" Chiếc Lồng Đèn Của Má PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Lồng Đèn Của Má PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo BÍ THUẬT ĐEN Marguerite Yourcenar Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: BÍ THUẬT ĐEN Tác giả: Marguerite Yourcenar Nguyên tác: L’Œuvre au Noir Dịch giả: Phạm Thủy Triều Hiệu đính: Nguyễn Xuân Khánh Nhà xuất bản: Phụ Nữ Năm xuất bản: 2000 Số trang: 515 Khổ sách: 13 x 19 cm Giá bìa: 48.000 đồng Đánh máy: Khánh Phương, Trần Minh, Thu Hoài, Phương Thảo, Duyên, Mai Anh, Nguyễn Thị Phương Thúy, Minh Hiển, Mỹ Linh, Cẩm Nhung Soát lỗi: Trịnh Cường, Minh Huy Chế bản ebook: Hồng Sơn Ngày thực hiện: 27/09/2012 Making Ebook Project #275 - www. BookaholicClub. com Bạn đang đọc ebook BÍ THUẬT ĐEN của tác giả Marguerite Yourcenar do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. ÉDITÉ AVEC LE CONCOURS DE L’AMBASSADE DE FRANCE AU VIETNAM XUẤT BẢN VỚI SỰ HỢP TÁC CỦA ĐẠI SỨ QUÁN PHÁP TẠI VIỆT NAM Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “L’Œuvre au Noir” Nhà xuất bản Gallimard. 1968 MỤC LỤC GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM PHẦN MỘT VIỄN HÀNH Con đường lớn Tuổi thơ của Zénon Những thú vui mùa hè Ngày hội ở Dranoutre Rời khỏi Bruges Tiếng nói công chúng Cái chết ở Münster Nhà Fugger ở Cologne Cuộc trò chuyện tại Innsbruck Sự nghiệp của Henri-Maximilien Những chuyến đi cuối cùng của Zénon PHẦN HAI CUỘC SỐNG BẤT ĐỘNG Trở về Bruges Vực thẳm Căn bệnh của linh mục tu viện trưởng Sự nổi loạn của xác thịt Đi dạo trên cồn cát Cái bẫy chuột PHẦN BA NGỤC TÙ Bản cáo trạng Ngôi nhà đẹp Cuộc viếng thăm của linh mục phụ tá Cái chết của Zénon Những ghi chép về “Bí thuật Đen” Lời tác giả GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Marguerite Yourcenar sinh năm 1903 tại Bruxelles, bố người Pháp và mẹ người Bỉ. Bà lớn lên tại Pháp song sau đó sống chủ yếu tại nhiều nước khác: Ý, Thụy Sĩ, Hy Lạp, rồi sang Mỹ, sống tại đảo Mount Desert trên bờ biển đông bắc nước Mỹ cho đến khi chết vào năm 1987. Marguerite Yourcenar được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp năm 1980. Các tác phẩm của bà gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ và thơ văn xuôi, truyện ngắn, ký, kịch bản sân khấu và các tác phẩm dịch thuật. Tiểu thuyết lịch sử Hồi ký Hadrien là cuốn sách lớn đưa Marguerite Yourcenar vào vị trí các nhà văn lớn trên thế giới, cùng với cuốn Bí thuật đen được trao giải Femina năm 1968. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM Cuốn tiểu thuyết lịch sử này nói về cuộc đời của một bác sĩ không có thật (do tác giả tưởng tượng ra) sống dưới thời Phục Hưng - bác sĩ Zéno ở thành phố Bruges, và phản ánh sự lôi cuốn với những điều huyền bí của tác giả. Cá tính và cuộc đời của Zeno là sự tổng hòa của danh họa DaVinci, bác sĩ, nhà giả kim Paracelsus, nhà thiên văn học Copernicus và nhà triết học, nhà vũ trụ học Giordano Bruno. Thông qua việc tìm kiếm sự thật của Zeno và những nhân vật ở quanh vị bác sĩ này, Yourcenar kể lại những sinh hoạt và cuộc sống trong thế kỷ 16, dựng lại được giai đoạn giao thời giữa thời kỳ Trung Cổ và Phục Hưng một cách hoàn hảo. PHẦN MỘT VIỄN HÀNH Nec certam sedem, néc propriam facicm, nec munus ullum peculiare tibi dedimus, o Adam, ut quam sedem, quam faciem, quae munera tule optaveris, ea, pro voto, protua sententia, habeas et possideas. Definila ceteris natura intra praescriptas a nobis leges coercetur. Tu, nullis angustiis coercitus, pro tuo arbitrio, in cuius manu te posui, tibi illam praefinies. Medium te mundi posui, ut circumspiceres inde commodius quicquid est un mundo. Nec te caclestem neque terrenum, neque mortalem neque immorlalem fecimus, ut tui ipsius quasi arbitrarius honorariusque plastes et ficlor, in quam malueris tute formam effingas.. Pic de la Mirandole, Oratio de hominis dignitate Ta không cho anh khuôn mặt, không đặt anh vào chỗ của anh, cũng không cho anh những thiên chất anh có, hỡi Adam, để anh muốn có chúng, anh hãy tự mình giành giật và chiếm hữu lấy khuôn mặt, chỗ đứng và thiên chất của anh. Thiên nhiên chứa đựng nhiều loài khác trong những quy luật do chính ta thiết lập. Nhưng anh, người không giới hạn nào bó buộc, với ý chí của anh, trong đôi tay của ý chí ấy nơi ta đặt anh vào, anh tự định nghĩa chính mình. Ta đã đặt anh vào giữa thế giới, để anh có thể suy ngẫm rõ hơn những gì chứa trong thế giới đó. Ta không tạo anh thành thánh, không thành người trần, không thành kẻ sẽ chết đi, không thành kẻ bất tử, để từ chính anh, theo cách một họa sĩ tài ba hay một nhà điêu khắc khéo léo, anh tự do hoàn thiện khuôn hình cho chính mình. Con đường lớn Henri-Maximilien Ligre rong ruổi từng chặng nhỏ trên đường đến Paris. Anh không hay biết gì về những cuộc phân tranh giữa Nhà Vua và Hoàng Đế[1]. Anh chỉ biết rằng hòa bình có từ mấy tháng nay đã bị xé tơi tả như bộ quần áo cũ mặc lâu ngày. Không ai là không biết Francois de Valois vẫn tiếp tục dòm ngó miếng đất Milanais như anh chàng si tình không may đứng ngắm người đẹp; từ nguồn đáng tin cậy người ta đã biết rằng ông ta ngấm ngầm trang bị và tập hợp trên biên giới đất của công tước de Savoie một quân đội mới toanh, có nhiệm vụ chiếm lại mũi đất đã mất ở Pavie. Qua những câu chuyện khô khan về các chuyến đi của bố anh, chủ nhà băng, trộn lẫn với những mẩu chuyện của Virgile, Henri Maximilien tưởng tượng bên kia dãy núi phủ trắng tuyết những kỵ sĩ theo nhau phi xuống những miền đất rộng lớn màu mỡ và đẹp như mơ: những đồng bằng đất hung đỏ, những dòng sông cuồn cuộn chảy nơi đàn gia súc màu trắng đến uống nước, những thành phố được chạm khắc như những chiếc tráp, đầy ắp những vàng, gia vị và da thuộc, giàu như những kho tàng, trang nghiêm như những nhà thờ; những khu vườn đầy tượng, những căn phòng đầy những bản thảo chép tay quý hiếm; những phụ nữ trong trang phục bằng lụa tươi cười chào đón chàng đại úy; tất cả mọi kiểu cách cầu kỳ trong ăn uống và trụy lạc, và, trên những chiếc bàn bằng bạc khối, trong những bình thủy tinh Venise, ánh lên màu sóng sánh của rượu vang Malvoisie. Mấy hôm trước, anh đã từ bỏ không tiếc nuối ngôi nhà nơi anh sinh ra tại Bruges, từ bỏ luôn tương lai của con trai một thương gia. Một buổi tối, một trung sĩ què huênh hoang là đã phục vụ tại Ý dưới thời Charles VIII, đã kể cho anh bằng cả mồm mép lẫn chân tay những tháng ngày vinh quang nhất của hắn. Hắn tả lại những cô gái và những túi vàng có lần hắn thủ được trong những vụ cướp bóc các thành phố. Henri-Maximilien trả công cho những lời khoác lác này bằng một chầu tại quán rượu. Lúc về, anh tự nói với mình rằng đã đến lúc phải khám phá xem thế giới này vuông tròn ra sao. Ngài nguyên súy tương lai lưỡng lự không biết nên đầu quân cho Hoàng đế hay cho Vua nước Pháp; cuối cùng anh quyết định bằng cách tung đồng xu xem sấp ngửa; Hoàng đế thua. Một cô người hầu để lộ việc anh chàng chuẩn bị lên đường. Henri-Juste lúc đầu giáng cho thằng con trai hư đốn vài đòn chí mạng, rồi dịu lại khi thấy ánh mắt của người em, trong bộ áo chùng, đang đi lại trên mép tấm thảm phòng khách, và với giọng giễu cợt pha bông đùa ông chúc con thuận buồm xuôi gió ở xứ sở những người Pháp khờ dại. Phần ít vì tình cảm cha con, phần nhiều vì kiêu hãnh ngầm, và để chứng tỏ có thể lực rộng, ông tự hứa với mình sẽ viết thư và lúc cần thiết cho Thầy Muzot tại chi nhánh của mình ở Lyon, để phó thác thằng con bất trị cho đô đốc Chabot de Brion, người đang nợ đầm đìa nhà băng Ligre. Henri-Maximilien giũ sạch vương vấn với gia đình một cách nhẹ nhàng. Con trai của một người có thể cho làm tăng hay giảm giá thực phẩm và cho các ông hoàng vay tiền không phải là đồ vô tích sự. Bà mẹ người hùng tương lai nhét đầy thực phẩm vào các túi và giúi cho anh tiền đi đường. Khi đi qua Dranoutre, nơi bố anh có một trang trại, anh đã thuyết phục ông quản gia cho anh đổi con ngựa đã tập tễnh để lấy con đẹp nhất trong chuồng ngựa của ông chủ nhà băng. Song anh đã bán nó ngay khi đến Saint-Quentin, phần vì bộ yên cương tuyệt vời như có phép thần làm tăng vọt số tiền thanh toán tại các quầy rượu, phần vì những đồ vật quá tươm tất này làm cho anh không tận hưởng được cái thú vui đường dài. Để tiền trong túi vơi chậm lại, vì nó chảy qua kẽ tay anh nhanh hơn anh tưởng, anh ăn mỡ hôi và đậu mỏ với những người đánh xe tại những nhà trọ tồi tàn, còn tối thì ngủ trên rơm, nhưng sẵn lòng nướng vào những chầu đãi đằng hay chiếu bạc ở những nhà trọ sang nhất số tiền tiết kiệm được. Thỉnh thoảng, trong một trang trại lẻ loi, bà góa nào đó giàu lòng thương người cho anh ăn và ngủ tạm. Anh không quên những quyển sách quý bọc da cừu nằm nặng cả túi, những cuốn đó anh lấy trước từ của thừa kế ở thư viện ông chú, linh mục phụ tá Campanus, người sưu tầm sách. Buổi trưa, nằm dài trên đồng cỏ, anh bật cười to khi đọc đến một câu hài hước La tinh của Martial[2], hay mơ mộng hơn, buồn bã nhổ bọt xuống ao và mơ về một phu nhân kín đáo và đoan trang nào đó mà anh sẽ tặng cả tâm hồn lẫn cuộc sống trong những bài thơ xonnê theo kiểu Petrarque[3]. Anh chập chờn ngủ, đôi giày dựng lên trời như tháp nhà thờ, những ngọn yến mạch cao như những tên lính mặc áo choàng xanh, còn cây mỹ nhân như cô thiếu nữ với chiếc váy hơi nhàu. Vào lúc khác, chàng trai cao lớn nằm dài ra đất. Một con ruồi hay tiếng chuông nhà thờ trong làng làm anh thức dậy, chiếc mũ sụp xuống tai, vài cọng rơm trên mái tóc màu vàng, khuôn mặt dài xương xương, nhất là mũi, đỏ lựng vì mặt trời và vì nước lạnh, Henri-Maximilien vui vẻ bước tới vinh quang. Anh hay bông đùa với khách dọc đường và hỏi thăm tin tức. Đi quá La Fere, anh thấy một lữ khách phía trước, cách khoảng một trăm toise[4]. Anh ta đi nhanh. Đang buồn vì không có ai cùng chuyện trò, Henri-Maximilien dấn bước lên theo. - Hãy cầu kinh cho tôi ở Compostelle, anh chàng vui tính người Flamand nói. - Ông đã đoán đúng đấy, người kia nói. Tôi đi đến đó. Anh ta quay đầu lại dưới cái áo liền mũ vải nâu, và Henri-Maximilien nhận ra Zénon. Chàng thanh niên gầy gò, cổ dài, có vẻ như đã lớn hơn một khuỷu tay so với lần đi chơi hội chợ mùa thu năm ngoái. Khuôn mặt đẹp vẫn xanh xao như thế song trông đã tròn trịa ra, bước đi của anh ta như vội vã dữ dằn. Xin chào người anh em họ - Henri-Maximilien vui vẻ nói - Linh mục phụ tá Campanus đã chờ anh suốt mùa đông tại Bruges; ông hiệu trưởng Magnifique ở Louvain thì bứt rứt khổ sở vì anh biệt tăm, giờ anh lại xuất hiện trên con đường vắng, tôi trông chẳng biết là ai. - Tu viện trưởng được đội mũ lễ1tu viện Saint-Bavon tại Gand đã tìm cho tôi một chỗ làm - Zénon nói với vẻ thận trọng. Đó chẳng phải một người bảo trợ chính đáng hay sao? Nhưng tốt hơn hãy nói cho tôi vì sao cậu lại lê la trên những con đường xứ Pháp này? - Có thể anh đến đó vì một chuyện gì đó, người trẻ tuổi hơn trả lời. Tôi đã bỏ ngân hàng của ông già như anh[5]bỏ trường thần học. Nhưng giờ biết anh rơi khỏi vòng tay của ông hiệu trưởng Magnifique để đến với tu viện trưởng đội mũ lễ thì... - Cậu đùa chăng, thầy tu nói. Ai mà chẳng khởi đầu sự nghiệp bằng cách phục vụ cho ai đó. - Với tôi thì đúng hơn là vác súng hỏa mai, Henri-Maximilien nói. Zéon ném về phía bạn đường cái nhìn khinh thường. - Bố cậu đủ giàu để mua cho cậu đội quân đánh thuê tốt nhất của César Charles - anh nói - tất nhiên là nếu bố con cậu thấy nghề cầm súng là một nghề đáng làm. - Đội quân mà bố tôi có thể mua với tôi cũng quyến rũ như bổng lộc tu viện đối với anh vậy thôi. Mà vả lại chỉ có ở Pháp người ta mới phục vụ các quý bà - Henri-Maximilien trả lời. Câu nói đùa rơi vào chỗ trống. Đại úy tương lai dừng lại mua của một nông dân nắm quả anh đào. Hai người ngồi xuống sườn dốc ăn. - Anh đang giả làm thằng ngốc - Henri-Maximilien vừa nói vừa tò mò quan sát quần áo người lữ khách. Phải, Zénon nói. Nhưng tôi chán làm con mọt sách lắm rồi. Tôi thích đánh vần những câu chữ chuyển động hơn: một nghìn con số La mã và Ả rập; các ký tự chạy lúc thì từ trái sang như cách viết của chúng ta, lúc thì từ phải sang như trong các giấy tờ người phương Đông. Những nét gạch xóa như bệnh dịch hạch hay như chiến tranh. Những chương mục hiện lên trong máu đỏ. Những ký tự đó có ở khắp nơi, đây đó còn có những vết tích kỳ lạ hơn cả các ký tự nữa... Phải ăn mặc thế nào thích hợp nhất để đi trên đường mà không để ý? Đôi chân tôi lang thang trong thế giới này như con mọt chui trong cuốn sách Thánh dày cộp. - Đúng vậy - Henri-Maximilien nói lơ đễnh - Nhưng sao anh lại đến Compostelle?Tôi không nghĩ anh lại cùng hội cùng thuyền với các giáo sĩ to béo chuyên hát bằng giọng mũi. - Ôi, lữ khách nói. Tôi làm gì với cái lũ lười biếng và ngu như bò ấy? Nhưng linh mục tu viện trưởng Jacobites ở Leon rất yêu thích giả kim thuật. Ông ta đã thư từ với linh mục phụ tá Bartholommé Campanus, ông chú tốt bụng của chúng ta, ông già ngốc nghếch nhạt nhẽo ấy thỉnh thoảng cũng phiêu lưu vào những giới hạn cấm mà không để ý thấy. Đến lượt tu viện trưởng Saint-Bavon đã viết thư thuyết phục để ông ấy dạy cho tôi những gì ông ta biết. Nhưng tôi phải đi gấp đây, vì ông ấy già rồi. Tôi sợ rằng chưa kịp dạy lại kiến thức cho người khác thì ông ấy đã chết. Ông ta sẽ cho anh ăn hành sống này, và anh sẽ đánh kem cho đĩa súp đồng của ông ấy, thêm lưu huỳnh làm gia vị. Anh đến phải cám ơn ông ấy nhiều. Tôi nghĩ rằng có thể kiếm được khẩu phần thầy tu khá với giá rẻ nhất đấy. Zénon đứng dậy không nói gì. Henri-Maximilien, thấy thế, trên đường đi bộc bạch hết tâm sự của mình: - Hòa bình đang lung lay, Zénon anh thấy không. Các ông hoàng giành giật đất đai như lũ say tranh nhau đĩa thức ăn ở quán. Ở đây, Provence là bánh mật, còn ở đằng kia, Milanais, là patê lươn, từ những đĩa thức ăn đó chắc hẳn sẽ còn chút mảnh vụn vinh quang để tôi nếm. - Ineptissima vanitas[6], chàng tu sĩ trẻ nói khô khốc. Cậu vẫn cho rằng chuyện hão huyền ấy là quan trọng lắm sao? - Tôi mới mười sáu tuổi - Henri-Maximilien nói - Mười lăm năm nữa biết đâu tôi sẽ ngang hàng với Alexandre. Trong ba mươi năm nữa người ta sẽ thấy tôi có sánh được với César đã quá cố không. Tôi mà lại ngồi đo len dạ trong một cửa hàng trên phố Hàng Len ư? Cần phải làm người. - Tôi hai mươi tuổi - Zénon tính - Nếu mọi việc đều êm xuôi thì tôi còn năm mươi năm để học tập, trước khi cái trán này biến thành sọ người chết. Cậu cứ việc đến với khói lửa và những nhân vật của Plutarque[7], người anh em Henri ạ. Tôi muốn vượt lên trên việc làm người. - Tôi sẽ đi mạn Alpes, Henri-Maximilien nói. - Còn tôi, Zénon nói, tôi đi về hướng Pyrenées. Họ im lặng. Con đường bằng phẳng. Hàng dương chạy bên mép đường, trước mặt họ một phần của thế giới tự do đang dài mãi ra. Kẻ phiêu lưu tìm sức mạnh và kẻ phiêu lưu tìm trí tuệ sóng đôi bên nhau. - Nhìn này - Zénon tiếp tục - Bên kia làng này là vô vàn làng khác, bên kia tu viện là những tu viện khác, qua pháo đài này sẽ có nhiều pháo đài khác. Và bên cạnh những túp lều gỗ và những lâu đài đá ấy là những lâu đài tư tưởng và những túp lều trí tuệ, trong đó cuộc sống chôn chặt những người điên và mở ra một lỗ hẹp cho những người khôn ngoan. Bên kia dãy Alpes là nước Ý. Bên kia dãy Pyrenées là Tây Ban Nha. Ở bên này là xứ La Mirandole, còn mạn kia là Avicenne. Và xa hơn nữa là biển, và bên kia biển cả mênh mông là Ả Rập, Morée, Ấn Độ, hai phần châu Mỹ. Và ở khắp nơi, những thung lũng có dược thảo, những núi đá ẩn chứa kim loại, mỗi kim loại tượng trưng cho một thời điểm của Bí thuật lớn, những cuốn sách thần bí được cất giữ trong hàm răng người chết, những thần linh mà mỗi vị đều có lời hứa hẹn, những đám đông trong đó mỗi người đều muốn là trung tâm thế giới. Kẻ nào đủ rồ dại để chết đi mà không một lần đi vòng quanh nhà ngục của mình? Anh thấy không, anh họ Henri, tôi đích thực là một người hành hương. Con đường quả là dài, song tôi còn rất trẻ. - Thế giới rất rộng lớn - Henri-Maximilien nói. - Thế giới rất rộng lớn - Zénon nói giọng nặng nề - Chắc Chúa sẽ cho trái tim người trải thấu cuộc sống nếu Chúa muốn. Và một lần nữa họ lại im lặng. Một lúc sau, Henri-Maximilien vỗ tay vào trán, bật cười: - Zénon - anh nói - anh có nhớ anh chàng sâu bia bạn nối khố của anh Colas Gheel không? Anh ta đã bỏ xưởng của bố tôi, mà ở đó thì cũng chết đói; anh ta về Bruges rồi; lang thang trên đường, tràng hạt ở cổ tay, cầu nguyện cho linh hồn của Thomas bị mất đầu vì bộ máy của các anh, và anh ta cứ nghĩ anh đồng lõa với quỷ Satan, Judas và Kẻ chống Chúa. Còn Perrotin bạn anh ta thì không ai biết hắn ở đâu; có lẽ quỷ Satan bắt hắn rồi. Một cái nhăn xấu xí làm méo mó khuôn mặt chàng tu sĩ, khiến anh già hẳn: - Toàn những thứ tầm phào, anh nói. Mặc xác cái bọn ngu dốt ấy. Họ thế nào thì sống thế ấy: đó là thứ thịt sống, từ đó ông bố anh biến thành vàng và một ngày nào đó anh là người thừa kế. Đừng nói với tôi về máy móc hay về cổ bị đứt, và tôi sẽ không nói chuyện với anh về mấy con ngựa cái bị hành đến lử người vay của ông lái buôn ở Dranoutre, cũng như mấy cô gái bị anh làm đau khổ hay mấy thùng rượu vang bị anh lật tung đáy mùa hè năm xưa. Henri-Maximilien huýt sáo mơ hồ một bài ca phiêu lãng, không đáp lời. Họ chỉ còn nói chuyện đường xấu hay đẹp và giá cả các quán trọ. Họ chia tay nhau ở ngã tư sau đó. Henri-Maximilien chọn con đường lớn. Zénon đi đường tắt. Bỗng nhiên anh chàng trẻ tuổi hơn quay chân, đuổi theo bạn; anh đặt tay lên vai người lữ khách: - Người anh em - anh nói - anh có nhớ Wiwine, cô bé xanh xao khi xưa anh đã bảo vệ khi lũ trẻ tinh nghịch chúng tôi chọc ghẹo vào mông lúc tan trường không? Cô ấy yêu anh đấy. Cô ấy muốn được lấy anh. Mấy hôm trước cô ấy đã khước từ lời cầu hôn của ông phó thị trưởng. Bà cô cô ấy đã tát cô, cho lên bờ xuống ruộng, nhưng cô ấy vẫn đứng vững. Cô ấy nói sẽ chờ anh cho đến ngày tận cùng thế giới nếu cần thiết. Zénon dừng lại. Một chút gì đó không xác định thoáng qua mắt anh, và biến mất trong đó, như hơi ẩm biến mất trong lò rực lửa. - Có sao đâu, anh nói. Giữa tôi và cô gái bị tát ấy có gì chung nào? Hơn nữa, đã có người khác chờ tôi. Tôi đến với anh ta. Và anh tiếp tục tiến bước. - Ai? Henri-Maximilien hỏi giọng kinh ngạc. Ông mục trưởng tu viện Leon, ông già rụng hết răng ấy ư? Zéon quay lại: - Hic Zeno[8]- anh nói - Chính tôi. Tuổi thơ của Zénon Hai mươi năm trước đây, Zénon ra đời tại Bruges trong ngôi nhà của Henri-Juste. Mẹ anh tên là Hilzonde và bố anh, Alberico de’ Numi, khi đó là giáo sĩ cao cấp trẻ của một dòng đạo florentine cổ. Dưới mái tóc dài và với lòng nhiệt tình của tuổi niên thiếu, Messer[9] Alberico de’ Numi sớm có tiếng tăm trong Giáo triều Borgia. Giữa hai cuộc đấu bò tại quảng trường Saint-Pierre, cậu đã mê mẩn trò chuyện về ngựa và những máy móc phục vụ chiến tranh với Leonard de Vinci, khi đó là kỹ sư của César; ít lâu sau, ở tuổi hăm hai rực rỡ ảm đạm, chàng đã nằm trong số ít những nhà quý tộc trẻ được kính nể vì chơi thân với Michel-Ange[10]. Chàng bước vào những cuộc phiêu lưu kết thúc bằng dao găm; bắt đầu sưu tập đồ vật cổ; một quan hệ kín đáo với Julia Farnese không làm hại tới vận may của chàng. Tại Sinigaglia, những ngón khéo léo đã giúp chàng cho các địch thủ của mình ở Saint-Siege gặp rắc rối và chìm