"
Chiếc Ghế Người - Edogawa Ranpo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Ghế Người - Edogawa Ranpo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
TRUYỆN SỐ 1
MỘT TẤM VÉ THƯỢNG
Không, tôi cũng biết đôi chút. Chuyện đó quả nhiên là một bí ẩn dạo gần đây. Người ta thêu dệt đủ thứ từ đầu đến cuối. Nhưng chắc không ai rõ bằng cậu đâu. Cậu có thể tiết lộ với tôi đôi chút được không?”
Nói rồi, một cậu trai lịch thiệp, bảnh bao đưa lên miệng miếng thịt đẫm máu đỏ hồng.
“Ừm, vậy thì tôi sẽ kể một chuyện thôi nhé. Này, bồi bàn, cho tôi thêm một cốc bia nữa.”
Một thanh niên khác có vẻ ngoài trông khá chỉn chu nhưng mái tóc dài xõa ra một cách ngớ ngẩn. Anh ta bắt đầu kể chuyện.
“Chuyện xảy ra vào thời Đại Chính ngày 10 tháng 10, lúc bốn giờ sáng, địa điểm là đoạn đường sắt phía sau nhà của tiến sĩ Tomita, cuối thị trấn A. Đây chính là nơi diễn ra câu chuyện. Lúc bấy giờ đang là mùa đông (à không cũng có thể là mùa thu, nhưng mùa nào thì cũng không quan trọng lắm), trời vẫn còn nhá nhem tối, đoàn tàu số hiệu xxx đang lao vút tới. Đột nhiên, không biết vì lý do gì, một hồi còi báo động hú lên inh ỏi, ngay lập tức đoàn tàu phanh gấp lại và dừng đột ngột bởi một lực tác động vô cùng lớn. Nhưng do một chút sai sót trước khi tàu dừng hẳn, một người phụ nữ đã bị cán chết. Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh đó. Lần đầu tiên trong đời tôi trông thấy cảnh tượng kinh khủng đến vậy.
Đó là vợ của ông tiến sĩ. Nghe tin cấp báo, một đám người không biết từ đâu chạy lại, toàn những kẻ hiếu kì. Một người trong số họ đã tức tốc chạy đến nhà tiến sĩ để báo tin. Ngay lập tức, ông tiến sĩ trong bộ dạng hốt hoảng lao ngay đến cùng người nhà. Như cậu cũng đã biết, tôi đã có mặt trong đám đông láo nháo đó bởi vì tôi có
thói quen đi dạo vào sáng sớm, và tình cờ có mặt tại hiện trường khi tới khu phố A chơi. Thế rồi họ bắt đầu khám nghiệm tử thi. Một người đàn ông, hình như là bác sĩ pháp y tới kiểm tra tình trạng chấn thương. Sau khi hoàn tất các thủ tục, thi thể nhanh chóng được khiêng về nhà của tiến sĩ. Trong con mắt của những kẻ không liên quan thì sự việc gây chấn động đó có vẻ đã lắng xuống.
Đó là tất cả những gì tôi chứng kiến. Đoạn sau là do tôi tổng hợp lại các bài viết đăng trên báo, cộng với trí tưởng tượng của tôi. Cậu hãy nhớ cho điều đó. Trở lại câu chuyện, theo như những gì tay bác sĩ pháp y quan sát, nguyên nhân rõ ràng là tử vong do bị tàu cán, phần đùi bên phải bị cắt đứt lìa khỏi thân. Một bức thư rơi ra từ trong túi áo của người chết giải thích lý do tại sao lại ra cơ sự này. Bức thư của người vợ gửi cho ông tiến sĩ, trong đó có đoạn viết vì không thể chịu nổi sự đau đớn do căn bệnh lao phổi quái ác hành hạ trong nhiều năm trời và vì không muốn làm phiền mọi người xung quanh nên tôi đã quyết định tự tử. Sơ sơ là như vậy. Chuyện như này thực ra cũng không phải hiếm. Nếu như ở đây, không xuất hiện một vị thám tử lừng danh thì câu chuyện đã đi đến hồi kết, vụ tự sát do áp lực bệnh tật của phu nhân tiến sĩ sẽ chỉ dừng lại là một mẩu tin nhỏ nằm ở một góc của tờ báo chuyên đăng tải những tin tức giật gân mà thôi. Nhưng nhờ có vị thám tử tài ba nên chúng ta mới có chuyện hay để kể ở đây.
