"Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro - Pascale Roze full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro - Pascale Roze full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Chiếc May Bay Tiêm Kích Zéro Pascale Roze Giới thiệu tác giả Pascale Roze sinh ra tại Sài Gòn năm 1954. Nữ tiểu thuyết gia người Pháp này đã được nhận giải Goncourt 1996 cho tiểu thuyết đầu tay Le Chasseur Zéro. Các tác phẩm chính: Histoires dérangées, recueil de nouvelles, Julliard, 1994 Le Chasseur Zéro A. Michel, 1996 Ferraille, Albin Michel, 1999 Lettre d'été, Albin Michel, 2000 Parle-moi, Albin Michel, 2003 Un homme sans larmes, Stock, 2005 L'Eau rouge, Gallimard, 2007 Itsik, Stock, 2008 Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam: Chiếc máy bay tiêm kích Zero, NXB Phụ Nữ, 1997 Nước đỏ, NXB Phụ Nữ, 2008 Giới thiệu tác phẩm Tiếng động cơ đến dai dẳng, điên loạn của chiếc máy bay chiến đấu Zéro vào một ngày tháng Tư năm 1945 đã gieo rắc cái chết xuống chiếc tàu chở máy bay Maryland tại Okinawa. Tiếng rú mà Laura Carlson gắng chịu như cô gắng chịu cái chết của người cha mà cô chưa từng gặp mặt - cứ đeo đuổi cô ngày đêm, đến ngay cả tình yêu cũng không mang lại sự bình yên cho cô. Cái tiếng vo vo đó là hiện thân của chiến tranh. Nó đã khiến cho cha cô phải chết. Vậy mà giờ đây, bao năm sau khi cuộc chiến đã kết thúc, nó vẫn còn gây họa cho cô. Kẻ gây ra cái chết và nạn nhận của nó đều đã nằm dưới mồ, còn cô trước mặt vẫn có cuộc sống đang đợi cô. Cho con gái Axelle của tôi. Ngay từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, chiếc máy bay tiêm kích đã lên đường. Thân sơn đen, tải trọng giết người xếp trong bụng, nó nổ máy. Tiếng động cơ vù vù trong tĩnh lặng của bình minh. Cánh quạt quay. Chiếc may bay rung lên, đèn tắt, nó lăn bánh trên đường băng, nó nâng mũi lên và bắt đầu cất cánh. Với một sức đẩy đều đặn, nó lên tới năm nghìn mét và giữ ổn định ở đó. Trời đã sáng. Từ biển, từ trên trời, từ bốn phương, chiếc máy bay tiêm kích ở trong tầm nhìn. Tôi tên là Laura Carlson. Tôi sinh ngày 10 tháng Mười - 1944 tại New York. Cha tôi mất ngày 7 tháng Tư - 1945 tại Okinawa. Tôi chỉ có hai tấm ảnh của ông. Trên một tấm, cha tôi đứng nghiêm bên cạnh những người của ông, trên boong con tàu Maryland. Gương mặt ông im lìm, thản nhiên, căng thẳng trong sự tuân phục như thể đã đi về cõi chết. Trên tấm bia ông quàng tay ngang người mẹ tôi ở Central Park. Trời nắng, ông mỉm cười. Mẹ cũng mỉm cười. Tôi không biết gì về nước Mỹ. Khi mẹ trở về Pháp, tôi chưa đầy hai tuổi. Mẹ đến gõ cửa căn hộ to lớn phố Bienfaisance, căn hộ thời thơ ấu của mẹ, cái thời mẹ muốn quên đi. Ông bà đón tiếp cô con gái hư và cái con bé nửa lạ nửa thân là tôi, còn nó thì lăn vào tay ông bà. Chắc là ông bà có hỏi vài câu. Mẹ tôi không trả lời. Đó là tự kiêu, nhiều năm sau này bà tôi còn nói vậy. Thời thơ ấu của tôi rất chán. Căn hộ tôi cũng chán, ông bà tôi cũng chán còn mẹ tôi thì chìm sâu vào một cõi tĩnh lặng thê thảm. Thoạt đầu mẹ cố gắng làm việc. Theo gợi ý của bà, mẹ tôi dạy tiếng Anh tại trường trung học ở đó mẹ đã từng theo học. Mẹ vất vả đấu tranh chống chứng suy nhược thần kinh. Lẽ ra mẹ có thể đến gặp bác sĩ, nhưng không ai nghĩ đến việc đó. Một ngày kia, mẹ không còn can đảm chuẩn bị bài giảng của mẹ và đối đầu cái nhìn thương cảm của bạn đồng nghiệp của mẹ. Bà đến giải thích với bà hiệu trưởng. Người ta cất gánh nặng công việc cho mẹ, và từ đó mẹ sử dụng những ngày dài nhàn rỗi để chơi trò chơi chắp hình, suốt ngày như vậy. Ông bà tôi gánh lấy trách nhiệm giáo dục tôi và chăm sóc con gái giống như người ta chăm sóc một đứa trẻ chậm phát triển. Thi thoảng mẹ đi ra ngoài. Chúng tôi ăn tối mà không có mẹ. Bà tôi ra lệnh cho chúng tôi ăn nhanh, cuối cùng thì bón cho tôi ăn mặc dù tôi đã lên bốn. Cái thìa va vào răng tôi. Nước súp làm bỏng lưỡi tôi. Khi mẹ về, tôi đã đi nằm. Qua tường tôi nghe thấy cơn giận nén lại của bà. Mẹ vấp vào bàn ghế, rồi vào cửa và rên rỉ khiến tôi phát hoảng. Tôi lo lắng dỏng tai “ - Nếu con tái phạm ta sẽ nhốt con lại” bà rít lên. Bà đã được thực hiện lời dọa này vì trong gần chục năm mẹ không ra ngoài nữa. Cha tôi chết trong chiến tranh. Trong một thời gian dài, đó là tất cả những gì tôi biết. Khi tôi hỏi, mọi người mắng tôi. Điều này làm mẹ buồn. Tôi không muốn làm mẹ buồn. Tôi được quyền vào buồng mẹ. Tôi ở đó xem mẹ lật những quân bài của mẹ. Đôi khi mẹ dừng lại. Mẹ vặn những bím tóc của tôi, những cái đuôi chuột, tôi chưa từng bao giờ có nhiều tóc, điều này làm bà thất vọng. Bàn tay bé nhỏ của mẹ hành hạ tôi đôi chút nhưng tôi nín thở mà chịu. Mẹ có thể kéo tóc tôi mà tôi cũng chẳng nói gì. Nếu tôi đặt tay lên tay mẹ, mẹ giật nảy người. Không bao giờ mẹ ôm tôi trong cánh tay mẹ. Mẹ không ôm gì cả. Hôm nào cũng vậy, vào khoảng bốn giờ, mẹ uống một thứ thuốc nước. Đi dọc hành lang lớn âm u, tôi chăm chỉ mang đến cho mẹ tách thuốc rung lên trong tay tôi. Tôi khẽ gọi mẹ qua cửa. Mẹ mở cửa không một tiếng động. Mẹ cúi xuống bên tôi, tóc mẹ xõa xuống mắt. Mẹ đặt tôi ngồi lên giường và bỏ vào miệng tôi một cục đường thấm nước thuốc. Một chút nước như si rô chảy xuống cằm tôi, rồi rất chăm chú và có phương pháp mẹ lấy ngón tay đưa nó vào miệng tôi. Tôi giống như người bị cứng cơ, đờ ra vì thích thú. Tôi cố tình sùi bọt mép. Hình như toàn thân tôi tập trung vào đôi môi mà ngón tay mẹ chạm vào. Lên sáu tuổi, vào cái giờ mẹ uống thuốc thì tôi phải đi học và cái thú đó cũng mất. Biết bao lần tôi đã mong muốn Bruno nuôi tôi như vậy, mà không dùng đến thìa. Tôi đã không bao giờ dám yêu cầu anh điều đó. Bà là người rửa ráy cho tôi, mặc áo quần cho tôi, uốn tóc cho tôi, trưng bày tôi ở chợ hoặc ở xứ đạo mà bà tôi là người đỡ đầu. Tôi thì yên lặng, tôi làm tất cả những gì bà muốn. Bà là một phụ nữ cao lớn, khỏe mạnh, vai rộng, ngực đồ sộ, môi dày. Với mái tóc uốn lâu bền, bà còn cao hơn ông. Tất cả chúng tôi biến mất cạnh bà. Mặc dù bà là một phụ nữ đáng kính trong khu vực và mọi người cúi mình chào bà, tôi mơ hồ cảm thấy quá nhiều sức mạnh toát ra từ người bà, đặc biệt là khi tôi nhìn đôi bàn chân to lớn của bà bị biến dạng bởi đôi giày nhọn mũi. Bà là một phụ nữ biểu chất, một phụ nữ không dịu hiền, không yếu đuối, bà tự hào phô ra đôi giày biến dạng của bà và điều khiển chúng tôi một cách nghiêm khắc. Tôi thừa kế sức mạnh từ bà. Cho đến ngày tôi đi học, tôi thường đi lễ nhà thờ hai lần một tuần, vào Chủ nhật và thứ Sáu. Ngày Chủ nhật chúng tôi đi sớm. Bà giám sát cách sắp xếp những bó hoa. Tôi nhận thấy tiếng ồn ào của ghế bị xô đẩy phía sau tôi. Chợt tiếng đàn oóc nổ ra, tôi rùng mình. Gian giữa bừng sáng lên, rồi đám rước của các linh mục long trọng đi ngược lên lối đi ở giữa, được mọi người hoan hô. Thật là quá đáng. Mỗi Chủ nhật điều đó lại diễn ra, đúng theo cái cung cách đó, và thật quá đáng. Bầu trời hình như mở ra. Đó gần như là tiếng ồn của chiếc máy bay tiêm kích. Trên một trong những cái cột, có một tượng Chúa bằng gỗ sơn, mặt nghiêng về phía chúng tôi. Đối với tôi hình như Chúa đang ngủ, hình như người kiên nhẫn đợi cho mọi cái xong đi. Người khiến tôi nghĩ đến mẹ. Ngày thứ Sáu, những bức tượng chập chờn dưới ánh sáng những ngọn nến. Chúng tôi, những người Thiên Chúa giáo chính cống không nhiều, trừ tôi còn toàn là các bà già. Những giọng nói thì thầm, liến láu, nghẹn ngào như thể xấu hổ vì có người nghe thấy. Quỳ gối trên một chiếc ghế cầu kinh, tôi lần tràng hạt vì mẹ. Tôi nghĩ rằng nếu tôi cầu nguyện khá nhiều thì mẹ sẽ khỏi bệnh. Bà đã dạy tôi cái kiểu có đi có lại. Nếu cháu ngoan, bà sẽ đọc cho cháu nghe chuyện Con dê cái của ông Seguin. Tôi luôn luôn ngoan ngoãn. Những điều bậy bạ duy nhất của tôi là do sự vụng về của tôi. Tôi đánh rơi mọi cái, nào xà phòng, nào đĩa, nào những miếng thịt. Tôi từ nhà thờ trở về, chắc chắn là mẹ sẽ đón tôi ở cửa, tươi cười và hớn hở, mẹ sẽ cầm lấy tay tôi để đưa tôi đi sống ở một nơi xa, một mình tôi với mẹ tại một nơi đầy ánh sáng. Nhưng tôi đã không cầu nguyện đủ bởi vì mẹ luôn luôn lỗi hẹn. Trong khi đằng kia, trong buổi bình minh tươi sáng, chiếc máy bay tiêm kích đã sẵn sàng. Căn hộ đối với tôi rộng mênh mông. Trừ nhà bếp, mọi thứ ở đây đều tối. Có một phòng khách lớn, một phòng ăn lớn và bốn buồng trong đó một cái dùng làm văn phòng cho ông. Nhưng đặc biệt có một hành lang dài tăm tối. Cho tới cuối cùng, tới cái ngày mà tôi dẫn những người chủ mới bước vào, tôi đã luôn e sợ nó. Tôi bé bỏng, cứ như thể tôi dấn thân vào một đường hầm, vào đêm đen. Tôi không với tới quả đấm cửa, cũng chẳng tới cái ngắt điện. Tôi dán mình vào tường, tôi mò mẫm tiến lên. Khi tôi tới chỗ ngoặt, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa nhà bếp, thế là tôi thoát. Buồng của tôi có những bàn ghế của người lớn, một cái khăn phủ giường và những bức màn ri - đô bằng lụa tím, vĩnh viễn một màu. Chỉ có một vệt sáng là cái thảm chân giường. Tôi không biết tại sao tất cả những cái tủ đều khóa. Bà mang chùm chìa khóa trong người, ở thắt lưng. Nó kêu leng keng theo bước chân bà. Một hôm, bà nhốt tôi trong một căn phòng hẹp vì tôi đã đánh vỡ một cái bình bằng pha lê. Tôi đứng trong bóng tối giữa những cái chổi và cái máy đánh sàn. Tôi nghĩ đến Hansel và Gretel, đến những đứa con nhỏ của thánh Nicolas trong vại muối. Tôi sợ đến nỗi tôi bắt đầu hét lên. Trong căn hộ phố Bienfaisance không bao giờ có tiếng ồn. Kêu lên khiến tôi nhẹ lòng. Bà đập cửa phía bên kia. Mày có im đi không? Kêu lên làm tôi nhẹ lòng. Tôi lắng nghe giọng nói của tôi. Tôi phát hiện ra nó và sức mạnh của nó khiến tôi ngạc nhiên. Dần dà khi tôi kêu, tôi cảm thấy một cái gì đó nóng và mạnh mẽ, một sự thoải mái mới mẻ, một niềm vui thú mạnh mẽ trào lên miệng. Có lẽ đó là sự căm thù đối với người đàn bà độc ác vẫn không mở cửa cho tôi. Chúng tôi đấu tranh, chúng tôi đối đầu nhau qua cái cánh cửa đóng, hướng về chiến thắng, về sự đè bẹp đối thủ. Tôi không quen chiến đấu, sức lực của tôi phản lại tôi. Tôi khản cả giọng. Tôi mệt lả người. Khi bà không nghe thấy gì nữa, bà bèn mở cửa. Tôi ở dưới đất. Tôi không động cựa. Bà lôi tôi về buồng của tôi, rồi tôi nhịn đói mà đi ngủ. Tôi không bao giờ kêu nữa. Bà đọc cho tôi nghe rất nhiều chuyện. Việc này xảy ra trong phòng khách. Bà kính cẩn lấy ra từ một cái tủ khóa những quyển sách to, gáy mạ vàng mà ngày xưa bà đã cho mẹ. Tôi không có quyền đụng vào. Bà ngồi vào một cái ghế bành bọc nhung màu nâu, còn tôi, tôi đã có cái ghế bé nhỏ của tôi, cái ghế của mẹ khi mẹ còn bé. Hơn tất cả những chuyện khác, tôi thích hai chuyện: Nàng tiên và con dê của ông Seguin. Tôi đòi hỏi chúng. Tôi muốn được nghe chúng hàng ngày. Tôi đã thất vọng vì bà chống lại. Tại sao bao giờ cũng là những chuyện đó? Chúng tôi chưa bắt đầu chuyện Chuyện kể ngày thứ hai. Bà có đầu óc khoa học và muốn tôi cũng có như bà. Khi nói mà nhả ra ngọc hoặc phun ra cóc, điều đó làm tôi bối rối, làm tôi đố kỵ. Khi hình ảnh đó hiện lên, tôi có cảm giác đầy mồm đầy miệng. Tôi lơ mơ hiểu rằng nói tức là cho xem cái ta có trong bụng. Tôi quá rụt rè để nói và các câu hỏi hiếm hoi của tôi được gửi về nơi tĩnh lặng hoặc về với Chúa. Nỗi sợ đó có hậu quả tai hại là khiến cho tôi tưởng rằng tôi có hàng cân ngọc trai trong bụng. Khi tôi thấy cóc trong bụng, chúng liền biến thành những con quỷ. Còn con dê của ông Seguin thì đương nhiên là mẹ rồi. Mỗi khi ông Seguin kêu lên “Quay lại đi, quay lại đi” bằng cái còi nhỏ của ông, tôi lại khóc. Ban đêm, tôi ngủ trên cái thảm chân giường và tôi cọ má tôi vào đó. Trong đầu tôi, con dê cái màu trắng nhảy nhót giữa các cây nho dại, từ này tôi không biết nghĩa nhưng nó khiến tôi thán phục đến nỗi mỗi lần tôi đọc nó lên tôi lại thấy một đốm nhỏ mặt trời. Bà là một kẻ ăn thịt trẻ con. Bà đặc biệt ưa thích chuyện Cô bé quàng khăn đỏ. Con thấy đó, không được nói chuyện với người lạ (lời trách móc chủ yếu mẹ tôi). Tôi nhìn bà đọc, mê đi vì cử động của miệng bà. Phải chăng vì bà có cặp môi dày mà có vẻ như bà nuốt hết các chữ. Chẳng phải ngọc trai, cũng chẳng phải cóc, mà là một thứ bột nhão âm vang do một cơ chế không mệt mỏi sinh ra, một cái lỗ đen xì mở ra và khép lại chỉ cách mặt tôi có hai ngón tay. Đó là cái mõm chó sói nuốt chửng một lời đe dọa bí ẩn. Ban đêm, tôi tưởng tượng bà đi lang thang trong căn hộ, bước thấp bước cao bằng đôi chân ghê tởm, đôi môi chìa vô hạn độ về phía trước. Tôi sợ. Tôi muốn gọi mẹ. Tôi không dám. Mẹ cũng làm tôi sợ, nhưng theo một cách khác, với sự im lặng của mẹ, bộ mặt trống rỗng của mẹ. Mỗi tháng một lần, bà mời cơm những người bạn linh mục của bà và vài giáo dân xứ đạo. Khi bà rời nhà bếp, nơi bà đã ở đó suốt ngày, bà cởi bỏ chiếc tạp dề và gõ cửa buồng mẹ. “Năm giờ rồi, Bénédicte, con có muốn mẹ búi tóc cho con không?” Bà vào mà không cần đợi trả lời, túm lấy tóc mẹ mà chải bồng lên cho đến khi chúng tự dựng lên, vểnh về phía trần nhà. Rồi bà lại ép chúng xuống, lấy kim ghim chúng lại, rồi bôi rất nhiều dầu bóng. Từ ngoài cửa tôi chứng kiến cái việc làm mẹ xấu đi. Cả hai chúng tôi, chẳng ai nói gì. Tôi được phép ở lại để uống rượu khai vị. Bà ngồi chễm chệ, tất cả các vị linh mục quỳ gối trước bà. Bà tung ra những câu nói trống không bằng một âm sắc cao, nhọn như răng một chiếc nĩa. Giọng nói chính cống của bà xổ ra trong sự phấn khích. Mẹ nhấm nháp nước quả, mẹ không được uống rượu vang. Có những bà đon đả nói với mẹ về tôi, về sự ngoan ngoãn của tôi. Mẹ lắc đầu, đôi mắt xa xăm. Đến chín giờ, giờ đã định trước, bà gác cổng mặc tạp dề có đăng ten trắng đi vào và báo: “Cô đã được phục vụ”, cho tôi biết đã đến lúc đi ngủ. Từ buồng của tôi, tôi nghe thấy tiếng ồn ào của phòng ăn, nơi đây nổi lên giọng nói của bà. Đó là những ngày duy nhất thoát khỏi lệ thường. Chúng lại còn được điều hành rất có bài bản. Những đêm đó tôi thường nằm mơ. Tôi luồn tay vào tóc mẹ để tháo cái búi tóc ra. Những cái đinh ghim rơi ra, nảy trên sàn nhà. Tôi nghe rất rõ tiếng chúng rơi. Tôi càng vuốt tóc mẹ, đinh ghim càng rơi ra nhiều. Hình như chúng sinh sôi nảy nở dưới ngón tay tôi. Không bao giờ tôi gỡ được cái búi tóc đó. Trái lại, một đám đinh ghim thay thế mái tóc mẹ. Mẹ ngoảnh mặt về phía tôi hơi nghiêng cái đầu có vành ghim như vậy và nhìn tôi với vẻ dò hỏi. Ngay trong những giấc mơ của tôi, tôi đã không biết yêu mẹ. Một hôm bà đang đọc chuyện cho tôi nghe, mẹ lại gần chúng tôi không một tiếng động. Thấy mẹ tôi ngạc nhiên đến nỗi tôi đứng dậy và nhảy xổ vào mẹ. Mẹ nén một tiếng kêu. Tôi đã làm mẹ đau. Bà quát mắng tôi và ra lệnh cho tôi ngồi xuống. Sau này tôi học ở trường bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine Con lừa và chú chó con. Trong khi tôi đọc thơ, kỷ niệm về cái cảnh đó tràn ngập trong lòng tôi. Con lừa, đó là tôi. Những cái vuốt ve của tôi là những cú đánh. Ở đằng kia, biển cả bằng phẳng, một màu kim loại, bầu trời hoàn toàn quang đãng, mặt trời sáng tỏ như thể được cắt bằng một chiếc đục vừa chớm trên đường chân trời. Buổi bình minh của các thời đại, sự rạng rỡ của sáng tạo. Và trong ánh sáng trắng trong, cái khối bé nhỏ gọn gàng của chiếc máy bay tiêm kích tiến lên, tiến lên. Ông có ba niềm say mê, toán học, thiên văn học và đi câu cá thu trên các bãi cá ở Terre-Neuve. Đến nỗi vì những lý do khác hẳn các lý do của mẹ, ông cũng gần như giam mình hàng ngày trong văn phòng, dí mũi vào các cuốn sách bác học, sức khỏe của ông kém vì ông bị hơi ngạt trong chiến tranh năm 1914. Cứ mỗi sáng, ông lại nhổ vào cái la- va-bô. Tôi không nhớ đã được chơi đùa với ông. Tôi vừa biết nói thì ông dạy tôi đếm. Tại bàn ăn, ông đặt ra cho tôi những câu toán đố miệng mà tôi phải trả lời ngay. Đó là những sự trao đổi duy nhất giữa chúng tôi. May mà tôi cũng có năng khiếu. Khi tôi đặc biệt giỏi, ông gọi tôi là con chuột bé nhỏ của ông. Nhiều năm sau này, trên giường bệnh ông lại gọi tôi là con chuột bé nhỏ. Tôi đã nghẹn ngào. Trước con người mà tôi không hiểu mấy, một ý nghĩ tuyệt vọng thôi thúc tôi: Tại sao ông chưa bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến tranh năm 1914, những chiến hào bùn lầy, cái đói, cái rét, những xác chết thối rữa, khí ngạt? Tại sao tôi không biết tí gì về tất cả những cái đó? Vì không thể cầm tay ông, tôi đã thầm thì qua nước mắt, bảy nghìn tám trăm chín mươi lăm cộng với chín nghìn hai trăm mười bảy. Ông đã không còn trả lời được nữa rồi. Trong những áo quần mà bệnh viện đã trả lại cho tôi, tôi tìm thấy cái áo bằng ca-sơ-mia màu xám vấy máu của ông. Tôi đã giặt nó. Những vết máu không sạch, và tôi cứ thế mặc cho đến khi ống tay bị sờn. Tuy nhiên không phải bao giờ ông cũng nói bằng những con số. Mùa hè chúng tôi đi nghỉ ở Fécamp. Tôi rất nóng lòng chờ đợi ngày ra đi. Tôi thích Fécamp. Ý nghĩ về Fécamp giúp tôi chịu đựng qua năm. Ông chất đồ lên chiếc xe Citroen 15 theo lệnh của bà. Tôi trèo lên sau xe với mẹ, chân đặt lên các gói đồ, cái giỏ đựng bữa ăn ngoài trời trên đầu gối. Chúng tôi dừng lại Rouen, ở đó bà mua hai cái đĩa cho bộ đồ ăn của tôi. Sau đó chiếc xe chạy qua đồng bằng về phía biển, nó rung lên dưới những hành trang chất lên nóc xe. Ông đặt mua báo L’Echo fécampois và do đó ông biết giờ nước triều lên xuống. Ông dự đoán mực nước theo thời gian của chuyến đi. Tôi đã nói rồi mà, khi đến nơi, ông hoan hỉ nói - và cái niềm vui này cho ông sức mạnh cần thiết để vượt qua những thử thách to lớn của công việc tháo dỡ đồ đạc và sắp xếp chỗ nghỉ. Ở Fécamp có thể nói rằng chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc sống khác. Hàng năm ông bà tôi thuê ngôi nhà gạch đỏ đứng ở ngay đầu con đường nhà Đoan, chạy về phía vách đá. Một hàng hiên giống như một cái lồng thủy tinh gắn vào mặt tiền làm dịu đi vẻ khắc khổ. Từ những cửa kính, ta chỉ nhìn thấy biển và bầu trời với những con mòng biển quay cuồng. Phía sau là một mảnh vườn nhỏ. Mẹ và tôi ngủ ở tầng hai, hai buồng đối diện nhau. Tôi được phép để hai cửa hé mở. Tôi nằm trên giường hai mắt chăm chú nhìn vào khe hở. Như thế tôi cảm thấy trái tim tôi bay đến với mẹ. Tôi thầm gọi tên mẹ, tôi ru mẹ ngủ, tôi canh giấc ngủ của mẹ. Người ta có thể nghĩ rằng tôi yêu mẹ tôi. Ngay cả điều đó, tôi cũng không dám chắc. Tôi chỉ thích được chiều chuộng thôi. Và rồi ở Fécamp mẹ lại khác tính đi. Chúng tôi qua những buổi chiều dài trên bãi biển hoặc ở chân vách đá khi nước triều cho phép. Mẹ bảo tôi: “Đi tắm đi con”. Rồi tôi chạy lại với biển, tôi trẹo chân trên đá cuội, rồi tôi nhào người vào nước lạnh, lóe mắt vì mặt trời, người nhẹ lâng lâng, trái tim say sưa vì lòng biết ơn đối với mẹ, mẹ đã ngỏ lời với tôi. Chúng tôi lượn trong bến cảng và đọc tên những còn tàu. Chúng tôi đi