đắm trong đó, nhờ vậy chàng chiếm được sự sủng ái của giáo hoàng và con trai Ngài; chàng được hứa hẹn gần như cầm chắc chức giám mục ở Nerpi, nhưng cái chết bất ngờ của Đức Cha thần thánh đã làm chậm lại bước thăng tiến này. Do thất vọng trước sự việc này, hay có thể do một mối tình bị ngăn trở mà bí mật của nó không bao giờ được hé lộ, mà trong một thời gian dài chàng đắm mình vào hành xác và học hành. Đầu tiên người ta tưởng rằng đó là khúc quanh tham vọng nào đó. Tuy nhiên, người đàn ông phóng túng này lại lao vào một đà khổ hạnh mới. Người ta nói rằng chàng về sống ở Grotta-Ferrata, trong tu viện các tu sĩ Hy Lạp tại Saint-Nil, ở giữa một vùng cô quạnh nhất của Latium, ở đó ngoài những giờ nhập định và cầu nguyện, chàng dịch sang tiếng La tinh cuốn Cuộc sống các cha cố trong sa mạc, chỉ đến khi có lệnh khẩn của Jules II, ngài đánh giá cao trí thông minh khô khan của chàng, thì chàng mới được quyết định trông coi công việc Liên minh Cambrai[11]với tư cách là thư ký tòa thánh. Chỉ vừa chân ướt chân ráo đến nơi, qua vài cuộc tranh luận, chàng đã nắm được quyền lực còn hơn cả quyền của bản thân công sứ Tòa thánh. Những lợi lộc tòa thánh thu về nhờ chia cắt Venise, mà có lẽ chàng chưa mơ đến mười lần trong đời, nay chiếm toàn bộ tâm trí chàng. Trong những bữa tiệc tùng được tổ chức xen kẽ với công việc ở Liên minh, Messer Alberico de’ Numi, khoác trên người chiếc áo thụng bằng nhung đỏ như hồng y giáo chủ, đã đặt đúng chỗ cái vẻ oai vệ không thể bắt chước, nó khiến chàng được các cận thần La Mã gọi tên là Con Người Độc Nhất. Chính chàng, sau một trận khẩu chiến kịch liệt, chàng đã dùng tài hùng biện hăng say, đáng ngạc nhiên như Ciceron, và đã thuyết phục được các đại sứ của Maximilien[12]theo Liên minh. Sau đó, vì mẹ chàng, một phụ nữ xứ Florence hám tiền, viết thư nhắc nhở một vài món nợ cho nhà Adorno tại Bruges vay nay cần đòi lại, chàng quyết định lấy lại ngay lập tức số tiền sẽ rất cần thiết cho sự nghiệp của một ông hoàng Nhà thờ như chàng. Chàng đến Bruges ở tại nhà nhân viên của mình người Flamand, Juste Ligre, và được ông ta đón tiếp chu đáo. Người đàn ông to béo này rất thích phong cách Ý đến mức chính ông ta nghĩ rằng chắc hẳn một bà cố tổ của ông đã ngả lòng theo một lái buôn nào đó thành Gene, khi đã quá suy sụp vì cảnh góa chồng. Messer Alberico de’ Numi tự an ủi thôi thì tiền nợ được trả bằng hối phiếu mới ở nhà Herwart d’Augsbourg còn chủ nhà trả tiền cho lũ chó, lũ chim cắt và bọn đày tớ của chàng. Nhà Ligre, nằm bên cạnh kho nhà bên này, sống xa hoa như đế vương; nhà ấy ăn ngon, uống còn ngon hơn nữa, và dù rằng Henri-Juste chỉ đọc có quyển sổ ghi chép số len dạ, trong nhà ông có hẳn một thư viện mà ông vẫn lấy làm hãnh diện. Thường nay đây mai đó, đi Tournai, đi Maline để ứng trước tiền cho Hoàng hậu Nhiếp chính, đến Anvers nơi ông vừa hợp tác với tay phiêu lưu Lambrecht von Rechterghem để buôn hạt tiêu và những thứ xa xỉ khác của nước ngoài, tại Lyon, nơi ông thường xuyên đến đích thân giải quyết các giao dịch ngân hàng ở hội chợ Toussaint, nên ông giao việc trông nom nhà cửa cho em gái Hilzonde. Ngay lập tức Messer Alberico de’ Numi phải lòng cô gái trẻ có đôi vú nhỏ xinh, gương mặt trái xoan, hay mặc nhung cứng trùm kín người như giữ nàng thẳng, và vào dịp lễ tết nàng trang điểm toàn bằng báu vật, mà cả một nữ hoàng cũng phải ham muốn. Đôi lông mày ánh xà cừ, gần như màu hồng, bao quanh đôi mắt màu xám nhạt, miệng nàng hơi mọng có vẻ như sẵn sàng thốt ra một tiếng thở dài, hay câu đầu tiên của bài cầu kinh hay một câu hát. Và có lẽ người ta không muốn thấy nàng bỏ hết quần áo vì khó mà có thể tưởng tượng ra nàng lúc khỏa thân. Vào một buổi tối tuyết rơi làm người ta mơ nhiều hơn đến giường ấm trong phòng kín cửa, một cô hầu bị mua chuộc đã dẫn Messer Alberico de’ Numi vào buồng tắm hơi nóng nơi Hilzonde đang vò mái tóc gợn sóng phủ quanh mình nàng như chiếc áo măng tô. Cô gái che mặt, nhưng không chống cự, phó mặc tấm thân trong sạch và trắng như hạt hạnh nhân nõn của mình cho đôi mắt, đôi môi, và đôi tay người tình. Đêm đó, chàng trai trẻ Florentin uống những giọt nước mát từ mạch suối nguyên sơ, thuần phục hai con dê sinh đôi, dạy cho chiếc miệng kia những trò chơi và sự huyền diệu của tình yêu. Đến bình minh, cuối cùng cô gái Hilzonde đã hoàn toàn bị chinh phục, cô tự phó mặc hoàn toàn và, buổi sáng, với chiếc nhẫn kim cương, nàng khắc lên cánh cửa kính chữ đầu tên mình, lồng vào chữ đầu tên người yêu, như thể đánh dấu hạnh phúc của mình vào thứ chất liệu chắc chắn là mỏng manh dễ vỡ và trong suốt, nhưng mạnh hơn xác thịt và trái tim một chút. Sự vui thích của họ được tăng thêm nhờ những lạc thú của thời đại và địa phương: Hilzonde chơi một thứ âm nhạc bác học trên chiếc đàn ống nước anh trai đã cho nàng, rượu vang thơm lựng, phòng ấm áp, họ dạo chơi bằng thuyền trên những dòng kênh vẫn còn xanh vì tuyết tan hoặc cưỡi ngựa đi dạo vào tháng Năm trên đồng hoa. Từ sáng sớm Messer Alberico đã lên đường tìm kiếm trong những tu viện Hà Lan yên bình những bản thảo cổ bị bỏ quên, những giờ phút có lẽ còn ngọt ngào hơn sự êm dịu Hilzonde dành cho chàng, những nhà thông thái người Ý mà chàng tiếp xúc thấy thiên tài của Marsile vĩ đại[13]như sống lại trong chàng. Buổi tối, ngồi trước ánh lửa, đôi tình nhân cùng ngắm con chim ruồi cổ đỏ lớn mang từ Ý về, nơi người ta thấy thần Dê ôm hôn nữ thần Sông núi, và chàng trai Florentin dạy cho Hilzonde những từ ngữ nói về tình yêu của xứ sở chàng. Chàng sáng tác tặng nàng một bài thơ bằng tiếng toscane; những câu thơ chàng gửi gắm cho cô gái nhà buôn có thể sánh với khúc Sulamite trong Diễm tình ca[14]. Xuân qua, hạ đến. Một ngày đẹp trời, chàng nhận được lá thư của người anh em họ Jean Medicis. Bức thư một phần được mã hóa, một phần giả giọng bông lơn trong đó Jean đã kể lại mọi sự, chính trị, sự uyên bác và tình yêu, kể lại chi tiết những mánh khóe ở Viện Nguyên lão và ở La Mã mà do ẩn cư ở Flandre nên chàng không hay biết gì. Giáo hoàng Jules II không phải là bất tử. Dù cho Riario ngu ngốc và giàu sụ đã tập hợp được quanh hắn những thằng ngốc và những kẻ bị mua chuộc, Medicis tinh tế đang sử dụng mọi ưu thế chuẩn bị cho cuộc bầu cử tới trong Giáo hội. Messer Alberico không quên rằng một vài lần tiếp xúc với đặc sứ của Hoàng đế sẽ không đủ để xin thứ lỗi trước con mắt của Giáo hoàng đương chức về sự vắng mặt kéo dài trái lẽ thường của mình; sự nghiệp của chàng phụ thuộc từ nay vào người anh em họ rất dễ trở thành giáo hoàng này. Họ đã cùng chơi trên những sân thượng ở Careggi; Jean sau đó ít lâu đã giới thiệu chàng vào nhóm văn chương của ông ta gồm số ít người rất tuyệt vời có đầu óc đôi chút hài hước và có chút xíu môi giới; Messer Alberico thấy khoái vì đã đạt tới việc chế ngự con người tinh tế, nhưng mềm yếu như phụ nữ này. Chàng sẽ giúp ông ta tiến dần đến cái ghế của thánh Pierre[15]; chàng sẽ đứng sau lưng và chờ đợi đến khi cần thiết, chàng sẽ là người ra lệnh trong thời cai trị của ông ta. Chàng chuẩn bị ra đi trong một tiếng đồng hồ. Có lẽ con người chàng không có trái tim. Có lẽ dòng nhiệt huyết bất thần chảy trong chàng chỉ là sự hiện hữu của một sức mạnh không thể tin được tràn đầy cơ thể; có lẽ, là một người luôn hoạt động, chàng chỉ không ngừng tìm những cách mới để cảm xúc; hoặc đúng hơn có lẽ đó chỉ là sự nối tiếp những thái độ bạo liệt và vĩ đại nhưng tùy tiện như những thái độ của những hình vẽ của Buonarrotti trên vòm nhà thờ Sixtine. Lucques, Urbin, Ferrare, những con tốt trên bàn cờ gia đình, bỗng hiển hiện làm mờ nhạt cái phong cảnh tầm thường của cây và nước nơi chàng đã có lúc bằng lòng sống. Chàng nhét vào hòm những bản cổ văn và những bài thơ tình viết nháp. Đi ủng, khoác áo choàng, đeo găng tay da và đội chiếc mũ phớt lên đầu, hơn bao giờ hết chàng giống một hiệp sĩ và chưa bao giờ khác với người của Nhà thờ như vậy, chàng đến nhà Hilzonde để cắt nghĩa với nàng vì sao mình ra đi. Nàng đã có mang. Nàng biết. Nàng không nói với chàng. Quá mềm yếu để cản bước chân tham vọng của chàng, song nàng cũng quá kiêu hãnh để thú nhận và lấy đó làm cớ ngăn chàng khi thân hình còn mảnh dẻ, cái bụng vẫn phẳng phiu chưa thể xác nhận điều đó. Bởi nếu vậy nàng sẽ phiền lòng vì bị nghi là nói dối và quấy rầy chàng. Nhưng vài tháng sau, khi đã hạ sinh một cậu con trai, nàng không tin rằng mình có quyền để cho Messer Alberico de’ Numi không biết tin gì về việc con trai họ ra đời. Nàng có biết chữ; nàng ngồi hàng giờ để viết một bức thư, lấy tay gạch xóa những từ thừa; sau khi đã hoàn chỉnh, nàng gửi gắm nó cho một thương gia thành Gene mà nàng tin cậy sắp lên đường đi Rome. Messer Alberico không bao giờ trả lời. Dù rằng tay lái buôn đảm bảo với nàng đã trao tận tay bức thư đó, Hilzonde vẫn muốn tin rằng người đàn ông nàng yêu chưa bao giờ nhận được nó. Sống trong tình yêu ngắn ngủi rồi bị đột ngột bỏ rơi, nên nàng chán ngấy cả lạc thú cũng như sự ghê tởm; mệt mỏi với thể xác và trái chín do nó mang lại, nàng áp đặt lên bản thân sự trừng phạt lạnh lùng và có vẻ như trừng phạt lây sang cả đứa con trai. Nàng thờ ơ nằm trên giường nhìn người hầu quấn tã cho cái cục màu nâu nhạt dưới ánh sáng lờ mờ của than cháy trong lò. Chuyện đẻ con hoang chỉ là một tai nạn chung, Henri-Juste có thể dễ dàng thương lượng cho em gái một đám cưới hời, nhưng kỉ niệm về người nàng từng yêu đủ để Hilzonde ngoảnh mặt trước những gã tư sản có giá mà nàng có thể chung chăn gối bằng đám cưới. Nàng kéo lê không hứng thú những bộ quần áo rực rỡ anh trai đặt may cho bằng những loại vải đắt tiền nhất, nhưng do hận thù với chính mình hơn là do ăn năn, nàng không uống rượu vang, không ăn những món ngon, không ngồi trước ngọn lửa ấm áp và thường không mặc màu trắng. Nàng đi lễ nhà thờ rất đúng giờ; tuy nhiên buổi tối sau bữa ăn nếu có thực khách nào của Henri-Juste tố cáo sự bên tha trụy lạc và thói vòi tiền của bọn La Mã, nàng ngừng thùa đăng-ten để nghe rõ hơn, đôi khi tay máy móc rứt đứt cả sợi chỉ để rồi lại nối lại trong im lặng. Rồi cánh đàn ông than vãn rằng cửa biển ngày càng bị cát bồi làm Bruges trống vắng dần trong khi những bờ biển khác tàu bè dễ dàng hơn lại thành tấp nập; người ta chế nhạo ông kỹ sư Lancelot Blondeel, người định ngăn sự lắng đọng này bằng một hệ thống lạch và hố. Hoặc người ta truyền tai nhau những chuyện đùa cợt tục tĩu; ai đó tung ra một chuyện, được kể đi kể lại tới hai chục lần, về một cô gái đang yêu tham lam, một anh chồng bị lừa dối, một anh chàng ve gái phải trốn trong thùng, hay chuyện cánh lái buôn quỷ quyệt lừa nhau. Hilzonde đi vào bếp trông coi bàn dọn bát đĩa; nàng chỉ liếc mắt nhìn con trai đang thun thút bú cô người hầu. Một buổi sáng, Henri-Juste, trở về sau một chuyến đi, giới thiệu với nàng người khách mới. Đó là một người đàn ông có bộ râu cằm màu xám, giản dị và trầm tư đến mức người ta nghĩ ông đang đứng trước làn gió mát lành trên bãi biển không có nắng. Simon Adriansen rất e sợ Chúa trời. Với tuổi tác và với của cải mà người ta nói rằng ông kiếm được một cách trung thực, thương gia người Zélande này được kính trọng như một giáo trưởng. Ông đã hai lần góa vợ, hai bà nội trợ đã lần lượt làm chủ ngôi nhà và chiếc giường của ông trước khi yên nghỉ bên nhau trong nhà mộ gia đình dưới chân tường một nhà thờ ở Middelbourg; các con trai ông đến lượt chúng cũng giàu có. Simon thuộc mẫu người mà sự ham muốn với phụ nữ trao cho ông sự chăm sóc ân cần. Thấy Hilzonde buồn, ông thường đến ngồi bên nàng. Henri-Juste rất biết ơn ông. Nhờ vào món vay của người đàn ông này mà ông đã qua được những bước khó khăn; ông kính trọng Simon đến mức không dám uống nhiều trước mặt ông ta. Nhưng rượu vang không bao giờ biết thôi hấp dẫn. Chúng làm ông trở nên ba hoa. Ông không giữ được lâu những bất hạnh của Hilzonde. Một buổi sáng mùa đông, nàng đang làm việc trong phòng, dưới cửa sổ, Simon Adriansen tiến lại gần nàng và trịnh trọng nói: - Rồi một ngày, Chúa sẽ xóa đi trong tim con người tất cả những luật không thuộc về tình yêu. Nàng không hiểu. Ông nhắc lại: - Rồi một ngày, Chúa sẽ không chấp nhận rửa tội cho bất kỳ ai ngoài Tinh thần và không chấp nhận bất kỳ đám cưới nào ngoài đám cưới mà thể xác hưởng thụ một cách âu yếm. Lập tức Hilzonde bắt đầu run. Nhưng người đàn ông, ân cần và nghiêm khắc, bắt đầu nói với cô rằng làn gió chân thật mới đang thổi vào thế giới, rằng tất cả những luật định ra cho tạo phẩm của Chúa đều là dối trá, rằng thời đại mà việc đơn giản là yêu cũng ngang bằng với việc đơn giản là tin sẽ đến. Trong ngôn ngữ đầy hình tượng như những trang sách thánh của ông, những ngụ ngôn xen lẫn với kỷ niệm về các Thánh, theo ông chính họ đã khiến chế độ bạo chúa La Mã phải thất bại; với giọng hơi nhỏ hơn, nhưng không phải không liếc mắt nhìn để chắc chắn rằng cửa vẫn đóng, ông thú nhận vẫn do dự chưa muốn công khai đức tin Rửa tội lại[16], nhưng ông cũng đã bí mật gạt bỏ hết những khoa trương lỗi thời, những nghi thức phù phiếm và những thánh lễ lừa đảo. Tin theo điều ông nói thì nhà Justes vừa là nạn nhân vừa là kẻ được đặc quyền, năm này sang năm khác đã tự biến thành một bè đảng với nhiều tội ác và sự điên rồ trên thế gian này mà vẫn bình an vô sự; tội lỗi chỉ là do nhầm lẫn, đối với những trái tim trinh trắng, xác thịt vẫn trong sạch. Rồi ông nói về con trai nàng. Đứa con của Hilzonde, được thụ thai ngoài luật nhà thờ, và ngoài ý muốn của chính nàng, với ông hơn ai hết nó được chỉ định để một ngày nào đó mang tin lành đến cho Người trần và Các thánh. Tình yêu của cô gái đồng trinh nhanh chóng bị quyến rũ bởi con quỷ đẹp đẽ người Ý với bộ mặt thiên thần đối với Simon là một hình ảnh phúng dụ huyền bí: Rome là cô gái điếm của Babylone, cô gái ngây thơ ấy đã bị dâng hiến cho hắn một cách đê tiện. Đôi khi, một nụ cười cả tin của kẻ thiên cảm lướt qua trên khuôn mặt to lớn cương nghị, và trong giọng nói bình thản là cái kiên quyết hơi quá đáng của người muốn thuyết phục bản thân, và thường xuyên lừa phỉnh chính mình. Nhưng, ở con người này, Hilzonde chỉ cảm thụ được sự tốt bụng bình tĩnh của ông ta thôi. Trong khi tất cả những người đàn ông vây quanh nàng cho đến nay chỉ cười nhạo hay tỏ lòng thương hại, hay chỉ là một sự rộng lượng hiền từ, thì Simon trò chuyện và nói với cô về người đã bỏ rơi cô: - Chồng cô. Và ông ta nhắc lại với vẻ quan trọng rằng mọi sự phối kết đều không thể chia cắt được trước Chúa. Hilzonde bình tâm lại khi nghe ông nói. Vẫn buồn, nhưng nàng đã trở lại kiêu hãnh. Nhà họ Ligre, luôn hãnh diện về tài buôn bán và có cả một chiếc tàu vượt biển để làm việc đó, trở nên quen thuộc với Simon như nhà của chính ông. Người bạn của Hilzonde năm nào cũng quay lại đây, nàng chờ ông, và, tay trong tay, họ nói chuyện về nhà thờ với tư tưởng sẽ thay thế cho Nhà thờ. Một tối mùa thu, có vài người lái buôn Ý mang đến cho họ một tin mới. Messer Alberico, được bầu là hồng y giáo chủ ở tuổi ba mươi, đã bị giết chết ở Rome trong một cuộc truy hoan tại nhà Farnese. Những bài vè đang rộ lên tố cáo thủ phạm vụ giết người này là hồng y giáo chủ Jules de Medicis, vì không bằng lòng với ảnh hưởng của người em họ tới tinh thần của Đức Cha Thần Thánh. Simon chỉ nghe tin đồn thoát ra từ ổ nhớp nhúa La mã một cách khinh thường. Nhưng, một tuần sau, Henri-Juste nhận được một báo cáo khẳng định lời đồn trên. Vẻ bình tĩnh bên ngoài của Hilzonde không cho người ta đoán được trong lòng cô đang mừng hay đang khóc. - Bà đã thành góa phụ rồi, Simon Adriansen nói ngay với vẻ trang trọng âu yếm mà ông không ngừng gửi tới nàng. Ngược lại với tiên đoán của Henri-Justes, hôm sau ông lên đường. Sáu tháng sau, như thường lệ, ông quay lại và hỏi anh nàng xin cưới nàng. Henri-Justes dẫn ông vào phòng nơi Hilzonde đang ngồi làm việc. Ông ngồi xuống cạnh nàng. Ông nói với nàng: - Chúa trời không cho ta quyền được làm cho tạo phẩm của người đau khổ. Hilzonde ngừng thùa đăng ten. Đôi tay nàng vẫn trải dài trên chiếc kim, và những ngón tay dài run rẩy trên những họa tiết hoa lá chưa hoàn chỉnh làm người ta tưởng tượng ra những hình uốn lượn quyện vào nhau trong tương lai. Simon tiếp tục: - Làm sao mà Chúa trời lại có thể cho ta quyền làm ta đau khổ? Cô gái ngước nhìn ông với khuôn mặt một đứa trẻ bị ốm. Ông nói tiếp: - Nàng không hạnh phúc trong ngôi nhà đầy tiếng cười này. Ngôi nhà của tôi hoàn toàn yên ắng. Hãy đến đó đi. Nàng chấp thuận. Henri-Justes xoa tay. Bà vợ yêu quý của ông Jacquelines, ông cưới ít lâu sau rủi ro của Hilzonde, thì ầm ĩ phàn nàn rằng mình bước vào gia đình này sau một con đĩ và một thằng con hoang một linh mục. Jean Bell, ông bố vợ giàu có người Tournais chuyên gia về cò kè mặc cả, tự cho phép mình vịn vào những lời phàn nàn ấy để khất lần việc trả hồi môn. Thực tế, dù rằng Hilzonde không để ý gì đến con mình, nhưng chỉ cái lúc lắc nhỏ dành cho đứa trẻ ngoài giá thú cũng gây chiến tranh giữa hai người đàn bà. Thiếu phụ tóc vàng Jacquelines từ bây giờ đã có thể thỏa sức tự làm sạt nghiệp bằng đống mũ trùm đầu và yếm dãi thêu thùa, và trong dịp lễ tết, cho thằng con to béo Henri-Maximilien thoải mái đứng lên khăn trải bàn, chân giẫm cả vào các đĩa thức ăn. Dù ghét cay ghét đắng các thánh lễ nhà thờ, nhưng Simon vẫn đồng ý để hôn lễ được cử hành với đôi chút phù hoa, vì đó là ý muốn Hilzonde bất ngờ khăng khăng đòi. Nhưng buổi tối, khi đôi vợ chồng đã rút vào phòng tân hôn, ông bí mật thực hiện lại thánh lễ theo cách của mình, ông bẻ bánh và uống loại rượu vang mình thích. Trong vòng tay âu yếm của ông, Hilzonde sống trở lại, giống một con thuyền mắc cạn gặp nước triều dâng kéo đi. Nàng nhấm nháp không chút xấu hổ sự kỳ diệu từ lạc thú được phép, và tận hưởng cái cách người đàn ông, cúi xuống vai nàng, vuốt ve bộ ngực nàng, như thể làm tình là một cách thức ban phép lành. Simon Adriansen nhận chăm lo cho Zénon. Nhưng đứa trẻ, khi bị Hilzonde đẩy đến khuôn mặt râu quai nón nhăn nheo, hột mụn cơm run rẩy trên đôi môi, nó kêu thét lên, chống cự và giận dữ giằng ra khỏi đôi tay mẹ, ra khỏi chiếc nhẫn làm xước cả tay nó. Nó chạy trốn. Buổi tối người ta tìm thấy nó đang trốn ở xưởng bánh mì cuối vườn, sẵn sàng cấu xé anh chàng người hầu đang vừa kéo nó ra vừa cười đằng sau một đống củi. Simon không còn hy vọng khuất phục được con sói con, phải giải quyết chuyện bằng cách đành để lại nó ở Flandre. Vả lại, rõ ràng là nếu đứa bé đi cùng họ thì Hilzonde không thể dứt ra khỏi buồn não. Zénon lớn lên cho Nhà thờ. Nghiệp tăng lữ vẫn là con đường chắc chắn nhất đối với một con hoang để sống thoải mái và đạt tới danh vọng. Hơn nữa, bé Zénon khát khao hiểu biết; nếu bác nó khó chấp nhận khoản chi giấy bút và nến thắp thâu đêm, thì với linh mục tập sự việc đó lại được. Henri-Justes gửi gắm cậu cho ông em vợ, Bartholomé Campanus, linh mục phụ tá ở nhà thờ Saint-Donatien tại Bruges. Con người thông thái này, bị gầy mòn đi vì những bài kinh và vì đọc sách cao siêu, hiền lành đến nỗi trông như đã già. Ông dạy cậu học sinh của mình tiếng La tinh, chút ít tiếng Hy Lạp và giả kim thuật ông biết, và làm thỏa lòng tính hiếu kỳ của cậu đối với khoa học nhờ cuốn Lịch sử tự nhiên của Pline. Căn phòng lạnh lẽo của linh mục phụ tá là