Người đó là Kuroda Kiyotaro, viên cảnh sát hình sự được báo chí hết lời ngợi khen, một gã đàn ông rất dị ngày nào cũng đọc một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Ông ta bò xuống như một chú chó trong mấy cuốn tiểu thuyết trinh thám được dịch ra từ tiếng nước ngoài, hít hít ngửi ngửi khắp hiện trường. Sau đó, ông ta vào dinh thự của tiến sĩ, chất vấn chủ nhân cũng như người ở rất nhiều câu hỏi. Thậm chí, ông ta còn cầm kính lúp, sục sạo khắp các phòng không chừa bất cứ ngóc ngách nào dù là nhỏ nhất. Cậu cứ nghĩ là ông ta đang tiến hành các nghiệp vụ thám tử mới đi. Tay thám tử đã đứng trước mặt cấp trên và nói: ‘Chúng ta cần phải điều tra thêm một chút nữa.’ Những người có mặt ở đó không khỏi ngạc nhiên, cả căn phòng nhao nhao lên. Tử thi được đem đi giải phẫu theo lệnh
của sĩ quan trưởng. Tại bệnh viện của trường đại học, ca giải phẫu được tiến hành bởi các bác sĩ đầu ngành. Và kết quả không nằm ngoài suy luận của thám tử lừng danh Kuroda. Nạn nhân có dấu hiệu sử dụng một loại độc dược trước khi bị tàu cán chết bởi. Tức là, vị phu nhân đã bị kẻ nào đó sát hại, sau đó hắn mang cái xác đặt trên đường ray và tạo dựng hiện trường giả cho giống với một vụ tự sát. Quả là một vụ giết người đáng sợ. Báo chỉ lúc đó đã giật tít Kẻ thủ ác là ai? nhằm khơi dậy sự tò mò của chúng ta. Vì thế, thám tử Kuroda đã bị công tố viên triệu tập, yêu cầu truy tìm chứng cứ phạm tội.
Chứng cứ mà ông thám tử đưa ra, thứ nhất là một đôi giày đế thấp, thứ hai là những mẫu dấu chân thu được tại hiện trường lấy được từ vữa trắng, thứ ba là vài tờ giấy nhàu nhĩ đã qua sử dụng. Có chút thi vị nhỉ? Với ba bằng chứng phạm tội này, người đàn ông đã kết luận, phu nhân của vị tiến sĩ không tự sát mà đã bị giết hại. Và kẻ gây án không ai khác chính là tiến sĩ Tomita. Cậu thấy thế nào? Thú vị đấy chứ?”
Gã thanh niên trẻ nhìn đối phương và nhếch miệng cười ranh mãnh. Cậu ta rút từ trong túi áo ra một hộp thuốc lá bằng bạc, khéo léo lấy một điếu và gập nắp lại đánh “cách”.
“Đúng thế!” Cậu thanh niên còn lại châm lửa cho bạn và nói tiếp. “Đến chỗ đó thì tớ cũng biết sơ sơ. Nhưng tớ muốn cậu nói cho nghe bằng cách nào mà cái tay Kuroda đó lại phát hiện được tên giết người ấy.”
“Câu chuyện trinh thám rất hay phải không? Theo như những gì tay Kuroda đó giải thích thì thứ khiến ông ấy nghi ngờ có kẻ khác nhúng tay vào là việc có rất ít máu chảy ra từ miệng vết thương của người chết. Ông ta đã ghé tai nói nhỏ với bác sĩ pháp y. Một chi tiết cực kì nhỏ nhặt. Về điều này thì cũng có một vụ, người mẹ già đã bị giết ở một thị trấn nọ vào năm Đại Chính, không rõ cụ thể ngày tháng năm nào, chỉ biết là sự việc xảy ra cách đây đã rất lâu. Điều cốt lõi của thuật trinh thám là càng nghi ngờ càng tốt. Với mỗi nghi
ngờ, ta không được phép chủ quan mà phải điều tra thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ từng điểm nghi vấn một. Vị thám tử này cũng nằm lòng bài học đó. Ông ta đã thử đặt ra một giả thuyết. Một kẻ nào đó, có thể là đàn ông hoặc phụ nữ, đã ép vị phu nhân này uống thuốc độc. Sau đó hắn đã mang thi thể của nạn nhân tới đường tàu và chờ cho đoàn tàu lăn bánh qua sẽ nghiến nát mọi thứ. Nếu giả thuyết này là đúng thì chắc chắn vẫn còn sót lại dấu vết nào đó của việc di chuyển cái xác tới đường tàu. Ông ta đã suy luận như vậy đấy. Mà số ông ta cũng hên. Trời mưa liên tục cho tới trước đêm xảy ra vụ giết người, những dấu chân hằn rõ trên mặt đất. Hơn nữa, quãng thời gian từ lúc tạnh mưa khoảng nửa đêm hôm trước đến hơn ba rưỡi sáng, có rất nhiều dấu chân gần hiện trường. Vì vậy, tay thám tử mới bắt đầu bò xuống hít hít ngửi ngửi như một chú chó, như tôi đã nói ban nãy. Ta cùng phác họa sơ đồ hiện trường một chút xem sao nhé.” Nói đoạn, Souda, người thanh niên trong vai trò là người kể chuyện, rút từ trong túi áo ra một quyển sổ nhỏ, và bắt đầu vẽ phác qua sơ đồ bằng một cây bút chì.