đến tận ngọn hải đăng, giữa gió lộng. Mẹ thích gió. Mẹ đứng đó cho gió tung váy áo, cho gió làm xổ tóc, mắt nhìn chăm chú ngoài khơi mặc cho đám bụi nước bay vào mắt. Có một cái gì đó hút chúng tôi trong cái chân trời trống rỗng này mà chúng tôi nhìn chằm chằm như thể chúng tôi đợi chờ trông thấy ở đó xuất hiện một dấu hiệu. Hàng ngày ông đến văn phòng của bến trưởng nói chuyện với những người đánh cá thu ở đảo Terre-Neuve đã từng làm việc trên các bãi cá thời còn thuyền buồm. Tôi thích đi theo ông. Những thủy thủ này không có kẻ thù nào khác ngoài nỗi buồn phiền và chứng hư khớp, họ làm sống lại trong ông một cuộc sống đầy kinh hãi, bão táp kinh khủng, những bàn chân rét cóng, những vết thương bị muối gặm nhấm, những hình phạt vô nhân đạo, những món canh tồi tệ và bệnh scorbut. Ông tôi mơ như thế đó. Rồi, tay cầm cuốn sổ, ông đến gặp bến trưởng, hỏi ông ta về vị trí tàu thuyền, ở đằng kia, trên những bãi cá ở Terre-Neuve, về thời tiết, về lượng cá đánh bắt, nghe một cách thành kính những cuộc liên lạc radio, và đắm chìm trong suy ngẫm trước những tấm bản đồ đính đầy ghim. Ở nhà, ông đổ tội cho cái nhiệt kế và cái phong vũ biểu mà ông dùng để thông báo cho chúng tôi những số liệu tại bàn ăn. Hai hôm trước ngày 15 tháng Tám, ông đặt trên ban công buồng mẹ một cái kính rất đẹp bằng đồng mang từ Paris về. Khi đêm đã tối đen, mẹ và tôi theo ông lên gác. Bà thì đi ngủ viện cớ đã bốn chục năm nay bà thuộc lòng bầu trời. Ông chỉ cho tôi những cái vành của sao Thổ, những biển của Mặt trăng, sao Orion, Đám mây lớn của Magellan, của Cassiopée. Phải đặt mắt vào cái kính mà không làm nó động đậy, vì việc điều chỉnh nó rất khó. Cháu thấy không, cháu thấy không? - Ông nhắc đi nhắc lại lo lắng sao cho chúng tôi không để mất những điều kì diệu mà ông phát hiện cho chúng tôi. Sau đó, chúng tôi cứ thế ngửa cổ lên trời xem ai là người đầu tiên nhìn thấy một sao đổi ngôi. Và lúc nào cũng là mẹ nhìn thấy. Sự kinh ngạc đến thán phục trước thế giới, tôi đã học được từ những đêm đó trên ban công ở Fécamp. Khi chúng tôi đã xem khá nhiều, chúng tôi nhẹ nhàng xuống bếp. Ông cho chúng tôi một cốc rượu vang và lấy ra chai rượu rum của ông. Ông bình thường trầm ngâm, bây giờ không thể ngăn được ông nói. Ông giải thích cho chúng tôi về vũ trụ từ lý thuyết big-bang đến chuyển động của tinh tú. Ông thở dài, lại rót một cốc và nói rằng ông muốn làm thủy thủ, điểm lại tình hình với một cái máy lục phân, đi biển bằng cách theo sao Bắc đẩu, làm quen với biển Trung hoa và bầu trời nước Úc và với cả các giải băng giá xứ Terre-Neuve. Ông nhìn mẹ và thốt lên trong một tiếng thở dài: “Chồng con thật là…” Đầu tôi choáng váng vì rượu vang. Mẹ nhắm nghiền mắt. Không có gì. Không ai nói gì nữa. Ông cất chai đi. Chúng tôi lên gác ngủ. Rồi sự yên tĩnh lại rơi xuống như một cái ao lễ. Có khi xảy ra những cơn bão lớn. Trên trời không một đám mây, không một bóng chim, chỉ có gió lồng lộn, tự do giận dữ làm mặt biển cuộn lên rồi mang biển đập vào con đê, đánh dạt những hòn đá cuội mà chúng tôi tìm thấy trên đường, đập vào các nhà, rũ tung cây cối. Tôi đặt sấp hai tay trên hiên nhà, và tôi cảm thấy gió đẩy cửa kính như thể nó muốn xông vào nhà chúng tôi. Cuối cùng thì bà cũng giam mình trong buồng. Gió làm trái tim bà mệt mỏi. Ông đứng đằng sau tôi trong hàng hiên, gầy và yếu đến nỗi có thể sợ rằng tiếng ồn làm ông ngã ngửa. Còn mẹ, tôi biết mẹ ở đâu, và ngay khi bà về phòng, tôi lên gặp mẹ. Chúng tôi bám vào ban công, gió tấn công chúng tôi. Thật là khó mà mở mắt được. Đến đêm, da chúng tôi nóng bỏng, mắt thì đỏ và chúng tôi cứ như người say rượu. Nhưng chưa bao giờ chăn lại êm đến thế trên má tôi, và tôi ngủ thiếp đi trong một niềm hoan lạc tuyệt vời, trong lòng ấp ủ cái ý nghĩ giết bà. Tôi đã không giết bà. Tôi hèn, không có cách nào chữa được. Một thời gian trước khi chúng tôi rời ngôi nhà, tôi đã mưu toan tồi tệ. Bà chủ nhà là một bà già bé quắt, bị bệnh thấp khớp làm cho bại liệt. Ngồi tại bàn ăn trong nhà bếp, một cái khăn quanh cổ, bà vụng về khuấy cái thìa của bà. Bà giống một đứa bé quái ác. Ông đứng cạnh bà ta, chân run lẩy bẩy, tay cầm một xoong sữa bốc khói mà ông chuẩn bị rót vào bát. Bàn tay ông run một cách đáng sợ, cái xoong quá nặng đối với ông. Tôi thấy rất rõ rằng ông không thể rót trúng và rồi bà ta sẽ hứng sữa đun sôi trên đầu gối. Phải giúp ông nhưng tôi không động cựa. Tôi không rời mắt khỏi cái xoong, bị thôi miên bởi cái tai họa sắp tới. Tôi thích thế. Tôi như đã thấy cái áo bị ướt, da đỏ lựng và sưng lên của cái đùi. Họ cần đến tôi, đến tuổi trẻ của tôi. Tôi sắp làm cho họ cảm nhận một cách thấm thía. Ông nhìn tôi, rồi ông rót. Không một giọt sữa nào rơi ra ngoài. Ông lại nhìn tôi và nói: “Già đi thật là tồi tệ” (Hồi bà tôi còn đẹp, bà sẽ nói lại: “Người ta không nói là tồi tệ, mà nói là xấu xa”). Tôi tin chắc rằng không có điều gì trong ý nghĩ của tôi lại thoát được ông. Đỏ mặt vì xấu hổ, nghẹn ngào, tôi chạy ra ngoài phố. Trời mưa. Tôi bị trẹo mắt cá chân trong một rãnh bên lề đường. Bùn lỏng bắn lên chân tôi và toe toét phía dưới áo khoác của tôi. Kỳ nghỉ hè đã hết. Phải đóng cửa ngôi nhà, nhìn bầu trời lần cuối cùng, ở đó những con chim mòng biển quay cuồng. Trong xe, không khí thật nặng nề. Tôi co rúm người trên ghế ngồi như để tự bảo vệ chống một mùa đông dài đang đợi tôi. Từ nay tôi phải chia đôi cuộc sống của tôi giữa căn hộ và nhà trường. Không có sự giải thoát nào đến với tôi, từ cái trường công đó. Hàng tuần, bà giáo đổ đầy mực tím vào lọ mực bằng sành ở bên phải phía trên cái bàn. Cái mực đó là nỗi khiếp sợ của tôi. Tôi không thể nào nhúng bút của tôi vào mà không rây bẩn lên quyển vở, lên ngón tay tôi, lên bàn tôi. Tôi viết rất xấu. Ngòi bút thì gai và nạo giấy. Những chữ từ bỏ tôi. Bà thất vọng và buộc tôi buổi tối phải viết những dòng chữ a, chữ b. Rồi bà lấy một miếng đá bọt và xát vào ngón tay tôi cho đến chảy máu. Cái tồi tệ nhất đó là môn toán. Các cô giáo đùa bằng cách hỏi tôi. Tôi phải đứng dậy, tim đập thình thịch và chịu nhận trước toàn lớp học cái cương vị thần đồng. Mặc dù xúc động, những chữ số luôn trật tự trong đầu tôi và các cô giáo là những người đầu tiên chán nản. Tôi nhút nhát, quá xấu hổ về sự vụng về của tôi, quá ngượng về mình để đến với người khác. Tôi ở đó một mình không biết chờ gì và chờ ai. Không ai đến. Tôi ở trong đêm tối của thời thơ ấu, một thời vấy mực và ở trong yên lặng. Hình như đối với tôi nó kéo dài mãi mãi. Khi tôi mười hai tuổi, tôi bị đau tai, viêm tai ngoài tái phát, không nặng lắm, chỉ đau thôi, nhưng bà bắt tôi phải ở trong buồng. Chính ở đó, trong nỗi cô đơn của những ngày dài mà tôi bắt đầu nghe thấy những tiếng ồn, một tiếng ro ro nhè nhẹ chung quanh tôi. Tôi tìm một con ruồi hoặc tôi hỏi xem có ai làm việc gì ở tầng trên. Tôi nhanh chóng hiểu ra rằng các tiếng ro ro đó, ngoài tôi ra chẳng ai nghe thấy. Chắc đó là do tôi bị đau tai. Chỉ có điều là khi tôi khỏi đau tai, cái tiếng ro ro vẫn còn. Tôi không hốt hoảng. Tôi nghĩ đến bà Dufresne là người phụ trách phòng gửi áo của xứ đạo. Mỗi khi chúng tôi mang đến cho bà quần áo quá ngắn của tôi, bà than thở: “Lạy Chúa nhân từ, đầu con kêu vo vo như một cái nồi. Rồi sẽ chẳng ra gì”. “Bà ấy lúc nào cũng than vãn - bà nói trên đường trở về - không cần phải làm phiền mọi người vì vài tiếng vo vo trong tai. Rồi cháu xem, bà ta là người sẽ chôn tất cả chúng ta”. Thật đơn giản: tôi có cùng một vấn đề như bà Dufresne. Tôi có thói quen là không cảm thấy khỏe, nó chỉ là một nỗi khó chịu nhỏ. Hơn nữa, thân thể tôi đã biến đổi, và biết đâu cái hiện tượng phiền toái đó, lại gắn liền với sự nở nang của bộ ngực tôi hoặc với cái vết thương bí ẩn bây giờ đang chảy máu từ bên trong người tôi. Tôi đang đi học, lớp năm, tôi đã lớn mà không biết hoặc không muốn. Tôi không hiểu biết về mình. Tôi tự xua mình bằng bàn tay như người ta gạt bỏ một trở ngại. Tôi biết rằng cuộc đời là một chuỗi những kỉ niệm đau buồn. Tôi đã quyết một bề. Tôi thành công trong việc thấy rằng cuộc sống có thể chịu đựng được và tôi sẵn sàng chịu đựng. Có lúc tôi nghĩ rằng nếu Nathalie ở lại Maroc thì tôi chỉ phải chịu những tiếng vo vo trong tai bình thường cho đến tận cuối đời. Cao lớn và gầy, lưng rất thẳng, cô vào lớp, đánh giá chúng tôi bằng một cái nhìn, chớp chớp mi mắt và dừng lại ở tôi. Đôi mắt cô như muốn hỏi: “Bạn là ai?” Tôi không có gì để trả lời. Tôi quỳ gối tức khắc. Những bím tóc dài vàng óng của cô, hàm răng sáng bóng, cái nhìn tự tin của cô, tất cả khiến tôi choáng ngợp. Cô từ Casablanca đến, nơi cha cô điều hành công việc của một công ty Pháp. Thật là tàn nhẫn, trực tiếp, một sự biến đổi cơ bản. Tôi phát hiện ra rằng thế giới không chỉ thu nhỏ trong phố Bienfaisance. Cuộc đời bình thản của tôi sụp đổ trong sự thiếu kiên nhẫn. Buổi sáng, tôi vội vàng thức dậy, trong sự cần thiết phải gặp cô. Tôi mở cửa sổ buồng tôi, sự thở của tôi là một tiếng gọi gửi tới Nathalie. Tôi nhảy bổ đến với cô. Tôi quên là bà đã mất cái vẻ đẹp của bà, bà tê dại trong chứng thấp khớp của bà, tôi quên mẹ bị giam hãm tại cái nơi thiêng liên nhất của căn buồng mẹ. Trên đường đi, tôi vuốt ve những con chó, tôi khám phá những cảnh sắc mùa thu, hương thơm của những cây dẻ, cái tươi mát buổi sáng. Tôi sung sướng. Tôi hết sức ngạc nhiên. Khi tôi nhìn thấy cô đang đợi tôi, thẳng người ở chân ngôi nhà, tôi thở ra khoan khoái, cô ở kia, tôi không mơ. Nathalie khiến tôi thán phục. Cô lanh lợi và tươi vui, cô tinh nghịch, còn tôi vụng về và dễ sợ. Cô ăn nói vững vàng, gây kinh ngạc bằng những thành ngữ Ả rập. Tôi khó khăn mới ấp úng được vài lời. Khi tôi cố gắng suy nghĩ, tôi chẳng nghĩ được gì. Đầu óc tôi chỉ là một cái lỗ đen ngòm đôi khi tràn ngập niềm xúc động. Tôi chỉ nắm bắt được những con số. Tôi xếp thứ nhất về toán, Nathalie thì nhất về Pháp văn. Cô có một niềm đam mê, ấy là múa. Cô nói rằng cô sẽ là vũ công. Trừ cô ra, tôi không biết tôi yêu gì và tôi không yêu gì. Tôi bị một người xa lạ ám ảnh. Tôi đã mong muốn cô là người ám ảnh tôi. Bởi vì tôi không biết ăn nói, nên tôi buộc phải yêu thương bằng việc làm. Tôi làm các bài tập toán cho cô, tôi chải mái tóc dài cho cô. Tôi van xin bà mua những hộp bột giặt hoặc hộp cà phê có thưởng những cái vòng đeo thìa khóa làm tăng thêm bộ sưu tập của cô. Nathalie để cho tôi yêu. Cô thuận cho sự say đắm của tôi mà cô bình luận bằng những lời chế diễu trìu mến và chúng an ủi tôi như là bằng chứng về sự quan tâm của cô đối với tôi. Tại sao cô không lạm dụng cái quyền lực của cô? Các lệnh của cô quá hiền, tôi muốn có những lệnh ngông cuồng. Trong các giờ lên lớp tôi ngắm nhìn bộ mặt luôn thay đổi của cô giống như bầu trời tháng Tư vậy. Cái tính linh hoạt, cái sự trong trẻo đó quyến rũ tôi. Khi nhìn cô, tôi cảm nhận tư tưởng cô, tình cảm cô. Cô đã lựa chọn tôi, một người chẳng là gì. Lòng biết ơn khiến tôi ngây ngất. Một buổi tối, các thầy giáo của chúng tôi dẫn chúng tôi đi xem vở Cyrano de Bergerac ở Nhà hát kịch nước Pháp. Tôi hóa thân ngay lập tức vào Christian de Neuvillette, chỉ khác một điều là có ít tóc nên chắc chắn là tôi không xinh đẹp bằng. Cả lớp phấn khởi. Chúng tôi học trường thoại những cái mũi, rồi Cyrano trở thành thần tượng của chúng tôi. Chỉ có tôi hiểu nỗi khổ của Christian nhưng tôi chắc chắn không thể bảo vệ được quan điểm của tôi. Bà bảo rằng tôi đang gặp lúc rủi ro. Tôi về nhà càng muộn càng tốt. Tôi đọc truyện Ba người lính ngự lâm bởi vì Nathalie đọc Ba người lính ngự lâm. Tôi gầy đi để cho giống cô. Ôi, tôi muốn giống cô biết bao, tôi muốn quên mình trong sự cám dỗ muốn giống cô. Chính cô lại không muốn. Cô muốn quan tâm đến cuộc sống của tôi. Tôi thường đến nhà cô, tại đây tôi được mẹ cô và các anh chị em cô đón tiếp niềm nở. Sự đi lại với gia đình này mà ở đó mọi người cùng nói một lúc làm nổi bật sự buồn tẻ của gia đình tôi. Tôi hết sức tránh không đưa Nathalie đến phố Bienfaisance, lấy cớ rằng mẹ tôi bị ốm. Nhưng cuối cùng cô cho rằng đó không phải là lý do đầy đủ và mặc dù thái độ ngập ngừng của cô lúc đầu còn rụt rè sau dần dần càng mạnh mẽ và hốt hoảng trước quyết tâm của cô, cô buộc tôi phải đón tiếp cô. Không ai đưa chìa khóa cho tôi, tôi phải bấm chuông. Ngày nay tôi hình dung cả hai chúng tôi trong bóng tối của cái thềm nghỉ trong cầu thang. Bước chân tập tễnh của bà càng lại gần thì tôi càng thu nhỏ lại, tôi càng biến đi, tôi chẳng còn là gì cả. Tôi sắp bị đè bẹp trước con mắt của Nathalie và tôi giận cô đã gây ra cho tôi nỗi nhục này. Chính lúc đó, trên cái thềm nghỉ ở cầu thang, tôi bắt đầu phải chịu những cơn vã mồ hôi làm tôi mệt biết bao. Bà mở cửa, bà đứng sững sờ trong khi tôi ấp úng giới thiệu Nathalie với bà, rồi bà mỉm cười với chúng tôi, rồi bà tỏ ý hài lòng và mời chúng tôi ăn chiều vừa đặt ra hàng ngàn câu hỏi cho Nathalie. Cô này vừa cười vừa trả lời. Tôi bất bình. “Cháu hãy dẫn bạn đến chào mẹ cháu đi”, bà tỉ tê quay về phía tôi. Nathalie đã đứng dậy như thể không có gì khẩn cấp đối với cô hơn việc được giới thiệu với mẹ. Tôi nắm lấy tay cô một cách tàn nhẫn. Cơn giận bóp nghẹt cổ họng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy giận. Nó bùng nổ. Màn cửa đã kéo, ánh sáng dịu bớt. Mẹ ngồi trước một trò chơi chắp hình bỏ dở, không có một chút phản ứng khi tôi mở cửa. Mẹ nhìn vào tường. - Mẹ, con xin giới thiệu Nathalie, bạn học của con. Mẹ hạ cố quay đầu lại. Một nụ cười ngây dại phản phất trên mặt mẹ. - Mẹ, mẹ không muốn nói chuyện với cô ấy ư? Tôi lại gần mẹ, tôi không bao giờ đụng vào người mẹ, tôi lắc mẹ như lắc một cái chuông. - Hãy nói với cô ấy đi, mẹ! Đương nhiên mẹ không nói gì. Tôi quay về phía Nathalie: - Bà ấy cố tình. Lần này, tôi chắc chắn làm mẹ xúc phạm. Tôi mở ngăn kéo bàn tủ và chìa một tấm ảnh cho Nathalie sững sờ. Tôi kêu lên: - Đó là bố tôi. Mẹ lao ra, giằng lấy tấm ảnh và để vào chỗ cũ, vừa đóng mạnh ngăn kéo. Mẹ lại ngồi yên, tựa vào chiếc bàn đêm, quay lưng lại chúng tôi. Chúng tôi nghe thấy hơi thở của mẹ. Tôi cũng không động cựa. Tôi cảm thấy vã mồ hôi. Nathalie là người đầu tiên đi ra. Bóng của bà in hình ở đầu hành lang. - Tại sao bạn chưa bao giờ nói cho mình biết? - Nathlie thì thầm. Cô nhặt chiếc cặp và yên lặng đi ra. Tôi ghét cô. Tôi ghét tất cả bọn họ. Tôi hiểu rằng tôi độc ác. Không ai có quyền đến phố Bienfaisance, trừ các linh mục ban phép lành mù quáng của họ. Tôi bảo vệ phố Bienfaisance như một con chó được huấn luyện tốt. Tôi không thể làm khác được. Đó là gia đình tôi. Điều đó đã được đóng dấu sắt nung đỏ lên da thịt tôi. Tôi không thể làm gì được. Tôi tự giam mình trong buồng. Một tiếng ro ro rung lên trong không khí. Hình như nó đụng vào tường, vào trần nhà. Lần này thì tôi sợ. Tôi mở cửa sổ. Chẳng có gì thay đổi. Không khí mát chui qua áo săng-đai của tôi và làm lạnh da đẫm mồ hôi của tôi. Hay lại là những công việc ở tầng trên? Không cần phải hỏi bà, bà sẽ đuổi tôi đi rửa tai. Tôi sẽ đi hỏi ông. Tôi quấy ông trong các buổi đọc sách chí thánh của ông. Không, không có công việc, ông yêu cầu tôi đóng cửa. Tôi trở về buồng. Những tiếng rung to lên, xâm nhập thân thể tôi. Tôi run rẩy từ đầu đến chân. Tôi sợ, tôi sợ. Tôi không còn giữ được tự chủ. Mọi người sẽ biết là tôi sợ, tôi sợ chỉ vì những tiếng ve kêu trong tai. Đó là lỗi của Nathalie. Bà gọi chúng tôi đi ăn cơm tối, tôi không có sức để đứng dậy. Bà gọi nhiều lần. Giọng bà đến với tôi rất yếu, đằng sau chiều dầy của những rung động. Bà mở cửa, tôi thoáng thấy bà. Tôi run lên và không còn cử động được mắt. Đây là lần đầu tiên tôi không thể động đậy con mắt. Bà hỏi tôi có sao không. Tôi không thể trả lời. Bà cặp nhiệt độ cho tôi, rồi yên tâm bà cho tôi uống thuốc an thần. Cả nhà ăn tối trừ tôi. Tôi nghĩ rằng sắp chết đến nơi. Tôi thấy Nathalie cười và đi xa cùng với toàn lớp. Tôi chìm trong bóng đêm. Hôm sau, tôi lánh xa cô. Tôi tránh mặt cô. Theo một cách nào đó, vai trò của chúng tôi đổi cho nhau. Bây giờ là cô đi theo tôi khi tan học. Cô yên lặng đặt những món quà nhỏ vào bàn học của tôi: ví tiền bằng da, vòng tay bằng san hô màu hồng. Tôi không quen được yêu và tôi đờ người vì xúc động. Một thứ linh tính báo trước với tôi một nỗi nguy. Than ôi, Nathalie ranh mãnh và bướng bỉnh quá mạnh mẽ đối với tôi. Cô đến yêu cầu tôi giúp cô làm một bài tập toán. Chúng tôi ngồi dưới hàng hiên có mái ở trường. Tôi không thể đọc được. Sự có mặt của cô làm tôi co cứng người. Cô đợi một chút rồi đột nhiên xiết chặt tôi đến làm tôi chết ngạt. Chúng tôi đứng yên không động đậy, không nói, tim đập thình thịch. Rồi cô bật dậy, chợt nhẹ nhàng và vui vẻ “Đừng làm ra cái bộ mặt đó, - cô thốt lên - cậu có vẻ như một con ếch”. Rồi cô nhìn tôi và nhíu mí mắt như ngày đầu tiên, chỉ có điều là cô nài nỉ hơn một chút. Tôi giật mình. “Tại sao không nói, đồ ếch?” Tôi thì thầm trong hơi thở: “Bạn muốn mình nói gì?”