng ra hồ, ở góc trong của hình chữ L, có một ụ cây củi lẫn bùn nhô lên, cách mặt nước khoảng vài ba mét. Lúc đầu Brian không thể nhận ra đó là cái gì nhưng cậu cũng nhớ mang máng - cậu đã nhìn thấy nó trong phim ảnh rồi. Bỗng một cái đầu nhỏ có lông màu nâu thình lình thò ra khỏi mặt nước gần đó và bắt đầu bơi về phía cạnh đáy cái hồ hình chữ L, tạo ra những vệt sóng lăn tăn hình chữ V ở đằng sau, bây giờ thì cậu đã nhớ ra mình nhìn thấy nó ở đâu rồi. Nó là nhà của con hải ly, gọi là lều hải ly, cậu đã được xem trong một chương trình đặc biệt trên một kênh truyền hình công cộng. Có một con cá nhảy lên từ lòng hồ. Con cá không to, nhưng vẫn làm nước bắn tung lên gần cái lều hải ly, như một tín hiệu, đột nhiên có những giọt nước nhỏ bắn khắp mặt hồ - dọc bờ hồ - khi cá bắt đầu nhảy. Hàng trăm con cá nhảy lên làm nước bắn tung tóe. Brian nhìn ngắm đàn cá một lúc, cậu vẫn còn lơ mơ, vẫn chưa nghĩ thông suốt được. Khung cảnh thật dễ thương, cậu nghĩ, đã có những cảnh mới hiện lên trước mắt, nhưng bao trùm tất cả vẫn là một màu xanh, màu xanh của lá cây và xanh nước hồ, nhưng cậu đã quen thuộc với màu đen và xám của thành phố. Giao thông, tiếng người nói, tiếng động phát ra suốt ngày - những hoạt động và tiếng ồn nơi thành phố. Ở đây, ban đầu không gian tĩnh lặng, chí ít là trong tâm trí cậu không gian thật tĩnh lặng, nhưng khi cậu bắt đầu nghe ngóng, chăm chú lắng nghe, cậu nghe thấy hàng nghìn tiếng động. Tiếng xạc xào, những tiếng động nhỏ, tiếng chim hót, tiếng côn trùng vo ve, tiếng nước bắn khi những chú cá nhảy lên từ hồ nước - có tiếng động thật mạnh mẽ nơi đây, nhưng là tiếng động mà cậu không quen, và màu sắc xung quanh quả thực rất mới mẻ đối với cậu, những sắc màu này kết hợp với tiếng động kia hòa lẫn trong tâm trí cậu, tạo nên âm thanh xanh buồn nhạt nhòa mà cậu nghe thấy, nghe như là tiếng huýt gió, nhưng Brian vẫn còn rất mệt. Quá mệt mỏi. Cậu kiệt sức, dù sao thì riêng việc đứng đã làm tốn nhiều năng lượng của cậu, làm cậu kiệt quệ. Brian cho rằng cậu vẫn còn đang bị sốc do vụ va chạm và vẫn còn bị đau, bị choáng váng, một cảm giác rất lạ. Cậu tìm thấy một cái cây khác, một cây thông cao không có cành nhánh nào từ gốc cho đến tận ngọn, liền tới ngồi dựa vào đó nhìn xuống hồ, để mặt trời sưởi ấm mình và trong chốc lát, cậu cuộn người xuống và ngủ thiếp đi. 5 Brian mở mắt, cố sức mở mắt ra, và ngay sau đó cậu nhận ra một vài điều về chính mình. Cậu khát nước quá, khát nước lạ lùng. Mồm cậu khô khốc, lại có mùi hôi và rất khó chịu. Môi cậu khô nứt, cậu cảm thấy như thể nó đang bật máu và nếu như cậu không uống chút nước ngay thì cậu sẽ khô héo đến chết. Thật nhiều nước. Tìm được bao nhiêu nước là uống cho kỳ hết. Brian cảm nhận được cơn khát và sự khô bỏng trên mặt mình. Lúc này đang giữa chiều, mặt trời đã chiếu trên đỉnh đầu Brian và gần như thiêu chín cậu khi cậu ngủ, khiến cho mặt cậu như đang nung trong lửa, sắp phồng rộp lên, sắp bong cả da ra. Thật là tồi tệ, nó khiến cho cơn khát càng dữ dội. Brian đứng dậy, cố bám vào cái cây để đứng lên, bởi cậu vẫn còn bị đau và người cứng đơ, rồi cậu nhìn xuống phía hồ nước. Dưới kia là nước. Nhưng cậu không biết mình có thể uống thứ nước đó được không. Chưa có ai bảo cậu rằng nước hồ có uống được hay không. Brian lại nhớ đến viên phi công. Chìm dưới làn nước hồ màu xanh cùng với chiếc máy bay, bị kẹt trong ghế lái, cơ thể... Thật là tồi tệ, cậu nghĩ. Nhưng nước hồ trông rất trong xanh, miệng và cổ họng cậu khô khốc vì khát, hơn nữa Brian cũng chẳng biết chỗ nào khác ngoài nơi này có thể có nước cho cậu uống. Đã thế, có khi cậu cũng uống no hàng tấn nước khi cố bơi ra khỏi chiếc máy bay lên bờ hồ rồi. Trong phim ảnh thường có cảnh người anh hùng tìm thấy một dòng suối trong trẻo có nước sạch để uống nhưng trong phim ảnh lại không có cảnh họ rơi vào tình huống máy bay hỏng, trán bị sưng, cơ thể thì đau nhức, và cơn khát hành hạ cho đến khi anh ta không còn nghĩ được gì nữa. Brian rón rén bước xuống bờ hồ. Dọc theo bờ hồ có những đám cỏ dày, mặt nước trông khá tối tăm, có những con vật gì đó đang bơi trong nước, những con rệp nhỏ. Có một khúc gỗ chiều dài khoảng sáu mét nổi lên trên mặt hồ - có lẽ một con hải ly dựng lên từ trước - với những cành cây nhỏ chìa lên trông như những cái tay cầm. Brian cố giữ thăng bằng trên khúc gỗ bằng cách bám vào các cành cây, và loạng choạng đi qua những đám rong rêu trên mặt nước nhờ nhờ. Khi đi đến chỗ nước trong, cậu không nhìn thấy con rệp nào nữa, cậu quỳ xuống khúc gỗ để uống nước. Một hớp thôi, cậu nghĩ, trong đầu vẫn lo lắng vì đây chỉ là nước hồ - Mình sẽ chỉ uống một hớp thôi. Nhưng khi cậu chụm tay lại vốc nước lên miệng, cảm nhận dòng nước lạnh chảy qua đôi môi khô nứt và trên lưỡi mình thì cậu không thể ngừng lại. Chưa bao giờ, ngay cả trong những chuyến đạp xe dài trong cái nắng gay gắt của mùa hè, Brian phải chịu đựng cơn khát dữ dội đến thế này. Cứ như thể đây còn hơn cả nước nữa, như thể là nước đã trở thành toàn bộ cuộc sống, và cậu không dừng lại được. Brian cúi người vục miệng xuống hồ, rồi cậu uống, uống hoài, vục sâu miệng xuống mà uống từng ngụm lớn. Cậu uống cho