“Đường tàu hỏa hơi nhô cao hơn so với mặt đất, hai bên đều dốc, một bên đường ray cỏ mọc um tùm. Có một bãi đất trống rất rộng nối giữa đường tàu với cửa sau dinh thự nhà tiến sĩ Tomita, đúng rồi, nó phải rộng cỡ một cái sân tennis. Dấu chân in lên ở chỗ đó, phía bên kia đường ray - tức là phía đối diện với dinh thự của tiến sĩ - là một cánh đồng lúa rộng bao la, ta còn nhìn thấy ống khói của một nhà máy nào đó phía xa nữa. Tách biệt với thị trấn... trải dài theo hướng tây đông, dinh thự của tiến sĩ là một dãy các ngôi nhà được xây theo lối kiến trúc cổ châu Âu nằm ở rìa phía tây, dãy nhà đó gần như nằm song song với đường tàu, ngôi nhà vẫn luôn có người sinh sống và ra vào. Và ngài thám tử của chúng ta, đã bò rạp xuống tìm kiếm khắp khu đất trống phía trước ngôi nhà và đường tàu. Thứ mà ông ta đánh hơi được là hàng chục dấu chân ngược xuôi xuất hiện ở đó. Thoạt nhìn thì không thể phân biệt được vì có vô số những dấu chân và chúng tập trung nhiều quanh khu vực xác chết nhưng sau khi xem xét kĩ lưỡng, Kuroda phát hiện ra có các kiểu dấu chân như dấu chân xỏ tất, dấu chân đi guốc mộc, dấu giày... Khi mang những kiểu dấu chân này so sánh với chân những
người có mặt ở hiện trường thì ông ta thấy thừa ra một. Tức là có một dấu chân không xác định. Chưa hết, nó còn là dấu giày. Vào sáng sớm, không một ai trong đám người bọn họ đi giày. Có điểm gì đó hơi kì lạ. Sau khi điều tra thêm thì ông ta phát hiện, dấu chân đáng ngờ đó từ nhà bác sĩ đi ra.”
“Cậu cứ như maxó ấy nhỉ, cái gì cũng biết.” Matsumura, cậu thanh niên đang nghe bạn kể chuyện liền nói chen vào.
“Ồ không, về điểm này tôi thua mấy tờ báo lá cải nhiều lắm. Cứ hễ xảy ra những vụ án kiểu này, bọn họ sẽ tập trung đăng tải dài kỳ để thu hút sự quan tâm của dư luận. Điều này đôi khi cũng rất hữu ích. Lần này, thám tử tiếp tục điều tra những dấu chân đi qua đi lại giữa nhà của tiến sĩ và nơi phát hiện ra tử thi thì ông ta thu được bốn loại dấu chân. Thứ nhất đó là dấu chân khả nghi không biết của ai mà tôi nói lúc nãy, thứ hai là dấu chân xỏ tất chạy tới hiện trường vụ án của tiến sĩ, thứ ba và thứ tư là dấu chân của người ở nhà tiến sĩ, chỉ có bốn loại đó, không tìm thấy dấu chân của nạn nhân đi bộ đến đường tàu. Nếu có dấu chân của nạn nhân thì hẳn nó phải là dấu chân xỏ tất tabi với kích thước chân vào loại nhỏ, nhưng không tìm thấy nó ở bất kì đâu. Thế là, thám tử Kuroda đưa ra kết luận, hoặc là nạn nhân đã xỏ vào giày của đàn ông và đi ra đường tàu, nếu không thì một kẻ nào đó có dấu chân phù hợp với bốn loại trên đã vác phu nhân đến đường tàu. Đương nhiên, khả năng đầu tiên không thể xảy ra. Vậy thì không còn chối cãi gì nữa, chắc chắn chỉ có thể là khả năng thứ hai. Dấu chân đó có một điểm hết sức kì lạ. Phần gót của nó hằn sâu lên mặt đất bất thường, chứng tỏ người mang nó đã phải vác theo một vật rất nặng. Sức nặng của món đồ đó làm gót chân cắm sâu xuống đất. Thám tử Kuroda đã rất tự đắc khoe trên báo lá cải chi tiết này. Ông ta đã nói nhiều lắm, trình bày chủ yếu những phương pháp điều tra để có thể nhận biết đâu là dấu chân của con người - thứ chỉ cho chúng ta biết rất nhiều điều. Dấu chân như thế này là của kẻ tàn tật, dấu chân như thế này là của kẻ mù lòa, còn dấu chân như thế này là của phụ nữ có thai.