một chỗ ẩn nấp nơi cậu bé tránh tiếng ồn của những người giao hàng đang mặc cả giá len Anh, trốn sự khôn ngoan tầm thường của Henri-Justes, trốn những cái vuốt ve của bọn gái hầu phòng tò mò muốn nếm quả non tơ. Ở đó cậu thoát ra khỏi thân phận nô lệ và cái nghèo của tuổi thơ, những cuốn sách kia và thầy giáo của cậu đối đãi với cậu như người lớn. Cậu yêu quý căn phòng đầy những sách, cái bút lông ngỗng, lọ mực bằng sừng, công cụ của tri thức mới, và thích học hỏi để biết rằng hồng ngọc có ở Ấn Độ, rằng lưu huỳnh kết hợp với thủy ngân, và rằng loài hoa người ta gọi theo tiếng La tinh là lilium được gọi theo tiếng Hy Lạp là krinon và theo tiếng Do thái cổ là susannah. Cậu cũng nhận thấy ngay sau đó là sách cũng dông dài và nói dối như người vậy, và những lời rườm rà của linh mục phụ tá thường để giải thích những sự việc không cần phải giải thích. Bè bạn của cậu toàn những người đáng ngờ: những người bạn thân nhất là anh chàng thợ cạo Jean Myers, một người khéo tay, rất giỏi về khoản trích máu và tầm vóc như tảng đá, nhưng người ta ngờ rằng hắn phẫu tích các xác chết, và một anh thợ dệt nào đó tên Colas Gheel, bê tha khoác lác. Cậu bỏ ra nhiều giờ lẽ ra để học hành hay cầu kinh ngồi cùng họ để phối hợp một cái ròng rọc với một cái tay quay. Colas Gheel to béo, vừa linh hoạt vừa nặng nề, thường tiêu pha không cần đếm số tiền anh ta không có. Những dịp hội chợ, anh ta thường bao cả lũ lau nhau học nghề, ra vẻ ta đây sống đế vương lắm. Con người với khối cơ bắp chắc nịch, tóc rễ tre hung đỏ và da vàng kia là một trong những bộ óc ảo tưởng và mạnh dạn lúc nào cũng trăn trở để chuẩn bị đồ nghề, sửa lại, đơn giản hóa, hay phức tạp hóa cái gì đó. Mỗi năm qua đi, lại có một loạt xưởng trong thành phố đóng cửa, và Henri-Justes, vừa vênh vang là vì kính Chúa nên vẫn cho mở xưởng, vừa tận dụng nạn thất nghiệp để xén gọt dần mức lương thợ. Công nhân của ông lúc nào cũng trong tình trạng sợ xưởng bị đóng cửa, mà tin đồn thì cứ dấy lên không dứt, họ thấy vẫn sung sướng còn có được chỗ kiếm cơm và hàng ngày vẫn đi làm theo tiếng chuông gọi. Họ nói chuyện với nhau giọng đầy thương tâm là sắp tới thôi họ sẽ làm tăng thêm quân số các băng đảng ăn mày, vào thời đắt đỏ này ăn mày tấn công các đường phố và đe dọa những người hữu sản. Colas mơ ước làm nhẹ bớt nỗi nặng nhọc và cảnh khốn quẫn này bằng cách sử dụng những máy dệt cơ khí như đó đây người ta đã thử và tuyệt đối giữ bí mật ở Ypres, ở Gand và ở Lyon tại Pháp. Anh ta đã trông thấy các bản vẽ và bàn luận với Zénon; cậu học trò sửa lại số liệu, hết mình xem xét những bản vẽ, cùng chia sẻ với Colas lòng nhiệt tình đối với những cỗ máy mới trong cơn hứng cảm chung. Đầu gối gấp lại, họ ngồi cúi xuống những đống sắt, không bao giờ biết mệt mỏi, họ cùng nhau treo một đối trọng, sửa một đòn bẩy, dựng và tháo những bánh xe khớp nhau; họ bàn luận mãi không thôi quanh việc để cái bu-loong này ở chỗ nào hay bôi trơn một bộ phận trượt ra sao. Sự hiểu biết về kỹ thuật của Zénon vượt rất xa cái đầu chậm chạp của Colas Gheel, nhưng đôi tay dày dặn của anh chàng thợ thủ công khéo léo làm học trò của linh mục phụ tá phải thán phục, lần đầu tiên cậu thí nghiệm với những đồ vật khác ngoài sách vở. - Prachtig werk, mijn zoon, prachtig werk[17], anh thợ cả nói ì ạch, cánh tay dài của anh ôm lấy cổ cậu học trò. Buổi tối, sau khi học xong, Zénon lén lút đến gặp kẻ đồng lõa, ném một nắm sỏi làm ám hiệu vào tủ kính quán rượu nơi ông chủ xưởng thường ngồi kề cà lâu hơn lý trí của ông. Hoặc chúng hầu như lén lút luồn vào góc kho vắng người nơi Colas ở cùng với đống máy móc của anh. Căn phòng to lớn chìm trong bóng tối; do sợ hỏa hoạn nên nến được cắm giữa một chậu nước đặt lên bàn, như ngọn hải đăng nhỏ trên tiểu đại dương. Chàng học nghề Thomas quê ở Dixmude, làm quản gia cho ông chủ xưởng, nhảy như mèo trên những khung gỗ lung lay, và đi trong đêm đen trên mái ngói, lấy thăng bằng cách một tay cầm đèn lồng hay vại bia. Thấy thế Colas cười to. Ngồi trên một tấm ván, mắt đảo quanh, anh ta nghe Zénon nói ba lăng nhăng từ chuyện các nguyên tử của Epicure đến nhân đôi các hình lập phương, từ bản chất của vàng đến cái ngu dốt của những chứng cứ chứng tỏ sự tồn tại của Chúa trời, và một tiếng huýt sáo nhỏ ngưỡng mộ thoát ra từ môi anh ta. Cậu học sinh tìm thấy giữa đám người mặc áo đua ngựa bằng da thuộc những gì con trai một lãnh chúa tìm thấy ở những người coi ngựa và coi chó săn: một thế giới khắc nghiệt hơn nhưng cũng tự do hơn thế giới của cậu, vì cậu chuyển động xuống thấp hơn, xa rời khỏi những giới luật, xa rời khỏi những tam đoạn luận, luân phiên giữa công việc nặng nhọc và sự lười biếng dễ dãi, mùi vị và hơi nóng con người, ngôn ngữ toàn những lời chửi rủa, nói bóng gió hay các tục ngữ, cũng bí mật như lối nói chuyện của thợ thuyền, trong thế giới ấy người ta không chỉ cúi đầu xuống trang sách với cây bút trên tay. Cậu học trò mưu toan áp dụng những gì thu được từ hiệu thuốc và xưởng cơ khí để bác bỏ hay khẳng định những điều mà trường học nói như đinh đóng cột là đúng hay sai: Platon một bên, Aristote bên kia, cậu coi họ đơn giản như những lái buôn đứng đó trong khi người ta kiểm tra lại khối lượng các món hàng. Tite-Live chỉ là một tay khoác lác; César, dù rất tuyệt vời, thì cũng chết rồi. Từ những nhân vật của Plutarque, mà tinh hoa của họ cùng với dòng sữa Nhà thờ thiên chúa giáo đã nuôi dưỡng linh mục phụ tá Bartholommé Campanus, cậu bé chỉ rút ra được một điều, và điều đó là tinh thần và xác thịt táo bạo của họ đưa họ đi xa và lên cao ngang với việc sống đạm bạc và nhịn bữa sáng, vì những thứ đó dẫn con chiên ngoan đạo lên thiên đường như người ta nói. Đối với linh mục phụ tá; tri thức thiêng liêng và cô em trần tục, hai thứ ấy hậu thuẫn cho nhau: ngày ông nghe Zénon cười giễu những giấc mơ sùng kính trong Giấc mơ của Scipion, ông hiểu rằng cậu học trò của ông đã thầm chối bỏ sự an ủi của Chúa. Tuy vậy, Zénon vẫn vào Trường Thần học Louvain. Sự hung hăng của cậu làm mọi người ngạc nhiên; người trò mới có thể ngay lập tức bảo vệ bất kỳ luận điểm nào, các bạn đồng môn đặc biệt bái phục cậu. Cuộc sống của các cậu tú quả là rộng rãi và vui vẻ; họ hay được mời dự tiệc, song trong những bữa chén ấy cậu chỉ uống độc có nước trắng; và các cô gái điếm làm vui lòng cậu như làm một người khó tính vui lòng dùng món thịt ôi. Người ta đồng tình rằng cậu đẹp trai, nhưng giọng nói nhát gừng của cậu làm người ta sợ; ánh lửa từ đồng tử tối của cậu làm tất thảy mọi người đều bị hấp dẫn và không thích. Người ta truyền tai nhau những đồn đại thổi phồng về sự ra đời của cậu, và cậu không phản bác lại. Các môn đồ của Nicolas Flamel[18]nhanh chóng nhận ra trong cậu học trò lạnh lẽo suốt ngày ngồi đọc dưới vòm lò sưởi dấu hiệu say mê giả kim thuật: một xã hội nhỏ gồm những trí tuệ ham săn tìm và không bao giờ thỏa lòng so với người khác đã mở rộng hàng ngũ để đón nhận cậu. Trước khi kết thúc năm học, cậu đã kịp rẻ rúng nhìn các vị tiến sĩ trong áo chùng lông đang gập mình xuống đĩa đầy thức ăn trong nhà ăn, vẻ tự hào về khối tri thức dày và có giá mà họ có; nhìn đám học sinh ồn ĩ và cục mịch nhăm nhe học hành đến mức đủ đạt được một chức vụ nhàn rồi, những con người cùng khổ mà trí tuệ có thăng hoa chỉ là do máu trai trẻ hối thúc, và rồi sẽ qua đi cùng với tuổi xuân. Dần dần, sự khinh thường lan ra ngay cả với nhóm bạn theo đuổi khoa học huyền bí, tâm hồn họ trống rỗng, họ nhồi nhét vào đầu những từ họ không hiểu và ợ chúng ra như những công thức. Cậu đánh giá một cách chua chát rằng không ai trong số những người lúc đầu cậu tin phục ấy vượt lên cậu hay đi xa bằng cậu về tư tưởng và về hành động. Zénon sống ở tầng trên cùng một ngôi nhà do một linh mục coi sóc; trên cầu thang treo tấm biển ghi rõ tất cả những người sống ở đó phải họp lại cầu kinh sau bữa tối, và tuyên bố những ai dẫn gái điếm về phải nộp phạt, vả lại như thế sẽ đỡ khoản dọn nhà tiêu. Nhưng mùi hôi thối, bồ hóng lò sưởi, giọng nói chua ngoa của bà quét dọn, tường bị đám người trọ trước đây khắc lỗ chỗ những câu La tinh hài hước hay những hình vẽ tục tĩu, ruồi nhặng đậu xuống giấy tờ, đều không làm cho tâm hồn cậu lo bận, với cậu mỗi đồ vật trên thế giới đều là một hiện tượng hay một dấu hiệu. Trong căn gác xép ấy cậu tú đã trải qua nào nghi ngờ, nào thử nghiệm, nào chiến thắng nào chiến bại, nào những giọt nước mắt điên cuồng, nào những niềm vui sướng của tuổi trẻ mà khi đứng tuổi người ta không được nếm hay không quan tâm, mà bản thân cậu sau đó chỉ giữ chúng như một kỷ niệm được xếp vào quên lãng. Cậu bị cuốn hút hơn cả vào những cảm giác đam mê xa lạ nhất với những gì phần lớn mọi người xác nhận hay thú nhận, những đam mê bắt người ta phải bí mật, thường phải nói dối, đôi khi phải đối mặt với thử thách. Chàng David phải đương đầu với Goliath trường học tưởng đã tìm được Jonathan của mình ở một người bạn đồng học biếng nhác tóc vàng, anh này đã nhanh chóng tránh xa, bỏ rơi cậu bạn nóng nảy để đến với những đồng bọn biết thưởng thức rượu vang hơn và chơi xúc xắc giỏi hơn. Vẫn tiếp xúc và hiện diện với bạn, song ngoài quan hệ ngầm ấy không còn gì khác, nó bị giấu kỹ như ruột và máu; quan hệ ấy chấm dứt chỉ có một tác động là càng làm Zénon chú tâm vào học tập. Một người khác cũng có tóc vàng, đó là cô thợ thêu Jeannette Fauconnier, một cô gái kỳ quặc, táo tợn như một thị đồng, quen thấy sau váy mình một đoàn sinh viên. Một tối nọ anh chàng tu sĩ tán cô cả buổi bằng những câu vừa chế giễu vừa lăng nhục. Zénon huênh hoang nói nếu muốn cậu sẽ được cô để ý trong chưa đầy khoảng thời gian phi nước kiệu nhanh nhất từ Halles đến nhà thờ Saint Pierre, thế là một cuộc ẩu đả nổ ra ngay sau đó và nhanh chóng ngã ngũ, người đẹp Jeannette, vì muốn tỏ ra cao thượng, nên đồng ý trao cho người xúc phạm mình lúc này đã bị thương một nụ hôn từ chính miệng nàng, tức là từ cửa lớn của tâm hồn theo lối nói lóng thời đó. Cuối cùng, đến gần Noel, khi Zénon chỉ còn nhớ kỷ niệm lần ra tay ấy do vết sẹo dài giữa mặt, thì cô gái lần đến phòng cậu trong một đêm trăng, không tiếng động cô leo lên cầu thang ọp ẹp và lẻn vào giường cậu. Zénon ngạc nhiên trước cái thân xác uốn éo và trơn nhẵn, khéo léo dẫn dắt trò chơi, với cổ họng bồ câu, rúc rích thì thầm, với tiếng cười khúc khích khẽ khàng để không làm bà chủ nhà thức giấc trong căn gác xép bên cạnh. Cậu chỉ thấy niềm vui xen lẫn với sự sợ hãi của một kẻ đang bơi trong dòng nước mát và lạ. Trong vài ngày, người ta thấy cậu đi dạo một cách ngạo mạn bên cô gái ngơ ngẩn, thách thức lời khiển trách chán ngắt của ông Hiệu trưởng; có vẻ như nàng tiên cá ranh mãnh và khó nắm bắt này đã truyền cho cậu sự say sưa nhục dục. Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một tuần sau, cậu đã hoàn toàn rúc vào đống sách. Người ta trách cậu đã bỏ rơi cô gái ấy nhanh chóng đến thế, mà vì cô cậu đã làm tổn hại, đúng thật là không một chút lo lắng, tới danh dự tu sĩ đầy tiếng tăm: và sự khinh mạt của cậu đối với phụ nữ làm người ta nghi cậu có quan hệ với lũ yêu tinh ma quỷ. Những thú vui mùa hè Mùa hè ấy, vào quãng trước tháng Tám, Zénon về đồng quê như mọi năm, sống trong nhà nghỉ của ông chủ nhà băng. Nhưng lần này nơi cậu về không phải ngôi nhà ở Kuypen thuộc miền quê xứ Bruges trên khu đất Henri-Juste sở hữu từ trước nữa; ông đã mua cả Dranoutre, từ Audenarde đến Tournai, mua cả một lâu đài quý tộc thời cổ đại được sửa chữa lại sau khi người Pháp rút đi. Người ta đã trùng tu ngôi nhà này theo kiến trúc thịnh thành, xây thêm đường chân tường và mấy cột tượng đàn bà. Càng ngày ông già to béo Ligre càng dấn sâu vào lĩnh vực địa ốc, dưới ánh mặt trời, những tài sản này chứng tỏ một cách gần như kiêu ngạo tài sản của ông, trong trường hợp rủi ro nhờ chúng ông vẫn là nhà tư sản tiếng tăm nhất không chỉ ở thành phố này. Ở Tournaisis, ông mở rộng dần từng mảnh một khu đất của Jacqueline vợ ông; gần Anvers, ông vừa mua lãnh địa Gallifort, một khu phụ tuyệt vời bên cạnh văn phòng trên quảng trường Saint-Jacques nơi từ giờ trở đi ông làm việc với Lazarus Tucher. Là chủ kho bạc ở Flandre, sở hữu một xưởng đường tại Maestrict và một xưởng khác tại Canaries, người thầu thuế hải quan ở Zélande, kẻ giữ độc quyền buôn bán phèn cho các vùng đất xức bantích, cùng với nhà Fugger nắm giữ một phần ba số thu nhập của Calatrava, Henri-Juste càng ngày càng giữ nhiều quan hệ với những người có thế lực nhất trên thế giới này: Nữ hoàng nhiếp chính ở Malines đích thân cầm bánh thánh tặng ông; lãnh chúa vùng Croy, chịu ơn ông vì được mượn mười ba nghìn florin, mới đây đã đồng ý đỡ đầu cho con trai mới sinh của ông. Và người ta đã cùng Nữ hoàng chọn ngày làm lễ đặt tên cho cậu ấm tại lâu đài Roeulx của bà. Aldegonde và Constance, hai cô gái vẫn còn rất nhỏ của nhà buôn lớn ngày nào đó sẽ có hàng tá tước hiệu như nay chúng đã có sau đuôi váy của chúng. Xưởng dệt len dạ ở Bruges với Henri-Juste không còn là một xí nghiệp lạc hậu bị chính gấm vóc ông nhập từ Lyon hay nhung nhập từ Đức đánh bật khỏi thị trường. Ông vừa cho dựng trên miền đồng bằng này[19], ở ngoại ô Dranoutre, mấy gian xưởng sắp xếp theo kiểu nông thôn, như thế những luật lệ của thành phố Bruges không còn bó chân bó tay ông nữa. Dưới lệnh ông, người ta đã dựng ở đó khoảng hai mươi máy dệt cơ khí do Colas Gheel sản xuất mùa hè trước theo thiết kế của Zénon. Ông lái buôn muốn dùng thử mấy chàng công nhân bằng gỗ và kim loại, không biết uống rượu và không gào thét, mười người làm công việc của bốn mươi người, và không lợi dụng việc thức ăn đắt đỏ để đòi tăng lương. Vào một ngày trời mát ngả sang thu, Zénon đi bộ đến xưởng dệt ở Oudenove. Người thất nghiệp đi tìm việc đổ tràn tới đây; Oudenove chỉ cách Dranoutre xa hoa huy hoàng chừng mươi dặm đường thôi nhưng cũng có thể ví đây như khoảng cách từ thiên đường xuống địa ngục. Henri-Juste cho mấy người cả thầy lẫn thợ ở trong ngôi nhà cũ sửa lại tàm tạm tại cổng làng; cái nhà ngủ này đang biến dạng dần thành ổ chuột. Zénon chỉ có thể nhận ra Colas Gheel, sáng đó đang say rượu, và một thợ học việc xanh xao ủ ê, tên là Perrotin, đang vừa rửa bát vừa trông chừng ngọn lửa trong nhà. Anh chàng Thomas, mới cưới một cô gái trong xóm, thì còn đang đi dạo trên quảng trường trong chiếc áo cánh bằng lụa màu đỏ mặc hôm cưới. Một người đàn ông vóc người nhỏ bé khô gày đi đứng nhanh nhẹn, tên là Thierry Loon gì đó, trước là thợ cuốn tơ sau đột ngột được thăng chức thành thợ cả, chỉ cho Zénon những chiếc máy cuối cùng cũng được dựng lên nhưng lại nhanh chóng bị hỏng, sau khi đã cho người ta hy vọng kiếm được nhiều nhất và tiêu tốn ít tiền nhất nhờ chúng. Nhưng từ lúc đó tâm trí chàng tu sĩ bị cuốn theo những chuyện khác; mấy cái khung gỗ và đối trọng không còn thu hút anh nữa. Thierry Loon nói về Henri-Juste với giọng tôn sùng khúm núm, song vừa liếc Zénon ông ta vừa than vãn nào thì thực phẩm không đủ ăn, nào thì mấy cái lều gỗ tồi quá, do vật liệu xấu hoặc mấy người quản lý của ông thương gia chỉ xây làm vì, nào thì giờ làm việc dài hơn ở Bruges, tiếng chuông nhà thờ thành phố không còn đánh nhịp công việc của họ nữa. Người đàn ông nhỏ bé tiếc rẻ nhớ lại thời trước cánh thợ sống đoàn kết, thế nên mới được hưởng lợi nhiều, họ vặn cổ bọn thợ tự do và dám đối mặt với giới quý tộc. Ông ta không sợ cái mới; ông rất thích thú nhìn mấy cái lồng gỗ làm việc, mỗi động tác chân tay điều khiển được đồng thời cả hai cần gạt và hai pê-đan, nhưng chúng chạy lên chạy xuống quá nhanh làm kiệt sức người, và những thao tác quá phức tạp khiến các nghệ nhân phải vừa cẩn thận vừa chú tâm, tay và đầu họ không theo kịp. Zénon gợi ý sửa đổi vài chi tiết, nhưng có vẻ như ông thợ cả mới chẳng để tâm nghe. Chắc chắn Thierry đang chỉ nghĩ làm thế nào mà dứt Colas Gheel ra: anh ta nhún vai nói chuyện về anh chàng mặt rỗ nhu nhược, đầu óc lộn xộn, cặm cụi làm ra cái công trình cuối cùng chỉ có mỗi một tác dụng là cưỡng đoạt sức lao động và làm trầm trọng thêm nạn thất nghiệp, con người đần đồn ấy giờ lại quay ra sùng đạo như bị bệnh ghẻ từ khi không được hưởng cuộc sống dễ chịu và thú vui chơi ở Bruges nữa, hắn uống rượu bét nhè, mỗi lần say lại giở giọng ăn năn hối lỗi như cha đạo rao giảng ở quảng trường thành phố. Những con người ở đây đúng là chỉ thích cãi cọ và ngu dốt, họ làm chàng tu sĩ phát kinh tởm; so với họ thì những tiến sĩ khoác áo lông chồn và được trang bị khoa lô gích lại trở lại đắt giá. Tài năng về cơ khí của Zénon không làm gia đình đánh giá cao cậu, bản thân việc là con hoang đã làm cậu bị khinh rẻ và chỉ hơi được tôn trọng với tư cách là linh mục tương lai. Vào giờ ăn tối, trong phòng lớn, Zénon phải lắng nghe Henri-Juste ợ ra những lời bóng bẩy về cách sống của ông: cần phải luôn luôn tránh xa bọn con gái ra, nếu không thể nào chúng cũng tìm cách có chửa, xa những mụ đàn bà có chồng ra, nếu không muốn nhận một phát dao găm, xa các bà góa, vì họ sẽ xâu xé anh, cậu chỉ nên chăm lo cho tiền lợi tức niên kim của mình và cầu Chúa mà thôi. Linh mục phụ tá Bartholommé Campanus, đã quen chỉ yêu cầu các linh hồn những gì ít ỏi mà chúng bằng lòng trao cho đời, không phải đối trí khôn ngoan thô thiển ấy. Hôm đó một đám thợ gặt bắt được một mụ phù thủy đang đái trộm trên ruộng để cầu mưa xuống cho chết hẳn đám lúa mì đã gần như bị thối nước vì những cơn mưa rào khác thường năm nay; không cần xét xử rườm rà người ta đã ném mụ vào lửa; người ta còn cười nhạo mụ thày bói này tự cho mình có phép điều khiển được mưa nhưng lại không biết cách nào tránh được lửa. Linh mục phụ tá giải thích rằng con người kết án những kẻ độc ác bằng ngọn lửa cháy rồi lại tắt chỉ là bắt chước Chúa, vì Chúa bắt họ phải chịu ngọn lửa vĩnh cửu. Câu chuyện về mụ ta không làm ngắt quãng bữa tối ngộn thức ăn; Jacqueline, nóng bức trong tiết hè, vẫn quan tâm đến Zénon với điệu bộ õng ẹo của một người đàn bà đứng đắn. Người đàn bà Flamande to béo này đang trong thời kỳ viên mãn như hoa mẫu đơn, sau mấy lần sinh nở gần đây, nay bà ta đã trở lại xinh đẹp, tự phụ với làn da đẹp và đôi tay trắng nõn. Linh mục vờ như không để ý đến bộ ngực trông phát ngốt, đến những mớ tóc vàng lướt qua gáy cậu tu sĩ đang cúi xuống đọc sách trước khi đèn được mang đến, cũng như không thấy anh chàng thanh niên khinh miệt phụ nữ này nhảy dựng lên vì giận dữ như thế nào. Mỗi sinh vật giống cái với Bartholommé Campanus đều là Marie và Eva tuốt, đó là những người cứu rỗi thế giới này bằng nguồn sữa và nước mắt, và buông thả mình cho rắn độc. Ông cụp mắt xuống mà không một lời phán xét. Zénon ra khỏi nhà, bước từng bước dài. Đất bằng phẳng với cây non và những vùng đất lẫn đá tráng lệ nhanh chóng nhường chỗ cho bãi chăn thả và cánh đồng; một xóm nhỏ lè tè vài mái nhà giấu mình dưới những đụn rạ lô xô. Nhưng Zénon không còn ở tuổi có thể nằm dài bên đống lửa đêm lễ Thánh Jean[20]cạnh những người làm mướn, như ngày xưa ở trang trại Kuypen, trong đêm trời trong đầu hạ. Vào những đêm lạnh, người ta không còn dành chỗ cho cậu trên ghế băng trong lò rèn, nơi đó có mấy người nông dân, lúc nào cũng chỉ có mấy người đó, ngây dại vì lửa nóng, trao đổi vài mẩu chuyện trong tiếng vo ve của những con ruồi cuối cùng trong