đến khi bụng căng phồng lên, cho đến khi cậu suýt rơi ra khỏi khúc gỗ, lúc đó cậu mới đứng lên và loạng choạng bước trên tấm gỗ quay trở lại bờ hồ. Ngay sau đó cậu cảm thấy buồn nôn, và cậu nôn ra gần hết chỗ nước vừa uống. Nhưng lúc này cơn khát của cậu đã qua và dường như nước đã xoa dịu vết thương trên đầu cậu - mặc dù ánh nắng mặt trời vẫn như đang thiêu đốt khuôn mặt cậu. “Thế là.” Brian gần như vừa nhảy lên vừa hét, hét rất to. Tiếng cậu như rơi vào không khí. Cậu nói thử lần nữa. “Thế là. Thế là. Thế là tôi đang ở đây.” Còn chiếc máy bay thì ở đằng kia, cậu nghĩ. Lần đầu tiên từ sau vụ va chạm máy bay, trí óc cậu bắt đầu làm việc, não cậu hoạt động và cậu bắt đầu nghĩ. Mình đang ở đây - vậy đây là đâu? Mình đang ở đâu? Brian nhổm dậy bước lên bờ, đi về phía cái cây cao không cành rồi ngồi tựa lưng vào vỏ cây xù xì. Lúc này trời nắng quá, nhưng mặt trời ở trên cao chiếu ánh nắng vào phía sau cậu, cậu thì ngồi dưới bóng râm của cây, cũng khá thoải mái. Có rất nhiều thứ để suy nghĩ. Mình ở đây mà chẳng biết đây là đâu. Cậu bắt đầu nhớ lại, và những ý nghĩ cùng ùa đến, tất cả những chuyện đã xảy ra, và cậu không thể kiểm soát được ý nghĩ của mình nữa. Toàn bộ câu chuyện chuyển thành một mớ bòng bong vô nghĩa. Vì vậy cậu gạt bỏ ý nghĩ đó đi và cố gắng nghĩ về chuyện khác. Cậu đang đi máy bay lên phía Bắc để thăm bố trong mấy tháng hè, rồi viên phi công bị đau tim và chết, sau đó chiếc máy bay rơi vào một khu rừng nào đó ở miền Bắc Canada nhưng cậu không xác định được là họ đã bay bao xa hoặc đang ở hướng nào hoặc là cậu đang ở đâu... Từ từ đã, cậu nghĩ. Từ từ đã nào. Tên mình là Brian Robeson, mình mười ba tuổi và mình đang ở một mình tại một khu rừng phía Bắc Canada. Được rồi, cậu nghĩ, đơn giản thế thôi. Mình đang đi máy bay đến thăm bố thì chiếc máy bay lao xuống và chìm trong lòng một hồ nước. Rồi, sau đó cứ thế. Những dòng ký ức ngắn xuất hiện. Mình không biết mình đang ở đâu. Câu này chưa có nghĩa lắm. Nói đúng hơn là họ chẳng biết mình đang ở đâu - họ ở đây tức là bất cứ ai có ý định tìm kiếm mình. Những người tìm kiếm cứu nạn. Họ sẽ tìm kiếm cậu, tìm kiếm chiếc máy bay. Bố mẹ cậu sẽ phát điên lên. Họ sẽ lùng sục khắp nơi để tìm kiếm cậu. Brian đã thấy những cuộc tìm kiếm trên bản tin, xem những bộ phim về những chiếc máy bay bị mất tích. Khi một chiếc máy bay bị rơi, họ tìm kiếm cật lực và hầu như luôn tìm thấy chiếc máy bay chỉ trong vòng một hoặc hai ngày. Tất cả các phi công đều phải ghi lại chi tiết hành trình chuyến bay - họ sẽ bay đến đâu, vào thời gian nào, giải thích từng hướng đi. Họ sẽ đến, họ sẽ tìm kiếm cậu. Những người tìm kiếm sẽ dùng máy bay của chính phủ lần theo từ cả hai phía xung quanh hướng bay mà phi công đã ghi lại và tìm kiếm đến khi nào họ thấy cậu. Thậm chí có khi họ sẽ tìm thấy cậu ngay trong hôm nay. Có thể hôm nay họ sẽ đến đây. Đây đã là ngày thứ hai sau vụ va chạm. Không. Brian cau mày. Hôm nay là ngày đầu tiên hay ngày thứ hai nhỉ? Chiếc máy bay lao xuống vào buổi chiều và cậu đã phải ở ngoài trời lạnh lẽo suốt đêm. Vậy thì thực ra hôm nay mới là ngày đầu tiên. Nhưng họ vẫn có thể đến đây ngay hôm nay. Họ sẽ ngay lập tức tiến hành tìm kiếm khi biết máy bay của Brian không đến nơi. Ừ, họ có thể sẽ đến đây trong hôm nay. Có thể họ sẽ đến đây bằng máy bay cứu hộ, những máy bay dân dụng nhỏ có phao, có thể hạ cánh ngay ở kia, trên mặt hồ và đón cậu, đưa cậu về nhà. Nhà nào? Nhà của bố hay nhà của mẹ. Cậu ngắt dòng suy nghĩ. Điều đó không thành vấn đề. Đến nhà của bố hoặc quay về chỗ mẹ đều được. Dù về đâu thì cậu cũng có thể sẽ về đến nhà vào đêm nay hoặc sáng sớm mai, và ở nhà cậu có thể ngồi thoải mái trên ghế ăn một cái hamburger thật to kẹp pho mát, cà chua kèm hai miếng thịt rán chấm ngập nước xốt cà chua nấm và uống một cốc sô cô la đặc. Nghĩ đến đây thì cơn đói ập đến. Brian xoa xoa dạ dày. Cơn đói đã ập đến từ trước rồi nhưng những điều khác - sợ hãi, đau đớn - đã kìm nén nó lại. Bây giờ, nghĩ về cái bánh hamburger thì cái bụng trống rỗng của cậu bắt đầu biểu tình. Cậu không thể nghĩ là cơn đói lại ghê gớm đến vậy, chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Nước hồ đã lấp đầy dạ dày cậu nhưng cậu vẫn thấy đói, và bây giờ nó đòi thức ăn, nó réo đòi thức ăn. Nhưng ở đây, cậu nghĩ, hoàn toàn chẳng có gì để ăn cả. Không có gì cả. Trong phim người ta thường làm gì khi bị mắc kẹt như thế này nhỉ? À, đúng rồi, người anh hùng luôn tìm thấy một loài thực vật nào đó mà anh ta biết là ăn được và lấy làm thức ăn cho mình. Chỉ ăn mỗi cây cỏ đến khi anh ta thấy no hoặc sử dụng một cái bẫy nhỏ để bắt một con vật rồi nướng trên một ngọn lửa nhỏ thế là chẳng mấy chốc anh ta đã có một bữa ăn đầy đủ tám món. Vấn đề ở đây là, Brian nghĩ, rồi nhìn quanh, tất cả những gì cậu nhìn thấy ở đây là cỏ và bụi rậm. Rõ ràng là chẳng có thứ gì ăn cả ngoài hàng triệu con chim, và trong túp lều hải ly kia cậu cũng chẳng nhìn thấy có con thú nào để bắt mà nấu lên ăn, thậm chí nếu bằng cách nào đó cậu bắt được một con thú thì cậu cũng chẳng có que diêm nào để nhóm lửa... Chẳng có gì cả. Vấn đề là ở đây. Cậu chẳng có gì. Đúng thế, gần như không có