. Cô muốn biết căn bệnh của mẹ, và biết cha tôi ở đâu. Cô muốn biết tất cả những gì tôi cố quên đi. Cô không muốn tôi quên. Cô muốn tôi nhớ. Cô không muốn tôi nghỉ ngơi với cô. Cô muốn tôi đau khổ trước mặt cô. Còn tôi, nếu tôi biết đau khổ thì tôi lại không biết nói ra. Điều đó cô không thể nào hiểu được. Và bởi vì cô nhìn tôi, và bởi vì cô gọi tôi là ếch, và vì cô làm tôi lóa mắt, lần đầu tiên tôi nói cái điều không ra gì, cái điều không ra gì mà tôi biết, không ngoài sự im lặng của mẹ tôi và cái chết của cha tôi. Cha tôi chết trong chiến tranh. Ông là sĩ quan hải quân Mỹ. Tàu của ông tên là Maryland nếu tôi tìm được chú thích của tấm ảnh. Chuông vào học vang lên. Dù sao thì cũng chẳng còn gì khác để nói. Nathalie cho rằng tôi không quan tâm đến cha tôi là điều không thể chấp nhận được. Buổi tối khi tiễn tôi, cô kể với tôi rằng cha cô cũng đi chiến đấu, rằng ông đã đổ bộ ở Fréjus để giải phóng nước Pháp, rằng binh lính là những anh hùng hy sinh vì kẻ khác. Cô giải thích cho tôi về cuộc đổ bộ của người Mỹ và giả thiết rằng cha tôi đã hy sinh trên bãi biển Normandie. Tôi nghe cô, sửng sốt. Vậy có thể rằng tôi cũng có một lịch sử, khác với lịch sử ở phố Bienfaisance! Tôi mong ước cha tôi chết trên bãi biển Normandie chỉ cốt để nhận rằng cô có lý. Cô nói với tôi: “Hãy hỏi ông bà cậu, chắc chắn là ông bà biết”. Tôi không thích hỏi. Nhưng cô ép tôi. Phải nghe cô thôi, nếu không chúng tôi phải bỏ thời gian để nói về tôi, điều này vô cùng khó chịu cho tôi. Phải chấm dứt đi thôi. Do vậy tôi hứa sẽ hỏi ông bà. Tôi mất mười lăm ngày để giữ trọn lời hứa. Tôi bỏ qua những bữa tối, cổ họng nghẹn ngào, tôi khóc đến hết cả nước mắt vì tức giận trong buồng tôi vì tôi đã không tài nào đặt được câu hỏi tuy đơn giản đến thế và tôi đã nhắc lại trong đầu câu hỏi đó suốt bao ngày dài: cha hy sinh ở đâu? Cuối cùng một tối nọ, tôi quyết định vượt qua khó khăn. Mọi người đợi tôi trong bếp để ăn tối. Bà với lọ thuốc viên cạnh cái đĩa của bà, bà giậm chân phản đối sự chậm trễ của tôi, ông thì hai tay ôm đầu, mẹ là một cái bóng như thường ngày. Tôi ngồi xuống và lẩm bẩm xin lỗi, rồi một sự im lặng nặng nề có những tiếng tóp tép của ông đánh nhịp trùm lên tất cả. Chúng tôi ăn súp. Tôi ghét những tiếng tóp tép đó, chúng trơ trẽn, âm vang đến nỗi tôi không thể ngăn tôi đếm chúng. Làm sao một người gầy đến thế lại có thể ăn đến thế? Phải nói. Tôi nóng. Cái thìa run lên trong tay tôi. Lạy Chúa, hãy làm cho ông dừng lại, hãy thôi đi! Mười lần tôi định nói thì mười lần một tiếng tóp tép ngăn tôi lại. Bây giờ chúng tôi ăn đồ tráng miệng, bánh nhân kem ca-ra-men. Tôi ngạt thở với đường, với nước quả đông lạnh, với bột quấy, với dối trá. Tôi kìm nước mắt. Tôi chỉ muốn đập một cú mạnh xuống bàn để cho tất cả các đĩa bát bay lên. Cha chết ở đâu? Cha chết ở đâu? Câu đó nhảy múa trong đầu tôi, tôi gợi nhớ lại bộ mặt của Nathalie. Hàm răng của cô lóe sáng. Bữa ăn đã xong. Tai tôi bắt đầu vo vo. Xấu hổ, tôi rửa bát. Tôi nạo xoong với tất cả sự tức giận bất lực của tôi. Tôi sẽ không buông tha họ, không, tôi sẽ không buông tha họ. Tôi theo họ vào phòng khách, thông thường sau khi cái đĩa cuối cùng được cất đi, tôi về buồng của tôi. Tôi sẽ nói với họ trước khi họ đi nằm. Tôi sẽ theo về buồng họ nếu cần. Ông vặn đài. Qua các tiếng líu ríu mà tôi không biết thoát ra từ cái đài hoặc từ đôi tai bệnh tật của tôi, một nhà báo phỏng vấn một ông tướng. Tôi bắt được cái tên của Massu, cái tên của Alger. Ở trường tiểu học, trên tường của lớp học có một cái bản đồ có tên: Đế quốc Pháp đầu thế kỷ XX. Tôi biết rằng Algérie là một thuộc địa của Pháp. “Thật lộn xộn”, ông thở dài khi bản tin bị cắt. Rồi bộ mặt ông có một vẻ buồn tôi chưa từng thấy ở ông. - Đó là chiến tranh ở Algérie phải không ạ? - Tôi hỏi. - Phải, ông uể oải đáp, đó là chiến tranh. Cuộc chiến tranh do ý trời này hiến cho tôi một cửa mở mà tôi nhảy vào như nhảy vào nước. - Cha hy sinh ở đâu? Ba bộ mặt quay về phía tôi và bất động. Không ai trả lời. Tôi nhắc lại câu hỏi của tôi bằng một giọng thiếu tự tin, van nài. Tôi đau khổ vô cùng. Chân tôi run lẩy bẩy. Cuối cùng ông thốt ra: - Ở Okinawa. Tôi sợ tai tôi nghe nhầm và cũng bởi vì tôi không biết cái tên đó. Tôi sợ quên nó, mất nó, sợ phải làm lại từ đầu. Tôi nhắc lại, họng nghẹn tắc: - Okinawa? - Phải, ở Nhật. - Tội nghiệp cháu, - bà xen vào, sau khi đã lấy lại bình tĩnh - những chuyện chiến tranh này làm cháu chóng mặt. Tuổi cháu không đáng phải thế. Tôi rất sợ nhưng nghe giọng nói hơi không chắc chắn của bà tôi hiểu rằng tôi không phải là người duy nhất. Tôi chạy trốn vào buồng của tôi, xô cả vào người mẹ trên đường đi. Tôi viết cái tên trên một mẩu giấy, như tôi đã được nghe, thắng lợi đầu tiên của tôi. Rồi tôi ngủ thiếp đi mà mơ đến đôi mắt của Nathalie, chúng không quên sáng lên vì kích động trước cái tên lạ lùng Okinawa. Từ ngày đó, mọi việc xảy ra rất nhanh trong sự hiểu biết các hoàn cảnh xung quanh cái chết của cha tôi, trong sự suy sụp của gia đình tôi, trong sự khuếch đại những tiếng vo vo của tai tôi. Nathalie điều khiển công việc bằng một tay chắc chắn. Buổi tối cái ngày tôi nói cho cô biết cái tên Okinawa, hai chúng tôi gập người trên một quyển sách mượn tại thư viện của bố mẹ cô: Chiến tranh thế giới thứ hai bằng hình ảnh. Bằng hai trang và mười ảnh chúng tôi bước đầu tìm hiểu chiến tranh Thái Bình Dương, từ Trân Châu cảng đến Nagasaki. Một tấm bản đồ lớn chỉ những địa điểm và ngày tháng những cuộc chiến đấu, nào Philippines, Leyte, Saipan, Okinawa, Tokyo, những cái tên còn bí ẩn mà tôi không ngừng tìm tòi trong sách. Cái làm chúng tôi chú ý hơn cả là tấm ảnh một chiếc tàu Mỹ bốc cháy mà tôi có thể kể ra đây lời chú thích: “Tàu chở máy bay Bunker Hill sau cuộc tấn công của hai kamikazes, vài giờ trước khi đắm tại Okinawa”. Trong cuốn sách, chúng tôi tìm được địch nghĩa của từ kamikaze in bằng chữ nghiêng như sau: “Kamikazes là những phi công chấp nhận nhiệm vụ quyết tử mang bom ném xuống tàu địch gần đến nỗi họ không thể tránh khỏi đâm vào tàu địch”. Tôi đọc thấy rằng nhờ những kamikazes, người Nhật đã đánh chìm rất nhiều tàu chiến Mỹ. Cha tôi không ở trên tàu Bunker Hill, nhưng ở trên tàu Maryland. Không thấy nói gì về Maryland. - Đừng lo, chúng ta sẽ tìm thấy thôi, - Nathalie nói, cô bị kích động cao độ bởi cái trò chơi tìm kiếm lý thú này - Cậu thấy đó, cha cậu đã vượt Thái Bình Dương, cậu thấy đó, những chiếc tàu khổng lồ, và những kamikazes cậu thấy đấy… Tôi không thấy, tôi không cảm thấy gì cả ngoài niềm tự hào đã làm cho Nathalie vui lòng đến thế. Tôi đẩy mạnh thắng lợi của tôi ngay bữa ăn tối sau khi tôi vào phòng, tôi lợm giọng. Hôm ấy là thứ Sáu. Tôi như đi vào lò mổ. Cái cảm giác phạm sai lầm vì đã nghe theo Nathalie không rời tôi. Chỉ có cái ý nghĩ làm ba chiếc mặt nạ nhợt nhạt trên đĩa ăn của họ bực tức nâng đỡ tôi. Tôi không thể nuốt nổi cá. Tôi nôn mất. Bà nói: - Trong khi cá còn nóng, cháu ăn đi. Còn tôi thì trả lời: “Maryland, đó có phải là tàu sân bay không?” Lại im lặng. Mẹ ngừng ăn, miệng há hốc một cách ngớ ngẩn, môi trên nẩy lên. Còn ông và bà tiếp tục nuốt cá như thể không nghe thấy gì. - Ăn đi, cháu, - cuối cùng bà thốt lên - trẻ con không được nói chuyện lúc ăn. Tôi không ăn. Tôi nhìn họ. Trong một ngày tôi đã thay đổi chỗ đứng, tôi không còn là nạn nhân mà là đao phủ. Tôi đợi câu trả lời, tôi nghĩ rằng nó sẽ đến từ phía ông. Nhưng có lẽ đã làm cho ông bị trách mắng, vì vậy ông cúi gằm đầu vào chiếc đĩa một cách hèn hạ. - Ăn đi! - Bà nóng nảy hét lên. Không. Tôi vã mồ hôi. Nhà bếp là một cái thùng rập rình. Tôi bám vào cái bàn. Tôi nghe thấy mẹ thì thầm một cách khó khăn: - Một chiếc thiếc giáp hạm. - Bénédicte! Con sẽ ốm mất thôi, - bà xen vào. Nhưng tôi tiếp tục nói: - Thiết giáp hạm ư? Đó là cái gì vậy? Hai bàn tay mẹ tôi bắt đầu run lên. Mẹ rời khỏi bàn. - Hãy cầm lấy thuốc, - bà kêu lên, rồi quay về phía tôi trước khi đi theo con gái - cháu có thấy cháu đã làm gì chưa? Tôi còn lại một mình với ông. Tiếp tục nuốt cá và cơm, ông bắt đầu nói như thể nói với mình: - Thiết giáp hạm đó là chiếc tàu chở đô đốc, là tàu to nhất trong hạm đội. Lớp thép bọc của vỏ tàu cho phép chịu được những tiến công của đầu đạn và tên lửa ngầm. Nó cũng được trang bị tốt nhất để chống máy bay. Trên boong tàu có những ổ súng và thép pháo. - Bố cháu chết như thế nào? Ông do dự, nuốt một miếng, vẫn không nhìn tôi. - Một quả bom Nhật đã phá tung boong tàu. - Một kamikaze ư? Lần này, ông ngước mắt lên, ngạc nhiên. - Sao cháu biết? - Cháu không ngốc như ông tưởng đâu. Cái gập của bà đang lại gần. Tôi tung ra: - Cháu muốn biết cha cháu là ai. - Tôi nghiệp cháu tôi, chúng ta cũng không biết - ông thở dài trước khi bà vào, bộ mặt biến sắc, cái mặt nạ được cởi bỏ ra do một sự pha trộn lo âu và phẫn nộ. - Tôi đã buộc nó uống thuốc an thần. Nó đã cào tôi. Rồi quay lại phía tôi: Mày ranh ma đấy! Mày tưởng mọi người chưa chán với mẹ mày à? Những giọt lệ trào lên mắt tôi. Tôi nắm chặt tay. - Dọn bàn đi, nếu cháu không muốn ăn. Bà không đói nữa. Tôi ném vào sọt rác thức ăn thừa trong ba cái đĩa trong lúc ông gọt trái cây. Nào tháp pháo, nào đại bác… - nếu ít ra một quả bom nổ ngay giữa phố Bienfaisance này. Cha tôi đi biển. Trên biển không ai nghẹt thở. Thứ Năm sau đó, Nathalie đập ống tiền, rồi chúng tôi đến hiệu sách Gibert mua tất cả những gì có thể được về chiến tranh Nhật Bản. Giam mình trong buồng cô ta, chúng tôi bỏ cả buổi chiều để đọc những cuốn sách quá khó đối với chúng tôi, dừng lại ở những tấm ảnh tìm thấy ở sách này sách khác: những con tàu bốc cháy, những cái boong tàu vỡ toác, những cái chấm đen nhỏ xíu trên trời biểu thị một chiếc máy bay sắp sửa bổ nhào, những chiếc khác ở mặt đất, những pháo đài bay B21, những máy bay chiến đấu Mitsubishi Zéro, những nhóm phi công kamikazes đứng chụp hình cho gia đình trước cuộc chiến công, những khu phố của Tokyo bị ném bom. Chúng tôi nhảy thẳng ngay vào chương nói về Okinawa và chúng tôi tìm được: Tầu Maryland, thoát nạn ở Pearl Habor và ở Leyte, bị một kamikazes tiến công ngày 6 tháng Tư năm 1945. Những hư hỏng có thể sửa chữa được. Nhưng ngày 7 tháng Tư một kamikaze thứ hai đâm nát chiếc Zéro của nó trên boong tàu. Lửa lan đến kho đạn làm nổ tung khiến nhiều người trong số thủy thủ bị chết. Con tàu bị hỏng. Nó không đắm nhưng không dùng được vì bị hư hỏng nặng, nó buộc phải trở về Mỹ. Cha tôi hy sinh ngày 7 tháng Tư năm 1945. Cái chết của ông được ghi vào sách. Tôi lao vào đọc. Tôi khám phá sự cám dỗ của việc đọc sách, cái khát khao những trang giấy đen kịt, những dấu hiệu nó cắt không gian va thời gian để nhốt lại trong lòng những trang giấy như giữa những cái lưới làm bằng nét sổ của chữ nghĩa. Tôi đã nói rằng tôi không biết suy nghĩ. Tôi không suy nghĩ khi tôi đọc. Tôi bị thôi miên. Tôi nuốt các từ cho đến khi các dòng chữ nhòe đi trước mắt tôi, cho đến khi tôi u mê. Đó gần như là một nỗi thèm chết, tôi tin như vậy. Một nỗi thèm chết trong cuộc chiến tranh Nhật Bản. Hình như mẹ tôi sinh bệnh vì tôi. Cứ như thể mẹ chưa ốm! Mẹ không chơi trò chắp hình nữa. Mẹ đi vòng quanh trong buồng và gọi tôi không biết mệt. Điều này làm tôi bực tức. Tôi, tôi có gọi bà ấy đâu? (Bây giờ tôi nghĩ rằng mẹ đã phải giả vờ uống thuốc an thần, có lẽ là để quấy rầy chúng tôi, nhưng làm sao hiểu được điều đó vào lúc này?) Mẹ lại bắt đầu ra ngoài, giống như khi tôi còn bé và trở về say mềm vào bất kỳ giờ nào ban ngày cũng như ban đêm. Bà không còn sức để chống lại mẹ. Đầu gối của bà làm bà đau. Mặc dù bà không than vãn, nhưng ai cũng trông thấy rõ điều đó trên mặt bà. Bà có thể làm gì chống lại một người phụ nữ chưa đầy bốn mươi tuổi? Chỉ có mình tôi có thể can thiệp vào. Mẹ không còn làm cho tôi sợ nữa. Nhưng tôi không buồn can dự vào. Trái lại, tôi tò mò giám sát sự thoái hóa của mẹ. Đó là cái cách tôi bước đầu quan tâm đến mẹ. Một hôm, tôi đi theo mẹ. Mẹ đi theo đại lộ Malesherbes về phía Saint-Augustin, mẹ bước mau như một người biết rõ mình đi đâu, không để ý đến xe cộ khi qua đường. Mẹ không có túi, không có tiền, không giấy tờ. Mẹ đi qua nhà thờ và dừng lại trước câu lạc bộ quân đội, có vẻ do dự một lát, rồi đẩy cửa. Tôi đứng lại, sửng sờ, thất vọng. Không thể tưởng tượng rằng mẹ lại quen một người mà tôi không biết. Sau một lát, tôi áp mặt vào cửa kính. Có những sỹ quan mặc đồng phục đang nói chuyện trong đại sảnh, tay cầm mũ cát-két. Lúc đầu tôi không nhìn thấy mẹ. Rồi chợt mẹ ở đó, ngồi trên ghế tráng kỷ, hút một điếu thuốc lá, tôi không biết do một sự bí ẩn nào. Bộ mặt mẹ có một cái gì đó kỳ lạ, một thứ ánh sáng không bình thường. Mẹ nhìn nhóm sĩ quan ở giữa đại sảnh. Mẹ có vẻ như chờ đợi. Một thủy thủ cúi xuống người mẹ. Mẹ lắc đầu ra hiệu không đồng ý. Thế là tôi hiểu từ đâu mà tôi thấy mẹ kỳ cục: môi mẹ tôi đỏ hồng như máu. Mẹ vắt chéo chân, hai tay buông thõng, hai bên người trên chiếc ghế dài. Cái áo khoác của mẹ hé mở. Và tôi nhận ra rằng, mặc dù đôi giày của mẹ có xấu xí và chiếc áo mưa của bà tôi có cũ nát, mẹ tôi vẫn đẹp, cao lớn, thanh mảnh, nước da mịn màng, đôi mắt trong xanh, mái tóc dài màu hạt dẻ xõa trên đôi vai. Tôi không biết tý gì về niềm hoan lạc, nếu không phải là niềm hoan lạc trong đôi mắt của Nathalie, nhưng tôi đoán có cái gì đó ở phía sau con người mẹ, cái gì đó nó tuột khỏi mẹ và làm mẹ thay hình đổi dạng, cái gì đó mà mẹ đã tự nguyện vạch ra trên đôi môi của mẹ. Tôi lùi lại và ngồi xuống một cái ghế, như người bị chặt mất chân. Sau nửa tiếng đồng hồ, một sỹ quan đi ra, tay xách cặp và ngay sát gót ông ta là mẹ. Người đàn ông đi về phía phố Madeleine, và mẹ tôi đi theo đằng sau ông ta vài bước. Sau khi qua đường, mẹ đuổi kịp ông ta, mẹ nói với ông ta. Tôi không thể nhìn rõ họ. Nhưng sau một lát, tôi nhìn thấy mẹ nép sát vào người ông ta và áp má vào vai ông. Người đàn ông cố gắng gỡ mẹ ra. Mẹ níu lấy cánh tay ông ta suốt dọc phố Royale, như thể ông ta lôi mẹ đi, cái cặp lủng lẳng giữa hai người. Có những người đi đường quay đầu lại và dừng bước một lát. Rồi ông ta giằng ra mạnh đến nỗi mẹ loạng choạng. Ông ta biến mất sau một cái cửa ở đó có một người thủy thủ chào ông ta. Mẹ tôi không đi theo ông. Mẹ đứng đó, hai tay thõng xuống, không động đậy như người chết đứng. Tôi gần như sợ sự bất động của mẹ. Trời bắt đầu mưa, tóc mẹ bết lại trên mặt. Mẹ chậm chạp đi ngược về phía tôi đang nấp dưới một cái cổng. Khi mẹ đi ngang tôi, tôi để ý thấy mặt mẹ lem luốc son môi do cọ vào người đàn ông, rồi một kỷ niệm làm tôi giật mình từ đầu đến chân: kỷ niệm về đường mẹ bôi lên miệng tôi. Một lần, tôi bắt gặp mẹ dưới hàng cột ở La Madeleine, tựa lưng vào một cái cột và ôm ghì một gã đàn ông như thể mẹ nuốt chửng đôi môi hắn. Tôi đi theo họ đến một khách sạn nhỏ ở phố Vignon. Họ ở lại đó một giờ trong khi tôi đứng gác như một con chó. Một lần khác, mẹ bấm chuông ở cửa sau của Câu lạc bộ quân đội. Một buổi tối, đi học về tôi đi tìm mẹ, tôi thấy mẹ ngồi giữa hai thủy thủ đang chuốc rượu mẹ và cười vui vẻ tại quán rượu ở đại lộ Malesherbes. Tôi xấu hổ. Tôi khóc, chắc là do hai gã thủy thủ đã cười. Chúng tôi ăn tối mà không có mẹ. Mẹ về bước đi lảo đảo và suốt đêm chúng tôi nghe thấy mẹ rên rỉ: Andrew, Andrew… Tôi không ngủ. Tôi nghe mẹ đi quanh quẩn trong buồng. Những cái ngăn kéo rút ra nhẹ nhàng, những bước chân rón rén, những cái lò xo rít lên. Mẹ chuẩn bị đi chơi đêm. Tôi bật đèn và tôi mở to cửa. Tôi muốn mẹ trông thấy tôi. Tôi muốn mẹ biết rằng tôi đã biết tất cả. Quả vậy sau năm phút, cái chốt cửa hạ xuống, rồi bộ mặt mẹ tôi hiện ra trong ánh sáng của cánh cửa hé mở. Đỏ mặt tía tai. Mẹ vội vàng lùi lại. Bây giờ tôi là người gây nỗi sợ. Tôi là người trị vì phố Bienfaisance. Cửa hé mở lần thứ hai, rồi lại khép ngay. Mẹ hy vọng tôi ngủ để đi ra chăng? Mẹ có thể chờ mà. Mẹ sẽ phải chịu ngậm bồ hòn làm ngọt. Tôi đã học được câu thành ngữ này ở trường. Sự nhục nhã của những kẻ thua. Tôi nghe thấy tiếng khóc nức nở sau cánh cửa rất lâu. Tôi không vội, vài tiếng bước chân, rồi không còn gì. Không còn tiếng khóc, và không có một tiếng vo ve trong tai tôi. Chỉ có sự vắng lặng của đêm tối trong đó tôi thức một mình. Mẹ tôi không muốn có tôi. Thân thể tôi như thể được đặt bên cạnh tôi. Tôi không cảm thấy có nó. Tôi đứng dậy và trở về buồng của mẹ. Cái đèn đầu giường đang cháy. Mẹ mặc áo khoác nằm đó, trên giường. Mẹ ngủ như một kẻ chết đuối. Tôi cởi giày cho mẹ, đẩy chân mẹ lên giường, lau miệng mẹ bằng một miếng bông, đậy nút lọ thuốc ngủ, tắt đèn. Sự suy sụp tiến triển khá. Hàng ngày tôi báo cáo với Nathalie. Cô không hài lòng. Các việc xảy ra không như cô mong muốn. Cô bảo rằng đáng lẽ ra tôi phải ngồi cạnh mẹ tôi và dịu dàng yêu cầu mẹ: Mẹ hãy nói với con về cha con. Mẹ hãy nói mẹ đã gặp cha như thế nào, hai người đã nói với nhau những gì lần đầu tiên. Con có giống cha không? Mẹ thích điều gì ở cha? Mẹ không thích điều gì? Mẹ, mẹ hãy nói với con, con là con gái mẹ, con là con gái của cha, con gái của bố mẹ. Bố có tặng quà cho mẹ không? Bố có thích viết thư không? Mẹ hãy cho con xem thư của bố. Con chắc là mẹ đã cất giấu chúng ở đâu đó. Mẹ hãy trả lời đi. Mẹ… Tôi nhún vai. Nếu cô tha thiết đến thế thì cô hãy đi mà tìm mẹ tôi. Tôi cũng thế, tôi cũng không hài lòng. Cô không để cho tôi chải tóc cho cô nữa, cô không gọi tôi là ếch nữa và cô nhìn tôi bằng một cái nhìn lo âu mà tôi không ưa. Tôi bị lường gạt. Thất vọng, tôi chai cứng hơn nữa. Tôi trở về nhà khi tôi thích, không bao giờ báo trước. Tôi tự nhốt mình trong buồng của tôi, không ăn uống và tại bàn ăn tôi cất lời để đặt ra những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời. Sức khỏe của ông bà tôi kém đi. Chẳng bao lâu, bữa ăn tối hàng tháng cùng các linh mục không còn là vấn đề nữa. Vì Chúa không dịu dàng, mùa xuân đặc biệt ẩm ướt, tai hại với các bệnh thấp và bệnh cúm. Một buổi tối tôi thấy bà lả đi trong nhà bếp. Bà không biết mẹ tôi ở đâu, ông thì ở trên giường với một cái điếu to lớn, còn bà thì chưa chuẩn bị cơm tối. Cuối cùng thì gia đình bị tan rã. Tôi sẽ dối trá khi nói rằng tôi sung sướng vì thắng lợi đó. Tôi mệt mỏi quá. Tôi dành thời gian ban đêm để đọc sách. Ban ngày, tôi chạy theo sau mẹ tôi, rồi chạy đến trường và tự mình viết giấy xin phép những buổi nghỉ học. Tôi lớn lên rất nhiều. Và nhất là, tôi lại bị những tiếng vo ve trong tai ngày càng to hơn, thường xuyên hơn. Cuối cùng bà phải gửi tôi đến một bác sĩ tai mũi họng, ông này không phát hiện được gì. Bà mua cho tôi một quả bóp bằng cao su, rồi khi có cơn tôi bóp nước nóng vào màng nhĩ, nó gây cho tôi chóng mặt. Nhưng ngoài sự mệt mỏi đó, tôi không biết suy nghĩ đầy đủ để hiểu rằng tôi đã giành được thắng lợi. Tôi đã bị Nathalie thúc đẩy, cô lôi cuốn tôi, thế thôi. Năm học sắp kết thúc. Tôi tránh mặt Nathalie. Cô đề nghị tôi đi nghỉ hè với cô tại nhà anh em họ cô gần Bordeaux. Tôi không nghe. Tuy nhiên tôi biết rằng chúng tôi sẽ không đi Fécamp. Qua trung gian của xứ đạo, bà ghi tên tôi vào một trại hè. Chúng tôi chào từ biệt nhau một cách nghiêm trang. Tôi biết rằng đó là lời chào cuối cùng: cha cô trở lại làm việc ở Maroc. Bác sĩ tai mũi họng thấy tôi yếu và khuyên tôi nên đi nghỉ một thời gian trên núi. Trong khi ông bà tôi chết gí ở xó nhà còn mẹ tôi thì chạy ngoài phố trong cái nóng nực tháng Tám. Tôi đi Vercors cùng với xứ đạo, trong lòng nhớ đến Con dê cái của ông Seguin. Các cô giáo thể dục cho chúng tôi đi bộ hàng ngày. Phải trèo vất vả qua cây cối rồi đổ ra những con đường dốc vươn cao trên những thung lũng lớn. Như con dê Blanchette, tôi tiến lên không cần phải cố. Tôi vượt qua bạn bè mà tôi coi khinh những lời than vãn và những tiếng thở dài. Chúng tôi không bao giờ đi quá xa. Tôi muốn trở về lúc màn đêm buông xuống. Tôi leo lên bằng những sải chân dài, tôi giang rộng hai tay bằng hình chữ thập. Sự vụng về của tôi đã biến mất. Tôi cảm thấy mình trở thành một bụi cây, một cây thông, một con chim, một hòn sỏi, một đám mây. Tôi lắng nghe sự trong suốt của yên lặng, khi ta leo trèo dưới lùm cây, chân ta ngập trong mùn và gây nên một sự náo động ồn ào. Nhưng ngay khi ta lên tới đỉnh, khi bộ lá của thông tách xa, những tảng đá lớn lộ ra và những bước chân trở nên êm ái, bầu trời như đang mở ra trước chúng ta. Núi đổ thẳng đứng xuống một thung lũng rộng. Tôi đứng yên bất động phía trên khoảng trống. Không một mảy may rung động, không một tiếng vo ve. Một sự bình yên mênh mông, bình yên