mùa. Giờ đây mọi thứ đều làm cậu tách ra khỏi họ: phong thái ăn nói chậm chạp đậm đặc những từ dân dã trong làng, cách suy nghĩ chỉ đỡ chậm hơn tí chút, và nỗi lo gây ra bởi một anh chàng biết đọc tiếng La tinh và đọc được những vì tinh tú. Đôi khi cậu cũng dẫn người em họ vào những cuộc chơi đêm. Cậu xuống sân, huýt sáo nhè nhẹ đánh thức bạn. Henri-Maximilien trèo qua ban công, vẫn còn chậm chạp vì chưa dứt ra khỏi giấc ngủ tuổi đang lớn, vẫn còn như ngửi thấy mùi ngựa và cảm thấy mồ hôi chảy ra sau những lần nhào lộn dài hôm trước. Song niềm hy vọng vì biết đâu lại chẳng kiếm được một con điếm rồi lật ngửa nó ra bên vệ đường, hoặc không thì cũng nốc rượu vang đỏ với bọn đánh xe, làm nó hoạt bát lại nhanh chóng. Hai kẻ đi bên nhau qua cánh đồng, giúp nhau nhảy qua hố, hướng tới ngọn lửa một trại người bohemien hay ánh lửa đỏ của một quán rượu xa xa. Lúc trở về, Henri-Maximilien không ngớt tán tụng chiến công của nó; Zénon thì không nói gì về những việc cậu làm. Vụ ngu ngốc nhất là vào một đêm, kẻ thừa kế nhà Ligre lẻn vào chuồng ngựa một lão lái ngựa ở Dranoutre, sơn hai con ngựa cái thành màu hồng. Sáng hôm sau ông chủ tàu ngựa tưởng như chúng bị phù thủy hoá phép. Vào một ngày đẹp trời, người ta phát hiện Henri Maximilien đánh cắp tiền của ông già Juste để chi tiêu trong những lần đi chơi đêm: nửa đùa nửa thực, ông bố và ông con xô vào vật nhau. Người ta đã phải gỡ hai bố con như gỡ con bò tót đực và bò tót con đang lao vào nhau trong chuồng trang trại. Nhưng thường thì Zénon đi một mình, vào bình minh, cuốn sổ ghi chép trong tay, hướng về những làng quê xa hơn, tìm hiểu trực tiếp từ sự vật những tri thức nào đó chẳng ai rõ. Cậu không mệt mỏi cầm đá lên nhấc thử và tò mò nghiên cứu những đường viền nhẵn hay gồ ghề, những sắc độ của vết han gỉ hay ẩm mốc, chúng tự kể lại lai lịch, là bằng chứng của những thành phần kim loại đã tạo nên chúng, chứng nhân cho những ngọn lửa hay những dòng nước thuở xa xưa đã chảy trên mình chúng hay làm đông cứng hình thù chúng. Những con côn trùng nhảy ra từ dưới mặt lá, như những sinh vật lạ kỳ chui từ địa ngục lên. Ngồi trên một mô đất, ngắm những cánh đồng gợn sóng dưới bầu trời xám, đây đó phình ra nhờ những đồi cát dài, cậu nghĩ thời xa xưa có lẽ biển đã chiếm giữ không gian rộng lớn giờ đây đầy lúa mì này, và khi rút đi biển vẫn còn để lại dấu tích giống như của sóng. Vì vạn vật thay đổi, cả hình dạng thế giới, cả những quá trình diễn ra trong thiên nhiên biến động mà mỗi thời điểm kéo dài hàng thế kỷ. Hay đây nữa, cậu đột nhiên quay đầu nhìn, chú ý đặc biệt với bộ điệu lén lút như kẻ săn trộm, những con thú đang chạy, bay và bò trong rừng sâu, chăm chú nhìn những dấu vết chính xác mà chúng để lại khi chúng động dục, khi chúng giao hoan, khi chúng ăn, những ký hiệu cũng như mưu mẹo của chúng, và xem khi lãnh đủ một gậy thì chúng chết ra sao. Cậu đặc biệt cảm tình với loài bò sát bị con người do sợ hãi hay mê tín đã vu oan cho chúng là lạnh lùng, thận trọng, sống nửa phần dưới đất, cuộn chặt trong mỗi khúc thân uốn tròn nghiêng nghiêng kia một loại trí khôn của khoáng chất. Một trong những buổi tối như vậy, trong ngày nóng nhất của thời kỳ nóng bức, một chủ trang trại đột ngột lên cơn đau tim, Zénon vẫn thường được Jean Myers dạy bảo, đành quyết định tự mình trích máu cho ông ta thay vì chờ anh chàng thợ cạo đến giúp trong khi tình hình đã nguy cấp. Linh mục phụ tá Campanus rầu rĩ than vãn sao ông cháu lại làm một việc vô phép đến thế; Henri-Juste bổ đến cứu, cao giọng phàn nàn tiếc cho những đồng đuyca ông bỏ ra cho thằng cháu ăn học nếu như nó lại kết thúc cuộc đời với mũ trích và bồn đựng máu. Anh chàng tu sĩ chịu đựng những lời khiển trách này trong sự im lặng chứa đầy hờn căm. Từ ngày đó, càng ngày cậu càng vắng mặt nhiều hơn. Jacqueline nghĩ chắc cậu bị con bé nào đó con một chủ trang trại hút hồn rồi. Một lần, mang theo cả bánh cho một chuyến đi dài ngày, cậu lang thang đến tận rừng Houthuist. Đó là phần còn lại của rừng cây to từ thời chưa có tôn giáo: những lời khuyên lạ lùng rơi xuống từ đám lá. Ngửa cổ nhìn từ phía dưới những chiều dày của vòm lá kim, Zénon lại mải mê suy nghĩ về những quy luật trừu tượng trong giả kim thuật mà ở trường có nói đến hay nói sai; cậu tìm lại được trong mỗi kim tự tháp thực vật những chữ tượng hình khó hiểu, những ma lực đang lớn dần lên, những dấu hiệu của không khí đã thấm đẫm và nuôi sống những thực thể đẹp đẽ của rừng, mà chúng mang trong bản thân tiềm năng của lửa, và có thể ngày nào đó tiềm năng ấy sẽ thiêu cháy cây rừng. Nhưng phần đang vươn lên này lại cân bằng với phần đang đi xuống sâu: dưới chân cậu, trong bóng tối thế giới rễ cây mù lòa đang bắt chước công việc phân cành không bao giờ kết thúc ở phía trên nơi có bầu trời, chúng thận trọng chui sâu xuống đáy nào đó không thể biết. Đây đó, một chiếc lá vàng sớm dưới tán cây xanh đã phản bội những kim loại có trong nó, mà nó đã chuyển hóa và biết thành chất thể của mình. Gió làm những thân cây lớn lung lay như số phận con người. Chàng tu sĩ cảm thấy vừa tự do, vừa bị đe dọa như con thú về rừng, cảm thấy cân bằng như cây kia giữa thế giới dưới đất và thế giới trên mặt đất, cậu như cũng còng lưng xuống vì những áp lực đè lên người và chỉ dừng lại khi cậu chết. Nhưng từ chết vẫn chỉ là một từ ngữ đối với chàng trai hai mươi tuổi này. Lúc hoàng hôn, cậu nhận thấy trên rêu có dấu vết xe bò chở cây bị chặt; trong bóng đêm đã buông xuống, mùi khói dẫn cậu đến một cái lều của người đốt than. Ba người đàn ông, ông bố và hai cậu con trai; làm nghề đốn cây, là chủ và cũng là nô lệ cho ngọn lửa, đang bắt lửa phải chậm chạp thiêu hủy những nạn nhân của nó, biến những cây gỗ ẩm ướt kêu lép bép thành than để giữ lửa đến vô cùng. Quần áo rách rưới của họ lẫn với thân hình gần giống người Ethiopie, đen nhẻm vì bồ hóng và tro than. Những sợi lông trắng của ông bố, những sợi tóc cứng như cước màu vàng của hai cậu con trai làm người ta ngạc nhiên vì kèm theo đó là bộ mặt đen và bộ ngực đen để trần. Ba người, cũng đơn độc như những ẩn sĩ, gần như quên hay chưa bao giờ biết đến những gì diễn ra trong thế kỷ. Họ không quan tâm ai đang cai trị xứ Flandre, hay năm nay có phải là năm 1529 sau công nguyên hay không. Họ vung vẩy tay mời Zénon, đúng hơn là chào cậu, đón cậu như những con thú trong rừng đón chào đồng loại; chàng tu sĩ không quên rằng họ có thể giết cậu để lấy bộ quần áo thay vì nhường cho cậu một phần bánh và chia cho cậu ít súp rau hoang. Khi đêm đã muộn, do trong lều khói ngột ngạt, cậu đứng lên như thường lệ ra ngoài trời ngắm những vì sao, và đi ra mỏm đá có màu trăng trắng trong đêm đen. Giàn củi của những người thợ làm than cháy rực lên điếc cả tai, được xếp theo hình dạng chuẩn mực như công sự của bọn hải ly hay như một tổ ong. Một bóng đen chuyển động trên không gian màu đỏ; người em ra trông chừng ngọn lửa sáng rực. Zénon cầm một thanh móc cùng cậu ta gỡ những khúc gỗ tròn dính vào nhau quá sớm. Hai ngôi sao Vega và Deneb sáng chói trên các ngọn cây, những thân cây hay cành cây che khuất những ngôi sao thấp hơn trên bầu trời. Chàng tu sĩ nghĩ đến Pythagore, đến Nicolas de Cusa, đến ông Copernic nào đó mới đây vừa trình bày lý thuyết và lập tức được hoan nghênh nhiệt liệt ở nơi này song lại bị cực lực bài bác ở nơi khác trong Trường học, và sự kiêu ngạo ở đâu bay đến khiến cậu có ý nghĩ mình thuộc về giống người khéo léo năng động tìm tòi, những người thuần hóa ngọn lửa, biến đổi các chất và dò xét đường đi của những vì sao. Tạm biệt những người chủ không kèm một nghi lễ như cậu đã tạm biệt những con hoẵng trong rừng, cậu nôn nóng lên đường như thể cái đích mà trí tuệ cậu nhắm tới không còn xa xôi nữa, và như thể cậu phải khẩn trương lên để đạt được nó. Cậu không quên là mình đang nhai những miếng cuối cùng trong khẩu phần tự do dành cho cậu, và chỉ vài ngày nữa sẽ phải quay lại ghế nhà trường, để sau này yên tâm có được một chân thư ký giám mục, ngồi hoàn chỉnh những câu La tinh êm ái hoặc kiếm được cái ghế giảng dạy thần học, ở đó chỉ được phép nói cho thính giả nghe những lời đã được công nhận hay được phép nói. Vì ngây thơ, đặc tính của tuổi trẻ, cậu hình dung rằng cho đến lúc này không có ai chứa chất trong lòng nhiều hận thù với chức nghiệp linh mục như cậu, không ai bị đẩy sâu hơn cậu đến sự nổi loạn và đạo đức giả. Vào lúc này, tiếng kêu cầu cứu của một con chim giẻ, tiếng con chim gõ kiến khoan cành là những bài kinh nhật tụng duy nhất trong buổi sáng. Phân của con vật nào đó bốc hơi nhẹ nhàng trên rêu, dấu vết một con thú đã đi qua đây trong đêm. Nhanh chóng ra tới đường lớn, cậu gặp lại tiếng động và tiếng kêu của thế kỷ. Một đoàn nông dân hoảng loạn đang cầm xiên và xô chạy: một trang trại lớn nằm hẻo lánh đang bốc cháy dưới bàn tay một tín đồ giáo phái rửa tội lại. Cái giáo phái này nay cứ nhung nhúc xuất hiện, trộn lẫn sự căm thù người giàu và người có thế lực với một hình thức tôn sùng Chúa trời đặc biệt. Zénon thương hại thay cho họ. Những con người tự cho là có phép thiên cảm đó chỉ đang nhảy từ một con thuyền rách sang con thuyền đang chìm, và nhảy từ sự lệch lạc lâu đời sang một sự điên rồ hoàn toàn mới. Nhưng do kinh tởm những kẻ giàu có hiện đang vây quanh cậu nên sức mạnh vô hình nào đó đã đưa cậu đứng về phía người nghèo. Đi xa hơn một chút, cậu gặp một thợ dệt bị đuổi việc khoác túi ăn mày đi cầu thực phương trời khác, và cậu mong muốn kẻ lang thang ấy sẽ ít gặp khó khăn hơn cậu. Ngày hội ở Dranoutre Một buổi tối, sau một lần lang thang nhiều ngày, Zenon trở về nhà trong bộ dạng hốc hác gầy rộc, từ xa anh thấy ngôi nhà sáng rực đến mức tưởng là lại có đám cháy nữa. Trên lối vào nhà, đoàn xe ngựa cồng kềnh đứng chiếm hết đường đi. Đến lúc đó anh mới nhớ ra rằng Henri-Juste đã ước vọng và thương lượng từ nhiều tuần nay để được đón tiếp hoàng gia. Hiệp định hoà bình Cambrai vừa được ký kết. Người ta gọi đó là Hiệp định Hòa bình của các Bà, vì nhiệm vụ khó khăn ấy được hai Hoàng hậu[21]gánh vác, khép lại những vết thương của thế kỷ. Linh mục phụ tá Bartholommé Campanus đã ví họ trong những bài diễn thuyết của mình như những nữ thánh. Hoàng Thái hậu nước Pháp, lúc đầu vẫn lo lắng vì các vì sao còn ở vị trí bất lợi, sau cùng cũng đã rời khỏi Cambrai trở về Louvre. Còn Hoàng hậu nhiếp chính xứ Hà Lan đang trên đường về Malines, đêm nay dừng lại nhà nghỉ của Ông Chủ kho bạc lớn của Flandre, và Henri-Juste đã lo mời những người có danh vọng trong vùng, lùng mua khắp nơi nào sáp nào đồ ăn hiếm, mời dàn nhạc công của Giám mục Tournai, và chuẩn bị một trò giải trí theo kiểu cổ đại trong đó những vị thần đồng nội mặc gấm vóc và những nữ thần sông núi trong áo xoa xanh dâng lên Lệnh Bà Marguerite một bữa ăn nhẹ, bánh, kem hạnh và mứt quả. Zénon lưỡng lự không muốn bước vào phòng, sợ rằng bộ quần áo đã cũ, lấm bụi đường và mùi mồ hôi trên cơ thể chưa tắm rửa sẽ không cho anh cơ may được những người quyền thế nhất thế giới này để mắt tới; lần đầu tiên trong đời với anh những lời nịnh hót và những mánh khoé là một nghệ thuật giúp con người ta thăng tiến, và trở thành thư ký riêng hay gia sư của hoàng tử vẫn hơn là làm một thông thái rởm ở trường hay thợ cạo ở làng. Rồi thói kiêu hãnh tuổi hai mươi đã chiến thắng, vả lại anh vẫn tin rằng sự may mắn của mỗi người phụ thuộc vào bản thân anh ta và vào sự may rủi mà các vì sao trao tặng. Anh bước vào ngồi trên lò sưởi trang trí bằng những chùm lá kết, và nhìn quanh ngắm nghía chư thần Olympe trần gian. Đàn nữ thần sông núi và thần đồng nội trong trang phục kiểu cổ là con cháu mấy chủ trại giàu có và quý tộc thôn quê, Ông chủ lớn để mặc cho họ tự tiện trong nhà mình. Dưới tóc giả và lớp phấn, Zénon nhận ra những sợi tóc vàng cứng đanh với những đôi mắt xanh, và dưới tà váy xẻ hoặc vén lên là những đôi chân hơi nặng nề của những cô gái quê, một vài người trong số họ đã có lần âu yếm khêu gợi anh trong bóng tối một đụn rơm. Henri-Juste, còn màu mè và sung huyết hơn cả ngày thường, mời khách thưởng thức sự xa xỉ của nhà lái buôn. Hoàng hậu nhiếp chính vận đồ đen, nhỏ thó và tròn trịa, mang vẻ mặt xanh xao buồn bã kiểu góa phụ, với đôi môi mím chặt của một bà quản gia tốt không chỉ quản lý chăn giường bát đĩa mà cả một Nhà nước. Những kẻ tán dương thi nhau tâng bốc lòng thương người và trí tuệ của Lệnh Bà, tâng bốc cái phẩm hạnh làm Lệnh Bà thích những buồn phiền khắc khổ của đời goá phụ hơn là cưới chồng lần nữa; những kẻ gièm pha có thì thầm với nhau là Lệnh Bà yêu phụ nữ, song cũng đều đồng tình rằng sở thích này sẽ không gây tai tiếng như sở thích tương tự đàn ông, vì họ tuyên bố nếu một phụ nữ có sống như nam giới thì cũng đẹp hơn là một người đàn ông bắt chước đàn bà. Hoàng hậu nhiếp chính mặc bộ quần áo sang trọng lộng lẫy nhưng khắc khổ, như thể nó phục vụ cho một nữ hoàng buộc phải có những dấu hiệu bề ngoài cho người ta thấy địa vị đế vương, nhưng bản thân lại ít để ý đến việc quyến rũ hoặc làm người khác ngưỡng mộ. Vừa nhấm nháp kẹo bánh, Lệnh Bà vừa lịch sự để tai nghe Henri-Juste chêm những câu nói đùa vui vẻ vào lời chúc tụng kiểu cung đình, trong bộ điệu một phụ nữ sùng đạo, không hề đoan trang nhưng rất biết cách nghe không phản đối những lời nói vô tội vạ của đàn ông. Quan khách đã thưởng thức hết rượu vang vùng sông Ranh đến vang Hung ga ri rồi Pháp; Jacqueline mở móc cài nịt ngực bằng dạ bạc, và gọi người mang cậu út đến, đứa bé chưa cai sữa lúc này cũng đang khát. Henri Juste và vợ muốn khoe cậu ấm mới toanh, nhân vật làm họ trẻ hẳn ra này. Bầu vú lấp ló trong vải áo nón nà quyến rũ quan khách. - Ta sẽ không quên, Hoàng hậu nhiếp chính nói, rằng anh chàng này đã được bú dòng sữa của một bà mẹ tốt. Bà hỏi đứa trẻ được đặt tên là gì. - Nó mới chỉ được rửa tội tạm[22]thôi ạ. - Người phụ nữ xứ Flamand trả lời. - Vậy thì - Hoàng hậu Marguerite nói - hãy đặt tên cho nó là Philibert như phu quân đã đến bên Chúa của ta. Henri-Maximilien, đã quá chén, đang ba hoa với đám thị nữ về những chiến tích mà cậu sẽ thực hiện khi đến tuổi. - Trong thế kỷ đau thương này cậu ta sẽ không thiếu cơ hội chiến đấu đâu, Hoàng hậu Marguerite nói. Bà tự hỏi không biết Ông Lắm tiền này có đồng ý cho Hoàng đế vay với lãi suất mười hai mà nhà Fugger đã từ chối không, và ai sẽ chi phí cho chiến dịch cuối cùng, hoặc cho cuộc chiến sắp tới, biết đâu đấy, vì người ta thừa hiểu thế nào là một hiệp định hoà bình. Chỉ cần phần nhỏ trong số nhiều triệu ê quy là đủ để hoàn tất nhà thờ của Bà tại Brou, ở Bresse, nơi ngày nào đó Bà sẽ đến ngủ bên cạnh lang quân cho đến ngày tận thế. Trong khi đưa chiếc thìa bạc nạm vàng lên môi, Bà lại thấy trong đầu người đàn ông trẻ trung ở trần, tóc bết mồ hôi cho sốt, ngực phồng lên vì tràn dịch màng phổi, nhưng vẫn đẹp như thần Apollon([23]), Bà đã tiễn đưa hai mươi năm trước đây. Không gì có thể an ủi Bà, kể cả con vẹt Ấn Độ Người tình Xanh, sách vở, khuôn mặt dịu dàng của Bà Laodamie thân thiết, kể cả những công to việc lớn, cả Chúa trời, người dìu dắt và người tâm tình của các ông hoàng. Hình ảnh cái chết trở về kho cất giữ những hồi ức; mứt trong thìa loang ra lưỡi, truyền vào đó vị của món kem tráng miệng ướp lạnh; Bà trở lại chỗ ngồi bên bàn ăn mà bà chưa hề rời chân đi, trở lại với đôi tay ửng đỏ của Henri-Juste trên chiếc khăn rải đỏ sẫm, với đồ trang sức rực rỡ trên người bà thị nữ d’Hallouin được sủng ái, trở lại với đứa trẻ đang thiếp ngủ trên bộ ngực bà vợ ông lái buôn, và ở góc kia, trên lò sưởi, một thanh niên có bộ mặt điển trai kiêu ngạo đang ăn không để ý gì tới các quan khách. - Thế anh chàng ru rú ở góc lò sưởi kia là ai? - Bà cất tiếng hỏi. - Đây là các con trai hạ thần, Henri-Juste vẻ bất bình nói, vừa chỉ Henri Maximilien và đứa trẻ sơ sinh bọc trong chiếc khăn thêu. Bartholommé Campanus nhỏ giọng kể cho Hoàng hậu nhiếp chính nghe câu chuyện của Hilzonde, vừa kể vừa than thay cho mẹ của Zénon sao lại lạc lối vào con đường tà đạo. Thế là Bà Marguerite quay sang ông linh mục tranh luận về đức tin và các tác phẩm được tất cả những ai sùng đạo và có học vấn ở thời đại này đọc đi đọc lại mỗi ngày, Bà vẫn hay tranh luận về chủ đề này dù rằng những câu chuyện phù phiếm ấy chẳng nhằm giải quyết vấn đề hay chẳng làm bà thấy tính hão huyền của nó. Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa; tiếng động rụt rè nhưng cửa bị đẩy ra, đám đông tràn vào. Đó là những thợ dệt len người ta đã bố trí cho đến Dranoutre để tặng Hoàng hậu nhiếp chính một món quà đắt giá, cho ngày hội thêm vui vẻ. Nhưng hai ngày trước đó có ẩu đả xảy ra tại một xưởng, toán thợ biến thành một đám như đám loạn. Toàn bộ những người sống trong nhà tạm với Colas Gheel đang đứng đó để đòi ân xá cho Thomas de Dixmude, anh này bị kết án treo cổ vì đã dùng búa đập phá máy dệt vừa được dựng lên và mới vận hành. Đám người hùng hổ đó, lẫn cả người chuyên chầu chực kiếm việc ở các phiên chợ đang bị thải hồi, và những kẻ tình cờ lang thang trên đường, đã mất tới hai ngày mới đi hết vài dặm đường từ xưởng tới nơi đang hội hè ở Dranoutre. Collas Gheel bàn tay bị thương vì che chở cho máy song lại đứng hàng đầu trong đám người khiếu nại. Zénon cố lắm mới nhận ra người bạn mạnh mẽ hồi anh mười sáu tuổi trong bộ mặt đang lẩm bẩm nói kia. Chàng tu sĩ kéo tay áo tên thị đồng đã cho anh kẹo, và biết rằng Henri-Juste không muốn nghe lời ca thán của bọn bất bình, nhưng người ta cũng đã đồng ý để họ ngủ ở bãi cỏ, ăn thức ăn thừa của nhà bếp. Cả đêm trước đám người hầu đã phải canh chừng chạn bếp, bát đĩa bạc, hầm rượu và kho pho mát. Tuy vậy những con người bất hạnh này có vẻ nhu mì như đàn cừu được dẫn đến chỗ cắt lông, họ bỏ mũ và những người khúm núm nhất còn quỳ cả xuống. - Xin hãy ân xá cho Thomas, bạn tôi. Xin hãy ân xá cho Thomas, máy móc của tôi đã làm anh ấy lú lẫn - Colas Gheel ê a nói - Anh ấy quá trẻ để chết dưới giá treo cổ. - Gì cơ? - Zénon nói, anh bảo vệ cái thằng ăn mày đã vứt công trình của chúng ta đi ư? Anh bạn Thomas đẹp trai thích nhảy đấy: cầu cho anh ta sẽ được nhảy múa giữa trời. Cuộc đối đáp bằng tiếng Flamand làm các cô thị nữ cười rộ lên. Chưng hửng, Colas Gheel đảo ngược đôi tròng mắt xanh xao, lấy tay làm dấu thánh giá khi nhận ra bên lò sưởi cậu tu sĩ ngày xưa từng là bạn nối khố. - Chúa thử lòng tôi - người đàn ông có cánh tay bị băng bật khóc - tôi đã thích thú với đống ròng rọc và tay quay như trẻ con thích đồ chơi. Một con quỷ đã chỉ cho tôi các con số và các tỉ lệ, và tôi đã nhắm mắt dựng lên một cái giá treo cổ có dây thòng lọng. Và anh ta lùi lại một bước, dựa vào vai cậu bé học nghề gầy yếu Perrotin. Một người đàn ông nhỏ thó nhưng nhanh nhẹn như thuỷ ngân, Zénon nhận ra đó là Thierry Loon, chạy đến tận trước mặt Hoàng hậu để chìa ra trước mặt Ngài lá đơn, bà trao lại đơn cho một quý ông tuỳ tùng với vẻ thờ ơ bên ngoài. Ông chủ nhà băng khúm núm ép Lệnh Bà sang phòng lớn bên cạnh, nơi nhạc công đang chuẩn bị chơi nhạc và hát cho các quý bà nghe. - Những kẻ phản bội Nhà thờ trước sau gì rồi cũng phản bội Đức vua của họ thôi, Hoàng hậu Marguerite kết luận và đứng lên, kết thúc cuộc tranh luận chăm chú với linh mục phụ tá bằng những lời lẽ kết tội phái Cải