gì. Hiển nhiên, cậu nghĩ, lúc này đây mình không biết là mình có gì và không có gì. Có lẽ mình nên cố gắng nghĩ xem mình chống chọi lại cơn đói bằng cách nào. Có như vậy mình mới có một điều gì đó để làm - sẽ giúp mình không phải nghĩ đến thức ăn nữa. Cho đến khi họ tới đây tìm kiếm ra mình. Brian từng có một giáo viên dạy tiếng Anh, tên là Perpich, thầy ấy luôn nói về sự lạc quan, phải suy nghĩ lạc quan, phải làm chủ được mọi tình huống. Đó là điều Perpich đã dạy cậu - sống lạc quan và làm chủ mọi tình huống. Giờ đây Brian nghĩ đến Perpich - tự hỏi làm thế nào để lạc quan và làm chủ được tình hình lúc này. Tất cả những gì Perpich nói là mình cần phải động não. Thầy ấy luôn bảo là trẻ con thì cần phải động não. Brian đã thay đổi vị trí ngồi, bây giờ cậu đang quỳ. Cậu cho tay vào túi quần lôi ra tất cả những gì có trong đó và đặt lên đám cỏ trước mặt. Thật ít ỏi. Một đồng hai lăm xu, ba đồng một hào, một đồng năm xu và hai đồng xu. Một cái bấm móng tay. Một cái ví có tờ hai mươi đô la ở trong - “Phòng khi con bị mắc kẹt tại sân bay ở một thị trấn nào đó và cần phải mua thứ gì đó để ăn,” mẹ cậu đã nói như vậy ở sân bay - trong túi cậu còn có một vài mảnh giấy khác. Và trên thắt lưng của Brian, không biết sao vẫn còn lại đó, là chiếc rìu nhỏ mà mẹ cậu đã đưa cho. Cậu đã quên mất chiếc rìu và bây giờ thì cậu lấy nó ra, đặt lên cỏ. Có một ít gỉ sắt đóng trên lưỡi rìu, cậu liền lấy ngón tay cái lau đi. Đó là một chiếc rìu. Brian cau mày. Không, đợi đã - nếu như cậu định chơi trò này thì cũng nên chơi tử tế. Perpich hẳn sẽ bảo cậu là đừng có ngồi thừ ra đó nữa. Hãy động não. Hãy xem lại tất cả một lần nữa nào, Robeson. Cậu đi một đôi giày tennis loại tốt, bây giờ nó gần khô rồi. Và đôi tất. Quần bò, quần áo lót, một cái thắt lưng da mỏng và một cái áo phông, một cái áo gió bị xé rách nhiều chỗ đang ở trên người cậu. Lại còn một cái đồng hồ nữa. Brian vẫn đang đeo cái đồng hồ điện tử ở cổ tay nhưng nó đã bị vỡ trong vụ va chạm vừa rồi - mặt kính đồng hồ không còn, cậu tháo cái đồng hồ ra, định quăng đi nhưng lại dừng tay và đặt cái đồng hồ lên thảm cỏ cùng với những thứ đồ khác. Để nó đây. Cái đồng hồ. Không, đợi đã. Có một thứ nữa. Đó là tất cả những gì cậu có, nhưng cậu còn có chính bản thân mình. Perpich đã từng nhắc đi nhắc lại điều này với đám học sinh - “Các em chính là tài sản quý giá nhất mà các em có. Đừng quên điều đó. Bản thân mình chính là điều tốt đẹp nhất mà mình có.” Brian nhìn quanh một lần nữa. Ước gì thầy ở đây lúc này, thầy Perpich. Em đói quá và em sẽ đánh đổi tất cả những gì em có lúc này để có một miếng bánh hamburger. “Tôi đói quá.” Cậu kêu lên. Ban đầu thì âm điệu còn bình thường, sau đó to dần lên, rồi chuyển thành tiếng hét. “Tôi đói, tôi đói, tôi đói!” Khi cậu dừng lại, không gian đột nhiên trở nên yên tĩnh, không chỉ do cậu không hét nữa mà cả tiếng lách cách và tiếng chim hót cũng như những tiếng động khác của khu rừng cũng đột ngột dừng. Tiếng kêu phát ra từ giọng nói của cậu đã làm mọi vật giật mình và rơi vào yên lặng. Cậu nhìn quanh, há miệng ra lắng nghe, và nhận ra rằng chưa bao giờ trong đời mình cậu thấy sự tĩnh lặng đến thế. Hoàn toàn yên lặng. Trước đây lúc nào cậu cũng nghe thấy có tiếng động, một tiếng động nào đó. Sự im lặng chỉ diễn ra trong vài giây, nhưng nó ấn tượng đến nỗi hình như đã ăn sâu vào trí óc cậu. Không có gì cả. Không có tiếng động nào cả. Sau đó chim lại bắt đầu hót, rồi tiếng vo ve của côn trùng, sau đó có tiếng hót líu lo và tiếng quạ kêu, rồi chẳng mấy chốc sau những tiếng động lúc nãy cùng ngân cả lên. Để rồi cậu vẫn cảm thấy đói. Tất nhiên, cậu nghĩ, đặt những đồng xu và các thứ khác vào trong túi quần, gài chiếc rìu vào thắt lưng - dĩ nhiên là nếu như tối nay họ đến hoặc quá lắm là ngày mai họ đến thì cơn đói không phải điều gì to tát. Nhiều người đã đi nhiều ngày mà không ăn gì, chỉ uống nước. Thậm chí nếu như tối muộn ngày mai họ vẫn chưa đến đây thì mình vẫn không sao. Chắc là chỉ gầy đi một chút, nhưng bánh hamburger, kẹo mạch nha và thịt rán sẽ giúp mình hồi phục. Một hình ảnh tưởng tượng về chiếc bánh hamburger - cách người ta bày biện nó trong những chương trình quảng cáo trên vô tuyến - dội lên trong đầu cậu. Màu sắc thật hấp dẫn, miếng thịt đẫm nước xốt nóng hổi... Cậu gạt hình ảnh đó ra khỏi đầu. Thậm chí nếu như mai mà họ vẫn chưa tìm thấy cậu, Brian nghĩ, cậu cũng sẽ chẳng sao. Cậu có rất nhiều nước, dù không chắc là nước đó có lành và sạch không. Cậu lại ngồi xuống, tựa lưng vào gốc cây. Có một điều đang làm cậu lo ngại. Brian không chắc chắn lắm nhưng ý nghĩ này cứ xuất hiện trong đầu óc cậu. Cậu lo rằng chiếc máy bay và viên phi công đã làm thay đổi mọi việc... Aaa, phải rồi - khi viên phi công bị đau tim, chân phải của ông ấy đã chẳng may thúc vào bàn đạp bánh lái và chiếc máy bay đã xoay nghiêng về một phía. Điều đó có nghĩa là gì? Vì sao ý nghĩ đó lại xuất hiện vào lúc này, cái thúc chân và rồi hành động đẩy chệch đi? Có nghĩa là, một giọng nói vang lên trong đầu Brian, nghĩa là có thể họ sẽ không đến đây với mày trong tối nay hay thậm chí là trong ngày mai, Brian ạ. Khi viên phi công đạp vào cái