quá chừng. Tôi không tin vào tai tôi. Toàn bộ con người tôi lắng nghe và hấp thụ cái yên tĩnh này. Hàng trăm cân được cất khỏi đôi vai tôi. Tôi tìm nơi giấu mình, tôi nằm dài dưới bầu trời bình yên để hít thở, để cảm thấy mình được thấm đẫm không khí trong lành. Các cô giáo thể dục lo lắng. Tiếng gọi yếu ớt của các cô đến tận chỗ tôi. Tôi thích nghe gọi tên tôi, như một tiếng vang đến tắt dưới chân tôi. Chắc cái yên lặng này đã khiến tôi chú ý đến tiếng động chung quanh tôi. Kỳ nghỉ hè này là một sự thú vị cho tai tôi. Tôi không phải dùng quả bóp bằng cao su một lần nào. Một con thác đổ, một con suối rì rào, cỏ cao giẫm dưới chân, gió trong lùm thông, tiếng chim kêu ríu rít, tiếng chuông của đàn gia súc, của nhà thờ,… và ngay cả tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ của tôi, tiếng răng rắc của sàn gỗ, hơi thở dồn của bạn bè tôi, những bài hát của các cô giáo thể dục, tất cả đều khiến tôi ngạc nhiên. Thế giới thâm nhập tôi qua đôi tai và thế giới làm tôi thán phục. Không như các ngôi sao trên ban công ở Fécamp, những ngôi sao xa xôi và bí ẩn, làm tôi thán phục mặc dù ông đã có những lời giải thích. Không, cái tuyệt diệu này bao quanh tôi. Tôi dạo chơi trong đó, tôi là thành phần trong đó. Tôi hiểu cái khó chịu mà những tiếng vo ve của tôi gây ra. Thường thường tôi cố làm cho chúng giảm thiểu: không có gì nghiêm trọng, nhiều người khác còn đau khổ hơn. Đến đây, tôi cảm thấy một nỗi tuyệt vọng thật sự khi nghĩ rằng cái hạnh phúc được nghe, tôi lại sắp sửa mất nó. Buổi tối, tôi đứng rất lâu dưới vòi nước, người mệt lử. Tại đây trong cái ngăn tạm mà người ta gõ vào cửa vì tôi ở lại quá lâu, lần đâu tiên tôi ngắm nhìn thân thể tôi và nó làm tôi thích thú. Tôi có đôi chân dài, cặp vú đã nặng với làn da mịn màng đến nỗi tôi nhìn thấy mạng lưới tinh vi của máu tôi. Tôi xoa xà phòng cẩn thận như thể tôi rửa ráy cho một ai khác. Tuy nhiên đó là tôi. Tôi bối rối. Bởi vì tôi là ai: người tắm hay người được tắm, người xoa hay người được xoa xà phòng? Đặt ra những câu hỏi đó, tôi trút hết chỗ dự trữ nước nóng. Có một cái gương trong hành lang. Tôi không thể soi mình khỏa thân trong đó. Tôi đứng đó rất lâu choàng trên người cái khăn tắm rồi tôi nhìn chòng chọc hình ảnh của tôi, vừa dịu dàng nhắc: “Laura, Laura Carlson”. Tôi đã là tôi và một người khác đến chóng cả mặt. Sau cái ánh sáng của Vercors, khi tôi trèo lên cái cầu thanh tối tăm phố Bienfaisance, khi tôi nghe thấy cái gậy của bà đi đến từ cuối căn hộ, khi cánh cửa mở ra với mùi hôi dầu và mùi bụi của nhà trong, tôi muốn chạy xuống cầu thang, muốn chạy trốn cho nhanh. Tôi run lên dưới gánh nặng của tuyệt vọng. Cái ngục tối của tôi lại mở ra, với ba kẻ chiếm giữ. Ông chủ hiện trường, bám vào cái gậy chống, má sệ ra và run rẩy và hai kẻ cặp kè, một thì lao phổi và một thì lúc nào cũng cười khe khẽ, một hiện tượng mới. Hai người này tôi có cảm tưởng họ khó biết được khi nào tôi về. Bà nhận thấy rằng tôi có vẻ tươi tỉnh, bà cân tôi, đo tôi và hài lòng bà hỏi tôi xem tôi có bị tiếng vo vo trong tai không. Tôi trả lời bà rằng không. Xứ đạo được khen. Nếp sống đơn điệu buồn tẻ lại tiếp tục. Nathalie không còn đây nữa. Mẹ tôi ra ngoài khi nào mẹ muốn. Chúng tôi không chú ý đến nữa. Thường khi tôi cũng cuốc bộ ngoài phố, nhưng không phải để đi theo mẹ. Có thể là để bắt chước mẹ. Đi bộ làm tôi khỏe ra. Tôi nhận được một gói đồ của Nathalie. Một cuốn sách nhỏ có tên: Tôi sẽ chết ở Okinawa, đó là nhật ký của một kamikaze tên Tsurukawa Oshi. Tôi không mở ngay cuốn sách. Nó nằm trên một cái giá, bìa úp xuống mặt gỗ, dưới những cuốn sách học. Cho đến một ngày tháng Chạp tôi bị viêm tai, một thứ viêm tai gây sốt cao. Bác sỹ tai mũi họng làm thủng màng nhĩ tai. Và cái điều đã đến phải đến: những tiếng vo ve bắt đầu. Do màng nhĩ của tôi bị thủng, nhưng tiếng vo ve vào trong đầu tôi đến nỗi tôi có cảm tưởng nó sẽ vỡ ra. Bác sỹ tai mũi họng bảo rằng đó là bình thường, rằng mủ ép lên não, rằng khi nào khỏi tôi sẽ không nghe thấy gì nữa. Bà khuyên tôi cầu nguyện, và thực sự tôi cầu nguyện để xoa dịu nỗi sợ. Tôi nằm liệt giường mười lăm ngày. Khi cơn sốt dứt tôi cố gắng làm việc một chút. Khi lấy sách đọc, tôi trông thấy cuốn sách của Tsurukawa Oshi, và tôi mở ra. Tôi đã đọc rất nhiều về chiến tranh Thái Bình Dương, không phải để huấn luyện tư tưởng hoặc thu thập kiến thức, cũng không phải để biết cha tôi đã làm việc này việc nọ trong những ngày cuối của cuộc đời cha. Tôi đọc đi đọc lại trong tình trạng bị thôi miên, mê hoặc bởi những tên địa điểm, những từ ngữ của chiến tranh hoặc của hải quân, những con số, những bản đồ, những tấm ảnh. Nhưng cuốn sách này, viết ở ngôi thứ nhất, do một thanh niên chưa đầy mười tám tuổi, tôi đọc nghiến ngấu, nghĩa là tôi nuốt nó, nghĩa là nó không phải ở trước mặt tôi mà là ở trong tôi, tôi không phải mở sách ra để biết có gì trong đó, mặc dù tôi vẫn mở. Cuốn sách đó liên kết mọi năng lực của tôi, lập luận của tôi và trí tưởng tượng của tôi. Nó làm nên tính nhất quán của tôi. Nó làm điều đó gây hại cho cha tôi. Bởi vì không thể tưởng tượng nổi rằng tôi đã hoàn toàn quên con người mà tôi đã bắt tay vào tìm kiếm, đúng ra là theo sự xúi giục của Nathalie. Tôi quên tất cả những gì tôi đã hứa làm khi tôi lớn: nắm tình hình tại cái cơ quan của quân đội Mỹ, đến New York, theo từng bước chân của cha. Tôi trở thành con mồi của cuốn sách. Từ nay, mỗi khi nghe thấy tiếng vo vo thì chúng liên kết ngay lập tức với chiếc máy bay tiêm kích của Tsurukawa Oshi. Có lúc tôi nghĩ rằng bà biết hắn. Có lẽ hắn cũng truy đuổi bà. Bà tự bảo vệ mình hết sức, và do đó đã xóa bỏ cái kỷ niệm về cha, quá nguy hiểm và quá gần gũi. Đó là để bảo vệ tôi, để giúp tôi, còn tôi thì không hiểu. Có lẽ hắn cũng bám riết mẹ tôi, vì thế mẹ luôn luôn gọi cha tôi, cầu xin ông đến cứu mẹ, giải thoát cho mẹ. Có lẽ hắn luồn vào tất cả các gia đình có liệt sỹ, và với cái tuổi mười tám vô tội của hắn, hắn làm cho những người sống sót phát điên cho đến khi một người mẹ, một đứa con bỏ rơi cuộc đấu tranh và tha thứ cho hắn và giải thoát tội ác cho hắn. Làm thế nào biết được vì bà đã chết và mẹ thì đã quên? Làm sao biết được bởi vì họ đã không nói gì? Đương nhiên là Tsurukawa Oshi không kể lại cái chết của hắn. Bằng một cách viết rất trẻ con, qua từng ngày, hắn miêu tả tỉ mỉ bốn tháng huấn luyện của đại đội hắn chỉ gồm sinh viên các trường đại học hoàng gia. Bốn tháng để học chết thay vì trở thành nhà địa lý, nhà vật lý hoặc triết gia, với một sự tự nguyện hoàn toàn, với ý thức sâu sắc về cái bi thảm. Rồi hắn kể lại sự ra đi của các bạn hắn vì một cuộc tiến công độc nhất không có ngày trở về, hắn gợi lên sự chờ đợi nôn nóng và lo âu cái lượt của hắn. Hắn ghi đi chép lại như để ghi lòng tạc dạ cái kịch bản của sự hy sinh của hắn. Hắn chỉ có cái chết để dâng tặng Hoàng đế của hắn. Không có chuyện làm hỏng việc. Thời tiết sẽ quyết định chiến lược. Nếu bầu trời đầy mây, cuộc tiến công sẽ diễn ra bằng bổ nhào. Hắn sẽ định vị phía trên hạm đội ở độ cao năm nghìn mét và từ đó rơi thẳng xuống mục tiêu, có thể là ống khói, điểm chạm đích có hiệu quả nhất. Nếu bầu trời quan đãng, để tránh ra đa, hắn sẽ bay rất thấp, là là mặt sóng, và đến phút chót hắn sẽ dựng mũi chiếc máy bay tiêm kích để đâm vào sườn tàu. Điều quan trọng là giữ cho mắt mở đến phút cuối cùng, cho đến khi gặp mục tiêu, cho đến khi nổ. Có quá nhiều máy bay đã hy sinh vô ích, bởi vì phi công hoảng sợ trước súng phòng không, trước sự phóng to nhanh chóng của mục tiêu, trước sự va chạm sắp xảy ra, đã nhắm mắt lại để chết và đi chệch khỏi đường bay chỉ vài mét và rơi một cách vô ích xuống biển. Về bản thân cái chết, về nỗi đau khổ của cha mẹ hắn, hắn không nói gì cả, không tưởng tượng gì cả. Lúc bổ nhào, tên kamikaze báo bằng radio: “Tôi bổ nhào” sau đó, liên lạc bị cắt. Tên kamikaze cũng chết. Hắn thế nào cũng chết, ngay cả khi hắn trượt mục tiêu, ngay cả khi hắn thoát khỏi súng phòng không. Hắn không có xăng để trở về căn cứ. Ở đầu kia của trái đất, trên mặt biển phẳng như một tấm tôn, chiếc máy bay tiêm kích lên đường. Ở phố Bienfaisance, nằm dài trên giường của tôi trong bóng tối của căn buồng - đôi khi, trở về nhà mẹ quên tắt đèn trong hành lang và tôi bực tức đứng dậy tắt đèn -, tôi đợi hắn. Ông bà tôi đã rơi vào quên lãng, mẹ tôi nằm ngủ cho dã rượu, tôi, tôi rình một dấu hiệu, một cái run rẩy của lặng yên. Tôi biết rằng hắn sẽ đến. Tôi sợ nhưng tôi đợi hắn. Tôi không co rúm lại. Những bức màn gió rung lên nhè nhẹ. Tôi cảm thấy gờn gợn trên làn da sợi xù lên của màn nhung. Tiếng ồn toát ra từ chất vải, to dần ra, lan đến các bức tường, biến thành một tiếng ầm ầm quay vòng và đè nặng lên tôi. Tôi vùi mình trên giường. Tôi thử buông thả mình. Tôi nóng. Tôi không dám đẩy chăn ra. Cứ tối đến, hắn trở lại. Tôi quen dần. Một đêm nọ, tôi nói chuyện với hắn, tôi thì thầm: “Mi có thấy ta không? Mi có thấy là căn hộ này xấu không? Mi đến làm gì?”. Lúc đầu hắn không trả lời. Hắn tiếp tục quay vòng, không thể lay chuyển. Nhưng về lâu dài, hình như tôi nhận ra những sự thay đổi âm thanh. Tôi nhận thấy rằng một sự khuếch đại tiếng ồn có nghĩa là khẳng định. Tôi nói với hắn về mẹ. Mi có biết lúc này mẹ ta ở đâu không? Mẹ đang ở trong một tiệm rượu, có những gã đàn ông đặt những bàn tay hộ pháp lên mông mẹ. Chúng trả tiền rượu cho mẹ để làm mẹ say. Tiếng vo ve lại gần. Nó rất gần tôi. Nó chạm vào phía trong tai tôi. Tôi cố chịu “Tsurakawa đừng đi, hãy an ủi ta”. Bây giờ cứ đêm đêm hắn lại đến ngồi bên mép giường của tôi, và tôi ngủ thiếp đi cùng hắn. Rồi một buổi sáng rất sớm, mẹ tôi ngã trên cầu thang. Người gác cổng tìm thấy mẹ đang ngáy giữa các bậc thang. Tiếng chuông làm tôi giật mình thức giấc, rồi tôi đứng dậy thật nhanh. Khi tôi đang lay mẹ mà không có kết quả thì nghe thấy Tsurakawa đến “Mi đi đi, tôi nói, bây giờ không phải lúc”. Tôi xốc nách mẹ để dựng mẹ dậy. Tôi sắp thành công trong việc dựng đứng mẹ lên. Đầu mẹ thõng xuống một bên. Tôi xiết chặt mẹ trong cánh tay. Người gác cổng ba hoa. Chiếc máy bay tiêm kích kêu vù vù. Tôi cảm thấy mồ hôi toát ra trên da thịt. Lúc đầu có những ngôi sao ngoằn ngoèo trước mắt tôi. Rồi những bức tường bắt đầu quay cuồng. Rồi bất chợt một tiếng rít chói tai, to dần lên nhanh chóng, vang lên từ trên xuống dưới cầu thang. Tôi có cảm tưởng rằng cái áo ngủ của tôi rách toạc xuống sống lưng. Tôi ngất đi, ngã và kéo theo mẹ tôi. Mẹ là người đầu tiên nhổm dậy. Cú sốc đã đánh thức mẹ. Bà gác cổng cam đoan rằng tôi đã đứng dậy quá nhanh. Hẳn là bà ta không nghe thấy gì và đưa chúng tôi về buồng của chúng tôi. Hắn muốn giết mình. Hắn muốn xuyên thủng mình, tôi nghĩ và lau người ướt đẫm mồ hôi. Tôi đã nhầm. Tôi không có bạn. Tôi sẽ không bao giờ có bạn. Hắn cắm trên không để hạ tôi cũng như hắn đã hạ cha tôi. Tôi cô đơn cho đến chết. Nếu hắn trở lại tôi sẽ chết. Không thể ở lại trong buồng, tôi ra ngoài phố. Mặt trời nhảy nhót trên kính cửa ô tô đối với tôi giống như hàng đàn máy bay bò trên mặt đất, dính vào đèn đỏ. Mọi tiếng ồn nói với tôi về chiếc máy bay tiêm kích. Mọi tiếng ồn tiềm tàng tiếng rú của chiếc máy bay tiêm kích. Tôi trốn đâu bây giờ? Tôi trở về căn buồng của tôi trước đó một giờ tôi đã chạy trốn. Người tôi run lên. Tôi co rúm trên cái thảm chân giường và không động cựa nữa. Bà tôi lo lắng. Phải chăng bà đã cho ra đời một lũ con cháu điên rồ? Bà tập tễnh đến chỗ tôi, cố nói những lời tử tế, trong miệng bà lại bất lịch sự đến nỗi tôi không thể nghe được. Tuy vậy tôi cũng nắm được một từ nó không thuộc về tình cảm cũng không thuộc về Chúa: những viên Quies. Tôi đến ngay hiệu thuốc. Ôi, hạnh phúc thay được nút chặt hai cái lỗ tai lúc nào cũng mở ra. Tôi ấn vào, tôi lèn chặt, tôi không để một kẽ hở nào. Ôi yên tĩnh quá. Tôi nghe trái tim đập với một nhịp đều đặn bình yên. Tôi ở trong tôi, đầu tôi rỗng tuếch. Tôi khóc. Nếu tôi không phải đi học thì từ ngày đó tôi đã vĩnh viễn nút lỗ tai lại. Đầu tiên, tôi luôn luôn đặt các viên Quies vào tai. Tôi nói với các thầy giáo rằng bà tôi bắt tôi đặt bông vào tai. Đồ vào những con mắt nhìn của thiên hạ, tôi thấy rõ ràng họ bắt đầu cho là tôi điên. Tôi cố gắng. Tôi mân mê những viên xi giữa các ngón tay sẵn sàng bóp nát chúng vào tai khi có một tiếng vo ve bé nhất. Những viên xi đó làm tôi yên lòng, cho phép tôi tìm được một chút rảnh rang và nhờ chúng tôi có thể tiếp tục theo học. Một hôm, mẹ tôi đi mất. Cái điều bất ngờ đã đột nhập vào nhà chúng tôi dưới dạng một người đàn ông đứng tuổi, nước da rám nắng, giọng nói khỏe, lông mày rậm. Suốt sáu tháng trời, cứ mỗi tuần hai lần hắn đến ngồi trong phòng khách để nói chuyện với ông bà tôi và uống một cốc rượu vang có mùi bụi. Đôi khi hắn còn ở đó khi tôi đi học về. Một buổi tối, hắn đi tìm mẹ tôi trong buồng của mẹ, để mẹ ngồi cạnh hắn, bảo tôi ngồi xuống và sau khi hắng giọng hắn thông báo cho cả nhà tập hợp bằng cách đó rằng hắn sắp lấy mẹ, sắp đưa mẹ đến biệt thự của hắn trên bờ biển, giữa những cây thông và tiếng râm ran của ve sầu. Hắn nói rằng hắn muốn giúp đỡ chúng tôi, trở thành chỗ dựa cho gia đình. Hắn bảo rằng hắn biết một nhà điều dưỡng đứng đắn và thuận tiện tại đó ông bà tôi sẽ được hưởng một sự chăm sóc y tế chặt chẽ và sẽ không còn phải lo lắng gì nữa. Hắn bảo rằng hắn muốn làm cho tôi như một người cha làm cho con, rằng sẽ mua cho tôi một căn hộ nhỏ để tôi theo đuổi việc học hành. Hắn bảo rằng tôi đã từng là một đứa con hiếu thảo và bây giờ tôi phải nghĩ đến tôi. Thỉnh thoảng hắn quay lại phía mẹ tôi và thêm: “Có phải thế không, Bénédicte?” Cái gì mẹ tôi cũng đáp phải. Mẹ tôi lại có thể nói được chỉ để nói mỗi một tiếng: vâng. Chúng tôi không nói gì. Chúng tôi cũng không thể uống được rượu sâm banh hắn mở vì cơ hội này. Nếu hắn chờ đợi những lời cảm ơn thì hắn chỉ mất công vô ích. Dù thế nào chăng nữa, chúng tôi không được hỏi ý kiến, và chúng tôi không có gì để nói. Hắn cướp mẹ của chúng tôi. Đó là cái kết cục hợp lý của sáu tháng xâm lược mà chúng tôi đã không có một sự phản kháng nào. Từ sau cái buổi tối hắn đưa mẹ ướt lướt thướt vì nước mưa do mẹ đã đi lang thang suốt buổi chiều giữa quảng trường Saint-Augustin và La Concorde, mỗi hôm hắn lại lấy mẹ đi nhiều hơn. Hắn cho mẹ mặc những bộ cánh xịn và đi giày cao gót. Lúc đầu mẹ đi lại khó khăn, như một cô gái mới tập đi giày. Hắn đã đưa mẹ đến một thợ làm đầu để cắt tóc cho mẹ. Hắn đã đưa mẹ đến một thầy thuốc tâm thần do một người bạn hắn giới thiệu. Bởi vì hắn có bạn bè. Hình như ông thầy thuốc tâm thần rất quan tâm đến ca của mẹ. Chứng quên rõ nét nhưng từng phần. Mẹ nhớ một cái tên, một bộ phận, không cái gì ngoài cuộc sống của mẹ bên Mỹ. Tôi muốn hỏi mẹ xem mẹ có nhớ rằng tôi là con gái mẹ không nhưng tôi không dám. Cả ông bà tôi cũng không dám nốt. Ông bà ngày càng bé đi, teo lại trong góc căn hộ mà người lạ kia đã vào bằng sức mạnh. Tôi chưa bao giờ thấy họ khốn khổ đến thế, ngay cả khi mẹ bỏ nhà vào ban đêm. Đương nhiên là nhà điều dưỡng sẽ có lợi cho họ. Tuy nhiên sau khi người lạ đóng cửa và để lại chai sâm banh vừa mở, bà giật mình phản kháng. Bà vung chiếc gậy, và cái nhìn dữ tợn, bộ mặt đột nhiên đỏ lên và rắn lại, bà kêu lên rằng không ai có quyền bắt đi con gái của một người mẹ, rằng không bao giờ bà rời khỏi căn hộ này và rằng một người đàn ông mà đi cắc tóc của một phụ nữ thì không xứng đáng với sự tin cậy của cô ta. Một nét nhăn nhó vì đau đớn làm méo miệng bà, bà đặt tay lên trái tim và chiếc gậy lăn dưới chân bà. Đứng trước cái kiếm kì cục đó, tôi nghĩ đến đoạn trường thoại của Don Diègue: “Cánh tay ta mà toàn thể nước Tây Ban Nha cúi đầu khâm phục…” Rồi mẹ ra đi. Mẹ đã thắng, mẹ thắng liên tục. Chúng tôi chứng kiến mẹ ra đi. Một chiếc xe 403 màu xám đợi trước cổng, chở toàn bộ đồ đạc hắn đã sắm cho mẹ. Mẹ xuống lần cuối cùng cái cầu thang tăm tối, không ngoái nhìn phía sau, không đi một vòng cuối cùng trong căn hộ. Bà cũng xuống, níu lấy tôi. Một cuộc xuống thang vô tận, từng bậc từng bậc lại dừng. Rồi chúng tôi đứng tất cả trên vỉa hè trong một buổi sáng đẹp trời tươi mát của tháng Sáu. Tôi tự hỏi mẹ có ôm hôn chúng tôi không, nhưng hắn lại là người đi nước trước. Bénédicte, ôm hôn gia đình đi, em. Mẹ nghiêng người về phía bà. Ngày xưa bà và mẹ cao gần bằng nhau. Mẹ ngoan ngoãn hôn lên má chúng tôi. Cái mũ của mẹ làm mẹ vướng. Mẹ không nghĩ phải bỏ nó ra. Không ai nói lời nào. Hắn nắm lấy cánh tay mẹ, đặt mẹ như một bà hoàng vào trong xe, ra dáng một hoàng tử mà tôi mơ lúc còn bé, mà tôi không nhận ra mặc dù hắn cố gắng rất nhiều để được giống. Tuy nhiên cái bằng chứng của sự xúc động trong hắn, đó là hắn nhắc đi nhắc lại hàng chục lần rằng hắn sẽ quay lại đưa ông bà đến L’Hay-les-Roses trong mười ngày nữa, ở đó một căn buồng đang đợi ông bà trong một nhà dưỡng lão sang trọng. Chiếc xe nhẹ nhàng nổ máy và rẽ vào đại lộ Malesherbes về phía Côte d’Azur. Tôi nhớ lại chiếc xe Citroel 15 to tướng của chúng tôi, cái giỏ đựng bữa cơm dã ngoại trên đầu gối, sự phấn khích của ông, và tôi nhìn cả ba chúng tôi, xấu hổ, rã rời, không thể quyết định trở về với sự buồn tẻ của cái nơi đã từng là căn nhà của chúng tôi. Ông là người đầu tiên nhúc nhắc trong đôi giầy xứ Charente quá to làm cho ông phải bước từng bước ngắn. “Nào, đi thôi” ông nói với bà. Thế là giống như lần đầu ông gánh lấy trách nhiệm gia đình, như thể lần đầu ông đóng vai một người đàn ông. Mỗi người một bên, chúng tôi đưa bà mẹ bị nhạo báng, bà hoàng mất ngôi về nhà. Ông đặt bà vào ghế bành của bà, mang đến cho bà chiếc khăn san. Hình như cuối cùng thì họ cũng yêu nhau, trong cảnh khốn khổ của tuổi già, trong sự chờ chết. Điều này khiến tôi ghê tởm một chút và tôi quay mặt đi. Trước khi đi tôi vào buồng của mẹ. Mẹ đã để trên bàn đôi giầy đế bằng và những chiếc áo cũ của bà, chúng là ác mộng của mẹ, là nỗi đau của mẹ. Ngăn kéo bàn ngủ rỗng không, mẹ đã lấy những tấm ảnh của cha. Căn hộ được đem bán. Có những khách mua thường xuyên đến xem qua môi giới của một hãng mà bố dượng tôi đã ủy quyền. Đôi khi tôi khoe khoang ầm ỹ lên. Đến tối tôi lựa chọn đồ đạc cũ, những thứ ông bà tôi mang đi L’Hay-les -Roes và những thứ tôi mang đi phố Quai de Jemmapes. Tôi đã đến xem căn hộ hai phòng với ông. Căn hộ màu trắng làm tôi lóa mắt. Tôi đã đồng ý, như mẹ. Ngồi trong ghế bành, bà chỉ cho tôi mất cái khăn bàn trong cái tủ mở to của phòng khách. Bà nói: “Cháu hãy cầm lấy và đừng có quên tấm khăn cũ thành phố Touen trong tủ búp phê” Hai chồng đĩa hàng năm được mua cho tôi. Thế là trước những dấu vết tô vẽ đẹp đến thế của một quá khứ làm tôi nghẹn thở, trước những chứng cứ đầy rẫy của những dự kiến