cách. Henri-Juste nhìn đám thợ dệt thúc giục, thấy thế họ tiến đến trang trọng trao tặng bà góa uy nghi chiếc nơ gắn ngọc trai thêu. Bà dịu dàng nhận món quà bằng đầu những ngón tay đeo đầy nhẫn. - Thưa Lệnh Bà, ông lái buôn nói nửa đùa nửa thật, Lệnh Bà thấy người ta nhận được những gì khi vẫn mở xưởng để mà lỗ chỉ vì tử tế rồi đấy. Những tên nông dân này cãi cọ làm phiền tai Lệnh Bà, nếu ở đây có quan tòa làng thì ông ta chỉ cần nói một từ thôi là chấm dứt hết. Hạ thần mà không có trái tim mềm mại như nhung và vải cải hoa của hạ thần thì… Hoàng hậu nhiếp chính nhún vai, như Ngài vẫn thường thế khi thấy áp lực xã hội, Ngài bắt đầu nhấn mạnh phải cầm cương cho vững trước sự bất phục tùng của nhân dân, thế giới này vốn đã bị các ông hoàng tranh chấp nhau, bọn Thổ tiến quân, những tà thuyết phá hoại Nhà thờ làm rối loạn. Zénon không nghe thấy tiếng linh mục phụ tá thì thầm bảo cậu đến gần Đức bà. Tiếng ghế xô rền hoà vào tiếng đám thợ dệt than vãn. - Không, ông lái buôn vừa đóng cánh cửa sang phòng lớn vừa lên giọng kiên quyết, và đối mặt với đám người như con chó đôgơ trước đàn cừu. Không có thương xót gì cái thằng Thomas hết, nó sẽ bị gãy cổ như nó đã phá gãy đống máy móc của ta. Liệu các anh có hài lòng cho kẻ khác đến nhà phá chiếc giường gỗ của các anh không? Colas Gheel rống lên như một con bò bị cắt tiết. - Im đi, anh bạn - ông lái buôn nói giọng khinh bỉ. Anh hát như vậy sẽ làm hỏng cả nhạc người ta đang chơi cho các quý bà đấy. - Cậu là người hiểu biết, Zénon, tiếng La tinh và tiếng Pháp của cậu nghe hay hơn tiếng Flamand của chúng tớ, Thierry Loon nói, anh ta dẫn dắt đám người bất bình còn lại như người hát lễ tận tụy đang dẫn dắt dàn đồng ca nhà thờ. Hãy giải thích cho họ là người ta chất thêm việc lên đầu chúng tớ và giảm lương chúng tớ, và bụi từ đám máy móc ấy sẽ làm chúng tớ bị ho ra máu. - Nếu đám máy móc ấy mà được nhân ra ở toàn xứ thì chúng ta sẽ bị om xương, một thợ dệt nói. Chúng ta không phải sinh ra để tự nghiền thân mình giữa hai bánh xe như con sóc trong lồng đâu. - Các anh tin rằng tôi sẽ tôn sùng đống máy móc mới này như người Pháp ư? - Ông chủ nhà băng nói, giọng hiền lành pha nghiêm khắc như đường trộn nước nho xanh. Mấy cái bánh xe với nắp van ấy không đáng sánh với đôi cánh tay những con người trung thực. Tôi có phải là con quỷ ăn thịt người đâu? Sẽ không có ai bị doạ nạt nữa, không ai còn phải than vãn vì bị phạt do dệt thiếu hay chỉ bị đứt nữa; sẽ không có những đề nghị tăng lương ngu xuẩn cứ như tiền là vỏ hến, đống khung gỗ kia để cho nhện nó chăng! Các anh sẽ được gia hạn hợp đồng sang năm sau, lương như năm ngoái! - Lương như năm ngoái, một giọng nói kêu lên bất bình, song đã yếu hơn trước. Lương như năm ngoái, trong khi quả trứng bây giờ còn đắt hơn con gà vào lễ Thánh Martin trước. Thà cầm gậy đi lang thang còn hơn. - Thomas cứ việc toi mạng đi, miễn là tôi được đi làm trở lại, một ông già lang thang từ phiên chợ này sang phiên chợ khác hét lên bằng tiếng Pháp giọng lạc đi, khuôn mặt ông còn hoang dại hơn thế. Các ông chủ trang trại xua chó đuổi tôi, còn những ngài tư sản thành phố thì ném đá đuổi tôi. Tôi thích nằm đệm rơm ở nhà tạm còn hơn nằm đáy hố. - Những máy dệt mà mọi người làm hỏng lẽ ra đã biến bác tôi đây thành vua và mọi người thành những ông hoàng, tu sĩ nói vẻ tức giận. Nhưng tôi chỉ thấy ở đây một ông giàu có tàn ác và những người nghèo ngu ngốc. Tiếng gầm gừ dậy lên từ dưới sân nơi đám người đứng phía sau chỉ nhìn thấy đèn đuốc tưng bừng của đám hội và phần trên những đồ vật trang trí. Một hòn đá làm vỡ tấm cửa kính được vẽ huy hiệu; ông lái buôn nhanh nhẹn tránh cơn mưa đá. - Hãy dành ném đá vào anh chàng hão huyền này. Anh ta ngây thơ muốn các anh tin rằng các anh có thể chây lười bên cạnh những ống sợi mà tự mình nó có thể làm việc nhanh bằng tám bàn tay, ông chủ lớn nhà Ligre nói vẻ nhạo báng, vừa nói vừa chỉ vào thằng cháu đang co ro bên lò sưởi. Tôi mất tiền còn Thomas bị treo cổ. Ôi đúng là một dự án của một thằng đần chỉ biết đến sách vở. Người bạn ngồi bên lửa chỉ nhổ toẹt không đáp lại. - Khi Thomas thấy chiếc máy dệt làm việc ngày đêm bằng bốn người, anh ta chẳng nói gì đâu, Colas Gheel nhắc lại, nhưng anh ấy run rẩy rồi đổ mồ hôi như thể anh ta sợ vậy. Rồi người ta đã sa thải anh ấy trong số những người đầu tiên bị sa thải khi người ta giảm bớt số thợ học việc của tôi. Rồi thì cối xay gió vẫn kẽo kẹt, mấy cây sào sắt vẫn tiếp tục dệt vải chẳng cần tới ai. Rồi Thomas ngồi lại cuối nhà với vợ mới cưới hồi mùa xuân, tôi nghe họ run lập cập chắc rét lắm. Và tôi hiểu là máy móc của tôi là tai hoạ, như chiến tranh, như thực phẩm đắt đỏ, như len dạ ngoại… Rồi tay tôi bị thương thế này là đáng lắm. Và bây giờ tôi bảo rằng con người vẫn phải thực sự làm việc, như ông cha ta trước cũng thế, và bằng lòng với hai cánh tay với mười ngón tay. - Thế còn anh, anh là gì vậy - Zénon tức giận kêu lên - nếu không phải là một cái máy người ta không tra dầu mỡ mà vẫn dùng, người ta dùng anh đến lúc cũ nát, ném anh vào xó xỉnh nào đó và bất hạnh thay anh lại sinh ra những kẻ khác cũng như thế? Tôi đã tin rằng anh là một con người, Colas ạ, và tôi chỉ thấy một con chuột chũi mù quáng. Các anh là lũ thú vật không lửa, không nến, không thìa nếu người ta không nghĩ đến điều đó cho các anh, các anh sẽ phát hoảng lên khi nhìn thấy cái máy cọc sợi lần đầu tiên. Hãy quay về cái nhà tạm ấy đi để thối tha dưới cái chăn đáng giá năm sáu xu, và hãy vắt kiệt sức mình vì những dải lụa trang sức và nhung len như cha ông anh đã làm. Cậu bé học nghề Perrotin vớ lấy cái cốc để trên bàn và xông vào Zénon. Thierry Loon nắm lấy cổ tay cản cậu ta lại; cậu ta kêu gầm gừ liến thoắng một tràng đe doạ bằng thổ ngữ vùng Picardie, vừa nói vừa vặn người như con rắn. Bỗng giọng như sấm rền của Henri-Juste thông báo sẽ khui vài thùng rượu uống mừng Hoà bình, ông ta vừa giục một đầu bếp ở dưới chuẩn bị. Đoàn người xô Colas Gheel, đang hoa chân múa tay với đôi tay quấn băng; Perrotin chuồn đi, giật mạnh tay ra khỏi nắm đấm của Thierry Loon. Chỉ còn vài cái đầu tỉnh táo ở lại, hòng mong đòi thêm được vài xu cỏn con thêm vào lương cho hợp đồng tới. Thomas và vụ việc của anh ta bị quên bẵng. Người ta cũng không nghĩ tới việc khẩn nài lần nữa Hoàng hậu nhiếp chính đang thoải mái ngự tại phòng bên. Ông thương gia là thế lực duy nhất mà những kẻ lao động biết đến và sợ; họ chỉ nhìn Hoàng hậu Marguerite từ xa, như họ chỉ nhìn thấy một cách lẫn lộn và trên tổng thể bát đĩa bạc Ngài dùng, đồ trang sức của Ngài, và trên những bức tường hay trên cơ thể những quan khách có mặt là vải vóc và những dải băng do chính tay họ dệt. Henri-Juste mỉm cười về chiến thắng nhờ bài diễn văn và sự hào phóng của ông. Sự ồn ĩ ấy, nói chung, chỉ kéo dài chưa đầy thời gian chơi một khúc motet. Những cái máy mà ông ta từng cho là không mấy quan trọng vừa mới chứng tỏ là chỗ dựa cho một cuộc mặc cả mà không tốn nhiều tiền. Có lẽ sau này sẽ dùng chúng trở lại, nhưng chỉ khi, vì rủi ro nào đấy, nhân công bỗng đắt đỏ khủng khiếp, hay thiếu nhân công mà thôi. Zénon, ông ta vẫn lo lắng về sự có mặt của cậu ở Dranoutre, như tàn lửa trong kho thóc, sẽ mang những ảo tưởng của hắn và đôi mắt rực lửa làm chết giúi chết giụi đám con gái đi lang thang chỗ khác; và Henri-Juste tí nữa sẽ có thể tự vênh vang ở chỗ cao sang rằng mình biết cách cai quản đám tiện dân trong lúc nước sôi lửa bỏng, và có vẻ như nhường nhịn chúng một bước nhưng không bao giờ nhường bước. Từ khuôn cửa sổ, Zénon nhìn xuống dưới nơi những bóng đen lẫn với bọn hầu và lính của Hoàng hậu nhiếp chính. Những ngọn đuốc treo trên tường chiếu sáng cho cuộc vui. Chàng tu sĩ nhận ra trong đám đông Colas Gheel với mái tóc đỏ và quần áo trắng. Cũng xanh xao như khối băng quấn trên tay anh ta, dật dờ như cái thùng rỗng, anh ta uống thun thút thứ chất đựng trong một vại lớn. - Anh ta nốc bia trong khi ông bạn Thomas đang toát mồ hôi vì sợ trong tù, Zénon khinh bỉ nói. Và tôi đã từng yêu quí anh ta. Dòng dõi của Simon - Pierre. - Yên nào, Thierry Loon vẫn đang đứng bên cạnh nói. Cậu vẫn còn chưa biết thế nào là nỗi sợ và cái đói đâu. Và, thúc vào khuỷu tay vào Zénon: - Thôi để Colas và Thomas đó, và từ giờ hãy nghĩ tới chúng ta. Người của tớ theo dõi cậu như chỉ đi theo con thoi ấy, anh ta thì thầm. Họ nghèo khổ, ngu dốt, đần độn, nhưng lại đông, lúc nhúc như sâu, thèm thuồng như lũ chuột ngửi thấy mùi pho mát. Đống máy móc của cậu sẽ làm họ hài lòng nếu chúng chỉ riêng thuộc về họ. Họ sẽ bắt đầu bằng việc đốt một ngôi nhà vui chơi, rồi kết thúc bằng việc chiếm cả thành phố. - Vào mà uống với những người khác đi, ông say ạ - Zénon nói. Và, rời căn phòng, cậu đi xuống cầu thang. Trên bậc cầu thang, trong bóng tối cậu vấp phải Jacqueline đang đi lên, hổn hển, tay cầm chùm chìa khoá. - Tôi cài then hầm rượu rồi - bà ta thì thầm - Biết đâu được với chúng nó? Và, bám lấy tay Zénon chỉ cho anh ta thấy tim bà đập thình thịch: - Ở lại đây, Zénon! Tôi sợ lắm. - Bà hãy đến chỗ mấy người lính ngự lâm, họ sẽ trấn an Bà, chàng tu sĩ trẻ nói khô khan. Hôm sau, linh mục phụ tá tìm học trò để báo rằng Bà Marguerite, trước khi lên xe, đã được biết đến tài học tiếng Hy lạp và tiếng Do thái cổ của cậu, đã tỏ ý muốn nhận cậu vào đám người hầu trong đoàn tuỳ tùng của Bà. Nhưng phòng của Zénon không có ai. Theo lời những người hầu, cậu đã ra đi từ sáng sớm. Mưa không ngừng rơi từ mấy tiếng đồng hồ có làm chậm lại đôi chút giờ lên đường của Bà Nhiếp chính. Đám thợ dệt đã trở về Oudenove, không bất bình lắm vì cuối cùng cũng được Ông Chủ lớn tăng lương nửa xu cho mỗi livre. Colas Gheel đang đắp khăn trải giường ngủ cho giã cơn say. Còn Perrotin, anh ta đã biến mất từ sớm. Sau này người ta biết đêm đó anh ta đe dọa Zénon không ngớt lời. Anh ta cũng khoe chơi dao rất tài. Rời khỏi Bruges Wiwine Cauwersyn ở với bác cô, linh mục nhà thờ Jerusalem tại Bruges, cô có căn phòng nhỏ lát gỗ sồi nhẵn bóng. Người ta thấy trong phòng một chiếc giường màu trắng hẹp, một chậu cây dương thảo trên bệ cửa sổ, một cuốn kinh lễ trên giá sách, tất cả đều sạch sẽ, sáng sủa và an bình. Mỗi ngày, vào giờ cầu kinh đầu tiên, cô bé giữ kho đồ thờ đến trước những con chiên đầu tiên, và kẻ ăn mày vẫn thường đi sớm chiếm chỗ tốt ở góc cổng nhà thờ; ở điện thờ, chân đi giày dạ, cô lon ton chạy đi chạy lại thay nước trong bình, cẩn thận lau những giá nến và bình đựng bánh thánh bằng bạc. Cái mũi nhọn, vẻ mặt xanh xao, cử chỉ vụng về của cô không làm người ta thốt ra những lời phàm tục như mỗi khi có một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, chỉ có cô Godelieve âu yếm ví mái tóc ánh vàng của cô với màu những bánh cúc nướng già và bánh thánh, và toàn bộ con người cô toát lên vẻ sùng đạo và đảm đang gia đình. Tổ tiên của cô yên nghỉ trong những lọ đồng đánh bóng để dọc theo các bức tường khấn nguyện hẳn sẽ rất vui khi nhìn thấy cô ngoan ngoãn. Vì cô xuất thân từ một gia đình có địa vị tốt. Bố cô, Thibaut Cauwersyn, thị đồng cũ của bà Marie de Bourgogne[24], là người khênh chiếc băng ca mang bà công tước bị thương đến chết về nhà giữa tiếng nức nở cầu Chúa. Hình ảnh cuộc đi săn định mệnh ấy không bao giờ ra khỏi trí óc ông; suốt cả cuộc đời, ông vẫn giữ trong mình sự kính trọng đau thương trước bà chủ qua đời quá sớm, tình cảm kính trọng trìu mến này gần giống như tình yêu. Ông đi đây đi đó; ông phục vụ Hoàng đế Maximilien ở Ratisbonne, ông trở về chết ở Flandre. Wiwine còn nhớ hình ảnh người to lớn, bế cô đặt giữa hai đầu gối bịt da và nho nhỏ hát một bài vè tiếng Đức. Bà cô Cleenwerk nhận nuôi đứa trẻ mồ côi. Đó là một phụ nữ tốt bụng to béo, em và quản gia của linh mục nhà thờ Jérusalem; bà làm những nước xi-rô rất bổ dưỡng và mứt ướt ngon tuyệt vời. Linh mục phụ tá Bartholommé Campanus là khách thân của ngôi nhà đầy hương vị sùng kính Cơ đốc giáo có bà chủ nấu ăn tuyệt ngon này. Ông gửi cậu học trò ở đây. Cô và cháu thay nhau chăm cậu học trò bằng những món ăn nóng hổi mới rút trong lò ra, rửa những vết trầy xước ở đầu gối hay ở tay cho cậu sau những lần cậu ẩu đả hay bị ngã, thán phục những tiến bộ của cậu môn tiếng La tinh. Rồi sau, vào một trong những lần hiếm hoi cậu học trò trường Louvain về thăm Bruges, ông linh mục không cho cậu quay lại ở nữa, vì cảm thấy từ con người cậu có luồng khí vô thần và dị giáo. Nhưng Wiwine sáng hôm đó được một cô bé bán hàng rong cho biết người ta vừa thấy Zénon người đầy bùn đất ướt đẫm đang lội mưa đi đến hiệu thuốc của Jean Myers, và cô bình tĩnh chờ cậu đến tìm cô ở nhà thờ. Cậu bước vào qua lối cửa thấp không một tiếng động. Wiwine chạy đến bên cậu, tay vẫn còn cầm khăn trải bàn thờ, với vẻ ân cần ngây thơ của cô gái ưa phục vụ. - Anh đi đây, Wiwine ạ, cậu nói. Em gói ghém mấy quyển vở anh giấu trong tủ em vào cho anh nhé, rồi anh sẽ đến lấy vào đêm nay. - Trông anh mới bẩn chưa kìa, cô nói. Chắc hẳn cậu đã phải bì bõm lội dưới mưa trong bùn lầy băng qua những cánh đồng, vì giày và phần dưới quần áo của cậu phủ một lớp đất. Trông cậu có vẻ như bị ai đó đuổi đánh, hoặc bị ngã, vì mặt bầm giập hết cả, gấu tay áo cậu còn có vết máu. - Không sao đâu, cậu nói, đánh nhau ấy mà. Anh quên nó rồi. Nhưng cậu vẫn để cô lấy khăn ẩm gột những vết bùn bẩn. Wiwine bối rối thấy cậu đẹp như tượng Chúa Jesus nằm đầy uy lực bằng gỗ sơn đặt dưới mái vòm ngay cạnh hai người và cô vồn vã quanh cậu như Madeleine bé nhỏ ngây thơ. Cô tự cho phép dẫn cậu vào bếp của cô Godelieve để gột rửa quần áo và mang ra cho cậu mấy chiếc bánh kẹp vẫn còn nóng hổi. - Anh sẽ đi, Wiwine, cậu nhắc lại. Anh sẽ xem ở nơi khác sự dốt nát, sự sợ hãi, sự ngu xuẩn và sự mê tín có tồn tại như ở đây không. Cái ngôn ngữ mãnh liệt này làm cô sợ; tất cả những gì hiếm thấy đều làm cô sợ. Tuy nhiên, cơn giận dữ của một đàn ông được cô hiểu như mọi cơn bão học trò, giống như bùn và máu ngả màu đen làm cô nhớ tới Zénon đau đớn trở về sau những lần đánh nhau trên phố, cậu vẫn là một bạn tốt, đẹp trai, người anh hiền lành như thuở chúng lên mười. Cô nói giọng cảnh cáo âu yếm: - Trong nhà thờ mà anh nói to thế! - Chúa không nghe thấy đâu - Zénon đáp chua chát. Cậu không giải thích vừa đi đâu về và sẽ đi đâu, cũng không nói cậu đánh nhau với ai hay bị ai phục kích, chẳng nói vì sự ghê tởm nào mà cậu chối bỏ chức vị tiến sĩ sẽ mang danh lợi đến cho cậu, không giải thích bàn tay định mệnh bí mật nào đưa cậu ra đi không đồ đạc trên con đường đầy hiểm họa, ở đó những kẻ chiến trận trở về và những kẻ lang thang không nhà không cửa sẵn sàng đe doạ. Suýt nữa thì linh mục, cô Godelieve và một vài người hầu đã bị chúng kiếm chuyện hôm họ đi thăm đất đai về. - Thời tiết xấu quá, cô nói, nhắc lại những lời ta thán quen thuộc trong nhà và ngoài chợ. Và nếu anh gặp lại bọn xấu lần nữa thì… - Ai nói với em rằng anh không đánh lại nổi chúng? - Cậu cao giọng nói - Giết người cũng chẳng khó lắm… - Chretien Merghelynck và anh họ em Jean de Behaghel, cùng học ở Louvain, cũng chuẩn bị quay lại trường - cô nhấn mạnh - Nếu anh gặp họ ở nhà trọ Thiên nga… - Cầu cho Chrétien và Jean xanh xao tái tử trên những thuộc chất của Chúa trời nếu họ muốn - chàng tu sĩ trẻ tuổi nói với vẻ khinh rẻ. Còn cha linh mục bác em nghi ngờ anh vô thần, nếu cha còn lo lắng về tư kiến của anh, em nói với ông ấy rằng anh tin vào chúa trời nào không sinh ra từ một cô gái đồng trinh, không sống lại vào ngày thứ ba, nhưng có vương quốc ở thế giới này. Em nghe anh nói không? - Em sẽ nhắc lại như vậy với bác dù không cần nghe - cô nói nhẹ nhàng, nhưng cô thậm chí cũng không cố ghi nhớ những lời lẽ quá khó hiểu - Và vì cô Godelieve sẽ cài then cửa ngay khi thắp đèn và giấu chìa khoá xuống dưới đệm giường, nên em sẽ để vở của anh với thức ăn đi đường ở ô văng. - Không - cậu nói - Việc này với anh là lễ trọng và phải nhịn ăn. - Vì sao? Cô hỏi, cố nặn óc nghĩ xem hôm nay là lễ thánh nào. - Anh ấn định cho chính mình - cậu nói với vẻ đùa - Em chưa bao giờ thấy một người hành hương chuẩn bị lên đường sao? - Thôi chúc anh bình an - cô nói mà nước mắt dâng đầy giọng khi nghĩ đến chuyến đi lạ kỳ này - Và em, em sẽ đếm từng giờ, từng ngày và từng tháng, như em vẫn làm mỗi lần anh đi vắng. - Em kể lể chuyện gì lạ thế? - Cậu nói hơi mỉm cười - Đường anh đi không bao giờ qua đây đâu. Anh không thuộc những người đã đi rồi còn quay ngược trở lại để gặp một cô gái. - Vậy thì - cô nói - ngẩng cái trán nhỏ bướng bỉnh về phía anh, một ngày nào đó em sẽ đến với anh thay vì anh đến với em. - Mất công vô ích thôi - cậu bác lại, như đang chơi trò đối đáp - Anh sẽ quên em thôi mà. - Anh yêu quý - Wiwine nói - những người trong gia đình em đang nằm dưới những ô lát này, và lời truyền miệng của gia đình em vẫn ở trên gối họ. Điều hơn ở trong ngươi. Điều hơn ở trong em, dùng quên lãng để trả lời quên lãng. Cô đứng trước cậu, một dòng suối nhỏ bé nhạt nhẽo và thuần khiết. Cậu không hề yêu cô; cô bé đơn giản này chắc chắn là mối liên hệ nhẹ cân nhất giữa cậu với quá khứ ngắn ngủi của cậu. Nhưng một lòng thương cảm yếu ớt đã thắng cậu, trộn lẫn với sự kiêu hãnh vì được tiếc nuối. Bỗng nhiên bằng một cử chỉ mạnh mẽ của một người mà vào lúc ra đi, vứt bỏ hay hiến dâng cái gì đó, để làm lành với một quyền lực nào đó không rõ ràng, hay ngược lại để giải phóng khỏi chúng, cậu rút chiếc nhẫn nhỏ bằng bạc, mà cậu đã có được khi chơi trò đổi nhẫn với Jeannette Fauconnier, và đặt nó như đặt một đồng xu xuống bàn tay đang chìa ra. Cậu không hề dự tính quay trở lại. Cô gái bé nhỏ ấy chỉ lấy được ở cậu một chút ơn huệ của một giấc mơ nhỏ bé. Đêm xuống, cậu đến lấy những quyển vở để dưới ô văng, mang đến đưa cho Jean Myers. Phần lớn trong số đó là đoạn trích các tác phẩm của các nhà triết học tà giáo mà cậu đã bí mật chép lại khi cậu còn ở Bruges dưới sự giám sát của linh mục phụ tá, trong những quyển vở này có chép một vài tư tưởng báng bổ Chúa về bản chất của tâm hồn và về sự không tồn tại của Chúa trời; hay là những câu danh ngôn của các Cha công kích việc thờ cúng những thần tượng, và bóng gió chỉ rõ sự hão huyền của lòng sùng đạo và những nghi lễ thiên chúa giáo. Zénon vẫn còn khá mới mẻ để trông đợi quá nhiều vào những phóng túng đầu tiên kiểu học trò này. Cậu nói chuyện về dự định tương lai với Jean Myers: anh ta đồng tình nên vào học Trường Đại học Y ở Paris, bản thân anh ta cũng đã vào đây học nhưng không theo được đến lúc bảo vệ luận án để đội chiếc mũ vuông. Zénon nóng lòng chờ những chuyến đi xa hơn nữa. Anh chàng bác sĩ phẫu thuật - thợ cạo cẩn thận để những quyển vở ở góc nhà nơi anh ta cất chai và vải dự trữ. Chàng tu sĩ không nhận ra rằng Wiwine đã đặt giữa những trang giấy một nhành tầm xuân. Tiếng nói công chúng Sau này người ta biết trước tiên anh đến Gand một thời gian, ở chỗ cha bề trên được đội mũ lễ Saint-Bavon, một nhà luyện đan. Sau đó người ta tin đã nhìn thấy anh ở Paris, tại phố Bucherie nơi các sinh viên vẫn bí mật phẫu tích xác chết, và nơi triết học hoài nghi của Pyrrhon và tà giáo bay lên như những mùi khó ngửi. Một số người, đáng được Chúa ngợi ca vì đức tin của họ, đảm bảo rằng anh đã học qua Trường Đại học Montpellier, những người khác đáp lại là anh chỉ ghi danh vào