Nếu quan tâm thì cậu hãy thử tìm đọc mấy tờ báo lá cải số ra trước đó.
Nếu kể hết thì sẽ dài lắm nên tôi sẽ bỏ qua một số tiểu tiết. Từ dấu chân nói trên, thám tử Kuroda đã phải rất vất vả điều tra mới cho ra được kết quả. Ông ta đã phát hiện ra một đôi giày đế thấp có chiều dài vừa khít với dấu giày nghi vấn. Nó được tìm thấy ở tận dưới bậc thềm trong nhà của tiến sĩ. Thật không may, nó lại chính là đôi giày mà vị học giả nổi tiếng vẫn hay dùng. Qua lời khai của người ở trong nhà, thám tử Kuroda đã biết được điều này. Còn rất nhiều những chứng cứ vụn vặt khác. Phòng của người ở nằm khá xa phòng của vợ chồng tiến sĩ, vào đêm xảy ra vụ án mạng, hai người hầu gái đều ngủ rất say. Họ không hề hay biết gì về việc xảy ra trong đêm hôm đó cho tới khi tỉnh giấc vì những tiếng ồn ào vào sáng sớm. Ông tiến sĩ, thật hiếm là đêm đó ông ta lại có mặt ở nhà. Hơn thế nữa, những uẩn khúc trong gia cảnh nhà tiến sĩ cũng như một sự làm chứng cho dấu giày. Uẩn khúc đó, chắc cậu cũng đã biết, tiến sĩ Tomita là con rể của cố bác sĩ Tomita. Tức là, tiến sĩ Tomita đi ở rể và đã kết hôn với phu nhân, vốn là một người con gái ích kỷ lại mắc phải căn bệnh lao phổi quái ác, khuôn mặt chẳng bao giờ lộ chút biểu cảm và càng ngày càng trở lên vô cùng điên loạn. Có lẽ không ít người sẽ tưởng tượng ra một mối quan hệ vợ chồng nhàm chán hình thành giữa họ. Quả thực là tiến sĩ đã bí mật xây nhà cho một geisha mà ông ta yêu mê mệt. Nhưng với tôi, tôi không nghĩ việc làm này ảnh hưởng đến giá trị của ông ta. Vì thế, bà vợ vốn đã điên loạn càng điên loạn hơn và thường xuyên nổi cơn thịnh nộ với chồng. Về phần tiến sĩ cũng vậy. Có lẽ mối quan hệ nhàm chán này đã vượt quá sức chịu đựng của mình nên ông ta mới gây ra thảm kịch đó. Lập luận đến đây đã khá là logic.
Nhưng còn một nghi vấn nữa chưa được làm sáng tỏ. Đó là bức thư rơi ra từ túi áo của nạn nhân như tôi đã kể ban đầu. Sau khi xem xét rất kĩ thì đó chính xác là chữ viết của phu nhân. Tại sao bà ta có thể viết ra những lời không đúng với lòng mình như vậy? Đó là một thách thức đối với thám tử Kuroda. Ông ta cũng nói để tìm ra chân tướng sự việc cần không ít thời gian. Sau rất nhiều nỗ lực, cuối
cùng ông ta cũng tìm thấy chúng. Đó là những tờ giấy nhàu nhĩ mà tiến sĩ đã dùng chúng để bắt chước chữ của vợ mình. Trong đống giấy đó có một bức thư được gửi cho tiến sĩ khi ông ta đi du lịch. Ông ta đã lấy đó làm mẫu và bắt chước viết y chang. Thủ đoạn hết sức tinh vi. Thám tử đã tìm thấy chúng trong thùng rác ở phòng làm việc của tiến sĩ.