mà bà từng mơ tưởng vì tôi, những giọt nước mắt trào lên mắt tôi. Căn hộ mới của tôi sáng sủa biết bao với những bức tường không vết bẩn, cái thảm trải sàn màu be, cái bàn gỗ thông, cái lò bếp mới toanh. Và bây giờ cuộc đời tôi trống trải biết bao khi ba người thân bỏ tôi. Tôi không có việc gì để làm cho tới ngày trường Đại học mở cửa, tại đây tôi bắt đầu nghiên cứu toán học bởi vì không có ý nghĩ nào khác đến với tôi và bởi vì chiếc máy bay chiến đấu không ngăn cản tôi đếm. Trong buồng tắm cũng trắng toát, tôi đã tích trữ hàng hộp đựng viên Quies. Vì tôi có một mình tôi không tự tước bỏ cái quyền được mang chúng. Từ nay không có gì ngăn cản được tôi điếc. Ở phố Bienfaisance, từ sau cái lần ngã trên cầu thang tôi không ngủ mà không nút lỗ tai. Nhưng ban ngày tôi bắt buộc phải nghe. Vì thế chiếc máy bay tiêm kích đã năm sáu lần tái phạm bằng những cuộc tiến công mạnh mẽ. Tôi không ngất đi nữa. Tôi bị tê liệt, chờ chết mà không bao giờ chết. Và cái làm cho tôi hoảng sợ không kém gì mỗi lần nó đến, đó là để lộ ra cho những kẻ nhìn thấy tôi - một lần kể cả bố dượng tôi - một cái gì đó mà tôi không thể giấu diếm, mà tôi cảm thấy dồn lên mặt và không ai được trông thấy. Ít ra thì ở đây tôi cũng được yên, tôi không có khán giả và không có nhu cầu nghe. Khi tôi nhận được hồ sơ của trường đại học trong đó có số báo danh sinh viên của tôi, tôi giật mình. Tôi hiểu rõ rằng nếu tôi không trấn tĩnh lại ngay thì không bao giờ có gì thay đổi đối với tôi và tôi sẽ chết trong điếc lác, trong một căn hộ màu trắng. Tôi sắp phải đương đầu với một lô bộ mặt không biết tý gì về tôi. Đó có phải là cơ hội để lại ra đi không? Cái từ sinh viên, với những âm tiết mạnh mẽ, sáng lên trong sự rối loạn tinh thần của tôi như một chân trời cứu rỗi. Phải, tôi sẽ là một nữ sinh viên bình thường, mất tăm giữa cái đám đông thanh niên mang nặng giấy tờ, ngồi tại bàn ở tiệm và phê giữa những cuộn khói mù mịt. Khi điền vào hồ sơ, tôi quyết định dấn thân vào cuộc chiến đầu bằng tất cả sức lực của mình. Tôi vứt bỏ những viên Quies, ném chúng vào sọt rác, mở cửa sổ. Tiếng rì rầm lắng dịu của Paris tháng Tám đón nhận tôi. Rồi không có lệnh của bà, môi tôi thì thào một lời cầu nguyện. Đầu tiên, tôi nảy ta một mẹo. Tôi viết thư cho bố dượng tôi rằng căn hộ âm vang và rằng những người hàng xóm làm ồn đến mỗi tôi không ngủ được. Ông liền phái một xí nghiệp làm một cái trần nhà giả. Công việc làm tôi bận bịu và tôi may mắn có được những công nhân đặc biệt dễ mến. Họ không ngớt nói vui. Những lời đùa vui của họ ngốc nghếch nhưng làm cho tôi cười rất nhiều. Tôi mua bia cho họ. Chúng tôi cùng chạm cốc. “Cô ấy sẽ yên tâm làm việc với cái trần giả đó. Chúng ta có thể nhảy điệu ja-va ở trên, cô ấy cũng không nghe thấy”. Nhảy điệu ja-va, lạy Chú, phải chăng một ngày nào đó tôi cũng nhảy được điệu ja-va? Họ chỉ ở có ba ngày nhưng sự tử tế của họ và cái vui của họ mang lại cho tôi một cái lợi to lớn. Tôi chưa từng nhớ là đã có ai nói với tôi mà lại cười hoặc chỉ là nói nhẹ nhàng. Để đấu tranh tốt hơn, tôi cũng quyết định làm cho chiếc máy bay phải đến. Tôi muốn luyện cho mình giữ một vẻ mặt không nao núng dưới làn đạn của nó sao cho không một sinh viên nào nghi ngờ điều bí mật của tôi. Tôi đến ngồi vào bàn của tôi trong ánh sáng mùa hè, rồi tôi ở đó đợi nó. Tôi không động đậy. Tôi biết rằng nó ở kia, chỉ cần kiên nhẫn một chút. Tôi nhắc tôi: khi nào nó nhào xuống, mình sẽ cười vào mũi nó, mình sẽ nghĩ đến tiếng còi bình thường của nhà máy. Nhưng hoặc do nó không qua được cái trần giả, hoặc do nó muốn xuất hiện bất ngờ, dù có dỏng tai tôi cũng không bao giờ nghe thấy gì khác ngoài cái tiếng vo vo quen thuộc và vĩnh cửu báo hiện sự tồn tại của nó. Dù sao thì tôi cũng chợt nảy ra ý nghĩ rằng nếu nó không tấn công tôi thì đó là do sự quan sát của tôi đã giữ chân nó lại. Điều khám phá này khiến tôi dũng cảm lên, rồi tôi quả quyết và bình tĩnh đợi ngày nhập trường, hoàn toàn kiên quyết trở thành một nữ sinh viên bình thường. Lần đầu tiên ngồi trên ghế tầng của giảng đường tôi rất lạ lẫn. Tôi quay người đi, quay người lại và nhận ra rằng chung quanh tôi toàn con trai. Đó đây, nhô lên vài cái đầu con gái, đơn độc, lạc lõng. Thời đó các trường trung học ít khi có cả nam và nữ học sinh. Trường tôi cũng không có con trai. Những người đàn ông duy nhất mà tôi gần gũi là ông tôi, vài linh mục và bố dượng tôi. Sự trong trắng của tôi là tuyệt đối. Tôi không chán ngắm nhìn họ. Tôi ưa thích họ ngay lập tức. Tất cả, tôi thích nam giới. Cái dáng vẻ vụng về hơn dáng bọn con gái của nam giới, da dẻ thô hơn, cái mùi mồ hôi, móng tay lam nham và mặc dù cái tính vật chất đó, cái vẻ lạ lẫm của nó tất cả khiến tôi đi đến với nó ngay lập tức. Trong khi các cô gái khác xúm lại với nhau, tôi rụt rè gia nhập hội con trai. Mặc dù tôi không hay chuyện, tôi nhanh chóng trở thành một người bạn được ưa chuộng, trước tiên do năng khiếu của tôi về môn toán, sau nữa do tôi là người duy nhất sở hữu một căn hộ. Tôi mở cửa cho bất kỳ ai muốn và cái tin này nhanh chóng truyền đi. Có khi có tới mười hai người ăn tối ở nhà tôi, mỗi sinh viên đóng góp phần của mình. Họ đối xử đúng như tôi mong muốn, họ hút thuốc, nói chuyện, đùa vui. Tôi đứng ngắm nhìn họ. Một niềm hy vọng chẹn họng tôi, niềm hy vọng được là một người trong bọn họ, hòa nhập, hòa hợp với họ, niềm hy vọng được lôi cuốn vào sự bồng bột vui vẻ của họ. Tất nhiên là không thể được. Tsurukawa không có ý định buông tha tôi. Tôi nghe thấy hắn quay vòng trên đầu chúng tôi, nhẹ nhàng, đều đặn. Tôi mỉm cười. Không có ai trông thấy gì. Trong túi, bàn tay tôi quặp chặt lấy, cái hộp đựng viên Quies. Tôi làm cơm. Tôi rửa cốc. Tôi đã có cái cứu cánh là giam mình trong buồng nếu hắn tấn công. Tôi kín đáo xem đồng hồ, nửa muốn mọi người ra về, nửa muốn có một hay hai người bạn ở lại với tôi do hết tàu điện ngầm mà phải ngủ lại nhà tôi. Không phải tôi muốn ngủ chung với họ. Tôi không có ý nghĩ về cái khả năng đó. Nhưng cảm nhận thấy họ ngủ trên những tấm đệm ghế dài trong khi trên giường, tôi đẩy lùi cái giây lát phải nút lỗ tai làm tôi yên lòng. Tôi có cảm tưởng là, vì họ đang ngủ thì Tsurukawa cũng phải ngủ, trong cái trại lính của hắn. Tôi hình dung ra cái dãy giường và những thân thể bất động. Tôi cũng đang nằm dài. Những chiếc máy bay cũng đang nằm trong nhà để máy bay. Giấc ngủ thiu thiu của bọn con trai mang lại đình chiến trên thế giới. Và tôi có lý trí vì, những đêm đó, chiếc máy bay tiêm kích không hoạt động. Trong lúc tôi ngồi bên cạnh những sinh viên nam, nghe bài giảng hoặc giảng lại cho họ một cách chứng minh khó, đó là lúc tôi cảm nhận những tác động đầu tiên của khát khao. Tôi đoán rằng tôi đã ao ước được ôm trong những cánh tay. Tôi không biết đòi hỏi. Tôi đợi họ đòi hỏi. Tôi dùng mưu mẹo để khuyến khích họ: tôi bị váng đầu hoặc trời đột nhiên trở lạnh. Một trong số họ hiểu ra. Cậu ta ở gần nhà tôi và chúng tôi thường cùng về nhà. Chúng tôi chia tay nhau ở phố Faubourg-du-Temple. Tối hôm đó, giữa đám đông đang bước đi trên hè đường, thay vì tiếng “chào!” truyền thống khi chia tay, cậu ta đột nhiên kéo tôi sát người cậu. Mặc cho những chiếc cặp làm vướng víu, chúng tôi hoàn toàn áp sát vào nhau, cứ thế suốt mấy giây không động đậy. Cậu ta xiết chặt tôi, và đó giống như một sự giải phóng. Bản năng đã không đánh lừa tôi. Khốn khổ thay, chàng trai muốn hôn tôi. Tôi hốt hoảng, tôi giãy giụa và cậu ta đỏ mặt, ngượng ngùng để cho tôi đi và ấp úng một câu xin lỗi. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng rằng cái việc để cho một chàng trai ôm trong cánh tay lại tự nó là một mục đích. Tôi không biết một chút gì về tình dục, ngoài một vài định nghĩa tìm được trong từ điển Larousse. Tôi đã nhìn thấy mẹ tôi hôn đàn ông. Nhưng đó lại là lý do khiến tôi ghê tởm. Vì thế cho đến khi tôi gặp Bruno, không có ai hôn tôi. Đàn ông có thể ôm tôi. Nhưng hôn tôi lại là chuyện khác. Bây giờ tôi biết rằng người ta có thể làm tình mà không ôm nhau trong cánh tay. Có một nguyên nhân khách quan khiến tôi sợ bị ôm hôn. Đó là do răng tôi. Vì những tiếng vo ve trong tai tôi, tôi không thể đến gặp nha sỹ. Ngồi ngửa mặt ra đằng sau, phô mình ra từ đầu đến chân, trong tư thế buộc phải há miệng ra trong một cái ghế bành không ở trên mặt đất mà lại hình như lơ lửng trong không gian, chịu cho một người lạ đặt tay lên miệng mình, chịu đựng tiếng rin rít của cái mũi khoan, cảm nhận như một cái tai thứ ba ở đáy họng nó phản hồi nhưng rung động trong hộp sọ, không thể động đậy vì sợ bị thương, tất cả những cái đó đối với tôi là một sự thử thách không thể vượt qua. Tôi đành lòng dùng aspirin và thuốc kháng sinh. Tôi mím chặt môi, một tay máy móc đặt lên miệng. Tôi cho rằng tôi có một khuôn mặt đẹp, đôi mắt màu xám nhạt như mắt mẹ tôi in bóng những lông mi dài, cặp môi rõ nét, mọng, quá mọng. Nhưng ngay khi tôi mở miệng thì một hàm răng màu vàng, cắm lệch hiện ra. Bà tôi quan tâm nhiều đến tóc tôi nhưng không thấy rằng răng tôi mọc cái nọ đè lên cái kia. Lần đầu tiên Bruno hôn tôi, tôi đã khóc. Tôi luôn cho rằng tôi ghê tởm đàn ông, miệng tôi, mọi cái ẩn giấu nơi tôi. Đó là buổi tối thứ ba hoặc thứ tư của chúng tôi trong năm. Tôi không còn biết tên của người đã tiếp chúng tôi nhưng tôi nhớ ông ta ở một căn hộ lớn phố Petits - Champs có một ban công chạy suốt mặt tiền. Tôi cũng nhớ rằng cửa sổ để mở và ta trông thấy cái bánh xe lớn ở công viên Tuileries trong một làn ánh sáng màu sắc rực rỡ. Lúc bấy giờ là tháng Sáu và chúng tôi đang ăn mừng kỳ thi kết thúc. Có nhiều người tôi không quen. Tôi dễ dàng khiêu vũ với người lạ. Tôi thích khiêu vũ hơn nói. Tôi cảm thấy khó khăn khi phải nói chuyện và hoảng lên khi có người đặt cho tôi một câu hỏi có tính chất riêng tư (tôi có lớn lên thật, tôi vẫn không biết nghĩ), vậy mà tôi không chút thẹn thùng, không chút e dè trong cái kiểu cách khiên vũ của tôi, thực vậy tôi thích ngả vào bất kỳ tay ai. Nhưng, cái buổi tối đó tôi biết rằng tôi sẽ gặp nguy: cái nguy của nụ hôn chối từ ở phố Faubourg-du Temple. Chắc rằng mỗi chàng trai có mặt tại đây đợi tôi mở miệng, và rồi nỗi sợ phá vỡ niềm vui thú của tôi. Có phải vì vậy mà tôi lạm dụng rượu vang cam đặt giữa tủ búp phê? Trong trường hợp này hiệu quả tính trước không xảy ra, tôi không mở miệng. Nhưng bị sự bảo đảm gian dối của rượu lừa gạt, tôi đã có nỗi thèm muốn điên rồ gọi Taurukawa nói chuyện với hắn trong khi từ đầu năm tôi đã làm mọi việc để tránh xa sự có mặt của hắn. Hắn không khiêu vũ như chúng ta. Hắn chạy theo bước chạy thể dục từ nhà ngủ đến chỗ chiếc máy bay màu vàng trên đó hắn học lái. Thành phố Tokyo chết dưới bom của những pháo đài bay B21. Và tất cả chúng ta, những người đang uống rượu và khiêu vũ, nếu người ta yêu cầu chúng ta, nhân danh đất nước chúng ta, ngày mai hãy lên đường đến một cơ sở huấn luyện thì liệu chúng ta có đi không? Chàng trai đang ôm tôi trong cánh tay và hình như hơi lúng túng, có dễ dàng cầm lấy súng, lựu đạn hoặc súng phun lửa không? Tại sao những người khác chứ không phải chúng ta lại biết bom đạn và có nhiệm vụ làm chiến tranh? Trong phòng bên, một nhóm đang thảo luận chủ nghĩa Mác và phi thực dân hóa. Ở đây chẳng có ai đi sang Algérie. Việc học hành cho phép được hoãn. Trên bìa cuốn sách có bức ảnh của Tsurukawa. Hắn đứng giữa một nhóm tám phi công, hắn là người thứ ba kể từ trái sang, ở hàng đầu. Hắn mặc một chiếc áo dài màu đen có cúc trang trí hoa anh đào. Đầu hắn chít một chiếc khăn, giữa có dập một vòng tròn màu đỏ, mặt trời mọc, dấu vết ngón tay của tử thần. Trong khi tôi khiêu vũ, từ bước nhảy này sang bước nhảy khác, tôi tưởng tượng hắn bước giữa chúng ta. Nhìn chúng ta bằng cặp mắt vô hồn, bộ mặt khó hiểu và bình thản trong khi trán chúng ta vã mồ hôi. Người ta bảo rằng những người cảm thấy sắp chết đổ mồ hôi vì lo sợ. Da của Tsurukawa khô. Đột nhiên có ai đó tắt điện và đặt lên máy quay đĩa bài Only you. Giới nghiêm. Chỉ có cái quầng sáng của bánh xe lớn hắt ra vài ánh yếu ớt trong căn hộ như một đám cháy rất xa xôi. Anh bạn nhảy của tôi lại gần tôi và tôi bắt đầu nghẹt thở. Nụ hôn xảy ra đến nơi. Qua vai anh ta tôi tìm Tsurukawa. Những chiếc khuy mạ vàng của áo hắn có lẽ sẽ lấp lánh trong bóng tối. Tôi không thấy gì. Thế là tôi có niềm tin tuyệt đối rằng chính hắn đã tắt ánh sáng để chộp tôi. Lần này thì hắn sẽ giết tôi, lần này tôi sẽ chết. Trái tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi muốn hét lên để người ta bật đèn nhưng họng tôi nghẹn lại. Tôi co dúm lại, mắt tôi cứng đờ, trừ tai tôi bắt đầu thăm dò không gian một cách háo hức. Tôi không thể khiêu vũ được nữa. Anh bạn nhảy của tôi ve vẩy một mẩu gỗ. Tôi cảm nhận được dưới chân những tiếng rung của động cơ. Lúc nãy, tiếng ồn của chiếc máy bay Zéro đã len lỏi qua đầu tôi nhưng khi nghe kỹ tôi mới nhận ta rằng tiếng gõ giầy của những người khiêu vũ trên sàn đã gây ra sự lẫn lộn. Tôi phải đợi hắn từ phía nào? Hàng đàn kiến leo lên chân tôi, tay tôi. Trước khi chúng làm cho tôi tê liệt, nhất thiết tôi phải vào buồng vệ sinh và nhét những viên Quies. Tôi xô đẩy những thân thể bám chặt vào nhau. Tôi tìm cái túi của tôi trong đống áo khác ném ở lối vào. Bây giờ tôi nghe rất rõ tiếng máy bay. Giọng của ca sĩ muốn biến nó thành một con chim vô tư bay lượn trên bầu trời, tôi thì tôi biết rõ nó mang lại chết chóc. Cuối cùng tôi tìm được cái túi của tôi nhưng buồng vệ sinh lại bận. Tôi đành phải ở trong hành lang. Tôi cuống cuồng lục soát. Đây là cái hộp nhỏ màu kem trắng. Tay tôi run lên. Tôi mở hộp. Hộp rỗng, tôi quên không đem đổi? Những khẩu pháo phản công bắt đầu hoạt động. Một loạt tiếng nổ liên tiếp bung ra trong chân tôi. Tôi thu hết sức lực để rời hành lang. Tôi quay lại với những người khiêu vũ đang trôi giạt trong đêm tối. Đạnhiêu đại bác rơi xuống biển, và tôi nghe thấy tiếng nước bắn lên chung quanh tôi, một bức tường thành bằng nước dựng lên, rơi xuống ầm ỹ để che mắt kamikaze cái đó hình thành một đám sương mù trong đầu, một tiếng ồn to lớn làm nền. Giọng của ca sĩ tự cuốn đi khỏi đó rồi đôi khi lại lộ ra, đưa lên bề mặt. những người khiêu vũ lảo đảo trên boong tầu. Tôi nghẹt thở. Tôi lê mình trên ban công. Đáng lẽ tôi không được làm thế. Nó sẽ đến từ phía đó, bụng chứa đầy bom. Tiềng rít chói tai. Nó lớn dần. Nó sắp lao xuống. Tôi không thấy nhạc nữa. Nó rú lên. Nó gầm lên. Nó xuyên qua tôi, làm tôi nhăn nhó. Mặt tôi méo đi, tôi cảm thấy thế. Nó méo chung quanh cặp mắt mở trừng trừng của tôi. Họ sẽ nhìn thấy bên trong người tôi. Họ sẽ thấy rằng tôi hóa thành một con quỷ. Tôi chống lại. Tôi bám lấy thanh sắt rèn. Tôi đứng thẳng. Tôi không kêu. Tôi nghe thấy văng vẳng tiếng người bạn nhảy: “Laura, em đến nhảy chứ?” Tôi hít vào sâu. Tôi quay người lại. Tôi chìa mặt ra. “ Cái bánh xe lớn, anh ta thì thầm với tôi, người em đỏ cả kìa”. Rồi anh vừa lùi vừa xin lỗi. Tôi đặt tay lên má, không phải để tự giấu mình, không, nhưng là để cho xúc giác trở lại, nó là cuộc sống của da dẻ. Tôi chùi những giọt nước mắt trên lông mày. Tôi đợi cho môi tôi mềm mại. Tôi đã thắng. Tôi lấy đà. Tôi trở nên mạnh mẽ. Tôi đi uống một cốc vang cam và tôi khiêu vũ với bất kỳ ai. Tôi thét lên niềm vui của tôi bằng khiêu vũ. Rồi tôi sẽ đè nát Tsurakawa dưới gót giầy của tôi. Bruno đến ăn tối ở bến tầu jemmapes. Anh đang hoàn thành việc học ở Nhạc viện, lớp sáng tác. Tôi không biết như thế nào và tại sao anh được đưa vào nhóm chúng tôi. Tôi chỉ biết anh thường hay đến. Anh cũng im lặng gần như tôi nhưng đôi khi, anh lao vào những cuộc đả kích mạnh mẽ chống lại sự chây ỳ của nhà toán học. Anh kể tên Nono làm ví dụ. Chúng tôi không biết Nono là ai. Tôi thích nghe anh nói. Cách nói vội vàng thiếu kiềm chế của anh tạo ra một vẻ mặt hơi đau buồn. Có thể nói rằng từ ngữ làm trầy da môi anh và tôi từng mong muốn vuốt ve chúng, lấy tay xoa chúng để cho chúng khỏi bị tổn thương. Khi anh nói xong, anh tìm lại nhanh chóng cái vẻ nhã nhặn cua anh và cái nhìn cực kỳ chăm chú đối với chúng tôi, nhất là đối với tôi, điều này làm cho tôi ngầm rùng mình. Một tối kia anh ở lại cuối cùng. Tôi không buồn tỏ rõ thái độ khi cất bát đĩa. Trái tim tôi đập quá nhanh, tôi run quá. Tôi ngồi trên ghế dài, không thể nói một lời nào, thử dũng cảm mỉm cười với anh. Anh cũng thế, không nói. Những ngón tay anh đặt trên tóc tôi rồi lướt trên mặt tôi. Tôi đã sống chỉ vì giây lát này, vì cử chỉ này. Cả cuộc đời tôi co ro lại trong bàn tay anh. Khi anh muốn hôn tôi, tôi ngậm miệng lại theo bản năng. Nhưng anh không dừng lại ở những giọt lệ của tôi. Anh đã hiểu tôi một cách hoàn hảo. Anh không dừng lại trước khi tôi tràn trề nước mắt, mồ hôi, máu, niềm vui. Sáng sớm anh ra đi không có một lời. Suốt ngày tôi không động cựa. Tôi chờ anh trở lại. Ngay tối đó anh trở về. Ngay lập tức, chúng tôi tống khứ ra ngoài những bạn vè hay đến nhà tôi. Anh gia nhập đời tôi với cái máy Revox của anh và chúng tôi sống gần như giam mình trong một kỷ luật thép, giữa tình yêu và công việc. Tôi những muốn ở bên anh 24 giờ trên 24 giờ. Tôi những muốn không bao giờ đứng nữa. Tôi trút hết khỏi người tôi. Tôi trở nên rỗng đến nỗi một cái chạm nhẹ làm tôi run rẩy toàn thân. Tôi không còn biết anh ấy chạm vào tôi ở đâu, chỗ nào là đầu tôi, chỗ nào là chân tôi. Đôi khi hình ảnh những chiếc răng của tôi bắt chợt tôi trong cảnh hoàn toàn buông thả. Thế là tôi lại càng tự cởi mở, nhận thức rằng Bruno sẽ thành công trong việc trừ tiệt cái gốc thối rữa gắn trong tôi. Chính anh đòi hỏi chúng tôi làm việc. Anh muốn đoạt giải nhất và ra sức sáng tác một khúc tấu cổ điển tuy sự quan tâm của anh hoàn toàn dành cho nhạc điện thanh. Anh thường xuyên bỏ tôi để đến O.R.T.F. Tuy không ở trong nhóm nghiên cứu âm nhạc, anh được chấp nhận tham gia vào công việc của nhóm. Tôi lợi dụng điều này để làm qua quýt công việc toán học của tôi, khiến anh trách tôi: “Em phải trở thành một nhà toán học lớn”. Anh vì tôi mà nuôi tham vọng tôi không có. Bruno dạy tôi âm nhạc. Tôi chỉ biết có Chopin vì Nathalie yêu thích Chopin. Tôi nhồi nhét nào sô-nat, nào lieder, nào concerto, nào operas. Ngay lập tức tôi thích Schubert, và tôi nghe nhạc của ông không biết chán. Bruno cười và nói rằng tôi có khẩu vị tư sản. Khi tôi hỏi anh tại sao, anh nghiêm nét mặt và giải thích với tôi rằng tôi bị giam hãm trong một sự thích ứng văn hóa kiểu hòa hợp cổ điển, rằng có một sự dễ dãi dung tục để cho cái xúc động lãng mạn ve vuốt giác quan, cũng như sống không có ý thức chính trị, đó là trường hợp của tôi. Anh cố gắng phân tích những nghiên cứu âm nhạc hiện đại,cái liên tục năng động giữa âm thanh và yên lặng, những cấu