" Chiếc Lexus và Cây Ô liu PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Lexus và Cây Ô liu PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Đánh giá về cuốn Chiếc Lexus và cây ô liu của Thomas L.Friedman“Cuốn Chiếc Lexus và cây Ô liu đưa ra giải đáp hay nhất (và lý thú nhất) cho câu hỏi [Toàn cầu hóa là gì?] Friedman biết cách giải thích những điều cao siêu trong kỹ thuật và tài chính bằng những hình ảnh sinh động cùng lối so sánh rất thuyết phục… Friedman không chấp nhận những giải đáp hiển nhiên. Anh cũng không phóng đại những nhận định của mình khi không có đủ chứng cứ – điều này đã tăng cường hơn nữa tính học thuật cho một cuốn sách vốn dĩ đã rất hay và dễ đọc.”Mục điểm sách của báo The New York Times“Sách cần được đọc… Không ai giải thích được [khái niệm toàn cầu hóa] giỏi hơn… Thomas Friedman.”Báo The Christian Science Monitor“Hút hồn… gây phấn chấn… Một khám phá táo bạo và đầy sáng tạo về trật tự mới của toàn cầu hóa kinh tế.”Báo The New York Times“Friedman hiểu đúng về kinh tế học. Sách của anh là một nguồn dồi dào những hiểu biết kinh tế chung, khiến cho độc giả tránh được sự sa lầy vào đề tài “thuần túy toàn cầu” vốn rất phổ biến trong những tranh luận gần đây về toàn cầu hóa… Độc giả muốn tìm hiểu về những vấn đề của “nền kinh tế ảo của thế giới” có động lực là không gian điện toán trong thế kỷ hai mươi mốt có lẽ không tìm được ở đâu khác sự bắt đầu tốt hơn.”Tạp chí Foreign Affairs“Cuốn Chiếc Lexus và cây Ô liu là một tập hợp sinh động những mẩu chuyện và những phân tích... đầy đủ phong cách báo chí. Friedman đầy nhiệt tình, biết gây tranh cãi, văn thường hấp dẫn... hiểu biết sâu.”Tạp chí The Boston Globe“Sống động, nhiều mẩu chuyện… Dễ đọc và gợi nhiều suy nghĩ”Báo Minneapolis Star Tribune“[Friedman] mang trong mình mối quan tâm không cạn của một phóng viên đối với mọi việc, biết chọn chi tiết đắt.”Tạp chí The New Yorker“[Friedman] chuyển đổi khéo léo những khái niệm trừu tượng đáng chán về toàn cầu hóa thành những so sánh, những mẩu chuyện và ẩn dụ.”Báo Detroit Free Press“Chiếc Lexus và cây Ô liu có lẽ là cuốn sách không thể thiếu của thiên niên kỷ mới… Rất thông minh.”The Dallas Morning News“Hay tuyệt… Friedman là một bậc thầy chi tiết đắt giá, biết sử dụng những mẩu chuyện cùng cách so sánh làm các sự kiện và quy trình phức tạp sắp xếp thành bức tranh toàn cảnh.”The American Lawyer“Hãy đọc Chiếc Lexus và cây Ô liu. Quý vị sẽ rất thích. Friedman là một phóng viên cừ khôi.”The New Leader“[Friedman] biện luận một cách đầy thuyết phục rằng bước tiến của công nghệ điện tử mới – đặc biệt là Internet – khiến mối liên lập giữa các quốc gia thay đổi về chất... [Anh] cho rằng toàn cầu hóa trong giai đoạn mới sẽ tăng thêm dịp may cho số đông dân chúng. Họ sẽ có thêm cơ hội, dân chủ và tính bao dung cao hơn.”The New York Review of Books“Vốn kinh nghiệm và cách nhìn của Friedman khiến cho một chủ đề phức tạp trở nên rõ ràng và thú vị.”The National Law Journal“Friedman biện luận một cách thuyết phục rằng nền tảng tạo nên của cải vật chất đã đột ngột thay đổi… Chiếc Lexus và cây Ô liu rất có ý nghĩa; nó tăng cường và kích thích dân trí.”The [Baltimore] Sun“Hiếm có trang nào trong sách lại không có những đoạn văn đáng được ghi nhớ… Thật sự quan trọng.”SalonThomas L. Friedman là một trong những nhà bình luận hàng đầu của nước Mỹ về quan hệ quốc tế. Sinh năm 1953 tại Minneapolis, anh đã học tại Đại học Brandeis và Trường St. Anthony, Đại học Oxford. Cuốn sách đầu tay của anh Từ Beirut đến Jerusalem đoạt giải National Book Award năm 1988. Friedman cũng đoạt hai giải thưởng Pulitzer trong thời gian làm Trưởng phân xã tờ The New York Times tại Beirut và Jerusalem. Anh hiện sống ở Bethesda, Maryland, cùng vợ là Ann và hai con gái là Orly và Natalie.CÙNG TÁC GIẢFrom Beirut to Jerusalem (1989)The World Is Flat (2001)[Thế giới phẳng (NXB. Trẻ 2005)]Longtitudes and Attitudes (2002)Số trang: 736Kích thước: 14,5x20,5 cmTrọng lượng: 990 gHình thức bìa: MềmNxb: Khoa học xã hộiNgày Xuất bản: 06-2005Giá bìa: 60.000 VNDNguồn: Sưu tầm Mụclục GiớiThiệu Chương0:Phần1 Chương0:Phần2 PhầnI-Chương1:Phần1 PhầnI-Chương1:Phần2 PhầnI-Chương2:Phần1 PhầnI-Chương2:Phần2 PhầnI-Chương3:Phần1 PhầnI-Chương3:Phần2 PhầnI-Chương4:Phần1 PhầnI-Chương4:Phần2 PhầnI-Chương4:Phần3 PhầnI-Chương4:Phần4 PhầnI-Chương5:Phần1 PhầnI-Chương5:Phần2 PhầnI-Chương5:Phần3 PhầnI-Chương6 PhầnI-Chương7:Phần1 PhầnI-Chương7:Phần2 PhầnI-Chương7:Phần3 PhầnI-Chương7:Phần4 PhầnIi-Chương8:Phần1 PhầnIi-Chương8:Phần2 PhầnIi-Chương8:Phần3 PhầnIi-Chương9:Phần1 PhầnIi-Chương9:Phần2 PhầnIi-Chương9:Phần3 PhầnIi-Chương9:Phần4 PhầnIi-Chương10:Phần1 PhầnIi-Chương10:Phần2 PhầnIi-Chương11:Phần1 PhầnIi-Chương11:Phần2 PhầnIi-Chương11:Phần3 PhầnIi-Chương11:Phần4 PhầnIi-Chương11:Phần5 PhầnIi-Chương12:Phần1 PhầnIi-Chương12:Phần2 PhầnIi-Chương12:Phần3 PhầnIi-Chương12:Phần4 PhầnIi-Chương13:Phần1 PhầnIi-Chương13:Phần2 PhầnIi-Chương13:Phần3 PhầnIi-Chương13:Phần4 PhầnIi-Chương14:Phần1 PhầnIi-Chương14:Phần2 PhầnIii-Chương15:Phần1 PhầnIii-Chương15:Phần2 PhầnIii-Chương15:Phần3 PhầnIii-Chương16:Phần1 PhầnIii-Chương16:Phần2 PhầnIv-Chương17:Phần1 PhầnIv-Chương17:Phần2 PhầnIv-Chương18:Phần1 PhầnIv-Chương18:Phần2 PhầnIv-Chương18:Phần3 PhầnIv-Chương18:Phần4 PhầnIv-Chương19:Phần1 PhầnIv-Chương19:Phần2 PhầnIv-Chương19:Phần3 PhầnIv-Chương19:Phần4 PhầnIv-Chương20:Phần1 PhầnIv-Chương20:Phần2 PhầnIv-Chương20:Phần3 PhầnIv-Chương20:Phần4 PhầnIv-Chương20:Phần5(Hết) CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Chương 0: Phần 1 Đây là ấn bản bìa mềm cuốn Chiếc Lexus và cây Ô liu. Độc giả của ấn bản gốc bìa cứng sẽ thấy một số thay đổi so với ấn bản mới này. Nhưng luận thuyết chủ yếu của cuốn sách không thay đổi: Toàn cầu hóa không chỉ đơn giản là một trào lưu thời thượng mà đúng ra là một hệ thống quốc tế. Hệ thống này bây giờ đã thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh và cũng như hệ thống Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa có quy tắc và logic riêng hiện đang trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến chính trị, môi trường, địa chính trị và kinh tế của hầu như mọi nước trên thế giới. Thế những thay đổi gồm những gì? Tôi đã sắp xếp lại các chương đầu để độc giả nhận định và tiêu hóa luận thuyết chủ yếu của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng sử dụng thời gian từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào tháng Tư năm 1999 để thu thập thêm chứng cứ và để cập nhật, mở rộng cuốn sách với mọi tiến bộ khoa học và thị trường đã nâng cao toàn cầu hóa thêm một bước nữa. Tôi cũng đã xem xét lại một số tiểu luận đề gây tranh cãi trong cuốn sách này. Một trong số đó là Lý thuyết vòng cung vàng – cho rằng chưa có hai nước nào có tiệm ăn McDonald từng giao chiến với nhau từ khi có mặt McDonald. Tôi thấy lôgic đằng sau lý thuyết này được củng cố hơn bao giờ hết và tôi đã trả lời cho những ai nghi ngờ lý thuyết này sau khi xảy ra chiến tranh Kosovo. Một thay đổi khác là chương trước đây đặt tên “Mua Đài Loan, giữ lại Ý, bán Pháp” nay được tách thành hai chương. Chương mới mang tên “Tạo lập, thích nghi và những cách tư duy mới khác về quyền lực”, dựa trên một câu hỏi tôi nêu lên trong ấn bản đầu tiên: Nếu quyền lực kinh tế trong hệ thống toàn cầu hóa đầu tiên dựa vào số máy tính cá nhân trong hộ gia đình ở một nước, sau đó là băng thông Internet trên đầu người trong một nước, còn sau đó là gì? Chương này cố gắng trả lời câu hỏi đó bằng cách xem xét các cách mới khai sinh để đo cường quyền lực kinh tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Cuối cùng, tôi đã cố gắng trả lời một số câu hỏi thường được độc giả ấn bản đầu tiên nêu lên: “Ông miêu tả hệ thống mới này như thế đó, tôi phải làm gì để chuẩn bị cho con cái thích ứng với nó?”; “Có Thượng đế trong không gian điều khiển học chăng?” - đấy là câu hỏi hàm ý “Giá trị đạo đức nằm ở đâu?” Trật tự thế giới mới phát triển quá nhanh đôi lúc tôi ước gì đây là một cuốn sách điện tử mà tôi có thể cập nhật hàng ngày. Hy vọng mang tính thực tế hơn rằng sẽ có ngày trong nhiều năm tới cuốn sách này sẽ không còn nằm trên kệ “Vấn đề thời sự” trong hiệu sách nữa. Nó sẽ chuyển sang kệ sách “Lịch sử” - được nhớ đến như một trong những cuốn sách phát hiện và lần đầu tiên giúp định nghĩa hệ thống toàn cầu hóa mới mẻ đang chi phối chúng ta. Thomas L. Friedman Bethesda, Md., Tháng Giêng 2000 Thật tệ hại - chúng tôi đâu có liên quan gì đến Nga hay châu Á. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp nhỏ trong nước đang cố phát triển nhưng chúng tôi đang bị ngáng đường vì cách thức chính phủ các nước ấy điều hành đất nước họ. Douglas Hanson, Tổng giám đốc công ty Rocky Mountain Internet trả lời phỏng vấn tờ Wall Street Journal sau cú sụp đổ của thị trường năm 1998 đã buộc ông ta đình hoãn việc phát hành một trăm bảy mươi lăm triệu đô-la trái phiếu giá rẻ. Vào sáng ngày 8/12/1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố đóng cửa năm mươi sáu trong số năm mươi tám tổ chức tín dụng của nước này. Trong một thời gian ngắn, các tổ chức tư nhân này đã bị phá sản do đồng tiền của Thái, đồng baht bị suy sụp. Các tổ chức tín dụng đã vay thật nhiều bằng tiền đô-la Mỹ rồi cho doanh nghiệp Thái vay tiền xây khách sạn, cao ốc văn phòng, căn hộ cao cấp và nhà xưởng. Mọi tổ chức tín dụng đều nghĩ họ an toàn vì chính phủ Thái có cam kết giữ giá trị đồng baht theo một tỷ lệ cố định với đồng đô-la. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] Nhưng khi chính phủ không làm được điều hứa hẹn đó sau một đợt dân đầu cơ toàn cầu tấn công đồng baht - cũng do nhận thấy rằng nền kinh tế Thái Lan không mạnh như người ta từng tưởng - đồng tiền Thái Lan sụt giá ba mươi phần trăm. Điều này có nghĩa doanh nghiệp nào từng vay đô-la giờ phải kiếm thêm một phần ba nữa tiền baht mới mong trả được nợ. Nhiều doanh nghiệp không trả nổi khoản vay cho các tổ chức tín dụng, nhiều tổ chức tín dụng không thể trả nợ cho chủ nợ nước ngoài và cả hệ thống dồn cục lại, chết đứng, làm hai mươi nghìn nhân viên mất việc làm. Ngày hôm sau, tình cờ tôi đi xe đến một cuộc hẹn tại Bangkok dưới đường Asoke – khu vực tương đương phố Wall bên Mỹ - nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức tín dụng bị phá sản. Khi từ từ lái qua các ngân hàng đã sụp đổ, người tài xế taxi chỉ mặt điểm tên từng cái, miệng tuyên án: “Chết!... Chết!... Chết!... Chết!... Chết!” Lúc đó tôi không biết - mà nào ai biết được - các tổ chức tín dụng Thái Lan này chỉ là những quân cờ đô mi nô đầu tiên trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đầu tiên trong kỷ nguyên toàn cầu hóa - kỷ nguyên tiếp nối thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Cuộc khủng khoảng Thái Lan đã châm ngòi cho hàng loạt vụ rút vốn ào ạt ra khỏi hầu hết mọi thị trường mới nổi ở Đông Nam Á, làm giá trị đồng nội tệ của Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia suy sụp. Cả nhà đầu tư toàn cầu và địa phương bắt đầu xem xét các nền kinh tế này cẩn thận hơn, thấy chúng chưa hoàn hảo nên chuyển vốn đến nơi an toàn hay đòi lãi suất cao hơn để bù đắp độ rủi ro cao hơn. Chẳng bao lâu sau, một trong những chiếc áo được ưa chuộng nhất ở Bangkok mang dòng chữ “Từng Rất Giàu”. Trong một vài tháng, suy thoái ở Đông Nam Á bắt đầu có tác dụng lên giá hàng hóa toàn thế giới. Châu Á từng là một đầu máy quan trọng trong phát triển kinh tế toàn cầu - một đầu máy tiêu thụ nhiều nguyên liệu thô. Khi đầu máy này khục khặc, giá vàng, đồng, nhôm và quan trọng hơn, giá dầu thô bắt đầu giảm. Việc giảm giá hàng hóa toàn cầu này hóa ra là cơ chế lan truyền khủng hoảng Đông Nam Á sang Nga. Lúc này Nga đang lo chuyện của mình, với sự giúp sức của IMF đang cố gắng thoát ra bãi lầy kinh tế tự tạo để đạt tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, vấn đề của Nga là nhiều nhà máy không thể sản xuất ra thứ gì có giá trị cả. Hầu hết những thứ chúng tạo ra được xem là “có giá trị âm”. Có nghĩa, một máy cày do nhà máy của Nga làm ra tệ hại đến nỗi giá trị của lượng sắt thép hay ngay cả quặng thép thô để làm ra nó còn cao hơn giá chiếc máy cày hoàn chỉnh. Hơn thế nữa, nhà máy Nga nào làm ra sản phẩm có thể xuất khẩu được lại nộp rất ít thuế hay không nộp đồng nào cho chính phủ nên điện Kremlin luôn luôn thiếu tiền mặt. Không có một nền kinh tế có thể dựa vào trông chờ nguồn thu, chính phủ Nga đã trở nên lệ thuộc vào thuế xuất khẩu dầu thô và các loại sản phẩm khác nhằm có kinh phí hoạt động. Họ cũng lệ thuộc vào các nguồn cho vay nước ngoài mà Nga thu hút nhờ đưa ra mức lãi suất cực kỳ cao cho nhiều loại trái phiếu chính phủ. Khi nền kinh tế Nga tiếp tục suy thoái vào đầu năm 1998, Nga phải nâng lãi suất đồng rúp từ hai mươi lên năm mươi lên bảy mươi phần trăm để tiếp tục giữ chân nhà đầu tư nước ngoài. Các quỹ đầu cơ và ngân hàng nước ngoài tiếp tục mua trái phiếu, với toan tính ngay cả nếu chính phủ Nga không trả nợ được thì IMF sẽ nhảy vào cứu Nga và họ sẽ thu hồi được tiền. Có quỹ đầu cơ và ngân hàng nước ngoài không chỉ đổ tiền vào Nga, họ còn vay thêm tiền, lãi suất năm phần trăm rồi lấy tiền đó mua trái phiếu Nga lãi suất hai mươi – ba mươi phần trăm. Ngon ăn quá chứ gì. Nhưng ông bà ta thường nói: “Điều gì tốt đẹp quá không thể tin được thì thực tế là không tồn tại!” Đúng thế. Giá dầu sụt giảm do khủng hoảng châu Á gây ra làm chính phủ Nga ngày càng khó trả vốn và lãi trái phiếu kho bạc. IMF thì chịu áp lực phải cho vay giải cứu Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia nên chống lại mọi đề nghị đổ thêm tiền vào Nga – trừ phi Nga thực hiện lời hứa cải tổ nền kinh tế, bắt đầu bằng việc buộc các doanh nghiệp lớn và các ngân hàng nộp thuế. Vào ngày 17/8/1998, nền kinh tế Nga sụp đổ làm thị trường thế giới chao đảo từ hai phía: Nga vừa phá giá đồng tiền vừa đơn phương tuyên bố không trả nợ trái phiếu chính phủ mà không báo trước cho chủ nợ hay dàn xếp bất kỳ thỏa thuận nào. Các quỹ đầu cơ, ngân hàng và ngân hàng đầu tư đã rót tiền vào Nga bắt đầu thua lỗ nặng nề và những ai vay tiền để cá cược vào sòng bài Kremlin bị đe dọa phá sản. Nhìn từ bên ngoài, sự sụp đổ nền kinh tế Nga lẽ ra không có tác động gì vào hệ thống toàn cầu. Nền kinh tế Nga nhỏ hơn nền kinh tế Hà Lan. Nhưng hệ thống mang tính toàn cầu hơn bao giờ hết và trong khi giá dầu thô là cơ chế lan truyền từ Đông Nam Á sang Nga, quỹ đầu cơ – nơi tập hợp nguồn vốn tư khổng lồ không chịu sự kiểm soát – là cơ chế lan truyền từ Nga sang mọi thị trường mới nổi khác trên thế giới, đặc biệt là Brazil. Quỹ đầu cơ và các hãng giao dịch khác, sau khi thua lỗ nặng nề ở Nga, có quỹ mức lỗ tăng đến năm mươi chục lần vì dùng tiền đi vay, bỗng phải kiếm tiền trả ngân hàng. Họ phải bán bất kỳ tài sản gì có tính thanh khoản. Vì thế họ bắt đầu bán tài sản trên những thị trường tài chính đang lành mạnh để bù đắp vào các khoản lỗ tại thị trường suy sụp. Ví dụ Brazil đang thực hiện những điều đúng đắn trong con mắt của thị trường toàn cầu và IMF, bỗng thấy các nhà đầu tư hoảng loạn bán tống các loại cổ phiếu trái phiếu của nước mình. Brazil phải nâng lãi suất lên đến bốn mươi phần trăm để cố gắng duy trì đồng vốn ở lại. Các kịch bản tương tự xảy ra ở khắp các thị trường mới nổi khi nhà đầu tư bỏ đi tìm nơi an toàn. Họ bán hết mọi cổ phiếu, trái phiếu Brazil, Hàn Quốc, Ai Cập, Israel và Mexico, đem tiền về cất hay quay sang mua trái phiếu Mỹ an toàn nhất. Vì thế việc suy giảm ở các thị trường mới nổi và Brazil lại trở thành cơ chế lan truyền gây nên một đợt tranh nhau mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Đến lượt mình, điều này nâng giá trái phiếu chính phủ Mỹ lên cao, làm giảm lãi suất trái phiếu và gia tăng mức cách biệt giữa trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ và các loại trái phiếu thị trường mới nổi hay trái phiếu doanh nghiệp khác. Việc sụt giảm mạnh lợi suất từ trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ như thế đã trở thành cơ chế lan truyền gây sụp đổ cho nhiều quỹ đầu cơ và ngân hàng đầu tư khác. Lấy ví dụ Quỹ Long-Term Capital Management (LTCM) có trụ sở tại Greenwich, bang Connecticut. LTCM là quỹ đầu cơ hàng đầu. Vì có quá nhiều quỹ đầu cơ trên thị trường vào cuối thập niên 1980, lãnh vực này trở nên cạnh tranh gay gắt. Ai cũng tranh nhau giành cùng cơ hội. Để kiếm tiền trong một thế giới cạnh tranh dữ dội như thế, các quỹ đầu cơ phải tìm những canh bạc đen đỏ hơn với tiền cược ngày càng lớn. Để dẫn đường cho các vụ đặt cược đúng chỗ, LTCM dựa vào công trình của hai nhà kinh tế đoạt giải Nobel. Nghiên cứu của họ cho rằng tính không ổn định của trái phiếu và cổ phiếu có thể tính toán được nhờ quan sát biến động giá trong quá khứ. Sử dụng các mô hình máy tính và mạnh tay vay từ nhiều ngân hàng khác, LTCM đưa ra một trăm hai mươi tỷ đô-la cược rằng một số trái phiếu sẽ thay đổi giá theo chiều họ phỏng đoán vào mùa hè năm 1998. Họ đoán giá trị trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ sẽ giảm và giá trái phiếu loại rẻ tiền và trái phiếu của các thị trường mới nổi sẽ tăng. Tuy nhiên, mô hình máy tính của LTCM có bao giờ dự đoán được vụ khủng hoảng lan truyền khắp thế giới, khởi nguồn từ cú sụp đổ nền kinh tế Nga vào tháng Tám. Thế là dự báo của họ sai hoàn toàn. Khi toàn giới đầu tư hoảng loạn cùng lúc và quyết định đổ tiền mua trái phiếu chính phủ Mỹ, giá trị của chúng tăng vọt thay vì giảm sút và giá trị trái phiếu giá rẻ và trái phiếu các thị trường mới nổi sụp đổ thay vì tăng vọt. LTCM giống như chiếc xương đòn bị kéo ở cả hai đầu. Các ngân hàng sau cùng phải cứu nó để tránh việc bán đổ mọi trái phiếu cổ phiếu của LTCM mà có thể gây ra sụp đổ thị trường toàn cầu. Bây giờ chúng ta quay về thế giới đường phố. Vào đầu tháng Tám năm 1998, tình cờ tôi đầu tư vào ngân hàng Internet mà bạn tôi vừa mới thành lập. Giá cổ phiếu ban đầu là mười bốn phẩy năm đô-la rồi tăng vọt lên hai mươi bảy đô-la. Tôi thấy mình như một thiên tài. Nhưng rồi Nga xù nợ và làm hàng loạt quân cờ đô mi nô sụp đổ. Giá cổ phiếu của bạn tôi chỉ còn tám đô-la. Vì sao? Bởi vì ngân hàng của bạn tôi nhận thế chấp nhiều loại nhà và do lãi suất ở Mỹ xuống thấp, gây nên cơn tranh giành mua trái phiếu chính phủ, thị trường sợ rằng nhiều người sẽ trả tiền nhà sớm hơn dự định. Nếu nhiều người cùng trả nợ để lấy lại thế chấp, ngân hàng bạn tôi sẽ không còn nguồn thu đều đặn mà ngân hàng đã lập dự toán để trả lãi cho người gởi tiền. Thị trường thật ra đoán sai về ngân hàng bạn tôi và giá cổ phiếu của nó phục hồi một cách tuyệt vời. Thật thế, đến đầu năm 1999, tôi lại thấy mình chẳng khác thiên tài là mấy khi cơn say các loại công ty Internet như Amazon.com đã đẩy giá cổ phiếu ngân hàng Internet của bạn tôi và cổ phiếu các công ty công nghệ khác lên tận mây xanh. Nhưng một lần nữa, chẳng lâu sau, thị trường thế giới lại sớm chấm dứt cơn say này. Chỉ có điều lần này thay vì Nga sụp đổ, đến lượt Brazil gây xáo trộn thị trường Mỹ và dập tắt (tạm thời) cú bùng nổ cổ phiếu Internet. Khi quan sát mọi diễn biến này, tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là việc cần đến chín tháng để các sự kiện trên đường Asoke tác động lên phố của tôi, sau đấy chỉ cần một tuần để các sự kiện từ Brazil tác động lên Amazon.com. Tờ USA Today đã tóm tắt thị trường toàn cầu một cách chính xác vào cuối năm 1998: “Khó khăn tràn từ lục địa này sang lục địa khác như một con vi rút” – tờ báo ghi nhận – “Thị trường Mỹ phản ứng ngay tức thì… Mọi người trong tiệm hớt tóc bàn đến cả chuyện đồng baht Thái Lan.” Tuy nhiên, chẳng mất bao lâu sau Amazon.com lại phục hồi, kéo theo các loại cổ phiếu khác, đến lượt mình kéo theo thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, rồi bản thân nó giúp tạo ra hiệu ứng giàu có tại Mỹ, nhờ đó khuyến khích dân Mỹ tiêu tiền nhiều hơn mức dành dụm. Dân Mỹ chịu chi tiền nên Brazil, Thái Lan và các thị trường mới nổi khác có thể xuất khẩu hàng, lại có tiền giải quyết khó khăn nhờ bán hàng cho dân Mỹ. Amazon.com, Amazon.toàn cầu – tất cả chúng ta đang tắm cùng dòng sông. Dù sao, chu kỳ từ đường Asoke đến phố của tôi, từ Amazon.toàn cầu đến Amazon.com rồi quay về Amazon.toàn cầu là bài học giúp chúng ta hiểu hơn về tình cảnh thế giới ngày nay. Hệ thống chậm chạp, cố định và chia cắt trong Chiến tranh Lạnh chiếm ngự quan hệ quốc tế từ năm 1954 đã được hoàn toàn thay thế bởi một hệ thống mới rất trơn tru và gắn kết chặt chẽ gọi là toàn cầu hóa. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó vào năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ thì chúng ta đã hiểu rõ vào một thập kỷ sau đó. Thật thế, vào ngày 11/10/1998, vào đỉnh cao của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Merrill Lynch cho chạy quảng cáo nguyên trang trên nhiều tờ báo lớn khắp nước Mỹ để nhấn mạnh điểm này. Quảng cáo viết: CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Chương 0: Phần 2 Thế giới sinh ra khi Bức tường sụp đổ vào năm 1989. Không ngạc nhiên gì khi nền kinh tế non trẻ nhất của thế giới – nền kinh tế toàn cầu – vẫn đang tìm cách định hướng. Cơ chế kiểm tra, điều chỉnh tinh vi để ổn định các nền kinh tế chỉ có thể hoàn chỉnh theo thời gian. Nhiều thị trường thế giới chỉ mới được tự do hóa gần đây, lần đầu tiên bị chi phối bởi tâm lý con người thay vì nắm đấm của nhà nước. Từ chỗ chúng ta đang đứng, không có điều gì có thể làm suy giảm hứa hẹn được đưa ra một thập kỷ trước khi thế giới bị chia cắt đã bị tiêu diệt… Sự phát triển của thị trường tự do và dân chủ khắp thế giới đang cho phép nhiều người khắp nơi chuyển hoài bão thành thành tựu. Công nghệ được làm chủ đúng cách và phân phối tự do sẽ có sức mạnh xóa bỏ không chỉ biên giới địa lý mà còn biên giới dân tộc. Chúng tôi cảm thấy một thế giới chỉ vừa tròn mười tuổi vẫn tiếp tục có những hứa hẹn to lớn. Xin nhớ cho trưởng thành bao giờ cũng là một quá trình đầy khó khăn. Thật ra, quảng cáo của Merrill Lynch sẽ chính xác hơn nếu nói kỷ nguyên toàn cầu hóa này đã tròn mười tuổi. Bởi vì từ giữa những năm 1800 đến cuối thập niên 1920, thế giới cũng đã trải qua một kỷ nguyên toàn cầu hóa tương tự. Nếu so sánh khối lượng thương mại và dòng chảy đồng vốn qua biên giới, tương quan với GNP và dòng chảy lực lượng lao động qua biên giới, tương quan với dân số thì giai đoạn toàn cầu hóa trước Thế chiến thứ nhất rất giống giai đoạn chúng ta đang sống ngày nay. Anh quốc lúc ấy là một cường quốc toàn cầu, là nhà đầu tư lớn vào các thị trường mới nổi và những tay tài phiệt giàu sụ ở Anh, châu Âu và Mỹ thường bị khánh kiệt vì các vụ khủng hoảng tài chính bởi một sự cố nào đó tác động lên trái phiếu đường sắt Argentina, trái phiếu chính phủ Latvia hay trái phiếu chính phủ Đức. Không có kiểm soát tiền tệ cho nên ngay sau khi dây cáp xuyên đại dương được kết nối vào năm 1866 thì khủng hoảng ngân hàng và tài chính ở New York nhanh chóng lan truyền sang London hay Paris. Có lần tôi được xếp cùng nhóm thảo luận với John Monks, người đứng đầu Đại hội Liên đoàn Lao động Anh. Ông ta nhận xét chương trình nghị sự của Đại hội đầu tiên tại Manchester, Anh vào năm 1968 có liệt kê trong số những vấn đề cần thảo luận: “Nhu cầu cần giải quyết sự cạnh tranh từ các thuộc địa châu Á” và “Nhu cầu cần đạt chuẩn mực giáo dục và đào tạo của Hoa Kỳ và Đức”. Vào thời đó, người ta di dân nhiều hơn cả và trừ lúc có chiến tranh, các nước không đòi hỏi hộ chiếu khi đi du lịch trước năm 1914. Mọi di dân đến Mỹ đều không có thị thực. Khi kết hợp các yếu tố này với nhau, cùng với phát minh tàu chạy bằng hơi nước, điện tín, đường sắt và sau cùng là điện thoại, có thể nói kỷ nguyên toàn cầu hóa lần đầu trước Thế chiến thứ nhất đã thu nhỏ thế giới từ cỡ “lớn” thành cỡ “trung”. Kỷ nguyên toàn cầu hóa đầu tiên này và chủ nghĩa tư bản tài chính toàn cầu bị tan vỡ do các cú đấm của Thế chiến thứ nhất, Cách mạng Nga và Đại suy thoái, kết hợp lại đã làm thế giới thương tổn nặng về thể chất và tinh thần. Thế giới bị chia cắt sau Thế chiến thứ hai lại bị đông cứng vì Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Lạnh cũng là một hệ thống quốc tế. Nó kéo dài từ khoảng năm 1945 đến 1989 khi cùng với sự sụp đổ của bức tường Berlin, nó được thay thế bằng một hệ thống khác: kỷ nguyên toàn cầu hóa mới mà chúng ta đang sống. Gọi nó là “Toàn cầu hóa hiệp II”, hóa ra giai đoạn chừng bảy mươi lăm năm từ lúc bắt đầu Thế chiến thứ nhất đến lúc chấm dứt Chiến tranh Lạnh chỉ là một cách nghỉ giữa hiệp kéo dài từ kỷ nguyên toàn cầu hóa này sang kỷ nguyên khác. Trong khi có rất nhiều điểm tương đồng giữa kỷ nguyên toàn cầu hóa trước đây và kỷ nguyên chúng ta đang sống, điểm mới ngày nay là mức độ thế giới đang gắn kết với nhau thành một thị trường toàn cầu hóa và một ngôi làng chung. Một điểm mới khác là số lượng người dân và quốc gia có thể tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hóa và mạng thông tin cũng như bị chúng chi phối. Kỷ nguyên trước năm 1914 có thể rất mãnh liệt nhưng nhiều nước đang phát triển trong kỷ nguyên này bị rơi ngoài rìa. Kỷ nguyên trước năm 1914 có thể lớn về quy mô xét trong mối tương quan với thời đại ấy nhưng tính theo con số tuyệt đối thì thật nhỏ bé khi so với ngày nay. Giao dịch ngoại hối hàng ngày vào năm 1900 chỉ tính bằng triệu đô-la. Năm 1992, con số này là hai mươi tỷ mỗi ngày theo Cục Dự trữ Liên bang tại New York và đến tháng Tư năm 1998, con số này lên đến một nghìn năm trăm tỷ đô-la mỗi ngày và vẫn đang còn tăng lên. Vào khoảng năm 1900, dòng chảy đồng vốn tư nhân từ nước phát triển sang nước đang phát triển đo bằng số trăm triệu đô-la và rất ít nước có liên quan. Đến năm 2000, dòng chảy này đo bằng số trăm tỉ đô-la với hàng chục nước tham gia. Kỷ nguyên toàn cầu hóa mới, so với kỷ nguyên trước Thế chiến thứ nhất có tốc độ siêu tốc. Nhưng kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay không chỉ khác về mặt mức độ; trên một số phương diện quan trọng nó còn khác về tính chất, cả kỹ thuật lẫn chính trị. Xét về mặt kỹ thuật, khác biệt là ở chỗ kỷ nguyên toàn cầu hóa trước đây xây dựng trên giá vận chuyển ngày càng giảm. Nhờ phát minh đường sắt, tàu chạy bằng hơi nước và ô tô, con người có thể đến được nhiều nơi nhanh hơn và rẻ hơn; họ cũng có thể giao thương với nhiều nơi một cách nhanh hơn và chi phí rẻ hơn. Nhưng, như tờ The Economist nhận xét, kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay được xây dựng nhờ vào giá viễn thông ngày càng giảm – nhờ bộ vi xử lý, vệ tinh, cáp quang và Internet. Công nghệ thông tin mới này đã kết nối thế giới càng chặt chẽ hơn. Các kỹ thuật này có nghĩa các nước đang phát triển không chỉ bán nguyên liệu thô cho phương Tây và nhận về sản phẩm hoàn chỉnh; chúng có nghĩa các nước đang phát triển cũng có thể trở thành nhà sản xuất lớn. Các kỹ thuật này cũng cho phép nhiều công ty đặt địa điểm sản xuất, nghiên cứu và marketing khác nhau ở các nước khác nhau những vẫn kết nối chúng qua máy tính và hội nghị từ xa như thể chúng đang ở cùng một nơi. Tương tự, nhờ sự kết hợp máy tính và viễn thông giá rẻ, con người ngày nay có thể cung ứng và trao đổi dịch vụ trên toàn cầu – từ tư vấn sức khỏe đến viết phần mềm hay xử lý thông tin – những dịch vụ trước đây chưa bao giờ được trao đổi. Và tại sao không nhỉ? Một cuộc gọi ba phút (tính bằng đô-la giá năm 1996) giữa New York và London mất ba trăm đô-la vào năm 1930. Ngày nay hầu như không tốn phí nếu gọi qua Internet. Các kỹ thuật này không những tạo điều kiện cho các quốc gia và doanh nghiệp vươn ra khắp thế giới xa hơn, nhanh hơn, rẻ hơn và sâu hơn trước đây nhiều mà các cá nhân cũng làm được điều đó. Vào mùa hè năm 1998, tôi càng thấy điều này rõ hơn khi mẹ tôi, Margaret Friedman, lúc đó đã bảy mươi chín tuổi sống ở Minneapolis gọi điện cho tôi giọng rất bối rối. “Chuyện gì vậy mẹ? Tôi hỏi. Bà đáp: “Ừ, mẹ chơi bài trên Internet với ba người Pháp mà họ cứ nói chuyện bằng tiếng Pháp với nhau, mẹ không hiểu gì cả”. Khi tôi bật cười khi tưởng tượng cảnh bà chơi bài với ba người Pháp trên mạng, bà tự ái: “Đừng có mà cười. Hôm kia mẹ còn chơi bài với một người tận Siberia”. Với những ai nói kỷ nguyên toàn cầu hóa này không khác gì so với trước, tôi chỉ cần hỏi: Thế cụ cố của bạn có chơi bài với người Pháp qua mạng Internet vào năm 1900 không? Tôi nghĩ là không. Nhưng, như tôi đã nói, kỷ nguyên toàn cầu hóa này cũng khác về mặt chính trị so với những năm 1900. Kỷ nguyên đó do siêu cường Anh, đồng bảng Anh và Hải quân Anh thống trị. Kỷ nguyên ngày nay do siêu cường Mỹ, văn hóa Mỹ, đô-la Mỹ và Hải quân Mỹ thống trị. Quyền lực của Mỹ sau Thế chiến thứ hai đã cố ý mở ra một hệ thống thương mại quốc tế mở để tạo công ăn việc làm và đối trọng với chủ nghĩa cộng sản Xô Viết. Chính Mỹ đã thúc đẩy sự hình thành Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại (GATT) và hàng loạt định chế khác nhằm mở cửa thị trường và thúc đẩy thương mại khắp thế giới. Chính các hạm đội của Mỹ đã giữ đường biển thông thương nhằm giúp kết nối các thị trường mới mở này. Cho nên khi Cách mạng Thông tin nổ ra vào cuối những năm 1980 – cho phép nhiều người hoạt động toàn cầu, liên lạc toàn cầu, du lịch toàn cầu và bán buôn toàn cầu – nó đã thăng hoa thành một cấu trúc quyền lực đã khuyến khích và nâng cao những xu hướng này, làm cho nước nào muốn lảng tránh phải trả giá đắt. Nói tóm lại, có một số điều về kỷ nguyên toàn cầu hóa mới này mà chúng ta đã từng chứng kiến (nhưng mức độ bây giờ cao hơn nhiều), có một số điều trước đây chúng ta chưa bao giờ thấy và cũng có điều quá mới đến nỗi chúng ta chưa hiểu hết chúng. Vì những lý do đó, tôi muốn tóm tắt sự khác biệt giữa hai kỷ nguyên toàn cầu hóa theo cách này: Nếu kỷ nguyên đầu tiên thu nhỏ thế giới từ cỡ “lớn” thành cỡ “trung” thì kỷ nguyên toàn cầu hóa lần này đang thu nhỏ thế giới từ cỡ “trung” thành cỡ “nhỏ”. Cuốn sách này là một nỗ lực nhằm giải thích bằng cách nào kỷ nguyên toàn cầu hóa mới mẻ này trở thành hệ thống quốc tế vượt trội vào cuối thế kỷ hai mươi – thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh – và xem xét cách nó đang định hình hầu như toàn bộ quan hệ chính trị, thương mại, môi trường trong nước và quan hệ quốc tế. Theo nghĩa đó, sách nhằm đóng góp vào loạt sách cố gắng định nghĩa thế giới hậu Chiến tranh Lạnh. Trong số những cuốn được đọc nhiều nhất trong thể loại này có bốn cuốn: Sự hưng suy của các cường quốc: Thay đổi kinh tế và xung đột quân sự từ năm 1500 đến 2000 (Paul M. Kennedy), Kết cục của lịch sử và con người cuối cùng (Francis Fukuyama), các bài tiểu luận và những cuốn sách của Robert D. Kaplan và cuốn Xung đột các nền văn minh và sự tái tạo trật tự thế giới (Samuel P. Huntington). Trong khi các tác phẩm này chứa đựng nhiều chân lý, tôi nghĩ không có cuốn nào ghi nhận thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh một cách tổng thể. Cách viết của Kaplan rất sinh động và trung thực nhưng ông lại dùng các ngóc ngách đen tối nhất của thế giới này rồi khái quát chúng một cách quá tay để liên hệ số phận của chúng cho phần còn lại của thế giới. Huntington chứng kiến các cuộc xung đột văn hóa khắp thế giới và mở rộng không cân nhắc rằng đấy là cuộc xung đột của các nền văn minh dai dẳng, gay gắt, thậm chí còn tuyên bố cuộc thế chiến kế tiếp, nếu có, “sẽ là chiến tranh giữa các nền văn minh”. Tôi tin cả Kaplan và Huntington đánh giá quá thấp khả năng mà quyền lực nhà nước, sức hút thị trường toàn cầu, sự lan truyền công nghệ, sự trỗi dậy của các mạng lưới truyền thông và sự lan tỏa các chuẩn mực toàn cầu có thể lật ngược các dự phóng trắng đen phân minh (hầu hết là đen tối) của họ. Cả Kennedy và Huntington cố gắng dự phóng tương lai mà dựa quá nhiều vào quá khứ, chỉ một mình quá khứ. Kennedy ghi nhận (rất tài tình) sự sụp đổ của các đế chế Tây Ban Nha, Pháp và Anh nhưng ông kết luận bằng cách suy đoán rằng đế chế Mỹ cũng sẽ sụp đổ vì sự bá quyền quá đáng của nó. Thông điệp ẩn ý của ông cho rằng kết thúc Chiến tranh Lạnh không chỉ có nghĩa kết thúc Liên Xô mà còn đem lại sự suy vong của Hoa Kỳ. Tôi tin Kennedy chưa hiểu hết rằng sự suy yếu tương đối của Mỹ trong thập niên 1980 khi ông viết sách là một phần của sự chuẩn bị khi Mỹ tự điều chỉnh theo hệ thống toàn cầu hóa mới – một quá trình mà hầu hết phần còn lại của thế giới hiện đang trải qua. Kennedy không nghĩ đến chuyện dưới áp lực toàn cầu hóa, Mỹ cắt giảm ngân sách quốc phòng, tinh giản bộ máy chính phủ và chuyển ngày càng nhiều quyền lực cho thị trường tự do và nhờ thế càng kéo dài vị thế một siêu cường chứ không giảm. Quan điểm của Huntington rằng khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, không còn phải đối phó với Liên Xô thì Mỹ đương nhiên quay sang đối phó với người theo đạo Hindu hay đạo Hồi và họ sẽ đối phó với người Mỹ. Ông ấy hoàn toàn loại bỏ sự trỗi dậy của một hệ thống quốc tế mới có thể định hình biến cố theo một cách hoàn toàn khác. Với Huntington, chỉ có chủ nghĩa bộ tộc tiếp nối Chiến tranh Lạnh chứ không phải xu hướng gì khác. Cuốn sách rất ấn tượng của Fukuyama chứa đựng những hiểu biết sâu sắc chính xác về những điểm mới – sự vượt thắng của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường là cách hiệu quả nhất để tổ chức xã hội – nhưng nhan đề sách (Kết cục của lịch sử...) hàm ý sự vượt thắng này rồi sẽ kết thúc, hàm ý này còn mạnh hơn nội dung sách và khác với những gì tôi được chứng kiến trên thế giới ngày nay. Theo một cách nào đó, các cuốn sách này trở nên nổi bật vì chúng đều cố gắng nắm bắt luồng tư duy về “Điều vĩ đại duy nhất” – phần chủ chốt, động cơ thiết yếu sẽ thúc đẩy các vấn đề quốc tế trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh – dù đó là sự xung đột các nền văn minh, hỗn loạn, sự suy vong của các đế chế hay sự vượt thắng của chủ nghĩa tự do. Lập luận của tôi khác hẳn. Tôi tin rằng nếu muốn hiểu thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh, chúng ta bắt đầu bằng cách hiểu rằng một hệ thống quốc tế mới đã kế tục nó – toàn cầu hóa. Đấy là “Điều vĩ đại duy nhất” mà mọi người phải tập trung. Toàn cầu hóa không chỉ là tác động đến các biến cố trên thế giới ngày nay, bản thân nó là một hệ thống như trên trời có sao Bắc Đẩu vậy. Điểm mới chính là hệ thống này; điểm cũ là chính trị quyền lực, là hỗn loạn, xung đột văn minh và tự do chủ nghĩa. Và kịch tính của thế giới hậu Chiến tranh Lạnh là sự tương tác giữa hệ thống mới này và tất cả những cảm xúc và khát vọng cũ. Đó là một màn kịch phức tạp mà hồi chót vẫn chưa được viết xong. Đó là lý do tại sao trong hệ thống toàn cầu hóa, chúng ta sẽ thấy cả xung đột văn minh và đồng nhất văn minh, cả thảm họa môi trường và các vụ cứu môi trường thật đáng kinh ngạc, cả sự vượt thắng của chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường và làn sóng chống đối nó, cả sự bền vững của khái niệm quốc gia và sự trỗi dậy của những con người có quyền lực to lớn không thuộc quốc gia nào. Điều tôi muốn viết là một cuốn sách hướng dẫn cách theo dõi màn kịch đó và suy nghĩ cách quản lý nó. Thêm một điều sau chót trước khi chúng ta bắt đầu. Người xuất bản và biên tập cuốn sách này, Jonathan Galassi, một hôm gọi điện cho tôi và nói: “Tôi đang kể cho mấy người bạn nghe là anh đang viết một cuốn sách về toàn cầu hóa, họ bảo: A, Friedman hả, anh này khoái toàn cầu hóa lắm. Anh nghĩ sao?” Tôi trả lời cho Jonathan rằng tôi cảm nhận về toàn cầu hóa cũng như cảm nhận bình minh. Nói chung, tôi nghĩ sáng nào mặt trời đều mọc là điều tốt. Tốt nhiều hơn xấu, đặc biệt nếu bạn có mang kính râm. Nhưng ngay cả nếu tôi không thèm quan tâm gì đến bình minh, tôi cũng chẳng làm gì được nó. Tôi không gây ra toàn cầu hóa. Tôi không ngăn nó được – trừ phi phải trả một giá rất đắt cho sự phát triển của nhân loại – và tôi không phí sức thử ngăn nó làm gì. Tôi là một nhà báo, không phải là người rao giảng về toàn cầu hóa. Như quý vị sẽ thấy từ cuốn sách này, tôi hoàn toàn hiểu rõ những mặt trái của toàn cầu hóa. Câu hỏi trong tôi là phải làm gì với các mặt trái này. Tôi tin rằng cách tốt nhất để chúng ta giải quyết tính tàn bạo của toàn cầu hóa là đầu tiên phải hiểu logic của hệ thống, các bộ phận hoạt động của nó, rồi suy tính xem làm sao để hệ thống này có lợi cho nhiều người nhất trong khi gây ra ít đau đớn nhất. Đấy là tinh thần thúc giục tôi viết cuốn sách này. Phần đầu sách giải thích cách nhìn vào hệ thống toàn cầu hóa ngày nay và cách hệ thống hoạt động. Phần hai giải thích cách các quốc gia, cộng đồng, cá nhân và môi trường tương tác với hệ thống. Phần ba giải thích sự chống đối toàn cầu hóa. Và phần bốn giải thích vai trò độc đáo của Mỹ, cũng như nhu cầu cần phải đóng vai trò này để ổn định hệ thống mới. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 1: Phần 1 Mẹ của nhân vật Forrest Gump thường thích nói gì nhỉ? Cuộc đời như hộp kẹo sôcôla: trong hộp có loại kẹo gì ai mà biết trước được. Với tôi, một kẻ lữ hành lâu năm, một phóng viên quốc tế, đời như dịch vụ phòng khách sạn - không bao giờ biết khi mở cửa phòng ra ta sẽ thấy gì. Chẳng hạn vào tối ngày 31/12/1994, khi bắt đầu phụ trách mục bình luận quốc tế cho tờ New York Times, tôi khởi đầu chuyên mục bằng những bài viết từ Tokyo. Đến khách sạn Okura sau một chuyến bay dài xuyên Thái Bình Dương, tôi gọi điện xuống dịch vụ buồng với một yêu cầu đơn giản: “Vui lòng cho mang lên phòng tôi bốn quả cam”. Tôi nghiện ăn cam và lúc đó đang lên cơn thèm. Khi gọi điện tôi nghĩ đây là một yêu cầu đơn giản và hình như người ở đầu dây đằng kia cũng hiểu tôi. Khoảng hai mươi phút sau, có tiếng gõ cửa phòng. Một người phục vụ xuất hiện, đồng phục thẳng tắp, đẩy một xe có khăn bàn trắng toát. Trên xe là bốn ly cam vắt tươi ngon, mỗi ly nằm trong một khay đá sang trọng. “Không, không phải”, tôi nói với người phục vụ. “Tôi muốn cam quả – không muốn cam vắt.” Tôi há miệng giả vờ cắn, ra dấu quả cam. “A a”, người phục vụ gật gật đầu. “Cam… cam.” Tôi trở lại phòng, tiếp tục làm việc. Hai mươi phút sau, có tiếng gõ cửa. Cũng vẫn người phục vụ đó, vẫn chiếc xe phủ khăn trắng toát. Nhưng lần này, trên xe có bốn đĩa, trên mỗi đĩa là một quả cam đã được bóc và cắt thành những miếng nhỏ, xếp theo lối người Nhật bày món sushi. “Không, không phải”, tôi lại lắc đầu. “Tôi muốn cam để nguyên.” Tôi khum tay ra hiệu. “Tôi muốn giữ chúng trong phòng để ăn dần. Tôi không thể ăn hết một lúc bốn quả cắt ra như vậy được. Tôi không thể bỏ chúng vào trong tủ lạnh được. Tôi muốn cam để nguyên. “Một lần nữa, tôi lại cố ra hiệu, bắt chước một người đang ăn cả quả cam. “A a”, người phục vụ gật gật đầu. “Cam… cam. Ông muốn cả quả cam”. Lại thêm hai mươi phút nữa trôi qua. Rồi có tiếng gõ cửa. Vẫn người phục vụ đó. Vẫn chiếc xe đó. Nhưng lần này trên xe là bốn quả cam thật đẹp bày trên bốn chiếc đĩa lớn, cùng dao, dĩa và khăn ăn. Lần này có tiến bộ. “Được rồi”, tôi vừa nói vừa ký phiếu thanh toán. “Chính là thứ tôi muốn.” Khi anh ta quay gót đi, tôi nhìn xuống phiếu thanh toán. Bốn quả cam hết hai mươi hai đô-la. Làm sao tôi giải trình được điều này cho tòa soạn đây? Nhưng cuộc phiêu lưu cam quýt của tôi chưa kết thúc ở đó. Hai tuần sau, tôi sang Hà Nội, ăn tối một mình trong khách sạn Metropole Việt Nam lúc này đang vào mùa quýt, ở mọi góc đường người ta bán từng thúng quýt cao ngất vàng bóng, ngon mắt. Sáng nào tôi cũng thường ăn vài quả quýt. Bữa ăn tối hôm đó, khi người hầu bàn hỏi tôi có dùng tráng miệng, tôi bảo chỉ cần một quả quýt. Anh ta đi một lúc rồi quay lại. “Xin lỗi ông, hết quýt rồi”, anh nói. “Sao thế”, tôi hơi bực. “Sáng nào cũng thấy cả bàn đầy quýt dọn ăn sáng! Chắc chắn thế nào trong bếp cũng còn quýt mà”. “Xin lỗi”, anh ta lắc đầu. “Hay ông dùng tạm dưa hấu?” “Cũng được, cho tôi ít dưa hấu”, tôi nói. Năm phút sau, người phục vụ quay lại, mang theo một đĩa có ba quả quýt. “Tôi tìm ra quýt. Nhưng không có dưa hấu”, anh ta nói. Nếu lúc ấy tôi hiểu được như bây giờ, thì tôi đã coi đó là điềm báo trước. Vì từ ngày đó, khi đi công tác khắp nơi trên thế giới cho tờ Times, tôi thấy những gì đón đợi tôi ngoài cửa và trên bàn ăn thường không phải là những gì tôi định trước. Làm cây bút bình luận quốc tế cho The New York Times thực ra là công việc lý thú nhất thế giới. Ý tôi muốn nói thế nào cũng phải có một loại công việc tốt nhất thế giới, đúng không? Nếu thế, công việc ấy đang ở trong tay tôi. Đây là loại công việc tuyệt vời vì tôi được làm du khách có chủ kiến. Tôi có thể đi bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và có ý kiến về bất cứ điều gì tôi thấy hoặc nghe được. Nhưng câu hỏi dành cho tôi khi bắt đầu cuộc chu du trong cương vị mới này là: chủ kiến gì? Lăng kính nào, cách nhìn như thế nào và thông qua hệ thống tổ chức nào để tôi có thể quan sát thế giới, hiểu được sự kiện, ưu tiên cho điều gì, bày tỏ chính kiến và nói về chúng như thế nào để độc giả hiểu được? Về nhiều phương diện thì những người đi trước trong tờ báo Times có lợi thế hơn tôi. Người nào cũng có một câu chuyện xuyên suốt và một hệ thống quốc tế được định hình sẵn, họ cứ việc ngồi viết. Tôi là ký giả bình luận quốc tế thứ năm trong lịch sử tờ The New York Times. Mục “Quốc tế” là chuyên mục lâu năm nhất của tờ báo. Mục này ra đời năm 1937, do bà Anne O’Hare McCormick, một phụ nữ đầy tài năng chấp bút, và lúc đó có tên là “Tình hình châu Âu”; vì lúc đó đối với hầu hết người Mỹ “châu Âu” là chuyện quốc tế, và đương nhiên, bình luận viên quốc tế duy nhất của tờ báo phải đóng tại châu Âu. Theo cáo phó năm 1954 đăng trên tờ The New York Times, bà McCormick khởi đầu là phóng viên quốc tế “trong tư cách là vợ của ông McCormick, một kỹ sư vùng Dayton. Bà thường đi cùng chồng sang châu Âu mua hàng.” (Cáo phó trên Tờ The New York Times từ ngày đó đã trở nên đúng khuôn sáo hơn). Hệ thống quốc tế mà bà McCormick từng viết là sự rạn vỡ cán cân quyền lực ở châu Âu theo hệ thống Versailles và phần dạo đầu của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Khi Mỹ trổi lên từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng trách toàn cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô, thì mục “Tình hình châu Âu” năm 1954 đổi tên thành “Quốc tế”. Bỗng nhiên, cả thế giới trở thành sân chơi của Hoa Kỳ, và cả thế giới chỗ nào cũng quan trọng, vì mọi ngõ ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô. Hệ thống Chiến tranh Lạnh, với sự tranh giành ảnh hưởng và tính vượt trội giữa tư bản phương Tây và cộng sản phương Đông, giữa Washington, Moskva và Bắc Kinh, trở thành câu chuyện xuyên suốt cho ba bình luận viên sau đó của mục “Quốc tế”, tờ The New York Times, suy nghĩ và viết lách. Vào lúc tôi bắt đầu đảm nhận mục này, hồi đầu năm 1995, Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, bức tường Berlin đã sụp đổ và Liên Xô là chuyện lịch sử. Tôi may mắn được chứng kiến tại điện Kremlin những hơi thở cuối trong cơn hấp hối của Liên Xô. Đó là ngày 16/12/1991. Ngoại trưởng Hoa Kỳ James A. Baker lúc đó đang ở thăm Moskva, cùng lúc Boris Yeltsin đang nhẹ nhàng tháo gỡ quyền lực khỏi tay Mikhail Gorbachev. Trước đó, mỗi khi Baker thăm Gorbachev thì họ thường gặp trong cung điện dát vàng mang tên St.Catherine; và lúc nào cũng có cảnh dạo đầu thật ngoạn mục cho giới báo chí. Ông Baker cùng tùy tùng bao giờ cũng chờ trong một phòng đầu hành lang, cửa đóng, trong khi ông Gorbachev cùng các phụ tá thì chờ sau cửa một phòng ở đầu đối diện của điện Kremlin. Rồi sau một tín hiệu nào đó, cửa hai căn phòng cùng mở, hai vị cùng bước ra và tiến đến giữa sảnh, bắt tay nhau trước ống kính của báo giới. Thế nhưng lần này, khi ông Baker sang, đến giờ hẹn, cửa mở và người bước ra là Boris Yeltsin, thay vì Mikhail Gorbachev. Ai là chủ buổi tiệc tối nay? “Hoan nghênh quí vị trên đất Nga và trong tòa nhà này của nước Nga,” Yeltsin nói với Baker. Sau đó, Baker quả có gặp Gorbachev trong cùng ngày, nhưng rõ ràng quyền lực đã được chuyển giao. Chúng tôi, những phóng viên của Bộ Ngoại giao đi tường thuật sự kiện, hôm đó phải ở cả ngày trong điện Kremlin. Lúc chúng tôi ở trong điện thì bên ngoài tuyết rơi nhiều lắm. Đến lúc sụp tối, rời khỏi Kremlin, bước ra ngoài thì tuyết đã đóng thành một tấm chăn thật dày. Chúng tôi lội tuyết sang cổng Spassky của điện Kremlin, để lại những vết giày lún sâu trong tuyết. Tôi để ý thấy cờ đỏ búa liềm của Liên Xô vẫn còn treo trên tháp, được đèn chiếu sáng, như nó vẫn ở đó khoảng bảy mươi năm rồi. Tôi tự nhủ, “có lẽ đây là lần cuối cùng mình được thấy lá cờ tung bay trên đó.” Quả thực chỉ vài tuần sau, lá cờ đó biến mất, ra đi cùng với nó là cả hệ thống Chiến tranh Lạnh và một câu chuyện xuyên suốt. Sau đó vài năm, khi tôi vào phụ trách mục bình luận tin quốc tế của The New York Times, có điều tôi còn chưa rõ: cái gì đã thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh để đóng vai trò như một cấu trúc chủ đạo cho quan hệ quốc tế. Vì thế tôi bắt đầu viết cột báo trong tư cách một du khách không mang định kiến – một du khách có đầu óc mở. Trong nhiều năm, cũng như nhiều tay viết khác, tôi chỉ nhắc đến thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh. Chúng tôi biết đã có một hệ thống khác đang hình thành và trở thành khuôn mẫu chung cho các mối quan hệ quốc tế, nhưng không biết gọi đó là hệ thống gì. Vậy chúng tôi đành mô tả nó theo hướng khác – tức là chứng minh: nó không phải là Chiến tranh Lạnh. Nên chúng tôi gọi là hậu Chiến tranh Lạnh. Càng đi nhiều tôi càng nhận thấy chúng ta ngày nay không phải đang tồn tại trong một thế giới hỗn mang, thiếu nhất quán và khó định nghĩa của thời hậu Chiến tranh Lạnh. Ngược lại, chúng ta đang ở trong một hệ thống quốc tế mới. Hệ thống này có logic, có quy luật, có áp lực và có động lực riêng của nó – nó đáng được gọi bằng cái tên riêng - “toàn cầu hóa”. Toàn cầu hóa không chỉ là một thứ mốt kinh tế, không phải là một khuynh hướng nhất thời. Nó là một hệ thống quốc tế – một hệ thống chủ đạo, thay thế Chiến tranh Lạnh sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Chúng ta cần hiểu toàn cầu hóa theo nghĩa như vậy. Nếu trong hình sự có khái niệm thời hiệu, thì chắc cũng phải có một thời hiệu nhất định đối với những khái niệm hoa mỹ trong chính sách đối ngoại. Với suy nghĩ đó, khái niệm “thế giới thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh” phải được chấm dứt. Bây giờ chúng ta đang ở trong hệ thống toàn cầu hóa. Khi nói toàn cầu hóa đã thay thế Chiến tranh Lạnh như một hệ thống định hình thế giới, chính xác là tôi đang nói tới điều gì? Tôi muốn nói rằng trong vai trò là một hệ thống quốc tế, Chiến tranh Lạnh có cấu trúc quyền lực riêng: cán cân lực lượng giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết. Chiến tranh Lạnh có những luật lệ riêng: trong quan hệ đối ngoại, không một siêu cường nào muốn xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của một siêu cường khác; trong kinh tế, những nước kém phát triển chú tâm vào việc phát triển những ngành công nghiệp quốc gia của riêng họ, các nước đang phát triển chú tâm tăng trưởng trên cơ sở xuất khẩu, các nước xã hội chủ nghĩa tập trung thắt lưng buộc bụng và phương Tây thì chăm chăm vào việc buôn bán có điều tiết. Chiến tranh Lạnh có hệ tư tưởng riêng của nó: cuộc chạm trán giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giai đoạn hòa hoãn, không liên kết hay cải tổ (perestroika). Chiến tranh Lạnh có khuynh hướng về dân số riêng: di cư từ Đông sang Tây bị bức màn sắt ngăn trở, nhưng di cư từ miền Nam lên phía Bắc thì đều đặn hơn. Chiến tranh Lạnh có cái nhìn toàn cầu riêng: thế giới được chia thành phe xã hội chủ nghĩa, phe tư bản chủ nghĩa và phe trung lập; nước nào cũng thuộc về một trong những phe này. Chiến tranh Lạnh sinh ra những công nghệ định hình riêng: chủ đạo là vũ khí hạt nhân và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai, nhưng đối với dân chúng ở các nước đang phát triển thì búa liềm vẫn là những công cụ gần gũi. Chiến tranh Lạnh có thước đo riêng: số lượng tên lửa hạt nhân của mỗi bên. Và sau cùng, Chiến tranh Lạnh tạo ra mối lo riêng: sự hủy diệt hạt nhân. Tổng hợp những yếu tố trên đây ta thấy Chiến tranh Lạnh ảnh hướng tới chính sách đối nội, mậu dịch và quan hệ đối ngoại của hầu hết mọi nước trên thế giới. Chiến tranh Lạnh không tạo lập tất cả, nhưng lại định hình rất nhiều thứ. Kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay là một hệ thống quốc tế tương tự, có những đặc tính độc đáo tương phản với những đặc tính thời Chiến tranh Lạnh. Trước hết, nói về Chiến tranh Lạnh là nói đến sự chia cắt. Thế giới bị chia cắt ngang dọc thành nhiều cánh đồng vụn vặt manh mún. Những mối đe dọa cùng những cơ hội khởi phát từ chuyện bạn bị chia cắt như thế nào. Quả thực hệ thống Chiến tranh Lạnh được tượng trưng bằng một từ: bức tường – bức tường Berlin. Một trong những miêu tả về Chiến tranh Lạnh mà tôi thích nhất là của diễn viên Jack Nicholson trong phim A Few Good Men [Vẫn còn người tốt]. Nicholson trong vai một đại tá thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đóng tại căn cứ Guantanamo, Cuba. Vào phút cao trào trong phim, Nicholson bị Tom Cruise chất vấn vì sao Santiago, một người lính yếu đuối dưới quyền của Nicholson bị đồng đội đánh chết. “Anh muốn có câu trả lời ư?” Nicholson hét lên. Cruise đốp lại, “Tôi muốn sự thật.” “Anh không thể chịu nổi sự thật đâu”, Nicholson nói. “Anh bạn ạ, chúng ta đang sống trong một thế giới có những bức tường, và những bức tường đó lại phải được những người có súng canh gác. Ai là người sẽ làm điều đó? Anh ư? Anh ư, trung úy Weinberg? Tôi phải chịu trách nhiệm nặng nề hơn là anh tưởng. Anh khóc cho Santiago và anh nguyền rủa lực lượng thủy quân lục chiến. Anh có quyền làm điều phù phiếm như vậy. Bởi anh may mắn không biết những điều tôi biết – đó là cái chết của Santiago, dẫu có là bi kịch, có thể đã cứu được nhiều mạng sống khác. Và sự hiện diện của tôi, dẫu có ghê tởm và khó hiểu với anh, cũng cứu được mạng sống người khác. Anh không muốn thấy sự thật, vì tận đáy lòng, tại những nơi ít được nói tới trong những bữa tiệc, anh vẫn muốn tôi đứng canh gác trên những bức tường đó. Anh cần có tôi đứng canh gác bên những bức tường đó.” Hệ thống toàn cầu hóa hơi khác chút ít. Nó cũng chứa đựng một đặc điểm lớn – sự hội nhập. Thế giới nay đã trở nên một nơi có những quan hệ ngày càng chồng chéo đan xen. Dù bạn là một công ty hay là một đất nước thì những mối đe dọa cũng như những cơ hội sẽ đến với bạn chính từ những đối tác mà bạn có quan hệ. Hệ thống này cũng được miêu tả tượng trưng bằng một từ: web [mạng Internet]. Vì thế, theo một nghĩa rộng thì chúng ta đang tiến từ một hệ thống xây dựng trên sự chia cắt, nhiều bức tường ngăn cách, đến một hệ thống được xây nên bằng sự hội nhập và mạng Internet. Trong thời Chiến tranh Lạnh, chúng ta bám vào “Đường dây nóng” – biểu tượng cho thấy mặc dù chúng ta bị chia cắt, nhưng ít ra có hai người, Liên Xô và Hoa Kỳ, đứng chịu trách nhiệm. Và trong hệ thống toàn cầu hóa, chúng ta bám vào Internet, một biểu tượng cho thấy chúng ta ngày càng liên hệ chặt chẽ hơn và không có ai đứng chỉ đạo cả. Điều này dẫn đến nhiều khác biệt nữa giữa hai hệ thống Chiến tranh Lạnh và toàn cầu hóa. Khác với Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa không phải là một cục diện đông cứng, mà là một quá trình phát triển năng động. Chính vì thế, tôi định nghĩa toàn cầu hóa như sau: nó là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng có – theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết và cũng theo phương cách giúp thế giới tiếp cận các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết. Quá trình toàn cầu hóa cũng khiến nảy sinh chống đối dữ dội từ những ai bị thiệt hại hay bị hệ thống mới bỏ rơi. Ý tưởng làm động lực cho toàn cầu hóa là chủ nghĩa tư bản dựa trên kinh tế thị trường – nếu bạn để cho thị trường tự điều tiết, nếu bạn mở cửa nền kinh tế cho phép thông thương và cạnh tranh tự do, thì nền kinh tế của bạn sẽ càng hữu hiệu và tăng trưởng nhanh hơn. Toàn cầu hóa có nghĩa là chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường lan vào hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, toàn cầu hóa hình thành cho riêng nó một hệ thống luật lệ kinh tế – luật lệ xoay quanh việc mở cửa, thả nổi và tư nhân hóa nền kinh tế của bạn, để nó có tính cạnh tranh cao hơn và thu hút được nhiều hơn đầu tư nước ngoài. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong năm 1975, vào đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, chỉ có tám phần trăm quốc gia trên thế giới có chế độ kinh tế thị trường tự do, và lúc đó tổng vốn đầu tư nước ngoài trên khắp thế giới là hai mươi ba tỷ đô-la. Tới năm 1997, con số các nước có chế độ kinh tế thị trường chiếm hai mươi tám phần trăm và tổng vốn đầu tư nước ngoài là sáu trăm bốn mươi bốn tỷ đô-la. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 1: Phần 2 Không như Chiến tranh Lạnh, hệ thống toàn cầu hóa mang một sắc thái văn hóa riêng, bao trùm và có xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân tới một mức độ nhất định. Trước đây sự đồng hóa như vậy chỉ diễn ra ở quy mô khu vực – ví dụ sự đồng hóa văn hóa La Mã đối với miền Tây châu Âu và vùng Địa Trung Hải, sự đồng hóa của giá trị đạo Hồi ở vùng Trung Á, Bắc Phi, một phần châu Âu và Trung Đông, do người Ả Rập và sau đó là đế quốc Ottoman tiến hành, hay sự Nga hóa vùng Đông và Trung Âu và nhiều phần vùng giáp giới châu Âu và châu Á dưới thời Xô Viết. Đứng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa hiện nay bao gồm một quá trình Mỹ hóa (dù tốt hay xấu) – từ hiện tượng Mc Donald’s đến Macs rồi đến chuột Mickey. Toàn cầu hóa có công nghệ định hình riêng: vi tính hóa, thu nhỏ kích cỡ các loại thiết bị, số hóa, viễn thông vệ tinh, cáp quang và Internet, giúp cho việc vun đắp viễn cảnh hội nhập. Khi một nước nhảy vào dòng chảy toàn cầu hóa, giới tinh hoa của đất nước đó bắt đầu chuyển tải viễn cảnh hội nhập vào bên trong và cố tìm cho họ một chỗ đứng trong bối cảnh toàn cầu. Mùa hè năm 1998, tôi sang Amman, Jordan, ngồi uống cà phê với người bạn tên là Rami Khouri, một nhà bình luận chính trị hàng đầu của nước này trong khách sạn Inter-Continental. Tôi hỏi anh có tin gì mới không. Điều đầu tiên anh nói với tôi là “Jordan vừa được đài CNN đưa vào màn hình dự báo thời tiết toàn cầu của họ.” Rami muốn nói rằng đất nước này phải hiểu ra một điều quan trọng: đó là những định chế toàn cầu giờ đây muốn cho mọi người thấy cần phải biết thời tiết ở Jordan. Điều này khiến người Jordan tự cảm thấy sang trọng hơn, và hy vọng sẽ có thêm du khách và nhiều nhà đầu tư đến đất nước của họ. Một ngày sau khi gặp Rami, tôi sang Israel và gặp Jacob Frenkel, Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nước này, đồng thời là một kinh tế gia tốt nghiệp Đại học Chicago. Frenkel cũng thừa nhận chính bản thân ông đang trải qua một thời kỳ thay đổi nhận thức: “Trước đây, khi nói về kinh tế vĩ mô, chúng tôi bắt đầu từ những thị trường địa phương, hệ thống tài chính khu vực và những quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau, rồi sau đó, như chợt nhớ ra, chúng tôi bàn đến nền kinh tế quốc tế. Hồi đó có một cảm giác chung là những gì chúng tôi làm là việc riêng của chúng tôi, rồi sau đó thông qua một số kênh, chúng tôi bán hàng ra nước ngoài. Giờ đây, chúng tôi đảo ngược quá trình đó. Không có chuyện quyết định sản xuất trước rồi mới tìm thị trường xuất khẩu; mà trước hết hãy nghiên cứu khung cảnh toàn cầu, rồi quyết định sản xuất hàng gì. Quan điểm này thay đổi toàn cách nghĩ của mỗi chúng ta.” Trong khi thước đo của thời Chiến tranh Lạnh là trọng lượng, đặc biệt là trọng lượng các loại tên lửa. Nay để đo đếm toàn cầu hóa, người ta dùng đơn vị tốc độ – tốc độ trong buôn bán, đi lại, liên lạc và sáng tạo. Chiến tranh Lạnh là nói đến phương trình năng lượng và khối lượng của Einstein: e=mc2. Toàn cầu hóa xoay quanh định luật Moore rằng công suất tính toán của các con chip silicon sẽ tăng gấp đôi trong vòng mười tám đến hai mươi tư tháng, trong khi giá giảm còn một nửa. Trong thời Chiến tranh Lạnh, câu hỏi thường là “quý vị đứng về phe nào?” Trong toàn cầu hóa người ta hay hỏi, “bạn kết nối với người khác ở mức độ nào?” Trong Chiến tranh Lạnh, người ta hay hỏi, “tên lửa của bạn lớn đến đâu?” Trong toàn cầu hóa người ta muốn biết, “modem của bạn nhanh đến mức nào?” Văn kiện chủ đạo của Chiến tranh Lạnh là “Hiệp Ước.” Trong toàn cầu hóa, văn kiện tối hậu là “Giao Kèo.” Hệ thống Chiến tranh Lạnh thậm chí có thời trang riêng của mình. Năm 1961, theo tạp chí Foreign Policy (Chính sách Đối ngoại), Chủ tịch Cuba là Fidel Castro, trong bộ quân phục ka ki màu xanh ôliu đưa ra tuyên bố nổi tiếng - “Tôi nguyện là người Marxist-Leninist đến cuối đời.” Vào tháng Giêng năm 1999, ông Castro mặc một bộ complet thương gia đến dự một hội nghị toàn cầu hóa tại Thủ đô La Habana, nơi có nhà tài phiệt George Soros và nhà kinh tế chủ trương thị trường tự do, Milton Friedman, cùng được mời tham dự. Nếu như kinh tế gia chủ đạo của Chiến tranh Lạnh là John Maynard Keynes, muốn thuần hóa chủ nghĩa tư bản, thì trong toàn cầu hóa có kinh tế gia Joseph Schumpeter và Andy Grove, Chủ tịch tập đoàn Intel, cả hai đều muốn thả lỏng con thú tư bản chủ nghĩa. Schumpeter, cựu Bộ trưởng Tài chính của nước Áo và cựu Giáo sư Trường Kinh doanh, Đại học Harvard, đã bày tỏ quan điểm trong tác phẩm nổi tiếng Chủ Nghĩa Tư Bản, Chủ Nghĩa Xã Hội và Dân Chủ, cho rằng điều cốt lõi của chủ nghĩa tư bản là quá trình “hủy diệt sáng tạo” – một chu kỳ không ngừng đào thải những sản phẩm và dịch vụ lỗi thời và thay thế chúng bằng những sản phẩm và dịch vụ mới, hữu hiệu hơn. Andy Grove đã lấy lối suy nghĩ của Schumpeter rằng “chỉ có những kẻ hoang tưởng mới tồn tại”, làm đầu đề cuốn sách của ông, kể về cuộc sống trong Thung lũng Silicon, và biến nó thành khuôn mẫu cho nhiều doanh nghiệp trong thời tư bản toàn cầu hóa. Grove là người giúp quảng bá cho quan điểm rằng sáng kiến cải tiến táo bạo, thay đổi công nghệ hiện đang diễn ra nhanh chóng hàng ngày, hàng giờ. Do những đột phá kỹ thuật, những phát minh của bạn có thể nhanh chóng bị lỗi thời hoặc nhanh chóng trở thành hàng hóa – cả hai khả năng có thể diễn ra chỉ trong thoáng chốc. Do đó, chỉ những kẻ hoang tưởng, cả lo, chăm chăm nhìn đằng sau xem có ai đó sáng chế được điều gì mới hơn sản phẩm của họ, và cố gắng đi trước một bước, thì mới sống sót. Những quốc gia sẵn sàng để cho chủ nghĩa tư bản nhanh chóng thải đi những công ty làm ăn thua lỗ của mình, rồi tập trung tiền đầu tư cho những doanh nghiệp làm ăn tốt hơn, sẽ thực sự tiến bước trong thời đại toàn cầu hóa. Những quốc gia nào ỷ lại vào chính phủ bảo trợ cho những doanh nghiệp làm ăn yếu kém, tránh né sự đào thải sáng tạo nói trên, rồi sẽ tụt hậu trong thời toàn cầu hóa. James Surowiecki, bình luận viên kinh doanh của tạp chí Slate đã điểm cuốn sách của Grove và tóm tắt rất khúc chiết những điểm tương đồng giữa Grove và Schumpeter, là cốt lõi của kinh tế toàn cầu. Đó là lý thuyết: “Sáng tạo sẽ thay thế truyền thống. Hiện tại và có lẽ tương lai sẽ thay thế quá khứ. Không có gì quan trọng bằng những điều sắp xảy ra, và liệu những điều đó có xảy ra hay không lại tùy thuộc vào khả năng có thể đảo ngược được những gì hiện có. Bối cảnh đó thuận lợi cho sáng tạo nhưng gây nhiều khó khăn cho cuộc sống bình thường, vì con người ta vốn dĩ chỉ mong hướng đến một tương lai ổn định, hơn là một cuộc đời trong đó hầu như chẳng có gì chắc chắn… Chúng ta không bị buộc phải tái tạo thường xuyên các mối quan hệ với những người thân. Nhưng, đó lại chính là điều mà Schumpeter, và sau đó là Grove đề xuất, cần thường xuyên tái tạo để được thịnh vượng [trong ngày nay].” Quả thật, nếu ví Chiến tranh Lạnh là một môn thể thao thì nó sẽ là môn vật sumo, qua đánh giá của Giáo sư Michael Mandelbaum, môn quan hệ đối ngoại, Đại học Hopkins. “Sẽ có hai anh béo đứng trên đài, múa may lễ bái đủ đường, giẫm chân huỳnh huỵch, nhưng rất ít khi chạm vào nhau… cho tới cuối trận thì có chút ít xô đẩy và có một tay bị thua do bị đẩy khỏi đài, nhưng rốt cuộc chẳng có anh nào chết cả.” Ngược lại, nếu toàn cầu hóa là một môn thể thao thì đó sẽ là môn chạy nước rút một trăm mét, liên tiếp, không ngừng nghỉ. Dù bạn thắng trong ngày hôm nay thì bạn sẽ phải đua tiếp vào ngày mai. Và nếu bạn chỉ thua trong một phần trăm giây thì cũng tồi tệ như bạn bị chậm mất cả một giờ vậy. (Cứ hỏi các công ty xuyên quốc gia của Pháp thì biết. Năm 1999, luật lao động của Pháp được sửa đổi, yêu cầu giới chủ phải giảm số giờ làm việc của nhân viên từ ba mươi chín tiếng xuống còn ba mươi lăm tiếng một tuần, không giảm lương. Nhiều doanh nghiệp Pháp đã chống đối vì hậu quả việc sửa đổi luật sẽ ảnh hưởng tới năng suất của họ trên thị trường toàn cầu. Henri Thierry, giám đốc nhân sự hãng Thomson-CSF Communications, một hãng công nghệ cao đóng ở ngoại thành Paris, nói với tờ The Washington Post: “Chúng tôi đang ở trong một cuộc cạnh tranh toàn cầu. Nếu chúng tôi mất một đơn vị năng suất, chúng tôi sẽ mất đi nhiều đơn đặt hàng. Nếu chúng tôi chấp hành luật làm việc trong ba mươi lăm giờ mỗi tuần thì không khác gì chuyện bắt vận động viên người Pháp phải đi dép lê để chạy thi một trăm mét. Họ sẽ không có nhiều cơ may đoạt huy chương đâu.” Nói theo cách của lý thuyết gia chính trị người Đức Carl Schmitt, Chiến tranh Lạnh là một thế giới của “bạn” và “thù”. Trong toàn cầu hóa, thì ngược lại, bạn cũng như thù đều biến thành “những đối thủ cạnh tranh.” Nếu nỗi lo âu trong thời Chiến tranh Lạnh là khả năng bị kẻ thù hủy diệt, kẻ thù với danh tính rõ ràng, và trong một thế giới bị phân chia rành mạch, thì nỗi ám ảnh của thời toàn cầu hóa chính là sợ sự thay đổi của một thứ kẻ thù mà bạn không nhìn thấy, cảm nhận hay sờ thấy được – một tâm lý lo lắng rằng công việc, cộng đồng hay môi trường làm việc của quý vị có thể bị những thế lực kinh tế và công nghệ không ổn định khiến cho thay đổi. Hệ thống phòng ngự chủ yếu trong Chiến tranh Lạnh là radar – dùng để phát hiện những đe dọa từ bên kia bức tường. Hệ thống phòng thủ đặc trưng của toàn cầu hóa là chiếc máy X quang – dùng để tìm những hiểm họa ngay từ bên trong. Toàn cầu hóa cũng sản sinh một khuynh hướng dân số riêng – sự dịch chuyển nhanh chóng của dân chúng từ những vùng nông thôn với đời sống nông nghiệp ra thành thị. Và lối sống ở thành thị đang ngày càng gắn liền với các xu hướng toàn cầu trên phương diện thực phẩm, lương thực, thời trang, thị trường và giải trí. Sau cùng và quan trọng nhất, toàn cầu hóa mang đặc trưng cấu trúc quyền lực riêng, phức tạp hơn so với cấu trúc quyền lực thời Chiến tranh Lạnh. Hệ thống Chiến tranh Lạnh được xây dựng chủ yếu trên nền tảng các quốc gia. Bạn hoạt động đối ngoại thông qua nhà nước của bạn. Trong kịch bản Chiến tranh Lạnh ta thấy các quốc gia đối đầu, đối trọng và liên kết với nhau. Và trong hệ thống này, Chiến tranh Lạnh được cân bằng bởi hai siêu cường: Hoa Kỳ và Liên Xô. Ngược lại, toàn cầu hóa được xây dựng quanh ba cán cân quyền lực chồng chéo và quan hệ tương hỗ. Trước hết là sự đối trọng truyền thống giữa các quốc gia. Trong toàn cầu hóa, Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất, và tất cả các nước khác đều ít nhiều phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối trọng quyền lực giữa Hoa Kỳ và các nước khác vẫn đóng vai trò duy trì ổn định cho toàn hệ thống. Điều này giải thích cho nhiều mẩu tin bạn đọc được trên trang nhất các tờ báo, chẳng hạn việc cô lập Iraq ở Trung Đông hay sự mở rộng khối NATO để kiềm chế ảnh hưởng của Nga ở Trung Âu. Cán cân quyền lực thứ hai là giữa các quốc gia và các thị trường toàn cầu. Các thị trường toàn cầu được xây dựng bởi hàng triệu nhà đầu tư, di chuyển vốn qua nhiều nơi trên thế giới bằng cách nhấp chuột máy tính. Tôi gọi chúng là “Bầy Thú Điện Tử”. Những con thú này tập trung ở những trung tâm tài chính toàn cầu như phố Wall, Hồng Kông, London và Frankfurt, những nơi tôi gọi là “những Siêu Thị.” Hành vi của Bầy Thú Điện Tử và hoạt động của các Siêu Thị ngày nay có thể có tác động rất lớn đối với các quốc gia, thậm chí có thể gây sụp đổ cho các chính phủ. Ai là người đã hạ bệ Tổng thống Suharto tại Indonesia năm 1998? Không phải là một quốc gia khác, mà chính là các Siêu Thị, thông qua việc rút lại sự ủng hộ và niềm tin vào kinh tế Indonesia. Bạn không thể hiểu nổi nội dung những mẩu tin trên báo ngày nay nếu không xét đến yếu tố các Siêu Thị trong phân tích của bạn. Vì Hoa Kỳ có thể xóa sổ bạn bằng cách ném bom, nhưng các Siêu Thị có thể khiến bạn biến mất bằng cách đánh sụt hạng trái phiếu bạn phát hành. Nói cách khác, Hoa Kỳ đóng vai trò nổi trội trên bàn cờ toàn cầu hóa, nhưng bản thân Hoa Kỳ không tác động được gì vào những nước đi trên bàn cờ đó. Bàn cờ toàn cầu ngày nay rất giống bàn Quija – thỉnh thoảng có bàn tay của các siêu cường hiện hữu dịch chuyển những quân cờ, nhưng thỉnh thoảng các quân cờ lại được những bàn tay vô hình của các Siêu Thị điều khiển. Đối trọng về quyền lực thứ ba trong hệ thống toàn cầu hóa là giữa các cá nhân và các nhà nước – điều này mới mẻ hơn cả. Do toàn cầu hóa đã phá đi nhiều bức tường ngăn cách dân chúng, và nối cả thế giới vào một mối, nó mang lại cho các cá nhân khả năng chi phối cả các thị trường lẫn các quốc gia trong bất cứ thời điểm nào. Các cá nhân có thể công diễn trực tiếp trên sân khấu thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ môi giới của nhà nước. Vậy ngày nay, không những bạn có một siêu cường, nhiều siêu thị, và, như sẽ được chứng minh thêm trong phần sau của cuốn sách, bạn có các cá nhân được trang bị quyền lực tối thượng. Một số những cá nhân đó đang giận dữ, một số khác thật tuyệt vời, nhưng ai cũng như ai, họ đều có thể công diễn trên sân khấu thế giới. Quỹ Long-Term Capital Management – gồm một số cá nhân với một quỹ đầu cơ tín dụng đóng tại Greenwich, Connecticut, đã phân bố những khoản tiền đầu tư trên khắp thế giới còn nhiều hơn lượng ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc – điều mà ngay cả chính phủ Hoa Kỳ cũng không ngờ đến. Osama Bin Laden, một triệu phú người Arập Xê út có mạng lưới toàn cầu riêng tuyên chiến với Hoa Kỳ vào cuối những năm 1990, và không quân Hoa Kỳ đã trả đũa bằng cuộc không kích vào Afghanistan, nơi ông ta cư ngụ, như tuồng Bin Laden là cả một quốc gia. Cứ nghĩ về điều đó mà xem. Hoa Kỳ bắn bảy mươi lăm tên lửa hành trình, mỗi cái giá một triệu đô-la, nhằm vào một cá nhân! Đó chính là một siêu cường chống một cá nhân có quyền lực lớn. Jody Williams đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1997 do đóng góp của bà vào công ước quốc tế cấm các loại mìn trên đất liền. Bà đạt được điều này không những không có sự giúp đỡ của đất nước của bà, mà còn do bất chấp sự chống đối của nhiều nước lớn. Và vũ khí bí mật của bà là gì, khi vận động được một nghìn nhóm nhân quyền và kiểm soát vũ khí ở khắp sáu châu lục? - Email. Các quốc gia và đặc biệt siêu cường Mỹ ngày nay vẫn có vai trò quan trọng. Nhưng quan trọng không kém, là vai trò của các Siêu Thị và các cá nhân có quyền lực lớn. Bạn không thể hiểu được toàn cầu hóa cũng như những mẩu tin trên trang nhất báo chí, trừ phi nhìn nhận chúng qua lăng kính tổng hòa quan hệ phức tạp giữa ba yếu tố kể trên: nhà nước va chạm với nhà nước, nhà nước va chạm các Siêu Thị và Siêu Thị cùng nhà nước va chạm với những cá nhân có quyền lực lớn. Khổ một nỗi là, do những lý do tôi sẽ nêu sau này, hệ thống toàn cầu hóa đến với chúng ta trước khi chúng ta có khả năng nhận biết và hiểu được nó. Hãy nghĩ về điều này: trong năm 1990, hầu hết không mấy ai biết về Internet, và rất hiếm người thời đó có địa chỉ Email riêng. Đó là mới hơn mười năm trước! Giờ đây, Internet, điện thoại di động và Email đã trở thành công cụ thiết yếu của nhiều người, không chỉ ở các nước phát triển đến nỗi họ không thể tưởng tượng cách sống thiếu chúng. Tôi chắc rằng nó cũng tương tự như tình hình hồi đầu Chiến tranh Lạnh, khi xuất hiện các kho vũ khí hạt nhân cùng các học thuyết răn đe. Phải mất một thời gian dài thì các nhà lãnh đạo và các nhà phân tích thời đó mới hiểu được bản chất thực sự và các khuynh hướng của hệ thống Chiến tranh Lạnh. Họ sống sót từ Chiến tranh Thế giới thứ hai; họ nghĩ rằng cuộc chiến đó đã tạo ra một thứ thế giới mới, nhưng thực tế diễn ra hoàn toàn khác, họ sớm nhận ra rằng thế giới mới hoàn toàn không giống những gì người ta mong đợi. Phần nhiều những yếu tố định hình thế giới và chiến lược trong thời Chiến tranh Lạnh chẳng qua là những phản ứng tại chỗ đối với những diễn biến cùng các hiểm họa mới xuất hiện. Rồi dần dần các nhà hoạch định chiến lược bắt đầu xây dựng những định chế mới, các quan niệm và lối ứng xử mới mà sau này được biết đến dưới tên gọi hệ thống Chiến tranh Lạnh. Đối với toàn cầu hóa thì sự thể cũng diễn ra không khác mấy, ngoại trừ chuyện chúng ta có thể mất nhiều thời gian hơn để hiểu về nó, vì để hiểu hệ thống không thôi cũng cần phải đào tạo lại; vả lại khác với Chiến tranh Lạnh, nơi mọi thứ được định hình xung quanh các siêu cường, toàn cầu hóa được xây dựng với sự tham gia của các Siêu Thị và các cá nhân có quyền lực lớn. Tôi xin nói cách chúng ta hiểu về toàn cầu hóa vào năm 2000 cũng giống như cách chúng ta hiểu về Chiến tranh Lạnh vào năm 1946 - năm đó Winston Churchill cảnh báo “Bức Màn Sắt” ngăn cách khu vực ảnh hưởng của Liên Xô khỏi Tây Âu sắp được dựng lên. Ba mươi năm sau ngày Churchill đọc bài diễn văn này chúng ta cũng chưa hiểu được hệ thống Chiến tranh Lạnh rồi sẽ ra sao! Cũng vào lúc đó nhà sách Routledge xuất bản một tập tiểu luận của các nhà nghiên cứu về Liên Xô với chủ đề Nền kinh tế Xô Viết đến năm 2000. Tập sách ấy bán rất chạy. Nhưng không một tác giả nào lúc đó có thể dự đoán rằng vào năm 2000, sẽ không còn nền kinh tế Xô Viết. Để chứng minh cho luận điểm rằng rất ít người hiểu đích xác về hoạt động của hệ thống toàn cầu hóa, xin dẫn ra đây một bằng chứng lý thú. Hai nhà kinh tế làm tư vấn cho Quỹ Long-Term Capital Management, là Robert C. Merton và Myron S. Scholes, cả hai đã cùng nhận một giải Nobel Kinh tế năm 1997, khoảng một năm trước khi Quỹ này hiểu sai về bản chất của rủi ro trong thị trường toàn cầu đang xen ngày nay, rốt cuộc dẫn đến sự thua lỗ lớn nhất trong lịch sử các loại quỹ đầu tư. Nhưng hai kinh tế gia của Quỹ này được giải Nobel do công lao gì? Chính là do các nghiên cứu của họ về cách sử dụng các loại công cụ tài chính phức tạp, gọi là phái sinh, phục vụ các nhà đầu tư toàn cầu loại bỏ các rủi ro về tài chính! Năm 1997, họ được trao giải thưởng Nobel do có công giúp quản lý rủi ro. Năm 1998, họ trở thành kẻ đầu têu do đã tạo ra các loại rủi ro mới. Vẫn những con người đó, vẫn những thị trường đó, nhưng là một thế giới mới. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 2: Phần 1 Trong khu bảo tàng khoa học tuyệt vời ở thành phố Barcelona, tôi thấy một hiện vật minh họa thật tuyệt cho “sự hỗn loạn”. Một quả lắc phi tuyến được dựng lên, cho du khách cầm vào và đẩy quả lắc bắt đầu từ một vị trí tự chọn, với vận tốc tự chọn. Chuyển động của quả lắc được quan sát và ghi lại trên một mảnh giấy. Sau đó du khách được yêu cầu làm lại lần nữa, vẫn vị trí như cũ, vận tốc như cũ. Nhưng dù có cẩn thận đến đâu thì dao động của quả lắc trong những lần sau vẫn khác hẳn với lần đầu… Tôi hỏi giám đốc bảo tàng hai người đàn ông đang đứng chờ gì ở gần đó. Ông ta nói, “Ồ đó là hai anh chàng người Hà Lan đang chờ để mang “sự hỗn loạn” đi.” Hình như hiện vật này rồi sẽ được tháo ra và chuyển về Amsterdam. Nhưng tôi tự nhủ: ở nhiều nơi trên toàn cầu, dịch vụ của hai anh này thật sự có nhu cầu lớn – vì có rất nhiều tổ chức hiện đang rất cần có người loại bỏ cho họ những sự hỗn loạn. Murray Gell-Mann, tác giả cuốn The Quark and the Jaguar. Cũng như nhiều người đang cố gắng tự điều chỉnh để nhìn nhận toàn cầu hóa cho rõ hơn, bản thân tôi cũng đang học hỏi thêm và tìm cho ra lăng kính mới để quan sát nó. Để giải thích thêm, tôi xin bắt đầu bằng một lời sám hối, mà lâu nay tôi những muốn được giãi bày? Ấy là: có thời tôi đã bịa đặt khi đưa tin về thời tiết ở Beirut. Thực ra không phải tôi hoàn toàn bịa đặt. Làm như thế là sai. Tôi chỉ “phỏng đoán” thời tiết. Đó là vào năm 1979, tôi là một phóng viên tập sự làm việc cho hãng thông tấn UPI ở Beirut. Tôi thường phải làm ca đêm, và một trong những nhiệm vụ của người trực cuối cùng trong ca đêm là soạn dự báo thời tiết ở Beirut. Dự báo này sẽ được tổng hợp trong dự báo toàn cầu của UPI và được gởi cho các báo gồm nhiệt độ cao nhất và thấp nhất. Ngặt một nỗi là lúc đó không có nhân viên dự báo thời tiết ở Beirut, hoặc là có mà tôi lúc đó không biết. Đất nước này lúc đó đang có nội chiến và không ai mất công tìm hiểu về chuyện thời tiết làm gì. Còn sống được là may mắn lắm rồi. Thứ nhiệt độ mà mọi người quan tâm nhất ở Beirut lúc đó chính là thân nhiệt của mỗi người – ba mươi bảy độ C. Vậy thì tôi phỏng đoán thời tiết bằng cách hỏi quanh. Làm bản tin dự báo thời tiết lúc đó có nghĩa là tôi hô lên trong phòng hay gọi ra ngoài hành lang: “Ahmed ơi, hôm nay anh cảm thấy thời tiết ra sao?” Và Ahmed hay Sonia hay Daoud hô đáp lại, “Thấy nóng đấy.” “Khoảng ba mươi hai độ?” Tôi hỏi lại. “Đúng rồi, ông Thomas, ông nói thế nào cũng được”, có người trả lời. Và tôi sẽ viết vào bản tin, “Nhiệt độ cao nhất là ba mươi hai độ.” Sau đó tôi lại hỏi, “Giờ ở ngoài kia chắc mát rồi?” “Đúng thế, ông Thomas,” có người đáp lại. “Khoảng hai mươi hai độ, được không?” tôi hỏi. “Đúng rồi, ông Thomas, ông nói thế nào cũng được”, lại có người trả lời. Và tôi lại viết tiếp, “Nhiệt độ thấp nhất là hai mươi hai độ.” Và đó là tin dự báo thời tiết của tôi sản xuất từ Beirut. Nhiều năm sau, khi làm việc cho mục Thương mại hàng ngày của The New York Times, tôi nhớ lại những giây phút như vậy. Lúc đó thỉnh thoảng tôi được giao viết tin hối đoái và thị trường chứng khoán. Thường thì mỗi khi các thị trường ngưng giao dịch, tôi phải gọi điện đến các tay môi giới để nắm giá đô-la lên hay xuống trong ngày so với các ngoại tệ mạnh khác, hay vì sao chỉ số Dow Jones lên hay xuống. Bao giờ tôi cũng ngạc nhiên khi thấy dù chỉ số đi theo hướng nào, giá đô-la lên hay xuống, thì cũng có nhà phân tích bao giờ cũng cho ra được một câu phân tích cô đọng, giải thích vì sao, chẳng hạn số lượng 1.200 tỷ đô-la giao dịch ở sáu châu lục, trong suốt hai mươi tư múi giờ đã dẫn đến việc giá đô-la tăng hay giảm nửa xu so với đồng Yên Nhật. Và chúng tôi ai cũng tin vào những giải thích như vậy. Nhưng trong thâm tâm, tôi có cảm giác là những nhà phân tích tài chính đó đã chơi xỏ tôi. Trong thâm tâm, tôi nghĩ không hiểu có phải họ làm như cái lối tôi viết bản tin thời tiết ở Beirut hay không. Như kiểu có người gọi quanh văn phòng của Merrill Lynch hay của Paine Webber theo lối “Này Ahmed, tại sao đô-la hôm nay lại xuống?” Và một tay môi giới, hoặc người thư ký hay người phục vụ sàn giao dịch lúc đó tiện đi qua đã đáp lại gì đó, thì thông tin đó sẽ được đăng vào trang báo ngày mai, như lời giải thích cho cung cách làm ăn của hàng ngàn giao dịch tài chính trên toàn cầu. Năm 1994, tôi, phóng viên thương mại và tài chính cho tờ The New York Times, đã tường thuật cuộc đàm phán thương mại Nhật-Mỹ. Một buổi chiều, khi ngồi bên bàn làm việc, theo dõi tin thông tấn trên máy tính, tôi phát hiện hai mẩu tin của Reuters xuất hiện kế nhau: Giá đô-la tăng do lạc quan xung quanh đàm phán thương mại New York (Reuters) – Giá đô-la vào lúc đóng cửa hôm thứ Sáu tăng cao hơn so với các ngoại tệ hàng đầu khác, do mọi người lạc quan hơn rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ sớm ký hiệp định thương mại. Cổ phiếu giảm giá do bất ổn xung quanh đàm phán thương mại New York (Reuters) – Giá cổ phiếu hàng đầu giảm vào cuối hôm thứ Sáu khi xuất hiện những bất ổn xung quanh cuộc đàm phán thương mại Mỹ-Nhật trước hạn chót cho việc ký kết, vào nửa đêm. “Ahmed ơi, bạn nghĩ gì về cuộc đàm phán Mỹ-Nhật?” Việc tôi soạn thảo tin thời tiết từ Beirut cũng như việc Reuters đưa tin về chứng khoán và hối đoái có ý nghĩa giống như việc lập lại trật tự, gạt bỏ những hỗn loạn – nhưng đã không mấy thành công trong cả hai trường hợp. Khi bắt đầu phụ trách cột đối ngoại của tờ The New York Times năm 1995, tôi biết là nếu còn muốn tồn tại lâu dài và giúp hiểu trật tự từ những vụ hỗn loạn, thì không thể làm cái điều tương tự như khi dự báo thời tiết từ Beirut. Vậy phải làm gì? Làm thế nào để giải thích cho được hệ thống toàn cầu hóa phức tạp này? Câu trả lời ngắn gọn là phải đồng thời làm hai việc - quan sát thế giới qua nhiều lăng kính và đồng thời, truyền tải sự phức tạp ấy đến độc giả, thông qua những câu chuyện đơn giản, chứ không dùng những lý thuyết hào nhoáng. Tôi dùng hai phương pháp: “Trao đổi thông tin” để hiểu thế giới, và “kể chuyện” để giải thích thế giới. Trao đổi thông tin là gì? Trao đổi – arbitrage là một thuật ngữ thị trường. Về lý thuyết, thuật ngữ này miêu tả hiện tượng cùng một lúc bán và mua cùng một loại chứng khoán, cùng một mặt hàng hoặc cùng một đơn vị tiền tệ từ các thị trường khác nhau để thu lời từ những chênh lệch về giá cả, do thông tin bất đối xứng. Người trao đổi thành công là người biết mỡ lợn được bán giá một đô-la một cân ở Chicago, và một phẩy năm đô-la một cân ở New York, vậy anh ta sẽ mua mỡ lợn từ Chicago và bán ở New York. Người ta có thể trao đổi trên thương trường và người ta cũng có thể trao đổi như vậy trong văn học. Chuyện xưa về Jose Ortega y Gasset, một nhà văn nổi tiếng người Tây Ban Nha, kể rằng ông ta “mua thông tin với giá rẻ ở London và bán chúng với giá cao hơn ở Tây Ban Nha”. Nhà văn này đã từng lê la ở các phòng khách lớn ở London, thu thập các câu chuyện, các kiến giải rồi dịch chúng sang tiếng Tây Ban Nha cho những độc giả Tây Ban Nha ở quê nhà. Nhưng dù anh là người buôn mỡ lợn hay buôn kiến thức, chìa khóa thành công là ở chỗ anh ta có một mạng lưới các tay trong thạo tin, rồi chắt lọc thông tin theo hướng làm ra lãi. Ngày nay, hơn bao giờ hết, ranh giới truyền thống giữa chính trị, văn hóa, công nghệ, tài chính, an ninh quốc gia và hệ sinh thái đang dần mờ nhạt đi. Bạn thường không thể giải thích về một mặt mà không đề cập tới những mặt khác, và cũng không thể giải thích được toàn cục nếu không nhìn được tất cả các mặt. Cho nên, để trở thành một nhà phân tích và ký giả tin đối ngoại, mỗi người đều cần phải trao đổi thông tin từ nhiều nguồn có cái nhìn khác nhau, chắp nối chúng lại để dệt nên một bức tranh toàn cảnh thế giới. Nếu chỉ nhìn từ một hướng, người ta sẽ không thể vẽ được một bức tranh toàn cảnh. Đó là cốt lõi của “trao đổi thông tin.” Trong một thế giới có những liên hệ chặt chẽ tương hỗ, thì khả năng phân tích những mối quan hệ, điền vào những chỗ trống, chính là giá trị gia tăng nhà báo tạo ra. Nếu không nhìn thấy những mối liên hệ thì bạn sẽ không nhìn thấy thế giới. Ước gì tôi có thể hiểu được điều này khi mới bước vào nghề báo. Tôi tìm ra được chân lý này chỉ do tình cờ, những thay đổi trong đời làm báo buộc tôi phải tìm thêm cho mình những lăng kính mới, vả lại cũng là để sống sót trong nghề. Xin kể lại sau đây câu chuyện của tôi: Tôi bắt đầu nghề báo như một phóng viên thiếu hiểu biết nhất. Trong suốt thập niên đầu tiên trong nghề, tôi tường thuật “Cuộc chiến lớn nhất giữa những sắc tộc” – xung đột Israel-Ả Rập, đầu tiên từ Beirut, rồi sau đó đến Jerusalem, Israel. Trong những ngày đó, báo chí đối với tôi cơ bản là một hoạt động hai chiều. Báo chí là chính trị và văn hóa, vì ở Trung Đông, văn hóa của bạn quyết định chiều hướng chính trị bạn đang theo đuổi. Hay nói một cách khác, lúc đó với tôi, thế giới xoay quanh chuyện quan sát những người dân bám vào gốc rễ của mình nhưng lại cố đào trốc cây Ô liu của hàng xóm. Năm 1981, tôi rời Jerusalem, sau một thập niên đóng tại Trung Đông, quay lại Washington, nơi tôi trở thành phóng viên thường trú về ngoại giao. Bài tường thuật đầu tiên trong cương vị mới là về buổi điều trần trước thượng viện Hoa Kỳ của Ngoại trưởng sắp được bổ nhiệm James A Baker. Rất ngượng nhưng tôi cũng phải thú thật, là trình độ cử nhân và thạc sĩ của tôi chủ yếu là về Ả rập và Trung Đông, và do cả nghề báo của tôi cho đến lúc đó là tường thuật tình hình Trung Đông, tôi thực không biết nhiều về những vùng khác trên thế giới. Và tôi thực sự không hiểu gì về những điều các thượng nghị sĩ chất vấn ông Baker, chẳng hạn Hiệp ước START, lực lượng Contras, Angola, CFE [Lực lượng quy ước đóng ở châu Âu], đàm phán giải trừ quân bị và khối NATO. Khi bước ra khỏi cuộc điều trần đó đầu tôi muốn vỡ tung. Tôi không biết chủ đề của bài tường thuật sẽ là gì. Tôi cũng không hiểu đến phân nửa những cụm từ nói tắt được đề cập trong cuộc điều trần. Tôi cũng không hiểu Contras là “quân ta” hay “quân địch,” và tôi nghĩ CFE là lỗi đánh máy nhầm vì đáng lẽ là CAFE nhưng thiếu mất chữ A. Trên taxi quay lại tòa soạn The New York Times, tôi mường tượng trong đầu một khả năng là vào ngày hôm sau tờ Washington Post chạy tít điều ông Baker bàn đến mà tôi bỏ qua. May mà có Michael Gordon phóng viên chuyên theo dõi hoạt động của Lầu Năm Góc, giúp tôi mới gom góp được một số điểm để viết thành một bài báo. Nhưng từ đó, tôi hiểu rằng cách nhìn hai chiều trong báo chí tôi sử dụng trước kia sẽ không còn phù hợp nữa. May thay sau đó, nhờ có bốn năm theo dõi tình hình ngoại giao và 500.000 dặm đi cùng đường với ông Baker, tôi thêm được một chiều nữa vào chính trị và văn hóa – đó là chủ đề an ninh quốc gia và cán cân lực lượng. Chủ đề mới bao gồm một loạt các vấn đề xoay quanh kiểm soát vũ khí, cạnh tranh giữa các siêu cường, quản lý đồng minh trong Chiến tranh Lạnh và quyền lực địa chính trị. Thế giới quan hai chiều của tôi nhờ đó đã thay đổi. Tôi nhớ có lần bay cùng chuyến với Baker sang Israel, máy bay bị đổi hướng, khi đến sân bay Tel Aviv, phải lượn hình vòng cung qua Bờ Tây sông Jordan trước khi hạ cánh. Tôi nhìn qua cửa sổ xuống vùng Bờ Tây, nghĩ: “Trên phương diện quyền lực thì khu vực này không còn mấy quan trọng. Thú vị thì có, nhưng quan trọng theo kiểu địa-chính trị thì không.” Sau thời gian tường thuật ở Bộ Ngoại giao và một thời gian ngắn ở Nhà Trắng (may mà ngắn ngủi vì không ai coi đó là làm báo cả), tôi có thêm một lăng kính để phân tích. Đó là vào năm 1994, khi The New York Times yêu cầu tôi bắt tay vào một mục mới bàn về quan hệ tương hỗ giữa chính sách ngoại giao và nền tài chính quốc tế. Lúc đó, manh nha một khả năng là với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh cùng sự tan rã của Liên Xô, thì tài chính và thương mại sẽ có vai trò lớn hơn trong việc định hình các mối quan hệ quốc tế. Phụ trách mảng quan hệ giữa kinh tế và hoạch định chính sách an ninh quốc gia đã là một thử nghiệm đối với bản thân tôi cũng như đối với tờ The New York Times nói chung. Về lý thuyết, tôi được bổ nhiệm làm phóng viên Thương mại và Tài chính, nhưng do có kinh nghiệm với Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, tôi đề nghị kết hợp tất cả các chủ đề đó với nhau. Chúng tôi gọi lĩnh vực này bằng nhiều tên “Ngoại giao Thương mại”, rồi thì “Đối ngoại và Tài chính.” Lúc đó tôi nghiệm thấy hai điều: Trước hết, do hệ thống Chiến tranh Lạnh kết thúc, lĩnh vực này sẽ là nơi đẻ ra rất nhiều tin. Điều nữa, chưa có ai hoạt động trong lãnh vực này. Có rất nhiều phóng viên viết về đề tài thương mại, nhưng không động đến mảng ngoại giao. Có nhiều phóng viên tài chính, nhưng không tường thuật các tin an ninh quốc gia. Có nhiều phóng viên ngoại giao không đưa tin tài chính. Lại có những phóng viên Nhà Trắng chẳng quan tâm đến thương mại, tài chính hoặc chính sách đối ngoại, mà chỉ cắm đầu vào viết về những gì tổng thống nói và làm. Tôi nghĩ, gắn thêm mảng thị trường tài chính vào đề tài chính trị, văn hóa và an ninh quốc gia cũng tựa như được đeo thêm một cặp kính, khiến cho bạn bỗng nhiên nhìn được cả bốn chiều của thế giới. Từ đó tôi thấy những mẩu tin tôi chưa từng thấy. Tôi thấy những mối liên kết nhân quả mà trước đó tôi không tài nào nhìn ra được. Và từ đó tôi cảm nhận được những bàn tay vô hình và những chiếc cùm có thể trói và cùm tay các vị nguyên thủ và các quốc gia, không cho họ hành động theo những chiều hướng nhất định… những điều trước đó tôi không thể tưởng tượng nổi. Nhưng không gian bốn chiều rồi vẫn chưa đủ. Khi tôi được giao nhiệm vụ làm bình luận viên thời sự quốc tế, tôi dần dần nhận thức rằng cái thúc đẩy sự lên xuống của thị trường, định hình các mối quan hệ, các tương tác giữa quốc gia và cá nhân và cái thật sự hiện hữu là trung tâm của toàn cầu hóa chính là những tiến bộ trong công nghệ hiện nay – từ Internet tới hệ thống viễn thông qua vệ tinh. Tôi nhận thấy tôi không thể tự hiểu, chưa nói đến giải thích cho độc giả về những lực lượng đang định hình nền chính trị thế giới, nếu tôi mù tịt về những công nghệ mới đó – những công nghệ đang trao quyền về nhiều mặt cho con người, cho các chính phủ và các công ty. Ai kiểm soát súng đạn trong xã hội luôn luôn là yếu tố quan trọng. Nhưng ngày nay ai kiểm soát hệ thống điện thoại cũng quan trọng không kém. Đất nước của quý vị có bao nhiêu binh lính và bao nhiêu vũ khí hạt nhân – điều đó mang tính quyết định. Nhưng băng thông đường truyền Internet của bạn là bao nhiêu – điều đó cũng quan trọng không kém. Vậy là tôi phải bổ sung thêm một chiều mới – công nghệ – và trở thành một phóng viên với lăng kính năm chiều. Có nghĩa là bổ sung Thung lũng Silicon vào danh sách các thủ đô của thế giới như Moskva, Bắc Kinh, London, Jerusalem, nơi mà tôi cảm thấy phải thăm viếng ít nhất mỗi năm một lần, để cập nhật kiến thức cho bản thân. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 2: Phần 2 Sau cùng, càng quan sát hoạt động của hệ thống toàn cầu hóa, tôi càng thấy hệ thống này sản sinh những nguồn lực phát triển mạnh mẽ, cũng như khả năng đồng hóa có tốc độ chóng mặt. Và nếu không bị kiểm soát chặt chẽ, những nguồn lực này có tiềm năng hủy diệt môi trường và nhổ bật các giá trị văn hóa với tốc độ nhanh đến mức nhân loại chưa từng chứng kiến. Dần dà tôi nhận thấy nếu không bổ sung thêm khía cạnh môi trường vào lập luận của mình thì tôi sẽ bỏ qua một trong những sức mạnh chính yếu, có thể hạn chế phát triển và gây sự chống toàn cầu hóa. Thế là tôi bổ sung chiều thứ sáu – tự học về xu hướng bảo vệ môi trường – vào hệ thống trao đổi thông tin. Trong những chuyến đi sau này tôi thường muốn rẽ ngoặt sang tìm hiểu hệ sinh thái bị toàn cầu hóa tác động ra sao, và sự suy thoái của môi sinh, ngược lại, tác động ra sao tới toàn cầu hóa. Giờ đây tôi đang nói đến không gian sáu chiều. Chiều tiếp theo là gì, tôi chưa biết. Nhưng nếu có manh nha một chiều kích mới thì tôi sẽ chắc chắn sẽ tiếp tục bổ sung thêm – vì giờ đây tôi là nhà toàn cầu học. Có nghĩa là tôi không phải là người theo phái hiện thực – cho rằng mọi thứ trong quan hệ quốc tế đều có thể giải thích bằng ham muốn quyền lực và lợi thế địa – chính trị, rằng thị trường không thật sự quan trọng. Tôi không là người bảo vệ môi trường – chỉ quan sát thế giới qua lăng kính bảo tồn, gìn giữ môi trường bằng mọi cách, chứ phát triển không quan trọng. Tôi cũng không là một nhà kỹ trị – trong hàng ngũ những tay chuyên nghiệp ở Thung lũng Silicon, cho rằng lịch sử khởi thủy từ ngày phát minh ra bộ vi xử lí và Internet sẽ quyết định tương lai của các quan hệ quốc tế – địa chính trị không quan trọng. Tôi không phải là người theo phái bản chất – cứ tin rằng hành vi của con người bắt nguồn từ những đặc tính ADN hoặc văn hóa nào đó – nên nghĩ khoa học và công nghệ không là gì cả. Và tôi cũng không phải là một nhà kinh tế – những kẻ cho rằng biến động thị trường giải thích toàn bộ hoạt động của thế giới, trong khi coi nhẹ ảnh hưởng của quyền lực chính trị lẫn văn hóa. Tôi tin rằng hệ thống toàn cầu hóa ngày nay – trong đó những rào cản về địa lý, thị trường và luận thuyết ngày càng bị phá bỏ – đang thiết lập một thể trạng mới trên thế giới. Và cách duy nhất giúp người ta nhận biết và giải thích nó là cân đo và phân tích thông qua sáu chiều kích kể trên, nhưng tùy lúc tùy hoàn cảnh mà gán ý nghĩa nặng nhẹ cho mỗi chiều kích. Điều cốt yếu là ta phải thấy được sự kết hợp và tương tác của tất cả sáu chiều kích đang thật sự là những nét định hình quan hệ quốc tế ngày nay. Vì thế trở thành nhà toàn cầu học là cách duy nhất kết nối mọi sự kiện, hiểu được hệ thống toàn cầu hóa và giúp lập lại trật tự ở những nơi hỗn loạn. Nếu những đánh giá trên của tôi là sai, thì điều đó sẽ sớm lộ ra. Nhưng nếu những đánh giá của tôi là đúng thì sẽ có nhiều người phải quay lại nhà trường. Tôi tin rằng đối với nhà báo, những người nhận nhiệm vụ giải thích thế giới, và những nhà chiến lược, có trách nhiệm nhào nắn thế giới này, điều thiết yếu là họ cần phải suy nghĩ như những nhà toàn cầu học. Ngày nay càng có nhiều những mạng lưới liên lạc, kết nối thế giới và nhiều tổ chức khác nhau; và người làm báo cũng như các nhà chiến lược cần phải tư duy liền lạc như mạng lưới ấy. Nhưng thật không may, trong giới học giả và nhà báo, vẫn hiện hữu xu hướng suy nghĩ riêng rẽ, bị những nghiệp vụ và kỹ năng riêng chi phối, làm cho nhiều người bỏ qua một thực tế: thế giới không còn bị chia cắt thành những mảng riêng rẽ nữa, và những ranh giới giữa các vấn đề nội địa, quốc tế, chính trị và công nghệ đang lu mờ dần đi. Xin đơn cử một ví dụ. Đã nhiều năm, chính phủ Clinton hăm dọa trừng phạt Nhật Bản nếu nước này không hủy bỏ một số biểu thuế quan, chính thức cũng như không chính thức, đánh vào một loạt các mặt hàng. Nhưng cứ mỗi lần đại diện thương mại đầy hiểu biết của Hoa Kỳ Mickey Kantor lại thúc đẩy chuyện trừng phạt Nhật bản đến mức gần thành công và Tổng thống gần hạ roi phạt Nhật, đến phút cuối, thì Clinton lại rút về. Đây là những gì tôi tưởng tượng đã xảy ra trong phòng Bầu Dục lúc ấy: Kantor bước vào phòng Bầu Dục, kéo ghế ngồi xuống cạnh Tổng thống và nói: “Thưa Tổng thống, mấy thằng cha người Nhật lại bắt đầu làm khó dễ cho chúng ta. Họ không cho mấy mặt hàng của ta được nhập vào Nhật. Đã đến lúc ta phải cho họ biết thế nào là lễ độ. Trừng phạt. Thưa Tổng thống. Trừng phạt mạnh. Giờ là thời điểm cho họ biết tay. Phải đặt chúng vào đúng chỗ. Và thêm nữa, làm như vậy, cánh nghiệp đoàn sẽ rất khoái chúng ta.” “Mickey, ông nói đúng quá”, Tổng thống đáp. “Làm đi.” Nhưng ngay lúc Kantor sắp ra đi để thực thi trừng phạtTokyo, thì Bộ trưởng Thương mại Robert Rubin bước vào phòng. “À, thưa Tổng thống”, Rubin nói, “Ngài có nhận ra rằng nếu chúng ta áp đặt trừng phạt chống lại Nhật Bản thì đồng đô-la sẽ sụt giá, và người Nhật sẽ bắt đầu bán đổ bán tháo trái phiếu ngân khố Mỹ của họ, khiến cho mức lãi suất nội địa Mỹ sẽ tăng.” Và Kantor, người vừa bước chân khỏi cửa, bị Tổng thống gọi giật lại. “Ê, Mickey, Mickey, Mickey. Quay lại đây một giây. Chúng ta phải nghĩ lại chuyện này một chút.” Vài ngày sau, Kantor quay lại. Ông ta lại đề nghị trừng phạt. Lần này, Tổng thống tỏ ra thật sự bị thuyết phục. Ông ta nói với Kantor: “Tôi không thể chịu đựng được mấy tay Nhật Bản hơn được, Mickey. Trừng phạt. Xuống tay ngay.” Nhưng ngay trước khi Kantor bước ra để ra tay với người Nhật, thì Bộ trưởng Quốc phòng William Perry bước vào phòng Bầu Dục qua lối cửa hậu. “Thưa Tổng thống,” Perry nói, “Ngài có nhận ra là nếu chúng ta áp đặt trừng phạt chống Nhật thì người Nhật sẽ không đàm phán để kéo dài thời hạn chúng ta được đóng tại căn cứ Okinawa, hoặc sẽ không giúp thanh toán đền bù cho mấy cái lò phản ứng hạt nhân của Bắc Triều Tiên, mà chúng ta đang trông đợi.” Và lúc đó, Tổng thống sẽ lại cuống quít vẫy Kantor lại, khi ông này đang cố chuồn nhanh ra khỏi cửa. “Ê, Mickey, Mickey, Mickey. Quay lại đây một giây thôi. Chúng ta phải nghĩ lại chuyện này một chút.” Trên đây chỉ là kịch bản tôi tưởng tượng ra. Nhưng tôi sẽ đánh cuộc rất nhiều tiền rằng nó tương tự như những gì đang thực sự diễn ra, và người phóng viên có trách nhiệm kể lại những chuyện như vậy không phải đơn thuần là phóng viên thương mại, phóng viên tài chính hoặc quốc phòng – họ là người đi đi lại lại, trao đổi thông tin của đồng thời ba lĩnh vực này. Hai sử gia về quan hệ quốc tế Trường Đại học Yale, Paul Kennedy và John Lewis Gaddis quan niệm rằng một trong những chức năng của họ là đào tạo một thế hệ các nhà chiến lược mới. Công lao của họ cho thấy họ quyết định tìm ra một phương hướng mới để mở rộng chương trình giảng dạy để tạo nên một thế hệ các nhà chiến lược, những người có cái nhìn toàn cầu, thay vì những người chỉ bó hẹp cách nhìn trong các khía cạnh chuyên sâu. Trong một tiểu luận mà hai ông là đồng tác giả, Gaddis và Kennedy cho rằng việc có những chuyên gia trong các lĩnh vực nhất định là cần thiết, duy trì một tập thể những người có kiến thức sâu về nhiều mảng khác nhau luôn luôn quan trọng; nhưng cũng quan trọng không kém, các chuyên gia chuyên sâu từng lãnh vực không thể một mình hoạch định và phân tích chính sách đối ngoại. Hai sử gia viết: “Những người này hoàn toàn có khả năng nhìn từng mảng trong một bức tranh lớn, nhưng họ khó có thể nhìn thấy toàn bộ bức tranh. Họ để riêng các thứ tự ưu tiên, thực thi riêng rẽ từng nhiệm vụ, mà không nghĩ đến khả năng các nhiệm vụ đó chồng chéo ảnh hưởng lẫn nhau. Họ di chuyển từ cây này sang cây khác thật ngon lành, nhưng lại tỏ ra sửng sốt khi nhận thấy mình lạc trong cả một khu rừng. Trong quá khứ, các nhà chiến lược quan sát được cả cây lẫn rừng. Họ là những nhà tổng hợp, hoạt động theo quan điểm sinh thái. Họ hiểu thế giới là một mạng lưới, trong đó những điều chỉnh nơi này tất sẽ hình thành những tác động nơi khác – vì rằng, mọi sự đều quan hệ với nhau. Các nhà tổng hợp đó giờ đây, đi đâu rồi? Trong các trường đại học và viện nghiên cứu giờ đây, xu hướng hiện tại là tập trung nghiên cứu chuyên sâu ngày càng bó hẹp: đầu tư chủ yếu dành cho hoạt động trong từng ngành riêng lẻ hơn là vào nghiên cứu nhiều ngành cùng lúc. Nhưng nếu không có kiến thức tổng hợp, không thấy được toàn cảnh – không hiểu được phương tiện kết hợp để hoàn tất hay phá hủy cứu cánh thì làm sao định ra chiến lược. Và nếu không có chiến lược thì chỉ có việc chịu trôi nổi mà thôi.” Một số người đã lắng nghe lập luận trên đây. Cuối những năm 1990, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) tối mật, vốn thực hiện việc nghe trộm trên toàn cầu, thu thập hàng núi thông tin tình báo, đã quyết định điều chỉnh phương pháp làm việc của họ – từ chỗ phục vụ cho những ai “cần biết,” quý vị cần thì mới được biết, sang phương pháp “cần trao đổi,” nghĩa là sẽ không bao giờ hiểu nổi bức tranh lớn nếu không trao đổi để tìm hiểu những mảng nhỏ trong bức tranh đó. Có thể điều đó giải thích cho việc một số (chứ không phải tất cả) nguồn tin mang tính nghiên cứu mà tôi thu thập được đã không đến từ phía các giáo sư quan hệ quốc tế hay viên chức Bộ Ngoại giao – mà từ những người thuộc trường phái toàn cầu hóa hiện đang ngày càng phát triển – giám đốc các quỹ đầu cơ tài chính. Tôi cảm nhận rằng mình ngày càng bị lôi cuốn đến với các nhà quản lý các quỹ đầu cơ tài chính hơn là đến với các nhà ngoại giao hay các vị giáo sư, vì những nhà quản lý tài chính giỏi thường rất hiểu về các vấn đề toàn cầu và có kỹ năng bẩm sinh để trao đổi và bổ sung thông tin từ sáu chiều kích, trước khi vạch quyết định. Một trong những tay giỏi nhất trong số họ là Robert Johnson, vốn là đối tác của George Soros. Johnson và tôi thường kết luận, sau mỗi khi phân tích tình hình thế giới, rằng cả hai chúng tôi làm công việc giống nhau – chỉ khác một chỗ rốt cuộc anh đặt cược vào một cổ phiếu hoặc trái phiếu, còn tôi thì viết bài về một khía cạnh trong quan hệ quốc tế. Nhưng cả hai chúng tôi đều phải trải qua một quá trình trao đổi thông tin mới đến được đích. Trong khi lăng kính sáu chiều trong trao đổi thông tin là phương pháp tốt nhất để quan sát hệ thống toàn cầu hóa, đây là một hệ thống quá phức tạp không thể chỉ dùng những học thuyết lớn để giải thích. Cách giải thích tốt nhất là dùng những ví dụ đơn giản. Một hôm, tôi nói điểm này với Robert Hormats, Phó chủ tịch (quỹ đầu tư) Goldman Sachs International và ông nhận xét: “Để hiểu và rồi giải thích cho được toàn cầu hóa, điều cần thiết là hãy coi mình là một tay trí thức lãng du. Trong thế giới lãng du, không có lãnh địa nào riêng biệt. Đó là lý do tại sao những người lãng du là những người truyền bá tôn giáo độc thần như Hồi giáo hay phái Juda. Nếu là người định cư một chỗ, bạn có thể tưởng tượng ra bao nhiêu truyền thuyết về tảng đá này, gốc cây nọ. Nhưng những kẻ lãng du thì bao giờ cũng thấy nhiều hơn. Họ biết Thượng đế không nằm trong tảng đá đó. Ngài ở mọi nơi. Và bên những ngọn lửa trại, hay trên những dặm đường từ ốc đảo này sang ốc đảo khác, những kẻ lãng du truyền bá chân lý phức tạp này thông qua những câu chuyện giản đơn.” Thời trước, một phóng viên, một bình luận viên hay một chính khách có thể chỉ cần chăm chú vào “thị trường của mình”, là tòa thị chính, quốc hội tiểu bang, Nhà Trắng hay Lầu Năm Góc hay Bộ Tài chính hay Bộ Ngoại giao. Nhưng ngày nay, thị trường là toàn bộ hành tinh này và những quan hệ tương tác giữa công nghệ, tài chính, thương mại và thông tin, và chính những mảng đó tác động đến lương tiền, lãi suất, điều kiện sống, văn hóa, cơ hội việc làm, chiến tranh và cả điều kiện thời tiết trên toàn thế giới. Điều đó không hẳn có nghĩa là toàn cầu hóa giải thích cho toàn bộ những gì đang diễn ra trên thế giới ngày nay. Điều đó đơn giản cho thấy có một hệ thống đang ảnh hưởng và tác động hơn bao giờ hết đến con người ta – hệ thống toàn cầu hóa. Murray Gell-Mann, người đoạt giải Nobel, vốn giảng dạy môn vật lý lý thuyết tại Đại học Caltech và là một trong những sáng lập viên của Viện Santa Fe, có thời biện luận qua một loạt các bài giảng của ông rằng điều tôi gọi là trao đổi thông tin không khác mấy so với phương pháp các nhà khoa học cố gắng hiểu những hệ thống phức hợp. Ông nói đúng. Và không có hệ thống chính trị nào ngày nay phức tạp hơn toàn cầu hóa, và để hiểu nó, cả nhà báo lẫn nhà chiến lược đều phải phức tạp không kém. “Trái đất này, một khi được hình thành, những hệ thống phức hợp ra đời – chúng là kết quả của sự tiến hóa vật lý của hành tinh, của sự tiến hóa về môi sinh cũng như của văn hóa con người”, Gell-Mann nói. “Quá trình này tiến triển tới mức con người chúng ta đang phải đương đầu với những vấn đề gay cấn về sinh thái, chính trị, kinh tế và xã hội. Khi cố gắng giải quyết những vấn đề khó khăn đó, đương nhiên chúng ta chia chúng thành những phần nhỏ dễ xử lý. Đó là một phương pháp hữu ích, nhưng lại có những hạn chế nghiêm trọng. Khi xử lý những hệ thống phi tuyến tính, đặc biệt một hệ thống phức tạp, quý vị không thể coi chúng là một khối gồm nhiều thành phần ghép lại, rồi cộng cái nọ vào cái kia, nói cái nọ hành xử như thế này, điều kia chuyển động như khác, rồi tất cả tổng hợp trở thành một khối. Với một hệ thống phi tuyến tính phức tạp, quý vị phải mổ xẻ tách bạch, nghiên cứu từng phần, rồi nghiên cứu mối quan hệ khăng khít mà vốn đã và đang gắn bó các phần đó với nhau. Chỉ có cách đó mới miêu tả được toàn bộ hệ thống.” Đối với tôi, đó chính là cốt lõi của của cái tôi cho là trường phái toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế. Nhưng trước khi có trường phái này, chúng ta cần có thêm sinh viên, giáo sư, nhà ngoại giao, nhà báo, điệp viên và các nhà khoa học xã hội… được huấn luyện để trở thành các nhà toàn cầu học. “Chúng ta cần một tập hợp những người thấu hiểu về tầm quan trọng của việc quan sát hệ thống toàn cầu một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp”, Gell-Mann nói thêm. “Đó phải là quan sát trực tiếp, vì ta sẽ không bao giờ hiểu hết được mọi phần của mối tương tác. Chắc bạn nghĩ phần lớn nhà báo làm chuyện đó? Không, không có đâu. Tiếc thay, nhiều thành phần xã hội ngày nay, bao gồm giới học giả và hành chính, đặc quyền vẫn chỉ được giành cho những người chuyên chú vào một lĩnh vực hẹp, một vấn đề, một ngành nghề, một công nghệ, hay một thứ văn hóa, trong khi bàn thảo về bức tranh tổng thể vẫn chỉ là chủ đề của những bữa tiệc cocktail phù phiếm. Thật điên rồ. Chúng ta phải hiểu cho được rằng ngoài những nhà chuyên môn, chúng ta cần đến những con người có tài phát hiện những mối tương tác mạnh mẽ và những đan xen nhiều chiều, và có cái nhìn không trực tiếp vào toàn bộ bức tranh. Những gì chúng ta vốn coi là chuyện tầm phào trong bữa tiệc cocktail nay đã trở thành yếu điểm của toàn cục.” Thế đấy, giờ đây, mời bạn tham dự bữa tiệc cocktail của tôi. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 3: Phần 1 Jerusalem, 29/12/1998: Shimon Biton áp chiếc điện thoại di động vào bờ tây để một người thân ở Pháp có thể nói lời cầu nguyện ở nơi linh thiêng này. Nhận thức được toàn cầu hóa là hệ thống thế giới mới thay thế cho Chiến tranh Lạnh liệu đã đủ cho bạn giải thích được thực trạng thế giới ngày nay chưa? Chưa hẳn. Toàn cầu hóa là điều mới mẻ. Nếu thế giới được tạo ra chỉ từ những vi mạch và các thị trường, thì toàn cầu hóa là phương tiện để có thể giải thích hầu như bất cứ điều gì. Nhưng, lạy thánh, thế giới này gồm có vi mạch, thị trường, đàn ông, đàn bà với những phong tục kỳ lạ, truyền thống, lòng ham muốn và những ước vọng không đoán được. Vậy thì thực trạng thế giới ngày nay chỉ có thể được giải thích như sự tương tác giữa những cái mới mẻ, như Internet, với những thứ cổ xưa, như một cây Ô liu già cỗi trên bờ sông Jordan. Tôi đã nghĩ đến điều này lần đầu tiên khi đang ăn tối món sushi, đi trên một con tàu điện chạy một trăm tám mươi dặm dặm một giờ, ở Nhật Bản, hồi tháng 5/1992. Ở Tokyo trong chuyến công tác lúc đó, tôi đã thu xếp để thăm nhà máy sản xuất xe hơi Lexus sang trọng nằm bên ngoài Toyota City, phía nam Tokyo. Đó là một trong những chuyến đi đáng ghi nhớ nhất của tôi. Vào lúc đó, nhà máy này mỗi ngày sản xuất ba trăm xe Lexus, sử dụng sáu mươi sáu công nhân và ba trăm mười người máy. Những gì tôi được xem cho thấy con người ở đó chỉ có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm. Chỉ có vài người nhúng tay vào việc vặn một vài chiếc ốc hoặc hàn một vài bộ phận. Hầu hết mọi việc còn lại do những người máy vận hành. Có cả loại xe vận tải tự động, chuyển nguyên vật liệu trong xưởng, có khả năng cảm nhận được con người, kêu “bíp, bíp” để người ta tránh đường. Tôi thích thú ngắm người máy lắp ráp lớp cao su trong chỗ ráp kính trước của mỗi chiếc xe. Cánh tay của người máy quét phủ chính xác lớp cao su nóng vào ô kính. Điều làm tôi thích thú nhất là khi kết thúc công việc, bao giờ cũng có một giọt cao su nóng ở cánh tay người máy, thò ra như kem đánh răng ở đầu chiếc tuýp sau khi bạn quét kem vào bàn chải. Nhưng cánh tay người máy sẽ quay đi cho tới khi nó gặp một đoạn dây thép nhỏ, khó thấy, gạt sạch chỗ cao su còn thừa đó, không để lại một chút thừa vương vãi. Tôi cứ ngắm mãi cái công đoạn này, nghĩ đến bao nhiêu công lao xây dựng kế hoạch, thiết kế và kỹ thuật để sinh ra loại cánh tay robot làm được những việc như vậy, rồi lại được sợi dây thép nhỏ xíu gột sạch để cánh tay tiếp tục vươn sang những ô cửa kính tiếp theo. Ấn tượng thật sâu sắc. Sau khi thăm nhà máy, tôi quay trở lại Toyota City, lên tàu siêu tốc hình viên đạn trở về Tokyo. Tên con tàu thật chính xác vì nó có vóc dáng hình viên đạn và đi trên đó người ta có cảm giác đi trong một viên đạn đang bay. Trong khi nhấm nháp món sushi cho bữa tối được bán trên tàu, tôi đọc tờ International Herald Tribune. Một mẩu tin ở đầu góc phải trang ba làm tôi chú ý. Đó là cuộc họp báo hàng ngày của Bộ Ngoại giao. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Margaret D. Tutwiler đưa ra một lời giải thích gây tranh cãi về một nghị quyết Liên Hiệp Quốc năm 1948. Nghị quyết này liên quan tới việc hồi hương người Palestine vào Israel. Tôi không nhớ hết các chi tiết, nhưng lời giải thích của người phát ngôn rõ ràng đã kích động cả phía Ả Rập lẫn Israel và gây điên tiết ở Trung Đông – đó là nội dung chính của mẩu tin đó. Thế đấy, tôi đi chuyến tàu nhanh, vận tốc một trăm tám mươi dặm một giờ, đọc một mẩu tin về khu vực cổ kính nhất thế giới. Trong tâm trí tôi hiện lên hình ảnh những người Nhật dùng robot để sản xuất xe hơi Lexus sang trọng, hững con tàu siêu tốc. Trong khi đó, trên đầu trang ba tờ Herald Tribune thì những người tôi từng chung sống nhiều năm ở Beirut và Jerusalem, những người tôi từng quen thuộc, vẫn đang bắn giết nhau chỉ vì tranh chấp xem ai là người chủ của cây Ô liu nào. Điều tôi chợt nghĩ lúc đó là chiếc Lexus và cây Ô liu tượng trưng khá hay cho thời Hậu Chiến tranh Lạnh: một nửa thế giới ra khỏi cuộc chiến, cố gắng sản xuất và cải tiến cho chiếc xe Lexus sang trọng, giành hết sức cho hiện đại hóa, tinh giản và tư nhân hóa nền kinh tế của họ để tiến bộ trong thời toàn cầu hóa. Còn nửa kia của thế giới – nhiều khi là phân nửa của một đất nước, hay là phân nửa của một cá nhân – vẫn tiếp tục tranh giành xem ai là người chủ của một cây Ô liu nào đó. Ô liu là loại cây quan trọng. Chúng đại diện cho những gì là gốc rễ của chúng ta, che chở chúng ta và đưa chúng ta vào thế giới này – dù cho chúng là tài sản của một gia đình, một cộng đồng, một bộ tộc, một đất nước, một tôn giáo hay một nơi được gọi là quê hương. Cành cây Ô liu cho ta mái ấm gia đình, niềm vui cá nhân, sự gần gũi trong quan hệ giữa con người, sự sâu sắc của quan hệ lứa đôi, cũng như tính tự tin và khả năng vươn tới để đối phó với các quan hệ bên ngoài. Chúng ta tranh đấu triền miên để giành giật những cây Ô liu vì chúng tạo cho ta cảm giác hãnh diện và hòa hợp – cảm giác thiết yếu cho con người tồn tại, cũng tựa như cơm ăn áo mặc. Thực vậy, một trong những lý do khiến cho khái niệm quốc gia sẽ không bao giờ mất đi, ngay cả khi chúng suy yếu, cũng chính là cây Ô liu – cách diễn đạt tối thượng nguồn gốc của chúng ta về ngôn ngữ, địa lý và lịch sử. Đứng một mình, bạn không thể nào là một con người hoàn chỉnh. Một mình, bạn có thể là một người giàu có. Một mình, bạn có thể là một nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình. Bạn phải là người có cội nguồn và là phần không tách khỏi của một vườn Ô liu nào đó. Chân lý này có lần được Giáo sĩ Harold S. Kushner giảng giải rất hay khi ông ta bình một đoạn trong tiểu thuyết nổi tiếng Trăm Năm Cô Đơn của Gabriel Garcia Marquez: Marquez kể về một ngôi làng nơi người dân ở đó bị nhiễm một chứng dịch kỳ lạ – bệnh quên lây lan. Căn bệnh này bắt đầu từ những người già, lan sang cộng đồng trong làng, khiến dân làng quên tên gọi thậm chí của những đồ vật hàng ngày. Một chàng trai không bị nhiễm bệnh đã cố gắng cứu vãn tình thế bằng cách gắn nhãn lên mọi đồ vật, “Đây là cái bàn”, “Đây là cửa sổ”. “Đây là con bò, phải vắt sữa mỗi sáng.” Và trước cổng làng anh ta dựng hai biển hiệu, một cái ghi “Làng ta mang tên Macondo,” và tấm biển kia - “Chúa hiện hữu.” Bài học tôi rút ra từ câu chuyện này là: chúng ta có thể và chắc sẽ quên đi hầu hết những gì học được ở đời – toán học, lịch sử, công thức hóa học, địa chỉ và số điện thoại ngôi nhà ta ở đầu tiên sau khi lập gia đình – tất cả những điều đó không phương hại gì. Nhưng nếu chúng ta quên chúng ta là ai và nếu chúng ta không còn nhớ đến Chúa trời, thì chúng ta đã đánh mất bản ngã sâu sắc của mình. Nhưng dẫu cây Ô liu thiết yếu đối với bản ngã của chúng ta, chúng ta cứ khư khư bám lấy nó thì có thể khiến chúng ta xây dựng bản sắc, các mối quan hệ và cộng đồng dựa trên việc tận diệt các cộng đồng khác. Và một khi sự lạm dụng đó trở nên không kiểm soát được, tựa như phái Quốc xã ở Đức, hay như giáo phái giết người Aum Shinrikyo ở Nhật Bản hay người Serbia ở Nam Tư, thì diệt chủng xảy ra. Xung đột giữa người Serb và Hồi giáo, giữa người Do Thái và người Palestine, giữa người Armenians và Azeris về sở hữu cây Ô liu, thật khốc liệt, chính vì để trả lời cho câu hỏi ai là người được cắm rễ và sinh sống trên quê hương, và ai là người không được phép làm điều đó. Logic trong các cuộc xung đột nói trên là: tôi phải kiểm soát cây Ô liu này, vì nếu để cho kẻ kia chiếm được nó thì tôi sẽ bị nó thống trị cả về kinh tế lẫn chính trị, và ngay cả cảm giác quê hương sẽ biến mất. Tôi sẽ không bao giờ có thể cởi giày ngồi nghỉ. Không gì có thể làm cho người ta điên khùng bằng việc bị người khác chiếm mất nhà cửa và cướp mất bản sắc. Để giữ gìn bản sắc, con người có thể chết, chém giết, hát hò, làm thơ hay viết tiểu thuyết. Vì nếu không còn quê hương và bản sắc, cuộc đời sẽ bị mất gốc và khô cằn. Và sống đời sống của một cây rong biển thì thà chết còn hơn. Vậy còn chiếc xe hơi Lexus! Nó nói lên điều gì? Nó đại diện cho động lực không kém phần quyết định của nhân loại – động lực tồn tại, cải tiến, làm giàu và hiện đại hóa – hiện hữu rành rành trong hệ thống toàn cầu hóa ngày nay. Chiếc xe đại diện cho những thị trường công nghệ vi tính, phục vụ cho việc nâng cao điều kiện sống ngày nay. Tất nhiên, đối với hàng triệu người thuộc các nước đang phát triển, sự khấm khá về vật chất chỉ bó gọn trong việc bước tới giếng nước, sống bằng một đô-la mỗi ngày, với cuộc đời con trâu đi trước cái cày theo sau, hay, đội trên đầu một bó củi đi bộ năm dặm để bán lấy tiền. Những con người này vẫn phải cày để sống, chứ đâu có kỹ thuật gì. Nhưng đối với hàng triệu người thuộc các nước phát triển, mưu cầu đời sống vật chất tốt hơn, hiện đại hơn ngày càng đồng nghĩa với việc lựa chọn giày Nike, đi siêu thị và sử dụng các công nghệ mạng điện toán. Điều muốn nói ở đây là người ta đã tìm đến với các thị trường mới và công nghệ mới bằng những con đường khác nhau, trong khuôn khổ toàn cầu hóa và hưởng những quyền lợi rất không công bằng, điều này cũng không thay đổi thực tế rằng thị trường và công nghệ mới là những công cụ kinh tế quyết định hiện nay và ai ai cũng chịu ảnh hưởng của nó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Cuộc đấu giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu thực ra là phiên bản hiện đại của một câu chuyện cổ xưa, có thể nói là một trong những câu chuyện xưa nhất – Vì sao Cain giết Abel. Kinh thánh Do Thái có viết trong sách Cựu ước: “Cain nói với em là Abel; Và khi họ ra đồng, Cain bước tới và giết Abel, người em của mình. Khi Chúa hỏi Cain, “Em Abel của con đâu?” Cain đáp, “Con không biết. Con có phải là người canh giữ em con đâu?” Và đức Chúa nói, “Con đã làm điều gì vậy? Tiếng của máu huyết trong người em con trên đất đang vang vọng đến ta.” Nếu đọc kỹ đoạn Kinh thánh đó, bạn sẽ thấy Kinh thánh Do Thái không bao giờ cho chúng ta biết Cain đã nói gì với Abel. Câu nguyên văn là “Cain nói với em là Abel” - chấm hết. Chúng ta không biết về cuộc nói chuyện bí mật đó. Điều gì đã xảy ra trong cuộc đối thoại, làm cho Cain nổi nóng và giết người em của mình? Giáo sư thần học của tôi, Giáo sĩ Tzvi Marz dạy tôi rằng những giáo sĩ hiền triết giỏi Cựu ước Rabbath, trong những bình giảng căn bản về Kinh thánh, có đưa ra ba lời giải thích cơ bản về nội dung cuộc đối thoại. Một là hai anh em đã cãi nhau về một người đàn bà – đó là Eve. Lúc đó, chỉ có một người đàn bà trên trái đất, đó là mẹ của chúng, và cả hai cãi nhau xem ai là người được quyền cưới bà ta. Họ cãi nhau về vấn đề giải quyết tình dục và sinh sản. Lời giải thích thứ hai ấn định rằng Cain và Abel đã chia đôi thế giới, trong đó Cain sở hữu toàn bộ đất đai – như Kinh thánh nói, “Cain trở thành người thợ cày trên mảnh đất” – và Abel sở hữu toàn bộ động sản cùng gia súc – Kinh thánh nói, “Abel trở thành người chăn cừu.” Và theo lời giải thích này thì Cain nói với Abel hãy mang đàn cừu và biến khỏi đất của anh ta. Điều này dẫn đến xung đột, mà khi lên đến đỉnh điểm, Cain đâm chết người em của mình. Hai anh em tranh chấp quyền lợi phát triển kinh tế và đời sống vật chất. Lời giải thích thứ ba cho rằng hai anh em đã chia đôi đàng hoàng mọi thứ trên thế giới, trừ một điều nan giải: ngôi đền, biểu trưng của tôn giáo và bản sắc văn hóa của hai anh em sẽ được xây cất ở đâu? Mỗi người đều muốn kiểm soát ngôi đền để nó phản ánh bản sắc của mình. Mỗi người đều muốn ngôi đền phải được xây trong vườn Ô liu của mình. Họ tranh chấp về vấn đề bản sắc và ai sẽ là người giữ giềng mối gia đình. Vị Giáo sĩ của tôi kết luận tất cả các khía cạnh cơ bản của động lực nhân loại sau này đã được bao gồm trong một câu chuyện nhỏ đó: nhu cầu riêng tư tình dục, nhu cầu phát triển vật chất và nhu cầu hình thành và duy trì bản sắc và tính cộng đồng. Tôi xin giành phần nói về tình dục cho một tác giả khác phân tích, trong cuốn sách này, tôi xin nói về hai phần sau của câu chuyện. Chính vì thế nên tôi thích nói, sự trao đổi thông tin cho chúng ta những lăng kính để quan sát thế giới ngày nay, nhưng chỉ những lăng kính thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần hiểu chúng ta đang quan sát điều gì và để làm gì. Chúng ta đang quan sát và tìm xem sự mưu cầu vật chất tốt hơn và bản sắc cá nhân và cộng đồng – khởi nguồn từ Cựu ước – đang phát triển ra sao trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Đó chính là tấn kịch giữa xe hơi Lexus và cây Ô liu. Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, khả năng gây hại cho cây Ô liu của bạn đến từ một cây Ô liu khác. Nói cách khác, người hàng xóm của bạn một hôm chạy sang, giận dữ nhổ bật cây Ô liu của bạn và trồng vào đó một cây Ô liu của anh ta. Hiểm họa kiểu đó ngày nay chưa hẳn đã qua đi, mặc dù nó không còn xảy ra trên nhiều phần trên hành tinh này. Nhưng hiểm họa lớn nhất đối với cây Ô liu của bạn lại đến từ chiếc xe hơi Lexus – từ những thế lực thị trường và công nghệ mang thuộc tính đồng hóa, tiêu chuẩn hóa và vô danh, tất cả hình thành nên hệ thống kinh tế toàn cầu hóa ngày nay. Có những điều trong hệ thống này giúp cho chiếc xe Lexus trở nên hùng mạnh, chà đạp tất cả các hàng cây Ô liu trên con đường nó đi qua – phá vỡ biên giới các cộng đồng, lăn bánh qua các miền môi trường hoang sơ và xô đẩy dập vùi các giá trị truyền thống. Những điều đó làm nảy sinh phản kháng từ các hàng cây Ô liu. Nhưng cũng có những khía cạnh trong hệ thống toàn cầu hóa tăng cường sức mạnh cho những cộng đồng chính trị nhỏ nhoi và kém cỏi nhất, có thể tận dụng kỹ thuật mới và thị trường để bảo tồn những cây Ô liu, những giá trị văn hóa và bản sắc của mình. Đi về nhiều nơi trên thế giới trong những năm gần đây, tôi quan sát thấy nhiều cuộc vật lộn, kéo co và bập bênh giữa cây Ô liu và chiếc Lexus. Cuộc vật lộn giữa chiếc Lexus và cây Ô liu trong hệ thống toàn cầu hóa được thể hiện trong cuộc trưng cầu dân ý tại Na Uy năm 1994 về vấn đề đất nước này có nên gia nhập Liên hiệp châu Âu hay không. Sự kiện này hẳn là một bước đi quyết định đối với dân Na Uy. Dù sao, Na Uy nằm trong châu Âu. Đó là một nước phát triển, giàu có và có buôn bán nội vùng châu Âu khá lớn. Gia nhập Liên hiệp châu Âu là điều đương nhiên về kinh tế đối với Na Uy trong tình hình toàn cầu hóa. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý đó đã thất bại vì có nhiều người dân Na Uy cảm thấy gia nhập EU tức là xóa bỏ quá nhiều bản sắc và lối sống Na Uy, mà nhờ dầu thô trên biển Bắc Na Uy, họ có đủ khả năng duy trì mà không cần vào EU. Nhiều người dân Na Uy nhìn vào EU và nói với nhau: “Để tôi hỏi xem có đúng không. Người ta muốn tôi đem bản sắc Na Uy của tôi bỏ vào trong cái nhà bếp châu Âu nơi quan chức châu Âu sẽ nấu thành món bò kho châu Âu, bán ra bằng tiền euro tại nghị viện châu Âu tại thủ đô châu Âu… nơi có các nhà báo châu Âu đưa tin ư? Xin lỗi, không có đâu. Tôi thà là dân quê ở Na Uy còn hơn. Tôi thà bám giữ lấy cây Ô liu độc đáo của tôi còn hơn, dù về kinh tế có chịu thua thiệt chút đỉnh.” Một cuộc kháng cự khác của cây ô liu đến từ Pháp, vào năm 1999, qua lời kể của phóng viên Anne Swardson, báo Washington Post. Câu chuyện kể về Philippe Folliot, trưởng làng St. Pierre-de-Trivisy, Tây Nam nước Pháp, có dân số sáu trăm mười người. Folliot và hội đồng dân biểu của thị trấn này áp mức thuế một trăm phần tră, lên mọi chai Coca-Cola bán tại thị trấn để trả đũa việc Hoa Kỳ áp đặt mức thuế đối với loại phô mai Roquefort chỉ sản xuất ở vùng tây nam nước Pháp gần St. Pierre-de-Trivisy. Trong khi quết phô mai Roquefort lên bánh mỳ, trưởng làng Folliot nói với phóng viên Swardson, “Phô mai Roquefort được chế biến từ sữa của một loài cừu đặc biệt, được sản xuất ở một nơi duy nhất trên đất Pháp và bằng một phương pháp không nơi nào có. Đó thể hiện sự tương phản đối với toàn cầu hóa. Bạn có thể mua Coca-Cola ở bất cứ nơi nào trên thế giới và vẫn có hương vị giống nhau. Đó tượng trưng cho việc các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ muốn đồng hóa tất cả các hương vị trên toàn thế giới. Đó chính là điều chúng tôi chống lại.” CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 3: Phần 2 Tuy nhiên, một sự hòa đồng giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu trong câu chuyện sau đây do Glenn Prickett, một Phó chủ tịch của nhóm môi trường Bảo tồn Quốc tế kể cho tôi. Đó là khi ông ta đến thăm làng người da đỏ bộ tộc Kayapo mang tên Aukre, nằm ở một vùng sâu trong rừng mưa nhiệt đới Amazon của Brazil, nơi người ta chỉ đến được bằng máy bay loại nhỏ. Prickett kể: “Đặt chân xuống khỏi máy bay thì thấy cả làng ra đón, trong trang phục truyền thống và để trần, họ bôi mặt mũi, nhưng lại đội những chiếc mũ bóng chầy có thêu logo khác nhau. Tôi đến cùng nhóm Bảo tồn Quốc tế để thị sát tiến độ xây dựng một trạm nghiên cứu sinh học đặt ở thượng nguồn. Dự án có sự tham gia của người Kayapo. Người Kayapo, bằng vũ lực, đã bảo vệ nhiều phần của vùng Amazon trong nhiều thế kỷ. Giờ đây, họ đang học để bảo vệ nó thông qua liên minh với các nhà khoa học, môi sinh và những doanh nhân có ý thức về xã hội. Làng của họ có con phố chính nhỏ, trên đó có cửa hàng của Bảo tồn Quốc tế và một chi nhánh của hiệu Body Shop, thuộc một hãng làm xà phòng bảo vệ sinh thái. Sau hai ngày làm việc ở trạm nghiên cứu, chúng tôi kéo về làng để hoàn tất một số việc. Chúng tôi đã tổ chức một phiên chợ ngoài trời, bán những vật phẩm văn hóa của người Kayapo, đồ cổ, thúng mủng, đao kiếm, mũi tên, cung nỏ. Nhóm của chúng tôi sẽ mua hết các mặt hàng đó với giá đắt, trả bằng đô-la Mỹ. Rồi chúng tôi đến tụ tập trong ngôi nhà trung tâm, ngôi nhà rất cổ, có lẽ được dựng lên từ thời tiền sử. Khi ở trong nhà cùng với các già làng, tôi để ý thấy họ đang xem TV, nối với một ăng ten chảo. Mấy già làng chuyển kênh liên tiếp giữa một trận bóng đá và một kênh thương mại có chiếu về giá vàng lên xuống trên thế giới. Những người dân da đỏ muốn kiểm tra và cân đối chắc chắn mức lệ phí họ đòi từ một doanh nghiệp khai thác vàng đang hoạt động trên rìa đất của họ, dựa trên mức lên xuống của giá vàng thế giới. Sau đó những người dân làng này dùng tiền thu được để đảm bảo cho lối sống độc đáo của họ trên mảnh đất Amazon nhiệt đới này.” Một cuộc tranh đấu chật vật của chiếc xe Lexus với cây Ô liu khác tôi đã chứng kiến tại trụ sở khối NATO ở Brussels. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế bành ở hành lang chờ một cuộc hẹn. Gần đó là một nhà báo nữ người Nga, trò chuyện bằng tiếng Nga trên điện thoại di động. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là cái cảnh cô này đi đi lại lại gần chiếc máy bán Coca-Cola tự động, phía dưới một chiếc TV, kênh CNN trên TV chiếu cảnh quân Nga đột nhập vào Pristina, Kosovo – trước cả lực lượng NATO. Nhà báo Nga, bước quanh máy bán Coca-Cola, phía dưới màn ảnh CNN, nói tiếng Nga vào điện thoại di động, trong khuôn viên của NATO, trong khi Kosovo đang rực cháy – đầu óc tôi không thể chứa hết mọi mâu thuẫn của khung cảnh này. Một câu chuyện khác trong đó cây Ô liu bóc lột chiếc xe Lexus được ghi trong tạp chí The Economist ngày 14/8/1999, nhan đề “Những kẻ côn đồ trên mạng”. Bài báo viết, “Cục Tình báo Hình sự Quốc gia cho rằng bản chất côn đồ bóng đá ngày càng trở nên tinh vi là nguyên nhân vụ bạo lực có tổ chức hồi tuần trước giữa hai nhóm cổ động viên từ Millwall và Cardiff City. Các băng đảng vốn kình chống nhau nay có vẻ quay ra phối hợp, thông qua Internet, để tổ chức địa điểm cho các cuộc ẩu đả. Thông tin được chúng trao đổi qua các trang web công khai và hạn chế. Một số trang còn tường thuật trực tiếp vụ ẩu đả ví dụ: Paul Dobb tường thuật: “Cuộc đấu đã bắt đầu khi tôi viết những dòng này”. Bản thân anh ta là một tay côn đồ chơi ma túy khét tiếng mà giới côn đồ trên mạng cũng như cảnh sát đều nhẵn mặt. Cảnh sát hiện đang truy cập những trang mạng tương tự, hy vọng tìm ra được những kế hoạch ẩu đả sắp tới. Chuyện viễn Tây trên mạng điện toán toàn cầu! Trường hợp cây Ô liu khai thác xe Lexus được thể hiện vào mùa hè năm 1999. Câu chuyện kể về cương lĩnh phân biệt chủng tộc của Adolf Hitler thể hiện trong hồi ký Cuộc đời tôi. Tập hồi ký bị chính phủ Đức cấm lưu hành ở nước Đức. Bạn không được phép bán cuốn sách ở bất kỳ hiệu sách nào hay in ấn ở bất cứ đâu trên đất Đức. Nhưng người ở Đức lại có thể đặt mua cuốn sách trên Internet qua trang mạng Amazon.com. Cuốn sách được gửi đến trực tiếp cho độc giả mà chính phủ Đức không có cách nào ngăn cản được. Thực tế cho thấy nhiều người ở Đức mua cuốn sách đến nỗi vào mùa hè năm 1999, cuốn Cuộc đời tôi nằm trong danh sách mười ấn phẩm bán chạy nhất của Amazon.com cho thị trường Đức. Lúc đầu Amazon.com từ chối, không chấp nhận lệnh cấm gởi cuốn sách vào Đức, giải thích rằng bản dịch Anh ngữ của cuốn sách không phải là đối tượng cho Đức kiểm duyệt, thêm nữa họ giải thích Amazon.com không phải là người đứng ra phân biệt ai là người đáng đọc cuốn sách, ai không. Tuy vậy, sau khi chuyện này xảy ra, Amazon.com đã phải hứng chịu hàng tấn email từ khắp thế giới chỉ trích họ, khiến họ phải ngưng bán các tác phẩm của Hitler. Cây Ô liu vu cáo chiếc xe Lexus rồi đến lượt chiếc xe Lexus vu cáo trở lại… đó là câu chuyện về việc thử nghiệm hạt nhân ở Ấn Độ hồi cuối những năm 1990. Mùa xuân năm 1998, đảng dân tộc chủ nghĩa Bharatiya Janata [BJP] vừa đắc cử đã quyết định cưỡng lại ý muốn của toàn thế giới và nối lại công cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Ấn Độ. Khẳng định quyền của Ấn Độ được thử nghiệm hạt nhân chính là nền tảng của cương lĩnh tranh cử của BJP trước đó. Tôi đến Ấn Độ ngay sau khi những cuộc thử nghiệm diễn ra. Tôi trò chuyện với người giàu, người nghèo, công chức cũng như những thành phần phi chính phủ, dân nghèo ở nông thôn cũng như dân ăn diện thành phố. Tôi cố đợi để gặp được những người Ấn có thể có quan điểm, “Anh biết không? Những cuộc thử nghiệm như thế thật ngu xuẩn. Chúng tôi không tăng cường được an ninh hơn, không những thế chúng tôi lại phải trả giá, bị trừng phạt”. Tôi chắc rằng những cảm giác như vậy là có, nhưng không tìm được ai bộc lộ nó ra. Ngay cả một số chính khách người Ấn, những người lên án việc thử nghiệm là một hành vi hiếu chiến và rẻ tiền của chính phủ Hindu theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, cũng không bộc lộ cảm giác đó. Họ nói thử nghiệm là phương thức duy nhất để Ấn Độ đạt được những gì họ muốn từ phía Hoa Kỳ và Trung Quốc: đó là SỰ KÍNH NỂ. Tôi nhận ra cốt lõi của vấn đề này khi đến gặp Swami Agnivash, một nhà hoạt động cho nhân quyền, người thường quấn cà sa. Ngồi xếp bàn trò chuyện trong căn hộ đơn sơ của ông ta ở thủ đô Delhi tôi nghĩ, “Chắc rồi ông này sẽ chỉ trích chuyện thử nghiệm thôi”. Nhưng vừa vào đầu câu chuyện, Swami đã đưa ra một tuyên bố: “Chúng tôi là Ấn Độ, đất nước lớn thứ nhì trên thế giới! Quý vị không thể xem thường chúng tôi. Ấn Độ không cảm thấy bị Pakistan đe dọa, nhưng trong toàn cục cuộc chơi quốc tế ta thấy Ấn Độ đang bị cái trục Trung Quốc-Hoa Kỳ cho ra rìa”. Ngày hôm sau, tôi đến Dasna, ngôi làng ở phía bắc New Delhi để tìm hiểu thêm. Dasna là ngôi làng nghèo nhất tôi từng thấy ở Ấn Độ. Không thấy ai đi giày. Người nào người nấy da bọc xương. Trên đường phố, lượng trâu bò và xe đạp chiếm đa số, hơn là xe hơi. Không khí nồng nặc mùi phân bò được dùng làm chất đốt. Nhưng người dân ở đây thích thú về màn trình diễn hạt nhân của chính phủ. “Chúng tôi có dân số chín trăm triệu người, và chúng tôi không vì chuyện cấm vận mà chết được”, Pramod Batra, một bác sĩ bốn mươi hai tuổi sống ở làng, tuyên bố. Ông nói tiếp: “Cuộc thử nghiệm liên quan tới lòng tự trọng, mà lòng tự trọng quan trọng hơn đường sá, điện và nước. Nói cho cùng chúng tôi đã làm gì? Nổ một quả bom. Cũng như thể bắn một phát súng lên trời thôi. Chúng tôi có làm hại đến ai đâu”. Ở khung cảnh toàn cầu hóa ngày nay, tuy tinh thần cây Ô liu của Ấn Độ dường như lan tràn và chế ngự cái ước muốn về xe Lexus, nó cũng khiến nảy sinh một cái giá Ấn Độ phải trả trong một thời gian dài. Khi ở New Delhi, tôi trọ trong khách sạn Oberoi, nơi tôi có thể bơi trong bể bơi của khách sạn sau mỗi ngày đi lại trong cái nóng 37,7 độ. Ngày đầu tiên trong khách sạn, khi tôi sải tay bơi ếch trong bể, có một phụ nữ người Ấn Độ bơi trong làn bên cạnh. Lúc nghỉ ngơi, chúng tôi bắt chuyện làm quen, bà ta nói bà quản lý văn phòng đại diện ở Ấn Độ cho Salomon Brothers-Smith Barney, một ngân hàng đầu tư lớn của Hoa Kỳ. Tôi tự giới thiệu bản thân là một bình luận viên sang Ấn Độ để viết về những ảnh hưởng từ những cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ. “Ông có biết ai đang đến thăm thành phố không?” Bà ta hỏi tôi khi cùng bơi. “Không”, tôi lắc đầu, đáp, “Ai vậy?” “Moody’s”, bà nói. Moody’s Investors Service là một tổ chức quốc tế đánh giá tín dụng và xếp hạng kinh tế của các quốc gia, theo thứ hạng A, B và C, để những nhà đầu tư toàn cầu hiểu kinh tế ở nước nào làm ăn được và ở đâu làm ăn kém cỏi. Nếu nền kinh tế của nước bạn bị xếp hạng thấp thì bạn sẽ phải trả lãi suất cao hơn khi vay quốc tế. “Moody’s đã cử một đoàn sang đây để tái xếp hạng nền kinh tế Ấn Độ,” bà ta nói. “Ông có nghe thấy đánh giá của họ ra sao chưa?” Bà ta hỏi. Tôi nói tôi chưa nghe thấy gì. “Ông nên thử kiểm tra xem sao,” bà ta nói, rồi bơi đi luôn. Tôi quả có đi kiểm tra. Hóa ra đoàn điều tra của Moody’s đã bí mật đến và bí mật đi thám thính, không khác gì các nhà khoa học Ấn Độ bí mật chuẩn bị cho thử nghiệm quả bom hạt nhân của họ vậy. Tôi không dò được kết luận của họ ra sao, nhưng đêm tôi rời Ấn Độ, mẩu tin thứ tư trong bản tin tối lọt vào tai tôi. Mẩu tin nói do tình hình ngân sách thiếu phương hướng và thổi phồng của chính phủ Ấn Độ, cùng cuộc thử nghiệm hạt nhân và sự trừng phạt của Hoa Kỳ, Moody’s đã hạ thấp thứ hạng kinh tế của nước này từ “Mức đầu tư”, nghĩa là an toàn cho các nhà đầu tư toàn cầu, xuống “Mức phải xem xét thêm”, nghĩa là không an toàn. Hãng xếp hạng kinh tế Standard & Poor’s cũng hạ mức kinh tế Ấn Độ từ “Ổn định” xuống “Tiêu cực”. Điều này có nghĩa là bất cứ công ty nào của Ấn Độ muốn mượn tiền từ các thị trường tài chính nay sẽ phải trả mức lãi suất cao hơn. Và bởi vì Ấn Độ có mức vốn tiết kiệm thấp, nên việc vay mượn từ bên ngoài bao giờ cũng thiết yếu cho đất nước cần khoảng năm trăm tỷ đô-la trong vòng thập niên tới cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở để có thể cạnh tranh quốc tế. Đành rằng cây Ô liu chiếm thượng phong ở Ấn Độ trong một thời gian, nhưng đã khiến cho nước này trả một giá đáng kể, trong thời toàn cầu hóa. Bạn không thể vượt ra khỏi toàn cầu hóa. Trước hay sau thì chiếc Lexus sẽ đuổi kịp bạn. Một năm rưỡi sau ngày Ấn Độ thử hạt nhân, tôi đọc trong tờ Wall Street Journal (số ra ngày 7/10/1999) có hàng tít sau đây: “(Đảng) BJP của Ấn Độ chuyển ưu tiên sang kinh tế ”. Bài viết cho biết BJP lên cầm quyền trong hai năm trước “kêu gọi Ấn Độ khẳng định tiềm lực hạt nhân – một lời hứa được thực hiện hai tháng sau đó, khi một loạt các vụ thử vũ khí diễn ra và đã làm Ấn Độ phải chịu sự trừng phạt trên toàn cầu và sự ngừng trệ về đầu tư vào nước này”. Khi tái đắc cử, Thủ tướng Ấn Độ, ông Atal Bihari Vajpayee không đợi cho kết thúc kiểm phiếu, đã phát tín hiệu ngay về ưu tiên mới của ông: cải cách kinh tế. “Trọng tâm là xây dựng một sự đồng thuận quốc gia để tiếp nhận vốn toàn cầu, theo thông lệ của thị trường cùng những chi tiết của chúng. Hãy xúc tiến cạnh tranh để giành đầu tư ”, Thủ tướng Vaipayee tuyên bố với tờ báo Indian Express. Thêm một ví dụ cho thấy sự cân bằng giữa hai thế lực xe Lexus và cây Ô liu, tôi xin được dẫn ra sau đây. Trong chuyến bay hãng hàng không Gulf Air từ Bahrain sang London, một kênh truyền hình trong khoang hạng thương gia chỗ tôi ngồi có hệ thống định vị, chỉ chính xác cho hành khách cự ly và vị trí của chiếc máy bay di chuyển so với thánh địa Mecca. Sử dụng hệ thống định vị qua vệ tinh, màn hình cho thấy chiếc máy bay bay ở vị trí nào và vị trí thánh địa dịch chuyển đến đâu khi máy bay chuyển hướng. Điều đó giúp các hành khách người Hồi giáo, cầu nguyện năm lần mỗi ngày, hướng chính xác về thánh địa Mecca mỗi khi họ trải thảm ra để cầu nguyện. Trong chuyến bay, tôi để ý thấy nhiều hành khách ngồi gần tôi quỳ cầu nguyện, và hệ thống định vị giúp họ quay đầu chính xác về hướng Mecca. Trường hợp chiếc xe Lexus không đếm xỉa đến cây Ô liu trong thời toàn cầu hóa được thể hiện trong một bộ phận máy vi tính mà bạn tôi gửi cho tôi. Mặt sau của bộ phận máy tính có in: “Bộ phận này được sản xuất ở Malaysia, Singapore, Philippines, Trung Quốc, Mexico, Đức, Hoa Kỳ, Thái Lan, Canada và Nhật Bản. Nhiều nước cùng sản xuất cùng một linh kiện nên chúng tôi không xác định chính xác nguồn gốc của sản phẩm”. Trường hợp chiếc xe Lexus chế ngự cây Ô Liu được ghi lại trong một mẩu tin trong tạp chí Sports Illustrated số ngày 11/8/1997. Mẩu tin có nội dung: “Đội bóng đá Câu lạc bộ Llansantffraid, xứ Wales, có lịch sử ba mươi tám năm thi đấu, nay đã đổi tên thành đội “Giải pháp mạng toàn diện” để đổi lấy khoản tài trợ bốn trăm nghìn đô-la từ một công ty điện thoại di động”. Chiếc xe Lexus hợp tác với cây Ô liu trong toàn cầu hóa được dẫn giải trong một bài viết trên tờ Washington Post, số ra ngày 21/7/ 1997. Bài này viết rằng các sĩ quan phản gián người Nga phàn nàn là họ phải trả gấp đôi để tuyển một điệp viên CIA hợp tác với họ, so với mức giá CIA trả để sử dụng điệp viên người Nga. Một viên chức thuộc Cục An ninh Liên bang Nga (tiền thân là KGB) phát biểu với điều kiện không tiết lộ danh tính, đã nói với hãng thông tấn Itar-Tass rằng cần một triệu đô-la để mua một gián điệp người Nga, trong khi đó, điệp viên CIA rao giá là họ có thể “bán mình” với giá hai triệu đô-la. Trong khoảng thời gian có bài báo này, tờ báo Yediot Aharonot của Israel đăng một bài mà theo tôi, đó là câu chuyện tình báo đầu tiên săn được trong thời buổi thị trường tự do. Các biên tập viên của Yediot đã sang Moskva và mua một số tấm ảnh chụp từ vệ tinh của người Nga chụp các căn cứ tên lửa Scud tại Syria. Sau đó tờ báo đã thuê một chuyên gia Hoa Kỳ, hoạt động độc lập phân tích các bức ảnh này. Tờ Yediot đã đăng toàn bộ phóng sự này như một phát hiện của riêng họ về đe dọa tiềm tàng từ Syria nhằm vào Israel. Họ không phải sử dụng nguồn tin từ chính phủ để kiểm chứng cho phát hiện này. Ai cần gián điệp khi đã có tiền? Và sau cùng là dẫn chứng mà tôi thích nhất về “Cuộc gây hấn giữa xe Lexus và cây Ô liu trong kỷ nguyên toàn cầu hóa”, nói về người con của Abu Jihad. Tôi đến tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Amman, Jordan, hồi năm 1995. Khi ngồi ăn trưa một mình trong khách sạn Amman Marriott, một chàng trai người Ảrập từ đâu xuất hiện, đến bên bàn và hỏi tôi, “Ông là Tom Friedman phải không?” Tôi trả lời phải. “Ông Friedman”, chàng trai lịch sự nói tiếp, “ông biết cha tôi”. “Cha của anh là ai?” Tôi hỏi lại. “Cha tôi là Abu Jihad”. Abu Jihad, tên thật là Khalit al-Wazir, một trong những người Palestine đã cùng Yasser Arafat sáng lập phong trào el-Fatah và sau đó nắm giữ Tổ chức Giải phóng Palestine, PLO. Abu Jihad, nghĩa là “Người cha của cuộc tranh đấu”, là biệt hiệu của ông ta, người chỉ huy trưởng các hoạt động quân sự của Palestine ở Li Băng và vùng Bờ Tây sông Jordan, trong thời gian tôi còn là phóng viên tờ The New York Times ở Beirut. Tôi đã gặp ông ta ở Beirut. Người Palestine coi ông ta là một anh hùng; người Israel coi ông là một trong những kẻ khủng bố nguy hiểm nhất của Palestine. Một đội hành quyết người Israel đã giết Abu Jihad trong phòng khách nhà ông ở Tuy-ni-di ngày 16/4/1988. Họ bắn hàng trăm viên đạn vào người Abu Jihad. “Vâng, tôi biết cha anh rất rõ – có một lần tôi đã đến thăm nhà anh ở Damascus”, tôi nói với chàng trai, “Còn anh, giờ đây đang làm gì?” Chàng trai trao cho tôi một danh thiếp. Trên đó ghi: “Jihad al-Wazir, Giám đốc điều hành, Trung tâm Thương mại Thế giới, Gaza, Palestine”. Đọc tấm danh thiếp, tôi tự nhủ, “Thật lạ lùng. Vật đổi sao dời nhanh đến như vậy”. Thách thức trong thời toàn cầu hóa đến với đất nước và con người là làm sao dung hòa được giữa việc bảo tồn bản sắc, quê hương và cộng đồng… đồng thời nỗ lực hết mức để tồn tại cho được trong hệ thống thế giới. Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh. Nếu hội nhập đạt được trong điều kiện phải hy sinh bản sắc của một đất nước, nếu các cá nhân cảm thấy họ bị mất gốc trong cơn lốc toàn cầu, thì họ sẽ phản kháng. Họ sẽ vươn dậy và ngăn cản quy trình này. Do đó sự sống còn của toàn cầu hóa phụ thuộc một phần vào nỗ lực của chúng ta xây dựng sự cân bằng giữa phát triển và cội nguồn. Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vật lộn triền miên. Có lẽ vì thế trong nhiều câu chuyện trong cuốn sách này, có thể bạn sẽ thích câu chuyện do anh bạn học của tôi Victor Friedman, người đang giảng dạy quản trị kinh doanh tại Viện Ruppin, Israel. Một hôm tôi gọi điện chào hỏi Victor, anh ta nói thật mừng vì tôi đã gọi, vì anh đã đánh mất số điện của tôi. Hỏi vì sao, thì Victor trả lời rằng anh đánh mất cuốn sổ tay điện tử, trong đó có lưu giữ chi tiết liên lạc của bè bạn, địa chỉ, số điện và kế hoạch làm việc trong hai năm sau đó. Victor kể lại những gì đã xảy ra. “Chúng tôi có một máy tính để bàn, nhưng nó bị hỏng. Tôi mang đến tiệm ở Hadera [thị trấn ở trung tâm Israel] để sửa. Hai tuần sau đó, tiệm này gọi điện cho tôi nói máy đã được chữa xong. Tôi bèn cho cuốn sổ điện tử vào trong cặp da và lái xe đến Hadera để mang máy tính về. Tôi rời khỏi tiệm, bê chiếc máy tính cùng cặp da, trong cặp là cuốn sổ điện tử. Khi đến xe, tôi để chiếc cặp da xuống vỉa hè, mở thùng xe và hết sức cẩn thận, đặt chiếc máy tính vào trong xe. Rồi tôi lên xe, mở máy chạy luôn, quên chiếc cặp da ở trên vỉa hè. Ngay khi vào văn phòng, tôi nhận ngay ra là để quên chiếc cặp da. Tôi nhanh chóng gọi điện cho cảnh sát ở Hadera, nói với họ là “đừng có cho nổ chiếc cặp của tôi”. [Cảnh sát Israel được lệnh cho nổ tung những gói, bọc, cặp hay những đồ vật gây ngờ vực để quên trên lối đi và vỉa hè, vì đó là cách mà người Palestine gài bom gây tử thương đối với nhiều dân thường Israel. Dân chúng Israel cũng được huấn luyện kỹ về chuyện này, đến mức nếu bạn để quên thứ gì thì nhiều khi chỉ sau một phút, cảnh sát đã được báo.] Tôi biết sẽ không có ai lấy cắp chiếc cặp đó cả. Ở Israel, bọn trộm sẽ không bao giờ sờ mó tới một thứ đồ để trên lối đi. Nhưng tôi gọi cho cảnh sát muộn quá. Một cảnh sát viên nói với tôi rằng một đội của họ đã đến hiện trường và “đã xử lý nó rồi”. Khi tôi đến đồn cảnh sát thì được nhận lại chiếc cặp da xinh đẹp của tôi với một vết đạn gọn gàng bắn xuyên qua giữa cặp. Điều làm tôi khổ tâm nhất là hỏng mất cuốn sổ tay điện tử. Cuốn sổ Genius OP 9300 bị bắn trúng. Toàn bộ cuộc sống của tôi được lưu trong đó mà tôi không có bản sao lưu. Tôi xin lỗi cảnh sát vì đã gây ra chuyện đó nhưng họ nói: “Đừng buồn, chuyện đó xảy ra với bất cứ ai”. Hàng tuần lễ sau, khi đi lại trong trường, chiếc cặp với vết đạn khiến tôi phải ngưng lại để suy nghĩ thêm. Phần lớn học trò của tôi đang ở trong quân ngũ Israel, mỗi khi nhìn thấy chiếc cặp có lỗ đạn, họ lại phá lên cười, vì họ biết chuyện gì đã xảy ra”. Sau khi kể xong câu chuyện, Victor nói, “Nhân tiện, nhớ gửi cho tôi địa chỉ email nhé. Tôi cần bắt đầu ghi một cuốn sổ tay mới”. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 4: Phần 1 Mùa hè năm 1998, Guilherme Frering, Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn khoáng sản Brazil mang tên Caemi Minerção e Metalurgia miêu tả cho tôi những thay đổi đáng kinh ngạc của nền kinh tế Brazil trong thập niên trước đó. Ông ta chêm vào một nhận xét: “Ông có thấy, bức tường Berlin cũng sụp đổ trên đất này. Đó không những là sự kiện riêng của châu Âu, nó cũng là sự kiện toàn cầu, bức tường cũng đổ ngay trên đất Brazil. Sự thay đổi lớn lao trong kinh tế Brazil diễn ra đúng vào lúc tường Berlin sụp đổ”. Để minh họa cho luận điểm đó, ông ta kể lại câu chuyện sau: Tháng 11/1988, những người thợ luyện thép muốn đấu tranh đã biểu tình trước nhà máy luyện thép của Công ty Thép Quốc gia (CSN) thuộc chính phủ đặt tại Volta Redonda, tây bắc Rio de Janeiro và là xí nghiệp luyện thép lớn nhất của Nam Mỹ. Khoảng hai nghìn năm trăm thợ thép người Brazil chiếm giữ xí nghiệp đòi tăng lương và giảm giờ làm từ tám tiếng xuống còn sáu tiếng mỗi ngày. Xung đột giữa công nhân và cảnh sát địa phương leo thang tới mức quân đội Brazil được phái đến. Ba người thợ bị thiệt mạng và ba mươi sáu người khác bị thương trong cuộc giành giật chiếm quyền kiểm soát nhà máy. Quân đội khép cho công nhân tội “hoạt động chống phá theo lối du kích ở thành thị”, khi công nhân dùng gạch đá, bom xăng, gậy sắt và súng để bảo vệ công ăn việc làm và lợi nhuận theo biên chế nhà nước của họ. Trong quãng thời gian hai mươi mốt năm dưới chế độ độc tài ở Brazil, kết thúc vào năm 1995, các tướng lĩnh nắm quyền của đất nước rất coi trọng việc quản lý nhà máy luyện thép khổng lồ này, đến mức họ ra tuyên bố coi vùng Volta Redonda là “Thị trấn thuộc lợi ích an ninh quốc gia”, và trực tiếp bổ nhiệm chức Thị trưởng của thị trấn. Sau khi giải thích câu chuyện trên, Frering chua thêm: “Khoảng bốn năm sau cuộc chống đối đẫm máu đó, khi bức tường Berlin sụp đổ, chính những người công nhân của CSN lại đòi nhà máy phải được tư nhân hóa, vì chính họ hiểu rằng đó là con đường duy nhất giúp cho nhà máy tiếp tục khả năng cạnh tranh và giữ được công ăn việc làm cho họ. Ngày nay, CSN được hoàn toàn tư nhân hóa và trở nên có cổ đông lớn nhất, tham gia trong công cuộc tư nhân hóa các nhà máy lớn của chính phủ Brazil”. Nhận xét của Frering khiến tôi bừng tỉnh: Tất nhiên rồi, ông ta nói đúng! Bức tường Berlin không chỉ sụp đổ ở thành phố Berlin. Nó sụp cả ở phương Đông lẫn phương Tây, phía Bắc cũng như phía Nam, sụp xuống đầu nhiều đất nước, nhiều công ty, và dường như chúng sụp cùng một lúc. Chúng ta đã chỉ chú ý vào việc bức tường sụp ở phương Đông vì sự kiện này lúc đó mang đầy kịch tính và dễ thấy: qua bản tin tối trên TV, một bức tường xi măng rạn vỡ rồi sụp xuống. Nhưng trên thực tế các bức tường Berlin khác trên khắp thế giới cũng đang theo nhau đổ sập, mặc dù người ta thường không thấy được tận mắt, chính điều đó khắc họa nên kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập. Vậy câu hỏi quan trọng là: Điều gì đã lay đổ những bức tường đó? Hay như các cháu nhà tôi có thể hỏi, “Bố ơi, toàn cầu hóa từ đâu đến?” Tôi xin bắt đầu câu trả lời như thế này: thế giới của Chiến tranh Lạnh tựa như một cánh đồng lớn bị xé lẻ dọc ngang bởi những hàng rào, tường chắn, hố sâu và ngõ cụt. Người ta không thể đi nhanh, đi cho hết được cánh đồng mà không bị những thứ như tường Berlin hay bức màn sắt hay khối Vacsava hay các hàng rào thuế quan hay kiểm soát tài chính, cản chân. Và trong khuôn khổ từng lô đất trên cánh đồng đó, các quốc gia gìn giữ các thể loại chính trị, kinh tế và văn hóa độc đáo của họ. Họ có thể thuộc về thế giới thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Họ có thể duy trì các hệ thống kinh tế khác nhau – một nền kinh tế cộng sản theo kế hoạch của nhà nước, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hay một nền kinh tế thị trường tự do. Và họ cũng duy trì các hệ thống chính trị khác nhau – bao gồm từ mức dân chủ tới mức độc tài, từ mức toàn trị đến quân chủ lập hiến rồi áp chế toàn phần. Sự khác biệt có thể sâu sắc, thậm chí như trắng và đen, vì có nhiều bức tường dày để bao bọc sự khác biệt đó – những bức tường khó mà đi xuyên qua được. Lay chuyển những bức tường đó là ba sự thay đổi lớn – thay đổi trong cung cách chúng ta liên lạc với nhau, trong lề lối đầu tư và trong cách thức tìm hiểu về thế giới. Những thay đổi đó được sinh ra, ấp ủ trong thời Chiến tranh Lạnh rồi đạt đến mức tới hạn vào cuối thập niên 1980. Khi đó, chúng được kết hợp thành một cơn lốc, đủ sức phá sập tất cả những bức tường của hệ thống Chiến tranh Lạnh, giúp cho thế giới tập hợp lại với nhau, xé bỏ ngăn cách tạo lập được một cánh đồng thẳng tắp. Ngày nay, cánh đồng này được mở rộng hơn, với tốc độ nhanh hơn, ngày càng có nhiều bức tường sụp đổ và nhiều quốc gia bị hút vào. Chính vì thế ngày nay không còn khái niệm thế giới thứ nhất, thứ nhì hay thứ ba nữa. Ngày nay chỉ còn là thế giới phát triển nhanh, và thế giới phát triển chậm chạp – thế giới của những người bị đào thải sang bên lề hay của những người tự chọn theo lối sống biệt lập không muốn nhập vào cánh đồng rộng lớn nói trên. Những người đó có thể cho rằng, cái thế giới ấy đi nhanh quá, đáng sợ quá, đồng hóa nhiều quá hay đòi hỏi nhiều quá. Và đây là chi tiết của từng sự thay đổi. Dân chủ hóa trong công nghệ Thứ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Larry Summers thích kể câu chuyện rằng vào năm 1988 ông ta hoạt động cho chiến dịch tranh cử tổng thống của ứng cử viên Michael Dukakis. Một hôm ông ta được cử sang Chicago để nói chuyện thay cho Dukakis. Ở đó ông ta được nhân viên của Dukakis cấp một chiếc xe hơi, trong đó, bạn bình tĩnh nhé… có chiếc điện thoại. “Tôi nghĩ, vào năm 1988 mà trong xe có chiếc điện thoại di động thì thật tuyệt”, Summers kể lại. “Tôi dùng điện thoại đó gọi để khoe với vợ rằng trong xe của tôi có chiếc điện thoại di động”. Chín năm sau, 1997, Summers, lúc đó đi công cán cho Bộ Tài chính thăm đất nước Bờ Biển Vàng, vùng Tây Phi. Trong chuyến thăm chính thức này, một nhiệm vụ của ông ta là khánh thành một dự án y tế do Mỹ tài trợ ở một ngôi làng trên thượng nguồn của Thủ đô Abidjian. Theo dự án, ngôi làng này, khi đó chuẩn bị khánh thành một hệ thống các loại giếng nước di động. Người ta chỉ vào làng bằng cách đi ca nô. Summers, một vị khách to béo đến từ Hoa Kỳ được phong chức già làng danh dự của người Phi, và được mặc trang phục truyền thống Phi châu. Điều làm Summers nhớ nhất đó là trên đường rời làng ra đi, bước xuống chiếc ca nô thì một viên chức của Bờ Biển Ngà trao cho ông ta một chiếc điện thoại di động và nói, “Washington muốn hỏi ông một điều gì đó”. Chín năm, từ chỗ thốt lên thán phục khi thấy điện thoại di động trong xe hơi, nay Summers lại thấy điện thoại di động trên chiếc thuyền độc mộc ở vùng Tây Phi hẻo lánh. Những cuộc phiêu lưu với điện thoại di động của Summers diễn ra cho thấy sự thay đổi quan trọng đầu tiên, được hình thành trong thời Chiến tranh Lạnh – sự thay đổi về cách thức chúng ta liên lạc với nhau. Tôi xin gọi nó là “quá trình dân chủ hóa trong công nghệ”, khiến cho ngày càng có thêm số người dùng máy vi tính tại nhà, modem, điện thoại di động, hệ thống viễn thông cáp và kết nối internet, để có thể vươn dài liên lạc của họ, sang nhiều nước khác. Nhờ đó họ được tìm hiểu thông tin kỹ càng hơn với chi phí rẻ hơn bao giờ hết. Có một ngân hàng ở Valley Spring, Washington, D.C., đã mời chào khách hàng rất nhiều dịch vụ giao dịch qua Internet và điện thoại. Quảng cáo của ngân hàng này tóm tắt quá trình dân chủ hóa nói trên: “Hãy để chúng tôi lập nhà băng trong ngôi nhà của quý vị”. Do quá trình dân chủ hóa công nghệ, chúng ta nay có dịch vụ ngân hàng, văn phòng, tòa báo, nơi giao dịch chứng khoán, nhà xưởng và dịch vụ đầu tư, trường học, tất cả có thể cùng ngự trị trong mỗi căn nhà nơi chúng ta sinh sống. Dân chủ hóa công nghệ là sản phẩm của một loạt phát kiến được tập hợp lại trong những năm 1980, bao gồm vi tính hóa, viễn thông, thu nhỏ, kỹ thuật nén và số hóa. Chẳng hạn, tiến bộ trong công nghệ vi xử lý giúp cho máy vi tính tăng công suất gấp đôi sau mỗi chu kỳ mười tám tháng, trong suốt thời gian ba mươi năm qua. Tiến bộ trong công nghệ nén làm cho số lượng thông tin lưu trên các đĩa máy tính tăng sáu mươi phần trăm mỗi năm, tính từ 1991. Trong khi đó chi phí để lưu một megabite dữ liệu đã giảm từ năm đô-la xuống còn năm xu, làm công suất máy tính tăng lên và giá của chúng giảm xuống – giúp cho có thêm nhiều người được sử dụng máy vi tính. Những cải tiến trong công nghệ viễn thông đã giảm dần được chi phí điện thoại hay truyền dữ liệu, đồng thời tăng tốc độ truy cập, mở rộng vùng phủ sóng và tăng sức tải và bộ nhớ các dữ liệu mỗi lần giao dịch qua điện thoại, cáp hoặc sóng radio. Không những bạn có thể gọi đến bất cứ nơi nào, bạn còn có thể gọi từ bất cứ nơi đâu, từ máy tính xách tay, từ trên đỉnh núi, từ máy bay khi đang di chuyển hay từ nóc nhà của thế giới, đỉnh Everest. Những khả năng đó xuất hiện sau khi công nghệ đã thu nhỏ được kích cỡ máy vi tính, máy điện thoại và máy nhắn tin. Những thiết bị thông tin có thể được di chuyển tới những vùng xa xôi hẻo lánh và cung cấp cho những người dân có mức thu nhập thấp. Tháng 7/1998 tạp chí Golf đăng bài cho hay có nhiều sân golf bắt đầu cho lắp đặt hệ máy tính Spyder-9000 trên các xe chơi golf, “cho phép người chơi golf theo dõi kết quả cuộc chơi qua hệ thống điện tử và đo đạc cự ly bằng kỹ thuật số, xem xét các lỗi bi, theo dõi những lời mách nước cách chơi, cách đánh. Hơn nữa họ có thể đặt bữa ăn trưa, kiểm tra giá chứng khoán và xem các chương trình TV thương mại”. Chỉ có một việc chúng không làm được là trực tiếp đánh bóng vào lỗ hộ bạn thôi. Những sáng tạo đó đã thúc đẩy và ngược lại, được tăng cường bởi cuộc cách mạng kỹ thuật số. Kỹ thuật số hóa là phép mầu nhiệm cho phép chúng ta chuyển hóa giọng nói, âm thanh, phim, tín hiệu truyền hình, âm nhạc, màu sắc, hình ảnh, ngôn ngữ, tài liệu, thông số, ngôn ngữ máy tính và bất cứ loại hình dữ liệu nào… thành những bit dữ liệu, rồi truyền chúng qua đường điện thoại, vệ tinh và cáp quang đi khắp thế giới. Những ký tự máy tính là đơn vị đo đếm dùng trong vi tính, thể hiện đơn giản bằng sự kết hợp khác nhau của những tập hợp gồm hai con số 1 và 0. Số hóa có nghĩa là chuyển âm thanh, hình ảnh và con số hay mẫu tự mã hóa chúng thành những tập hợp gồm 1 và 0, truyền chúng qua một điểm khác, nơi chúng được giải mã trở lại thành nguyên bản. Nicholas Negroponte, tác giả cuốn sách Kỹ thuật số đưa ra cách giải thích rất hình tượng về công nghệ số hóa: “Tựa như chúng ta vừa tìm ra cách sấy khô và làm đông lạnh một ly cà phê sữa một cách hoàn hảo, sau đó, cho nước nào thì thứ đồ đông lạnh lại trở lại nguyên hình dáng và hương vị của một ly cà phê như trước, như vừa được pha, trong bất cứ quán cà phê nào của người Y”. Và Negroponte nói thêm rằng chúng ta có thể làm khô và đông lạnh nhiều thứ khác, bằng cách chuyển hóa chúng “từ nguyên tử thành ký tự vi tính”, từ hình ảnh và âm thanh sang những số 1và số 0, truyền chúng đến nhiều nơi khác nhau với chi phí rẻ hơn bao giờ hết”. Hãy tưởng tượng về quá trình đó như sau: Bộ vi xử lý và máy tính tựa như một thứ lò luyện kim có khả năng nung tất cả các vật liệu hình thành từ các nguyên tử thành bits. Vệ tinh, đường điện thoại và cáp quang là những đường ống dẫn đi từ lò luyện này đến mọi nơi trên thế giới. Những đường ống này ngày càng trở nên tinh vi hơn – như người ta thường nói là tăng và mở rộng các “băng thông”, công cụ để đo đếm số lượng tập hợp của 1 và 0 được truyền trong một giây – chúng ta cũng có thể dùng đường ống để truyền tải nhiều hơn nữa các nguyên tử, mà lò luyện đã “luyện cán” chúng lại thành bits. Quá trình số hóa là kiến thức trọng tâm để hiểu về quá trình toàn cầu hóa ngày nay và về những điều làm cho nó trở nên độc đáo. Chúng ta cần ngưng lại ít phút để nghe một ví dụ cụ thể về hoạt động của quy trình số hóa. Bạn bốc điện thoại ở New York, quay số của người bạn ở Bangkok. Khi bạn nói vào ống nghe, áp suất từ hơi thở của bạn đập vào màng chắn trong ống nghe. Màng chắn này rung theo nhịp bạn đang nói. Màng chắn này được gắn với một nam châm, nằm bên cạnh một cuộn dây điện [cuộn cảm]. Khi màng chắn kích thích nam châm, từ trường của nam châm tạo một dòng điện trong cuộn dây cáp. Từ trường lên xuống tùy theo độ lên xuống của giọng nói và khiến dòng điện trong cuộn cảm cũng lên xuống theo. Vậy ta có âm thanh từ miệng ta được đổi thành những tín hiệu điện từ lên xuống như làn sóng theo một biên độ tùy theo độ cao thấp của giọng nói. Bạn có thể thấy điều này khi âm thanh được một máy ghi dao động ghi lại. Làm thế nào có thể biến sóng điện thành những bits của vi tính để truyền tải? Về cơ bản bạn tưởng tượng những bước sóng lên xuống theo một khung nhất định. Bạn xẻ những bước sóng thành những phần cực nhỏ, đánh số những phần đó, sử dụng đơn vị 1 và 0. Chẳng hạn, độ cao 10 có thể được biểu hiện thành 11110000 và độ cao 11 là 11111000 và tiếp tục… Mỗi đơn vị 1 và 0 được dịch thành một nhịp đập của bước sóng, và khi được xâu chuỗi với nhau sẽ được biết đến như một cột sóng hình vuông. Không như