trường nổi tiếng này thôi, và bỏ ngang không học đến lúc lấy bằng mà đâm đầu vào các thí nghiệm mà coi rẻ cả Galien lẫn Celsus. Người ta tin anh chính là một thuật sĩ giỏi quyến rũ phụ nữ ở Languedoe và, cũng ở khoảng thời gian ấy, tại Catalogne, giả dạng một người hành hương đến từ Montserrat và bị truy nã vì vụ một thanh niên trẻ bị giết tại một quán trọ nơi chỉ có bọn người không giấy tờ, thủy thủ, lái buôn, bọn cho vay nặng lãi bị nghi ngờ là theo đạo Do thái và bọn Ả rập rởm thường lui tới. Người ta mang máng nghe đồn rằng anh chuyên tâm tìm hiểu sinh lý học và thuật giải phẫu. Chuyện một đứa bé bị giết, theo lời những kẻ thô tục và cả tin thì chỉ là một câu chuyện ma thuật hay trụy lạc bẩn thỉu, được những người uyên bác hơn lý giải đó là một phẫu thuật để truyền máu tươi sang mạch máu một con bệnh Do thái giàu có. Về sau, nhiều người tới những nơi xa xôi và những lời nói dối còn xa hơn nữa trở về khẳng định đã nhìn thấy anh ở vùng Agathyrses, chỗ bọn mọi châu Phi và thậm chí ở tận triều đình Grand Dair. Vào khoảng năm 1541, tổng trấn Khereddin Barberousse dùng một công thức thuốc súng hoả mai mới ở Alger đã làm một hạm đội Tây Ban Nha thiệt hại nặng nề; người ta cho rằng chính anh là tác giả của phát kiến đại hoạ ấy, và người ta nói anh nhờ thế mà giàu. Một tu sĩ dòng franciscain sang Hunggari truyền đạo đã gặp ở Bude một bác sĩ người flamand giấu tên: chắc chắn đó chính là anh. Người ta cũng biết từ nguồn tin cậy rằng anh lẽ ra được Joseph Ha-Cohen, nhà vật lý riêng của Doge, mời đến Gêne làm cố vấn, nhưng sau đó anh đã ngạo mạn từ chối thay chỗ người Do thái này khi ông ta bị đi đày. Vì đi đôi với tài trí, thể xác thường táo tợn, nhất là với những lý do chính đáng, nên người ta gán cho anh những trò giải trí không ít táo bạo hơn những công việc anh làm, và người ta truyền miệng nhau những mẩu chuyện về anh, tất nhiên là bị biến đổi đi theo sở thích người kể hay sở thích người nghĩ ra những cuộc phiêu lưu ấy. Nhưng, trong số tất cả những hành động liều lĩnh ấy, chuyện gây sốc nhất, như người ta nói, có lẽ là anh hạ thấp cái nghề thầy thuốc đẹp đẽ, thích đâm đầu vào nghệ thuật phẫu thuật thô tục hơn, vấy bẩn tay bằng mủ máu. Còn gì có thể tồn tại được nếu cứ có một đầu óc không bình yên bất chấp trật tự đã sắp đặt và những phong tục tốt đẹp như vậy. Sau một thời gian dài biến mất, người ta lại thấy anh ở Bâle trong nạn dịch hạch đen: anh đã cứu một loạt bệnh nhân hết hy vọng, nhờ đó năm ấy anh nổi tiếng là có phép thần thông. Sau đó, lại một lần nữa, tiếng đồn tắt ngấm. Con người này có vẻ như sợ vinh quang nên không muốn trống giong cờ mở. Vào năm 1539, ở Bruges người ta đã nhận được một quyển sách nhỏ viết bằng tiếng Pháp, in ở nhà in Dolet tại Lyon, mang tên anh. Đó là một bản miêu tả chi tiết những sợi gân và những vòng van tim, có kèm một nghiên cứu về vai trò của các dây thần kinh trái trong hoạt động của tim. Zénon khẳng định rằng tim đập cũng là lúc tâm thu, ngược lại với những gì được giảng ở nhà trường. Anh cũng lý luận về chứng động mạch hẹp và đặc lại ở một số bệnh do tuổi cao. Linh mục phụ tá, với vốn hiểu biết ít ỏi về lĩnh vực này, đọc đi đọc lại tập sách ngắn ngủi, gần như thất vọng vì không tìm thấy gì chứng minh những lời đồn đại nghịch đạo về cậu trò cũ. Không một nhà thực hành nào, theo ông, lại có thể viết một quyển sách như thế, trong đó không hề chêm vào một câu tiếng La tinh hay ho nào. Bartholommmé Campanus thường nhìn thấy trên đường phố anh bác sĩ phẫu thuật - thợ cạo Jean Myers ngồi trên con la cái, anh ta càng ngày càng được mời đi phẫu thuật nhiều hơn và cạo mặt cho khách ít hơn, từ khi danh tiếng của anh ta tăng dần lên theo năm tháng. Myers có lẽ là người duy nhất ở Bruges người ta ngờ thỉnh thoảng có nhận được tin tức về cậu học sinh vượt cả thầy. Đôi khi có gì đó thôi thúc, linh mục phụ tá cũng muốn tiếp xúc với con người này, nhưng những lề thói thông thường ngăn ông biểu hiện cử chỉ cởi mở trước, vả lại anh chàng nổi tiếng là xảo trá hay chế giễu. Mỗi lần tình cờ nghe được một tin đồn đại về cậu trò xưa, linh mục phụ tá lại đến nhà người bạn già, linh mục Cleenwerck. Buổi tối, họ ngồi luận giải với nhau tin ấy trong phòng tiếp khách của ông linh mục, thỉnh thoảng cô Godelieve hoặc cô cháu bước vào phòng mang đèn hoặc một món ăn, song cả hai đều không buồn nghe câu chuyện, vì họ không có thói quen dỏng tai nghe hai người của Nhà thờ đàm đạo. Wiwine đã qua thời tình yêu trẻ con, cô vẫn còn giữ chiếc nhẫn nhỏ khắc hình bông hoa trong một cái hộp nơi cô để những hạt ngọc thủy tinh và kim chỉ, nhưng cô cũng không quên rằng cô Godelieve dành cho cô những đám nghiêm chỉnh. Trong khi hai người đàn bà gấp khăn ăn và thu dọn bát đĩa, Bartholommé Campanus giở đi giở lại với ông linh mục già những tin tức cỏn con như móng tay trên thân thể so với cả cuộc đời của Zénon. Ông linh mục lắc đầu, chỉ chờ đợi đầu óc rồ dại vì thiếu kiên nhẫn, vì tri thức bất lực và vì kiêu hãnh kia làm điều tồi tệ nhất. Linh mục phụ tá yếu ớt bảo vệ chàng học sinh ông dạy dỗ. Tuy nhiên, dần dần Zénon với họ không còn là một con người, một gương mặt, một tâm hồn, một người sống ở đâu đó trên quả địa cầu nữa; cậu chỉ còn là một cái tên, ít hơn thế, một nhãn hiệu nhạt màu dán trên chiếc liễn nào đó, nơi trí nhớ về quá khứ không đầy đủ và đã chết khô của chính họ chậm chạp mục ruỗng. Họ vẫn nói về quá khứ. Thực tế, họ đã quên nó. Cái chết ở Münster Simon Adriansen già đi. Ông nhận ra điều đó không phải vì sức nặng của sự mệt mỏi mà vì ngày càng trở nên thanh thản hơn. Ông biết mình giống anh hoa tiêu đã nghễnh ngãng chỉ nghe mù mờ tiếng bão tố nhưng nhờ sự khéo léo vẫn đoán được sức mạnh dòng nước, gió và những đợt triều cường. Suốt cuộc đời, ông đi từ chỗ giàu ít đến giàu nhiều: vàng chảy về tay ông; ông đã rời ngôi nhà cũ của gia đình tại Middelbourg để chuyển đến ngôi nhà mới do chính ông chăm lo xây cất gần một cảng biển mới được xây ở Amsterdam, vào thời kỳ ông buôn bán gia vị ở thành phố cảng này. Nhà ông trên bến Schreijerstoren như chiếc tráp chắc chắn đón nhận và cất giữ những báu vật từ hải ngoại. Nhưng Simon và vợ, tách xa khỏi kho báu rực rỡ, ở tầng trên cùng trong căn phòng nhỏ trống trơn như một ca bin tàu, và tất cả những thứ xa hoa kia chỉ dành để an ủi những người nghèo khó. Cửa nhà họ luôn rộng mở, bánh nóng và đèn luôn sáng để đón nhận những con người rách rưới. Đó không chỉ là những con nợ đầm đìa không khả năng thanh toán, những con bệnh mà các nhà thương làm phúc quá tải từ chối chăm sóc, mà cả những nghệ sĩ rong đói khát, những thủy thủ nát rượu, cả một tù nhân bị bêu cọc được người ta nhặt về, vai còn in rõ lằn roi. Như Chúa trời, người muốn rằng tất cả đều tốt đẹp trên Đất của Người và đều vui vẻ dưới ánh mặt trời của Người, Simon Adriansen không chọn, hoặc đúng hơn là cố tình chọn những số phận tồi tệ nhất, do ông ghê tởm luật lệ của con người. Những kẻ ăn mày ấy được chính tay ông chủ khoác cho áo ấm, rụt rè ngồi vào bàn ăn. Dàn nhạc công giấu mình trong hành lang rót vào tai họ tiền vị của Thiên đường; Hilzonde khoác bộ áo váy tuyệt đẹp để đón khách càng làm tăng giá trị của bố thí, mang thức ăn ra múc cho họ bằng chiếc muôi bạc. Simon và vợ, như Abraham và Sarah, như Jacob và Rachael, sống trong yên bình trong mười hai năm. Tuy vậy họ cũng có nỗi đau riêng. Những đứa con của họ được yêu quý và chăm sóc cẩn thận cứ nối nhau ra đi ngay từ khi mới chào đời. Mỗi lần như vậy, Simon lại gục đầu xuống nói: - Chúa cũng là một người cha. Người biết cái gì tốt với lũ trẻ. Và con người thực sự sùng đạo này dạy Hilzonde biết cách lắng đau đớn lại trong cam chịu. Nhưng cảnh buồn bã vẫn không nguôi ngoai. Cuối cùng, một bé gái ra đời và ở lại với họ. Simon Adriansen từ đó sống với Hilzonde trong niềm bác ái. Tàu của ông giong buồm trên tất cả các dòng sông trên thế giới và đổ về cảng Amsterdam, nhưng Simon vẫn cứ mơ đi một chuyến lớn mà với mỗi chúng ta, dù giàu hay nghèo, đều sẽ kết thúc vì đắm tàu ở một vùng biển lạ. Những nhà hàng hải và những nhà địa lý cùng ông cúi xuống bản đồ các hải cảng và dựng bản đồ cho ông, với ông họ đều không quý bằng những kẻ phiêu lưu trên đường đi tới một thế giới khác, vài anh thầy tu rách rưới, mấy nhà tiên tri bị nhạo báng và bị chế giễu ở quảng trường, một chủ lò bánh mì đầy ảo tưởng tên Jan Matthyjs, một hề rong Hans Bockhold phục sự Chúa bằng ngôn ngữ rao hàng ở hội chợ mà Simon nhặt được vào một tối khi hắn gần như lạnh cứng ở ngoài cửa một quán rượu. Trong số họ có một người nhún nhường nhất, anh ta giấu biệt vốn hiểu biết rộng mà tự nguyện sống ngu đần đi để ơn thánh tỏa xuống mình đầy hơn. Bernard Rottmann, người ta nhận ra anh ta trong chiếc áo lông cũ, trước kia từng là học trò yêu quý nhất của Luther, còn bây giờ anh ta ghét đến phát nôn mửa vị thầy tu ở Wittenberg[25], cho rằng con người đó mẫu mực rởm, vừa nịnh bợ bọn nhà giàu vừa lấy lòng người nghèo, và giáo thuyết của hắn thì lờ vờ đứng giữa chân lý và sự nhầm lẫn. Do cung cách ngạo nghễ tự xưng Thánh, do tính xấc xược trong cái cách họ nghĩ phải lấy của cải của những người có của, lấy chức tước của người có chức tước để phân phối lại theo ý mình, nên họ bị chính quyền nổi giận; bị đe dọa hoặc chết hoặc phải trục xuất ngay lập tức, những Người Tốt liền bí mật tụ tập tại nhà Simon như thuỷ thủ tụm lại trên một con tàu đang đắm. Song trước mắt họ vẫn có hy vọng, như một cánh buồm hiện ra ở đằng xa: thành Munster. Jan Matthyjs đã đuổi đánh giám mục và các phó thị trưởng và chiếm thành, nơi đó trở thành Thành phố của Chúa, lần đầu tiên con chiên nghèo ở trần gian có nơi nương náu. Quân đội hoàng gia đã kéo đến định triệt phá đất Jerusalem của những con người cùng khổ, song chúng đã thất bại; rồi tất cả người nghèo trên thế giới sẽ đứng về phía những người anh em của họ, từng đội quân sẽ đi từ thành phố này đến thành phố khác cướp lại những kho nhà thờ đáng xấu hổ và lật đổ những kẻ được tôn sùng; người ta sẽ cắt tiết Martin to béo tại ổ chuột Thuringe và cắt tiết Giáo hoàng tại Rome. Simon vừa nghe vừa vuốt bộ râu bạc trắng: khí chất ông đã quen với nguy hiểm khiến ông chấp nhận không nề hà những nguy nan chồng chất trong một cuộc phiêu lưu vì đạo như thế này; sự điềm tĩnh ở Rottman và những câu đùa tếu của Hans xoá đi những nghi ngờ cuối cùng trong ông; ông yên lòng như khi thấy một thuyền trưởng nghiêm túc và một cậu bé giong buồm lạc quan trước lúc tàu nhổ neo vào mùa bão tố. Trái tim ông chứa đầy lòng tin khi ông nhìn những người bạn cùng khổ kéo mũ sụp xuống mắt, thắt chặt dải khăn len sờn, ra đi trong bùn tuyết, sẵn sàng cùng nhau đi đến thành phố Munster trong giấc mơ của họ. Cuối cùng một ngày nọ, hay đúng hơn một đêm nọ, trước bình minh lạnh tháng Hai, ông lên phòng, Hilzonde đang nằm thẳng và bất động trên giường, dưới ánh sáng ngọn đèn ngủ leo lét. Ông khẽ gọi nàng, biết chắc nàng không ngủ, ông nặng nề ngồi xuống chân giường, và giống như một lái buôn đang cùng vợ tính lại các món trong ngày, ông kể nàng nghe về những lần bí mật tụ tập ở phòng nhỏ tầng dưới. Chẳng phải nàng cũng mệt mỏi đấy thôi vì phải sống ở một trong những thành phố nơi tiền bạc, thể xác và hư vinh phô trương một cách lố bịch ở quảng trường, nơi nỗi đau khổ của con người dường như cứng lại thành đá, thành gạch hay thành những đồ vật cồng kềnh mà Tinh thần không còn sống ở trên đó được nữa? Về phần ông, ông quyết định bỏ nhà đi, hay đúng hơn là bán nhà (vì tại sao lại lãng phí vô ích của cải thuộc về Chúa?) và bán tất những gì thuộc sở hữu của ông ở Amsterdam để đến với Con tàu Munster khi thời gian còn cho phép, vì bây giờ nó đã đông đến mức muốn vỡ, ở đó Rottman bạn của họ sẽ tìm được cho họ chỗ ở và thức ăn. Ông giao hẹn với Hilzonde suy nghĩ và trả lời trong mười lăm ngày nữa rằng nàng có đồng ý đi đến đó không, thực chất là họ sẽ sống trong nghèo khổ, lưu đày, có thể họ sẽ chết, nhưng cũng có thể sẽ may mắn là một trong những người đầu tiên chào đón Thời đại của Chúa. - Mười lăm ngày, ông nhắc lại, mình nhớ nhé. Nhưng không quá một giờ đâu, vì thời gian gấp rồi. Hilzonde chống khuỷu tay lên, và mở to mắt nhìn thẳng vào ông: - Mười lăm ngày đã quá rồi ông ạ, nàng nói với vẻ bình thản khinh rẻ những tài sản nàng sẽ bỏ lại sau lưng. Simon khen nàng luôn tiến trước ông một bước trên con đường tới Chúa. Sự kính trọng ông luôn dành cho bạn đời không bị mai một trước những nhàm chán của cuộc sống thường nhật. Với những người mà ông chọn, ông không để tâm tới những chỗ chưa hoàn hảo, những bóng tối, những khiếm khuyết mà dù sao người ta vẫn nhận thấy vì nó nổi ngay trên bề mặt tâm hồn, ông già chỉ đánh giá họ bằng những gì có lẽ là trong sạch nhất ở họ, hay những gì họ khát khao đạt đến. Ông thấy chất thánh dưới bề ngoài đáng thương của mấy nhà tiên tri được ông cưu mang. Xúc động trước ánh mắt của Hilzonde ngay lần đầu tiên gặp mặt, ông không nhìn thấy nếp nhăn gần như xảo trá trên đôi môi buồn bã. Người phụ nữ mảnh khảnh và mệt mỏi kia với ông vẫn là một Thiên thần lớn. Lần bán nhà cửa đồ đạc này là lần cuối cùng ông thu hời. Như mọi khi, chính tính thờ ơ trước tiền bạc khiến tiền bạc đổ vào tay ông, nó giúp ông tránh lầm lẫn sợ bán hố hay tránh vội vàng vì tưởng lời. Hai kẻ lưu đày tự nguyện rời Amsterdam, họ vẫn được giới giàu có tôn trọng dù rằng quyết định đi theo bọn khố rách áo ôm của họ có làm thành phố xôn xao. Họ đi tàu đến Deventer rồi từ đó đi xe bò qua những ngọn đồi phủ đầy lá non ở Gueldre. Họ nghĩ ở các quán trọ vùng Westphalie nếm món giăm bông hun khói; con đường đến Munster với dân thành thị như họ giống như một phần thôn quê. Bà Johanna, được Simon trọng nể vì trước kia từng chịu tra tấn cho đức tin phái rửa tội lại, đi theo phục vụ Hilzonde và đứa bé. Bernard Rottman đón họ tại cổng thành giữa đống lỉnh kỉnh nào túi nào hòm. Thành phố chuẩn bị sống trong vòng vây vui vẻ và lộn xộn như không khí chuẩn bị trước ngày lễ. Trong khi hai bà phụ nữ vác chiếc nôi và mấy bọc quần áo cũ xuống xe, Simon nghe Người Phục vụ nguyên vĩ đại nói chuyện: Rottman lúc này đang bình thản; cũng giống như đám đông được hắn huấn đạo đang trên đường chở rau và củi từ ngoài cổng thành vào kia, hắn tin vào sự cứu giúp của Chúa. Dù vậy Munster vẫn cần tiền. Hơn cả tiền, thành phố còn cần sự ủng hộ của những người nghèo, những người bất bình hay phẫn nộ đang ở đây đó trên thế giới này, những người chỉ chờ đợi thắng lợi đầu tiên của Chúa Christ mới để lay đổ ách cai trị của những kẻ được tôn sùng. Simon vẫn giàu, ông còn những món nợ có thể thu về được từ Lubeck, ở Elbing, cho tới tận Jutland nay Na Uy xa xôi; ông có sứ mệnh phải đòi lại những khoản tiền chỉ thuộc về Chúa. Trên đường đi ông sẽ biết cách chuyển đến những trái tim sùng đạo thông điệp về các Thánh nổi loạn. Ông là người được trọng vọng vì có lương tri và tiền bạc, với bộ quần áo bằng vải tốt và da mềm, người ta sẽ nghe ông ở những nơi mà những linh mục rách nát không có lối vào. Ông già đổi đạo giàu có này quả là sứ giả tốt nhất của Hội đồng Người nghèo. Simon đồng tình với những lý lẽ này. Cần phải hành động nhanh chóng không thể để đến lúc các ông vua và linh mục đến giăng bẫy tóm họ, Vội vàng ôm hôn vợ và con gái, ông lên đường ngay lập tức, trên con la khoẻ nhất vừa đưa ông đến cổng thành. Vài ngày sau, những mũi lao sắt đã hiện lên ở chân trời, đội quân hỗn hợp của Vua và Đức Tổng giám mục hạ trại quanh thành phố, họ không có ý định tấn công song sẵn sàng bao vây cho đến khi cần thiết để xoá sổ những kẻ ăn mày đói rách. Bernard Rottman thu xếp cho Hilzonde và đứa bé sống trong dinh thị trưởng Knipperdolling, anh ta là người bảo trợ sớm nhất của Những Con người Thanh khiết ở Munster. Người đàn ông cao lớn cởi mở và điềm tĩnh coi nàng như chị gái. Dưới ảnh hưởng của Jan Matthyjs đang nhào nặn một thế giới mới như trước kia hắn nhào bánh trong hầm nhà ở Haarlem, cuộc sống trong thành phố đổi khác hoàn toàn, dễ dãi và đơn giản. Hoa quả từ đất thuộc về tất cả mọi người, như không khí và ánh sáng của Chúa. Những ai có quần áo, bát đĩa hay đồ đạc thì để ra ngoài phố dùng chung. Tất cả thương yêu nhau bằng tình thương nghiêm khắc, giúp đỡ nhau, chê trách và dò xét lẫn nhau để phát hiện tội lỗi của nhau; luật lệ dân sự bị bãi bỏ, bãi bỏ cả bí tích, cả dây thừng dùng để trừng phạt những kẻ báng bổ và những tội lỗi thuộc về thể xác; các bà các cô trùm khăn kín mít đi lại như những thiên thần lớn lo lắng, và người ta nghe thấy trên quảng trường tiếng nức nở trong những lễ sám hối tập thể. Bị quân nhà thờ Cơ đốc giáo bao vây, thành phố nhỏ của những Người Tốt sống trong cơn sốt của Chúa. Tối tối, những bài giảng Tin lành trong không khí tự do lại hà hơi cho tinh thần dũng cảm; Bockhold là Thánh được lòng người nhất, hắn được các con chiên mến mộ vì thường thêm thắt vào những hình ảnh đẫm máu của Ngày tận thế những câu đùa của các vai hề. Dưới mái vòm quảng trường, trong đêm hè ấm áp, tiếng rên rỉ của người ốm và những thương binh đầu tiên của thành phố trộn lẫn với tiếng the thé của đám phụ nữ cầu xin Đức Chúa Cha cứu giúp. Hilzonde thuộc nhóm hăng hái nhất. Mẹ của Zénon đứng đó, thẳng người, dài như ngọn lửa, nàng tố cáo những điều ô nhục bọn La mã đã làm. Những hình ảnh khủng khiếp chứa đầy đôi mắt đẫm lệ, rồi đè lên bản thân nàng, bất ngờ nàng gục xuống như một cây nến thờ dài mà lại quá mỏng mảnh. Hilzonde khóc vì ăn năn, vì trìu mến, và vì mong mỏi cái chết. Đám tang đầu tiên của thành phố là cái chết của Jan Matthijs, hắn bị giết khi dẫn đầu một toán khoảng ba mươi người và một quân đội thiên thần ra ngoài thành thử đánh lại quân của Đức Tổng giám mục. Hans Bockhold, đầu đội vương miện, trèo lên ngựa phủ áo choàng lễ, nhanh chóng được tôn là Vua Tiên tri trên sân trước nhà thờ; người ta dựng bục để mỗi sáng vua David mới đến ngự, ra các quyết định không cần bàn bạc về công việc ở hạ thế và ở trên trời. Có một vài lần ra ngoài thành đánh lén, họ phá được vài bếp của Đức Tổng giám mục, cướp được mấy con lợn gà, thế là họ tụ tập lại ăn mừng trong tiếng sáo; cũng như mọi người khác, Hilzonde cười to khi thấy mấy người phụ bếp của quân địch bị bắt làm tù binh phải nấu nướng cho đám đông ăn rồi bị đám đông đấm đá cho đến chết. Dần dần, một sự thay đổi diễn ra trong các tâm hồn, như những giấc mơ ban đêm biến thành những cơn ác mộng mà người ta không hề hay biết. Trạng thái ngây ngất làm các Thánh loạng choạng như người say. Lương thực từ khắp nơi được dồn vào các hầm và kho của thành phố. Vua Christ mới ra lệnh nhịn đói hết sáng này đến sáng khác để dè sẻn chúng; tuy nhiên cũng có khi họ được ngốn ngấu những thùng cá nào bốc mùi thối hoắc, hay những miếng giăm bông nào đã ôi. Bernard Rottmann kiệt sức, ốm yếu, nằm lì trong phòng, nhận hết những mệnh lệnh của Vua mới mà không phản ứng gì, đành bằng lòng với những lời rao giảng cho đám dân chúng tụ tập dưới cửa sổ về Tình yêu, điều làm tiêu biến mọi rác rưởi trên trái đất và về Nước Chúa. Knipperdolling đã được trang trọng thăng chức từ thị trưởng thành phố, chức này đã bị bãi bỏ, để thành đao phủ; người đàn ông béo, cổ đỏ au, cảm thấy hạnh phúc với việc thi hành nhiệm vụ mới, như