bàn đạp bánh lái, chiếc máy bay đã thình lình bị giật mạnh sang bên và chắc chắn nó đã chuyển sang một hướng khác. Brian không thể nhớ được chiếc máy bay đã bị kéo chệch khỏi hướng đi bao xa, nhưng có lẽ chẳng cần phải xa lắm cũng đủ lạc hướng, vì sau đó, khi viên phi công chết rồi, Brian còn bay hàng giờ trên hướng đi mới. Vậy là bị chệch hướng so với lộ trình mà viên phi công đã ghi lại rồi. Nhiều giờ liền, với vận tốc khoảng 160 dặm/giờ. Cho dù nó chỉ đi chệch hướng một tẹo thôi, thì với tốc độ và khoảng thời gian đó có lẽ Brian cũng đang ngồi ở cách đường bay ban đầu phải đến hàng mấy trăm dặm. Và trước tiên những người tìm kiếm sẽ tìm kỹ dọc theo lộ trình dự kiến của chuyến bay. Có thể họ cũng sẽ tìm ở khu vực ven đường bay, nhưng dễ chừng cậu đang ở cách đó phải tới ba đến bốn trăm dặm. Brian không biết, không ước tính được là cậu đã bay chệch hướng bao xa vì cậu không biết đường bay ban đầu và cũng chẳng biết máy bay đã chệch sang bên nhiều ít thế nào. Chắc là cũng khá đấy - cậu nhớ thế. Một cú liệng sang bên khá mạnh. Nó đã kéo đầu cậu giật mạnh khi chiếc máy bay chuyển hướng. Kiểu này thì có khi hai hay ba ngày nữa cũng chưa chắc họ đã tìm thấy cậu. Nỗi sợ hãi xuất hiện làm Brian cảm thấy tim mình đập mạnh hơn. Cậu cố không nghĩ đến, cố xua tan ý nghĩ này đi, nhưng rồi nó lại bùng lên. Có thể họ sẽ không tìm thấy cậu trong một thời gian dài. Rồi một ý nghĩ khác ập đến, cậu lại nghĩ có khi họ sẽ không bao giờ tìm thấy cậu, nhưng như thế thì khủng khiếp quá nên cậu xua ngay ý nghĩ này, cố gắng suy nghĩ một cách tích cực. Khi biết máy bay gặp nạn, họ sẽ cố gắng tìm kiếm, họ sẽ huy động nhiều người, nhiều máy bay để tìm kiếm và họ sẽ tìm cả ở phía hai bên đường bay, họ sẽ biết cậu bị chệch khỏi đường bay, cậu đã trao đổi qua bộ đàm trên máy bay với họ, bằng cách nào đó họ sẽ biết... Rồi mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Họ sẽ sớm tìm thấy cậu. Có thể không phải là ngày mai, nhưng sẽ sớm thôi. Sớm thôi. Sớm thôi. Họ sẽ mau chóng tìm thấy cậu. Dần dần, như vệt dầu loang, suy nghĩ của cậu dịu dần và sự sợ hãi trôi đi. Cho dù họ không đến đây trong hai ngày nữa - không, cho dù họ không đến đây trong ba ngày nữa, thậm chí là bốn ngày - cậu vẫn sống được. Cậu chắc chắn phải sống được trong khoảng đó. Cậu không muốn nghĩ là họ sẽ mất nhiều thời gian hơn để tìm thấy cậu. Nhưng cứ cho là mất bốn ngày đi. Cậu phải làm gì đó. Cậu không thể chỉ ngồi dưới cái gốc cây này và nhìn chằm chằm về phía hồ nước trong suốt bốn ngày được. Lại còn những buổi tối nữa chứ. Brian đang ở trong rừng sâu và chẳng có que diêm nào, không thể đốt lửa. Có rất nhiều con vật to lớn trong rừng. Chó sói, cậu nghĩ, gấu và cả những con thú khác. Trong bóng tối cậu ngồi đây một mình dưới gốc cây. Đột nhiên cậu nhìn quanh, cảm thấy tóc gáy mình dựng đứng lên. Có khi tất cả động vật trong khu rừng đang cùng nhìn cậu, chờ đợi - chờ đợi màn đêm buông xuống để chúng có thể di chuyển tới và vồ lấy cậu. Cậu sờ vào chiếc rìu ở thắt lưng. Đó là thứ vũ khí duy nhất mà cậu có, nhưng nó chỉ là một đồ vật. Cậu cần phải có một nơi trú ẩn. Không hẳn vậy, cậu cần hơn thế: Cậu phải có một nơi trú ẩn và có thứ gì đó để ăn. Brian cúi người xuống chân và kéo lưng áo xuống trước khi lũ muỗi có thể tấn công vào lưng cậu. Cậu cần phải làm gì đó để cứu lấy bản thân mình. Mình cần phải động não, cậu nghĩ, nhớ đến lời của thầy Perpich. Bây giờ bản thân mình chính là tất cả những gì mình có. Mình phải làm gì đó. 6 Hai năm trước, một hôm cậu và Terry đang cùng nhau vui đùa gần công viên, ở nơi đó thành phố như không còn chuyển động, cây cối mọc dày đặc và trải dài xuống dòng sông nhỏ chảy xuyên qua công viên. Ở đây cây cối dày đặc và trông rất hoang dã, Brian và Terry cùng tán gẫu và tưởng tượng ra nhiều thứ, chúng vờ như đang bị lạc trong rừng, và suốt buổi chiều hôm đó chúng bàn về những việc mà chúng sẽ làm. Tất nhiên hai cậu bé hình dung mình có tất cả những thứ kiểu như khẩu súng, con dao và đồ câu cá cùng với những que diêm để chúng có thể đi săn, câu cá và đốt lửa. Ước gì có cậu ở đây, Terry, cậu nghĩ. Với một khẩu súng, một con dao và vài que diêm. Lúc đó ở công viên chúng đã cùng thống nhất nơi trú ẩn tốt nhất là một cái lều nhỏ, nghĩ đến đây Brian bắt tay vào dựng lều. Cậu nghĩ có thể phủ lều bằng cỏ, lá, củi, thế là cậu lại bắt đầu đi xuống hồ, nơi đây cậu có thể đốn mấy cây liễu để nẹp nhà. Nhưng một ý nghĩ đã ngăn cậu lại, cậu nên tìm một vị trí tốt để dựng lều, vì thế cậu quyết định trước hết phải đi tìm vị trí đã. Brian muốn dựng lều ở gần hồ vì cậu nghĩ rằng chiếc máy bay, ngay cả khi ở sâu dưới nước, có thể lọt vào tầm mắt của người nào đó bay ngang qua, và cậu không muốn loại bỏ bất cứ cơ hội nào để có thể được tìm thấy. Cậu nhìn dãy đá phía bên trái và ban đầu cậu nghĩ rằng cậu nên dựng lều trên dãy đá đó. Nhưng trước khi dựng cậu quyết định kiểm tra phía bên kia dãy đá và đây chính là nơi đã đem lại may mắn cho cậu. Cậu dựa vào mặt trời, suy luận theo nguyên lý mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây, vậy thì phía bên kia dãy đá là hướng Bắc. Xa xưa về trước hẳn dãy đá đã bị