sóng âm thanh analog, lên xuống như hình những làn sóng biển, dễ bị bóp méo và phân tán trong quá trình truyền tải, sóng hình vuông kỹ thuật số chỉ lên khi là 1 và xuống khi là 0. Điều đó làm cho thiết bị tiếp nhận đón nhận và hiểu được chúng. Thiết bị này chỉ việc hỏi, nó lên hay nó xuống – thay vì cố gắng đọc cho được một làn sóng uốn lượn. Điều này giải thích tại sao những bản sao kỹ thuật số có độ sắc nét hơn và vì sao những gì được truyền qua hệ thống mã hóa 1 và 0 từ miệng của bạn, từ máy fax hay từ máy tính sang đến bên kia được, giải mã nguyên vẹn. Nhưng giả sử bạn là người lắm lời. Và bạn chăm chú nói chuyện mải mê với người bạn ở Bangkok. Vậy là sẽ có nhiều bộ mã số 1 và 0 cần được truyền tải. Phép mầu nhiệm của công nghệ mới cho phép “nén” các tập hợp 1 và 0. (Máy vi tính của bạn sẽ thể hiện 8 x 1 hay 8 x 0, thay vì 11111111 hay 00000000.) Giờ đây ta có giọng nói của bạn được nén lại thành những gói bits. Đã đến lúc phải truyền tải chúng. Ta có thể dùng nhiều cách. Đơn giản nhất là phóng ra một dòng điện, theo quy chế 1 vôn cho 1, và hai vôn cho 0. Hay ta truyền chúng qua đường cáp quang, dùng thiết bị có chức năng phát ra những luồng ánh sáng: một luồng ánh sáng đại diện cho 1, tắt đi đại diện cho 0. (Một đĩa CD đơn giản là một đĩa nhựa bọc màn nhôm. Người ta đục một lỗ trên đĩa để thể hiện 1 và chừa phần còn lại, phẳng để thể hiện 0. Máy chạy đĩa CD sẽ chiếu một tia la de vào từng rãnh của chiếc đĩa đọc những tập hợp 1 và 0, rồi chuyển hóa chúng lại thành những âm thanh đẹp đẽ vốn có khi được ghi ban đầu.) Hay chúng ta có thể dùng sóng radio, sóng cao cho số 1 và sóng thấp cho số 0. Dùng phương tiện gì đi nữa, công nghệ kỹ thuật số giúp cho chúng ta có những bản sao hoàn hảo. Quay trở lại cuộc nói chuyện giữa bạn và người bạn ở Bangkok, giọng của bạn được chuyển thành những tín hiệu truyền bằng ánh sáng qua hệ thống cáp quang, khi sang đến Bangkok, tín hiệu được giải mã từ những 1 và 0, quay trở lại những âm thanh, tiếng người tác động vào cuộn cảm ứng trong ống nghe của người bạn Bangkok. Khi cuộn cảm ứng được tác động, tạo điện trường, lay động tấm màng chắn, tác động vào áp suất không khí biến thành giọng nói hồn nhiên của bạn. Thật mầu nhiệm! Giống như ly cà phê của Negroponte vậy. Khi nói về quá trình vi tính hóa, kỹ nghệ thu nhỏ thiết bị, viễn thông và số hóa đã tạo ra quá trình dân chủ hóa công nghệ, ý tôi muốn nói tới việc chúng giúp cho hàng trăm triệu người trên thế giới liên hệ với nhau để trao đổi thông tin, kiến thức, tiền bạc, ảnh gia đình, giao dịch tài chính, âm nhạc và các chương trình truyền hình bằng những cung cách trước đây chưa từng có. Ngày trước, nếu bạn sống ở New York, con của bạn sống ở Australia vừa sinh cháu bé. Thường trong trường hợp đó con của bạn sẽ phải đi mua một máy ảnh, mua phim, chụp ảnh cháu bé, rửa ảnh, cho ảnh vào phong bì thư, dán tem và gửi cho bạn. Nếu may mắn bạn có thể được xem hình của cháu sau đó mười ngày. Giờ đây chuyện đó không còn cần thiết nữa. Con của bạn sẽ chụp ảnh cháu bé bằng máy ảnh kỹ thuật số, lưu ảnh vào đĩa mềm, sửa ảnh trên máy vi tính và gửi ảnh cho bạn qua Internet – mọi thứ khi cháu bé chưa đầy mười giờ tuổi. Cựu Chủ tịch Hãng Truyền hình NBC Lawrence Grossman tóm tắt gọn gàng quá trình dân chủ hóa công nghệ như thế này: “In ấn biến chúng ta thành độc giả. Photocopy biến chúng ta thành những nhà xuất bản. Truyền hình biến chúng ta thành khán giả. Và công nghệ số hóa cho phép chúng ta trở thành các hãng truyền thông”. Quan sát của Grossman làm nổi bật một nhân tố khiến cho toàn cầu hóa thời nay khác hẳn với các thời đại trước đây. Nói đơn giản, công cuộc dân chủ hóa công nghệ đã cho phép “toàn cầu hóa sản xuất”. Ngày nay, ai cũng có thể trở thành một nhà sản xuất. Toàn cầu hóa thời nay không còn cho thấy việc các nước đang phát triển vận chuyển nguyên liệu thô sang các nước phát triển, để những nước này tinh chế thành thành phẩm, rồi lại chở chúng quay lại. Ngày nay, nhờ có dân chủ hóa công nghệ, nhiều quốc gia khác nhau đã có cơ hội tự quy tụ công nghệ mới, nguyên liệu và vốn, để phát triển trở thành các nhà sản xuất hay nhận hợp đồng gia công những sản phẩm hay dịch vụ với độ phức tạp cao – thêm một yếu tố gắn bó các quốc gia trên thế giới với nhau. Tôi sẽ bàn thêm sau về yếu tố này. Có thể nói dân chủ hóa công nghệ đã giúp cho Thái Lan, trong vòng mười lăm năm, từ một đất nước trồng lúa, thu nhập thấp trở thành quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về công nghệ sản xuất xe vận tải, cạnh tranh với Detroit, và là nước đứng thứ tư trên thế giới trong việc sản xuất xe gắn máy. Dân chủ hóa công nghệ không chỉ đơn thuần áp dụng cho xe hơi và xe gắn máy. Như Teera Phutrakal, một nhà quản lý quỹ hỗ tương ở Bangkok có lần nói với tôi: “Tại quỹ của chúng tôi, chúng tôi không việc gì phải tự sáng chế chiếc bánh xe, chúng tôi nhập khẩu nó. Một vài trong số những công nghệ chúng tôi nhập rẻ gấp mười lần so với giá của công ty mẹ phải thanh toán. Chẳng hạn, hệ thống liên lạc hồi âm tự động cho khách hàng, khi khách hàng gọi vào, bấm số 1 để tìm hiểu giá trị tài sản của quỹ, bấm 2 để nghe giá chào, và bấm 3 để ra lệnh bán. Nếu bạn muốn mua hay chuộc lại các cổ phiếu, bạn có thể thực hiện giao dịch qua hệ thống điện thoại. Toàn bộ thiết bị và linh kiện chúng tôi nhập có giá rất rẻ. Chúng tôi chỉ cần chờ người khác cải tiến chúng ở nước khác. Đây là vẻ đẹp thực chất của toàn cầu hóa. Chúng tôi là những nhà sản xuất địa phương, có kiến thức địa phương, nhưng nay chúng tôi được trang bị công nghệ ở tầm toàn cầu”. Dân chủ hóa công nghệ đồng thời có nghĩa là tiềm năng làm giàu sẽ được san sẻ theo vị trí địa lý. Chúng giúp cho nhiều sắc dân ở nhiều vùng sâu vùng xa những cơ hội để họ tiếp cận và áp dụng kiến thức. Tại Kuala Lumpur, tôi gặp một nữ thương gia người Hoa gốc Hồng Kông, chị kể với tôi có một lần gọi vào một số điện thoại Hồng Kông để gặp dịch vụ trợ giúp kỹ thuật cho khách hàng của hãng vi tính Dell, và gặp một nhân viên nói rất sõi tiếng Quan thoại. Chị thương gia này nói với nhân viên là ở trung tâm Hồng Kông hôm đó mưa nhiều và hỏi rằng có mưa ở gần văn phòng Dell hay không. Nhân viên này nói ở vùng văn phòng Dell không mưa, vì văn phòng này thực ra nằm ở Penang, Malaysia, cách Hồng Kông hàng vạn dặm. Nhân viên đó là người Hoa gốc Malaysia, làm việc cho Dell Hồng Kông trong khi sống ở Penang, Malaysia. Đó là thành quả của dân chủ hóa công nghệ. Ấn Độ cũng đang nhanh chóng trở thành một văn phòng cho toàn thế giới. (Theo tờ The Economist, số 18/9/1999, các tổng đài viên Ấn Độ đóng ở Ấn Độ nhưng lại phục vụ cho khách hàng của tập đoàn GE Capital. Một ngày nào đó họ có thể gọi khách hàng ở bang Texas, chất vấn vì sao khách hàng chậm trả tiền vào thẻ tín dụng. Nhưng tôi không cảm thấy thoải mái khi nghe những nhân viên người Ấn lại quay ra “thay tên của họ bằng tên lối phương Tây và bắt chước phương ngữ tiếng Anh từ những vùng của khách hàng họ phục vụ”.) Hàng không Thụy Sĩ đã chuyển toàn bộ các văn phòng kế toán của họ, bao gồm các máy tính từ địa bàn Thụy Sĩ đắt đỏ sang Ấn Độ rẻ hơn nhiều, để tận dụng nhân công lương thấp trong các khâu thư ký, lập chương trình và kế toán. Nhờ có kỹ thuật số hóa và nối mạng vi tính, những công việc như vậy có thể được thực hiện ở mọi nơi, những nơi có số đông các sinh viên tốt nghiệp các trường Anh ngữ. Đó có lẽ là cơ hội cho Ấn Độ, Pakistan, Philippines, Nam Phi và các cộng đồng nói tiếng Anh khác trên khắp các nước đang phát triển. Dịch vụ mạng quốc tế của hàng không Anh British Airways đóng ở Mumbai, Ấn Độ có chức năng phụ trách hồ sơ của lượng khách đi lại thường xuyên. Selectronic, một công ty điện toán ở Delhi nhận các chỉ dẫn được ghi âm từ các bác sĩ đóng tại Hoa Kỳ thông qua đường dây miễn phí, ghi chúng lại và gửi nội dung bằng văn bản đến một tổ chức chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ. Tờ Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông số ngày 2/9/1999 cho biết công ty American Online (AOL) hiện có sáu trăm nhân viên phục vụ khách hàng người Philippines đóng tại Manila để mỗi ngày trả lời từ 10.000-12.000 cú điện thoại của khách hàng nhờ chỉ dẫn và thanh toán. Khách thường gọi từ Hoa Kỳ, chiếm khoảng tám mươi phần trăm số người dùng email của AOL. Chi nhánh của AOL tại Philippines trong năm 1999 trả cho các nhân viên địa phương có trình độ đại học khoảng năm phẩy năm đô-la mỗi ngày, tờ tạp chí viết tiếp, vị chi là ba mươi lăm phần trăm cao hơn mức lương tối thiểu ở đất nước này, nhưng chỉ bằng lương của một công nhân thiếu tay nghề ở Mỹ làm việc trong một giờ. Mức lương như vậy là thấp, nhưng đó là khởi điểm để tiến tới một thế hệ người Philippines vươn tới một “Thế giới đi nhanh”, và bạn có thể đánh cuộc rằng những nhân viên có năng khiếu trong số đó một ngày nào, sẽ ra đi và mở một công ty vi tính, gọi là POL chẳng hạn, để cạnh tranh với AOL. Sự lan tràn nhanh chóng công nghệ phục vụ khách hàng và liên lạc qua vi tính có thể là nền tảng cho sự tăng tốc sắp tới ở châu Á. Nhưng để tham gia, những nước như Thái Lan, một nước đã lọt vào trò chơi toàn cầu bằng cách mời chào các dây chuyền sản xuất giá thành thấp, sẽ phải nâng cấp giáo dục và dạy nghề trong dân chúng để họ có thể cạnh tranh và chiếm lĩnh các dịch vụ và việc làm liên quan đến viễn thông và vi tính. Một lần tôi ngồi trầm ngâm với Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng vi tính của công ty Sun Microsystem, bàn về vấn đề: khả năng quá trình dân chủ hóa công nghệ và phương tiện sản xuất như hiện nay rồi sẽ đi đến đâu? Càng nghĩ chúng tôi càng thấy điên rồ. “Giờ đây chúng ta có thể dùng mạng điện toán để cung cấp các dịch vụ mà trước đây chưa từng được trao đổi, thông qua Internet, vậy tại sao chúng ta không outsource chính phủ của chúng ta luôn nhỉ?” Baehr đặt câu hỏi. Hãy nghĩ mà xem – hãy giao việc điều hành lính biệt kích và vệ sĩ cho người Nga. Bạn có thể để cho người Ấn Độ làm kế toán giữ sổ sách cho bạn và người Thụy Sĩ hãy làm công việc phục vụ khách hàng. Bạn hãy giao nhà băng trung ương cho người Đức. Người Ý chịu trách nhiệm thiết kế mẫu giày dép của bạn. Người Anh quản lý các trường trung học. Người Nhật có thể phụ trách tiểu học và lái tàu hỏa cho bạn… Dân chủ hóa tài chính. Dân chủ hóa công nghệ chắc chắn tăng cường cho sự thay đổi quan trọng thứ hai đang điều hành toàn cầu hóa, đó là sự thay đổi trong cung cách chúng ta đầu tư. Tôi xin gọi đó là “Dân chủ hóa tài chính”. Nhiều năm trong thời Hậu Chiến tranh Lạnh các khoản cho vay lớn ở nội địa cũng như quốc tế được các ngân hàng thương mại và đầu tư và các công ty bảo hiểm lớn đảm nhiệm. Những định chế sang trọng đó bao giờ cũng muốn giao tiền cho các công ty có hoạt động ổn định và tài chính lành mạnh và được xếp hạng “đáng đầu tư”. Điều đó khiến cho việc cho vay rất mất dân chủ. Ngân hàng làm ăn theo lối cổ điển thường duy trì khái niệm hạn hẹp về việc ai là người đáng cho mượn tiền. Và nếu bạn là người mới vào cuộc, muốn vay tiền thì điều đó có nghĩa bạn phải có một “tay trong” trong các ngân hàng hay một công ty bảo hiểm nào đó. Những định chế tài chính thường là do các giám đốc quản trị và những ban quản trị có bản chất trì trệ nắm giữ. Những người đó không thích rủi ro và không quyết đoán khi ứng phó với các thay đổi trên thị trường. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 4: Phần 2 Dân chủ hóa tài chính thực ra bắt đầu từ cuối thập niên 1960 với sự ra đời của thị trường “thương phiếu.” Đó là những trái phiếu mà các tập đoàn công ty phát hành ra công chúng để thu hút vốn. Sự ra đời của thị trường trái phiếu làm nảy sinh một số yếu tố đa nguyên trong thế giới tài chính và xóa bỏ sự độc quyền của các nhà băng. Tiếp đó, vào thập niên 1970, xuất hiện khái niệm “thế chấp” để cho phép dân chúng vay tiền mua nhà trả dần. Các ngân hàng đầu tư khi đó bắt đầu đến tiếp xúc với các nhà băng và các công ty tài chính chuyên trách việc cho vay để phục vụ khách hàng mua địa ốc. Họ mua lại toàn bộ các khoản cho vay, chia chúng thành các trái phiếu giá một nghìn đô-la mỗi phiếu và mời những người dân thường như bạn và tôi và bà cô của bạn đóng tiền để mua. Chúng ta có cơ hội để hưởng chút ít lãi suất từ loại trái phiếu khá là an toàn này, khi mà lãi suất và vốn ban đầu cho bạn sẽ được cách khách hàng vay tiền mua nhà trang trải hàng tháng. Chứng khoán hóa trên thực tế đã giúp cho rất nhiều công ty và cá nhân tiếp cận được mức tài chính cho phép họ đầu tư hay làm ăn. Tuy nhiên thập niên 1980 mới là lúc dân chủ hóa tài chính bùng nổ. Người đạp đổ rào cản cuối cùng chính là ông vua trái phiếu Michael Milken, một con người thông minh, lanh lợi và cũng hư hỏng nặng nề. Milken, tốt nghiệp Trường Thương mại và Tài chính Wharton, Đại học Pennsylvania, lúc đầu làm việc cho hãng môi giới chứng khoán Drexel ở Philadelphia năm 1970. Thời gian đó không thấy các ngân hàng hay định chế tài chính nào đếm xỉa tới việc mua các “trái phiếu rẻ mạt”, do các công ty hết thời làm ăn hoặc các thương vụ thiếu kinh nghiệm bỡ ngỡ bước vào đời phát hành. Milken cho rằng, các ngân hàng lớn như vậy thật là ngu. Anh ta thực hiện một số tính toán riêng; tham khảo một số nghiên cứu không mấy nổi tiếng về chủ đề trái phiếu rẻ mạt và kế luận như sau: Những công ty không được xếp hạng “đáng đầu tư ”, nếu vay được tiền thì thường phải chịu mức lãi từ ba đến mười phần trăm cao hơn mức thông lệ. Nhưng trên thực tế, nếu so sánh với các công ty làm ăn ổn định (được xếp hạng – blue chip) mà trái phiếu ít sinh lời thì tỷ lệ phá sản của các công ty tầm tầm này chỉ cao hơn chút ít. Chính vì thế, cái gọi là trái phiếu rẻ mạt tạo một khả năng kiếm tiền cao trong khi mức rủi ro lại cũng không mấy cao hơn. Và nếu bạn dồn nhiều loại trái phiếu tầm tầm này vào cùng một quỹ đầu tư, thì dù một vài trong số chúng có đổ bể, không thanh toán được, thì phần còn lại vẫn sẽ sinh lãi cho bạn ở mức ba đến bốn phần trăm cao hơn lãi suất của trái phiếu các công ty được xếp hạng, và hầu như mức rủi ro không tăng. Tạp chí Business Week số tháng 3/1995 cho biết: Milken được trang bị bằng vốn hiểu biết nói trên, “thực hiện một sứ mệnh khó khăn, đó là thuyết phục cho được thế giới toàn những kẻ hoài nghi rằng anh ta tìm ra được một phương pháp đầu tư mới ngon ăn”. Do việc các nhà băng và các công ty đầu tư truyền thống có thái độ hoài nghi và tiếp tục lảng tránh thương vụ mới này, Milken nhanh chóng chuyển từ việc kinh doanh duy nhất trái phiếu các công ty bị tụt hạng, sang cuộc bao mua trái phiếu của hàng loạt các công ty thuộc loại “có vết” – công ty có độ rủi ro cao, công ty bị khánh tận, công ty mới nhập cuộc, những doanh nhân và cách hãng mới thành lập hiện chưa vay được tiền từ các ngân hàng lớn, và thậm chí các công ty tài chính “cướp biển” muốn sáp nhập công ty khác nhưng lại không có tiềm lực tài chính. Khi mua xong, Milken bán những trái phiếu của các công ty đó cho các quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng và cá nhân các nhà đầu tư. Những người này nhận ra rằng Milken đã có quyết định đúng đắn khi làm như vậy – mức thu nhập cao hơn trong khi rủi ro không mấy cao hơn. Điều đó giúp cho bạn, cùng tôi và cùng người cô của bạn mua trái phiếu, đầu tư, và tài trợ được các thương vụ mới mẻ, nhiều bên cùng có lợi. Rất nhiều những thương vụ kiểu đó đã tạo nên những chấn động đối với các công ty và công nhân của họ. Tuy nhiên, không bao lâu sau đó, linh cảm của Milken được nhân đại trà. Một làn sóng trái phiếu rẻ mạt xuất hiện, trở thành ngành công nghiệp bán trái phiếu có mức lãi cao, động viên được tiền nhàn rỗi trong dân chúng. Một chu trình dân chủ hóa tài chính quốc tế tương tự cũng xuất hiện trong giai đoạn này. Qua nhiều thập niên các nhà băng lớn chuyển những khoản tiền khổng lồ cho các chính phủ và tập đoàn ngoại quốc vay mà chỉ ghi giá trị các khoản vay trên sổ sách ở mức gốc. Có nghĩa là nếu nhà băng của bạn cho một nước hay một công ty vay mười triệu đô-la, thì trên sổ sách chỉ ghi lại khoản tiền vay phải trả là mười triệu đô-la, chứ không có gì xác nhận là đất nước đó hay công ty đó có tài sản gì trị giá mười triệu đô-la để cho bạn xiết nợ, nếu họ không thanh toán đầy đủ. Trong trường hợp nhà băng cho vay trực tiếp và chỉ ghi lại khoản nợ, thì khi một đất nước-con nợ như Mexico chẳng hạn gặp khó khăn tài chính, như thời năm 1982, do họ vay tiền nước ngoài để tăng tiêu dùng trong nước cho dân chúng thì nhà băng sẽ chịu nhiều bất trắc. Tổng thống Mexico có thể đã bay sang New York, quy tụ hơn hai mươi ngân hàng lớn đã cho đất nước của ông vay tiền và tuyên bố như sau: “Thưa các quý vị, chúng tôi đã bị khánh tận. Và quý vị có biết câu ngạn ngữ này không: nếu một người vay của bạn một nghìn đô-la thì đó là vấn đề của anh ta. Nhưng nếu một người vay bạn mười triệu đô-la, thì đó là vấn nạn của bạn. Vâng, chúng tôi chính là vấn nạn của quý vị. Chúng tôi không thể thanh toán cho quý vị được. Vậy xin quý vị làm ơn đàm phán lại, thay đổi hạn định thanh toán và tiếp tục cấp thêm tín dụng cho chúng tôi”. Và chủ các ngân hàng không còn cách gì hơn là gật đầu chấp nhận, bàn lại một vài phương thức gia hạn tín dụng (thông thường với mức lãi suất cao hơn). Liệu các chủ nhà băng có lựa chọn nào khác không? Mexico chính là chuyện của họ, và các chủ nhà băng không đời nào lại quay lại giải thích cho các cổ đông của họ là tài sản thế chấp cho khoản vay mười triệu đô-la của Mexico là số không. Tốt nhất là họ hẳn cứ tiếp tục cáng đáng gánh nặng Mexico. Và hai mươi ngân hàng cùng ra tay chung sức để quản trị khoản vay này và tiếp tục ngồi lại với nhau để bàn phương cách giải quyết. John Page, thời đó là một nhà kinh tế làm việc trong Phòng Mỹ La tinh của Ngân hàng Thế giới, đã giải thích cho tôi chính xác về quy trình giải quyết vấn đề Mexico. Là người nói được tiếng Tây Ban Nha, Page đã vào Mexico năm 1982 và gặp José Angel Gurria, Cục trưởng phụ trách tín dụng công của Bộ Tài chính nước này. Gurria là một con người huyền thoại trong việc thuyết phục các ngân hàng – từ những ngân hàng lớn ở New York cho tới các ngân hàng nhỏ hơn ở bang Texas, miền Tây nước Mỹ – về việc gia hạn tín dụng cho Mexico. “Một hôm, tôi ngồi trong văn phòng của Gurria, nói chuyện với ông ta bằng tiếng Tây Ban Nha, thì điện thoại reo”, Page nhớ lại. “Đó là Chủ tịch một ngân hàng ở Texas, người bị Gurria thuyết phục trợ giúp tài chính cho Mexico. Ông ta hơi hoang mang khi nghe tin kinh tế Mexico có trục trặc. Đang nói chuyện với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha như thế, mà Gurria chuyển ngay sang nói tiếng Anh thật là sõi. Gurria nói: “Ê, Joe, may mà anh gọi điện… Không, không, đừng lo. Mọi thứ dưới này ngon lành. Tiền của ông rất an toàn. Gia đình độ này thế nào?… Hay lắm. Con gái làm ăn ra sao rồi? Con bé vẫn đi học à?… Rất hay là đã nói chuyện được với bạn. Cứ gọi tôi lúc nào cũng được. Giữ liên lạc nhé!’ Sau đó, rất tự nhiên, Gurria quay lại nói chuyện với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha. Như vậy, trong ba mươi giây đồng hồ, ông ta đã giải quyết cả một vấn đề với một nhà đầu tư quan trọng”. Nhưng có một điều nực cười đã xảy ra trên con đường toàn cầu hóa. Thị trường các khoản nợ quốc tế được “chứng khoán hóa”, tựa như trường hợp các công ty và mối lái của Milken. Khi châu Mỹ La tinh lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ nần nữa hồi cuối thập niên 1980, Bộ trưởng Tài chính Mỹ lúc đó là Nicholas Brady đã ứng dụng công thức Milken. Năm 1989, những khoản nợ của Mỹ La tinh được chuyển đổi thành các trái phiếu được chính phủ Mỹ đảm bảo. Những trái phiếu đó sau đó được các nhà băng giữ lại làm tài sản, hay bán ra cho công chúng, cho các quỹ hỗ tương và các quỹ hưu bổng với mức lãi suất cao hơn thông lệ. Như vậy, bỗng nhiên, tôi, bạn và bà cô được mua một phần nợ của Mexico, Brazil hay của Argentina – hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các quỹ hưu bổng. Những trái phiếu như vậy được mua bán hàng ngày, với giá trị lên hay xuống, tùy thuộc vào mức lên xuống trong kinh tế mỗi nước. Tiền không còn đóng băng trên sổ sách như trước. Joel Korn, người đứng đầu chi nhánh Bank of America tại Brazil nhận xét: “Những gì Brady làm thực sự là một cuộc cách mạng. Thời trước ông ta, Bộ Tài chính Hoa Kỳ chỉ có gây sức ép, buộc các ngân hàng và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đổ tiền tới tấp vào các nước Mỹ La tinh. Điều Brady đã làm là đưa ra một giải pháp dựa vào thị trường. Các ngân hàng được chính phủ Mỹ bảo đảm để tiếp tục gia hạn tín dụng cho các nước Mỹ La tinh, với điều kiện những nước này phải cải tổ kinh tế. Sau khi gia hạn tín dụng, thay vì ôm trọn cách khoản nợ trong sổ sách của họ, các nhà băng phân phối chúng lại thành các khoản trái phiếu được chính phủ bảo đảm và bán ra cho dân chúng. Như vậy sân chơi đã được mở rộng cho hàng ngàn tay chơi non trẻ mới mẻ. Đối với con nợ, thay vì phải đối phó với một ủy ban của nhóm hai mươi ngân hàng lớn nọ, họ phải chịu trách nhiệm trước hàng ngàn các nhà đầu tư tư nhân và các quỹ đầu tư. Điều này đã mở rộng được thị trường, khiến cho nó uyển chuyển hơn và đồng thời tăng thêm vô khối sức ép lên các quốc gia mang công nợ. Dân chúng mua và bán trái phiếu hàng ngày, tùy thuộc vào mức giá trị của chúng lên xuống. Và cũng hàng ngày, người ta xếp hạng các loại chứng khoán đó. Và những người mua, bán và xếp hạng chứng khoán là những người nước ngoài, nằm ngoài vòng ảnh hưởng của Barzil, Mexico và Argentina”. Những người sở hữu trái phiếu không như những nhà băng. Họ không việc gì phải tiếp tục chu cấp cho con nợ để đảm bảo các khoản vay trước đó. Ngược lại, nếu kinh tế của đất nước-con nợ trì trệ, trái phiếu sẽ mất giá, chủ trái phiếu sẽ bán trái phiếu ra, nói lời vĩnh biệt, và mang tiền đầu tư vào trái phiếu của những đất nước làm ăn tốt hơn. Cho nên khi Mexico lâm vào khủng hoảng do lạm tiêu năm 1995, rất nhiều các chủ trái phiếu của Mexico đã bán tháo các trái phiếu của họ, khiến trái phiếu này sụt giá, và Gurria lúc đó không còn có thể kêu cứu tới hai mươi ngân hàng đảo nợ nữa. Khoản nợ của Mexico đã được dân chủ hóa vào tay nhiều người. Vậy Mexico đã phải kêu cứu Bộ Tài chính Mỹ. Và Chú Sam đã đặt điều kiện khắc nghiệt với Mexico, kết quả là nước này phải dành khoản dự trữ dầu lửa của họ làm vật thế chấp. Điều kiện lúc đó cho việc Hoa Kỳ ứng cứu đó là kinh tế Mexico phải được cải tổ và phát triển như kinh tế bang New Mexico của Hoa Kỳ. Ngay sau đó, hàng loạt các nền kinh tế đang trỗi dậy bắt đầu bán trái phiếu theo công thức Brady, thường tính bằng tiền đôla Mỹ. Ngày nay có mười sáu quốc gia phát hành trái phiếu kiểu Brady với tổng giá trị là một trăm năm mươi tỷ đô-la. Chuyện chính phủ phát hành công trái cho người nước ngoài thì không có gì mới. Chuyện này diễn ra đã nhiều năm. Nhưng điều đáng nói ở đây là việc các món công trái nay được phân phối rộng rãi vào tay các cá nhân, quỹ đầu tư và quỹ hưu bổng. Hồi đầu thế kỷ hai mươi, chỉ có các gia đình giàu có mới tham gia vào thị trường công trái. Giờ đây, quỹ hưu bổng của quận Cam [California], hay người gác trường, thậm chí bạn và tôi và bà cô của bạn cũng có thể tham gia mua bán công trái. Đó là hiện tượng dân chủ hóa trong việc cho vay tín dụng, và tại Hoa Kỳ, nó trùng hợp với quá trình dân chủ hóa trong quy chế đầu tư. Điều này có xuất xứ từ cuộc cải cách quỹ hưu bổng và sự ra đời của các tài khoản hưu bổng cá nhân 401 (k). Hoa Kỳ đang chuyển mình từ một đất nước trong đó các công ty đảm bảo hưu bổng cho nhân viên thông qua một hệ thống “các lợi tức cố định”, sang một chế độ trong đó, các công ty chỉ đảm bảo “sẽ đóng góp” cho hưu bổng của nhân viên. Trong trường hợp đó, nhân viên có quyền hoán chuyển, mua bán các khoản đầu tư cho hưu bổng, tái đầu tư theo ý muốn để có thể sinh lãi nhiều hơn. Con người ta thời nay sống lâu hơn, họ lo lắng rằng khi về hưu thì an sinh xã hội cho họ còn được bao nhiêu, họ sẽ quay sang sử dụng đồng tiền trong các quỹ hưu bổng và đầu tư một cách năng động hơn. Cha mẹ của quý vị có lẽ chả hiểu quỹ hưu bổng của họ sẽ được đầu tư vào đâu. Trong khi thời nay, công nhân được mời chào một loạt các hình thức đầu tư, giải thích đầy đủ mức lãi suất và rủi ro, và người lao động hoán chuyển đồng tiền của họ chẳng khác việc đặt tiền trong các vòng quay rulô trong sòng bạc, tăng đầu tư vào các loại quỹ làm ăn khấm khá và khiến cho các loại quỹ làm ăn tồi hơn đi đến chỗ khánh kiệt. Hãng môi giới chứng khoán trên Internet mang tên E*Trade đã tung ra một quảng cáo có thể minh họa cho quan điểm này. Quảng cáo bắt đầu bằng hình ảnh một anh chàng ngồi trong chiếc xe hơi mui trần, chiếc gậy đánh golf lộ ra ở băng ghế sau. Anh ta dừng xe bên vệ đường theo lệnh của cảnh sát. Thầy cớm bước lại và bắt đầu cuộc đối thoại sau đây: Cớm: “Chào ông”. Chàng trai: “Tôi hiểu rồi, hiểu rồi. Trình bằng lái và đăng ký xe phải không ạ”. Cớm: “Ôi, Kirk Brewer. Tôi những mong được nói chuyện với anh.” Chàng trai: “Nói chuyện với tôi?” Cớm: “Vâng, anh là quản trị viên của quỹ Large Cap”. Chàng trai (vênh váo): “Ồ, vâng”. Cớm: “Tôi thấy anh lọt vào danh sách mười quỹ hỗ tương hàng đầu”. Chàng trai: “Vâng”. Cớm: “Nhưng không phải là danh sách năm hãng hàng đầu.” Cảnh sát quay lại và nhìn vào các cây gậy đánh golf ở băng ghế sau của xe. Chàng trai có điệu bộ lo lắng: “Dạ… vâ… ng”. Cớm: “Hãy cất ngay những cây gậy đánh golf và quay lại đi làm việc đi”. Rồi sau đó có một giọng nói cất lên: “Hãy khiến cho các quản trị viên tài chính của bạn làm việc hăng say hơn. Đây là thời điểm các bạn tham gia Trung tâm Quỹ Hỗ tương E*Trade”. Sau đó quay lại hình ảnh viên cảnh sát, lúc này đang bốc chiếc túi đựng đồ chơi golf từ trong xe và bước đi. Thông điệp ở đây thật rõ ràng: ngay cả viên cảnh sát cũng thấu hiểu tiền hưu bổng của anh ta hoạt động như thế nào và có toàn quyền quyết định về việc sử dụng nó. Quá trình dân chủ hóa đầu tư cũng được tăng cường trên phạm vi quốc tế sau sự rạn vỡ hồi đầu thập niên 1970 của hệ thống kiểm soát chặt chẽ hối đoái và dịch chuyển các ngân khoản quốc tế. Hệ thống này còn được gọi là Bretton Wood, được thiết lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những điều sau đây có thể đã bị lãng quên, nhưng từ sau Thế chiến thứ hai cho tới những năm bảy mươi, giới đầu tư người Nhật, châu Âu hay Mexico rất khó mua cổ phiếu hay trái phiếu ở Hoa Kỳ. Và ngược lại dân Mỹ cũng không dễ gì mua chứng khoán tại những nước này vào thời đó. Nhưng ngay sau khi hệ thống tỷ giá ngoại hối cố định và kiểm soát dòng vốn bị rạn vỡ, các nước phát triển dần dần cho phép dân chủ hóa các thị trường vốn của họ, mở cửa cho các nhà tài chính nước ngoài, dần dần các nước đang phát triển cũng nhảy vào cuộc. Nhiều sản phẩm mới nhanh chóng xuất hiện trong các thị trường đầu tư: công trái Mexico, Li Băng, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Đức và Pháp. Bạn tùy thích, muốn chọn loại nào cũng được. Càng có nhiều cá nhân lưu hành vốn của họ trong các thị trường toàn cầu, thì càng có nhiều các nhà quản trị vốn năng động, đòi hỏi mức lợi nhuận càng cao. Các quỹ đầu tư cạnh tranh mạnh mẽ hơn để thu hút khách. Nhờ có quá trình dân chủ hóa tài chính như vậy, chúng ta đã chuyển từ một thế giới trong đó một số ít nhà băng nắm giữ những khoản nợ của các quốc gia, sang một thế giới ngày này trong đó nhiều ngân hàng, cá nhân, quỹ hưu bổng và quỹ đầu tư nắm giữ phần nhiều khoản nợ của các quốc gia. Điều quan trọng ở đây là tiền bán các trái phiếu rẻ mạt cũng thường được dùng để làm nảy sinh các vụ mua bán sáp nhập công ty tại Hoa Kỳ. Một lần nữa, những kẻ thấp cổ bé họng vốn dĩ không đủ khả năng tham gia vào các thương vụ béo bở như vậy, nay có dịp vào để mua bán thông qua các quỹ đầu tư và hưu bổng. Quá trình sáp nhập các công ty tạo sức ép đối với giám đốc các công ty, buộc họ phải làm việc nhiều hơn. Quá trình đó cũng làm nảy sinh trong những năm tám mươi công cuộc “giảm biên chế” khiến cho kinh tế Mỹ đỡ cồng kềnh và trở nên năng động hơn trước. Nó chuẩn bị cho nước Mỹ tham gia vào kỷ nguyên toàn cầu hóa nhanh hơn và sớm hơn so với các quốc gia khác trên thế giới. Nhiều công ty nhờ đó đã ăn ra làm nên, nhưng cũng có nhiều công ty khác chết nghoẻo cũng chính vì quá trình “giảm biên chế” này. Một trong những lý do chính khiến Nhật Bản vẫn còn những công ty hoạt động trì trệ chính là do hệ thống tài chính của nước này trong nhiều năm đã chưa được dân chủ hóa. Các ngân hàng lớn của Nhật thống lĩnh nền tài chính, khiến cho các thương vụ non trẻ không ngóc cổ lên được, không vay được tiền và không tham gia được vào cơ chế sáp nhập công ty. Vả lại nhà băng chỉ chu cấp cho các công ty lớn, có quan hệ lâu dài với họ, mà không cần đếm xỉa đến chuyện cạnh tranh hay khả năng rủi ro mới có thể nảy sinh từ những quan hệ như vậy. Bản sắc văn hóa của người Nhật cũng ít cho phép những vụ mua bán sáp nhập thương vụ, thêm nữa các ban quản trị ngân hàng có quan hệ hết sức gần gũi với bộ sậu lãnh đạo của các tập đoàn lớn. Thêm nữa, nhân công người Nhật không có quyền quyết định đối với quyền lợi hưu bổng của họ. Họ không được phép chuyển tiền hưu bổng của họ sang các thị trường khác; kết quả là công ty, quỹ đầu tư hay quỹ hưu bổng ở Nhật không phải chịu sức ép để làm việc năng động hơn. Đó là lý do khiến kinh tế của Nhật mang phong thái vương giả nhưng lại không hiệu quả. Điều đó cũng giải thích lý do đồng vốn bị phân bổ không hợp lý, tạo ra một loại bong bóng kinh tế hồi cuối thập niên tám mươi cũng như hàng ngàn hãng xưởng làm ăn không hiệu quả tiếp tục được phép tồn tại theo lối tầm gửi. Nhưng tình hình đó bắt đầu thay đổi từ đầu năm 2000, khi Nhật Bản mở rộng cánh cửa tài chính nội địa và các công ty của Hoa Kỳ bắt đầu dồn vốn vào đầu tư, ví dụ hãng GE Capital. Sự cạnh tranh từ nước ngoài đã buộc các ngân hàng Nhật Bản phải nghiêm túc hơn trong việc cho vay vốn, và buộc các công ty và nhà sản xuất của đất nước này phải làm ăn năng động hơn. Điều đó khiến việc sử dụng vốn trở nên hiệu quả hơn tại Nhật Bản, và vốn được chu cấp hợp lý hơn tới được tay các công ty non trẻ mới vào cuộc. Tiền không còn là thứ chỉ dành riêng cho mạng lưới các “tay chơi quen biết”. Tập đoàn tài chính GE Capital, chủ nhân của hãng tài chính Lake, đã cho mở các kiosk cho vay tự động khắp nơi trên đất Nhật Bản từ cuối những năm chín mươi. Bạn chỉ cần dừng xe, chìa bằng lái hoặc một loại chứng minh thư để có thể được kiểm tra mức khả tín, ký một hợp đồng và trong vòng một tiếng đồng hồ, bạn có thể được vay tiền. Dân chủ hóa tài chính là như thế đấy. Dân chủ hóa thông tin. John Burns là Trưởng phân xã tờ The New York Times tại New Delhi cuối những năm chín mươi. Tôi tình cờ đến thăm anh vào mùa hè năm 1998, lúc đó là trong thời gian World Cup, và Burns lúc nào cũng dán mắt vào màn hình TV xem đá bóng. Một buổi sáng Burns kể cho tôi câu chuyện này: “Chúng tôi cho lắp bốn ăng ten chảo trên nóc nhà, chi phí tờ Times phải chịu lên đến hàng ngàn đô-la mỗi năm. Cứ như là chúng tôi có trạm viễn thông chuyên dụng vậy. Thế nhưng tôi thật chán vì ngay cả khi có tới bốn “chảo” mà không thể bắt được kênh truyền hình Ấn Độ đang tường thuật World Cup. Hình như có điều gì liên quan tới thời tiết làm nhiễu sóng hay là vị trí ăng ten; người kỹ thuật viên làm chuyện đó thỉnh thoảng mới vác xác đến. Tôi đem chuyện này phàn nàn trong một bữa ăn sáng và Abdul Toheed, đầu bếp bảy mươi mốt tuổi, con người thời trẻ đã làm thợ đánh giày trong quân đội Anh tại Ấn Độ, nói với tôi: “Không hiểu anh phàn nàn về chuyện gì. Tôi dò được tất cả các kênh trên TV của tôi. Anh phí không biết bao nhiêu tiền vào mấy cái ăng ten vệ tinh của các anh. Đến chỗ tôi đi!” Ông ta và bà vợ sống ở nếp nhà nhỏ phía sau ngôi nhà của tôi. Thế là tôi sang, và thấy vợ ông đang nghe đài BBC. Tôi hỏi ông ta: ‘Bà nhà đang làm gì vậy? Bà ấy có nói được tiếng Anh đâu. Ông đáp: “Bà đang học”. Rồi ông ta đưa cho tôi cái điều khiển từ xa. Tôi sửng sốt khi dò từ kênh thứ nhất tới kênh hai mươi bảy. Ông ta có chương trình đến từ Trung Quốc, Pakistan, Australia, Ý, Pháp - toàn bộ như vậy mà ông chỉ phải trả một trăm năm mươi rupee một tháng (3.75 đô-la). Trong khi đó, với bốn ăng ten chảo, tôi chỉ được có mười bốn kênh. Đầu bếp của tôi đã nhờ một người bạn, buôn bán một hệ thống phát lậu truyền hình cáp quang, mắc một đường dây vào đằng sau nhà, một hành động phi pháp. Nhưng nó giúp ông tiếp xúc với hình ảnh của cả thế giới và vợ ông được học tiếng Anh, trong khi tôi vẫn tiếp tục phải vật lộn dò tìm kênh truyền hình Ấn Độ”. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 4: Phần 3 Câu chuyện của Burns minh họa sự thay đổi thứ ba khiến nảy sinh toàn cầu hóa – sự thay đổi trong cung cách ta quan sát thế giới. Tôi gọi đó là quá trình “dân chủ hóa thông tin”. Nhờ có các đĩa vệ tinh, Internet và truyền hình, chúng ta ngày này có thể nhìn và lắng nghe, xuyên qua hầu như tất cả các tấm màn chắn. Sự đột phá này bắt đầu bằng sự toàn cầu hóa truyền hình. Trong suốt thời Chiến tranh Lạnh, truyền hình và phát thanh là lĩnh vực bị hạn chế, vì công nghệ và phạm vi của hai ngành này còn bị giới hạn. Các chính phủ hoặc tự đứng ra điều khiển truyền thông hoặc có chính sách chi phối chặt chẽ ngành này. Tình hình này đã chấm dứt tại Hoa Kỳ khi ở đây xuất hiện truyền hình cáp, có khả năng truyền đồng thời nhiều kênh khác nhau. Sau đó, trong những năm tám mươi nhiều loại truyền hình đa hệ, nhiều kênh bắt đầu xuất hiện lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ có việc ngày càng nhiều trạm vệ tinh viễn thông được phóng vào không gian, và giá thành thuê kênh tiếp vận ngày càng giảm xuống. Nhưng cũng có những điều oái oăm: Chiến tranh Lạnh khiến cho cả Hoa Kỳ và Liên Xô chạy đua để sản xuất loại vệ tinh ngày càng nhỏ hơn, mạnh hơn và rẻ hơn, phóng chúng vào không gian để do thám lẫn nhau. Nhưng chính những công nghệ đó đã mở đường cho việc tiếp vận truyền hình được nhiều hơn và rẻ hơn, và chính điều đó khiến cho các bức tường sụp đổ nhanh hơn. Hồi đầu, chỉ có những trạm truyền hình cáp lớn mới có đủ khả năng dựng loại ăng ten chuyên dụng để nhận tín hiệu từ vệ tinh. Nay do có quá trình dân chủ hóa công nghệ, đặc biệt khả năng thu nhỏ thiết bị, mà hàng triệu người trên hành tinh có thể tiếp nhận các tín hiệu thông qua loại ăng ten nhỏ như cái chảo, lắp trên ban công nhà họ. Đột nhiên bao nhiêu hạn chế về truyền thông xưa nay biến mất; nảy sinh một lớp khán thính giả đông đảo mới cho ngành truyền thông. Một khi công nghệ số hóa được triển khai đại trà, thì thay vì năm kênh hay mười kênh, các hãng truyền thông có thể phân phối tới năm trăm kênh. Thêm vào đó, thông tin được dân chủ hóa do công nghệ “nén thông tin” phát triển, chẳng hạn việc xuất hiện các loại đĩa video kỹ thuật số: Đĩa DVD là loại CD, đường kính năm inch, có sức chứa cả một phim truyện, có âm thanh “vòm”, có phụ đề bằng nhiều ngôn ngữ và bạn có thể dùng để xem trong máy tính xách tay hay máy DVD thu nhỏ. Tôi nhớ lại lần sang vùng Vịnh vào cuối thập niên 1970, được thấy các viên chức hải quan sục sạo trong hành lý của du khách để kiểm soát và tìm những băng video văn hóa phẩm gây hại, gây hấn về chính trị chống lại đất nước của họ. Tôi thách họ tìm cho ra đĩa DVD trong hành lý của tôi bây giờ. Đã có sự lan tràn máy chiếu DVD tại Trung Quốc hồi cuối những năm chín mươi – song song với việc xuất hiện băng đĩa in ấn và phát hành lậu các bộ phim Hollywood cho hàng triệu hộ dân Trung Quốc, mà không phải đợi đến khi Hollywood cho trình chiếu chính thức để mua vé. Các loại máy ảnh, máy quay phim và máy đèn chiếu kỹ thuật số, loại không cần dùng phim nhựa, khiến ai ai cũng có thể trở thành nhà làm phim. Và không những làm được phim, bạn còn có thể truyền bá phim của bạn đi khắp thế giới thông qua Internet, với chi phí thấp. Quan trọng tương đương với công nghệ truyền hình cáp và viễn thông qua vệ tinh chính là Internet. Internet là trụ cột của quá trình dân chủ hóa thông tin: không có ai sở hữu Internet; Internet được phi tập trung hóa hoàn toàn; không ai có thể xóa bỏ Internet; và Internet có thể đến với từng nhà và từng con người trên hành tinh. Những tiến bộ của Internet chính là sản phẩm của sự phối hợp giữa các cá nhân – nhiều người trong số họ có khi chả bao giờ gặp nhau, nhưng họ hợp tác trong công việc trên mạng, đóng góp sáng kiến với nhau, nhiều khi miễn phí. Internet quan trọng không khác gì cuộc sống của chính chúng ta ngày nay, dẫu cho không mấy ai hiểu được ngọn ngành của Internet. Đó là một câu chuyện ly kỳ. Internet được phát minh khi Hoa Kỳ phản ứng lại sự kiện ngày 4/10/1957, khi Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik của họ vào quỹ đạo. Có trọng lượng một trăm tám mươi tư pounds và kích thước bằng một quả bóng rổ, vệ tinh Sputnik được chuyên chở bằng một tên lửa của Liên Xô. Sự kiện này khởi đầu không những chỉ kỷ nguyên không gian mà còn kỷ nguyên không gian ảo. Trong buổi họp báo ngày 9/10/1957, Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D Eisenhower được Merriman Smith, một nhà báo đã trở thành huyền thoại, chất vấn: “Nước Nga đã phóng một vệ tinh viễn thông. Họ cũng thông báo đã bắn thử một lửa đạn đạo vượt đại châu. Đó là những thứ mà đất nước ta chưa có. Tôi xin hỏi ngài, chúng ta sẽ làm gì để đối phó?” Vị Tổng thống đối phó bằng cách thiết lập một chương trình không gian để gấp rút theo kịp Liên Xô – trong đó, ông ta muốn có một tổ chức phụ trách chung các nghiên cứu và tên lửa và chiến lược không gian. Eisenhower đã thuyết phục được Quốc hội cho phép lập Cơ quan Nghiên cứu các Dự án Kỹ thuật cao – ARPA. Từ đó, các dự án tên lửa và hàng không dần dần được tách ra trở thành NASA, phần còn lại của ARPA sau này do Lầu Năm Góc phụ trách và trở thành cơ quan nghiên cứu và cải tiến công nghệ thông tin và vi tính. Công nghệ xử lý thông tin thời đó còn rất mới. Và như Stephen Segaller, tác giả cuốn sách Nerds 2.0.1: Tóm lược lịch sử Internet, chỉ ra, chính Văn phòng Xử lý Công nghệ Thông tin của ARPA, là cơ quan đầu tiên xây dựng nguyên mẫu đầu tiên của Internet và đặt những nền tảng đầu tiên cho mạng Internet thời nay. Nguyên mẫu Internet được trình làng vào năm 1969, mang tên ARPAnet – một mạng nội bộ thô sơ nối giữa Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và một số trường đại học và phòng thí nghiệm của chính phủ. Được Lầu Năm Góc tài trợ, ARPAnet giúp cho một nhóm các nhà nghiên cứu trao đổi ý kiến và thông số, họ tiết kiệm được thời gian dùng máy tính và phương tiện, thông qua mạng nội bộ này. Lúc đó máy tính còn yếu và thiếu thốn, qua mạng nội bộ, kỹ thuật viên ở trung tâm UCLA có thể chạy được các chương trình trên các máy tính đặt ở Cambridge, Massachusetts, và nhân viên ở những nơi đó trao đổi dữ liệu với nhau. “Cách đây ba mươi năm, ngày 29/10/1969, mẩu tin đầu tiên được truyền qua một mạng điện tử đơn sơ, tiền thân của Internet”, tin trên tờ New York Times ra ngày 12/10/1999 cho biết. “Mẩu tin này không “hoành tráng” như dòng chữ đầu tiên “Chúa an bài” xuất hiện trên băng điện báo khi kỹ thuật này điện tín ra đời năm 1844: mẩu tin chỉ vẻn vẹn là “login”. Lúc đó mạng ARPANET chỉ có hai điểm. Một sinh viên trường UCLA tên Charley Kline lúc đó đánh hai chữ “L” và “O”, và chữ này được truyền sang một máy tính cách văn phòng của anh ta ba trăm dặm về hướng tây bắc, tại Viện Nghiên cứu Stanford, tiền thân của khu Silicon Valey sau này” bài báo viết tiếp. Nhưng mãi đến năm 1972, những kỹ thuật viên Internet đầu tiên mới phát hiện ra email. Những máy tính thời đó cho phép lập những “hộp thư chết” trên máy: người nọ nhắn vào hộp thư của người kia trên cùng một máy. Một ngày kia, như Segaller kể lại, Ray Tomlinson, làm việc cho hãng máy tính Bolt, Beranek và Newman, viết một chương trình truyền các tệp hồ sơ đơn giản, truyền được các file từ một máy tính sang một máy khác, rồi khẳng định máy kia đã nhận được các file này. Sau này Tomlinson nói với Segaller, “Một khi ta truyền được file từ một máy tính sang một máy khác thì đương nhiên ta có thể viết và truyền các file này cho một vài máy khác, và gửi thư cho những người khác nhau. Lúc đó tình cờ tôi đang nghiên cứu một loại nhu liệu cho phép soạn thảo và truyền email, gọi là “gửi lời nhắn” (send message) – và thách thức lúc đó là kết hợp soạn thảo email và dùng nhu liệu truyền file từ máy tính này sang máy tính khác. Tôi thực hiện ngay… và đã thành công.” Nhiều người khác nghe được chuyện này, nhiều mạng máy tính khác cùng áp dụng và… alê, email ra đời. Theo Segaller, Tomlinson chính là người sáng tạo chữ @ [a còng] để phân biệt người viết mail và nơi làm việc hay địa chỉ của người này. Khi những nhà nghiên cứu thấy được công dụng của email, thì việc sử dụng chúng bùng phát ngay, các mạng xuất hiện và hàng loạt thể loại thông số khác nhau được truyền qua lại giữa các trường đại học, cơ quan chính phủ, công ty và các hãng nghiên cứu. Nhiều mạng điện toán khác ra đời, nhưng như Segaller cho biết, chúng chỉ cho phép các khách hàng liên hệ trong nội bộ mỗi mạng mà thôi, vì các mạng này không “nói chuyện” được với nhau. Cho đến khi hai nhà nghiên cứu Vint Cerf và Bob Kahn phát minh ra một thể thức, một loại ngôn ngữ lập trình, có thể làm các mạng “nói chuyện được với nhau”, khiến cho một “gói dữ liệu” rời khỏi một mạng, di chuyển và vào qua cổng một mạng khác, mà theo Segaller, được giới thiệu hồi năm 1973 là một thứ “mạng của mạng”, gọi tắt là Internet. Toàn bộ câu chuyện chưa được đại chúng biết đến cho mãi tới năm 1990. Năm đó, Tim Berners-Lee, một kỹ sư mạng điện toán người Anh đóng tại Geneva sáng tạo ra một công cụ, đơn giản và hầu như miễn phí để thu thập tin tức từ Internet – một thứ mang tên the World Wide Web. Theo Segaller, lúc đó có khoảng tám trăm mạng máy tính, nối tổng số một trăm sáu mươi nghìn máy tính trên thế giới hòa mạng Internet. Về mặt kỹ thuật thì số máy tính đó được nối với nhau, nhưng để vào tìm dữ liệu trữ trong các máy tính này là việc không dễ, vì lúc đó không có trung tâm thông tin, không có danh bạ địa chỉ và không có phần mềm quản lý thông tin. Phát minh của Berners-Lee, theo tờ The New York Times có lần viết, “là cho ra đời một nhu liệu tiêu chuẩn hóa cho việc đăng ký địa chỉ, nối và truyền các thông số và tài liệu trên Internet”. Những phát kiến của ông bao gồm Uniform Resource Locator URL – một hệ thống mã hóa để tìm và truy cập nội dung các trang mạng dù trang đó được hỗ trợ bằng bất kỳ máy chủ loại nào; nghi thức siêu văn bản (HTTP) – tạo đường truyền giữa trang mạng và máy tính của khách hàng; và sau cùng là ngôn ngữ siêu văn bản (HTML) – đây là hệ tiêu chuẩn chung để hình thành mỗi website và cách nó xuất hiện mỗi khi bạn nhấn chuột để “gọi”. URL, HTTP và HTML hình thành một hệ thống liên kết các mạng liên lạc, cho phép bạn nhấn chuột lên những dòng chữ, những hình ảnh trên màn máy tính để truy cập vào nhiều trang thông tin, dù chúng ở trên một máy chủ khác ở một nước khác. Đó là lý do tại sao người ta gọi đấy là World Wide Web vì bạn có thể theo một dòng liên kết đến bất kỳ nơi nào trên thế giới rồi quay trở về. Thời trước, cuốn sách bạn đang đọc cũng có thể được lưu trên một mạng điện toán, nhưng để đến với nó, bạn cần đi qua mê lộ các mạng khác nhau và ngay cả khi tìm ra nó, bạn cũng không tài nào đọc được vì máy tính của bạn không có chương trình thích hợp. Ngày nay bạn chỉ cần vào Internet, đánh địa chỉ www.lexusandtheolivetree.com hoặc nhấn chuột lên hình ảnh của cuốn sách trên trang amazon.com, World Wide Web sẽ dẫn bạn đến với cuốn sách. Tuy vậy, để phát triển trở thành phương tiện đại chúng cho nghiên cứu, thương mại và liên lạc, Internet cần thêm ba phát minh nữa – phần mềm truy cập [Web browser], công cụ tìm kiếm [search engine] và công nghệ mã hóa bảo mật cao [high-grade encryption technology] để người dùng có thể yên tâm cung cấp số thẻ tín dụng của họ cho trang Web để mua bán. Browser là một nhu liệu biến máy tính thành một thứ TV giúp cho ai cũng có thể trưng bày nội dung trang web của họ lên; khi bạn đánh vào khung địa chỉ www, hoặc nhấn chuột lên một hyperlink sẽ xuất hiện trên màn hình toàn bộ hình ảnh, nội dung của trang web. Dùng một browser cùng search engine, một em bé cũng có thể đánh những chữ cần thiết để truy cập vào nhiều trang thông tin tìm những thông tin cần thiết. Berners-Lee phát minh ra một thứ browser sơ cấp để khởi động world wide web. Sau đó Marc Andreessen, năm 1993, sáng tạo loại browser đại chúng đầu tiên mang tên Mosaic. Một năm sau Netscape Navigator ra đời có tính năng tinh vi hơn. Netscape cho phép sử dụng đại chúng hơn, đơn giản hơn, nhiều màu sắc hơn và độ tương tác cao hơn. Netscape ra đời trùng hợp với quyết định của Quốc hội Hoa Kỳ cho phép thương mại điện tử hoạt động; đồng thời việc giá của máy tính cá nhân và điện thoại giảm nhanh chóng. Kết hợp ba điều kiện đó dẫn đến sự bùng nổ của ứng dụng Internet và cuộc cách mạng dân chủ hóa thông tin. Kevin Maney tóm tắt cuộc cách mạng này trong bài viết trên tờ USA Today (9/8/1999): “Là một phát minh mang tính cải biến thế giới, Internet có nhiều yếu tố giống máy in ngày xưa. Nó khiến cho chi phí tạo dựng, truyền và lưu trữ thông tin sụt giảm hẳn và khiến thông tin gần gũi với con người ta hơn nhiều. Nó đánh gục độc quyền truyền thông. Hãy nhìn vào những thông tin về y tế trên web, những thứ mà từ trước đến nay chỉ có bác sĩ mới biết. Thông tin về xe hơi và giá cả của chúng không còn bị các tay buôn xe bưng bít... Hàng triệu người ngày nay có thể lên mạng để kể rõ từng chi tiết về cuộc sống của họ.” CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 4: Phần 4 Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới con người ta hiểu biết nhiều như ngày nay về số phận của đồng loại, về các loại sản phẩm và tri thức. Và giai đoạn tiếp theo trong thế kỷ hai mươi mốt đó là việc người ta được trang bị hệ thống viễn thông Internet băng thông rộng, tốc độ nhanh ngay tại nhà, văn phòng trên các máy tính cầm tay. Internet cao tốc cho phép truy cập suốt ngày đêm, tựa như TV lúc nào cũng bật, thông tin cập nhật hơn, đến nhanh hơn và chi tiết hơn. Từ chiếc máy tính xách tay đi trên đường, bạn có thể họp bàn, giao dịch với đồng nghiệp và khách hàng ở nhiều nơi khác. Internet cho phép bạn “tải xuống” phim, âm nhạc và video. Nó cho phép bạn đi chợ thương mại điện tử trong không gian ba chiều. Một quảng cáo hấp dẫn của công ty Internet Qwest hồi năm 1999 cho thấy một thương gia mệt mỏi và lấm láp đăng ký trọ ở một khách sạn ở một nơi hẻo lánh. Ông ta hỏi một người phục vụ buồn nản ở đó liệu khách sạn các dịch vụ tận buồng. Cô này đáp: “Vâng”. Và khi ông này hỏi thêm, thế TV trong buồng có gì hay? Thì cô này lên giọng dạy đời: “Buồng nào cũng có bất cứ phim gì từng sản xuất và bằng bất cứ thứ tiếng gì, giờ nào cũng có, ngày hay đêm…” Internet cao tốc là như thế đấy, mang phương tiện giải trí đến cả nơi khỉ ho cò gáy. Kết hợp toàn bộ các yếu tố dân chủ hóa thông tin ta thấy các chính phủ ngày nay không còn có thể bưng bít dân chúng của họ về những gì xảy ra bên ngoài lũy tre làng hay biên giới của đất nước. Thông tin về cuộc sống ở bên ngoài không còn bị bóp méo hay bôi xấu. Thông tin về cuộc sống trong nước không còn bị tô vẽ theo lối tuyên truyền. Nhờ quá trình dân chủ hóa thông tin, chúng ta càng thấu hiểu hơn cuộc sống của đồng loại – dù cho đất nước có nằm ở nơi nào xa xôi và cô lập. Mỗi khi bạn tạo dựng một bức tường dày hơn, cao hơn để lẩn trốn, bạn sẽ thấy có những công nghệ len lách hoặc vượt trên bức tường đó mang thông tin đến với bạn. Mỗi khi bạn vẽ một ranh giới trên cát để tự bao bọc, công nghệ sẽ tìm cách xóa nhòa ranh giới đó. Raul Valdes Vivo, Hiệu trưởng Trường Đảng của Cuba mang tên Nico Lopez, Havana giải thích rất hay về chuyện này trong cuộc phỏng vấn với báo National Geographic (6/1999). Khi được hỏi về những khó khăn mà đất nước Cuba gặp phải khi cố duy trì các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời áp dụng một số phương pháp của tư bản để tồn tại, ông ta nói vui: “Cuba không còn là một hòn đảo. Không có hòn đảo nào trên thế giới này nữa. Tất cả là một thế giới duy nhất”. Trong những năm tám mươi, ở Liên Xô, trên tờ Pravda, có tấm ảnh được chú thích là “dòng người chờ phát chẩn ở Hoa Kỳ”. Nhưng nhìn kỹ tấm hình thì ra đó là dòng người xếp hàng trước cửa hiệu bánh mỳ Zabar’s ở Manhattan vào một sáng thứ bẩy. Đừng có dở cái trò đó thời nay – thậm chí ở Trung Quốc! Một khi người ta có Internet. Điều khiến Internet trở nên nguy hiểm đối với các nhà nước độc tài, đó là các nhà nước này buộc phải cho phép nó tồn tại, vì nếu không họ sẽ bị thua thiệt về kinh tế. Nhưng nếu có Internet, họ sẽ không kiểm soát được thông tin như trước kia. Điều đe dọa hơn đối với một hệ thống như ở Trung Quốc đó là Internet cho phép người ta trao đổi tin tức sống động hàng ngày. Internet không phải là một thứ đài phát thanh, không đơn thuần là một thứ truyền hình để chỉ có thính hay khán giả. Trên Internet người ta trao và đổi, trò chuyện, thu thập tin tức và ý tưởng, mua và bán – làm tất cả những chuyện đó mà dường như không thể bị cấm đoán. Ngày 4/12/1998 Trung Quốc xử án một thương gia máy tính, người được coi là một nhân vật bất đồng chính kiến trên mạng, phân tán địa chỉ email của dân Trung Quốc cho một tờ báo điện tử tiếng Hoa quảng bá cho dân chủ. Tòa án Chung thẩm Nhân dân tại Thượng Hải đã tổ chức xử kín, buộc cho Lin Hai, thương gia nọ, tội phản loạn do đã cung cấp địa chỉ email của ba mươi nghìn người dân Trung Hoa sử dụng email cho VIP Reference, một tạp chí điện tử có trụ sở ở Hoa Kỳ. Tổng biên tập gốc Trung Hoa của VIP Reference nói với báo Los Angeles Times (4/1/1999) rằng: “Chúng tôi nguyện phá bỏ hệ thống kiểm duyệt của Trung Quốc nhằm vào Internet. Chúng tôi tin dân chúng Trung Hoa cũng như các dân tộc khác trên thế giới xứng đáng được quyền tiếp cận tri thức và tự do ngôn luận”. Tên của tạp chí này có lượng độc giả hai trăm năm mươi nghìn người qua email ở Trung Quốc cũng là cách chơi chữ. Các viên chức cao cấp Trung Quốc được cung cấp một bản tin vắn hàng ngày gồm những tin đích thực, đầu đề là “Bản tin tham khảo” (Reference News.) Và như tờ Los Angeles Times đăng, thì VIP Reference là tin tham khảo cho những yếu nhân Trung Hoa đích thực – đó chính là dân thường. Một chuyện tương tự diễn ra trong lĩnh vực tài chính. Một công ty Internet thành lập tại Chicago năm 1998 mang tên China Online, sử dụng các cộng tác viên tại Trung Quốc để thu thập tin thị trường và thời sự. Họ gửi tin sang Chicago, tin này được biên tập và truyền trở lại Trung Quốc qua Internet. Một trong những dịch vụ hàng ngày của China Online là bảng tỷ giá hối đoái chợ đen giữa Nhân dân tệ và đô-la Mỹ tại các thành phố lớn của Trung Quốc. Các cộng tác viên của China Online hàng ngày ra chợ trời, kiểm tra tỷ giá với các tay buôn ngoại tệ, gửi kết quả về Chicago. Đây là một dịch vụ rất hữu ích cho những ai làm ăn ở Trung Quốc, đặc biệt trong giới người Hoa. Đó là dịch vụ mà không bao giờ chính phủ Trung Quốc cung cấp cho dân chúng của họ, cũng như cho thế giới. Và Bắc Kinh không thể nào ngăn chặn được dịch vụ này. Nam Teheran, quận nghèo nhất của thủ đô của Iran, là nơi rất hiếm TV. Khi đến đây vào năm 1997, tôi thấy nhà nào có TV thường bày ghế ra và bán vé cho người xem nhờ mỗi khi có chương trình của Mỹ [qua vệ tinh]. Chương trình được hâm mộ nhất là Baywatch, một loại phim truyền hình sản xuất từ miền Nam California với phụ nữ mặc áo tắm hai mảnh và số đo cơ thể 91-60-91. Chính phủ Iran cấm ăng ten vệ tinh, nên mấy ông bạn tôi dấu chúng phía dưới dây phơi quần áo hay các bụi cây trên các ban công nhà họ. Nhờ có cuộc cách mạng thông tin và việc giảm chi phí điện thoại, fax, Internet, radio và các phương tiện thông tin khác, không còn bức tường vững chãi nào trên thế giới nữa. Một khi chúng ta biết thêm về đời sống của người khác thì một động lực chính trị mới đã xuất hiện. Khi một thảm họa diệt chủng xảy ra ở một nơi dù là heo hút trên thế giới, thì các nhà lãnh đạo đất nước chắc chắn phải biết, họ không thể nói: “không biết”, mà chỉ có thể quyết định không hành động. Khi có những phát kiến ở những nơi khấm khá hơn trên hành tinh, thì các nhà lãnh đạo không thể cấm dân chúng áp dụng và học hỏi chúng; họ chỉ có thể quyết định: làm ngơ và không giúp. Vậy một khi dân chúng biết nhiều hơn thì quý vị lãnh đạo trở nên có ít lựa chọn hơn. Nếu họ không nghe theo, không giúp dân, thì họ sẽ gặp trở ngại – một thứ trở ngại ngày càng trầm trọng. Trong vài năm nữa mỗi người dân trên thế giới sẽ có thể so sánh sản phẩm và cả chính phủ ở nơi họ đang sống và ở những đất nước khác. “Ngày nay không một đất nước nào có thể khóa kín bản thân, không tiếp xúc với truyền thông toàn cầu hoặc những nguồn tin từ bên ngoài; những khuynh hướng xuất hiện ở một nơi có thể được nhân đại trà ở nhiều nơi khác xa xôi”, đấy là nhận xét của Francis Fukuyama, tác giả cuốn sách Kết cục của lịch sử và con người cuối cùng. Ông nói tiếp “Một đất nước tự đứng bên ngoài nền kinh tế toàn cầu bằng cách tự tách mình khỏi hệ thống thương mại và dòng vốn quốc tế sẽ phải đối phó với một thực tế: kỳ vọng của người dân được định hình bởi sự hiểu biết của họ về mức sống và các sản phẩm văn hóa từ thế giới bên ngoài”. Thế đấy. Một vị tổng thống của một đất nước đang phát triển hôm nay có thể đến phát biểu trước dân chúng, “Thưa đồng bào, chúng tôi sẽ ngưng, không đi theo cái trào lưu toàn cầu hóa. Chúng tôi sẽ tạm thời dựng những hàng rào thuế quan và áp đặt kiểm soát đối với các dòng ngoại tệ đang ra vào nước ta. Chúng ta sẽ giảm được những đau thương và xáo động trong nền kinh tế của chúng ta, nhưng mức tăng trưởng sẽ chậm lại, vì chúng ta sẽ không còn tiếp cận được các khoản tiền nhàn rỗi từ nhiều nơi trên thế giới. Vì thế nếu quý vị nào chưa đạt được mức sống trung lưu, thì xin hãy chờ một thời gian”. Nghe thấy vậy một người dân ở ngoại thành sẽ lên tiếng: “Nhưng, thưa Tổng thống, tôi xem phim Baywatch đã được năm năm nay. Ý ông muốn nói là rồi đây sẽ không còn Baywatch cho tôi xem? Không còn Disney World? Không còn áo tắm hai mảnh?” Những chính phủ muốn trốn tránh toàn cầu hóa không những sẽ phải tìm ra những lựa chọn mới thích hợp, mà còn phải làm điều đó trong môi trường ai ai cũng hiểu biết và so sánh các loại mức sống. Các nhà nghiên cứu chính trị đánh giá rằng trong thời Chiến tranh Lạnh, thời của những bức tường, các nhà lãnh đạo thường khuyến khích dân chúng hãy so sánh đời họ với đời cha ông của họ. Lãnh đạo hay nói: “Các anh bây giờ sướng hơn đời bố, đúng không? Ok, thế thì im bớt đi nhé”. Nhưng ngày nay dân chúng không so sánh đời họ với đời cha ông của họ. Họ có thêm nhiều thông tin hơn. Giờ đây họ so sánh đời họ với đời sống của dân nước láng giềng, dân nơi khác. Vì họ có thể nhận biết qua truyền hình, vệ tinh, DVD và Internet. Giờ đây họ có thể thấy được phòng khách của kẻ thù tồi tệ nhất của họ mà một thời đã từng trốn tránh trong kín cổng cao tường. Laura Blumenfeld, cây viết cho tờ The Washington Post, từng sang Trung Đông tìm tư liệu viết một cuốn sách về sự trả thù. Chị sang Syria cùng bà mẹ vào mùa xuân năm 1998. Chị kể cho tôi câu chuyện, rằng: “Mẹ và tôi thuê một hướng dẫn viên để đi thăm thủ đô Damascus. Anh này tên là Walid. Lâu dần quen nhau, tôi nói chúng tôi từ Israel, anh ta nói chuyện thẳng thắn hơn. Anh kể anh thích ngồi trong văn phòng vào ban đêm xem TV Israel. Tôi tưởng tượng tay này ngồi ban đêm, dán mắt vào những hình ảnh về cuộc sống những con người mà anh ta căm ghét nhưng thích và ghen tị mức sống của họ. Anh nói trong tất cả mọi thứ trên TV Israel, chỉ có một thứ làm cho anh ta buồn lòng – quảng cáo về một loại sữa chua. Giống ở Hoa Kỳ, sữa chua Israel đựng trong hộp màu hồng và da cam, trong khi hộp ở Syria có màu trắng và đen. Anh ta thậm chí chỉ cho chúng tôi xem sữa chua bán trên đường phố. Anh nói: “Lúc cho vào sữa, loại ngô rang để ăn sáng, loại của chúng tôi ngấm nhanh lắm, mềm ra, trong khi cái loại của Israel [trong quảng cáo] thì vẫn cứng, vẫn giòn”. Chẳng phải [chiến sự ở] cao nguyên Golan, mà hộp đựng sữa chua hay loại ngô ăn sáng, chính là mối quan tâm của anh chàng này. Một ngày kia anh ta nói: “Thật không công bằng, chúng tôi lạc hậu so với người Israel một trăm năm vậy mà họ chỉ vừa mới đến lập nghiệp ở vùng này”. Dân chủ hóa thông tin cũng đang cải biến các thị trường tài chính. Các nhà đầu tư không những có thể tự mua bán cổ phần và trái phiếu trên toàn thế giới thậm chí chỉ ngồi nhà qua máy tính để mua bán, họ còn được các công ty Internet cung cấp hầu như miễn phí các thông tin và dự đoán tài chính qua mạng, không cần đến khâu môi giới. Càng nhiều người làm chuyện này, ngày càng có thêm nhu cầu thông tin và đánh giá chi tiết hơn về những nền kinh tế mới. Tiền di chuyển nhanh và trên phạm vi rộng hơn, từ những kẻ thất bại chậm chạp đến với những tay buôn thông thái linh hoạt. Charles Schwab, một công ty môi giới chứng khoán đăng một quảng cáo hồi cuối 1998 cho thấy một bà nội trợ khoe về cách buôn bán trên mạng của chị và cung cách thu thập tất cả các thông tin cần thiết từ trang mạng Schwab. Bà này, tên là Holly, nói trong mẩu quảng cáo: “Vài năm trước, người ta mời tôi nhập vào một nhóm đầu tư của phụ nữ mang tên Tăng tưởng ngay. Chúng tôi phải tính toán nhiều lắm. Rồi bàn bạc, biểu quyết và giao dịch. Quả thực tất cả những gì chúng tôi muốn biết đều đến từ trung tâm đánh giá của Schwab.com. Báo cáo ngành, thông tin về quản trị, dự báo doanh thu làm cơ sở cho những tính toán của chúng tôi. Chả bao lâu nữa ai cũng có thể đến tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán New York. Schwab cùng những E*Trade site khác đang quy tụ quá trình dân chủ hóa thông tin, công nghệ và tài chính vào một mối. Một quảng cáo E*Trade khác mà tôi cũng rất thích đã tóm tắt cả ba khuynh hướng dân chủ hóa vào cuối những năm 1990, khi những bức tường theo nhau sụp đổ. Quảng cáo này chiếm hai trang với hàng tít: “GIẤC MƠ CỦA GIỚI ĐẦU TƯ. CƠN ÁC MỘNG CỦA CÁC NHÀ MÔI GIỚI. Xin giới thiệu E*Trade mới. Trung tâm tài chính trên mạng - cơ chế một cửa. Mức độ nghiên cứu gấp mười lần. Nhiều công cụ tìm hiểu thông tin. Hiệu lực hơn. Bạn có thể đầu tư vào các chứng khoán, quyền tùy chọn và trên bốn nghìn quỹ khác nhau. Hãy tự thiết lập và kiểm soát tài khoản của bạn. Giao dịch 24/24 – qua mạng hoặc điện thoại - với giá chỉ 14,95 đô-la. Trợ giúp và đào tạo miễn phí, như công cụ đánh giá quỹ hỗ tương. Báo giá miễn phí trực tuyến – vì tin cũ chính là tin xấu. Nhận tin mới nhất. Bảng biểu. Đánh giá từ các nguồn hàng đầu. An toàn (thông tin) tuyệt đối... TẤT CẢ MIỄN PHÍ, 24/24. HÃY ĐẾN. ĐẾN MAU, ĐẾN BÂY GIỜ ĐI. RỒI ĐẾN LÚC MỌI NGƯỜI SẼ ĐẦU TƯ THEO CÁCH NÀY”. Tuy nhiên, chính câu kết quảng cáo này làm tôi thích nhất: “E*Trade, quyền lực giờ đây nằm trong tay bạn”. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 5: Phần 1 Giờ đây có người nói, “Vâng, thì những thay đổi trong cung cách người ta liên lạc, đầu tư và nhìn nhận thế giới, khiến toàn cầu hóa làm lợi cho những con người và xã hội phát triển, vậy đối với những con người và xã hội khác trên hành tinh thì sao? Tại sao cứ khăng khăng nói toàn cầu hóa trong khi đa số nhân loại vẫn sống trong các làng bản. Họ không có điện thoại, và chả bao giờ sờ được vào máy tính, nữa là gửi email?” Đúng là toàn cầu hóa chưa thực sự xuất hiện trên phạm vi toàn cầu. Còn lâu lắm mới đến lúc ai ai cũng lên mạng được (tuy vậy mỗi tuần có chừng ba trăm nghìn người mới bắt đầu vào truy cập trên mạng). Nhưng toàn cầu hóa đã được hình thành thực sự trên toàn cầu, theo nghĩa: hầu như ai cũng cảm nhận được nó, gián tiếp hay trực tiếp - đó là những áp lực, những gò bó và những cơ hội để áp dụng dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin - trọng tâm của toàn cầu hóa. Chen Yuan, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc một lần đã nói với tôi: “Mỗi một đất nước đều có một phần phát triển chậm. Ngay cả ở Mỹ, nếu đi từ (Thủ đô) Washington xuống Virginia bạn vẫn thấy những làng mạc vùng núi. Nhưng bạn không thể coi chúng chưa nằm trong toàn cầu hóa. Ở Trung Quốc cũng vậy”. Đúng thế. Nếu có một nơi nào chưa hẳn đã hòa nhập vào toàn cầu hóa thì đó là bản Gujialingzi nhỏ xíu ở đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Tôi đến đó năm 1998 trong phái đoàn quan sát tuyển cử vùng nông thôn Trung Quốc. Nhưng lúc đó tôi có một ý đồ riêng – quan sát toàn cầu hóa từ bên ngoài và kết quả là: tôi đã không làm được điều đó. Tôi không đi thoát khỏi toàn cầu hóa, vì chính nó đã lan tỏa tới vùng đó, vùng hẻo lánh nhất mà tôi được biết. Khi đoàn chúng tôi đến Gujialingzi, toàn bộ dân chúng trong độ tuổi bầu cử đã tập trung ở một sân trường. Họ đến để nghe hai ứng cử viên tuyên truyền tranh cử chức trưởng bản. Bản này nghèo lắm: ngay lớp học cũng chỉ có nền đất. Bản này thuộc tỉnh Cát Lâm, trung tâm của vành đai công nghiệp của Trung Quốc trước đây. Nay vành đai này nhanh chóng bị han rỉ vì những khu công nghiệp ở đây không còn khả năng cạnh tranh trên thế giới và chính phủ trung ương ở Bắc Kinh không còn sức để bao cấp sản xuất cũng như phúc lợi xã hội nữa. Cũng có thể chính vì thế mà khi hai vị ứng cử viên trưởng bản đứng lên phát biểu tranh cử, họ làm như thể đang tranh cử chức thị trưởng của thị trấn luyện thép trung tâm Ohio (Hoa Kỳ). Đầu tiên là cựu trưởng bản, Li Hongling. Trích đoạn bài phát biểu của ông ta như sau: Thưa dân bản, xin tự giới thiệu lại, tôi bốn mươi bảy tuổi, đảng viên cộng sản, trình độ trung học cơ sở. Tôi muốn cống hiến cho bản này. Như bà con đã biết, tôi giúp cho bản ta phục hồi sau cuộc Cách mạng Văn hóa. Ở mọi nơi, ai cũng thấy mồ hôi công sức của tôi. Tôi đã đến từng nhà, tham khảo ý kiến mọi người. Tôi chưa bao giờ dùng tiền công để tiệc tùng. Tôi xử lý mọi việc đúng luật. Tôi hứa sẽ cải thiện trường tiểu học và tăng thu nhập của chúng ta. Nếu được bầu tôi cam kết sẽ vận chuyển rau quả của bản ta ra tỉnh nhanh hơn. Tôi sẽ cải thiện tinh thần trong bản. Chúng ta cần thêm cây cối và hệ thống cáp quang để mọi người đều có một máy điện thoại. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, tôi sẽ sửa chữa các khuyết điểm của mình. Đây chính là hợp đồng giữa tôi và bà con”. Sau tràng pháo tay lịch sự, đối thủ của ông ta, Liu Fu, lên diễn đàn. Ông ta nhập cuộc ngay với đề tài nữ quyền: Trước hết tôi xin nói ngày mai là Ngày Phụ nữ Quốc tế và xin chúc mừng các bà các cô. Tôi năm nay năm mươi mốt tuổi, trình độ phổ thông cơ sở. Tôi là chủ doanh nghiệp đậu phụ. Tôi yêu mến bản ta. Tôi yêu mến dân bản. Sự nghèo khổ của quý vị cũng là điều nhục nhã đối với tôi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tôi sẽ lật sang một trang sử mới. Tôi hứa sẽ giảm tệ đánh bạc và đĩ điếm trong bản và tạo thêm công ăn việc làm. Tôi sẽ không ngạo mạn. Tôi sẽ cắt giảm ngân sách hành chính để tiết kiệm tiền cho bà con. Tôi sẽ không nhận của đút lót, và ngay cả thủ trưởng của tôi là dân thành phố đến, tôi cũng sẽ không đưa ông ta đi chiêu đãi. Chúng ta tiệc tùng nhiều quá. Trong mười năm qua tôi không đi ăn tiệc và không động đến một giọt rượu nào cả. Tôi sẽ giữ gìn tiền bạc quý vị đóng góp. Không một cán bộ nào của bản được phép dùng tiền công để lên tỉnh. Tôi sẽ mang công nghệ đến bản ta. Tôi hứa sẽ phổ biến công nghệ chế biến đậu phụ đến từng quý vị. Tôi sẽ đào thêm giếng. Cách mạng Văn hóa đã bỏ phí của chúng ta mất mười năm. Chúng ta cần phải suy nghĩ các phương pháp để cải thiện đời sống. Tôi sẽ chấm dứt tệ duy ý chí. Như đồng chí Đặng Tiểu Bình nói: “Mèo trắng, mèo đen, đều được, miễn là chúng bắt được chuột”. Tôi sẽ cải thiện hệ thống trường học. Tri thức rất quan trọng. Nếu u mê thì không thể xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Và tôi sẽ giúp mấy anh chàng độc thân trong bản, không có tiền, cưới vợ. Tôi sẽ giúp quý vị giàu hơn! Cùng tiến”. Trong khi dân bản bỏ phiếu và chờ kết quả, tôi khảo sát chút ít trước cửa phòng phiếu, hỏi dân chúng xem họ thích bài phát biểu nào hơn. Tay hàng thịt đội mũ thời Mao Trạch Đông bước ra khỏi đám đông và phát biểu công khai: “Khi (ứng cử viên mới) tuyên bố anh ta không bao giờ dự yến tiệc, tôi tin anh ta. Không bao giờ nên chiêu đãi các quan chức ra tỉnh làm việc. Vì thường đó là tiền của chúng tôi đóng góp”. Một người dân bản khác chêm vào: “Ở Bắc Kinh người ta giảm biên chế chính phủ. Ở đây cũng phải vậy… ông ấy nói đúng, chúng tôi cần có cáp quang. Xưa nay chúng tôi không có dịch vụ điện thoại”. Làm thế nào mà biết về cáp quang? Tôi hỏi người này. “Tôi không biết, chỉ nghe về nó”, ông này nhún vai. Tôi cũng nhận một câu trả lời tương tự ở bản Heng Dao bên cạnh, khi chúng tôi sang để nghe vận động tranh cử. Cựu trưởng bản ở đây phát biểu: “Tôi đã có nhiều cố gắng thiết thực để dẫn dắt bà con làm giàu. Thu nhập hàng năm của chúng ta hiện là hai nghìn ba trăm tệ. Ngân sách chính quyền thấp hơn nhiều. Và trong nhiệm kỳ của tôi, tôi đã giảm biên chế nhiều cán bộ. Nếu được bầu, chúng tôi sẽ tiếp tục áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, thành lập thêm các xí nghiệp và tăng cường của cải vật chất... [vì] toàn thế giới đã trở thành một thị trường trao đổi hàng hóa đồng nhất”. Tôi hỏi ông ta làm sao có được những ý tưởng như vậy. Bản này chỉ có một máy điện thoại. Ông ta nói: “Tôi đọc báo. Tôi nghe đài... chúng tôi hiện có một xí nghiệp sản xuất khung cửa sổ. Hiện tại chỉ phục vụ khách hàng nội địa, nhưng người ta nói là nếu chúng tôi cải tiến chất lượng sản phẩm, chúng tôi có thể bán chúng ra nước ngoài”. Toàn cầu hóa chưa hẳn lan khắp toàn cầu ư? Tip O’Neill nói sai rồi. Tất cả các thể loại chính trị không còn bị bó hẹp nữa. Chính trị giờ đây mang ảnh hưởng của toàn cầu. Không cứ nước nào cũng cảm thấy họ là một phần của toàn cầu hóa, nhưng nước nào cũng vậy – trực tiếp hoặc gián tiếp đều bị toàn cầu hóa ảnh hưởng đến. Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Đông Đức, Liên Xô, tư bản Á châu, các ngành công nghiệp quốc doanh của Brazil, cộng sản Trung Quốc, hãng General Motors và máy tính IBM hoặc đã sụp đổ hoặc bị buộc phải cải tổ gần như cùng một thời gian. Chúng bị một thức virus tấn công, loại virus khiến cho tường Berlin cùng nhiều loại tường Chiến tranh Lạnh khác sụp đổ. Chúng đã mắc thứ bệnh tôi gọi là hội chứng Suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip [Microchip Immune Deficiency Syndrome – MIDS]. Đây là một chứng bệnh mang tính chính trị trong thời toàn cầu hóa. Chứng này có thể tấn công các công ty hay nhà nước lớn nhỏ, phía đông hay tây, phía nam hay bắc. Nếu phải định nghĩa về hội chứng này trong từ điển y học, thì tôi sẽ viết như sau: “MIDS: một chứng bệnh có thể nhiễm vào bất cứ hệ thống phù nề, phì nộn và xơ cứng của thời Hậu Chiến tranh Lạnh. MIDS thường nhiễm vào các nhà nước và công ty không được tiêm chủng miễn dịch trước các làn sóng do công nghệ vi mạch (microchip) tạo nên cũng như những làn sóng dân chủ trong thông tin, tài chính và công nghệ đã tạo nên một thị trường nhanh hơn, cởi mở hơn và phức tạp hơn, có những hệ giá trị mới. MIDS xuất hiện khi một đất nước hay một công ty tỏ ra ngày càng thiếu khả năng tăng năng suất, lương, điều kiện sống, tri thức và tính cạnh tranh; chúng trì trệ trong việc áp dụng những thách thức đến từ thế giới hiện đại. Những đất nước và công ty nhiễm MIDS thường vẫn duy trì cung cách làm ăn thời Chiến tranh Lạnh – trong đó chỉ có một nhóm đứng đầu giữ chặt mọi thông tin và vạch tất cả các quyết định, còn những người ở tầng giữa và dưới đáy chỉ đơn thuần thực hiện các quyết định đó, sử dụng các mảng thông tin hạn hẹp hơn. Liều thuốc duy nhất mà ta biết để chữa chứng suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip có thể được gọi là “quá trình dân chủ hóa thứ tư”. Đây là sự dân chủ hóa trong hoạch định chính sách và đáp ứng thông tin và phi tập trung hóa quyền lực, tất cả giúp cho có thêm dân chúng trong một nước hay nhân viên trong một công ty chia sẻ kiến thức để thực nghiệm và cải cách nhanh chóng hơn. Điều này khiến họ theo kịp những đòi hỏi ngày càng tăng của người tiêu dùng trên thị trường. Họ thường đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ rẻ và hợp sở thích của họ hơn. MIDS có thể dẫn tới sự diệt vong đối với các đất nước và công ty, nếu không được chữa trị thích hợp. (Xem thêm các trường hợp Liên Xô, Đông Đức và Công ty Pan Am)”. Ở mức độ nào đó, hội chứng MIDS không có gì mới. Kinh tế thị trường nhiều thế kỷ qua đã giết đi nhiều công ty làm ăn kém cỏi, thiếu khả năng áp dụng công nghệ mới và không theo kịp những đòi hỏi ngày càng tăng trong giới tiêu thụ. Hoặc không đáp ứng được các đòi hỏi mới trong điều kiện sức lao động và vốn ngày càng giảm. Nhưng thay đổi trong công nghệ, đầu tư và thông tin đã khiến cho quá trình này tăng tốc đột ngột vào những năm tám mươi, buộc các công ty và đất nước phải tiến nhanh hơn để tránh căn bệnh MIDS. Bạn hãy nhìn nhận chúng như một cuộc chuyển hóa có ba giai đoạn: Quá trình này bắt đầu trước khi các bộ vi xử lí và vi mạch cho phép xuất hiện máy tính cá nhân, trước khi máy tính cá nhân giúp ra đời các quá trình dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin. Đây là thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, kéo dài cho tới những năm bảy mươi. Đó là thời kỳ cho phép các chính phủ và các doanh nghiệp quá tải và thiếu hiệu quả tồn tại, vì mọi người hoạt động trong một sân chơi được bảo hộ. Alan Greenspan mô tả hệ thống bó hẹp của thời Chiến tranh Lạnh trong một phát biểu sau đây: “Những sự điều chỉnh lúc đó đi chậm. Thương mại quốc tế chỉ chiếm phần nhỏ trong kinh tế nội địa. Các hàng rào thuế quan hạn chế cạnh tranh, và kiểm soát về vốn làm tắc nghẽn những giao lưu tiền tệ qua biên ải. Nhìn lại, môi trường kinh tế đó thiếu tính cạnh tranh, yên ả và dĩ nhiên, đã không mấy đe dọa những ai chỉ có chút ít tài năng. Quả thực trước khi công nghệ máy tính làm xuất hiện các hệ thống tự động hóa, thì các công việc lặp đi lặp lại, những người thợ thiếu tay nghề đóng vai trò chính và hưởng mức lương cao trong tương quan với thợ lành nghề. Trong cái thế giới ít đòi hỏi này, các chính phủ đã có khả năng thiết lập hệ thống an sinh xã hội và cho ra đời những chính sách về thu nhập công bằng”. Tuy nhiên, Greenspan nói thêm, mức sống trung bình trong thời đó thấp hơn mức đáng có và sự đa dạng của sản phẩm trên thị trường không theo kịp những thay đổi trong đòi hỏi của giới tiêu thụ, nếu so với thực trạng thời nay – thời của microchip. Những rào cản không cho một loại doanh nghiệp lấn sang một ngành khác đã khiến cho những thay đổi diễn ra chậm chạp hơn và ít rủi ro hơn. Nhưng dẫu cho chi phí lao động và giá thành sản phẩm thời đó có cao hơn và thiếu linh động hơn, thì một bộ phận không nhỏ của xã hội hiện đại ngày nay vẫn còn lưu giữ những nỗi nhớ về chúng – về cái thời đồ đá yên ả. Một ví dụ đặc trưng của cái môi trường kiểm soát kinh tế kiểu đó thể hiện ở nền kinh tế chỉ huy, điều hành từ thượng tầng của nhà nước Xô Viết. Mục đích của kinh tế Liên Xô không phải là đáp ứng đòi hỏi của người tiêu dùng, mà là để ấn định sự kiểm soát của chính phủ trung ương. Vì thế mọi thông tin thường đi từ dưới lên và mệnh lệnh đi từ trên xuống. Tại một nhà máy sản xuất giường của Liên Xô, các quản đốc được trung ương trả lương không theo số giường họ tiêu thụ được, mà theo số lượng thép nguyên liệu họ sử dụng. Số lượng giường được bán phản ánh sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Số lượng thép sản xuất và sử dụng chính là hình ảnh của quyền lực nhà nước – đó chính là điều duy nhất nhà nước Liên Xô quan tâm tới, trong thời Chiến tranh Lạnh. Và trong suốt Chiến tranh Lạnh, do mức độ thay đổi và thông tin đều bị kiểm soát chặt chẽ, Liên Xô đã tồn tại. Tôi sẽ không bao giờ quên được chuyến tháp tùng Ngoại trưởng Bakers vào năm 1992 đến Chelyabinsk- 70, một phức hợp chế tạo bom hạt nhân của Liên Xô, nằm ở phía đông rặng núi Ural – một nơi tuyệt mật, không bao giờ được ghi trên bản đồ Liên Xô. Đây được ví như trung tâm Los Alamos của người Nga, cái nôi của các chuyên viên hạt nhân của đất nước này. Điều tôi nhớ nhất xảy ra khi chúng tôi nghỉ đêm tại khách sạn Tháng Mười ở thị trấn Sverdlovsk gần đó. Khi vào thang máy khách sạn tôi thấy số các tầng được đánh thứ tự 1,3,4,5,6,7,8,9,2. Ai đó đã quên không ghi số 2 vào nên sau đó gắn 2 vào vị trí cạnh số 9. Bấm số 2 thì người ta vẫn lên được tầng 2 dù nó ở vị trí số 10. Khách sạn nằm trong một tổ hợp quân sự tinh vi nhất của người Nga như vậy đấy! Chỉ có trong một hệ thống bị chia rẽ, trì trệ và bị kiểm soát của thời Chiến tranh Lạnh thì mới có cái lối đánh số thang máy như vậy. Hãng IBM trong những năm bảy mươi và tám mươi cũng hoạt động giống như người Xô Viết – theo kế hoạch của trung ương. Cấp trên lệnh cho cấp dưới sản xuất sản phẩm nào và báo cho dưới sản phẩm nào nên cung cấp cho người tiêu thụ. Một lần tôi hỏi John Chambers, Chủ tịch Hãng Cisco Systems, ông ta thấy làm việc cho IBM thời bao cấp ngày trước ra sao. Charmbers nói, đó là thời những năm tám mươi, thời mà IBM quả đã bắt đầu một chính sách mở cửa, cho phép nhân viên chất vấn sếp, sếp phải trả lời, nếu không thỏa mãn thì nhân viên có thể lên sếp lớn hơn để chất vấn tiếp. “Một lần tôi đã thử làm như vậy”, Charmbers nhớ lại, “và một anh bạn cùng hãng gọi tôi ra một chỗ và nói, “mày thoát được lần này là may rồi, lần sau đừng làm thế nữa nhé”. Có một lúc tôi nói với một trong mấy sếp rằng lô hàng họ muốn có sẽ không làm vừa lòng khách hàng đâu và sẽ rất tốn nguyên liệu, nhưng ông này không muốn nghe. Ông ta bảo tôi, “tiền thưởng của tôi nằm trong lô hàng đó đấy, vậy hãy mang chúng ra cửa hàng và bán cho chạy”. IBM tồn tại được lúc đó là bởi những bức tường ngăn chặn cạnh tranh trong công nghệ máy tính còn rất cao, những công ty trì trệ vẫn có thể mắc lỗi, và dù thậm chí làm ăn yếu kém vẫn sống nổi. Những đất nước như Liên Xô, sở dĩ vẫn tồn tại được là do các bức tường che chắn thông tin còn cao lắm – những kiến thức của dân chúng Xô Viết về cuộc sống bên ngoài không nhiều – cho nên điện Kremlin có thể tồn tại, mắc lỗi và chịu thất bại, nhưng vẫn tồn tại trong một thời gian dài. … Cho đến những năm tám mươi. Giai đoạn hai của cuộc chuyển hóa với hội chứng MIDS xuất hiện vào thời gian đó và bắt đầu công phá cái thế giới chậm chạp lười biếng đó. Ở mức chính phủ và doanh nghiệp, dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin đã hội tụ vào cuối những năm tám mươi, tạo ra những hiệu quả