Vậy, kết luận là như thế này. Ông tiến sĩ đã quyết định ra tay với vợ mình, kẻ mắc chứng điên loạn không thuốc chữa đồng thời là cái gai trong mắt, là kẻ cản trở tình yêu vụng trộm của ông ta. Không những thế, ông ta còn lên sẵn một kế hoạch vô cùng kĩ lưỡng để hành động mà không làm tổn hại đến thanh danh của mình. Ông ta đã cho vợ uống thuốc, nhưng thực chất lại là một liều thuốc độc. Sau khi thành công, ông ta liền bế vợ lên, xỏ chân vào đôi giày để thấp nọ rồi đặt bà ta vào đường ray ở gần đó từ cửa sau. Ông ta còn cẩn thận nhét vào túi áo nạn nhân bức thư thay cho lời trăn trối. Khi cái xác được phát hiện, kẻ giết người táo bạo còn cả gan chạy lại hiện trường với khuôn mặt không giấu nổi sự ngạc nhiên. Toàn bộ câu chuyện là như vậy. Nhưng tại sao tiến sĩ không li hôn với vợ mà lại chọn cách nguy hiểm này nhỉ? Rất nhiều phóng viên đã đưa ra những suy luận riêng của họ, trong đó một tờ báo đã đưa ra lời giải thích như sau. Thứ nhất, vì tình nghĩa đối với người bố vợ quá cố nên ông ta phải ra tay theo cách đó để tránh những chỉ trích từ dư luận. Lý do thứ hai, cũng có thể là lý do chính dẫn đến việc tiến sĩ ra tay giết người một cách dã man, đó là vì người vợ được thừa hưởng một phần tài sản do cha mẹ để lại.
Vậy là thám tử Kuroda đã vạch trần được tội ác của tiến sĩ, tên tuổi của anh ta nổi như cồn. Mấy tay nhà báo tự nhiên thu hoạch được cả mớ tin để khai thác đến bất tận trong khi giới học thuật được một phen lao đao vì bê bối. Như cậu đã nói thì thiên hạ vẫn chưa ngưng bàn tán về vụ việc này. Bởi vì vụ án cũng có đôi chút kịch tính đó mà.”
Kể xong câu chuyện, Souda uống cạn cốc bia trước mặt mình.
“Cậu nói là thích khám phá hiện trường nhưng cũng tìm hiểu đáng kể đấy chứ nhỉ. Nhưng cái tay Kuroda đó, hắn đúng là một người thông minh và không có vẻ gì giống một sĩ quan cảnh sát nhỉ.”
“Ừ thì, ông ta cũng là một kiểu tiểu thuyết gia.”
“Ồ, ở mà cũng phải. Một tiểu thuyết gia lỗi lạc. Thậm chí có thể nói ông ta đã tạo ra thứ còn hấp dẫn hơn cả tiểu thuyết ấy chứ.”
“Nhưng tôi lại nghĩ ông ta cũng chỉ là một tiểu thuyết gia không hơn mà thôi.”
Nói đoạn, Souda đưa tay vào túi áo gi-lê, vừa như tìm thứ gì đó. Cậu ta lại nhếch miệng cười một cách mỉa mai. “Ý câu là sao?”
Matsumura chớp chớp mắt hỏi trong làn khói thuốc lá. “Kuroda có thể là tiểu thuyết gia nhưng ông ta lại không phải một thám tử đâu.”
“Tại sao?”
Matsumura rất ngạc nhiên. Có thứ hay ho rồi. Cậu ta nhìn vào mắt Souda như thể chờ đợi một sự bất ngờ. Souda rút từ trong túi áo ngực ra một mẩu giấy nhỏ và đặt nó lên trên bàn.
“Cậu biết thứ này là gì không?”
Souda nói.
“Thứ đó thì sao cơ? Nó chẳng phải là một tấm vé của thương hội PL ư?”
Matsumura hỏi lại với vẻ mặt khó hiểu.