một thứ gì đó ăn lõm, có thể là sông băng, tạo thành một chiếc bát thì phải, nằm nghiêng sâu phía trong bên dưới một gờ đá. Vết lõm không sâu lắm, không phải một cái hang, nhưng nó rất nhẵn nhụi, tạo thành một cái mái rất hoàn hảo và cậu gần như có thể đứng được dưới cái gờ đó. Cậu phải hơi cúi về phía trước một chút để không bị cộc đầu vào đỉnh. Một vài tảng đá bị ăn lõm đã bị sông băng đánh tan thành cát, tạo ra một bờ cát nhỏ chạy xuống mép nước phía trước và về phía bên phải chỗ mái nhô ra. Đó là may mắn đầu tiên của cậu. Không phải, cậu nghĩ. Cậu đã gặp may khi hạ cánh máy bay. Nhưng đây cũng là sự may mắn lớn, sự may mắn mà cậu đang rất cần. Tất cả những gì cậu phải làm bây giờ là dựng tường cho một bên của cái bát và bên kia để thở làm cửa ra vào, thế là cậu sẽ có một nơi trú ẩn hoàn hảo - chắc chắn nó sẽ vững chãi hơn một cái lều nhiều và còn khô ráo nữa vì chỗ gờ nhô ra đã tạo thành một cái mái chắn nước. Cậu bò vào bên trong, dưới cái gờ, và ngồi xuống. Cát ở đây rất mát vì ở dưới mái che, sự mát mẻ giúp đem lại cảm giác dễ chịu vô cùng cho khuôn mặt cậu, nó đã bắt đầu phồng rộp lên, nhất là cái trán đau với những vết phồng rộp nổi lên trên cả mảng trán sưng tấy. Cậu vẫn còn yếu. Do đi lại vòng quanh mặt sau của dãy đá và trèo lên đỉnh, chân cậu trở nên mềm nhũn. Cậu thấy dễ chịu khi ngồi xuống chỗ cát mát rượi để nghỉ một chút dưới bóng râm nơi cái mái nhô ra. Và bây giờ, cậu nghĩ, giá mình có một thứ gì đó để ăn. Bất cứ thứ gì. Sau khi nghỉ ngơi một chút, cậu trở lại hồ và uống vài ngụm nước. Cậu không khát đến mức phải uống nhưng cậu nghĩ nước có thể giúp cậu bớt cơn đói cồn cào. Nhưng không. Chẳng hiểu sao nước hồ lạnh thực sự đã làm sự việc tồi tệ hơn, cơn đói càng hoành hành dữ dội. Cậu nghĩ đến việc kéo gỗ để làm tường chắn cho chỗ nhô ra, liền nhặt một thanh gỗ kéo về lán, nhưng cánh tay cậu quá yếu và khi đó cậu biết rằng cậu yếu không chỉ vì sự va chạm và vết thương ở người lẫn đầu, mà còn vì đói. Cậu sẽ phải tìm thứ gì đó để ăn. Trước khi làm bất cứ việc gì cậu phải có thứ gì đó để ăn. Nhưng là thứ gì? Brian dựa vào tường đá và nhìn chằm chằm ra hồ nước. Trong số tất cả những thứ này, có gì để ăn? Cậu quá quen với việc có sẵn thức ăn, lúc nào cũng có sẵn. Khi đói cậu lấy đồ ăn trong tủ lạnh hoặc đến cửa hàng, hay chỉ việc ngồi xuống thưởng thức bữa ăn mà mẹ cậu đã nấu. Ôi, cậu nghĩ, nhớ về một bữa ăn - Ôi. Đó là vào dịp Lễ Tạ ơn năm trước, Lễ Tạ ơn trước họ đã có một gia đình đầy đủ, trước khi mẹ cậu đòi ly hôn và cha cậu chuyển đi vào tháng Một sau đó. Brian đã biết Bí mật đó nhưng không biết rằng nó sẽ khiến gia đình họ tan vỡ, cha cậu vẫn chưa biết Bí mật đó nhưng Brian sẽ nói cho ông biết. Khi cậu gặp ông. Bữa ăn có gà tây, họ đã hầm gà trên lò than ở sân sau, nồi được đậy chặt vung. Cha cậu đã đổ một ít mạt gỗ mại châu vào than, mùi gà tây quyện với mùi gỗ mại châu lan tỏa khắp sân. Khi cha cậu mở vung ra, nở nụ cười, mùi vị tỏa ra thật tuyệt vời, không thể tin được, và khi họ ngồi ăn, miếng thịt được tẩm ướt đẫm nước hầm thịt và có mùi khói... Nghĩ đến đây cậu phải dừng lại. Miệng cậu ứa nước bọt và bụng cậu sôi sùng sục. Ở đây có cái gì để ăn chứ? Cậu đã được xem hay đọc một cái gì đó nói cho cậu biết về thức ăn nơi hoang dã ấy nhỉ? Là cái gì nhỉ? Một chương trình, đúng rồi, một chương trình truyền hình nói về các phi công không quân và một sứ mệnh mà họ phải thực hiện. Sứ mệnh sống còn. Đúng rồi, chương trình đó giờ đang hiện lên trong óc cậu. Các phi công đã phải sống ở sa mạc. Họ được đưa đến sa mạc ở Arizona hay một nơi nào đó và họ đã phải sống trong một tuần. Họ phải tìm kiếm thức ăn và nước uống cho một tuần. Để có nước họ đã biến miếng nhựa dẻo thành vật dụng để hứng sương còn thức ăn của họ là thằn lằn. Chính là thế. Tất nhiên ở đây Brian có nhiều nước nhưng cậu biết là ở rừng Canada thì không có nhiều thằn lằn lắm. Một trong các phi công đã dùng mặt kính của một chiếc đồng hồ làm kính khuếch đại để hội tụ ánh nắng và tạo ra lửa vì vậy họ không phải ăn thằn lằn sống. Brian cũng có một cái đồng hồ kỹ thuật số, nhưng không có mặt kính, đã bị vỡ từ vụ kia rồi. Vậy là chương trình truyền hình đó không giúp được cậu nhiều. Đợi đã, có một thứ. Một trong các phi công, là một phụ nữ, đã tìm thấy một loại đỗ ở bụi cây và cô đã kết hợp đỗ với thịt thằn lằn để nấu món thịt hầm trong một cái vỏ lon đồ hộp bằng thiếc mà cô tìm thấy. Thịt thằn lằn hầm đỗ. Ở đây không có đỗ, nhưng chắc hẳn phải có quả mọng. Phải có các bụi cây quả mọng quanh đây. Đó là điều mà người ta vẫn nói. Thực ra, cậu chưa bao giờ nghe ai nói vậy. Nhưng cậu nghĩ rằng điều này đúng. Chắc chắn là có những bụi cây quả mọng. Cậu đứng dậy đi ra bãi cát và nhìn lên mặt trời. Mặt trời vẫn ở trên cao. Cậu không biết bây giờ là mấy giờ rồi. Nếu như ở nhà mà mặt trời ở vị trí này thì sẽ là khoảng một hay hai giờ chiều. Ở nhà, vào lúc một hay hai giờ, mẹ cậu đang dọn dẹp bát đĩa của bữa trưa và chuẩn bị đến lớp thể dục. Không, đó là ngày hôm qua rồi. Hôm nay mẹ sẽ đến thăm ông ta. Hôm nay là thứ Năm, bà luôn đến thăm ông ta vào thứ Năm. Thứ Tư bà đến lớp học thể dục còn thứ Năm bà đến