và quy mô kinh tế mới đáng ngạc nhiên và đồng thời làm sản sinh một môi trường thương mại hoàn toàn mới mẻ – không gian điện toán. Cuộc chuyển biến này được biết đến như một cuộc Cách mạng Thông tin. Nó sẽ được biết đến như một bước nhảy vọt trong công nghệ, trăm năm mới có một lần, tương tự như phát minh ra năng lượng điện, tạo bước ngoặt lớn lao, bứt khỏi quãng lịch sử trước đó. Có nhiều cách để tóm lược những tác động của Cách mạng Thông tin, và ba trào lưu dân chủ hóa nói trên, vào thương trường. Nhưng với tôi, chúng được gói gọn vào hai khái niệm giản đơn: Thứ nhất, chúng nhấn chìm rào cản để mọi người thâm nhập vào bất cứ ngành kinh doanh nào bằng cách giảm đáng kể chi phí để cho phép người mới nhập cuộc. Nhờ đó chúng tăng cường cạnh tranh và cắt ngắn quãng đường của sản phẩm từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất hàng loạt. Thứ hai, Cách mạng Thông tin đưa các doanh nghiệp đến gần khách hàng hơn, tạo cho khách hàng một thứ quyền năng để nhanh chóng phản hồi về chất lượng hàng hóa và nhu cầu mới nảy sinh của họ; khách hàng thời nay có thể nhanh chóng bỏ rơi những doanh nghiệp không làm theo ý khách hàng. Xin đi vào chi tiết. Ba quá trình dân chủ hóa giúp tháo gỡ những rào cản vì hiện nay chỉ cần một máy vi tính cá nhân, một thẻ tín dụng, một đường điện thoại, modem, máy in màu, đường truyền Internet, trang mạng và một tài khoản chuyển tiền nhanh qua bưu điện, bất cứ ai cũng có thể ngồi tại nhà khởi sự doanh nghiệp của mình. Ví dụ: mở một nhà xuất bản, hãng bán lẻ, bán buôn qua catalogue, thiết kế thời trang cho thị trường toàn cầu hoặc dịch vụ tư vấn. Họ có thể lập một tờ báo, dịch vụ quảng cáo, phân phối, môi giới chứng khoán, sòng bạc ảo, quỹ tín dụng, tiệm sách, mua bán xe hơi hay quần áo. Chỉ qua một đêm sau khi thành lập, ngay sáng hôm sau, những dịch vụ như vậy với chi phí thành lập rất rẻ có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Bạn có thể đang sống trong cùng một dãy nhà với ba tiệm sách độc lập như: Barnes & Noble, Crown Books và Borders – nhưng ngay sáng hôm sau, bạn có thể khiến họ sập tiệm khi bạn mở một hiệu sách của riêng, mang tên “Borderless Books” (tiệm sách xuyên biên giới), sử dụng Internet và đặt cho nó cái tên là Amazon.com chẳng hạn. Quả thực, Amazon.com đã được hình thành trong bối cảnh dân chủ hóa công nghệ (máy vi tính tại gia), dân chủ hóa tài chính (thẻ tín dụng cho mọi người) và dân chủ hóa thông tin (Internet cho mọi người). Nó không những là một tiệm sách phục vụ thói quen mua sách cụ thể ở từng địa phương mà còn là dịch vụ mở cửa 24/24, ai ai ở khắp các múi giờ cũng có thể vào mua. Một khi hiện tượng như vậy xuất hiện trên đất Mỹ và lan tràn trên toàn thế giới, nó đánh dấu khả năng trong đó bất cứ một sản phẩm hay dịch vụ nào cũng có thể nhanh chóng biến đổi từ giai đoạn “hàng độc” – chỉ một hai nơi sản xuất được, có giá trị gia tăng cao, mức lớn – sang giai đoạn “sản xuất hàng loạt” trở thành hàng hóa thương mại trên diện đại trà. Khái niệm đại trà cho thấy những mặt hàng như vậy đều có thể được bất cứ nhà sản xuất nào thực hiện – sự khác nhau là ở chỗ: ai sẽ là người sản xuất có giá thành rẻ nhất. Biến phát minh của bạn thành một mặt hàng đại chúng kể ra cũng có những bất lợi vì làm như thế mức lợi tức thặng dư sẽ giảm đi, bạn sẽ phải đối phó với nhiều sự cạnh tranh mới. Giải pháp duy nhất trong trường hợp đó là bạn phải đảm bảo cho sản phẩm hay dịch vụ của bạn rẻ nhất, bán được nhanh nhất, bán liên tục, nếu không, bạn sẽ bị tiêu diệt. Trong thế giới Chiến tranh Lạnh đầy những rào cản, quá trình đại trà hóa sản phẩm khá chậm, khoảng 10 dặm/giờ, vì những rào cản từ khâu phát minh đến khâu bán đại trà khá lớn, phần nhiều do các quốc gia đã thi hành bế quan tỏa cảng. Trong toàn cầu hóa, quá trình này có tốc độ 110 dặm/giờ, vì những bế quan tỏa cảng phần nhiều đã bị loại bỏ. Và vì chúng ta đang tiến vào thời đại Internet, tốc độ của sự biến đổi từ phát minh đến thương mại hóa trở nên nhanh hơn, có thể so sánh với tốc độ đường truyền Internet – tương đương với tốc độ ánh sáng. Chẳng phải vô cớ mà những tay tổ trong công nghệ Internet cho rằng cạnh tranh trên mạng là “thuyết tiến hóa Darwin ứng dụng vào các chất kích thích tố”. Đó là do hiện nay Internet đang tạo ra một điều kiện giống như một môi trường cạnh tranh hoàn hảo, Edward Yardeni, Kinh tế trưởng của Ngân hàng Deutsche Bank giải thích. Ông nói thêm, “Trong môi trường cạnh tranh thuần khiết, không có rào cản đối với lính mới, không có sự bảo hộ dành cho những hãng xưởng làm ăn yếu kém, và ai ai (cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng) cũng đều thu thập được thông tin đầy đủ và công bằng. Những yếu tố như vậy tình cờ lại hiện hữu trong thương mại Internet… Internet triệt tiêu chi phí cho so sánh chất lượng hàng hóa xuống còn zero. Khách hàng ngày càng có khả năng nhanh chóng tìm ra hàng hóa và dịch vụ ở đâu rẻ nhất. Trong nền kinh tế mạng toàn cầu, nhà sản xuất chịu được chi phí thấp nhất sẽ có khả năng báo giá thấp nhất cho bất cứ ai trên hành tinh này”. Ngược lại, trong nền kinh tế có công nghệ thấp, theo Yardeni, thì chi phí để tìm kiếm các mức giá thấp của cùng một mặt hàng khá cao. Bạn phải trèo qua nhiều bức tường, vượt nhiều rào cản để tìm mức giá phải chăng, và điều đó phản ánh lợi thế sẵn có của các công ty làm ăn lâu đời và có danh tiếng ở từng địa phương. Hiện nay các nhà sản xuất, các dịch vụ và tiệm bán lẻ có thể đấu giá để giành các thương vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Ngược lại, người tiêu dùng có thể tìm được mức giá thấp nhất ở bất cứ nơi nào. Trong quá khứ, các công ty kiếm tiền trong tình trạng khách hàng thiếu thông tin và thiếu phương tiện kỹ thuật để tìm thông tin. Internet đã vĩnh viễn thay đổi tình trạng đó. Ngày nay doanh nghiệp nào muốn tiếp tục kiếm tiền bằng sự lệch lạc thông tin giữa kẻ mua và người bán, thì chính họ đang tự huyễn hoặc bản thân. Chính vì thế Internet là điều kỳ diệu của người tiêu dùng và là hiểm họa đối với nhà sản xuất và người bán hàng. Ở một mức nào đó, doanh nghiệp sản xuất thành công ngày này cần phải trở thành một thứ cơ sở dịch vụ. Có nghĩa họ phải học cách ứng dụng công nghệ mới để giảm chi phí, tinh giảm bộ máy điều hành và tăng tốc cải tiến chất lượng để đáp ứng mức đòi hỏi tiếp theo của trào lưu Cách mạng Thông tin – việc người tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm phải đúng sở thích của cá nhân họ. Con người là tổng hòa của xương và thịt, chứ không phải là những con số. Nên họ liên tục đòi hỏi và có khả năng trả thêm chút ít cho những dịch vụ và sản phẩm đúng ý muốn của họ. Chính vì thế, ngoài mục đích cải thiện hoạt động của mình, mỗi công ty đều phải dùng Internet để tiết kiệm thêm thời gian, dành sức lực và tài chính để cải tiến mẫu mã của sản phẩm cho đúng ý người tiêu dùng. Sở thích riêng của khách hàng không bao giờ là hàng hóa thương mại, chính vì thế sản phẩm theo đúng sở thích cá nhân bao giờ cũng có giá. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 5: Phần 2 Sang lĩnh vực môi giới chứng khoán, bạn có lẽ nghĩ rằng đây là ngành có mức giá trị gia tăng cao và lợi tức nhiều. Nhưng một khi năm mươi dịch vụ môi giới cùng xuất hiện trên không gian điện toán và cùng báo giá thấp hơn nhiều so với hãng Merrill Lynch, họ tư vấn miễn phí trên mạng, thì bạn có thể thấy ngành môi giới đã trở thành một thứ hàng hóa thương mại. Nếu bạn muốn tồn tại trong ngành môi giới, bạn sẽ phải ứng dụng kỹ thuật để nắm bắt được nhu cầu cá nhân của khách hàng và thân chủ, học thêm về cách tiếp thị những dịch vụ chứ không chỉ cổ phiếu hay trái phiếu, ví dụ tư vấn và đánh giá đi đến quyết định kinh doanh đúng đắn cho khách hàng. Hãng Merrill Lynch rồi sẽ phải giảm phí giao dịch vì hiện nay, nhờ không gian điện toán, những rào cản cạnh tranh đã sụp đổ và xuất hiện thêm khá nhiều đối thủ mới. Nhưng hãng này vẫn có thể tồn tại nếu tung ra những dịch vụ chất lượng cao hơn kèm đường dây tư vấn trực tiếp đến cá nhân của từng thân chủ. Đó là lĩnh vực mà khách hàng bao giờ cũng sẵn sàng chi trả. Một khi hàng rào bảo vệ doanh nghiệp của bạn sụp đổ nhanh chóng như hiện nay, bạn không thể dự đoán đối thủ của bạn từ đâu đến. Một khi hàng rào đổ xuống, sẽ ngày càng xuất hiện thêm nhiều quan hệ tương tác. Xin đưa ra một ví dụ có thực: Một hôm, lật vài trang tạp chí, tôi thấy một quảng cáo về một hệ thống camera kỹ thuật số đời mới của hãng Sony. Tôi ngạc nhiên: “Có thực là mẩu quảng cáo này về Sony? Sony chưa bao giờ dính dáng đến dịch vụ máy ghi hình và phim. Tôi nghĩ xưa nay Sony chỉ quan tâm đến dàn stereo, máy walkman hay đĩa CD mà thôi”. Nhưng, đúng là ngày nay Sony quan tâm đến máy ảnh thật. Nhưng thế nào là đĩa CD? Chẳng qua là một đĩa nhựa, được gắn mã kỹ thuật số và khi được quét bằng một tia sáng đặc biệt, sẽ làm xuất hiện nhạc và lời. Nếu xét theo phương diện đó, thì một khi Sony thuộc về kỹ nghệ kỹ thuật số thì hãng này có thể tham gia vào bất cứ công nghệ nào có dính dáng đến kỹ thuật này. Điều này khiến tôi quay trở lại mẩu quảng cáo vừa nói, về hệ máy ảnh Mavica. Mẩu quảng cáo có ba tấm hình: trước hết là chiếc máy ảnh, chụp hình tĩnh giống như thứ máy ảnh truyền thống, chỉ khác là thay vì dùng phim, máy ghi dữ liệu bằng số. Quảng cáo nói: “Đây là máy ảnh của bạn”. Bên cạnh đó, thay vì phim, là hình chiếc đĩa mềm 3.5 inch của Sony sản xuất, được chú thích “đây là phim của bạn.” Và cạnh đó là hình chiếc máy vi tính, trên màn hình là ảnh cháu bé vừa được chụp, chú thích: “Và đây là bưu điện của bạn”. Hãy thử suy nghĩ về mẩu quảng cáo này và những gì được chú thích. Dường như chúng kể một câu chuyện: Một buổi sáng có người trong hãng Sony thức giấc và thốt lên, “Ê, chúng ta có một nhà máy sản xuất tất cả những đồ thuộc về kỹ thuật số, chúng ta xưa nay chỉ số hóa âm thanh hay âm nhạc. Vì sao chúng ta lại không số hóa hình ảnh nhỉ? Vì sao chúng ta không trở thành Sony kiêm Kodak? Với máy ảnh kỹ thuật số, ta có thể chụp ảnh, lưu dữ liệu trên đĩa mềm, cài vào vào máy vi tính, rồi xử lý để hoặc tự dùng máy in để in”. Rồi lại có ai đó ở phòng giao nhận hàng hóa của hãng nói, “và cũng có thể gửi những hình ảnh như thế qua email đi khắp thế giới. Vì kỹ thuật số cho phép khách hàng của chúng ta sửa chất lượng của ảnh rồi thông qua modem, gửi ảnh đến họ hàng của họ ở năm châu bốn biển. Vậy thì chúng ta có thể vừa là Sony, vừa là Kodak, lại vừa là Federal Express”. Sau khi xem mẩu quảng cáo này, tôi tự nhủ: “Không rõ người của hãng phim Kodak nghĩ gì về điều này?” Sau đó, trên đài, tôi nghe được một quảng cáo của Kodak, tung ra một công nghệ xử lý ảnh trên Internet. Dường như Kodak đang làm ra vẻ đang chuyển hóa thành một công ty máy vi tính đồng thời sản xuất phim. Điều đó lại khiến tôi băn khoăn không hiểu hãng máy tính Dell và Compaq có lo ngại không. Nhưng tôi lại tìm được những quảng cáo của Dell và Compaq: hiện nay họ không chỉ bán máy vi tính. Hiện này họ đồng thời cung ứng “các giải pháp dùng vi tính” dùng cho việc quản trị doanh nghiệp và sản xuất. Hai hãng này đã tự xưng là các nhà tư vấn kinh doanh, đồng thời cung ứng máy vi tính. Thật vậy các quảng cáo của Compaq không đơn thuần có hình ảnh chiếc máy tính, mà thường có lời tuyên truyền: “Compaq – Câu trả lời tốt hơn”. Điều đó khiến tôi liên tưởng đến mấy người bạn làm việc trong hãng tư vấn Pricewaterhouse Coopers. Tôi đã hỏi xem họ có lo lắng chuyện hãng Compaq nhảy vào lĩnh vực tư vấn hay không? Bạn tôi nói họ chỉ lo lắng việc Goldman Sachs, ngân hàng đầu tư nay đang giới thiệu với khách hàng các giải pháp tiết kiệm tiền đóng thuế bằng cách sử dụng các phương pháp kinh doanh thay thế để chịu mức thuế thấp hơn. Pricewaterhouse Coopers hiện đang lo lắng các ngân hàng đầu tư nhảy vào lĩnh vực tư vấn thuế vụ. Bạn tôi gợi ý tôi nên đọc thêm về chủ đề này. Tôi bèn tìm đến hiệu sách Borders Books để tìm sách, nhưng vợ tôi nói: chẳng việc gì phải tự thân đến hiệu sách, vì chúng ta đã có Amazon.com – “tiệm sách không biên giới”, ở dưới tầng hầm của chúng tôi. Thế là tôi xuống tầng hầm, vào trang web Amazon.com. Tiệm này không những bán sách báo mà còn bán cả CD. Và tôi lại nhủ thầm: “Nhưng bán CD là việc của Sony cơ mà?” Điều này làm tôi liên tưởng đến việc tiếp thị cuốn sách này. Tôi đến New York để bàn việc bán sách với Farrar, Straus và Gilroux, nhà xuất bản chuyên về loại sách bìa cứng. Tôi ngồi cạnh Mark Gates, một chuyên viên bán hàng của công ty. Khi chúng tôi nói chuyện bán sách báo, và Mark lộ vẽ lo lắng. Vì sao? Anh ta nói: “Tôi vừa đến Brooks Brothers để tìm mua một bộ com-lê. Tôi đến quầy bán com-lê thì thấy ở đó bầy đầy ấn bản cuốn sách mới nhất của Michael Jordan, cuốn Dành cho những kẻ hâm mộ môn bóng rổ. Chúng được bầy bán trong quầy quần áo dành cho nam giới. Tôi hỏi quầy trưởng: “Chỗ các ông không phải là nơi bán sách báo. Ông nghĩ thế nào nếu tiệm sách của chúng tôi tổ chức bán com-lê?” Ông ta cười, cũng tỏ vẻ hơi xấu hổ, nhưng sau đó nói với tôi: “Gần đây ông có nhìn vào hóa đơn tiền điện của ông không? Hãng Consolidated Edison đang rao bán sách của Jordan, giảm giá 40% nhân No-el, bạn chỉ cần trả tiền cho họ chung với tiền điện là họ sẽ gửi sách đến!” Tôi cảm thấy tuyệt vọng thực sự. Tôi năm nay bốn mươi sáu tuổi rồi. Tôi muốn làm việc thêm ít nhất là mười chín năm nữa. Nhưng tôi không biết có còn tìm thêm được khách hàng trong từng ấy năm hay không. Tôi nghĩ chắc là không. Các đường dây dịch vụ buôn bán giờ đây đang chồng chéo đan xen với nhau”. Tờ The New York Times vào thời gian này đăng một hàng tít thực sự gây ấn tượng trong tôi – nói về việc hãng AT&T tung ra một loạt các dịch vụ mới, hàng tít này viết: “AT&T: Thứ gì cũng có” Hình như ngày nay ai ai cũng có thể trở thành một người đa năng và tham gia bất cứ lĩnh vực nào. Ai nấy đều có liên quan và có quyền lợi chồng chéo lẫn nhau. Chính vì lẽ đó mà ngày nay nạn nhân trước tiên của MIDS chính là những hệ thống nặng nề, trì trệ như Liên Xô và IBM. Trong một thế giới không có rào cản, những hệ thống như vậy không còn khả năng liên hệ với khách hàng và không thể thích nghi được với tốc độ thay đổi nhanh chóng của thị trường. Nạn nhân tiếp theo chính là những hệ thống có đặc điểm tương tự như hệ thống trung ương chỉ huy lối Xô Viết – những nền kinh tế được nhà nước điều phối chặt chẽ ở châu Mỹ La tinh, hệ thống nhà nước phúc lợi của Canada và Tây Âu và những tổng công ty lớn, chậm biến đổi, đóng ở Bắc Mỹ. Vào cuối thập niên chín mươi, virus MIDS đã chuyển sang Á châu và tấn công vào những nền kinh tế có cơ chế nặng nề do nhà nước điều tiết ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và thậm chí cả ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Trao trách nhiệm Hiện nay chúng ta đang trải qua giai đoạn mới nhất của cuộc tiến hóa chịu ảnh hưởng MIDS. Giờ đây là kỷ nguyên toàn cầu hóa trong đó chính phủ và các công ty đang tự tái cấu trúc để tận dụng ba cuộc cách mạng dân chủ hóa, - hoặc tránh né chúng, để rồi phải chịu những hậu quả nặng nề. Cũng trong giai đoạn này, chúng ta thấy hình thành quá trình dân chủ hóa thứ tư – dân chủ hóa trong hoạch định chính sách và tản quyền đồng thời chia sẻ thông tin. Đó chính là biện pháp để giảm khả năng mắc virus MIDS. Để hiểu được khái niệm dân chủ hóa hoạch định chính sách-tản quyền-chia sẻ thông tin, mời bạn liên tưởng tới trường hợp Liên Xô, một ví dụ điển hình nhất. Chính quyền Xô Viết tập trung toàn bộ chức năng lãnh đạo vào một bộ phận nhỏ ở trung ương. Toàn bộ chính sách đều do trung ương quyết định. Trung ương truyền đạt cho bạn những gì bạn được phép nghĩ, hành động, tuân thủ, và chỉ đạo ý thích của bạn. Trung ương quy tụ toàn bộ các đầu mối thông tin – dữ liệu được truyền tới trung ương và chỉ có một nhóm nhỏ đầu não mới biết được bức tranh toàn cảnh. Trung ương chỉ đạo chiến lược – những gì quyết định vận mệnh của đất nước được một nhóm nhỏ quyết định. Quá trình dân chủ hóa thứ tư – dân chủ hóa việc vạch quyết định và phân quyền, chia thông tin – sẽ giúp cho việc cải cách trung ương và khai thông liên lạc thông tin trên và dưới. Mỗi một đất nước hay một công ty thành đạt đều đã cải tổ bộ máy lãnh đạo của họ theo lối khác nhau chút ít, tùy theo biến động trên thị trường, dân số, địa lý và mức phát triển cụ thể. Hãng máy tính Dell hiện nay tập trung hóa toàn bộ chức năng tài chính kế toán, cung ứng và phân phối sản phẩm dành cho hoạt động ở châu Âu, vào duy nhất một trung tâm đóng ở Ireland. Hãng này tập trung các hoạt động trên không vì mục đích kiểm soát mà vì đòi hỏi tiết kiệm chi phí và tăng cường năng suất hoạt động. Mặt khác Dell giao quyền vạch kế hoạch và chính sách cho nhiều trung tâm và cá nhân có trách nhiệm cung ứng và dịch vụ hàng hóa đóng ở mỗi quốc gia châu Âu, vì những trung tâm này gần với khách hàng nhất và có khả năng thay đổi và phát triển dịch vụ cho đúng ý khách hàng. Trong giai đoạn toàn cầu hóa nhanh chóng và phức tạp hiện nay, thông tin giúp cho việc hình thành các giải pháp cho khách hàng không nằm ở cơ quan đầu não của các công ty, mà nằm ở vòng ngoài, do chính những cơ sở tiếp thị và buôn bán trực tiếp trên thị trường tiêu thụ. Nếu công ty của bạn không cho phép những chuyên viên buôn bán và tiếp thị ở vòng ngoài được quyết định và chia sẻ thông tin họ nắm được, thì công ty của bạn sẽ gặp khó khăn. Nhưng Warren Bennis, trong cuốn Lãnh đạo các tài năng, đánh giá: “Không có cá nhân nào trong chúng ta thông minh hơn cả nhóm chúng ta cùng hiệp lực”. Xin tóm tắt sự thay đổi này bằng cách hình dung một tấm biển đặt trước mặt mỗi lãnh đạo công ty ở Hoa Kỳ – tấm biển: “Tôi chịu trách nhiệm”. Phương châm này được phổ biến trong thời Chiến tranh Lạnh vì khi đó thông tin được truyền lên đầu não, và nhân viên ở dưới chỉ việc ngồi đợi quyết định từ trên xuống. Nhưng ngày nay, các tổng giám đốc tài năng phải là những người hiểu rõ nhiệm vụ của họ là xây dựng chiến lược phát triển, hình thành luật lệ làm việc, phát động phong trào ở các khâu chủ yếu và giành cho các quản đốc ở tuyến đầu – trên thị trường và quan hệ trực tiếp với khách hàng – vạch những quyết định cụ thể của riêng cá nhân họ. Do đó tấm biển ghi phương châm làm việc của các tổng giám đốc ngày nay không còn là “Tôi chịu trách nhiệm”, mà là “Tôi giao trách nhiệm”. Tôi, giám đốc, sẽ vạch chiến lược, móc nối mọi người, đưa mọi người vào guồng máy, khởi động guồng máy. Nhưng các bạn, nhân viên, phải thu thập thông tin, chia sẻ thông tin và vạch tất cả các quyết định, nhanh chóng, kịp thời và thích ứng với thị trường. Robert Shapiro, Chủ tịch Hãng Monsanto là một điển hình của một giám đốc theo trường phái cải tổ đầu não của công ty để phân tán trách nhiệm xuống nhân viên. Đứng không xa khuôn viên, văn phòng của ông diện tích như phòng của người thư ký, giải thích: “Ngày trước nếu có một sự kiện nào xảy ra đâu đó trên thế giới, chỉ có những nhân viên cấp dưới chứng kiến hay được biết, mà thông thường chỉ có họ mới biết. Họ quan sát được những diễn biến trên thị trường và sự thay đổi trong thị hiếu của khách hàng. Thông tin như vậy được truyền lên trên, thông qua những khâu trung gian, tùy theo mức độ: nếu những người quản lý trung gian không thấy họ bị đe dọa bởi những thông tin như vậy thì họ sẽ chuyển tiếp lên trên nữa; còn nếu cảm thấy quyền lợi cá nhân của họ bị đe dọa thì họ sẽ dấu nhẹm đi. Đặt giả thuyết nếu mọi chuyện trôi chảy, thông tin này được chuyển tới cấp quyết định đi nữa, thì cũng có khi đã trở thành lỗi thời. Hoặc có khi tam sao thất bản. Và tồi tệ hơn, thủ trưởng lại dựa trên những kinh nghiệm và kỹ năng lỗi thời của bản thân để vạch quyết định. Điều này là khả dĩ trong một thế giới mà ai ai cũng làm như vậy, chậm một chút, thiếu nhạy bén một chút cũng không sao. Nhưng cái thế giới đó nay không còn nữa”. “Cho nên điều hiện nay chúng tôi đang làm, là cải tổ bộ máy lãnh đạo của Monsanto”, Shapiro nói tiếp: “Chúng tôi không chỉ phân trách nhiệm xuống dưới, cho phép mọi người tự giác quyết định. Cũng không có nghĩa là lãnh đạo ngồi chơi. Lãnh đạo giờ đây phải nhạy bén hơn, thu tập nhân tài và sẵn sàng thích nghi với những thay đổi trên thị trường. Ngày trước, tôi lãnh đạo vì tôi nắm được nhiều thông tin nhất, chính vì thế tôi có được tầm nhìn mà không một ai khác trong công ty có được, chính vì thế tôi vạch quyết định, ai cũng phải nghe. Ngày nay với email, Internet và Intranet, những nhân viên ở tuyến đầu nắm được thậm chí nhiều chuyện hơn tôi. Thậm chí nếu muốn, tôi cũng không che dấu được thông tin đối với họ. Thành ra hệ thống nào còn muốn chỉ huy, kiểm soát nhân viên hay dân chúng của họ bằng việc hạn chế thông tin, thì rồi đây sẽ thất bại. Giờ đây mọi người đều phải cùng nhau chia sẻ trách nhiệm và cùng hành động. Tôi cảm thấy giờ đây mình phải lắng nghe mọi người nhiều hơn, vì họ có nhiều thông tin hơn và vì thế ý kiến của họ có cơ sở hơn. Giờ đây tôi có thể nói chuyện thật cụ thể với những nhân viên ở tuyến đầu, những người có kinh nghiệm cụ thể với khách hàng. Họ có thể góp ý thẳng với tôi, thay vì phải qua những khâu trung gian và chuyển tiếp... Là lãnh đạo cao nhất của công ty, tôi giờ đây có trách nhiệm đảm bảo cho các giám đốc, quản đốc được huấn luyện đầy đủ về văn hóa, giá trị và chiến lược của công ty, để rồi khi thu thập dữ liệu, họ có những nền tảng cụ thể để đánh giá các định hướng. Huấn luyện những định hướng chiến lược của công ty cho các giám đốc và quản đốc là nhiệm vụ của tôi thời nay”. Bố vợ của tôi là Matthew Bucksbaum là Chủ tịch của General Growth Properties, một công ty địa ốc chuyên xây các chuỗi siêu thị, đã tổ chức thử nghiệm ý đồ cải tổ của Shapiro. Công ty của ông đóng đại bản doanh ở Chicagonhưng quản lý một trăm ba mươi siêu thị ở khắp nước Mỹ. Mỗi siêu thị có một giám đốc, sống tại địa phương. Mỗi năm, các giám đốc họp đại hội với nhau một lần. Trong đại hội năm 1999, Matthew đeo một chiếc khuy áo có dòng chữ “Tôi giao trách nhiệm”, và ông tặng cho giám đốc quản trị của mỗi siêu thị một chiếc khuy áo có dòng chữ “Tôi chịu trách nhiệm”. Đó là phương cách của Matthew phòng chống virus MIDS để bức tường Berlin khỏi sập trên đầu ông. Mỗi một công ty đều phải làm điều đó bằng cách của mình. Tôi đã sưu tập và xin trình bày sau đây ba ví dụ – trường hợp một nông dân bang Minnesota, một tiểu thương ở Baltimore và một chuyên viên Internet. Gary Wagner, bốn mươi bốn tuổi, cùng hai người anh của mình sở hữu một đồn điền rộng bốn nghìn hai trăm mẫu ở thung lũng Red River, bang Minnesota. Vào những năm chín mươi, Gary nhận thấy một điều từ thị trường: hoặc là anh phải tăng cường đầu tư, nâng quy mô sản xuất và mở rộng bán hàng ra toàn cầu, hoặc là anh phải chịu để cho người khác vào nuốt chửng doanh nghiệp của mình. Anh em nhà Wagner không muốn bị nuốt chửng, họ xoay sang tìm biện pháp để cải thiện kỹ thuật. Có lẽ do bố mất sớm và phải bắt đầu quản lý trang trại khi mới hai mươi tư tuổi, Gary Wagner trở nên một người thích các ý tưởng mới. Năm 1993, hãng nghiên cứu nông nghiệp Agleader đến gặp và giới thiệu cho anh một công nghệ mới – một máy đo sản lượng lúa mì, dùng microchip, gắn vào máy gặt liên hoàn, có thể đo chính xác sản lượng thóc của từng mét vuông trên ruộng. Đồng thời thiết bị này truyền tín hiệu với một vệ tinh mà từ đó có thể định vị chính xác tọa độ của máy gặt đập của Gary trên mặt đất. Khi so sánh hai thông số nói trên, Gary có thể tính được chính xác sản lượng lúa mì được gặt đập trên mỗi mẫu ruộng. Phải mất một thời gian thì mới tính toán được như vậy. “Một nhân viên lập trình cùng ngồi với tôi trên máy gặt đập”, Gary cho biết, “đã ghi chép các dữ liệu vào máy tính, khi cùng tôi di chuyển trên cánh đồng, sau đó về khách sạn tính toán, rồi lại đến để đi cùng tôi kiểm tra lại”. Một khi họ hình thành được một chương trình đo đếm như vậy, thì kết quả thật bõ công. “Những điều trông thấy thật đáng ngạc nhiên”, Gary nói. “Bằng mắt thường thì đúng là ruộng của tôi thửa nào cũng giống nhau. Nhưng khi đo chính xác thì thấy sự chênh lệch rõ rệt về sản lượng của từng khu vực, tới mức một trăm năm mươi đô-la mỗi mẫu, từ đó suy ra mức lời lãi hay thua lỗ của từng mẫu ruộng. Phát hiện đó đối với tôi quý như vàng. Vì dựa vào đó, mỗi mùa vụ, tôi có thể lựa chọn trồng cấy giống gì. Nhờ vào phương pháp đánh giá bằng vi tính, chúng tôi có thể xác định giống gì sẽ phát triển tốt nhất ở mảnh ruộng nào”. Thời trước, Gary phải hoạt động trong cơ chế nông nghiệp tập trung hóa. Thông tin từ cơ quan chức năng chuyển xuống cho anh. Anh ta mua các giống lúa từ các công ty khác nhau. Các công ty này cung cấp giống dựa theo các thông tin chung chung đánh đồng từ ở mức: đất này thì giống này đất kia thì giống khác. Nay, một khi biết được sự khác nhau của sản lượng trong mỗi khu vực trong trang trại của mình, Gary đã lựa chọn giống thích hợp cụ thể cho từng mẫu ruộng khác nhau trên mảnh đất của anh. Trên thực tế anh đã phân quyền và sử dụng thông tin tùy thuộc vào sự khác nhau về chất đất và sản lượng dự tính trên từng mảnh đất cụ thể của anh. Anh quyết định cụ thể giống lúa, mức nước, mức phân bón thích hợp đến từng mẫu ruộng. Tất cả những thông tin như vậy rồi được tập trung hóa, lưu giữ và được thông báo từ vệ tinh, vì vậy mỗi khi ra ruộng, qua vệ tinh, Gary biết chắc chắn cần bao nhiêu phân bón, độ đạm trong phân là bao nhiêu, nước từng nào là vừa. Điều đó giúp anh tiết kiệm được khá nhiều và tập trung bón thúc, thâm canh tăng vụ – giảm hóa chất trong phân hóa học bảo vệ môi trường và tăng năng suất, làm nặng thêm túi tiền. “Thay vì phải dùng thông tin chung chung, dựa trên các dự báo theo mức bình quân được đánh giá theo lối tập trung hóa, chúng tôi đã tìm ra được thông tin và giải pháp cụ thể đi sâu xuống tận công việc trên chất đất của mỗi mẫu ruộng”, Gary nói. “Tiền học phí cao nhưng đó là sự đầu tư đúng đắn đối với chúng tôi. Giờ đây thật bõ công. Thực sự mà nói, hiện chúng tôi đang cạnh tranh với mấy anh láng giềng và chúng tôi cần phải có bí quyết. Ai cũng có máy gặt đập liên hoàn, máy cày cấy, cũng dùng chung một nguồn nước và có đất đai, điều phân biệt giữa chúng tôi và người khác đó là chúng tôi có tri thức”. Với tri thức, giờ đây Gary có thể giao việc thật cụ thể cho nhân viên của anh, để tập trung vào xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng đất đai để không bị nuốt chửng. Anh nói, “trước đây, nhân viên khảo sát chất đất chỉ đến lấy mẫu theo lối xác suất rồi kết luận chung. Giờ đây tôi có thể nói cụ thể với họ lấy mẫu ở đâu, so sánh ra sao và đối chiếu với dữ liệu theo dõi từ vệ tinh để kiểm tra đích xác chất lượng thổ nhưỡng. Vậy nếu tôi muốn tìm một khu vực đất thuần chủng cho một giống lúa đặc biệt, tôi sẽ nhờ họ đo đạc chính xác nơi tôi muốn. Tôi có thể chỉ đạo cho họ làm cụ thể, thay vì tự đi mà làm lấy. Con đường duy nhất để phát triển có lãi là phải tăng cường tri thức. Và nếu tôi có thể chứng minh cho nhà băng hiểu những phương pháp cải tiến kỹ thuật của mình thì họ sẽ sẵn sàng hơn trong việc cho tôi vay thêm tiền để đầu tư ”. Gary Wagner hiện vẫn là người đi đầu trong phong trào mang tên “trồng cấy chính xác”. Đa số láng giềng của anh vẫn còn hồ nghi. “Tôi nghĩ nếu ông già tôi còn sống, ông ta tất sẽ rất quan tâm chuyện cải tiến kỹ thuật. Nhưng chắc ông cũng không bao giờ cho phép tụi tôi tiến nhanh như vậy”, Gary nói. “Hiện tại chỉ có anh em tôi, mà tôi là người chỉ đạo, không có ông sếp lớn nào quanh đây, nên chúng tôi có thể mở mang đầu óc và áp dụng chút ít kỹ thuật mới. Cộng đồng những người làm ăn theo lối trồng cấy chính xác hiện còn rất nhỏ, nhưng chúng tôi liên lạc với nhau qua Internet. Hiện tại chúng tôi lập một chat room để cùng trao đổi kinh nghiệm”. Những gì diễn ra đối với người nông dân bang Minnesota cũng diễn ra đối với, Valley Lighting, Inc, một doanh nghiệp có ba mươi lăm nhân viên ở Baltimore, do Jerry Portnoy làm chủ. “Chúng tôi chuyên phân phối các hệ thống đèn và ánh sáng”, Portnoy nói với tôi hồi năm 1999. “Chúng tôi cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất điện dân dụng và các hãng địa ốc chuyên xây dựng các dự án thương mại lớn, trên cơ sở đấu thầu cạnh tranh và thương thuyết. Chúng tôi đấu thầu, thiết kế và hạch toán, làm mọi khâu để cung cấp cho khách hàng với giá cả hợp lý nhất. Và chúng tôi chỉ thành công khi tặng thêm cho khách hàng những dịch vụ đi kèm. Anh có thể hỏi, làm thế nào mà một công ty cấp vật liệu đèn lại gia tăng được dịch vụ? Xin nói là chúng tôi có thể cung cấp những giải pháp cho các hệ thống ánh sáng có giá thành thấp nhất và hợp túi tiền nhất theo đúng đòi hỏi của khách hàng”. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 5: Phần 3 Đầu những năm chín mươi, ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Portnoy theo dõi thấy thị trường của ngành điện có thay đổi. “Lúc đó có cảm giác như có người vừa kéo tấm màn cửa sổ để ánh sáng lọt vào, kết thúc một kỷ nguyên tăm tối”, anh nói. “Khách hàng của chúng tôi thay đổi thái độ, trở nên đòi hỏi nhiều hơn; có những người xưa nay chỉ tặc lưỡi là đặt hàng, nay không thấy đến; có người xưa nay chỉ đến gặp chúng tôi, nay lại dở dói đòi các hãng cung cấp phải đấu thầu để lấy hợp đồng. Các nhân viên bán hàng đến nói với tôi, “chúng tôi không thể kiếm được đơn đặt hàng, cạnh tranh khiếp quá, hoặc mỗi khi kiếm được thì lời lãi chẳng ra sao cả”. Tôi đã nghĩ, “nguy rồi”, nhưng chúng tôi quả thực không hiểu chuyện gì xảy ra. Và như anh nói đó, tường Berlin đang sụp xuống đầu mà chúng tôi không biết”. Trong bối cảnh đó, Portnoy và đối tác của anh quyết định hành động. Họ giành ra một trăm nghìn đô la, trợ giá cho việc giảm mức lãi sản phẩm xuống còn một nửa. Chẳng hạn nếu một thương vụ đạt được với mức lãi thấp hơn bình thường, thì người bán hàng được chu cấp một khoản bù từ quỹ một trăm nghìn đô la. “Điều mà tôi thử nghiệm”, Portnoy nói, “là đo đếm xem chúng tôi có thể cắt ngân sách và tăng năng lực kinh doanh đến mức nào. Thêm nữa chúng tôi dò xem thị trường đang biến đổi ra sao. Thực hiện những hợp đồng mới với mức giá thành thấp hơn, chúng tôi có khả năng mua nguyên liệu thô, sản xuất với hiệu suất cao hơn và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, giảm giá nhưng vẫn có lãi. Và một điều lý thú đã xảy ra. Bộ phận sản xuất của chúng tôi hoạt động tốt hơn, vẫn đáp ứng được các hợp đồng, với doanh thu không thay đổi và không cần phải động đến khoản tiền nào trong quỹ trợ giá. Họ duy trì được lòng tự trọng của mình, không ai muốn bị phải trợ giá. Họ phải làm việc nhiều hơn để đảm bảo hiệu quả sản xuất như trước, và nhiều người trong bọn họ có khả năng làm được điều đó. Tuy vậy, khách hàng tiếp tục trở nên khó tính hơn trước nhiều và nhiều khi khiến chúng tôi phải đau đầu. Sau thập niên tám mươi, ai trong chúng tôi cũng nghĩ mình là thiên tài, nhưng bỗng nhiên, bung! Khách hàng coi chúng tôi chỉ là một thứ dịch vụ cung cấp hàng hóa thông thường. Chúng tôi tiếp tục cải tiến, nhưng khách hàng không lấy thế mà hàm ơn. Họ nói, “dịch vụ tốt, nhưng rồi sao nữa?” Họ là những người bỏ tiền ra, nên bao giờ cũng đi tìm những nơi giá rẻ nhất. Toàn bộ ngành xây dựng trở thành một thứ hàng hóa, không ai trong đó còn được hỗ trợ và bao cấp. Vào thời gian giữa thập niên chín mươi, nhân viên bán hàng phàn nàn rằng họ phải chịu mất một số khách hàng truyền thống. Họ phải đấu thầu rất nhiều nơi, tăng cường khá nhiều dịch vụ, để có thể thu hút và giữ được khách, và kiếm được cùng một mức lợi nhuận. Chính vì thế họ không còn nhiều thời gian để nghiên cứu các hạng mục công việc và khai thác chính xác khả năng lời lãi trong từng hợp đồng. Và xin nhớ cho, bí quyết của việc đấu thầu là nắm được thông tin và có tri thức dồi dào. Càng hiểu thêm được ngóc ngách của từng công việc, bạn càng có thêm khả năng tiết kiệm và đảm bảo được mức lãi suất khiến bạn có thể tồn tại”. Năm 1994, công ty Valley Lighting chưa đến nỗi lỗ, nhưng đạt mức lãi thấp hơn trước nhiều. MIDS đã xuất hiện. Rõ ràng các quá trình dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ đã làm thay đổi cơ bản môi trường kinh doanh của công ty và biến nhiều khu vực dịch vụ truyền thống thành các loại hàng hóa. “Tôi quan sát và nhận ra rằng từ trước đến lúc đó, chúng tôi hoạt động trong một môi trường thiếu thốn thông tin”, Portnoy cho biết. “Chúng tôi không có đủ thông tin và tri thức để tồn tại trong thị trường mới mẻ đó. Xưa nay, bao giờ chúng tôi cũng đảm bảo cung cấp cho khách hàng mức giá trị cao hơn là mức giá thành họ phải thanh toán. Trong tình thế hạn chế về tài chính ngày nay, nếu chúng tôi đảm bảo cung cấp chín mươi phần trăm đòi hỏi của khách với giá thành là bảy mươi phần trăm, thì có thể cạnh với đối thủ – những người chỉ cung cấp bảy mươi phần trăm đòi hỏi của khách mà vẫn lấy giá là bảy mươi phần trăm. Như thế chúng tôi có thể tồn tại. Tôi hiểu rằng cần phải duy trì khả năng đó trong môi trường mới”. Và công ty này tiến hành cải tổ thực sự. Portnoy thuê một nhà tư vấn điện toán hai mươi nghìn đô-la để tìm một loại phần mềm trên thị trường để giúp cho việc quản trị và hoạt động của công ty nhanh chóng và thông minh hơn, khiến duy trì được giá trị gia tăng trong dịch vụ với khách hàng và chống lại khả năng bị biến thành một thứ hàng hóa. “Sau khoảng một năm tìm kiếm, chúng tôi không tìm ra một chương trình phần mềm nào đáp ứng được năm mươi phần trăm nhu cầu của mình. Chúng tôi quyết định tự viết phần mềm riêng cho mình”, Portnoy giải thích. “Tôi không biết gì về viết chương trình điện toán. Nhưng hai nhân viên chủ chốt của tôi đã tự học được công nghệ đó. Từ mức nghiệp dư, họ trở nên say mê chế tạo phần mềm. Tôi đã thuê một lập trình viên chuyên nghiệp, người đã hợp tác cùng nhân viên của tôi, cho ra đời một chương trình điện toán phục vụ chính xác những đòi hỏi và theo hướng chiến lược của công ty. Tôi không biết làm sao họ làm được việc đó; việc của tôi chỉ là duyệt chi tiền cho họ hoạt động – đó là một nhiệm vụ nặng nề. Toàn bộ chi phí vào khoảng ba trăm năm mươi nghìn đô-la. Nhưng nó đã cứu công ty của tôi. Chương trình điện toán mới cho phép nhân viên bán hàng và tài vụ hiểu thấu được ngóc ngách của từng hạng mục công việc, từ đó họ thiết kế và viết các tài liệu đấu thầu nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn. Quy trình đơn giản hóa khiến họ chỉ việc điền vào một bộ mẫu hồ sơ có sẵn, tiết kiệm được thời gian. Quan trọng hơn, toàn bộ hệ thống mang tính tương tác và chuyển tiếp, trong đó khâu báo giá tự động chuyển thành hóa đơn bán hàng và lệnh xuất hàng cũng như khâu bảo trì. Tất cả những dữ liệu đó có thể đồng thời xuất hiện trên màn hình, giúp các nhân viên không phải lần giở từng khâu, ngược trở về trước để dò và kiểm tra. Một dữ liệu nhất định, một khi được nạp vào máy sẽ được dùng một cách nhất quán cho nhiều dự án. Ban đầu chúng tôi chỉ có những máy vi tính hoạt động độc lập. Nay chúng tôi có hệ thống các máy quy tụ thành mạng tích hợp. Trong sáu tháng đầu năm 1998, doanh thu và lãi của chúng tôi tăng ba mươi ba phần trăm, với số lượng nhân viên không đổi. Nếu cùng một số lượng nhân viên không đổi mà tăng lãi được một phần ba, thì khi tăng cường nhân viên, mức lãi sẽ lên cao hơn và doanh nghiệp sẽ được mở rộng. Trong khung cảnh cạnh tranh cá lớn nuốt cá bé như hiện nay thì doanh nghiệp của bạn phải lớn, nhanh nhẹn và giàu tri thức hơn đối thủ, thì mới mong thành công. Không rõ có giữ được như vậy vĩnh viễn không, nhưng tôi biết một điều, tôi đang tồn tại, cho đến một ngày nào đó có người nào phát triển hơn tôi”. “Như thế thì chức năng của tổng giám đốc thay đổi ra sao?” Tôi hỏi Portnoy. “Thành thực mà nói thì nay hiểu biết của tôi về tình hình kém hơn trước, nhưng điều đó không phải là trở ngại. Tôi giao trách nhiệm cho người của mình. Họ quyết định nhiều hơn và họ nắm được nhiều thông tin hơn. Nhân viên bán hàng của tôi không hưởng theo hoa hồng. Họ phối hợp thành một đội hình, họ hợp tác, cùng làm việc và không phải cạnh tranh đấu đá chống nhau. Họ biết là nếu công ty làm ra tiền, thì họ sẽ có thu nhập. Đó là điều khiến họ chia sẻ thông tin nhanh nhạy hơn với nhau. Ai trong số họ cũng trau dồi thêm thông tin và chính vì thế, họ có nhiều thẩm quyền hơn. Họ có thể cùng nhau bàn bạc xem gói thầu nào đáng theo đuổi và khả năng thắng lợi ra sao, gói thầu nào thu lãi cao và gói nào dễ hoàn thiện. Và quan trọng hơn là từ khi có chương trình máy tính mới, ai ai cũng có thời gian suy nghĩ và nghiên cứu, thay vì suốt ngày cứ phải tính toán tỷ mẩn, dò đi xét lại. Họ có thể quản trị được công việc, thay vì công việc quản trị bản thân họ. Công ty tôi hiện giống như một tập hợp các doanh nghiệp cá nhân trong đó ai cũng có quyền quyết định. Công việc của tôi hiện nay là giúp đỡ cho các nhân viên cùng nhau làm việc, giúp đỡ họ, trang bị cho họ và để họ làm theo cung cách hiệu quả nhất”. Trách nhiệm khởi đầu từ đó. Câu chuyện sau cùng. Chiến lược tồn tại sau khi tường Berlin sụp đổ – điều bạn sẽ nghe rất nhiều trong những năm tới – có thể được tóm tắt bằng một quảng cáo năm 1999 của Tổng Công ty Tin học. Đầu đề của quảng cáo là: “Bạn chờ đợi thương mại điện tử đến bao giờ?” Nội dung của mẩu quảng cáo là: “Trong mỗi doanh nghiệp đều tiềm ẩn một cơ hội thương mại điện tử. Khả năng chuyển động nhanh hơn và tiến xa hơn. Khả năng