từ trước tới giờ anh ta vẫn bí mật làm nghề đồ tể. Người ta giết rất nhiều; Vua cho xoá sổ những kẻ hèn nhát và những kẻ do dự trước khi họ lây sang người khác; vả lại mỗi người chết đi là tiết kiệm được một khẩu phần ăn. Trong ngôi nhà nơi Hilzonde ở, mọi người nói chuyện về nhục hình như trước kia vẫn nói chuyện về giá len trong ngôi nhà ở Bruges. Hans Bockhold khiêm nhường đồng ý để mọi người ở hạ giới này gọi là Thánh Jean ở Leyde, tên thành phố nơi hắn sinh ra, nhưng trước các tín đồ, hắn lấy tên khác, không thể tả thành lời, mà khi gọi tên nó chứa một sức mạnh và sự hăng hái hơn mọi người trần. Mười bảy bà vợ chứng minh cho sức sống mạnh mẽ của đấng Thượng đế. Các thị dân giao phó vợ mình cho đấng Thượng đế sống vì sợ hãi hoặc vì cảm thấy đôi chút vinh hạnh, như họ đã từng giao phó cho hắn những đồng vàng; một vài ả trụy lạc vừa rút chân ra từ tầng lớp thấp kém thì mưu đồ danh vọng bằng cách phục vụ những hứng thú vợ chồng của Vua. Hắn đến nhà Knipperdolling để đi lại với Hilzonde. Nàng nhợt nhạt cả người khi phải tiếp xúc với người đàn ông nhỏ bé có đôi mắt láo liên, đôi tay hắn lục lọi như tay thợ may, giật áo nịt của nàng. Nàng nhớ lại, và không muốn nhớ lại, rằng hồi ở Amsterdam, khi hắn còn là một gã hề rong đói khát ngồi vào bàn ăn, hắn cũng đã lợi dụng vuốt đùi nàng lúc nàng cúi xuống qua người hắn đặt đĩa thức ăn lên bàn. Ghê tởm, nàng nhượng bộ cái hôn từ miệng xâp xấp nước, nhưng sự ghê tởm chuyển ngay thành trạng thái ngây ngất; (những đoan trang cuối cùng trong đời nàng rơi xuống như một bộ quần áo đã rách rưới, hay như lớp ghét bẩn bị người ta kỳ sạch rơi xuống trong phòng tắm hơi; đẫm mình trong hơi thở nóng và nhạt nhẽo ấy, Hilzonde ngừng tồn tại, và những sợ hãi, những thận trọng, những đắng cay của Hilzonde cũng ngừng tồn tại cùng với nàng. Vua dán sát vào người nàng trầm trồ ngắm thân mình mảnh khảnh mà, hắn nói, dường như sự mảnh mai càng làm nổi bật lên những đường nét trời phú cho đàn bà, nổi bật đôi vú dài buông xuống và cái bụng hơi phồng. Gã đàn ông đã quen với gái đĩ và đàn bà nạ dòng thô tục ngây ngất trước sự tinh tế của Hilzonde; đôi tay mỏng mảnh của nàng đặt trên lớp lông mềm mại trên đỉnh Vệ nữ làm gã nhớ đến đôi tay một mệnh phụ kín đáo đặt lên bao tay hay lên người con chó nhỏ lông xoăn. Hắn tự kể về mình: từ lúc mười sáu tuổi, hắn đã biết mình là Chúa. Hắn có lần bị ngã rất đau từ trên cao xuống trong hiệu may quần áo nơi hắn học nghề, người ta đuổi hắn đi trong tiếng la hét và những lời rủa độc ác, hắn đã lên thiên đàng. Một lần khác hắn lại một lần nữa trải qua cái run rẩy chính là Chúa ở đằng sau cánh gà một gánh hát rong mà hắn đóng vai hề; trong một kho thóc, nơi hắn có người đàn bà đầu tiên trong đời, hắn đã hiểu rằng Chúa chính là da thịt đang chuyển động kia, chính là những cơ thể trần trụi mà trước nó cả nghèo khổ lẫn giàu có đều không tồn tại, chính là luồng sóng lớn kia của sự sống cuốn theo cả cái chết và chảy như máu của thiên thần. Hắn nói những lời trên bằng thứ ngôn ngữ kiêu kỳ của diễn viên có xen những lỗi chính tả của con trai một nông dân. Nhiều tối sau, hắn đưa nàng đến ngồi cùng đám Vợ của Chúa Christ trong một buổi tiệc. Thực khách ngồi chật ních quanh các bàn đến mức có thể tưởng như vỡ ra được; những kẻ bị bỏ đói gặm miếng cổ hoặc miếng chân gà mà Vua hạ cố vứt cho họ, và cầu xin hắn ban phúc. Các Nhà tiên tri trẻ phục vụ Vua với tư cách là vệ sĩ phải dùng đến nắm đấm để giữ trật tự đám đông nhốn nháo này, Divara, hoàng hậu chính thức, xuất thân từ một khu bẩn thỉu ở Amsterdam, bình thản nhai, mỗi miếng ăn lại để lộ cả răng cả lưỡi ra ngoài; thị có bộ dạng một con bò cái biếng nhác và sạch sẽ. Bất thần, Vua giơ tay cầu nguyện, và một vẻ xanh xao đóng kịch hiện ra tô điểm cho khuôn mặt thoa phấn ở gò má. Hoặc, hắn phả hơi vào mũi một thực khách để truyền dạy Tinh thần Thánh. Một đêm, hắn đưa Hilzonde vào phòng sau, cởi váy nàng để khoe với các Tiên tri trẻ cái chỗ màu trắng mênh mông có hình Nhà thờ. Ẩu đả nổ ra ngay sau đó giữa hoàng hậu mới và Divara hai mươi tuổi, vì ả này phát hiện hoá ra tình địch đã già. Hai người phụ nữ đánh nhau trên sàn, giật tóc nhau; Vua lấy lại hoà bình bằng cách sưởi ấm cả hai người trên trái tim hắn vào tối hôm đó. Cứ dăm ba hôm một lần những tâm hồn ngây dại và điên rồ lại qua một phen rùng mình vì những sự kiện nối tiếp nhau. Hans ra sắc lệnh lập tức phải phá ngay tất cả những ngọn tháp, gác chuông và những đầu hồi nhà nào hãnh tiến vượt các nhà khác, vì như thế chúng như sỉ nhục vào cái công bằng cần phải ngự trị mọi nơi trước Chúa. Thế là từng tốp đàn ông đàn bà và trẻ con léo nhéo ùa vào cầu thang tháp, từng tảng đá lợp đen và từng xẻng gạch đổ xuống đất, rơi cả vào đầu người đi đường và làm hỏng những mái nhà thấp bên cạnh. Người ta tháo rời các thánh bằng đồng xuống chỉ còn bằng một nửa mái vòm Thánh Maurice, làm chúng bị treo xiên xẹo giữa đất trời; rầm nhà bị tháo hết ra, những ngôi nhà được chủ cũ giàu có xây cất nay hở hoác thành từng lỗ to, mưa tuyết tha hồ rơi vào. Một bà già vừa cất lời phàn nàn rằng đến bị chết cóng trong căn phòng mở ra bốn hướng gió liền bị đuổi ra khỏi thành phố. Mụ ta không được Đức Tổng giám mục đón nhận; người ta nghe thấy tiếng mụ từ một cái hố nào đó kêu gào trong vài đêm sau đó. Đến tối, đám người dừng tay, ngồi thõng chân xuống khoảng không, họ ngửa cổ lên trời sốt ruột tìm kiếm một dấu hiệu kết thúc thời Tận thế. Những màu đỏ phía tây nhạt dần; hoàng hôn qua đi chuyển sang màu xám, rồi màu đen, và những kẻ phá hoại mệt mỏi quay xuống trở về khu nhà ổ chuột ngả lưng ngủ. Một sự lo lắng giống như vui mừng đẩy dân chúng đi lang thang trên những đường phố đang đổ nát. Từ trên tường thành, họ tò mò nhìn ra những cánh đồng rộng mở nơi họ không thể bước chân đến được, như những hành khách trên chiếc thuyền nhỏ nhoi nhìn biển cả hiểm nguy quanh mình; những cơn buồn nôn vì đói là những cơn ói mửa khi phiêu lưu ra biển cả. Hilzonde không ngừng đi đi lại lại trong ngõ nhỏ, qua những đoạn đường có mái vòm và cầu thang lên chiếc tháp con, lúc thì đi một mình, lúc dắt theo con. Trong cái đầu trống rỗng của nàng như có ai gõ chuông vì đói; nàng thấy mình nhẹ bỗng, nhanh nhẹn như những con chim đang vòng đi liệng lại giữa những mũi tên trên đỉnh tháp các nhà thờ, nàng kiệt sức, nhưng là thứ kiệt sức của một phụ nữ sắp đạt tới đỉnh khoái cảm. Thỉnh thoảng, nàng bẻ một cục đá rủ dài xuống từ trên xà nhà và mở miệng nhấm nháp vị mát lạnh. Những người xung quanh nàng như cảm thấy sự khoan khoái nguy hiểm ấy, dù người ta vẫn cãi cọ nhau vì một lát bánh mì, một cây bắp cải thối, song trong thâm tâm mỗi người có cái gì đó như tình thương yêu kết dính những kẻ đáng thương đói khát lại thành một khối. Tuy vậy bên cạnh đó những người bất bình từ ít lâu nay đã dám lên tiếng; người ta không giết những kẻ dùng dằng nữa; họ quá đông. Johanna kể lại cho chủ những tin hãi hùng về chuyện thịt phát cho dân chúng mà người ta bắt đầu đồn đại. Hilzonde ăn, vẻ như không để ý nghe. Nhiều người huênh hoang là đã ăn thịt nhím, thịt chuột, hay thứ gì đó còn tồi tệ hơn, họ giống như dân tư sản bị ép sống kham khổ đột nhiên lại khoe khoang về tội thông dâm mà dường như những bộ xương và những bóng ma kia không thể đủ sức làm. Người ta không còn che đậy bản thân nữa để những nhu cầu của thể xác bệnh tật đỡ bị chèn ép quá mức; vì mệt mỏi người ta thôi không chôn cất người chết, nhưng xác người lăn vào trong sân nhà đã được tuyết bọc kín thành những vật sạch sẽ không còn mùi gì. Không ai nhắc nhớ đến bệnh dịch hạch chắc chắn sẽ xảy ra ngay khi tiết ấm tháng Tư quay lại, người ta không hy vọng kéo dài cho đến tận lúc ấy. Cũng không ai nói đến việc quân địch đang áp sát dần thành phố, chúng đang lấp hào chảy quanh thành một cách bài bản; người ta cũng không nói đến ngày kẻ thù tấn công thành chắc chắn đang gần kề. Khuôn mặt những kẻ trung thành hiện lên sự thâm hiểm của những con chó đang chạy làm ra vẻ không nghe thấy đằng sau chúng tiếng roi vút mạnh. Cuối cùng đến một ngày Hilzonde đang đứng trên thành thì thấy một người đứng cạnh chỉ trỏ cái gì đó. Một hàng người dài đang chuyển động trên những nếp gấp của đồng cỏ; những hàng ngựa đang tung chân trong đất bùn do băng tan. Người ta hét lên vì vui mừng; những đoạn tụng ca vang lên từ những lồng ngực lép: đó chẳng phải là đội quân những người rửa tội lại được tuyển ở Hà Lan và ở Gueldre mà Bernard Rottmann và Hans Bockhold không ngừng nhắc đến, những người anh em đến để giải cứu những người anh em đấy sao? Nhưng những đoàn quân nhanh chóng hoà nhập với quân của giám mục đang bao vây Munster; gió tháng Ba làm cờ hiệu bay, trong đó có người nhận ra cờ hiệu của Vua xứ Hesse; nhà vua theo giáo thuyết Luther này đã liên minh với những kẻ thờ thần tượng để tiêu diệt dân chúng của các Thánh. Đám đàn ông kéo một khối đá đến sát mép tường thành cho lăn xuống, đè nát vài lính công binh đang làm việc dưới chân pháo đài. Một người lính canh cũng ném lửa trúng vào một sĩ quan liên lạc xứ Hesse. Những kẻ đi bao vây đáp lại bằng một phát súng hỏa mai làm mấy người chết. Thế là người ta thôi không thử làm gì nữa. Trong thành chờ đợi cuộc tấn công, nhưng đêm đó nó không diễn ra, mấy đêm sau cũng không. Năm tuần trôi qua trong cái trơ ì của một cơn ngủ lịm. Từ lâu Bernard Rottman đã chia sẻ những thức ăn dự trữ cuối cùng và giọt thuốc cuối cùng trong nhà; như mọi khi Vua ném từng nắm hạt qua cửa sổ cho thần dân, nhưng không phát phần vẫn còn trong kho dự trữ cất dưới tấm ván lát sàn. Hắn ngủ nhiều. Hắn ngủ ba mươi sáu tiếng không động đậy chân tay trước khi ra giảng đạo lần cuối cùng trước quảng trường gần như không người. Gần đây hắn thôi không đến nhà Hilzonde ban đêm nữa; mười bảy phu nhân bị xua đuổi một cách nhục nhã được thay thế bằng một cô gái chớm tuổi dậy thì, hơi nói lắp, được trời phú cho một trí óc tiên tri. Hắn gọi cô ta một cách âu yếm là con chim mái trắng hay con bồ câu trên tàu Noé. Hilzonde không còn cảm thấy đau khổ khi bị Vua bỏ rơi, cũng chẳng bất bình, chẳng ngạc nhiên, trong nàng ranh giới giữa cái đã xảy ra và cái đã không xảy ra đã bị xoá nhoà; có vẻ như nàng không còn nhớ đã từng được Hans coi là người tình. Nhưng mọi việc vẫn theo quy luật: đêm khuya nàng vẫn thấy mình đợi Knipperdolling về nhà, thấy mình tò mò muốn thử xem có còn làm thân thể mình run lên được nữa không; anh ta đi ngang qua không nhìn mặt nàng, miệng lẩm bẩm gì đó, đầu óc nghĩ về cái khác hơn là về phụ nữ. Cái đêm quân tổng giám mục vào thành phố, Hilzonde bị đánh thức vào khoảng nửa đêm vì tiếng kêu thét của một lính canh bị cắt cổ. Hai trăm tên lính, dẫn đầu là một tên phản bội, đã tràn vào thành phố qua một cửa ngắm. Bernard Rottman, một trong những người đầu tiên được báo động, nhảy ra khỏi giường bệnh, lao ra phố, tà áo sơ mi đập vào đôi chân gầy trông kì cục; anh ta bị một tên Hungari khoan dung giết chết, vì hắn không hiểu lệnh của tổng giám mục là bắt sống các thủ lĩnh của bọn nổi loạn. Vua bị bất ngờ trong cơn ngái ngủ, hắn chống cự chạy từ phòng này sang phòng khác, từ hành lang này sang hành lang khác, với sự dũng mãnh và khéo léo của con mèo bị lũ chó đôgơ vây dồn; vào lúc tảng sáng, Hilzonde thấy hắn trên quảng trường, vẻ hào nhoáng sân khấu đã tuột mất, trần trùng trục tới tận thắt lưng, người uốn cong lại dưới làn roi. Hắn bị đá vào một cái lồng lớn nơi hắn thường nhốt những kẻ bất bình và những kẻ do dự trước khi xử họ. Knipperdolling bị đánh thừa sống thiếu chết rồi bị vứt trên một ghế băng cho đến chết. Cả ngày, bước chân nặng nề của bọn lính vang lên trong thành phố; tiếng rầm rập này có nghĩa là trên quảng trường đông đặc những người điên loạn, lương tri đã chiếm lại vương quốc của nó nhờ vào những con người bán cuộc đời mình với một số tiền đã định trước, ăn uống theo thời biểu, cướp phá và hiếp dâm nếu có dịp, nhưng có một mẹ già, một người vợ tần tảo, một đám con ở đâu đó, nơi họ sẽ quay về sống khi đã què quặt già nua, những con người ấy đến nhà thờ vì bị ép phải đến, và chỉ tin Chúa một cách cầm chừng mà thôi. Nhục hình lại diễn ra, song lần này là theo sắc lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp, được Giáo hoàng và Luther đồng tình. Những con người rách rưới, xanh xao hốc hác, răng lở loét vì đói, làm lũ ác ôn được nuôi dưỡng đầy đủ có cảm giác họ là những con chấy rận ghê tởm đáng giết chết và dễ dàng giết chết. Hỗn loạn ban đầu qua đi, cuộc trừng phạt nhân danh xã hội diễn ra ở quảng trường Nhà thờ, dưới cái bục trước kia Vua đã chủ trì các cuộc họp. Những kẻ sắp chết mơ hồ hiểu rằng lời hứa của Đấng tiên tri với họ đang được thực hiện, nó khác với những gì họ nghĩ, nhưng mọi lời tiên tri vẫn thường thế: thế giới thử thách họ đã kết thúc; họ sẽ thẳng chân bước đi, lên tới bầu trời bao la màu đỏ. Rất ít người trách móc kẻ đã đẩy họ vào điệu xaraban cứu thế này. Một số khác, trong thâm tâm, không quên rằng đã có những ngày dài họ chờ đợi cái chết, như một sợi dây thừng bị kéo quá căng chắc chắn chỉ mong bị đứt. Hilzonde chờ đợi đến lượt nàng cho đến tận tối. Nàng đã mặc trước bộ váy đẹp nhất còn lại; tóc nàng được tết bím và kẹp bằng những chiếc kẹp bạc. Cuối cùng bốn tên lính xuất hiện; đó là những kẻ tàn ác thực thà đang làm công việc của chúng. Nàng nắm tay con gái nhỏ Martha đang mếu máo và nói với con: - Đi nào, con của mẹ, chúng ta đến bên Chúa. Một tên lính giật con bé ngây thơ ra khỏi tay nàng và ném nó cho Johanna, bà đón nó ôm sát vào chiếc áo nịt ngực đen. Hilzonde theo chúng không nói thêm gì nữa. Nàng đi nhanh đến nỗi những kẻ hành quyết nàng phải dấn bước. Để không bị vấp, nàng nâng hai bên váy bằng xoa xanh uốn lượn quanh chân nàng làm nàng như đi trên sóng. Đến bục, nàng lẫn lộn nhận ra trong đám xác chết có những người nàng từng quen biết, cả một Hoàng hậu. Nàng để thân mình ngã xuống và ngửa cổ ra. Chuyến đi của Simon biến thành cuộc thập tự chinh. Những con nợ chính đuổi khéo ông đi và không trả tiền, vì sợ mắc tội giao tiền cho bọn rửa tội lại; những kẻ bất lương và những tên keo kiệt thi nhau trách móc ông với cái giọng đầu lưỡi. Anh rể, ông Juste-Ligre, tuyên bố không thể đại diện không thời hạn cho những số tiền lớn mà Simon đã gửi lại chi nhánh của mình ở Anvers; vả lại ông này còn tự khen mình đã quản lý số của cải của Hilzonde và con nàng tốt hơn một thằng đần tham gia quân phiến loạn. Simon cúi đầu, như một kẻ ăn mày bị đánh đuổi, đi ra khỏi chiếc cổng chạm khắc thếp vàng của ngôi nhà thương gia mà ông đã góp công dựng nên. Sứ mạng quyên góp ông cũng chẳng làm được là bao: chỉ có một vài người nghèo khổ đồng ý hiến chút máu của mình cho Những Người Anh Em. Hai lần bị giáo hội nghi ngờ, ông phải trả tiền để không bị vào tù. Cho đến tận cùng ông vẫn là người giàu có được những đồng florin bảo về. Một phần số tiền ít ỏi gặt hái được đã bị một chủ nhà trọ ở Lubeck ăn cướp khi ông bị một cơn trúng phong nằm bất tỉnh. Sức khoẻ giảm sút khiến ông phải đi từng đoạn nhỏ một, hai ngày trước khi thành bị tấn công ông mới nhìn thấy Munster. Không thể tìm được cách lọt vào thành đang trong vòng vây. Không được tiếp đón tử tế, nhưng ông cũng không bị phiền toái trong trại quân của Tổng giám mục -Hoàng tử, nhờ có lần ông đã giúp đỡ họ. Ông tìm được một chỗ trú ngụ trong một trang trại ngay gần đường hào và bức tường xám đang che giấu Hilzonde và đứa con của ông. Trên bàn ăn bằng gỗ trắng ở nhà bà chủ trang trại, ông ngồi ăn với một quan toà được triệu tập để xử vụ án giáo hội sẽ mở ngày một ngày hai, một sĩ quan của Tổng giám mục, và với nhiều kẻ trốn chạy khỏi Munster, những kẻ này kể lể không mệt mỏi sự điên rồ của đám dân trung thành và tội ác của Vua. Nhưng Simon bỏ ngoài tai những lời bép xép của kẻ phản bội dám khinh miệt những người tử vì đạo. Ba ngày sau khi thành phố bị chiếm lại, cuối cùng ông cũng được phép vào Munster. Ông bước nặng nhọc trên những con đường đang bị lính tuần khám, dưới nắng chói và gió khô vào sáng tháng sáu ấy, lẫn lộn tìm kiếm con đường của ông trong thành phố mà ông chỉ nghe nói đến này. Dưới vòm Chợ Lớn ông nhận ra Johanna đang ngồi dưới bậc cửa, đứa bé trên tay. Bé gái thét lên khi có người lạ đến bế nó; Johanna không nói lời nào trở lại vẻ cung kính của một người hầu. Simon đẩy cánh cửa gẫy then, đi qua khắp các phòng trống ở tầng trệt, rồi lên các tầng trên. Quay ra đến quảng trường, ông tới bãi hành quyết. Một mảnh gấm xanh treo trên bục; ông nhận ra Hilzonde từ xa nằm dưới một đám xác chết nhờ mảnh vải này. Lạ lùng là ông không nán lại bên thân thể đã thoát hồn đó, ông quay trở lại với bà quản gia và đứa con. Một người vắt sữa bò đang dắt bò đi qua phố; tay xách xô với cái ghế đẩu đang rao bán sữa. Một quán rượu đã mở cửa trở lại trong ngôi nhà đối diện. Johanna cầm mấy đồng vàng Simon vừa đưa đi mua thứ gì đó để uống. Lửa nổ lách tách trong lò sưởi. Chốc lát nữa thôi tiếng thìa đĩa chạm nhau sẽ vang lên leng keng trong tay đứa trẻ. Cuộc sống gia đình chậm chạp được nối lại quanh họ, dần dần lấp đầy ngôi nhà hoang phế, như thuỷ triều lên lại phủ kín bãi biển nơi rải rắc những mảnh trôi dạt, những kho tàng của con tàu đắm, và những con cua ở chỗ đất trũng. Bà giúp việc chuẩn bị giường của Knipperdolling cho chủ, để ông không phải mệt mỏi leo lên thang gác lần nữa. Lúc đầu bà chỉ trả lời những câu hỏi của ông già đang chầm chậm nuốt chửng từng ngụm bia nóng bằng một sự im lặng chua chát. Cuối cùng khi bà nói, một thác rác rưởi tuôn ra từ miệng bà, vừa bốc mùi nước rửa bát và mùi Kinh thánh. Vua đối với bà lão Hussite chưa bao giờ hơn một thằng ăn mày được người ta cho ăn trong bếp và lại dám ngủ với vợ ông chủ. Khi đã nói hết mọi sự, bà bắt đầu cọ sàn, khua loẻng xoẻng những bàn cọ, xô và vắt khăn ầm ĩ. Đêm đó ông ít ngủ, nhưng ngược lại với những gì bà người hầu tưởng, ông không phẫn nộ, xấu hổ, mà là choán trong người ông là nỗi đau nhẹ nhàng hơn có tên gọi là tình thương hại. Trong đêm ấm áp Simon ngột ngạt nghĩ về Hilzonde như về một cô gái ông đã mất từ trước đó. Ông giận mình để lại nàng một mình đi qua bước khó khăn này, rồi tự nhủ rằng mỗi người đều đã có phận có phần, có miếng bánh sống và bánh chết, và rằng đúng là Hilzonde đã ăn phần bánh của nàng như nàng thích vào lúc nàng muốn. Lần này nữa nàng đã đi trước ông; nàng đã trải qua trước ông những sự dằn vặt cuối cùng. Ông tiếp tục viện lý lẽ biện minh cho những kẻ trung thành chống lại Nhà thờ và Nhà nước, những thế lực đã giẫm nát họ; Hans và Knipperdolling đã phải đổ máu; người ta có thể trông mong điều gì khác đây trong cái thế giới của máu này? Từ hơn mười lăm thế kỷ, Nước Chúa trên trái đất, mà Jean, Pierre và Thomas lẽ ra đã tận mắt chứng kiến lúc còn sống, đã bị những kẻ hèn nhát, những kẻ thờ ơ, những kẻ khéo léo xếp xó lười nhác cho đến ngày tận thế. Đấng Tiên tri đã dám tuyên bố ngay ở đây sự xuất hiện của Nước Trời. Ngài đã chỉ ra con đường đi, dẫu cho con đường Ngài chọn không đúng đi chăng nữa. Hans đối với Simon vẫn là đấng Christ, với nghĩa là mỗi người đều có thể trở thành Christ. Sự điên rồ của anh ta dường như không đê tiện bằng những tội lỗi thận trọng của những kẻ sùng Đạo đức