thăm ông ta. Cảm giác chán ghét nổi lên trong ý nghĩ của cậu, đưa đẩy trong tâm trí cậu. Nếu mẹ không bắt đầu đến thăm ông ta và đòi ly dị, giờ này Brian đã không phải ở đây. Cậu lắc đầu. Phải dừng ngay ý nghĩ đó lại. Mặt trời vẫn ở trên cao và điều đó có nghĩa là cậu còn một ít thời gian trước khi trời tối để tìm quả mọng. Cậu không muốn rời xa nơi trú ẩn - cậu gần như coi đó là nhà của mình - khi trời tối. Cậu không muốn ở bất cứ đâu trong rừng khi trời tối. Và cậu không muốn bị lạc - đó thực sự là một vấn đề. Tất cả những gì cậu biết trên thế giới này là cái hồ trước mặt cậu và ngọn đồi ở phía sau, và cả dãy đá nữa - nếu rời mắt khỏi những thứ đó rất có thể cậu sẽ đi lòng vòng mà không tìm thấy đường về. Vì vậy cậu phải đi tìm quả mọng nhưng vẫn phải luôn để mắt đến cái hồ và dãy đá. Cậu nhìn về phía bờ hồ, ở hướng Bắc. Cách đó khoảng gần hai trăm mét, một khoảng cách vừa phải, nhìn khá rõ. Có những cây thông cao, loại cây không có cành từ gốc cho đến gần ngọn, gió nhẹ thổi vào chúng, nhưng không có nhiều bụi cây thấp. Cách khoảng gần hai trăm mét nữa hình như có một bụi cây thấp rậm rạp - cao khoảng ba đến bốn mét - tạo thành một bức tường chắn khiến cậu không thể nhìn xuyên qua. Có vẻ như bụi cây này chạy quanh hồ, rất rậm rạp và xanh tươi, nhưng cậu cũng không chắc lắm. Cậu cảm giác rằng nếu có quả mọng thì chúng sẽ nằm trong bụi cây đó, và miễn là ở gần hồ, cậu có thể để ý sao cho hồ nước ở bên tay phải để biết rằng hồ nước vẫn ở đó, cậu sẽ không bị lạc. Cậu nghĩ rằng khi cậu xong việc hay tìm thấy quả mọng, cậu chỉ cần vòng về với hồ nước ở bên tay trái và đi trở lại cho tới khi đến cái mỏm đá nhô ra và nơi trú ẩn của mình. Đơn giản. Hãy giữ cho sự việc đơn giản. Mình là Brian Robeson. Mình vừa bị rơi máy bay. Mình sẽ đi tìm thức ăn. Mình sẽ đi tìm quả mọng. Brian chầm chậm bước đi - vẫn hơi đau ở khớp xương và yếu vì đói - cậu đi dọc theo bờ hồ. Trong những bụi cây phía trước mặt, bao nhiêu loài chim đang hót dưới ánh nắng mặt trời. Một số loài cậu biết, một số cậu không biết. Cậu nhìn thấy một con chim cổ đỏ, một con họ chim sẻ và một một đàn chim lông vàng đỏ có mỏ dày. Khoảng hai mươi hay ba mươi con trong số đó đang đứng trên một cây thông. Chúng hót ríu ran rồi bay đi trước mặt cậu khi cậu bước đi dưới những tán cây. Cậu nhìn chúng bay, màu sắc của chúng tạo thành một vệt sáng xanh tuyền. Và cậu đã tìm được quả mọng như thế. Lũ chim đậu lại trên một bụi liễu cao có lá rộng bản rồi bắt đầu nhảy nhót và hót vang. Ban đầu, cậu ở quá xa nên không thấy chúng đang làm gì, nhưng màu sắc của chúng đã thu hút cậu nên cậu đi về phía chúng, vẫn giữ mắt nhìn hồ nước ở bên phải, thế rồi khi đến gần hơn, cậu thấy chúng đang ăn quả mọng. Cậu không thể tin việc này lại dễ dàng thế. Như thể lũ chim đã dẫn cậu đến chỗ quả mọng. Cành cây nhỏ vươn cao khoảng sáu mét và nặng trĩu những quả mọng màu đỏ. Chúng nhỏ bằng nửa quả nho nhưng mọc thành chùm trông rất giống nho và khi Brian nhìn thấy - chúng đỏ rực dưới ánh nắng mặt trời - cậu gần như hét lên. Brian rảo bước và chỉ trong vài giây cậu đã ở trong bụi cây, xua lũ chim và nắm lấy cành cây, rồi hái quả mọng ăn ngấu nghiến. Nhưng ngay sau đó cậu gần như nhổ hết ra. Không phải vì chúng đắng, mà vì chúng có vị chát làm cho miệng cậu khô cong. Và chúng giống quả anh đào vì chúng có hột to rất khó nhai. Nhưng cậu quá đói, bụng rỗng tuếch, nên cậu không thể ngừng lại, cậu tiếp tục vin cành, hái quả đầy tay và bỏ ngay vào mồm, nhai ngấu nghiến cả hột. Cậu ăn không ngừng và cuối cùng, khi bụng đã căng phồng, cậu vẫn cảm thấy đói. Hai ngày không một chút thức ăn đáng lẽ phải làm dạ dày cậu co lại mới đúng, nhưng cơn đói vẫn còn đó. Nghĩ đến lũ chim và chuyện chúng sẽ quay trở lại bụi cây quả mọng khi cậu rời đi, cậu cuộn chiếc áo gió đã bị rách lại thành một cái túi và hái quả bỏ vào đó. Cuối cùng, khi ước đoán mình đã có gần hai cân quả trong túi, cậu dừng lại và quay trở về cái lán của mình ở dãy đá. Bây giờ, cậu nghĩ. Bây giờ mình đã có một ít thức ăn và mình có thể làm gì đó để sửa sang nơi này. Cậu liếc nhìn mặt trời và thấy mình có một ít thời gian trước khi trời tối. Giá mà mình có diêm, cậu nghĩ rồi nhìn bãi cát và bờ hồ. Khắp nơi đều có củi, không kể đến cây chết và củi khô khắp trên đồi và cả những cành chết khô ở trên cây nữa. Tất cả đều là củi có thể đốt được. Nhưng cậu không có diêm. Họ đã từng làm như thế nào nhỉ? Cậu nghĩ. Cọ xát hai thanh củi vào nhau? Cậu bỏ túi quả mọng vào chỗ râm mát phía trong sâu dưới mỏm đá rồi đi tìm hai que củi. Sau mười phút cọ xát, cậu thấy củi vẫn mát lạnh. Không phải thế, cậu nghĩ. Họ không tạo ra lửa bằng cách đó. Cậu bực bội ném hai thanh củi đi. Vậy là không có lửa. Nhưng cậu vẫn có thể sửa lại nơi trú ẩn và làm cho nó - bây giờ, cái từ “an toàn hơn” hiện ra trong đầu cậu mà cậu cũng không biết tại sao - có thể ở được. Phải rào lại, cậu nghĩ. Ta sẽ rào lại một chút. Cậu bắt đầu nhặt củi từ hồ và kéo những cành cây chết dài ngoằng từ trên đồi xuống, trong khi đó cậu không quên để ý hồ nước và dãy đá. Với những thứ này cậu xếp thành một bức vách dọc theo chỗ hở ở phía trước dãy đá. Cậu làm