giúp khai thác những thời cơ mới trong nền kinh tế điện tử. Nếu chần chừ quá lâu, bạn sẽ để mất đi cơ hội đó”. Trong những năm tám mươi, Internet là điều khá mới mẻ. Đến những năm chín mươi, nó trở thành một công nghệ thật hữu dụng. Và tới thời điểm thiên niên kỷ mới, Internet trở thành điều thiết yếu trong công việc làm ăn. Chính vì thế vào năm 2000, phố Wall căn vặn các công ty với câu hỏi: hệ số IQ của quý vị là gì? Chỉ số Internet, chứ không phải chỉ số thông minh, của quý vị là bao nhiêu? Quý vị có hiểu rằng Internet không phải là một thứ đồ chơi, một khúc ruột thừa trong hoạt động doanh nghiệp? Hay đó chính là một công cụ không thể thiếu được, giúp cho quý vị giao dịch với khách hàng, nhà cung ứng vật liệu và các công ty hữu quan khác? Alan Greenspan nói nhờ có Internet, các công ty có thể nắm được nhanh chóng thông tin về những thay đổi của thị hiếu khách hàng trên thương trường thời nay, về tình trạng cung cấp vật tư và kỹ thuật và tình trạng sản phẩm trong các dây chuyền sản xuất. Điều đó khiến các nhà sản xuất có thể nhanh chóng thanh lý các loại sản phẩm kém giá trị, gạt bỏ các loại thiết bị không cần thiết, tăng cường tri thức cho công nhân để họ cải tiến sản phẩm đáp ứng từng khía cạnh chi tiết trong thị hiếu của khách hàng. Khi ngày càng có thêm các công ty nhận thức được điều đó thì một ngành nghề mới xuất hiện. Tôi xin gọi đó là nghề bác sĩ Internet. Những bác sĩ đó có tư cách như Tổng Công ty Tin học. Họ là đội ngũ những nhân viên cấp cứu, để các tổng giám đốc các công ty gọi đến than phiền: “Trời ơi, Internet là gì vậy? Nó tác động thế nào đến doanh nghiệp của tôi và làm thế nào tôi có thể ứng phó bây giờ?” Alan S. Cohen là một trong những bác sĩ Internet đầu tiên. Trong lĩnh vực Internet, ông ta có vai trò tương tự bậc thầy Hippocrates trong ngành y. Ông đứng đầu một đội ngũ quản trị, chữa trị những trục trặc trên mạng cho các khách hàng ngành viễn thông của Cisco Systems, hãng máy tính xây dựng mạng Internet cũng như tự phát triển dựa vào mạng lưới Internet. Khi một công ty gọi số “911 – xin được cấp cứu”, Cisco cử Alan Cohen đến để “chẩn đoán và bốc thuốc” điều trị mạng Internet của công ty đó. Ông nói trong khi thị trường để bán sản phẩm Internet thật là lớn, thì có một thị trường lớn hơn nhiều, dành cho việc đào tạo và tư vấn cho các công ty cách sử dụng thật hiệu quả Internet trong những khâu như giao dịch với khách hàng, nhà cung cấp sản phẩm và quản trị nội bộ. “Động lực đầu tiên khiến tổng giám đốc của một công ty gọi bác sĩ Internet là sự hoang mang – họ lo sợ rằng thương mại điện tử đe dọa mô hình làm ăn của họ”, Cohen nói. “Tôi là một bác sĩ Internet. Thứ bác sĩ có thể tư vấn cho bạn trong một vài mức độ. Bác sĩ tồi chỉ chuyên nhằm vào hiện tượng ngoại khoa. Bác sĩ giỏi thường nhìn vào tận gốc rễ. Thỉnh thoảng một công ty gọi đến nói với chúng tôi: “Chúng tôi làm ăn còn yếu kém. Chúng tôi muốn dùng Internet để bán được thêm nhiều hàng hóa. Hãy giúp đỡ”. Điều đầu tiên tôi nói với họ là “Lý do bạn làm ăn yếu kém, không bán được hàng trên mạng chưa hẳn là do bạn không có một chiến lược bán lẻ trên Internet đúng đắn. Hãy đặt chuyện thương mại điện tử sang một bên đã. Dường như nhân lực của bạn làm ăn chưa hữu hiệu. Hình quan hệ giữa bạn và các hãng cung cấp chưa được lành mạnh cho lắm. Trước hết bạn cần có Internet để khắc phục những trở ngại như vậy. Sau đó chúng ta sẽ nói chuyện thương mại điện tử”. “Phần nhiều giám đốc các công ty tìm đến chúng tôi là những người không nhận thấy Internet hay công nghệ thông tin chính là cốt lõi của doanh nghiệp của họ”, Cohen nói tiếp. “Các công ty thường bị chia làm hai phần – phần sản xuất và bán sản phẩm, và phần còn lại thuộc những khâu khác, trong đó thông thường bao gồm bộ phận sử dụng Internet và công nghệ thông tin, riêng rẽ, không gắn với khâu sản xuất và bán hàng. Trong nhiều công ty, chức năng CIO [Trưởng bộ phận thông tin] được hiểu ngầm là mang ý nghĩa ngồi chơi xơi nước. Công nghệ thông tin thường được mệnh danh là “chi phí”, và “chi phí”, theo thói thường, bao giờ cũng cần được giảm bớt. Tại Cisco, chúng tôi đặt ra một trường phái mới và khuyến khích người khác học theo. Khi có cú điện thoại cấp cứu 911 đến, chúng tôi trước hết sẽ giải thích với khách hàng một số hướng giải quyết. Tôi xin liệt kê như sau: “Quy luật thứ nhất: Để thành công trong thương mại điện tử, chính quý vị phải là một doanh nghiệp điện tử. Quý vị không thể đem gắn Internet vào bất cứ bức tường nào ở đâu đó. Internet phải thâm nhập vào bất cứ lĩnh vực nào mà quý vị đang hoạt động. Trước hết là loại bỏ việc sử dụng giấy má. Xin lỗi, không dùng giấy má. Nếu muốn liên lạc với tôi thì xin hãy dùng email và Internet, không viết trên giấy. Cisco hiện bán phần lớn sản phẩm của mình trên mạng. Khách hàng vào trang của Cisco để đặt hàng trực tiếp, như thế tránh được nhiều lỗi thông tin: xảy ra khi khách hàng phải sao chép lại giấy tờ của người khác. Một khi thông tin đã được nạp vào hệ thống, không ai vào để sửa, chúng sẽ đến thẳng bộ phận cung ứng, đến thẳng nhà máy. Những nhân viên của Cisco vốn dĩ phải đánh máy, nạp thông tin từ khách hàng, nay không cần phải làm thế, họ có thêm thời gian tiếp xúc, trao đổi và góp ý với khách hàng cũng như tiếp thụ nhu cầu của khách. Các nhà cung cấp của Cisco cũng nắm được thông tin của khách hàng, nhờ đó họ chuyển đầy đủ nguyên liệu trực tiếp đến các nhà máy của Cisco, điều đó giúp tránh tình trạng thừa thãi nguyên vật liệu. Cisco cũng đưa lên website của mình các thông tin và dịch vụ tư vấn cho khách hàng – khách hàng như vậy được tư vấn để tự giải quyết những trục trặc giản đơn và kỹ sư của Cisco được giải phóng và tập trung vào những vấn đề phức tạp hơn và vào khâu bảo trì sản phẩm hậu mãi. Tất cả nhằm tiết kiệm thời gian, tránh những khâu vô hiệu quả”. “Cisco cũng nạp toàn bộ hồ sơ lương, thưởng và chi phí cho nhân viên lên mạng, nhờ đó, chỉ trong vòng chưa tới một phút, nhân viên của hãng có thể truy thu tiền công tác và tra cứu lương thưởng của họ đạt được. Nhân viên của hãng được truy lĩnh tiền công tác chỉ hai ngày sau khi nạp hồ sơ trên mạng nội bộ. Vừa rồi chúng tôi vừa sáp nhập thêm được một công ty mới. Khi đó, chúng tôi cử một đoàn đến thăm công ty này. Khi về, chúng tôi mô tả công ty và kế hoạch mua sáp nhập trên email cho các quản đốc của hãng, và đưa ra quyết định cuối cùng trong cuộc họp ban lãnh đạo. Cisco đạt được chiến lược như thế cũng vì khi mới thành lập công ty phát triển nhanh quá, không tuyển kịp nhân lực. Chúng tôi đã chuyển dần từng khâu kinh doanh lên mạng, thực hành tự động hóa, và Internet/ Intranet là nơi khách hàng, nhà cung ứng vật liệu, cơ quan tuyển dụng, nhân viên bán hàng và các kỹ sư có thể lấy thông tin và trực tiếp giao dịch. Và như vậy, chúng tôi không dùng đến giấy má nữa”. Cisco là công ty có hệ liên lạc nội bộ chặt chẽ bằng mạng điện toán giữa các khâu quản lý, sản xuất, kế toán và bán hàng. Họ không cần phải chờ đến thời điểm cuối mỗi quý để biết được khuynh hướng và thực tế hoạt động của công ty, hay mức lãi lỗ của từng phòng ban. Liên hệ chặt chẽ đến mức bất cứ thời điểm nào và trong vòng một giờ đồng hồ họ có thể kiểm toán và hạch toán toàn bộ hoạt động của hãng. Quy luật thứ hai, Cohen cho biết, là: Biến tổng giám đốc thành một nhà truyền giáo của thế giới Internet. Hãy khiến ông ta hay bà ta chịu trách nhiệm về sự thành công của thương mại điện tử trong công ty của bạn. Người ta ai ai cũng lắng nghe sếp của họ. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu vị sếp này không gắn bó với Internet và thương mại điện tử thì chẳng cần ai phải đoái hoài đến ông/bà ta làm gì. Jack Welch của hãng General Electric là người đặt hạn cho các giám đốc của ông phải xây dựng cho được chiến lược sử dụng Internet. Lệnh này đi từ trên xuống, mang tính bắt buộc, cũng vì một nỗi lo là rồi đây Internet sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với các doanh nghiệp. Hơn nữa, thay đổi trong lãnh đạo doanh nghiệp là yếu tố chính, dẫn tới thay đổi bản chất và nội dung doanh nghiệp. “Là một bác sĩ Internet, khi tiếp xúc với các công ty khách hàng, tôi thường phát hiện ra những nhân tố muốn cải tổ, muốn gắn thành công trong bước đường công danh của anh ta trong công ty với thương mại điện tử”, Cohen nói. “Nếu có ông chủ công ty nào nói, “Hãy giúp chúng tôi để giải quyết cho xong cái vụ Internet này, để tôi còn giữ ghế”, thì đó không phải là người chúng tôi muốn giúp đỡ. Chúng tôi muốn thấy những con người dám chịu chơi đến cùng, tạo ra một khuynh hướng năng động và thay đổi toàn cục trong công ty của mình”. “Quy luật thứ ba là: Công khai hóa thông tin. Hãy cho phép mọi người vào tìm hiểu bất cứ thông tin gì vào bất cứ lúc nào. Bạn cần có đạo luật tự do thông tin áp dụng trong các công ty để nhân viên, nhà cung cấp và khách hàng vào truy cập. Một khi khách hàng vào truy cập nguồn hàng và hồ sơ rồi đặt hàng cho họ, chính họ sẽ tiết kiệm thời gian và tăng cường hiệu quả làm ăn của hãng. Đa phần, khách hàng chính là người viết được đơn đặt hàng chính xác nhất. Khách hàng vào trang của chúng tôi có thể tìm ngay được thông tin và thông số họ cần. Không những mua hàng của chúng tôi, khách hàng còn có dịp nhận xét về chất lượng, cung cách phục vụ. Chúng tôi học thêm được từ đó và những khách hàng tiềm năng cũng có được những thông tin như vậy. “Quy luật thứ tư: Huấn luyện và khuyến khích khách hàng và nhân viên luôn truy cập trang web của công ty. Mỗi khi có một khách hàng gọi điện đến hãng, tổng đài của chúng tôi sẽ gợi ý, “quý vị có biết rằng có thể tìm thấy nhiều giải đáp cho thắc mắc của quý vị, thậm chí giải đáp cho câu hỏi vừa rồi trên trang mạng của chúng tôi mà không cần phải xếp hàng chờ đợi để gặp nhân viên?” Chúng tôi cũng đã thiết lập một trường đại học trên mạng để đào tạo nhân viên và khách hàng cũng như nâng cấp các kỹ năng của nhân viên công ty. Những người muốn xin việc chỗ chúng tôi đều có thể vào các trang này để hiểu biết thêm về công ty”. Càng có thêm những lớp học thông thường biến thành các khóa học trên mạng, càng có thêm khách hàng truy cập lấy thông tin và tự khắc phục khó khăn thay vì phải đợi nói chuyện với nhân viên của hãng, thì Cisco càng thu hút thêm nhiều khách hàng và hoạt động với chi phí thấp hơn trước nhiều”. Quả như vậy, Cohen nói, “Chúng tôi đã cải cách chế độ thưởng nhân viên trong hãng bằng cách giao chỉ tiêu là mỗi trưởng phòng phải chứng minh rằng mỗi năm, họ phục vụ nhiều khách hàng hơn với số lượng nhân viên ít hơn trước – và cách duy nhất để làm điều đó, chính là tận dụng Internet. Ngày nay, khoảng tám mươi phần trăm thắc mắc của khách hàng và các nhà cung cấp được giải đáp qua mạng. Do vậy, chúng tôi thu hút được nhiều thương vụ hơn, với số nhân viên hỗ trợ kỹ thuật giảm đi. Thêm nữa, đa số những bạn hàng của Cisco giao dịch với hãng qua Internet. Nếu quý vị muốn bán những mặt hàng đơn giản như giấy vệ sinh hay máy tính, quý vị phải có danh mục mặt hàng, catalogue cập nhật trong trang mạng thu mua của chúng tôi và chỉ một cú nháy chuột, chúng tôi có thể so sánh giá cả và bấm một nút nữa chúng tôi có thể đặt hàng. Chúng tôi không mang vác catalogue như trước kia nữa, vì, không dùng đến giấy tờ. Quý vị không thể liên lạc với tôi trên giấy trắng mực đen nữa. ” Một khi một công ty đã tiến hành áp dụng chiến lược Internet, nhóm của Cohen sẽ xây dựng một loạt các thử nghiệm kiểm tra chất lượng. Ông ta gọi đó là “thí nghiệm xác định thành phần Cholesterol của thương mại điện tử,” - đo đếm khả năng ứng dụng mạng của doanh nghiệp đó. “Sau đó một năm, chúng tôi sẽ đo những thay đổi trong cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp,” ông nói. “ Ví dụ, hiệu suất lao động của mỗi nhân viên tăng bao nhiêu? Hiệu suất của cùng một nhóm nhân viên tăng bao nhiêu? Đối với Cisco, chúng tôi tính được đã tiết kiệm khoảng 1,5 tỷ đô-la trong thời gian 1996-99 thông qua phương pháp đưa mọi dịch vụ lên Internet. Đánh giá của khách hàng về chuyện cải tiến dịch vụ ra sao? Khách hàng có nhận thấy rằng họ giao dịch với công ty qua Internet thường xuyên hơn và họ thích hơn không? Công ty có khả năng giảm chi phí vận chuyển hàng và vật liệu do đã công khai hóa thông tin với khách hàng và các nhà cung cấp vật tư? Liệu Internet đã giúp khách hàng đặt hàng dễ dàng hơn và nhờ đó, cùng một khách hàng nhưng đã đặt hàng nhiều hơn? Nhân viên bán hàng tăng năng suất bao nhiêu? Và sau cùng, nhân viên công ty cải thiện đời sống và trị giá của công ty tăng bao nhiêu? Thị trường đánh giá chất lượng công ty thay đổi do ứng dụng chiến lược Internet như thế nào?” Nói một cách khác, thị trường đánh giá ra sao về chiến lược phát triển phòng chống hậu quả của việc bức tường Berlin sụp đổ ra sao? Nói đơn giản hơn, cố gắng tồn tại trong thời hậu tường Berlin chính là điều mà chính phủ Trung Quốc đang thực thi, thông qua các cuộc bầu cử cấp làng bản, dẫu cho phân nửa số lượng chỉ mang tính hình thức. Bắc Kinh cũng đang cố bàn giao trách nhiệm và quyền quyết định xuống cấp địa phương bởi họ đã hiểu rằng đó là cách duy nhất để giải quyết những vấn nạn kinh tế ở vùng nông thôn. Họ muốn dân bản làng tự bầu ra người của họ và đưa ra những quyết định thiết thân với họ. Lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tuyển cử ở địa phương cho ra đời được tầng lớp lãnh đạo tốt hơn, những người hiểu biết hơn về thực trạng nông thôn, và có thể tận dụng nguồn lực tại chỗ, để lý tưởng nhất là tự xây dựng thành công kinh tế nông thôn. Đó là phương pháp tản quyền và phân chia trách nhiệm vạch chính sách trong lĩnh vực kinh tế, chứ không phải trong lĩnh vực chính trị. Tổ chức bầu cử địa phương sẽ không đủ để khiến kinh tế Trung Quốc phát triển theo tốc độ chính phủ nước này mong muốn. Họ cần xúc tiến nhiều hơn các bước tản quyền. Nhưng tôi chắc rằng đó là những bước cần thiết ban đầu, những người dân bản tôi gặp cũng tin như vậy. Và hình như tôi chưa nói cho bạn hay ai là người đã thắng trong cuộc bầu cử ở làng Gujialingzi nói ở đầu chương sách này. Chúng tôi đã ngồi chờ hàng tiếng đồng hồ, chờ kiểm phiếu trong một trường học. Tôi không bao giờ quên hình ảnh những nông dân chen chúc ngoài cửa, nhìn qua cửa sổ và quan sát kết quả kiểm phiếu viết bằng phấn trắng trên bảng đen. Dù được phái nữ ủng hộ, Liu Fu, ứng cử viên mới, đã thua, bị người cựu trưởng bản đánh bại. Nhiều người trong số phóng viên chúng tôi sau đó đã hỏi chuyện Liu Fu. Ông ta nói ông buồn vì đã thất bại nhưng ông đã từng chứng kiến nhiều chuyện tệ hại hơn nhiều. Tệ hại hơn rất nhiều. Trong thời Cách mạng Văn hóa ông đã từng bị đấu tố, nhưng giờ đây, sau hai mươi năm, ông được quyền tranh cử chức trưởng bản. Được hỏi, trong Cách mạng Văn hóa, ông có chịu tuyệt vọng không, Liu Fu trả lời bằng một ngạn ngữ Trung Hoa: “Một bàn tay sao che lấp được mặt trời”. CHIẾC LEXUS VÀ CÂY Ô LIU Thomas L. Friedman www.dtv-ebook.com Phần I - Chương 6 6. Chiếc áo nịt vàng Trong chuyến đi quan sát bầu cử ở Trung Quốc lần đó, tôi cùng người phiên dịch đi lang thang trong làng Heng Dao và ghé vào thăm nhà một người nông dân đã chuyển làm thợ máy cơ khí. Anh này nuôi ngỗng và lợn ở đằng trước nhà, nhưng trong nhà thì sắm đủ dàn stereo và TV màu. Phiên dịch của tôi, một sinh viên lúc đó đang theo học ở Hoa Kỳ phát hiện ra một điều mà tôi đã không thấy được - không thấy cái loa công cộng nào gần đấy. Dưới thời Mao Trạch Đông, chính quyền mắc loa vào tận gia đình thuộc các “công xã” (tên đơn vị hành chính thời đó), để tuyên truyền và hướng dẫn chủ trương. Chúng tôi hỏi anh nông dân thế loa cất đi đâu hết rồi? “Năm ngoái chúng tôi gỡ hết xuống rồi”, anh này nói. “Không ai muốn nghe từ những cái loa này nữa. Giờ chúng tôi có dàn máy stereo và TV”. Điều người nông dân này không nói ra, đó là việc người dân không cần phải nghe những tuyên truyền của Bắc Kinh nữa. Anh ta biết những tuyên truyền đó rồi. Chúng cũng không phải là những lời dạy của Mao Chủ tịch, mà có nội dung đơn giản hơn nhiều: “Hãy tự thân vận động. Kiếm việc làm. Gửi tiền cho gia đình”. Trước đó vài tháng, tôi ở Thái Lan, quan sát một nền kinh tế tư bản theo lối bè cánh đang suy sụp. Tôi thu xếp để phỏng vấn Sirivat Voravetvuthikun, một tay kinh doanh xây dựng địa ốc bị khánh tận trong thời gian Thái Lan chịu khủng hoảng tài chính. Anh và vợ đã trở thành biểu trưng của hậu quả của khủng hoảng Thái Lan – họ phải xin đi bán bánh mỳ kẹp thịt để sống qua ngày. Từ chỗ giàu có, nay hai vợ chồng phải đi thuê một chỗ trong trung tâm Bangkok, cùng với những người làm cũ của họ dựng một cơ sở bán bánh mì kẹp thịt và giao hàng trên đường phố. Sirivat đến chỗ tôi cổ đeo một hộp đựng thức ăn màu vàng giống như một tay bán rong ở một sân vận động ở Mỹ. Điều tôi nhớ nhất trong buổi phỏng vấn là anh ta không lộ vẻ cay đắng hay tuyệt vọng. Anh nói đất nước Thái Lan đã tự làm hỏng việc. Ai cũng biết thế. Dân chúng giờ đây phải thắt lưng buộc bụng chịu đựng, tiếp tục chương trình và không còn nhiều điều để nói. Tôi hỏi anh ta đã có lúc nào giận dữ hay không? Có lúc nào muốn đốt công sở của chính phủ không, khi thấy tài sản của mình bị mất mát? Không, Sirivat giải thích: “Chúng tôi không muốn quay về sống nơi rừng rú, ai cũng muốn có đời sống khá hơn, vậy ai cũng phải làm sao để chủ nghĩa tư bản có hiệu quả, không còn con đường nào khác. Chúng tôi phải tự cải thiện và tuân theo quy luật của thế giới... Chỉ có những người biết cạnh tranh mới tồn tại được. Hiện nay có thể phải cần đến một chính phủ đoàn kết quốc gia vì gánh nặng của mọi người thật là lớn”. Vài tháng sau đó tôi đến dự một buổi thuyết trình tại Washington của Anatoly Chubais, công trình sư của những cuộc cải cách kinh tế và tư nhân hóa của nước Nga mà nay đã thất bại. Chubais sang Hoa Kỳ để kêu gọi lần cuối cùng những trợ giúp tài chính của IMF sang Nga; trong khi đó hạ viện, Viện Duma của nước này, trong đó phần đông là các dân biểu cộng sản, tiếp tục tự sửa lại những điều kiện mà IFM đặt ra khi cho nước Nga vay tiền. Viện Duma thường chụp cho Chubais cái mũ phản quốc và tay sai của nước ngoài do việc ông ta thúc giục đất nước cải tổ sâu sát hơn về kinh tế và định hướng theo thị trường tự do. Tôi hỏi Chubais ông đáp lại những lời chỉ trích đó ra sao và ông trả lời: “Ok”, tôi nói với họ, “Chubais là một điệp viên của CIA và IMF. Nhưng quý vị có cách nào khác không? Các vị có sáng kiến gì mới không?” Với câu hỏi đó, Chubais nói, chưa bao giờ ông ta nhận được câu trả lời nào cho đàng hoàng vì những người cộng sản không nghĩ ra được điều gì khả dĩ hơn. Vài tháng sau đó tôi sang Brazil. Ở đó tôi phỏng vấn Fabio Feldmann, một cựu Bộ trưởng Môi trường của vùng Sao Paulo, dân biểu Quốc hội Brazil, lúc đó đang vận động tranh cử để trở lại vị trí cũ của ông ở Sao Paulo. Văn phòng của ông ta lúc đó có rất đông các nhân viên vận động tranh cử, đầy các bích chương khẩu hiệu. Feldmann là người cấp tiến. Tôi hỏi ông ta về bản chất của các tranh cãi chính trị ở nước này hiện tại là gì. Ông ta nói: “Những người cánh tả [duy ý chí] ở Brazil đang bế tắc. Thách thức đối với chính quyền liên bang là tìm thêm công ăn việc làm cho dân chúng. Quý vị phải đồng thời tạo ra và phân phối nguồn thu nhập trong dân chúng. Thế nhưng những người cánh tả đưa ra được chương trình gì mới? Không thấy họ đề nghị làm thế nào để tạo ra thu nhập, mà chỉ thấy họ muốn phân phối thu nhập”. Những câu chuyện trên nói với chúng ta điều gì? Một khi ba quá trình dân chủ hóa đồng thời xuất hiện vào cuối những năm tám mươi, thổi bay những bức tường, chúng cũng thổi bay những lựa chọn mang tính duy ý chí vốn dĩ được dùng để thay thế chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do. Người ta từng nói đến những mô hình thay thế cho thị trường tự do và nhất thể hóa toàn cầu, người ta từng đòi hỏi phải có cải tổ, và rằng cần phải có “con đường thứ ba”, nhưng giờ đây không thấy những điều đó là khả dĩ. Giờ đây ta thấy rõ sự phân biệt giữa trào lưu ngày nay so với công cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất. Vào thế kỷ mười chín cho tới đầu thế kỷ hai mươi khi cuộc cách mạng công nghiệp và tư bản tài chính hoành hành ở châu Âu và châu Mỹ, nhiều người đã bị sốc khi nghe về cái gọi là sự tàn bạo của chủ nghĩa Darwin và “những cối xay gió của quỷ Satan”. Những thế lực đó phá vỡ những trật tự truyền thống, tăng rõ rệt khoảng cách giàu nghèo và dồn nén lên con người biết bao áp lực. Nhưng chúng cũng giúp tăng đến mức chóng mặt mức sống của một tầng lớp đã biết tận dụng thế mạnh của máy móc và công cụ tài chính. Thực tế lúc đó làm sản sinh ra nhiều tranh cãi và học thuyết, vì người ta muốn tạo những tấm đệm bảo vệ giới thợ thuyền trước những con quỷ tư bản và thị trường tự do. Như Karl Marx và Friedrich Engels đã miêu tả tình cảnh thời đó trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản: “Cách mạng hóa thường xuyên trong sản xuất, động chạm thường xuyên tới điều kiện xã hội, xuất hiện bất ổn vĩnh viễn và sự gây rối, tất cả giúp phân biệt cho thấy những đặc điểm của giai cấp tư sản thời mới. Những quan hệ truyền thống với định kiến và tư duy dù cũ kỹ hay đáng tôn kính đều bị quét sạch. Những luồng tư duy mới vừa được sản sinh sẽ nhanh chóng mòn mỏi, thậm chí hóa thạch. Những gì trước đây vững chắc nay bị nung chảy, những gì trước đây là thiêng liêng, nay bị tầm thường hóa, và con người đến lúc đã được đánh thức để nhận thức một cách thực tế hơn về giá trị cuộc sống và những mối quan hệ trong nhân loại”. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc – cùng với sự rạn vỡ của những bức tường bảo vệ nó – những người xưa nay không thích thú gì với mô hình Darwin mà họ cho là tàn bạo, đã không đưa ra được bất cứ lý thuyết nào mới để thay thế cho lý thuyết thị trường tự do. Khi câu hỏi, “hệ thống nào ngày nay là hữu hiệu nhất trong việc tăng cường mức sống?” được đặt ra thì không thấy ai còn bàn cãi ra nữa. Vì câu trả lời duy nhất cho điều đó là: chủ nghĩa tư bản trên nền tảng thị trường tự do. Những hệ thống khác có lẽ đã hữu hiệu hơn trong việc phân chia công bằng và hợp lý hơn các nguồn tài sản, nhưng, khi so sánh với chủ nghĩa tư bản cùng thị trường tự do, thì chúng hoàn toàn thất bại trong việc tạo dựng thêm các nguồn tài sản và thu nhập mới. Và đó là điều con người ta ngày càng thấu hiểu. Vậy nói theo cách duy lý thì ngày nay không còn sự phân biệt riêng rẽ giữa bánh chocolate hay kẹo dâu hay chanh yên hay chanh cốm. Ngày nay chỉ còn món kẹo vani mang tên thị trường tự do và Bắc Triều Tiên. Ngày nay món kẹo vani mang tên thị trường tự do có nhiều loại, nhiều nhãn hiệu, tùy sở thích của bạn, và theo đó bạn vận dụng nhanh hay chậm mà thôi. Nhưng chung cuộc thì phải chăng bao giờ bạn cũng mong cuộc sống khấm khá hơn, mong một thế giới trong đó không còn rào cản, và như vậy, thị trường tự do chính là tư duy duy nhất hiện hữu. Một con đường. Nhiều tốc độ. Nhưng vẫn duy nhất chỉ một con đường. Một khi đất nước của bạn nhận thức ra điều đó, khi nó nhận thức được các quy luật về thị trường tự do trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay và quyết định tuân thủ, nó sẽ khoác lên mình một thứ tôi tạm gọi là chiếc áo nịt vàng. Chiếc áo đó được dệt bằng loại sợi mang đặc điểm kinh tế và chính trị của thời đại toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa có chiếc áo nịt vàng. Nếu đất nước của bạn chưa có thì trước sau cũng sẽ phải may. Chiếc áo nịt vàng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1979 do Thủ tướng Anh Margaret Thatcher dệt. Bà sẽ đi vào lịch sử như một trong những nhà cách mạng của nửa cuối thế kỷ hai mươi. Chiếc áo của Thatcher sau đó được Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan cải tiến trong những năm tám mươi, dệt thêm cho nó những loại sợi mới bền hơn. Và chiếc áo phản ánh thời trang của sự kết thúc Chiến tranh Lạnh, một khi ba cuộc dân chủ hóa thổi bay những thứ thời trang khác và những hàng rào bảo hộ chúng. Những cuộc cách mạng do Thatcher và Reagan tạo dựng xuất hiện khi đa số dân chúng trong hai nền kinh tế chủ yếu của phương Tây (Anh và Mỹ) kết luận rằng sự chỉ đạo trực tiếp nền kinh tế của chính phủ không còn có thể đảm bảo tăng trưởng hữu hiệu nữa. Thatcher và Reagan đã kết hợp, vứt bỏ đi nhiều phần chủ chốt của quyền lực quản lý kinh tế trực tiếp của nhà nước thuộc trường phái Xã hội Lớn và nền kinh tế Keynes, và trao quyền quyết định cho thị trường tự do. Để mang chiếc áo đó, một đất nước phải tuân theo, hoặc tỏ ra sẵn sàng tuân theo những luật lệ vàng sau đây: tăng cường khu vực tư nhân thành đầu tàu để tăng trưởng kinh tế, duy trì mức lạm phát thấp, duy trì giá cả ổn định và giảm biên chế, giảm nhẹ bộ máy quan liêu của nhà nước, cân đối ngân sách dẫu không duy trì được thặng dư, thủ tiêu hoặc giảm hàng rào nhập khẩu, bỏ bớt hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, bỏ chế độ quota và độc quyền của các ngành nội địa, tăng xuất khẩu, tư nhân hóa khu vực kinh doanh của nhà nước, thả nổi thị trường tài chính, khiến đồng nội tệ được phép hoán chuyển thành ngoại tệ, mở cửa các ngành công nghiệp, thị trường chứng khoán và cổ phần cho nước ngoài sở hữu và đầu tư trực tiếp, thả nổi kinh tế nội địa cho phép cạnh tranh, xóa bỏ tham nhũng, móc ngoặc và bao cấp trong chính phủ, mở cửa hệ thống thông tin và ngân hàng cho khu vực tư nhân vào cạnh tranh và cho phép dân chúng của họ được tự do đầu tư với đồng tiền hưu bổng của họ ở trong nước cũng như ngoài nước. Tất cả những yếu tố trên dệt thành chiếc áo nịt vàng. Hơi đáng tiếc là chiếc áo đó chỉ có một cỡ. Nên nó sẽ gây khó chịu đối với một số nhóm nhất định trong xã hội và khiến toàn bộ xã hội phải chịu áp lực thường xuyên giảm thiểu cơ cấu kinh tế và tăng hiệu quả hoạt động. Nó nhanh chóng bỏ rơi người ta nếu họ không mang áo, nhưng nó cũng nhanh chóng giúp con người theo kịp đà phát triển, nếu họ chịu đựng mang cho đúng cách. Người ta không còn có thể õng ẹo lựa chọn nên mặc áo cho đẹp, cho ấm hay cho vừa – thời trang năm nay chỉ còn có một chiếc áo đó thôi. Một khi đất nước của bạn mặc chiếc áo đó lên người thì có hai điều có khuynh hướng xảy ra: kinh tế tăng tiến và chính trị xẹp đi. Có nghĩa là về kinh tế, chiếc áo nịt vàng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân trong dân chúng – thông qua thương mại, đầu tư nước ngoài, tư nhân hóa và việc sử dụng hữu hiệu hơn tài nguyên vật lực của đất nước trước bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nhưng về mặt chính trị, chiếc áo này thu hẹp khả năng lựa chọn, hạn chế và kiểm soát về chính trị và hoạch định chính sách kinh tế của nhà cầm quyền. Chính vì thế ngày này rất khó phân biệt được sự khác biệt trong chính sách của chính phủ và phái đối lập đưa ra ở những quốc gia đã mặc chiếc áo nịt. Một khi mặc chiếc áo đó lên, chính phủ ở đất nước của bạn chỉ có thể lựa chọn giữa Pepsi và Coca Cola khi hoạch định về chính trị – có thể có chút ít khác biệt trong những khía cạnh nhỏ nhoi, hình thức, một chút đáp ứng truyền thống và văn hóa địa phương… nhưng không bao giờ họ đi ngược hay phủ định được các nguyên lý bằng vàng nói trên. Đối với các chính phủ dù có thuộc những người theo phái dân chủ hay cộng hòa, bảo thủ hay công đảng, phái De Gaulle hay chủ nghĩa xã hội, dân chủ thiên chúa giáo hay dân chủ xã hội – nếu họ không tuân thủ những nguyên tắc chung về quản lý thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn và ra đi, lãi suất sẽ tăng và trị giá chứng khoán của đất nước sẽ sụt xuống. Cách duy nhất để cử động trong chiếc áo nịt là làm thế nào cho nó giãn ra, và cách duy nhất làm nó giãn ra là người mặc phải lên cân, to béo hơn. Một khi kích cỡ người mặc lớn lên thì số vàng trên chiếc áo sẽ được sản ra nhiều hơn cho xã hội. Quả nhiên những tranh cãi chính trị trong các quốc gia phát triển ngày nay đã và đang được gói gọn trong việc làm thế nào để chỉ đưa ra những điều chỉnh về tiểu tiết, tránh những cải tổ lớn. Về kinh tế, giữa quan điểm của Bill Clinton và của đối thủ Bob Dole trong cuộc tranh cử năm 1996, thì sự khác nhau thực sự nằm ở đâu? Không thấy. Clinton nói đại thể: “Chúng ta đang phải mặc chiếc áo nịt vàng, nhưng tôi có một cách giúp chúng ta vá thêm một miếng vào khuỷu tay và nới ở vùng bụng chút ít”. Bob Dole thì nói: “Không, không, quý vị không thể nới ở vùng bụng được, giữ cho chặt bụng và thắt chặt thêm ở khuỷu tay”. Nói gì thì nói nhưng họ chỉ bàn về cùng một chiếc áo mà cả hai đều không ai không muốn thay thế – và không chỉ có hai vị này làm như vậy. Năm 1997, khi tranh cử chức Thủ tướng Anh, ông Tony Blair cam kết, “Chúng tôi sẽ tiếp tục mặc chiếc áo nịt vàng tương tự như phái bảo thủ, nhưng chúng tôi sẽ đắp thêm vào vùng vai và ngực”. Đối thủ của Blair lúc đó là John Major dường như đã đáp lại, “Đừng có động đến sợi tơ nào trên chiếc áo đó. Margaret Thatcher đã may nó chật như vậy thì, lạy Chúa, cứ để thế mà mặc”. Chính vì thế Paddy Ashdown, thủ lĩnh đảng Tự do của nước Anh khi quan sát Blair và Major hồi năm 1997 và lắng nghe cương lĩnh của cả hai vị đã phát biểu rằng thực ra chính sách của cả hai bên không khác biệt nhau là mấy. Ashdown nói Blair và Major lúc đó đang tham gia “bơi đồng diễn nghệ thuật”. Trong thời điểm mà các bức tường sụp đổ và chiếc áo nịt vàng trở thành thời trang, đi khắp thế giới tôi đã chứng kiến nhiều những cuộc bơi đồng diễn như vậy. Trước cuộc tuyển cử năm 1998 ở Đức, trong đó Gerhard Schroeder thuộc đảng Dân chủ Xã hội đánh bại Helmut Kohl thuộc Dân chủ Thiên chúa giáo, hãng thông tấn AP đã trích lời Karl-Josef Meiers thuộc Hiệp hội Đối ngoại của Đức nói về hai đối thủ trên: “Quý vị có thể quên đi những nhãn hiệu Tả hay Hữu. Cả hai đều ngồi cùng một chuyến đò thôi”. Lee Hong Koo được chứng kiến tận mắt chiếc áo nịt vàng khi ông ta đảm đương cương vị Thủ tướng Hàn Quốc khoảng giữa thập niên chín mươi. “Ngày xưa, chúng tôi từng nói, “Lịch sử phán xét điều này điều kia”, Lee nói, “giờ đây chúng ta nói “những thế lực thị trường” phán xét và người ta sẽ phải sống và ứng phó với những thế lực đó. Cần có thời gian thì chúng ta mới hiểu. Chúng tôi ban đầu đã không nhận thấy rằng trong kết cục của Chiến tranh Lạnh, thế lực của thị trường đã lên ngôi, đứng trên chính trị. Những vấn đề lớn ngày nay là phải chăng bạn đã có dân chủ, và, phải chăng bạn đã có một nền kinh tế mở chưa? Đó là những câu hỏi lớn. Một khi bạn đã lựa chọn, thì nền chính trị chỉ còn là một điều chỉnh chính trị trong một quỹ đạo khá hạn hẹp trong hệ thống”. Lee vốn dĩ trưởng thành trong Đảng Quốc gia của Hàn Quốc cầm quyền qua nhiều năm. Nhưng sau khi kinh tế Hàn Quốc đổ vỡ vào thời điểm 1997-1998 thì đất nước này nhận thấy họ cần phải mặc áo nịt thật sát nữa nếu họ vẫn còn muốn tiếp tục phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Dân chúng Hàn Quốc đã dẹp đi những loại chính trị gia cổ lỗ và bầu Kim Dae Jung, một nhân vật theo đảng Tự do, suốt đời bênh vực nhân quyền, lên làm Tổng thống. Nhưng chính Kim đã đề xuất Lee sang làm Đại sứ của Hàn Quốc ở Washington. Lee nói với tôi: “Trong quá khứ làm gì có chuyện một người như bản thân tôi, vốn là ứng viên tổng thống rồi là thủ tướng và thủ lĩnh của đảng đối lập với chính phủ mới lại được chính người đứng đầu chính phủ mới, thuộc một đảng khác, tín nhiệm, mời làm đại sứ ở Washington. Tuy nhiên trong tình hình hiện tại, khi mà Hàn Quốc đang muốn vượt khỏi cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay, sự khác biệt về quan điểm của tôi và của Tổng thống Kim không còn mấy ý nghĩa. Chúng tôi không có nhiều lựa chọn”. Thế đấy, người Hàn nói “cùng hội cùng thuyền”, hay, “bơi đồng diễn” bằng tiếng Hàn như thế nào nhỉ? Manmohan Singh giữ chức Bộ trưởng Tài chính của Ấn Độ vào năm 1991, khi đất nước này xóa bỏ nền kinh tế chỉ huy, đông cứng kéo dài hàng chục năm, và tự khoác lên chiếc áo nịt vàng. Trong văn phòng của ông ta ở Quốc hội Ấn Độ, năm 1998, Singh kể với tôi cảm giác bất lực của ông khi đất nước bắt đầu đi theo con đường này. “Chúng tôi được biết rằng sẽ có những lợi điểm khi đất nước được vào khai thác các thị trường tài chính trên thế giới, nhưng khả năng kiểm soát và phân phối của chính phủ sẽ giảm, nếu chúng tôi tiếp tục mở cửa ra bên ngoài. Nếu bạn hoạt động trong một thị trường toàn cầu hóa thì bạn sẽ phải hiểu biết và cọ xát với tính cách của các thế lực khác cùng tham gia trong cuộc chơi – dù bạn có cho rằng người ta đúng hay sai. Bạn sẽ phải trau dồi những hiểu biết đó và sử dụng nhuần nhuyễn trong quá trình vạch chính sách cho riêng bạn... Chúng ta ở trong một thế giới mà số phận của ai ai cũng liên hệ với nhau, nhưng những lo lắng và mong đợi của Ấn Độ chưa được ai đếm xỉa tới. Đó chính là điều khiến mọi người khắc khoải. Nếu bạn thực thi một chính sách hối đoái hay chính sách tiền tệ thì những chính sách của bạn chỉ là một phần tiểu tiết của những gì Alan Greenspan quyết định. Điều đó làm giảm quyền tự do của bạn, thậm chí giảm khả năng tự quyết về tài chính. Trong một thế giới mà tiền vốn lưu hành rộng rãi trên phạm vi quốc tế thì bạn không thể quyết định mức thuế một cách riêng rẽ, khác biệt với mức thuế của các nước khác. Và một khi nhân công cũng trở nên di động trên phạm vi toàn cầu thì bạn không thể tự quyết riêng rẽ về mức lương và thưởng của họ. Toàn cầu hóa đã giảm khả năng tự quyết của các chính phủ. Tôi có một người bạn ở nước láng giềng, cũng là bộ trưởng tài chính. Cái ngày ông ta được bổ nhiệm, tôi có gọi để chúc mừng. Nhưng ông ta trả lời, “Đừng có mừng cho tôi. Tôi chỉ là một nửa ông bộ trưởng. Nửa kia nằm ở Washington”. Không phải nước nào cũng mang hết chiếc áo nịt lên mình – một số nước mặc nửa chừng (Ấn Độ và Ai Cập). Một số khác mặc lên rồi lại cởi ra (Malaysia và Nga). Một số nước sửa lại chiếc áo cho hợp với bản sắc văn hóa của họ và cởi bớt một số nút (Đức, Nhật Bản và Pháp). Một số nước cho rằng họ có thể cưỡng lại sức nịt chặt của áo khi họ sở hữu những nguồn tài nguyên như dầu lửa chẳng hạn (Iran và Ảrập Xê-út). Một số nước khác rất nghèo và bị cô lập, nơi chính phủ còn có thể buộc dân chúng của họ chịu khổ – họ không mặc cho dân tấm áo nịt vàng, mà chỉ khoác cho họ tấm áo nịt cũ kỹ đơn sơ (Bắc Triều Tiên, Cuba, Sudan và Afghanistan). Nhưng thời gian sẽ trôi đi và áo nịt vàng sẽ dần trở thành điều không thể thiếu đối với bất cứ nước nào. Thông thường khi tôi nói điều đó với những người dân không phải là người Mỹ, họ thường phản ứng như sau: “Đừng có dạy chúng tôi mặc áo nịt và kết nối vào thị trường toàn cầu. Chúng tôi có văn hóa riêng, giá trị riêng và chúng tôi phát triển kiểu cách và tốc độ riêng. Lý thuyết của anh quá là áp đặt. Tại sao chúng ta lại không cùng ngồi lại với nhau để cùng nhất trí về một mô hình khác, thoải mái hơn?” Tôi xin đáp lại: “Tôi không nói rằng bạn buộc phải mặc chiếc áo đó. Và nếu những truyền thống văn hóa và xã hội của bạn đi ngược lại những giá trị là thuộc tính của chiếc áo đó thì tôi xin được hoàn toàn thông cảm. Nhưng tôi xin tuyên bố điều này: Trong hệ thống thị trường toàn cầu ngày nay, thế giới phát triển nhanh và chiếc áo nịt vàng chính là sản phẩm của nhiều thế lực trong lịch sử và về cơ bản đã cải tổ toàn bộ phương pháp chúng ta dùng để liên lạc, để đầu tư và xây dựng tầm nhìn vào thế giới. Nếu muốn đi ngược lại, điều đó tùy ở bạn và vĩnh viễn là việc của bạn. Nhưng nếu bạn nghĩ là có thể đi ngược lại với những trào lưu như hiện nay mà không bị trả một giá càng ngày càng đắt hơn, không phải tự dựng lên những hàng rào ngày càng cao hơn để tự bảo vệ, tự cô lập – thì bạn đã nhầm”. Vì sao: Những trào lưu dân chủ hóa tài chính, công nghệ và thông tin không những đã thổi bay những bức tường bảo vệ những trường phái khác – thổi bay sách đỏ của Mao, những nhà nước phúc lợi phương Tây kiểu cũ và những chế độ tư bản cánh hẩu ở Đông Nam Á. Ba trào lưu dân chủ hóa đó đồng thời mở đường cho một lực lượng mới ra đời trên thế giới – tôi gọi đó là một Bầy Thú Điện Tử. Bầy Thú Điện tử gồm những tay môi giới và buôn chứng khoán, cổ phiếu và các loại tiền tệ trên khắp thế giới. Họ ngồi trước các màn hình máy vi tính, chuyển tiền bằng điện tử qua nhiều thứ quỹ hỗ tương và quỹ hưu trí vào các thị trường tài chính mới nổi. Từ tầng hầm các chung cư, nơi họ ngụ cư, các vị này mua bán chứng khoán thông qua Internet. Trong bầy thú còn có các công ty xuyên quốc gia, hiện đang phân tán các nhà máy của họ trên khắp thế giới, tìm tòi để sử dụng các loại tài nguyên và nguồn nhân lực rẻ nhất. Bầy thú này lớn rất nhanh, tận dụng thành quả của trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ – đến mức, ngày nay chúng thay thế dần dần chức năng của các chính phủ trong việc chu cấp vốn đầu tư cho các công ty và các quốc gia. Trên thực tế một khi các quốc gia ngày càng bị buộc phải mặc chiếc áo nịt vàng để cân đối ngân sách, thì nền kinh tế của họ ngày càng bị phụ thuộc vào khả năng cấp vốn của Bầy Thú Điện Tử. Vậy thì để phát triển bền vững, mỗi quốc gia ngày nay không những phải thắt lưng buộc bụng nhưng vừa phải nhập vào bầy thú này. Bầy thú rất khoái chiếc áo nịt vàng, vì chiếc áo này giúp sản sinh ra những luật lệ tự do và thị trường tự do mà chúng rất muốn thấy tồn tại ở mỗi nước. Những nước đã tự giác mặc chiếc áo đó thường được bầy thú thưởng cho những khoản vốn đầu tư lớn. Những nước nào """