trúc vi mô của âm thanh. Trong khi nghe anh, tôi nhìn thấy cái vẻ đau khổ trở lại trên khuôn mặt anh, nó đã từng khiến tôi xúc động và tôi thất vọng đã không thể hiểu cũng như không thể đánh giá nghiên cứu của anh. Bây giờ tôi đã biết ai là Nono, đó là chúa của anh, là người thầy tuyệt đối của anh, là trung tâm của sự sáng tạo của anh mà tôi không thể xâm nhập. Tôi đau khổ về sự bất tài của tôi, nhưng cái cảm giác rằng anh có một bí mật ngoài tầm tay sẽ sai khiến tôi yêu anh hơn. Đôi khi tôi nhìn anh, người cúi xuống các bản dàn bè. Sự tập trung làm việc của anh quyến rũ tôi. Tôi không dám động đậy để khỏi làm phiền anh. Chỉ nhìn anh thôi là một ham muốn trào dâng trong tôi. Tôi thích đầu ưa thích thân thể tôi. Tôi mua những chiếc áo may ô ngắn tay bó sát người để làm nổi bộ ngực. Tôi nhổ lông tay chân, tôi đánh phấn tô son, tôi nhuộm tóc. Tôi ngắm nhìn tôi trong gương và tôi tự hào về sắc đẹp của tôi. Ngày Chủ nhật, tôi đi L’Hay-les- Roses thăm ông bà tôi. Sự xấu xí của ông bà làm tôi phát sợ. Cái chết đang đến gần họ, nhưng tôi không muốn trông thấy. Tôi vừa khám phá ra sự khoái lạc, và khám phá đó làm cho phần thế giới còn lại không tồn tại nữa. Hai năm trôi qua với chúng tôi trong sự cuồng nhiệt. Bruno đã đoạt giải nhất, còn tôi nhận bằng cử nhân với lời khen. Bây giờ tôi đang chuẩn bị bằng cao học về Pythgore. Anh dạy nhạc trong một trường nhạc của quận. Anh đau lòng do chỉ là một thính giả của nhóm nghiên cứu âm nhạc. Người ta yêu cầu anh một tác phẩm, anh chỉ muốn đưa ra những đoạn. Đó là một vị trí giai điệu lý tưởng mà chắc chắn Nono tán thành. Có thể là người ta thấy anh quá trẻ. Anh dũng cảm chịu đựng nỗi khổ cực của anh. Chúng tôi thường cho chiếc Revox chạy đến tận rạng sáng, nghe nhạc jazz và uống sancerre, một thứ rượu vang anh thích. Chúng tôi có thể mở máy hết cỡ vì có cái trần giả. Tôi bồng bềnh trong không gian. Tôi có cảm tưởng là âm nhạc thoát ra từ người tôi. Nhưng chính là trong sự im lặng và trong sự mãnh liệt mà chúng tôi yêu nhau. Một hôm anh nhận được một lá thư của Nono mời anh cùng làm việc tại một xưởng điện tử ở Milan trong ba tháng. Anh không mong gì hơn. Trước sự hoang mang của tôi, anh cố gắng kiềm chế niềm vui của anh. Chúng tôi yêu nhau còn mãnh liệt hơn nữa, anh trong một hạnh phúc điên rồ, tôi trong cảnh cô đơn tuyệt vọng. Chúng tôi đã sẵn sáng để tổ chức cho anh ra đi thì anh nhận được giấy triệu tập quân dịch. Lệnh hoãn của anh đã hết. Anh đã hoàn toàn quên mất điều đó. Nỗi thất vọng làm anh ủ rũ. Dù tôi có biết rằng đằng nào anh cũng đi, và có khi đi lâu hơn, tôi cảm thấy được an ủi. Anh lên lớp gần Maisons Lafitte. Người ta cắt mất mái tóc xoăn và dài của anh. Anh như là trần trụi, yếu ớt không ngờ. Tôi buồn bã đưa tay qua lại trên mái đầu anh. Tôi sợ anh bị lạnh. May sao người ta để cho anh được về nhà hầu như hàng ngày vào buổi tối. Nhưng sau đó, anh bị điều đi Châteaulin ở Bretagne, trong một trung đoàn bộ binh, tại đây anh phải đợi một tháng rưỡi để được nghỉ phép. Thế là tôi cô đơn. Trong một tháng rưỡi, tôi chỉ chờ đợi cái giờ phút gặp lại anh. Tôi cho máy Revox quay, tôi nhìn thấy anh ngồi, đang lắng nghe, đầu tỳ vào bàn tay. Tôi mua rượu Sancerre rồi tôi nhấm nháp trên giường. Tôi đổ chút rượu vào giữa hai vú, nó chảy xuống bụng. Bruno pha loãng rượu cho tôi như thế. Tôi lao vào bằng cao học về Pythagore của tôi, chỉ vì tôi biết rằng như thế làm anh hài lòng. Anh được nghỉ phép 48 giờ đồng hồ vào đầu tháng Sáu. Chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ đến với anh để khỏi mất thời gian đi đường. Tôi đến nhà ga bé nhỏ Châteaulin vào buổi tối, hơi chóng váng vì chuyến đi. Từ đầu ke nhà ga, Bruno đi đến gặp tôi. Chúng tôi không chạy đến với nhau. Anh tươi cười đi về phía tôi, trong bộ đồng phục binh nhì, với mái tóc ngắn. Và rồi tôi… tôi cảm thấy hơi khó chịu nhìn thấy anh lại gần. Bộ đồng phục không hợp với anh. Anh gầy đi. Nét mặt anh mệt nhọc. Tôi không nhớ rằng đầu anh lại có dạng vuông vắn đến mức này. Nhưng anh ôm chặt tôi trong cánh tay và nỗi khó chịu của tôi qua đi. Chúng tôi uống cà phê tại căng tin nhà ga. Anh phàn nàn. Anh ngủ kém. Quân trang của anh làm vai anh bị thương, và anh về chót trong cả cuộc đi bộ bắt buộc. Cuộc sống quân sự làm hỏng anh. Tôi hết sức động viên anh và làm tan nỗi ngượng ngùng ám ảnh tôi trước bộ mặt mệt mỏi khác lạ đó. Chúng tôi đi ô tô cả đến Douarnenez, tại đây anh đã thuê một buồng khách sạn. Một cái lỗ cửa lớn trông ra biển, trong màu đỏ tía của buổi mặt trời lặn. Chúng tôi mở to cửa. “Âm nhạc và em là tất cả cuộc đời anh, và anh chẳng có cái này, cũng chẳng có cái kia”. Bruno yêu tôi mà không bao giờ nói với tôi. Tôi ngạc nhiên về sự thú nhận hiển nhiên đó đến nỗi tôi không nghĩ đến việc cảm ơn anh, cũng như vui mừng. “Em đây, tôi trả lời, hãy nhìn em - Em có lý, anh thì thầm, anh thật là ngốc”. Rồi anh phá lên cười. Tôi cũng vậy. Chúng tôi đi ra ngoài ăn tôm hùm và uống vang trắng. Ở nhà hàng anh bớt căng thằng và nói nhiều hơn với tôi về Nono. Anh này đã gửi cho anh bản dàn bè mới nhất của anh ta mà anh phải sáng tác ở đại hội Venise, một sự kiện mà Bruno tiếc không được tham dự. Nhưng khi nào kết thúc quân dịch, anh sẽ đi Milan. Tôi phải thu xếp để đi cùng anh. Phải chăng tôi đã biết nước Italia? Chúng tôi sẽ sung sướng tại đó. Tôi thấy Bruno tái sinh và tôi đã sung sướng rồi. Tại sao lại không kia chứ? Tôi cũng có thể đi Milan. Anh yêu cầu tôi gửi cho anh một bản dàn bè khác của Nono mà anh để ở nhà và anh muốn nghiên cứu. Anh viết tiêu đề của nó trên một mẩu giấy anh tuồn đến gần đĩa của tôi: Canti di vita e d’amore: sul ponte di Hiroshima. Một thứ mồ hôi lo sợ tràn ngập tôi, ngay tóc tôi cũng ướt đầm. Tôi uống quá nhiều rượu, quá nhiều. Tôi tin chắc Bruno xin cưới tôi nhưng tôi không biết tôi đã trả lời gì. Cười vì thấy tôi say, anh dẫn tôi chân nam đá chân chiêu đến tận chân đèn pha. Không khí lạnh giải say cho tôi. Răng tôi va vào nhau vì tôi bị lạnh. Trong buồng, anh đốt một ngọn nến và cởi quần áo cho tôi. Cho đến giờ, mọi cái đều bình thường. Tôi để mặc kệ. Tôi thích để mặc kệ. Nhưng tại sao anh không cởi bỏ quần áo? Ngọn nến lung linh giữa các bức tường. Anh nhìn tôi. Tôi thấy có cái gì đó ngơ ngác trong mắt anh. Tôi thì thầm: “Anh cởi đồng phục ra, em sợ lắm”. Và khi anh làm việc đó, khi anh cởi đôi giầy lính tẩy to tướng, khi anh tháo thắt lưng và khi tôi nhìn thấy nước da nhợt nhạt của anh, nỗi khiếp sợ xâm chiếm tôi. Chân tôi tê liệt. Tôi không cảm nhận bàn tay anh trên người tôi. Tôi không cảm nhận anh. Anh kéo tôi lên giường. Anh đè lên người tôi. Tôi không còn biết anh là ai nữa. Anh phát điên lên. Anh mê mải. Tôi chống lại. Bất chợt tôi nghe thấy một tiếng thét chói tai. Cái tiếng thét đó xâm nhập vào người tôi, xuyên qua tôi. Tôi ưỡn người dưới hiệu quả của một cơn co giật dữ dội, dữ dội hơn, lan tỏa hơn cả sự khoái lạc. Nó trào lên mặt tôi. Rồi mặt tôi biến dạng, tôi cảm thấy thế. Tôi nhổm người trên giường, hai cánh tay bắt chéo. Tôi tự hỏi Bruno ở đâu. Tôi đã hất mạnh anh ra và anh lăn ra xa tôi. Rồi tôi xỉu đi, chân tay rã rời. Tôi rơi vào tình trạng hoàn toàn trơ ỳ không có gì trên đời làm cho tôi động đậy. Mặt của Bruno hiện lên phía trên người tôi. Tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy anh. Tôi nghĩ rằng tôi ngủ thiếp đi ngay lập tức. Sáng ra, anh muốn vuốt ve tôi. Tay anh đã chai sạn trong quân đội, lòng bàn tay anh làm rát da tôi. Tôi bèn dậy ngay. Anh không nói gì. Nhưng cái nhìn của anh có vẻ nghi ngờ. Chúng tôi qua ngày hôm đó ở Saint-Malo. Tôi không dám ngẩng đầu lên. Chúng tôi dạo chơi phố phường, chúng tôi giả vờ nói chuyện. Tôi kể về chương trình toán hiện tại của tôi, anh trả lời rằng anh đã xin vào làm việc ở sở giao thông, rằng có lẽ anh sẽ được lái những xe tải lớn. Giọng nói của anh đã mất nét hấp dẫn. Một linh cảm làm chậm bước chân tôi. Những bức tường cao u ám của những ngôi nhà ảm đạm vùng Saint-Malo, những phố phường gồ ghề mà mặt trời tháng Sáu cũng không sưởi ấm lên được, bãi cát mênh mông ở đó nước biển đọng lại từng vũng, tất cả đều gợi nỗi buồn. Đến chiều tối nước triều lên. Cho đến khi mặt trời lặn, chúng tôi đứng tựa khuỷu vào bờ thành ngắm nhìn những cơn sóng xô vào những tảng đá ngầm trong tiếng ầm ầm cho đến khi ngây dại. Chúng tôi ngủ trong một căn buồng trang trọng, lạnh lẽo như nấm mồ, ôm chặt lấy nhau và không còn bụng dạ nào mà trò chuyện. Một tiếng vo vo đinh tai làm rung tường khách sạn. Mồ hôi làm tóc tôi dính vào cổ. Một lát sau tôi nhận ra rằng, Bruno đang gáy. Chỉ có thế. Tôi bình tĩnh lại. Tôi bật đèn đêm. Anh không thức giấc, quay người lại làu bàu và thôi gáy. Tôi ngắm nhìn lưng anh, tôi cảm thấy cô đơn. Tại sao anh lại ngủ tốt đến thế? Nước mắt tôi lăn xuống má. Tại sao tôi lại không vuốt ve anh cho đến khi anh tỉnh lại? Sau khi tắt đèn, tôi luồn thật kín đáo đến bên anh, và tiếp tục khóc thầm. Cái doanh trại tôi tiễn anh đứng giữa vùng truông xứ Bretagne, tôi tự nhủ rằng chúng tôi sẽ ôm hôn nhau khi xuống xe buýt, và rồi tôi sẽ thổ lộ tình yêu của tôi với anh trong lần cuối này. Chúng tôi hôn nhau. Và anh hôn mạnh đến nỗi anh cắn vào môi tôi. Rồi anh đi không ngoái đầu lại. Tôi thử kêu lên. Không một âm thanh nào ra khỏi họng tôi. Môi tôi sưng lên. Hầu như không có ai trên con tầu đưa tôi về Paris. Đầu tôi trống rỗng, thân thể tôi trống rỗng, môi tôi nóng bỏng như thể tôi chưa ăn từ lâu. Về đến nhà, tôi gửi cho Bruno bản dàn bè của Nono, rồi tôi lấy cuốn sách của Tsurukawa ra. Tôi nhìn rất lâu bộ mặt bí ẩn của hắn và đọc một mạch nhật ký của hắn. Khi tôi đọc xong, tôi đi nằm và đợi hắn. Hắn không buông tha tôi. Hôm sau tôi xuống hiệu thuốc mua một hộp viên Quies để có thể tiếp tục đến trường, rồi cuộc đời tôi lại tiến triển bình thường nếu không có một tai nạn làm nó tạm thời đi lệch đường. Tôi đoạt được tấm bằng cao học về toán và tháng Bảy tôi đi thăm mẹ tôi. Bây giờ mẹ tôi đã nói. Nhưng mẹ chỉ diễn đạt bằng ngôi thứ ba. Khi chồng hỏi: “Bénédicte, em có ngủ được không?” thì mẹ mỉm cười trả lời: “Cảm ơn, bà ấy ngủ tốt”. Tôi có cảm tưởng là mẹ cố tình, là mẹ lừa dối tất cả chúng tôi. Mẹ còn khỏe hơn cả tôi. Tôi để ngày ngày trôi qua, nằm dài trên cát nghe chiếc máy bay tiêm kích lượn vòng trong nắng. Mặt biển lỗ chỗ hàng ngàn hố bom. Tiếng ồn ào trở nên kinh khủng. Tôi bị những cơn say nắng. Tháng Tám Bruno được nghỉ phép bốn ngày. Lần này chúng tôi gặp nhau ở Paris khi anh đặt tay lên người tôi, chậm chạp, lo âu, tôi muốn van anh dừng lại. Tôi không nói được. Thế là lại xảy ra đúng như trước. Không phải là tôi sợ bộ quân phục của anh bởi vì anh đã chú ý cởi quần trong buồng tắm. Nhưng tôi không cảm nhận gì, tuyệt đối không cho đến khi tiếng gầm rú của chiếc máy bay tiêm kích lao vào tôi. Khoái cảm mãnh liệt đến nỗi tôi ngã xuống như chết. Bruno tưởng rằng tôi ngất đi nên anh lay vai tôi và kêu lên: “Em sao thế? Em sao thế?” Tôi chỉ hơn nhận thấy và tôi ngủ thiếp đi. Tôi qua một đêm tuyệt vời. Khi tôi thức giấc, Bruno đã ngồi ở bàn làm việc đang soạn một bản dàn bè. Tôi nhìn anh từ sau lưng. Không quay người lại, anh hỏi tôi đã có một ai đó trong đời tôi. Tôi bảo không. Lẽ ra tôi có thể nói có. “Đêm qua, em đã kêu lên như thể anh làm em đau” Tôi thầm thì rằng không. Rồi cuộc trò truyện chấm dứt. Bruno hình như lấy lại được sự cân bằng hay ít ra là lòng ham muốn làm việc. Anh để toàn bộ kỳ nghỉ phép để ngồi trong phòng giấy. Tôi yêu anh như thế hơn. Tôi lại có thể khâm phục anh. Tôi còn tự nhủ rằng có thể có một sự hòa giải giữa Tsurakawa và anh. Mẹ tôi đã chẳng cho tôi một ví dụ đó sao? Về chiều chúng tôi ra ngoài dạo chơi dọc theo con mương. Trời còn rất nóng. Chúng tôi uống rượu hồi. Anh lại nói về thành phố Milan. Ngày thứ ba, Tsurakawa làm dữ. Tôi khó bị tổn thương hơn thời gian đầu. Tôi đi bộ ngoài phố. Hắn không buông tha tôi. Tôi về nhà nghe nhạc Bach bằng tai nghe để khỏi làm phiền Bruno. Tôi vẫn nghe thấy hắn. Cuồi cùng tôi đặt những viên Quies. Tôi thật lố lăng với những cái nút trong tai. Bruno không nhìn thấy chúng vì tóc tôi che đi, nhưng phải giải thích sự điếc lác của tôi. Tôi nhìn thấy bộ mặt của anh cúi xuống bàn, bộ mặt đẹp đầy chăm chú, đầy thông minh và tập trung, bộ mặt sáng tạo ra âm nhạc. Anh cảm nhận cái nhìn của tôi vì anh quay đầu lại và nhìn tôi chằm chằm kinh ngạc. Anh mỉm cười nói điều gì đó mà đương nhiên là tôi không trả lời. Anh đứng dậy và đến ngồi bên tôi, gần sát tôi. Tôi nhìn môi anh mà không tìm hiểu xem anh nói gì. Anh ôm lấy tôi, vuốt tóc tôi, môi tôi. Thế là có một cái gì đó tan rã trong tôi. Tôi nhớ lại cái vuốt ve đầu tiên của anh. Tôi khóc òa lên. Tôi khóc không cẩm lại được nữa. Tôi nấc lên. Và giữa những cái nấc, tôi nhổ ra cái điều bí mật mà tôi đã tưởng có thể quên đi như nhổ những con rắn hổ mang và những con cóc trong chuyện Các bà tiên. Tôi bảo rằng tôi bị một tiếng ồn truy đuổi, rằng tiếng ồn đó là một chiếc máy bay, rằng có một tên Nhật trong máy bay. Tiếng nói của tôi vang lên trong đầu tôi. Tôi xấu hổ ý thức được cái huyễn hoặc và cái nực cười trong những gì tôi kể. Giống như tôi chính thức công nhận rằng tôi điên trong khi tôi chỉ thử nói lên sự thật. Tôi kể tất cả, bệnh viêm tai, quả bóp bằng cao su, những tiếng ro ro, những cuộc tấn công, những viên Quies, cái trần nhà giả, và rằng Tsurakawa đã ra đi trong hai năm, và rằng hắn đã trở lại Châteaulin. Những lời thú nhận của tôi làm tôi thương tổn như những lý lẽ mà tôi dồn lại chống lại tôi. Tôi bảo rằng khi chúng tôi làm tình, bây giờ đó là Tsurakawa chiếm đoạt tôi và giày vò tôi. Bruno chỉ biết rằng cha tôi chết ở Okinawa, rằng mẹ tôi tái giá và sống tại vùng Midi. Khi nói ra, tôi mới ý thức được tính quá đáng của cái mà tôi đang giấu anh. Và giờ đây cái ý nghĩ đã giấu diếm nhiều thế khiến tôi xót xa một nỗi phiền muộn mãnh liệt và khiến tôi càng khóc. Tôi không dám nhìn anh. Tôi những muốn biến mất dưới chân anh, chỉ còn là một vũng nước mắt ở đó. Khi tôi im lặng, anh đi lấy cho tôi một cốc rượu vang và đến lượt anh bắt đầu nói. Anh nói rất lâu, thỉnh thoảng anh cầm tay tôi. Tôi không biết , tôi sẽ không bao giờ biết anh đã nói gì với tôi bởi vì tôi không nghe thấy gì. Rồi tôi dần dần bình tĩnh lại. Một sự mệt mỏi bao la xâm chiếm tôi, làm dịu nỗi phiền muộn của tôi. Khi tôi cảm thấy rằng anh đã nói xong, tôi đứng dậy và đưa cho anh cuốn nhật ký của Tsurukawa. Anh cởi áo quần cho tôi, đặt tôi nằm, rồi tôi thấy anh lao vào đọc. Khi tỉnh giấc, tôi kín đáo bỏ những viên Quies và tôi nhẹ lòng nhận thấy sự yên lặng của căn buồng. Bruno đã đặt cuốn sách trên bàn bên cạnh đồng hồ của anh. Nó nằm đó như một đồ vật thân thuộc tầm thường. Tôi có cảm giác khó chịu và tôi thận trọng để nó trong thư viện. Bruno không một chút ám chỉ những sự kiện đêm trước. Anh vô cùng trìu mến và tử tế. Chúng tôi đi bộ đến tận ga Montparnasse. Trên đường đi, anh mua cho tôi một chiếc áo và bảo tôi rằng tôi xinh đẹp. Ông tôi phải nằm viện hồi tháng Chín. Tại đây trong căn buồng này, ông mệt đến nỗi khó khăn lắm mới mở được mắt, tôi nhận ra rằng tôi không biết gì, tuyệt đối không biết gì về ông ngoài niềm đam mê câu cá thu của ông. Về cái chết, tôi chỉ biết đó là sự mất tích và im lặng. Bây giờ tôi hiểu nó còn có nghĩa là sự sầu muộn và niềm ân hận. Khi đi ra, tôi đến thăm bà. Tôi thấy bà ngồi trong ghế lăn, nghiện ngập, đầu ngả xuống ngực. Bà sắp chết. Tôi đứng đó nhìn bà, không biết nói gì. Tôi chải tóc xổ ra cho bà. Bà không có phản ứng gì. Buổi tối, tôi viết thư cho bố dượng tôi rằng thế là hết và phải nói với mẹ về điều đó. Ông đồng ý với tôi nhưng họ đến quá muộn. Ông tôi đã chết rồi. Cuộc gặp mặt giữa bà mẹ và cô con gái thật ngượng ngùng. Mẹ mang đến cho bà một cái áo ngủ không vừa. Bà thốt ra một tiếng cười rúc rich cay độc trước những đổi thay của con gái, như thể bà đã biết trước. Nhưng thỉnh thoảng, bà nhìn mẹ với vẻ rụt rè. Còn tôi, mọi người hy vọng tôi sẽ đến vào dịp Noel. Mọi người còn nói rằng nếu tôi có bạn trai thì có thể đưa đến. Điều này khiến tôi bối rối. Bruno và tôi, chúng tôi có thành đôi không? Một đôi như ông bà tôi, như mẹ tôi và bố dượng tôi? Chúng tôi có sống như mọi người không? Mọi người có thể nhìn thấy gì ở chúng tôi? Tôi không thích người ta đoán mò về chúng tôi. Song song với kỳ thi tiến sỹ của tôi, tôi ghi tên theo học lớp lịch sử của ông Bertin về chiến tranh Thái Bình Dương. Đó là một giáo sư người nhỏ nhắn khoảng năm mươi tuổi, giọng nói yếu ớt, cái nhìn cận thị, châm chọc và sáng. Ông ta là người mác-xít như hầu hết các đồng nghiệp của ông. Sinh viên chen nhau nghe ông giảng. Ông bắt đầu bằng việc tháo gỡ bộ máy kinh tế khổng lồ của chiến tranh và tôi thấy thương cho Tsurukawa. Ông Bertin nói: “Chủ nghĩa tư bản đưa thế giới đến chỗ tàn phá, chiến tranh Thái Bình Dương là một ví dụ rõ nét nhất”. Tsurukawa mà sự tồn tại đối với tôi thật gần gũi bởi vì nó có tác động trở lại cuộc đời tôi, chỉ là một quân tốt vô danh, vô trách nhiệm, hoàn toàn bị giật dây, trong một cuộc xung đột kinh tế bất lương suy biến thành cuộc tàn sát. Hắn không còn là tên đao phủ của tôi, hắn là một nạn nhân. Có lẽ những lời giải thích hợp lý này làm cho hắn mất uy lực đối với tôi? Tôi không bỏ một buổi học nào và theo học rất say mê. Có phải tôi đang có được cái ý thức chính trị mà Bruno trách tôi không có? Anh sẽ sung sướng biết tôi ở đây. Tuy nhiên, khi Tsurukawa kêu lên vù vù dưới cái trần mênh mông của giảng đường, tôi muốn kêu lên: Hãy nghe hắn! Hãy nghe hắn coi thường các anh! Hắn chế nhạo các chứng minh của các anh. Hắn mạnh hơn các phân tích của các anh rất nhiều. Các anh sẽ không tiêu diệt được hắn, còn hắn sẽ tiêu diệt các anh. Sau những thú nhận của tôi, Bruno đã viết cho tôi một bức thư dài trong đó anh đoan chắc tình yêu của anh đối với tôi và khuyên tôi gặp một thầy thuốc tâm thần. Một lần về nghỉ phép, anh lại hỏi tôi xem tôi đã có hẹn chưa. Tôi chưa có hẹn. Tôi không ốm. Anh không đòi hỏi gì ở tôi. Đôi khi tôi bắt đầu dịu dàng hôn anh và lòng tôi tràn đầy hy vọng. Tôi thực sự cảm nhận môi anh áp vào môi tôi. Tôi tự nhủ chúng tôi là một người đàn ông và một người đàn bà sẵn sàng để yêu nhau trong sự trìu mến và sự hòa hợp của thể xác. Rồi bất chợt, cái đó đến. Da tôi khép lại. Nó hướng về kẻ kia. Nó đợi hắn. Tôi không còn nhìn thấy Bruno nữa. Tôi không nghe thấy hơi thở của anh, không nghe thấy điều anh thì thầm vào tai tôi, nhưng cái tiếng đau nhói nó hút tôi. Bruno bảo rằng tôi là người đẩy anh. Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi thề rằng lần sau tôi sẽ tập trung mọi sức lực không bao giờ rời mắt khỏi Bruno, rằng tôi sẽ khép chặt tay chân tôi như một cái kẹp vào lưng anh. Tôi không bao giờ có được cái ý chí đó. Kỳ lạ thay, Bruno đã không giúp đỡ tôi. Anh chấp nhận tôi xua đuổi anh. Tại sao anh không đấu tranh lấy một lần để gắn chặt tôi với anh? Tại sao anh đã không đòi tôi phải chọn giữa anh và tên tiêm kích? Trong khi tôi chìm vào giấc ngủ, tôi mơ hồ nghe thấy anh dậy và ngồi vào bàn làm việc. Tôi không biết rằng anh có lợi trong việc này. Quân dịch sắp kết thúc. Tôi rất sợ trở về với cuộc sống chung. Tuy nhiên nó đến không va vấp. Bruno một năm rưỡi không được làm việc nay tự giam mình với công việc, và điều làm tôi ngạc nhiên là anh hoãn chuyến đi Milan. Anh thuê một xưởng ghi âm, vì nó mà anh về nhà rất muộn. Thường thường lúc đó tôi đã ngủ. Ngoài các viên Quies, tôi dùng thuốc ngủ. Chúng tôi không còn những va chạm. Chúng tôi chỉ có một đề tài để tranh luận: ông bác sỹ tâm thần. Có người đã giới thiệu với anh một ông bác sỹ được cho là giỏi, làm việc tại bệnh viện La Salpêtrière. Anh nói: “Hãy làm việc đó vì anh, để chứng tỏ rằng em tin anh”. Tôi không thể, cuối cùng anh nói thẳng rằng tôi từ chối chữa bệnh và thôi không nói nữa. Ít lâu sau anh lại tiếp tục bảo rằng anh đã hẹn với một thầy thuốc khoa thần kinh. Tôi trả lời anh: “Em sẽ không đi, bởi vì em yêu anh nên em đã nói với anh về chiếc máy bay tiêm kích, em sẽ không bao giờ nói với ai khác”. Anh đáp lại rằng tôi có thể chỉ việc nêu lên những tiếng ồn và nếu tôi muốn thì anh sẽ đi cùng tôi và nói thay tôi. Tôi đồng ý. Ông thầy thuốc khoa thần kinh giả thiết rằng có tổn thương thùy thái dương và làm cho tôi một điện não đồ nó chứng tỏ điều ngược lại. Các thùy thái dương của tôi nguyên vẹn. Ông ta cho tôi thuốc để uống vào cái buổi sáng, một loại thuốc khác trong trường hợp lên cơn. Sau các cuộc khám nghiệm đó tôi buồn bã khó tả. Với cung cách ông thầy thuốc nhìn tôi, tôi hiểu rằng Bruno đã đến gặp ông ta trước, và bây giờ tôi biết chắc chắn rằng anh không tin có chiếc máy bay tiêm kích và cho là tôi điên. Trên đường về, anh kể với tôi rằng Chostakovich bị một mảnh đại bác vào đầy trong chiến tranh và từ đó mỗi khi nghiêng đầu như thế nào đó, ông lại nghe thấy một giai điệu. Điều này khiến tôi phải cười. Chúng tôi dừng lại một cửa hàng thuốc. Anh mua thuốc và mỗi sáng tôi tìm thấy trên bàn làm việc viên thuốc bé nhỏ màu hồng mà tôi phải nuốt. Tôi phải nói rằng nó có một hiệu quả nào đó như thể nó bao bọc lấy chiếc máy bay tiêm kích bằng mụn xơ. Ngoài những sự quan tâm vê thuốc men, Bruno bị cuốn hút vào công việc đến nỗi anh không chú ý đến tôi. Còn tôi, tôi cũng không thể quan tâm đến kỳ thi tiến sỹ của tôi. Tôi đã quen với Tsurukawa. Tôi buồn phiền. Một hôm, để lấy lại cái hạnh phúc của những cuộc gặp gỡ đầu tiên, tôi muốn tổ chức một bữa cơm tối với các bạn cũ. Khi Bruno về, họ đã có ở đó. Anh có vẻ như rơi từ cung trăng xuống. Sau vài giây phật ý, anh cố gắng lấy lại bộ mặt tươi tỉnh. Tôi đã mua rất nhiều vang trắng. Được hai hay ba cốc, anh hưng phấn lên. Mắt anh sáng lên rồi anh khoe rằng anh sắp hoàn thành một tác phẩm đối với anh là rất quan trọng, mà anh đã bỏ nhiều công sức và anh cho rằng bây giờ nó hoàn toàn thành công. Chưa bao giờ anh nói với tôi về nó. Khi tôi hỏi anh, anh luôn trả lời: “Anh đang làm, anh đang làm”. Bằng một giọng như là nôn nóng, khiến cho tôi nghĩ rằng rôi đã phạm lỗi tò mò. Dù chẳng biết tý gì, tôi cũng hiểu những trằn trọc của công việc sáng tạo và tôi tôi trọng chúng. Nhưng tôi không thể không cảm thấy đau nhói trong tim: nếu tôi không mời các bạn cũ thì liệu anh có chia sẻ với tôi niềm vui mà anh biểu lộ với họ không? Tóc của anh bây giờ mọc lại như cũ. Anh rất đẹp trai. Trong khói thuốc lá, trong hơi rượu chắc chắn là không được chỉ định vì viên thuốc màu hồng của tôi, tôi nhìn thấy anh giang tay giang chân. Tôi cảm thấy anh thật to lớn. Tôi những muốn anh nhìn về phía tôi, nhưng mắt anh bao quát cử tọa mà chẳng nhìn thấy ai. Khi người khách mời cuối cùng đã về, tôi không thể đứng lên khỏi chiếc ghế bành của tôi. Bruno mang tôi đến giường và ôm lấy tôi. Có thể là do viên thuốc, chiếc máy bay im lặng. Tôi không có khoái cảm. Nhưng tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc bao la, cái hạnh phúc được thân thể của người đàn ông làm cho chóng ngợp, anh cuối cùng đã được hưởng thụ, anh là người mà tâm hồn tôi không cảm thấy nặng nề. Rồi mùa hè lại đến. Bruno đã đóng cửa sổ mặc dù trời nóng, rồi anh đặt tôi ngồi lên ghế dài. Anh mang ra một băng từ lấy trong cặp của anh, rồi chậm chạp đặt vào máy Revox với một sự vụng về nó cho thấy nỗi xúc động của anh. Anh bấm nút, rồi vùi đầu vào hai tay. Tôi nghe thấy một tiếng vo vo khó nhận biết mà lúc đầu tôi cho là tiếng của chính cái máy Revox. Rồi tôi sững sờ. Hắn đấy. Chiếc máy bay tiêm kích đấy. Hắn đang ở cuối trời. Hắn đang đến gần. Tôi không muốn. Tôi lao đến để tắt máy. Bruno nắm lấy cổ tay tôi. Anh giữ tôi bất động. Cái cánh quạt băm nát không gian. Tôi nghe thấy hết. Anh ta không bỏ qua tý gì. Sự tăng ga nhanh chóng của động cơ, buồng lái nổ tung, những cột nước đập vào boong con tầu. Và anh đã thêm một cái gì đó do anh nghĩ ra: giữa tiếng va chạm của những tấm tôn cất lên một giọng đàn bà. Nó thét lên một âm thanh chói tai làm sởn tóc gáy. Rồi nó nấc lên nhảy vọt lên, lướt qua các bát độ, lắng xuống, rên rỉ và cuối cùng khi nó im lặng, một tiếng vỗ bập bềnh chầm chậm và yên bình nổi lên. Tôi bị tê liệt. Tôi chỉ hơi nghe thấy anh nói: Bản rondo cho giọng nữ và máy bay. Để tặng em đó”. Tôi nhìn anh, không hiểu. Tôi ghét anh. Tôi nghẹt thở. “Vứt cái đó đi, vứt đi ngay! - Không. Những ngón tay anh làm bầm tím cánh tay tôi - Không có gì cả, Laura, không có gì ngoài đoạn băng nhỏ bé này. Tường không đổ, người em không nổ tung ra thành muôn nghìn mảnh đây. Dậy đi em, Laura, dậy đi”. Rồi anh nhắc lại mệnh lệnh của anh và lay người tôi như rũ một cái giẻ rách. Không vừa lòng đã xúc phạm tôi, anh còn muốn hôn tôi. Tôi vùng ra một cách mạnh mẽ rồi tôi tát anh thẳng cánh. Điều này làm tôi đau. Trong giây lát chúng tôi sững sờ. Rồi anh cười ngượng nghịu, cẩn thận cất cái băng từ của anh và đi ra không nói một lời. Đêm hôm đó anh về khuya, và do tôi đang nằm trên giường, mắt mở, quá ngao ngán để tìm thấy giấc ngủ, anh nói: “Chúng ta hãy uống sâm banh đi, nhóm nghiêm cứu âm nhạc cho rằng bản Rondo rất tuyệt, họ đã nhận anh vào nhóm”. Nono cũng được báo tin. Anh gửi lời mừng. Buổi biển diễn trước công chúng lần đầu diễn ra tại phòng thu tiếng của O.R.T.F. Tôi từ chối đến đó. Tôi bị đánh cắp, bị lột trần, bị ném làm mồi cho tai người đời. Bạn bè cũ của chúng tôi gọi điện để chúc mừng. Thật là một cái cớ hay để mừng! Chắc rằng Bruno đã đợi tôi kêu lên để mau chóng ghi âm lại tần số của giọng tôi. Có lẽ anh đã đặt máy ghi âm dưới gầm giường? Anh đã từng nói với tôi nhiều đến thế về tính vật chất của âm thanh kia mà. Nono tổ chức một buổi hòa nhạc đặc biệt ở Milan. Bruno bảo rằng tôi không bắt buộc phải tham dự, rằng tôi muốn làm gì thì làm. Tôi tính trước rằng tôi không được mong đợi để làm phiền anh, tôi đáp lại rằng tôi sẽ đi dự. Trong con tầu, chúng tôi có ba người, cô ca sỹ, Bruno và tôi. Cô ta khép hai đùi vào nhau trong chiếc váy. Mặt trời đập vào mắt cô, làm lóe sáng nước da trắng như sữa của cô. Cô không nói gì, chắc là để giữ giọng. Bruno không yên, anh đi bách bộ trong hành lang rồi trở lại ngồi. Thế là cô hé đôi môi bằng đá và buông ra “Hãy bình tĩnh nào, Bruno, mọi việc rồi sẽ ổn thôi” bằng một giọng mê ly đến nỗi có thể tưởng đó là một tiếng hát. Cô là người nước ngoài, người Balan, hoặc có lẽ người Nga. Họ giam mình để tập suốt ngày hôm sau. Tôi đến vào lúc cuối cùng khi mà màn đêm đã tràn vào phòng. Trên cái sàn không người, một chiếc đèn chiếu rọi vào cô… Mái tóc cô lấp lánh. Bruno, ngồi bên trái cô đang ấn nút một cái máy ghi âm. Tôi đã đặt những viên Quies vào tai nhưng tôi không mù. Tôi thấy rõ bộ mặt co dúm của Bruno dãn ra, tập trung, hơi nghiêng về một bên như để theo dõi tốt hơn sự vận hành của băng từ trong những cái hàm bằng thép. Tôi thấy rất rõ anh hướng mặt về phía cô ta, cô ta thì không động đậy một sợi lông mi từ lúc đầu, mắt nhắm nghiền, rồi đến lúc đó như đáp lại một tín hiệu, cô mở mắt và quay về phía anh. Tôi thấy rõ cái nhìn của họ gặp nhau, phủ lên nhau, hòa hợp làm một trong khoảng nửa giây đồng hồ. Trong khi anh nhìn cô ta, cô ta xoay mình về phía công chúng. Bộ ngực của cô nâng lên. Chiếc váy lụa của cô lượn sóng. Cô hé miệng. Bộ mặt cô biến đổi. Tôi nhắm mắt để khỏi nhìn thấy cái cảnh tượng bị ổi mà cô sắp cống hiến cho khán giả một cách trơ tráo. Khi tôi mở mắt ra, cử tọa đứng dậy vỗ tay. cả hai người mỉm cười, cô ta bằng đầu môi, bình thường như thể cô vừa trình diễn một bài hát nhỏ. Chợt tôi để ý đến đôi tay của họ. Họ chào công chúng, tay trong tay, mồ hôi chan hòa. Trong tiệc rượu sau đó, Bruno tỏa sáng. Nhiều người lớn tuổi hơn anh bình phẩm về kỹ thuật sử dụng nhịp điệu tác động qua lại của anh, về ngón rung mạnh mẽ của anh! Anh trả lời huyên thuyên. Anh giới thiệu cô ca sỹ với Nono và khoe khoang tài năng của cô. Anh đã đặt tay anh lên vai cô. Mắt tôi lại nhìn theo đôi bàn tay đó. Chợt tôi cảm thấy luyến tiếc não nùng hơi ấm của nó. Tôi có cảm tưởng nếu bàn tay đó chạm vào tôi, bây giờ, ngay lúc này, thay vì đặt lên người cô ca sĩ, tôi sẽ cảm nhận nó ở nơi sâu thẳm nhất của con người tôi và rồi chúng tôi lại yêu nhau như hồi mùa hè đầu tiên. Nhưng bàn tay đó vẫn không động đậy. Tôi nhớ lại những đêm mà Bruno về rõ khuya. Tôi hình dung anh cùng người phụ nữ đó làm việc trong ánh sáng của phòng thu âm hoang vắng. Cái cốc của tôi run rẩy. Rượu sâm banh chảy xuống áo tôi. Cuộc đời tôi chao đảo. Tôi quyết định ra về. Cô ca sĩ không về cùng chúng tôi. Cô có buổi biểu diễn ở rạp Scala. Chỉ có hai chúng tôi trong toa tầu. Bruno nhắm mắt lại và tận hưởng niềm hạnh phúc của anh. Ngồi trước mặt anh, tôi cảm thấy cái khoảng cách chia xa chúng tôi cũng chắc chắn như con tầu đang xa thành phố Milan. Tại sao anh lại đề nghị tôi đến? Để tôi chứng kiến thắng lợi của anh chăng? Nếu anh không mở mắt ra đến ga sau tôi sẽ xuống, và tôi sẽ biến khỏi cuộc đời anh. Con tầu đi sâu vào dãy núi Alpes. Khi nó ra khỏi đường hầm, tôi lại thấy anh nhìn tôi chằm chằm. Anh cúi người về phía trước, đặt tay lên đầu gối tôi và phá vỡ im lặng nó đè nặng lên chúng tôi từ lúc ra đi. “Bản Rondo, đó là cái cách của anh để nói với em rằng anh yêu em. Anh không phải đỉa, anh không hút máu em. Anh không có quyền can thiệp vào ý nghĩ và cảm nhận của em. Anh xin em tha lỗi cho anh nếu tham vọng của anh xúc phạm em. Anh biết rằng có một cái gì đó ngoài cái băng từ của anh. Cái gì... anh không thể nói ra, nhưng có cái gì đó và chỉ có em biết. Bản Rondo là sáng tác hay nhất của anh. Bởi vì anh đã có một sự kích thích cực kỳ mạnh mẽ, cực kỳ thực: tiếp cận cái con người xa lạ trong em. Cái sự kích thích đó mang kiến thức của anh, kinh nghiệm của anh, nó cho phép anh có những cái táo bạo mà em không thể ngờ. Bây giờ em hãy nghe anh nói. Anh đã chỉnh lại cùng với Nono các thể thức của kỳ lưu trú tại Milan này. Anh mong em cùng đi với anh. Em nghĩ sao?”. Khi anh nói, tôi đã thấy cái nét đau khổ của đôi môi anh trở lại cùng với những từ chen chúc nhau. Tôi buộc phải trả lời, khó chịu bởi vì anh tự cho mình giữ vai trò quan trọng. Cuộc sống chung của chúng tôi không còn gì để kéo dài thêm. Anh không thấy điều đó chăng? Anh còn muốn tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc chia ly chăng? Tôi trả lời vòng vo: “Anh với cô ca sỹ lừa tôi. - Anh làm việc cùng cô ấy” anh đáp nhanh đến nỗi tôi tin chắc rằng anh đã chờ đợi lời nhận xét của tôi từ trước và tôi đã đánh trúng. “Tôi chắc chắn rằng anh đã lừa dối tôi, thấy rõ mà”. Anh rút tay khỏi đầu gối tôi. Thật là ti tiện khi ném cái cô Balan tội nghiệp này giữa chúng tôi, tôi biết thế, nhưng tôi cứ bám vào như một cái bè trong cơn đắm. “Trả lời đi. Em có đi cùng anh không? - Anh muốn cả hai, phải không? - Laura!...” Đôi môi mím chặt, anh gần như xấu xí. “Tôi không muốn có cái tình thế này, tôi sẽ không đi đâu. - Vậy thì thôi, không nói nữa”. Anh nhắm mắt và im lặng. Chúa ơi, hãy làm cho anh ấy nói, hãy làm cho anh ấy nói để cho con có thể thay đổi ý kiến của con. Nhưng anh im lặng. Anh im lặng cho đến ga Lyon, cho đến ga Jemmapes, cho đến khi anh ra đi. Tôi nhìn anh vào rồi ra khỏi căn hộ mà không có một cử chỉ nào hướng về tôi. Có một sức mạnh nâng đỡ anh, nhưng lại kéo tôi xuống đáy. Anh học tiếng Italia, thu xếp một loạt các buổi dạy của anh, mua sách về ngôn ngữ và về âm vị học. Còn tôi, tôi không làm gì. Tôi không bụng dạ nào theo cái bằng tiến sỹ của tôi. Tôi nằm dài trên giường hàng giờ như thể lúc nào cũng là đêm, và mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy rất mệt mỏi. Cả Tsurukawa hình như cũng mệt. Hắn vo vo nhẹ nhàng chung quanh tôi, bao bọc tôi, cô lập tôi. Tôi tự ru mình trong tiếng ồn của hắn. Rồi trời sáng. Bruno mở tủ, đặt một chiếc vali mới giữa căn buồng và bắt đầu nhét đầy vào. Tôi nhận ra từng cái quần, từng cái áo. Tôi biết cái nào thiếu cúc và ở đâu có những vệt tròn không thể tấy sạch. Tôi nhìn thấy những áo quần của anh chất đống bừa bãi. Lẽ ra anh có thể để lại cho tôi! Nhưng anh thích tống cho tôi cái máy Revox. Tôi giả thiết rằng anh có cái tốt hơn ở Milan. Anh nhét đầy sách và bản nhạc vào một cái túi, tôi nghe thấy anh đi một vòng quanh căn hộ, rồi gọi xe taxi. Anh có quay trở lại căn buồng không? Tôi chắc chắn là không. Thế thì tôi phải đứng dậy. Tôi trở vào phòng khách và cố tình va vào một cái ghế. Anh nhìn phố qua cửa sổ. Anh không quay người lại, không động đậy. Rồi khi xe taxi đến, anh cầm lấy hành lý và đi ra không nhìn tôi. Đến lượt tôi, tôi đi ra cửa sổ. Chiếc xe chờ theo hàng đôi. Tôi thấy Bruno đi ra. Có lẽ anh sẽ ngẩng đầu lên. Lẽ ra tôi phải nghiêng người qua của sổ để anh trông thấy tôi nhìn anh. Người lái xe mở thùng xe. Chiếc vali biến mất, Bruno biến mất. Xe taxi biến mất. Tôi đứng ngắm ánh phản chiếu của những cây đèn xuống con kênh, không động đậy, rất lâu không động đậy. Tôi không có lý do gì để bước một bước về bên phải hoặc bên trái. Tôi đã chết. Tôi máy móc đưa tay lên tai để bỏ những viên Quies ra, nhưng nào đâu có. Tsurukawa cũng đã bỏ tôi. Tôi nằm sấp trên giường, ở phía của Bruno. Tôi ấn mặt vào chiếc gối của anh. Tôi những muốn tự bóp nghẹt mình. Tôi nằm mơ: cô ca sỹ, Bruno và Nono ngồi tại bàn, trong một toa - hàng cơm trước một đĩa măng tây. Cô ca sỹ mặc một chiếc áo kiểu Hy Lạp trong suốt, dưới làn áo là hai bầu vú trần, Bruno mặc chiếc áo ximoking và một chiếc sơ mi cổ bẻ, còn Nono thì cải trnag thành giám mục (ở Milan, tôi để ý thấy hắn mang tất màu tím). Bruno ôm hôn cô ca sỹ một cách dung tục trong khi Nono bam phúc cho họ bằng một cái măng tây. Tôi còn mơ nhiều giấc mơ khác, cũng lố lăng như thế, cũng tồi tệ như thế. Thường thường là Tsurukawa. Hắn đã bỏ chiếc máy bay của hắn. Hắn đi dạo với một khẩu súng và bắn vào những cái đầu nổ tung giữa các tia máu. Tôi vừa ra khỏi căn hộ. Tôi đi đến Prisunic, tôi quay lại. Tôi không còn chắc là đã biết đếm. Tôi chỉ còn đủ sáng suốt để trở lại thăm ông bác sỹ thần kinh khi tôi hết thuốc. Rồi rất khó khăn cho tôi để có được thuốc nếu không khám nghiệm lại từ đầu. Khi tôi không ngủ, tôi suy nghĩ rất lâu về cô ca sỹ. Cô ta xinh đẹp, cô ta biết yêu. Tôi tưởng tượng ra hai người trong căn hộ xinh xắn ở Milan, cô là chúa tể với những của chỉ chừng mực, san bằng các trở ngại chung quanh Bruno. Tại sao anh không bao giờ đưa cô ấy đến Jemmapes? Lẽ ra tôi cũng yêu cô ta. Chúng tôi sẽ có thể chung sống ba người với nhau. Bruno sẽ viết nhạc cho cô ta. Họ sẽ sống trong sự sôi động, trong ánh sáng của đèn chiếu. Họ sẽ nói chuyện âm nhạc cho đến tảng sáng, họ sẽ ôm nhau ngủ trong buồng trong khi tôi thức canh họ trên cái ghế dài của phòng khách. Phải, lẽ ra đã có một cuộc sống dễ chịu. Mẹ điện cho tôi để chúc mừng ngày Noel. Bên ngoài có cây thông, gan béo và những kẻ không nhà. Ở nhà tôi thì có đồ hộp, đệm bẩn vì tôi ăn cơm trên giường. Bà tôi phàn nàn rằng tôi không đến thăm bà. Bruno viết thư cho tôi. Tôi để ra cả một ngày để bóc thư. Anh bảo rằng anh đã không muốn viết cho tôi, nhưng điều đó đối với anh lại không thể được. Anh hy vọng rằng việc theo đuổi học vị tiến sỹ của tôi tiến bộ, còn anh, anh làm việc rất nhiều. Anh yêu cầu tôi trả lời. Tôi lại ngủ. Tôi ngủ nhiều đến nỗi tôi không thấy đói. Tôi ít phải đi mua hàng thường xuyên, ít phải lê bước đến Prisunic và cứ mười mét lại dừng chân để đặt cái giỏ của tôi xuống. Tôi nhận ra rằng tôi không được khỏe, tuy nhiên tôi không mất khái niệm về thời gian. Tôi biết rằng sắp hết tháng Giêng và Bruno sắp trở về. Anh không báo trước. Tôi nghe chuông reo rồi thìa khóa quay trong ổ. Tôi nhận thấy ngay rằng anh không có hành lý. Anh mở toang cửa sổ, ánh sáng tràn vào. Nhìn thấy tôi, anh kêu lên một tiếng, và hỏi xem tôi có ốm không. Tôi mỉm cười với anh và nói rằng không. Anh không dám trả lời rằng tôi có một bộ mặt của xác chết. Tôi có thể đọc được trên mặt anh nỗi tuyệt vọng khi gặp lại tôi. Thế là bình thường. Cô ca sỹ lồng lẫy trong khi tôi đè nặng lên anh. Tôi hiểu những ý nghĩ của anh: không thể được, ta không thể, ta không thể sống ở đây với cô ấy. Anh bước hai, ba bước trong căn hộ, đứng lại trước cái máy Revox rồi anh nhìn xuống. “Anh đã thuê một căn hộ trong khu Marais”. Anh ngồi xuống giường. Ngay lúc đó tôi cảm thấy nhẹ nhõm như thể cả hai đứa chúng tôi cuối cùng đã chấp nhận thất bại. Giọng nói của tôi không run. Nó có cái êm ái mà tôi chưa từng được biết khi tôi trả lời anh rằng anh có lý. Tôi hỏi anh xem cô ca sỹ có ở cùng anh không. Anh gật đầu ra hiệu rằng có, tôi hiểu rằng tôi đã đợi anh ba tháng để nghe anh nói điều này. Không phải chỉ vì anh ở cùng cô ấy, mà vì anh rời bỏ tôi. Tôi không ngừng sống bởi vì cả Bruno, cả tôi đều không có khả năng đương đầu với sự chia ly. Và bây giờ anh là người trả lại tôi cho bản thân tôi, cho phép tôi tự tìm lại mình. Bằng một giọng đã vững tin hơn, tôi yêu cầu anh khép cửa sổ lại vì tôi lạnh. Anh bảo tôi phải đi khám thầy thuốc, tôi bảo phải, tôi sẽ đi. Anh bảo rằng sẽ trở lại để lấy cái máy Revox và rằng nếu có thể giúp tôi thì anh sẽ làm. Tôi mỉm cười với anh, tôi đứng dậy để tiễn anh. Khi tôi đã đóng cửa, tôi đi tắm, mặc quần áo sạch sẽ, thay đệm trải giường và xuống ăn một bát súp gà ở một hiệu ăn. Tôi tự do. Không còn gì ngăn cản tôi thực hiện cái số phận của tôi. Việc làm đầu tiên của tôi sau khi khỏi bệnh là trở