và những người hiền triết. Người đàn ông góa vợ không giận dữ vì Hilzonde đã tìm trong cánh tay Vua những lạc thú mà từ lâu ông không còn mang đến cho nàng: là Thánh và Thánh, họ thụ hưởng đến mức lạm dụng hạnh phúc sinh ra từ sự hợp nhất hai cơ thể, nhưng những thân thể ấy, được giải thoát khỏi ràng buộc của thế giới, đã chết đối với mọi sự, trong vòng tay nhau chắc chắn họ trải qua một tình cảm ấm nóng hơn sự hợp nhất của tâm hồn. Bia làm ngực ông già giãn ra, làm ông thêm khoan dung, một niềm khoan dung trong đó có sự mệt mỏi và lòng tốt trước dục cảm và sự xót xa cuộc đời. Ít nhất Hilzonde cũng đang yên nghỉ. Ông thấy mấy con ruồi đang bay vo ve trên giường dưới ánh sáng ngọn nến đặt trên bàn cạnh đầu, vào lúc này ruồi đông vô kể ở Munster, có lẽ chúng vừa đậu trên khuôn mặt trắng; ông thấy đồng tình với sự thối rữa ấy. Bỗng nhiên một ý nghĩ choán toàn bộ con người ông và đảo lộn ruột gan ông, rằng mỗi sáng da thịt của đấng Christ mới lại nằm giữa hai gọng kẹp làm mồi cho miếng sắt nung đỏ như một dấu hỏi kỳ lạ; nó gắn với Con người Đau khổ đáng nực cười kia, ông rơi vào địa ngục của những thân xác hiến dâng quá ít cho niềm vui và quá nhiều cho đau khổ; ông đau với Hans như Hilzonde sung sướng với hắn. Cả đêm, đắp ga trải giường, trong căn phòng tồi tàn bất tiện, ông vấp phải hình ảnh Vua bị nhốt sống trong cũi sắt trên quảng trường, như một người bị hoại tử chân mà cứ bị vấp vào cái chân đau ấy dù không muốn. Ông cầu nguyện mà không phân biệt nổi sự đau đớn dần thắt chặt tim ông, rút từng sợi cơ vai, xuống tận cổ tay trái, và những gọng kìm siết vào khối mỡ trên cánh tay và quanh ngực Hans. Ngay khi hồi lại được chút sức lực và đi được mấy bước, ông lê mình đến tận cũi sắt nhốt Vua. Dân thành Munster nhìn cảnh này đã nhàm, song một đám trẻ con vẫn đứng sát song sắt ném đinh, phân, những mẩu xương nhọn vào đó, tù nhân sẽ buộc phải giẫm chân trần lên. Bọn lính gác đẩy đám vô lại này ra một cách lấy lệ, như gạt những người quá hứng trong các phòng lễ hội: Ngài von Waldeck đã ra lệnh để Vua thoi thóp cho đến khi hành quyết, dự kiến sớm nhất vào giữa mùa hè. Tù nhân vừa được đưa trở lại lồng sắt sau đợt tra tấn; hắn vẫn còn run rẩy co rúm người lại trong một góc. Mùi hôi thối từ miệng hắn và từ các vết thương bốc lên. Nhưng người đàn ông nhỏ bé vẫn giữ ánh mắt mạnh mẽ và giọng nói hấp dẫn của nghệ sĩ. - Tôi khâu, tôi cắt, tôi khâu lược - kẻ chịu nhục hình hát nho nhỏ - Tôi chỉ là một thợ may học việc nghèo khó… Những bộ quần áo da… Đường viền mép váy chưa khâu… Xin đừng khâu tác phẩm của… Hắn đột ngột dừng lại, ném ra xung quanh ánh mắt lén lút của kẻ vừa muốn giữ bí mật vừa muốn tiết lộ một nửa. Simon Adriansen, kéo giãn bọn lính gác ra, và cho được cánh tay qua ô cũi: - Chúa sẽ bảo vệ anh, Hans, ông nói, tay chìa ra phía hắn. Simon trở về nhà như vừa đi một chuyến xa. So với lúc ông ra khỏi nhà, nhiều thay đổi đã diễn ra. Munster dần lấy lại bộ mặt bình thường. Nhà thờ tràn ngập tiếng thánh ca. Đức Tổng giám mục đã đưa người đẹp Julia Alt, tình nhân của ông ta, về ở ngôi nhà cách lâu đài giám mục hai bước chân, nhưng người đàn bà kín đáo này không gây ra tai tiếng. Simon nghe tất cả những chuyện đó với vẻ thờ ơ của một người sắp rời thành phố, và những gì người ta làm ở đó không còn làm ông bận tâm nữa. Nhưng tính đại lượng của ông trước kia nay kiệt cạn như một dòng suối khô. Vừa về đến nhà, ông đã nổi trận lôi đình với Johanna, vì bà quên không chuẩn bị mực bút giấy như ông dặn. Khi mấy vật dụng ấy đã đủ, ông bắt đầu ngồi viết cho em gái. Ông không liên lạc gì với bà này từ gần mười lăm năm nay. Bà Salome tốt bụng đã cưới một con trai thứ của ông chủ nhà băng Fugger đầy thê lực. Do mấy anh em không hoà thuận nên Martin đã gây dựng lấy gia tài cho mình; ông sống ở Cologne từ đầu thế kỷ. Simon nhờ họ nuôi con ông. Salome nhận được thư ở ngôi nhà thôn dã ở Lulsdorf lúc bà đang trông coi việc phơi đồ giặt. Giao lại đống khăn ga đẹp đẽ cho người hầu, bà gọi chuẩn bị xe, thậm chí không chờ hỏi ý kiến ông chủ nhà băng, mà ông này cũng ít quan tâm đến nhà cửa, bà gói ghém thức ăn chăn gối, và đến Munster xuyên qua vùng đất hiu quạnh sau những biến cố. Bà thấy Simon trên giường, đầu dựa trên cái áo măng tô cũ gập lại làm bốn. Bà nhanh chóng thay nó bằng một cái gối dựa. Bà khách và người hầu nói chuyện với nhau về chế độ ăn uống, giường nệm, về cái ghế tựa bị thủng, trong tâm trạng lo lắng tốt bụng của phụ nữ muốn quy giảm bệnh tật và cái chết thành một loạt những đau đớn nhỏ vô hại và không quan trọng, những đau đớn dường như có trên đời để được xoa dịu bằng bàn tay người mẹ. Người hấp hối nhận ra em gái qua ánh nhìn đã lạnh lẽo, nhưng Simon cứ để người mới đến lăng xăng bên giường một lúc. Cuối cùng ông ngồi dậy, hôn Salome theo thường lệ. Tiếp đó ông trở lại minh mẫn như mọi thương gia để điểm lại những của cải thuộc về Martha, và những gì cần phải được lấy lại cho nó trong thời gian sớm nhất. Giấy nợ được ông gấp gói trong một miếng vải bọc xi đúng tầm tay ông. Các con trai ông, người ở Lisbonne, người ở Lodon, người là chủ một xưởng in ở Amsterdam, đều đã giàu có cả, không cần đền những mẩu của cải ông để lại trên trái đất cũng như lời cầu chúc của ông. Simon để tất cả cho đứa con của Hilzonde. Ông già có vẻ như đã quên lời hứa với Đấng Phục nguyên vĩ đại, để một lần nữa tuân theo thói thường của thế giới mà ông sẽ từ bỏ và không thử thay đổi nữa. Hoặc có thể ông đi tới tận cùng niềm vui chua chát là buông rơi tất cả, nên ông chối bỏ cả những nguyên tắc còn quan trọng hơn chính cuộc sống của ông. Salome làm thân với đứa bé, bà mủi lòng thấy bắp chân nó quá gầy. Bà không thể thốt ra ba câu mà không cầu xin Đức mẹ đồng trinh và tất cả các thánh ở Cologne giúp đỡ: Martha sẽ được những người sùng tượng thánh nuôi dạy. Điều này thật đau lòng, nhưng cũng chẳng đau lòng hơn sự cuồng nộ của kẻ này hay sự đờ đẫn của kẻ khác, không đau lòng hơn việc tuổi già khiến người chồng không thể thỏa mãn người vợ, không mấy đau lòng hơn việc thấy những người mà ta cứu sống lại chết. Simon cố nghĩ đến Vua trong cái cũi đang hấp hối; nhưng những vật vã Hans đang phải chịu không còn gợi lên trong lòng ông một ý nghĩa gì như hôm qua nữa; chúng trở nên có thể chịu được, giống như nỗi đau trong ngực Simon mà ông có thể chịu đựng được và sẽ chết cùng ông. Ông cầu nguyện, nhưng cái gì đó nói với ông rằng Vĩnh hằng không đòi hỏi ông cầu nguyện nữa. Ông cố gắng để nhìn Hilzonde, nhưng khuôn mặt người đã chết không hiện thành hình. Ông phải đi ngược nữa lên, cho tới hồi đám cưới huyền bí ở Bruges, tới bánh và rượu vang họ bí mật uống, tối chiếc áo nịt ngực khoét sâu làm người ta đoán được bộ ngực dài và trong sạch. Rồi cái đó cũng nhoà đi; ông nhìn thấy bà vợ đầu tiên, linh hồn tốt bụng, đang cùng ông thưởng thức sự mát mẻ trong vườn nhà ông ở Flessingue. Salome và Johanna nghe thấy tiếng thở dài liền sợ cuống lên. Họ chôn cất ông trong nhà thờ Saint-Lamprecht sau lễ cầu nguyện có hát thánh ca. Nhà Fugger ở Cologne Nhà Fugger sống tại Cologne ở sân trước nhà thờ Saint-Gereon trong một ngôi nhà nhỏ không tráng lệ, mọi thứ đều được sắp xếp ngăn nắp và mang lại vẻ bình yên. Từ trong nhà lúc nào cũng phảng phất bay ra mùi bánh và rượu quả anh đào. Salome thường thích kề cà nán lại bàn ăn sau những bữa ăn kéo dài mang phong vị nghệ thuật, lau mồm bằng chiếc khăn ăn dày dặn cải hoa nổi; bà thích trang điểm bằng một sợi xích vàng trên khổ người đầy đặn và cái cổ rộng hồng hào, thích mặc những loại vải tốt, nhất là loại len chải thô được dệt cẩn thận vẫn giữ cái gì đó từ hơi ấm dịu dàng của những con cừu sống. Chiếc khăn trùm đầu hơi kín đáo nhô lên một chút chứng minh cho đức tính khiêm tốn mà không khắc khổ ở một phụ nữ đoan trang. Những ngón tay rắn chắc của bà lướt trên chiếc đàn ống nhỏ đặt ở phòng khách; hồi còn thiếu nữ, bà vẫn thường cất chất giọng mượt mà nhẹ nhõm hát tình ca và những khúc motet thánh ca; bà yêu thích chuỗi âm thanh xoắn xuýt ấy cũng như thích thêu thùa. Nhưng ẩm thực vẫn là công việc lớn nhất: những dịp lễ thánh trong năm, không bao giờ bà quên dịp nào, cũng là những dịp nấu nướng, là mùa muối dưa chuột hay làm mứt, làm pho mát trắng hay cá trích tươi. Martin là một người đàn ông nhỏ bé gày gò, nghệ thuật nấu nướng của vợ không làm ông béo lên. Là một nhà kinh doanh đáng gờm, song lão đôgơ này khi về nhà lại trở thành một chú xpanhơn vô hại. Ông chỉ cả gan cùng lắm là xuất ra vài câu chuyện nhả nhớt với bọn hầu gái. Đôi vợ chồng có một con trai, Sigismond, lúc mười sáu tuổi nó đã lên tàu với Gonzalo Pizarre đi Pêru, ở đó ông chủ nhà băng có đầu tư nhiều tiền của. Nhưng bây giờ họ không còn hy vọng nhìn thấy con, vì tin tức mới đây về Lima rất xấu. Họ vẫn còn có một con gái nhỏ nên cũng vợi nỗi mất mát; Salome thường mủm mỉm cười mỗi khi kể lại lần mang bụng muộn mằn này, đó là phần vì tuần cúng chín ngày, phần vì tác dụng của món nước sốt nụ bạch hoa. Con bé gần cùng tuổi Martha, hai chị em họ ngủ chung giường, chơi chung đồ chơi, chịu chung những trận đòn vì nghịch dại, lớn lên chúng cùng ngồi cạnh nhau học hát và đeo chung đồ trang sức. Lúc là kình địch, lúc là bạn hàng, Juste-Ligre to béo và Martin mảnh khảnh, con lợn rừng ở Flandre và con chồn sông Ranh luôn vờn nhau, cố vấn cho nhau từ xa, tương trợ hoặc phá hại nhau từ ba mươi năm nay. Chỉ có họ mới đánh giá đúng số tài sản người kia thực có, trong khi những kẻ hiếu kỳ xoi mói lẫn các ông hoàng mà họ phục vụ, hay họ bòn rút, đều không làm được điều đó. Martin có thể tính được chỉ sai số một xu tài sản quy ra tiền từ số xưởng, công trường, địa chỉ gần như là lãnh chúa mà Henri-Juste đầu tư vàng; ông thường châm biếm lối sống xa hoa của chủ nhà băng người Flamand thành những câu chuyện hài hước, và học được từ đó vài ba mánh khóe lớn, cũng chính những mánh khóe này đã giúp Henri Juste thoát hiểm. Về phần mình, Henri-Juste, một bề tôi ngoan ngoãn luôn cung kính cấp những khoản tiền cần thiết cho Hoàng hậu Nhiếp chính Hà Lan để bà mua tranh của các danh họa Ý và chi phí cho những công việc sùng đạo, ông phủi hai tay vào nhau mỗi khi được tin Tuyển hầu Palatin hay Quận công Baviere thế chấp đồ trang sức cho Martin và xin xỏ ông ta một khoản vay với lãi suất ngang với lãi suất của một tên Do thái cho vay nặng lãi; ông khen cho Martin, không phải không thương hại chế giễu chút đỉnh, rằng ông ta giống con chuột kín đáo gặm nhấm vật chất có trên đời chứ không dùng hàm răng nhọn đẹp đẽ cấu xé ra thành từng mảnh, khen cho con người ốm yếu biết cách khinh thường những kẻ giàu có cứ trông thấy nhau là đụng độ, là chiếm đoạt lẫn nhau, nhưng chữ ký của hắn ở phía dưới một tờ giấy lại có giá trị ngang với chữ ký của Charles Quint. Hai nhân vật luôn kính trọng những kẻ có quyền lực hiện hành này hẳn là sẽ rất ngạc nhiên nếu ai đó tuyên bố họ còn nguy hiểm đối với trật tự đương thời hơn cả bọn Thổ không trung thành hay bọn nông dân nổi loạn; bản thân họ cũng không nghi ngờ quyền năng làm đảo lộn thế giới của những túi vàng và những sổ sách của họ, cùng với tính chất có thể nuốt chửng ngay lập tức và đến từng chi tiết là đặc điểm của giống người này. Và tuy vậy, ngồi sau cái bàn tiếp khách, nhìn ngược sáng dáng dấp khô cứng của một kỵ sỹ giấu dưới vẻ ngang tàng mối sợ bị đuổi khéo, hay gương mặt êm ái của một đức giám mục muốn hoàn thiện tháp nhà thờ mà không tốn kém lắm, họ bất giác mỉm cười. Những kẻ đối diện họ cứ việc đi tìm nghe tiếng chuông nhà thờ, tiếng đàn sáo, tiếng ngựa nhảy nhót, tìm đến phụ nữ khỏa thân hay mặc gấm vóc; còn họ chỉ cần thu về cái thứ vật chất đáng hổ thẹn và cao cả này, bị phỉ nhổ to tiếng, nhưng lại được yêu chiều và thầm kín ấp ủ, giống như những phần kín mà người ta ít nói đến song lại luôn nghĩ đến, cái chất màu vàng mà nếu không có nó Đức bà Hoàng hậu cũng không dạng chân ra trên giường ngủ của Đức Vua, và Đức tổng giám mục không thể trang trải cho những châu ngọc trên chiếc mũ lễ vàng, mà việc thiếu nó hay thừa nó quyết định những cuộc thập tự chinh có tiến hành hay không. Những kẻ tài trợ cảm thấy mình là giáo sư môn thực tế. Như Martin rầu lòng vì Sigismond, ông Ligre to béo cũng rất thất vọng với thằng con trai cả. Người ta không nhận được tin tức gì của Henri Maximilien trong mười năm trời ngoại trừ vài thư xin tiền và một tập thơ tiếng Pháp, chắc là được rặn ra ở Ý giữa hai chiến dịch. Chỉ có những thằng dở hơi chứ không ai khác có thể đến cái xứ ấy. Ông thương gia theo dõi rất sát sao thằng con út để tránh bị thất bát một lần nữa. Ngay khi Philibert, cậu con trai đi theo ý của ông, biết cách chơi bóng, ông đã gửi nó đến học hỏi những tinh túy của ngân hàng ở nhà Martin, người không thể sai lầm. Ở tuổi hai mươi Philibert đã to béo; cậu vẫn có cái dáng dấp nhà quê tự nhiên trong cung cách được chăm chút kỹ lưỡng; đôi mắt xám nhỏ tỏa sáng trong hai kẽ giữa lông mi luôn như nửa nhắm. Cậu con trai của Ông Lắm tiền trong triều đình Malines lẽ ra có thể sống như ông hoàng con; nhưng ngược lại, cậu rất giỏi phát hiện những chỗ bọn nhân viên tính toán sai; trong phòng hậu không ánh sáng mà dân cạo giấy đến hỏng cả mắt, cậu kiểm tra từ sáng đến tối các chữ cái D, M, X và C đứng cạnh những chữ L và i, vì Martin rất ghét cách viết số Ả rập, song không vì thế mà bỏ qua chúng do chúng rất tiện lợi trong những con tính dài dằng dặc. Ông chủ nhà băng quen dần với sự trợ giúp của cậu bé trầm mặc này. Những lúc lên cơn suyễn hay bị chứng thống phong hành hạ làm ông nghĩ đến điểm cuối cuộc đời, người ta thấy ông nói với vợ: -Anh chàng to xác này sẽ thay tôi. Philibert dường như bị sổ sách và lũ dao cạo giấy hút hồn. Nhưng một thoáng mỉa mai hé lộ ra ngoài dưới hàng mi; đôi khi, trong khi đang kiểm tra lại các việc kinh doanh của ông chủ, cậu tự nhủ với mình rằng sau Henri-Juste và Martin, tinh tế hơn người này và quyết liệt hơn người kia, sẽ có một ngày Philibert trở thành một tay cao thủ. Đừng tưởng cậu ta sẽ chấp nhận món nợ của ông hoàng người Bồ Đào Nha với khoản lãi mọn mười sáu phân một livre trả làm bốn lần vào bốn dịp hội chợ lớn. Cậu đến các cuộc vui ngày Chủ nhât, mùa hè tổ chức dưới giàn nho còn mùa đông ở trong phòng khách. Một giáo sĩ cao cấp nào đó cao giọng đọc tiếng La tinh; Salomé chơi thò lò với bà hàng xóm, mỗi lần đánh trúng bà lại bình luận bằng cái giọng vùng sông Ranh; Martin, đã cho hai cô gái học tiếng Pháp đủ để cho một quý bà, bảo chúng diễn đạt hộ mỗi khi phải trình bày một ý rộng hơn hay cao hơn những chuyện ngày bình thường. Họ nói chuyện về chiến tranh ở Saxe và tác động của nó tới chuyện làm ăn, về sự phát triển bọn dị giáo và, tùy theo mùa, chuyện hái nho hay vũ hội hóa trang. Cánh tay phải của ông chủ nhà băng, một thanh niên quê ở thành Geneve có bộ dạng trịnh trọng, tên Zébédée Crêt, cũng được bàn luận trong câu chuyện, vì anh rất sợ thói hút tẩu và uống rượu vang. Anh chàng Zébédée này không hoàn toàn phủ nhận là trước khi trốn khỏi Geneve đã quản lý một sòng bạc và sản xuất bài giả, rồi đổ vấy vụ anh ta phạm luật cho mấy người bạn phóng đãng, giờ đây họ đã bị trừng phạt theo đúng pháp luật, và anh ta cũng không giấu giếm rằng trước sau rồi cũng trở về với giáo phái Cải cách. Ông giáo sĩ phản đối, vung vẩy ngón tay đeo chiếc nhẫn màu tím; ai đó, để đùa vui, đọc lên mấy câu thơ ngớ ngẩn của Theodore de Beze, anh chàng đẹp trai này được Calvin người không thể chê trách tán tụng. Họ tranh luận xem Hội nghị giáo chủ có phản đối đặc lợi của giới thương phú hay không, nhưng tự đáy lòng không ai ngạc nhiên rằng một người tư sản bao giờ cũng phải bằng lòng với những giáo thuyết do các quan tòa trong thành phố tươi đẹp của họ ban ra. Sau khi ăn nhẹ, Martin kéo một thành viên tòa án tối cao hay đặc phái viên bí mật của Vua nước Pháp vào sau một khuôn cửa. Anh chàng người Paris hào hoa nhanh chóng đến bắt chuyện với đám phụ nữ. Philibert nẩy đàn luth; Benedict và Martha đứng lên tay trong tay. Những lời thơ huê tình từ trong cuốn sách Sách của những người đang yêu nói về nhẫn, hoa và Thần Vệ Nữ, nhưng những giai điệu đang hợp mốt này lại thường dùng đi kèm những bài thánh ca ở nơi ở của bọn cặn bã thuộc phái rửa tội lại hay bọn theo phái Luther, mà ông giáo sĩ vừa giáng vào chúng những đòn sấm sét trong bài tuyên giảng của ông ta. Benedict miễn cưỡng thay thế đoạn thơ thánh vịnh vào chỗ một bài thơ tình. Martha lo lắng ra hiệu cho bạn không hát nữa; hai cô gái lại quay lại ngồi cạnh nhau, và người ta không còn nghe thấy điệp khúc nào cất lên nữa ngoại trừ tiếng chuông nhà thờ Saint-Gereon, báo giờ cầu kinh Đức bà buổi tối. Anh chàng to xác Philibert, nhảy rất giỏi, đôi khi tự cho phép mình chỉ bảo cho Benedict vài đường mới; lúc đầu cô từ chối, sau cô cũng nhảy với vẻ sung sướng như đứa trẻ. Hai cô chị em họ yêu nhau với tình yêu trong sáng của các thiên thần. Salomé không nỡ bắt Martha phải rời bỏ bà vú nuôi Johanna, và bà lão theo giáo phái Jean Hus đã kể với đứa con của Simon rằng bà đã phải run rẩy như thế nào và chịu đói khổ ra sao. Johanna sợ chuỗi ngày ấy, sự sợ hãi biến vẻ bề ngoài của bà thành một già lão giống như mọi bà già khác, nhận nước ban phép lành ở nhà thờ và hôn nhẫn Chúa. Nhưng trong đáy sâu chính bà vẫn hận thù Sa tăng ngụ trong những cổ áo lễ bằng gấm, những con bò vàng, và những kẻ được tôn sùng bằng da bằng thịt. Bà già ốm yếu, mà ông chủ nhà băng thậm chí chẳng bao giờ cất công phân biệt bà với mấy bà già rụng răng rửa bát ở tầng dưới, từ chối bất kỳ ai và bất kỳ về cái gì, với câu Không muôn thuở. Nếu tin bà thì cái ác phủ đầy ngôi nhà thoải mái hạnh phúc này, như một ổ chuột trong chiếc chăn lông mềm mại. Cái ác giấu mình trong hòm của Bà Salomé và trong két của ông Martin, trong những thùng rượu lớn dưới hầm rượu và trong nồi nước hầm còn thừa, trong tiếng vui đùa phù phiếm những buổi hòa nhạc chiều Chủ nhật, trong những viên ngậm của người dược sĩ và trong di vật nữ thánh Apolline chữa bệnh đau răng. Bà già không dám đổ trách nhiệm một cách công khai cho Đức Mẹ trong hốc cầu thang. Nhưng người ta nghe thấy bà cáu gắt vì dầu cứ đốt chẳng để làm gì trước những con búp bê bằng đá. Salomé tự nhắc mình phải đề phòng khi thấy Martha mới mười sáu tuổi đã dạy cho Benedicte khinh bỉ những hộp hàng xén đầy những đồ vặt vãnh đắt tiền mua từ Paris hay từ Florence về, hoặc coi thường lễ Noel và những bài hát nhạc hỗn hợp, quần áo mới và ngỗng nhồi nấm củ. Với người phụ nữ tốt bụng này thì quanh bà trời yên đất lặng. Lễ mixa là dịp để nêu gương đạo đức và trình diễn, là cớ để mặc chiếc áo choàng lông nhỏ mùa đông và áo jaket bằng tơ tằm mùa hạ. Mẹ Maria và Đức Chúa, Jésus trên thánh giá, Chúa trên quầng mây đang ngự ở Thiên đường và trên tường các nhà thờ, theo kinh nghiệm bà thấy trong trường hợp nào thì nên cầu xin Đức mẹ đồng trinh nào để cầu được ước thấy. Những khi gia đình có chuyện lục đục, bà sẽ hỏi ý kiến bà linh mục trưởng tu viện Ursulines, điều này không ngăn cản Martin ra mặt chế nhạo các nữ tu sĩ. Đúng là những cuộc bán mua khoan dung đã làm đầy túi của Đức Cha Thần Thánh trái với lẽ thường, nhưng việc rút từ ngân quỹ của Đức Bà và Các Thánh để trang trải những """