“Chính xác. Đây là tấm vé bốn mươi xu cho thuê gối trên toa hạng ba tàu tốc hành. Tình cờ tôi đã nhặt được nó ở hiện trường xảy ra án mạng. Tôi sẽ dùng nó để khẳng định sự vô tội của tiến sĩ.”
“Cậu nói cái gì ngớ ngẩn vậy? Cậu đùa đúng không?” Matsumura hỏi bằng giọng bản tín bán nghi, như thể cậu ta cũng không dám phủ định hoàn toàn.
“Bất kể bằng chứng là gì thì tiến sĩ vẫn vô tội. Bởi vì tiến sĩ Tomita là một học giả nên kể cả vợ ông ta có là một người phụ nữ cuồng loạn đi chăng nữa thì thế giới này... Phải rồi, tiến sĩ là người của thế giới. Người như ông ấy, thế gian này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một kẻ phải điện rồ tới mức nào mới muốn tự chôn mình khỏi thế giới này chứ? Matsumura này, thực ra, tôi có chuyến tàu vào lúc một giờ rưỡi hôm nay. Tôi định tới nhà tiến sĩ Tomita và muốn hỏi người nhà ông ấy một chút chuyện.”
Nói đoạn, Souda khẽ liếc xuống chiếc đồng hồ, cậu ta với lấy giấy ăn lau tay rồi đứng dậy.
“Cũng có thể tiến sĩ sẽ tự biện minh được cho chính mình hoặc những luật sư ủng hộ tiến sĩ sẽ biện hộ cho ông ấy. Nhưng chứng cứ tôi đang nắm trong tay lúc này thì không một ai có. Chắc cậu rất muốn tôi nói rõ vì sao tôi có thể khẳng định chắc nịch như vậy. Nhưng hãy đợi đấy. Mọi chuyện chưa thể kết thúc khi tôi còn chưa làm sáng tỏ điều này. Vẫn còn một chút lỗ hổng trong lập luận của tôi. Tôi phải lấp đầy lỗ hổng đó nên xin thất lễ với cậu một chút, tôi sẽ đi và quay lại. Này anh bồi bàn, hãy chuẩn bị ô tô cho tôi. Thế nhé, hẹn gặp cậu vào ngày mai.”
HẠ
Hôm sau, tại thành phố A, trên tờ nhật báo số ra buổi chiều được cho là có số lượng phát hành lớn chưa từng có, đăng tải một bài viết rất dài. Tiêu đề của bài báo là Chứng minh sự vô tội của tiến sĩ Tomita, phía dưới có ký tên Souda Goro.
Tôi đã nộp một tài liệu có nội dung tương tự bài báo này cho ông thẩm phán chịu trách nhiệm xét xử tiến sĩ Tomita. Tôi nghĩ có lẽ chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã đủ bằng chứng rồi nhưng đề phòng trường
hợp thẩm phán có sự hiểu lầm khiến những lời nói chỉ từ miệng một gã sinh viên mọt sách là tôi bị chôn vùi trong bóng tối hoặc bị phản bác bởi vị thám tử đại tài rằng nó đi ngược lại với sự thật đi chăng nữa thì sau khi sự việc xảy ra, tôi muốn để dư luận được sáng tỏ rằng tiến sĩ Tomita, người mà tôi rất kính trọng hoàn toàn vô tội. Tôi không rõ quý tòa soạn có cho công bố bài báo này của tôi hay không nhưng với mục đích đánh động dư luận, tôi đã gửi nó đến quý tòa soạn.
Tôi không có ân oán gì với tiến sĩ. Tôi chỉ là một người rất bình thường vô cùng ngưỡng mộ và kính trọng trí tuệ của tiến sĩ qua những cuốn sách mà ông ấy viết. Nhưng vì vụ việc xảy ra gần đây thì để giải cứu cho vị học giả đáng kính đã bị kết tội oan và vì tôi vô tình có trong tay chứng cứ mà tôi tin chắc rằng ngoài tôi không ai có, nên với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, đương nhiên tôi phải hành động. Tôi hy vọng rằng sẽ không có sự hiểu lầm nào về điểm này.