lại lớp học của ông Bertin. Như thể cố tình, ông trình bày về truyền thống tự sát ở Nhật Bản để đặt trong một hoàn cảnh lịch sử mà ông ta gọi bằng một từ mang tính tôn giáo một cách kỳ cục qua miệng ông, đó là “sự hy sinh” của kamikazes. Ông nói rộng về ý nghĩa của từ: Phong ba thần thánh. Tôi biết lịch sử: ở thế ký XIII của một cơn bão may mắn đã giúp đẩy lùi một cuộc tiến công của quân Mông Cổ. Nhưng từ đó, các vị thần nhường uy quyền của họ cho vị thần kinh tế tối hùng mạnh… Vì thế không đáng ngạc nhiên sao khi các kamikazes đã tan xác như những con ruồi trên hạm đội của Mac Arthur với hai trăm tầu chiến và một nghìn bảy trăm máy bay không vận. Chúng không phải là công cụ của một sự trả thù nào, một công lý nào. Khi chết chúng để lại một bầu trời trống vắng như trước khi chúng xâm nhập vào đó. Cái mi-crô kêu như rán mỡ. Ông Bertin vỗ vỗ, vặn vặn một cái nút mà không cải thiện được tình hình. Ông lại tiếp tục: “Cái tiếng tăm của sự hi sinh của họ vang dội rất lâu trong tâm trí loài người. Lính cận vệ của Napoleon, lính thủy Mỹ, tất cả binh sĩ trên thế giới có hai mục đích: phục vụ chính nghĩa của họ và cứu lấy mạng sống của họ. Còn họ, họ bay tới một cái chết chắc chắn khi lễ ký kết đầu hàng của quân đội thực hiện, phó đô đốc Ugaki cất cánh từ căn cứ Kyushu cùng hai chục phi công và họ biến mất trong đêm tối chứ không chịu đầu hàng”. Nói đến đây, ông Berlin phải dừng bài giảng. Tiếng lèo xèo của mi-cro át hẳn tiếng ông. Tôi không nghi ngờ gì về nguyên nhân của nó. Trong khi chờ thợ đến chữa, tôi quay sang người bên cạnh: “Anh có thấy các kamikazes là đáng khâm phục không? - Tôi thấy cái đó kinh khủng. - Tôi thì tôi thích họ, tôi sẽ làm như Ugaki”. Trước cái nhìn ngơ ngác của anh ta, tôi cảm thấy tôi xa lạ với cái thế giới bao quanh tôi biết bao. May mà tôi có một người anh, một người anh đặc biệt đang chờ đợi tôi và có tên là Tsurukawa. Cuộc đời của tôi phải trôi về phía anh như dòng suối chảy vào sông. Về đến nhà, tôi vứt những vỉ thuốc màu hồng và những hộp viên Quies. Tôi không cần phải tự bảo vệ nữa. Tôi thử ngủ với bọn con trai để chúng xô đẩy tôi về phía Tsurukawa. Than ôi, chúng thấu hiểu biết. Tôi rơi vào một nỗi bực tinh thần, tôi muốn đánh chúng một trận. Nửa đêm tôi bỏ rơi chúng. Tôi đi bộ về nhà, ngay cả khi phải đi xuyên qua Paris. Thế rồi bộ mặt đầy nước mắt của mẹ tôi trên đại lộ Malesherbes làm tôi đau xót. Mẹ ơi, cả mẹ nữa, hắn yêu mẹ. Tôi thôi ngay các cuộc thí nghiệm với nam giới. Chúng chẳng có lợi ích gì. Tại sao tôi lại theo đuổi cái bằng tiến sỹ? Tsurukawa có cần đến một tiến sỹ toán học không? Tôi thích dành thời gian để học tiếng Nhật hơn. Tôi mua một cuốn sách dạy theo phương pháp Assimil, bút lông, mực tầu và giấy lụa. Tôi hăng hái luyện tập. Tôi để nhiều ngày để xem kẽ những buổi tập viết với những buổi ê a tập đọc. Tôi lấy cái tên Tsurukawa ra để tập và tôi chưng lên tường những mẫu chữ thành công nhất. Tôi xin Bộ giáo dục quốc gia một chân dậy học. Tôi chẳng thích chút nào nhưng tôi muốn tự giải thoát khỏi cái cảm giác mắc nợ đối với một ông bố dượng càng ngày càng hay tự cho phép mình quan tâm đến tôi. Ông ta không hiểu rằng tôi không đến để thăm họ. Mẹ cũng thế, có lẽ là vậy. Để động viên tôi đi lại, ông ta tặng tôi một chiếc xe và giấy phép lái xe. Tôi nhận mà cho rằng đấy là quà tặng cuối cùng. Tôi học rất nhanh. Tôi có năng khiếu. Tôi thích cầm tay lái. Tôi chọn chiếc Renault 4 màu trắng. Tôi thường cho xe chạy bất cứ đâu, chỉ để được cái thú ấn bàn chân lên cái tăng tốc độ và cho xe nuốt những quãng đường dài. Cái đó sớm trở thành niềm say mê. Để ra khỏi Paris tôi theo những xa lộ. Ngay khi tôi đến nơi đồng quê, tôi đi theo ngẫu hứng. Tôi ít dừng xe lại. Tôi cho xe lăn bánh, lăn bánh. Tsurukawa cũng thích như thế. Bây giờ khi mà tôi cho hắn tất cả, hắn sà xuống tôi. Buồng lái của chúng tôi hòa nhập làm một. Chúng tôi kêu lên vù vù cũng nhau, tiến lên cùng nhau. Trong một năm, chúng tôi biết một vòng đai rộng lớn của Paris cho đến tận Rouen, Amiens, đến tận Chartres Orléán, Montargis, Troyes. Sức mạnh của chúng tôi làm tôi ngây ngất, và cùng với nó là sự chạm, là nổ tung, là đổ vỡ luôn luôn có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Chúng tôi đang trên đường đi về phía sức mạnh. Nó lấp lánh trước mặt chúng tôi như một sự mê hoặc và nó xa dần chúng tôi khi chúng tôi lại gần. Đôi khi tôi vặn nhạc. Thế là chúng tôi đạt đến một độ cao hơn về cảm giác, một sự siêu phàm. Chiếc xe hát lên với người độc tấu bài La Patrion selo saint Jean, tuôn ra như suối chảy với các nốt nhạc lặp đi lặp lại của bản Opus 100. Cứ như thế chúng tôi quên cái chết ở cuối con đường, Tsurukawa và tôi, để trở thành những thiên thần, như thể chúng tôi đã qua giai đoạn bom đạn, khủng khiếp và chúng tôi gặp nhau trong một niềm đại hạnh phúc quay cuồng. Đêm đó tôi về khuya. Khi đến nơi, tôi đi vòng để mang xe đi rửa. Tôi cũng đi tắm và nhanh chóng ngủ thiếp đi, người thoải mái dễ chịu. Tháng Giêng năm 1968, Bộ giáo dục tìm được cho tôi một chỗ dậy thay ở Levallois - Perret. Tôi không có một ý niệm gì về dạy học và khi tôi đứng trước khoảng ba chục cái đầu bé nhỏ đần độn và giả dối, nỗi hoảng sợ xâm chiếm lấy tôi. Ngay lập tức tôi ghét chúng. Tất cả thời thơ ấy của tôi xông ngay lên đầu tôi, ông tôi, bà tôi, sự câm lặng của mẹ tôi và sự ghê tởm cái phố Bienfaisance. Chiếc máy bay tiêm kích vo ve giống như hồi đầu câu chuyện cùng với cái gánh nặng lo âu không được giải thích. Hắn không muốn tôi dậy học, không muốn tôi bỏ ra một thời gian lẽ ra phải dành cho hắn. Tôi yêu cầu mở cửa sổ. Hồi đó tôi mười hai tuổi và tôi phải đương đầu với họ. Tôi bỏ ra cả giờ để làm bài tập tính nhẩm. Khi chuông reo, trong trạng thái u mê sau đó, tôi nhận ra rằng tôi đã giữ vai trò của ông tôi. Tôi cho xe chạy trong một tâm trạng thế nào mà tôi suýt nữa bị tai nạn. Lốp xe rít lên trong một khúc quanh. Tôi trông thấy một cái bảng chỉ đường to ra lù lù. Mũi xe của tôi dừng lại ngay trước cái bảng. Không, tôi không quay trở lại thời thơ ấu. Tôi không muốn những bộ mặt mới, những cái nhìn ngây dại, những vẻ mặt nhăn nhó của khỉ con. Tôi không muốn dậy chúng học toán. Tôi cóc cần đến toán. Nếu người ta để lại cho tôi những đứa trẻ này, nếu người ta không mang chúng đi thì tôi sẽ nói chuyện với chúng về Tsurukawa. Tôi sẽ bịa ta thời trẻ của hắn cho chúng nghe, trong một ngôi nhà bằng giấy không xa Kobê. Một hôm tôi kể cho chúng hắn đã học lái máy bay ra sao, hắn đã ghi tên vào danh sách những người tình nguyện chết ra sao, hắn đã làm một bài thơ ngắn, cái buổi tốt cuối cùng, sau khi cắt một lọn tóc cho vào một chiếc phong bì để gửi cho người yêu và cho mẹ hắn ra sao, hắn đã đọc lời cầu nguyện cho hoàng đế, thần thánh của hắn ra sao, đã uống rượu sa-kê với người chỉ huy của hắn ra sao, hắn bay lên cao trong bóng đêm một mình trong chiếc máy bay tiêm kích Zéro của hắn mà hắn yêu quý, chiếc máy bay thân thương mang hắn đến chỗ chết ra sao, hắn nhìn thấy mặt trời mọc trên đại dương căng ra như một tấm tôn ra sao, hắn phát hiện năm chấm nhỏ của hạm đội Mỹ có vẻ như đang ngủ không xa bờ biển Okinawa ra sao, hắn quyết định bổ nhào từ trên trời cao ra sao mặc dù bị chói mặt trời, rồi súng phòng không làm cho hắn hoảng sợ ra sao, hắn là người chưa từng qua trận mạc, hắn chợt nghĩ đến đứa con gái và cái lâu đài bằng cát mà hai anh em cùng làm trên bãi biển Kobê, hắn lao xuống boong chiến hạm Maryland mà mắt vẫn mở, và rồi trở thành người anh hùng, một con người bất tử bởi vì hắn đã không nhắm mắt khi nhìn thấy cái chết. Tôi kể với chúng rằng, mỗi buổi sáng, hắn từ đế quốc Mặt trời mọc ra đi và một ngày kia hắn sẽ đến tìm chúng, và một ngày kia chúng sẽ nghe thấy hắn. Đó không phải là một câu chuyện như những câu chuyện mà bà các bạn kể cho các bạn, đó là sự thật đích thực. Và khi các bạn đã nghe hắn, điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được dấu vết của bạn trên bản đồ những người sống và các bạn sẽ chết sớm. Đó là điều tôi sẽ nói nếu người ta để lại chúng cho tôi thêm một ngày nữa. Rồi tất cả sẽ tin tôi. Rồi tất cả sẽ ốm. Rồi cha mẹ chúng sẽ đến phàn nàn. Người ta sẽ không hiểu tại sao tất cả lớp của tôi lại ốm. Một ngày kia một đứng bé nói ra sự thật, rồi cha mẹ chúng phát hoảng lên và sẽ đuổi tôi, nhưng sẽ quá muộn. Bọn trẻ đã nghe Tsurukawa. Cái bảng cho biết Château - Thierry cách mười cây số. Tôi đến đấy ngủ. Tôi dạy thay đến cùng. Như thể vừa mới đến đã bị đè bẹp bởi tính chất nặng nề của thể chế, tôi đành ám chỉ chiếc máy bay tiêm kích trong đề các bài toán đố mà tôi đọc cho chúng viết. Bọn học trò tính tốc độ trung bình của nó từ lúc cất cánh cho đến quần đảo Okinawa. Chúng ước lượng góc cho phép bổ nhào về phía cái chết: cho một chiếc máy bay Zéro ở điểm x bay với tốc độ bốn trăm cây số giờ và một tàu chở máy bay ở điểm y di chuyển với tốc độ ba mươi bảy hải lý/ giờ, biết rằng chiếc máy bay Zéro bay ở độ cao ba nghìn mét trên mực nước biển, hãy tính góc bổ nhào cần thiết cho máy bay để đâm trúng tầu. Hai đứa tìm được đáp số. Chúng cam đoan với tôi rằng cha chúng không giúp đỡ chúng, vì vậy tôi suy ra rằng phải là Tsurukawa. Có lẽ tôi đã không để mất thời gian của tôi. Còn lại tôi theo đúng chương trình. Ông thanh tra giáo dục cho tôi điểm xấu. Ông ta nhận xét rằng tôi không có chút ý thức sư phạm nào. Và kinh nghiệm giảng dậy của tôi chấm dứt ở đây. Các sự kiện năm 68 nổ ra vài ngày sau đó. Các buổi dậy bị đình chỉ. Ông Berlin tổ chức những cuộc mít tinh trong giảng đường và đi đầu đám sinh viên trong những cuộc biểu tình. Ông không lôi kéo được tôi. Với tư cách khán giả tôi ngắm nhìn những chiếc ô tô bị đốt cháy, những cửa hàng bị đập phá. Chính cái sự phá hoại lôi cuốn tôi, chứ không phải các lý tưởng mà vì chúng các viên đá lát hè bay tứ tung. Trái lại việc hạn chế xăng làm cho tôi rất phiền lòng. Người ta bảo rằng đất nước sắp bị tê liệt, và việc săn lùng bình xăng trở thành công việc chính của tôi. Tôi rời Paris mà không chắc có thể trở lại. Không quên Nhật cũng thiếu xăng. Người ta nghiêm khắc hạn chế Tsurukawa các giờ học lái. Ngay cả môn lịch sử cũng đồng lõa với chúng ta. Trong tháng Năm, bà tôi ra đi lặng lẽ trong giấc ngủ của bà. Lễ tang tổ chức ở nhà thờ xứ phố Bienfaisance. Khi tôi nghe tiếng đàn oóc sau lưng tôi, tôi đợi mẹ mở sách kinh cho tôi đúng trang và đưa cho tôi. Nhưng mẹ tôi đứng cạnh tôi lại không có sách kinh. Chồng bà nhìn tay bà. Tôi nhớ lại tất cả những lời cầu nguyện tôi đã đọc cho bà và cuối cùng đã được chấp thuận. Mẹ thơm mùi hoa kim ngân, mẹ không tỏ ra xúc động. Tuy nhiên, ở nghĩa địa, khi người ta mở hầm mộ để đặt quan tài của bà lên trên cái của ông thì mẹ ngất đi. Tôi chỉ nhận thức lơ mơ việc đó vì trước ngôi mộ mở ra, tôi choáng váng như vừa bị tát bởi một sự thực chưa bao giờ tôi nghĩ đến. Cha tôi không có quan tài. Là bình thường nếu Tsurukawa không có quan tài vì hắn luôn luôn sống, nhưng cha tôi, ông ấy đâu? Dưới đáy nước, tất nhiên. Sao tôi ngu vậy! Cha tôi ở dưới nước, và xác ông đã bị muối gặm nhấm. Tại sao tôi lại lo lắng? Tôi lại thở bình thường, tôi lấy cái que rảy nước phép và làm dấu thánh giá theo yêu cầu. Bố dượng tôi đưa tôi đi ăn tối tại một hiệu ăn Việt Nam mà ông quen người chủ ở Đông Dương trước đây. Ông hỏi tôi rất nhiều. Tôi phải thú nhận với ông kinh nghiệm dạy học của tôi, học vị tiến sỹ bỏ dở của tôi. “Vậy thì con làm gì, ông bảo tôi, với thời gian của con, con làm gì?” Tôi có thể trả lời thế nào? Không gì cả? Tôi mỉm cười, vẻ bí ẩn và ngay lập tức bịa ra sự tồn tại của một người bạn. “Ta có cảm tưởng rằng con đã rất cừ, ông thốt lên, tại sao con không đưa nó về đây?” Mẹ chăm chú nhìn tôi. Mẹ hoàn toàn quay về phía tôi, điều này chưa hề xảy ra bao giờ trong suốt hai mươi lăm năm tồn tại. Tôi bối rối. Ông xin lỗi về sự tò mò của ông, rồi gọi sâm banh mà nói rằng họ còn nhiều thời gian để làm quen nhau. Thực ra ông cũng tử tế. Đến lúc ăn tráng miệng, ông bảo rằng có một ý hay cho tôi, rằng tôi phải học tin học, rằng đó là một môn khoa học đầy triển vọng, ít được biết đến ở Pháp nhưng ở Mỹ thì rất phổ biến. Nếu tôi muốn thì ông sẽ yêu cầu Công ty CII-Honeywell Bull đào tạo. Mẹ vẫn nhìn tôi. Hình như mẹ không thể rời mắt khỏi tôi, đôi mắt của mẹ đầy vẻ dò hỏi. Tôi khó giấu nổi xúc động. Tôi tiễn họ đến tận khách sạn của họ, tôi không muốn chia tay với họ. Rồi đứng trên ngưỡng cửa, mẹ xoa má tôi bằng mu bàn tay và tôi chạy trốn để họ không thấy tôi khóc. Hôm sau tôi không thể gặp họ. Họ xuống vùng Midi, đi nhờ xe của ông thị trưởng, các cán bộ cao cấp trong quân đội không bị hạn chế xăng như dân thường. Tôi bị tước mất xăng, tôi ở lại trong căn hộ của tôi và tôi có những tiến bộ nhanh chóng về tiếng Nhật. Bây giờ tôi có thể viết những bức thư ngắn cho Tsurukawa. Tôi trải chúng lên giường. Khi sức chú ý của tôi giảm đi, tôi vặn radio và theo dõi diễn biến các sự kiện. Tôi cố gắng dịch tàm tạm một bản tóm tắt cho Tsurukawa. Tôi ngủ ít vì đã có các viên thuốc màu hồng, tôi đã vứt thuốc ngủ. Một đêm kia, vì cái trạm quen thuộc của tôi phát lần thứ ba phóng sự về Billancourt, tôi vặn nút để tìm một chương trình khác và rơi vào buổi phát thanh dành cho những tài năng trẻ của âm nhạc hiện đại, nghĩa là cho Bruno. Chúng tôi chưa bao giờ gặp lại nhau. Phát thanh viên giới thiệu bản Rondo. Tôi không tắt đài. Trái lại, tôi mở to rồi tôi ngả người trên ghế dài. Đó là một cú sốc. Khi tiếng lao xao cuối cùng xuất hiện, trong nỗi ám ảnh của một buổi tập ở đó im lặng mỗi ngày nhiều hơn - tôi chỉ được nghe bản Rondo một lần và tôi nhớ rất rõ nội dung của nó - tôi cầu mong cho nó không bao giờ tắt. Tôi nghe thấy tiếng ru của thần chết. Phải, đó là tiếng ru của thần chết, cái yên tĩnh của sóng nước sau khi thân thể chìm xuống và không một rung động nào làm xao động mặt nước. Và đó là sự nghỉ ngơi và đó là một sự an ủi mà tôi cảm thấy đầy đủ và dịu dàng mà tôi khao khát bằng cả tâm hồn tôi. Những tiếng vỗ tay vang lên. Tôi sắp tắt đài thì có một ai đó thông báo rằng đó là buổi phát lại một đêm hòa nhạc tại Milan tháng Chín năm 1966. Tôi cầm ống điện thoại và gọi Bruno. Lại là cô ta trả lời bằng một giọng ngái ngủ. Bruno đang làm việc. Anh đang ở trong buồng người hầu gái được sửa thành studio. Cô ta chuyển máy cho anh. Tôi đợi một lát mà dài như một thế kỷ. Tôi toát mồ hôi. Cuối cùng là anh. Tôi hỏi xem tôi có thể đến thăm anh được không. Anh trả lời là anh đợi tôi. Phố Tiquetonne, một chiếc cầu thang nhỏ xiêu vẹo. Lúc này là hai giờ sáng. Tôi đã đi bộ. Tôi đi rất nhanh. Trái tim tôi đập mạnh đến mỗi bậc thang của sáu tầng gác. Cửa hé mở. Anh đang lao vào một bản dàn bè. Một phích nước đặt trên bàn. Anh đứng dậy. Tôi không nhớ rằng anh cao lớn và khác Tsurukawa đến thế. Cái nhìn của anh dò hỏi tôi với thiện chí. Tôi bảo rằng tôi vừa nghe bản Rondo trên radiô và tôi ngao ngán. Anh mỉm cười, để tôi ngồi, mời tôi một tách cà phê - anh có thói quen vừa làm việc vừa uống nước chè, - thấy tôi có vẻ tươi tỉnh. Phải, đúng thế, tôi không đặt những viên Quies nữa, tôi đã khỏi bệnh và tôi nói thêm: “Trước khi đi, em muốn rằng anh yêu em lần cuối cùng. - Em đi đâu? - Không, tôi thật khó nói, một lần cuối cùng trước khi không bao giờ em còn gặp lại anh”. Thế là, thật đơn giản, anh yêu tôi. Và dưới những cái vuốt ve của anh, giống như thể bà, ông, mẹ tôi, Nathalie đến gõ vào cánh của của cõi lòng tôi, và như thể Tsurukawa mỉm cười với tôi. Chúng tôi đã chuyện phiếm đến tận sáng. Anh muốn biết việc theo đuổi học vị tiến sỹ của tôi đến đâu. Tôi bảo với anh rằng tôi đã bỏ và tôi sẽ bắt đầu theo học tin học. Tôi rất ngạc nhiên thấy anh biết rất rõ đó là cái gì và hỏi những chi tiết mà tôi không thể trả lời. Từ khi đến Milan anh ở trong tình trạng sáng tạo sôi sục. Đối với anh, cái thiếu trong bản Rondo chính là lời, dù chỉ một hoặc hai từ nó buộc anh phải làm việc chính xác hơn về chất giọng. Anh nói với tôi về giá trị của các phụ âm, về trạng thái động của việc phát âm chúng. Anh đã bắt đầu một loạt căng-tat, mỗi cái lại riêng cho một phụ âm. Giờ đây bộ mặt của anh không còn cau có nữa. Chè đã nguội, tôi nghe anh nói, trong lòng khâm phục. Bruno sẽ giữ được vị trí của anh trong thế giới âm nhạc. Tôi có thể tin tưởng ở anh. Chim bắt đầu hót. Đã đến lúc kết thúc. Anh xuống gặp Luba, cô gái người Nga. Tôi đã đánh bóng các ngóc ngách trong căn hộ của tôi, cái thùng xe của tôi bằng một miếng da dê và tôi đợi. Cuối cùng tướng De Gaulle thông báo lại có xăng. Tất cả các thùng sẽ lại đầy cho ngày cuối tuần vào dịp lễ Pentecôte. Tsurukawa bảo tôi rằng đã đến lúc. Tôi cãi rằng chắc chắn chúng tôi sẽ đụng vào những nút cổ chai, nhưng hắn cho rằng không quan trọng. Mặt trời chói chang. Chúng tôi đi chậm rãi cho đến Cézanne. Tôi đã chọn hướng đông, nghĩ rằng sẽ mau chóng thoát khỏi đám đông. Đến đó, chúng tôi rẽ về Vitry-le-Francois. Mặt trời lặn ở phía sau. Tôi ấn bàn chân lên cái tăng tốc độ và không bỏ ra nữa. Đến lúc rồi, Tsurukawa, đến lúc rồi, ta đã thường xuyên từ chối từ khi mi đập vào màng nhĩ của ta. Hãy giúp ta. Hãy xiết chặt ta trong cánh tay. Lúa mì hãy còn xanh. Chúng ta sẽ không được thấy nó chín vàng. Tôi vượt mọi cái trước mặt tôi. Mặt trời nhuốm đỏ mặt đất sau lưng tôi. Trước khi bổ nhào xuống con tầu, tên kamikaze kêu lên: “Tôi bổ nhào” ta cũng vậy, Tsurukawa, ta cũng sắp bổ nhào. Tôi nhìn thấy chiếc xe tải to ra, những đèn pha làm chói mắt tôi, tôi sẽ không nhắm mắt, Tsurukawa giữ chặt bàn chân tôi trên cái tăng tốc nhưng tay tôi đã thoát khỏi hắn. Tôi đánh mạnh tay lái. Sau đó là tối đen. Tôi nằm trong buồng bệnh viện. Tôi mê sảng mất mấy hôm nhưng tình trạng của tôi không gây lo ngại. Hình như tôi đã nhiều lần gọi tên Tsurukawa. Người ta để cho tôi nằm nghỉ. Mẹ tôi đến một mình đem theo ảnh của cha tôi. Lần đầu tiên tôi xem kỹ các tấm ảnh và tôi suy nghĩ về cuộc đời tôi. Tôi tên là Laura Carlson. Tôi không biết người đàn ông ôm ngang lưng mẹ là ai. Tôi đặt các tấm ảnh bên cạnh nhật ký của Tsurukawa và tôi so sánh hai người. Tôi không biết giữa Andrew Carlson và Tsurukawa Oshi, ai là cha tôi. Họ ôm chặt lấy nhau trong cái chết, bám riết lấy nhau dưới đáy đại dương. Xác của họ bị xé nát, bị muối gặm y hệt nhau. Còn tôi, tôi ở giữa họ, tôi là con họ. Tôi gọi họ. Tôi muốn đi gặp họ. Tôi hãy còn chưa chết, tôi không làm sao chết được. Ngày mai tôi ra viện. Bố dượng tôi đã gọi điện cho tôi. Ông đã vì tôi hẹn với trưởng phòng tổ chức của Công ty CII. Tôi sẽ đi. Công việc của tôi đã được sắp xếp. Mẹ sẽ đến. Ở đây có thể nghe thấy một tiếng ro ro là lạ. Cô y tá bảo đó là do cái lò sưởi điện. """