mất hai tiếng, phải dừng lại nghỉ mấy lần vì mệt và một lần vì một cơn đau bụng. Bụng cứng và cuộn lên. Quá nhiều quả mọng, cậu nghĩ. Mình đã ăn quá nhiều. Nhưng cơn đau qua đi nhanh chóng và cậu vẫn tiếp tục làm việc cho đến khi toàn bộ mặt trước được bao phủ, chỉ còn lại một chỗ hở nhỏ ở phía cuối bên phải, gần hồ nhất. Cửa lán cao khoảng một mét, và khi cậu chui vào cậu thấy như mình đang ở trong một căn phòng có chiều dài gần năm mét, sâu khoảng hai mét rưỡi đến ba mét, có tường đá phía sau. “Tốt,” cậu nói và gật đầu. “Tốt...” Cuối cùng thì bên ngoài mặt trời đang lặn, và cùng với không khí mát mẻ vừa xuất hiện, lũ muỗi quay trở lại bao vây lấy cậu. Chúng dày đặc, khủng khiếp, không khác gì buổi sáng nay, và cậu không ngừng lấy tay xua chúng cho đến khi không thể chịu được nữa, cậu đổ đống quả mọng ra và mặc áo gió vào người. Ít nhất tay áo có thể che phủ cánh tay cậu. Quấn mình trong chiếc áo choàng, lúc này màn đêm đang xuống rất nhanh, cậu bò trở lại dưới dãy đá, nằm cuộn tròn và cố gắng chợp mắt. Cậu đã rất mệt, và vẫn đau nhức, nhưng giấc ngủ đến rất chậm, tới tận khi cái mát mẻ của buổi tối chuyển thành không khí lạnh ban đêm và muỗi ít đi. Thế rồi, cuối cùng, với cái bụng đầy quả mọng, Brian ngủ thiếp đi. 7 “Mẹ!” Cậu hét lên, cậu không chắc tiếng hét hay những cơn đau của dạ dày đã làm mình tỉnh giấc. Cả bụng cậu bị cào xé bởi những cơn đau quặn khủng khiếp, cơn đau tăng lên gấp đôi trong đêm tối dưới cái lán nhỏ, khiến cậu nằm xoài, gục mặt xuống cát mà rên rỉ nhiều lần: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi...” Chưa bao giờ như thế này cả. Chưa bao giờ. Như thể tất cả quả mọng, hột quả mọng nổ tung trong tâm con người cậu, xé tan cậu ra. Cậu bò ra phía cửa và nôn trên cát, sau đó cậu bò xa hơn và lại nôn tiếp, miệng nôn trôn tháo dữ dội suốt hơn một giờ mà với cậu cứ như phải hơn một năm, cho đến khi cuối cùng cậu không còn gì trong bụng và kiệt sức. Sau đó cậu bò về lán và ngã xuống cát nhưng ban đầu cậu không thể ngủ được, không thể làm gì ngoại trừ nằm yên đó, và trí óc cậu quyết định gợi lại ký ức. Tại khu phố buôn bán. Từng chi tiết tái hiện. Mẹ cậu ngồi trong xe với một người đàn ông. Và bà đã nghiêng người sang để hôn ông ta, hôn người đàn ông có mái tóc ngắn màu vàng, và đó không phải là một nụ hôn xã giao giữa bạn bè mà là nụ hôn thực sự. Nụ hôn ấy, bà quay đầu sang tạo thành một góc nghiêng rồi áp chặt miệng bà lên miệng người đàn ông tóc vàng đó - không phải là bố của cậu - và hôn, môi kề môi, rồi bà đưa tay lên sờ vào má ông ta, lên trán ông ta trong khi hôn. Và Brian đã trông thấy. Nhìn thấy điều mẹ cậu đã làm với người đàn ông tóc vàng. Nhìn thấy nụ hôn đã trở thành điều Bí mật mà bố cậu vẫn chưa hề biết, chưa biết một chút gì. Ký ức ùa về thật đến nỗi cậu có thể cảm nhận được cả cái nóng tại khu phố ngày hôm đó, có thể nhớ như in nỗi lo sợ của cậu rằng Terry sẽ quay đầu và nhìn thấy mẹ cậu, nhớ như in cả nỗi lo lắng về điều đáng xấu hổ đó, rồi ký ức nhạt dần và cậu lại chìm vào giấc ngủ... Tỉnh giấc. Trong một giây, có lẽ là hai giây, cậu không biết mình đang ở đâu, vẫn còn ngái ngủ chút ít. Sau đó cậu nhìn thấy mặt trời đang tỏa những luồng sáng ở ngoài cửa lán, nghe thấy tiếng muỗi kêu vo ve đầy hằn học vây quanh mình, và cậu biết mình đang ở đâu. Cậu phủi khuôn mặt đã hoàn toàn sưng tấy sau hai ngày bị muỗi cắn, chi chít những cục u sưng vù và vết muỗi đốt, và cậu ngạc nhiên khi thấy mảng sưng tấy trên trán đã xẹp xuống rất nhiều, gần như biến mất. Không khí có mùi rất kinh khủng, ban đầu cậu không thể nhận ra đó là mùi gì. Sau đó cậu thấy đống quả mọng ở phía cuối lán và nhớ lại đêm qua, trận tiêu chảy, nôn mửa của mình. “Mình đã ăn quá nhiều,” cậu nói to. “Quá nhiều quả anh đào dại...” Cậu bò ra ngoài lán và thấy nơi cậu nôn mửa trên cát. Cậu dùng que ra sức gẩy cát sạch lên trên để phủ lấp, sau đó cậu đi xuống hồ rửa tay và uống nước. Trời vẫn còn rất sớm, chỉ vừa mới qua bình minh, và mặt nước yên tĩnh đến mức cậu có thể thấy bóng mình. Nó khiến cậu kinh sợ - khuôn mặt như bị rạch và rỉ máu, sưng phồng đầy cục u, tóc tai thì rối bù, trên trán lại còn có một vết xước đã liền nhưng tóc vẫn còn bết máu và đóng vảy. Mắt cậu híp lại vì những vết muỗi cắn, còn người cậu thì không hiểu vì sao lại dính đầy đất. Cậu đập tay vào nước để phá tan chiếc gương này. Xấu xí quá, cậu nghĩ. Rất, rất xấu. Vào lúc đó, Brian gần như chìm ngập trong nỗi thương xót bản thân. Cậu bẩn thỉu và đói meo, bị muỗi đốt và đau đớn, cô độc, xấu xí và sợ hãi, cậu đang ở trong một hoàn cảnh vô cùng đáng thương, như thể cậu đang rơi vào một cái hố, một cái hố sâu, tối tăm không có đường ra. Cậu ngồi xuống bờ hồ, cố không khóc. Rồi cậu để cho nước mắt chảy và khóc, có lẽ khoảng ba, bốn phút. Những giọt nước mắt chảy dài, những giọt nước mắt tủi thân, những giọt nước mắt uổng phí. Cậu đứng dậy, quay lại phía hồ nước và uống vài ngụm nhỏ. Ngay sau khi nước lạnh trôi vào trong dạ dày cậu cảm thấy cơn đói dữ dội hơn, như nó đã từng diễn ra trước đây, và cậu đứng lên ôm lấy bụng cho đến khi cơn đói cào xé dịu đi. Cậu phải ăn. Cậu lại thấy lả đi vì chuyện này, suy sụp bởi cơn đói, cậu phải ăn. Quay lại lán, quả mọng nằm thành đống nơi cậu vứt chúng xuống khi túm lấy chiếc áo gió - những quả anh đào dại, giờ đây trong đầu cậu thầm gọi chúng như vậy - và cậu tính sẽ ăn ít quả. Không ăn nhiều đến mức điên rồ như hôm qua - cậu bị nôn mửa suốt đêm là vì vậy - mà chỉ vừa đủ để ngăn cơn đói đôi chút. Cậu bò vào trong lán. Một vài con ruồi đang đậu trên đám quả mọng nên cậu phẩy tay đuổi chúng đi. Cậu chỉ chọn những quả mọng chín còn cứng - không lấy những quả ương, cậu chỉ ăn những quả mọng thẫm, màu đỏ sẫm và chín căng. Khi có được một vốc nhỏ quả mọng rồi, cậu quay trở lại hồ rửa chúng trong nước - những con cá nhỏ rải rác bơi đi khi cậu làm nước bắn lên, Brian ước gì lúc này mình có cần câu và lưỡi câu - sau đó cậu ăn quả rất thận trọng, nhổ hạt ra ngoài. Chúng vẫn còn chát, nhưng cũng có vị ngọt, mặc dù dường như làm môi cậu tê tê. Khi ăn xong Brian vẫn thấy đói, nhưng sự cồn cào đã qua và chân cậu không còn thấy yếu ớt như trước. Brian quay trở lại lán. Phải mất đến nửa giờ cậu mới xem xét hết đám quả mọng còn lại và chọn lọc chúng, để tất cả những quả đã chín hẳn thành một đống trên đám lá, những quả còn lại thành một đống khác. Khi làm xong, cậu lấy cỏ nhổ từ bờ hồ phủ lên hai đống quả mọng để che ruồi rồi đi ra khỏi lán. Chúng chỉ là những quả mọng chẳng ngon lành gì, những quả anh đào dại, cậu nghĩ. Nhưng đó lại là thức ăn, dù sao cũng là thứ để ăn, cậu có thể ăn thêm một chút vào tối muộn nếu thấy đói quá. Bây giờ cậu có cả một ngày phía trước. Cậu nhìn lên bầu trời qua những tán cây và nhận thấy trời có mây nhưng chỉ rải rác và có vẻ như sẽ không mưa. Một cơn gió thoảng nhẹ khiến lũ muỗi lắng xuống, cậu nghĩ mình sẽ thử tìm dọc bờ hồ xem có loại cây nào khác ngoài quả mọng không. Những loại quả ngọt hơn. Nếu luôn để mắt nhìn hồ như đã làm hôm qua thì cậu sẽ ổn thôi, sẽ có thể tìm được về nhà - và điều này làm cậu ngừng lại. Lúc đó thực sự cậu đã nghĩ như vậy. Nhà. Ba ngày, không, hai - hay là ba? Đúng rồi, hôm nay là ngày thứ ba và cậu đã nghĩ cái lán ấy là nhà. Cậu quay người nhìn nó, ngắm nghía công trình thô sơ ấy. Bụi cây làm nên một bức tường thẳng, không chắn hết gió nhưng cũng ngăn được phần lớn. Cậu đã làm việc đó không tồi chút nào. Có thể điều này không đáng kể, nhưng có lẽ nó cũng là tất cả cậu làm được cho ngôi nhà. Được rồi, cậu nghĩ, vậy mình sẽ gọi nó là nhà. Cậu quay lại và đi tới một bên hồ, hướng về những bụi quả anh đào dại, cầm túi làm bằng áo gió trong tay. Mọi chuyện thật tồi tệ, cậu nghĩ, nhưng có lẽ không tồi đến thế. Có thể cậu sẽ tìm được một loại quả mọng nào đó ngon hơn. Khi đến chỗ bụi cây anh đào dại, cậu dừng lại. Những cành cây không có con chim nào đậu nhưng vẫn còn rất nhiều quả mọng, một số quả hôm qua đã đỏ hẳn thì hôm nay trở nên sẫm đen tới đen huyền. Chín hơn nhiều rồi. Có lẽ cậu nên dừng lại hái để dự trữ. Nhưng vụ nôn mửa vào ban đêm vẫn còn đầy trong ký ức thế nên cậu tiếp tục đi. Anh đào dại có thể ăn được, nhưng phải thật thận trọng khi ăn. Cậu cần thứ gì đó tốt hơn thế. Cách thêm một trăm mét phía trên bờ hồ có một nơi mà gió đã vạch nên một lối đi khác. Cậu nghĩ đó chắc hẳn phải là trận cuồng phong mới có thể làm cây cối dạt ra như thế - như là con đường cậu đã tìm thấy khi máy bay đâm xuống vậy. Ở đây cây không rạp hẳn xuống mà xoắn lại và cong mình sà xuống đất, vì vậy phần ngọn cây đổ cả xuống, mục nát và tan vào đất, để lại những mấu cây trơ trọi chọc lên trời như những chiếc răng gãy. Như thế tạo thành hàng tấn cành cây chết cùng củi khô và lại một lần nữa cậu ước gì mình có lửa. Đồng thời cũng tạo nên một khoảng trống - với những ngọn cây đã mất đi, nắng có thể chiếu xuống tận mặt đất - và dưới đất phủ đầy những bụi cây nhỏ có gai mà bao phủ bên trên là quả mọng. Quả mâm xôi. Những quả này cậu biết bởi vì có vài bụi cây mâm xôi ở trong công viên, cậu và Terry luôn hái ăn khi hai đứa đạp xe qua. Những quả mọng này chín căng, cậu nếm một quả và thấy ngọt, không có vấn đề như những quả anh đào dại. Mặc dù chúng không mọc thành chùm nhưng có rất nhiều và dễ hái. Brian mỉm cười và bắt đầu ăn. Quả ngọt, cậu nghĩ. Ồ, chúng mang chút hương vị ngọt đậm đà thế nên cậu hái, ăn, lại hái, ăn, vừa ăn vừa nghĩ cậu chưa bao giờ nếm thứ gì ngon đến thế này. Chẳng lâu sau, như lần trước, bụng cậu đã no, nhưng giờ cậu đã có ý thức là không được ních thêm vào bụng nữa. Thay vào đó, cậu hái thêm và gói vào trong áo gió, cảm nhận ánh mặt trời buổi sáng ở sau lưng và thầm nghĩ mình thật là giàu, giờ đây mình thật giàu với nhiều đồ ăn, rất giàu, thế rồi cậu nghe một âm thanh phía sau, một âm thanh rất nhỏ, cậu quay lại và nhìn thấy con gấu. Cậu chẳng thể làm gì, chẳng nghĩ được gì. Lưỡi cậu, nhuộm màu nước quả mọng, kẹt cứng trên vòm miệng, và cậu nhìn chằm chằm vào con gấu. Nó màu đen, với cái mũi nâu vàng, cách cậu chưa đến sáu mét, và to. Không, khổng lồ. Nó là một con gấu đen tuyền và khổng lồ. Cậu đã có lần nhìn thấy một con gấu ở vườn thú thành phố, một con gấu đen, nhưng nó từ Ấn Độ hay đâu đó đến. Con gấu này thì hoang dã, to hơn con gấu trong vườn thú rất nhiều và nó đứng ngay đây. """