Vì lý do gì mà tôi tin chắc rằng tiến sĩ vô tội? Nếu dùng vài từ để nói thì cơ quan tư pháp chỉ qua kết quả điều tra của viên thám tử Kuroda Kiyotaro mà đã vội kết luận rằng tiến sĩ là kẻ gây án thì e rằng không thu hút được dư luận cho lắm. Đúng là màn kịch vớ vẩn của trẻ con. Quý vị cảm thấy thế nào khi tôi so sánh trí tuệ vô song của một học giả lớn không bao giờ bỏ sót dù là chi tiết nhỏ nhất với vụ án lần này? Quý vị không thấy quá ư là nực cười bởi ý nghĩ xa vời đó ư? Trí tuệ của tiến sĩ đã già cỗi đến mức ông ta để lại những dấu giày vụng về, những nét chữ giả dạng nguệch ngoạc hay cốc thuốc độc rồi để cho ông Kuroda đó ghi danh với thiên hạ ư? Học giả kiêm kẻ bị tình nghi là tiến sĩ lại không tiên liệu trước được rằng thuốc độc sẽ sót lại trên thi thể của nạn nhân hay sao? Chưa cần phải giao nộp bất cứ bằng chứng nào thì tôi vẫn tin chắc rằng đương nhiên tiến sĩ vô tội. Nói thế thôi nhưng tôi không phải là người coi thường pháp luật đến mức đưa ra những suy luận chỉ mang tính phỏng đoán đâu.
Vị thám tử Kuroda Kiyotaro bây giờ chắc đang tỏa sáng vì những chiến công chói lọi. Người đời thậm chí còn khen ngợi ông ta là Sherlock Holmes của Nhật Bản nữa cơ đấy. Tôi cũng chẳng lấy gì làm vui vẻ khi đẩy ông ta xuống vực sâu lúc ông ta đang ở trên đỉnh cao của danh vọng. Thực ra, tôi vẫn tin rằng ông ta là cánh tay hỗ trợ đắc lực của cảnh sát nước nhà. Thất bại lần này không may là vì ông ta thông minh hơn người khác. Cách suy luận của ông ta không sai. Chỉ có điều, ông ta vẫn thiếu quan sát và chưa tập hợp đủ chứng cứ cho những suy luận của mình. Nói cách khác, tôi cũng thấy tiếc cho ông ta vì đã kém hơn tôi, một sinh viên mọt sách rất đỗi bình thường, ở sự cẩn thận và kĩ lưỡng.
Hãy bỏ chuyện đó qua một bên. Chứng cứ mà tôi định mang đi nộp là hai món đồ vô cùng nhạt nhẽo sau đây.
Thứ nhất, đó là một tấm vé giao nhận đồ của thương hội PL mà tôi thu thập được ở hiện trường (tấm vé giao nhận tiền thuê gối, vật dụng được trang bị trên toa hạng ba của tàu tốc hành).
Thứ hai, sợi dây giày của đôi giày đế thấp của tiến sĩ, hiện đang được cơ quan chức năng có thẩm quyền giữ làm tang chứng.
Chỉ có hai món đó thôi. Chắc quý độc giả đều nghĩ những thứ này không có giá trị nhưng có lẽ tất cả quý vị đều biết, đến cả một sợi tóc cũng có thể trở thành chứng cứ của một tội ác nghiêm trọng phải không? Thú thực, tôi bắt đầu điều tra từ một phát hiện tình cờ. Tôi đã có mặt ở hiện trường xảy ra án mạng ngày hôm đó. Trong lúc quan sát các nhân viên điều tra làm việc thì tôi chợt nhìn thấy một góc của mẩu giấy trắng nào đó nằm dưới một hòn đá lớn gần chỗ tôi ngồi. Nếu không nhìn con dấu ngày tháng được đóng trên mẩu giấy đó, có lẽ tôi đã không nghi ngờ gì. Nhưng thật may mắn cho ông tiến sĩ, ngày tháng ghi trên mẩu giấy lại đập vào mắt tôi như có thần linh mách bảo. Năm Đại Chính ngày 9 tháng 10. Tức là con dấu đó được đóng ngay trước hôm xảy ra án mạng một ngày.
Tôi lật tảng đá lớn ra và nhặt lấy mảnh giấy bị mưa làm cho nhàu nát. Nó chính là tấm vé của thương hội PL. Tấm vé đó đã kích thích trí tò mò của tôi.
Về phần Kuroda, ông ta đã bỏ sót ba chi tiết tại hiện trường.
Một trong số chúng là tấm vé của thương hội PL đã tình cờ lọt vào tay tôi nên nếu loại trừ nó ra thì rõ ràng ít nhất vẫn còn hai điểm sơ hở. Nhưng nếu Kuroda chú ý quan sát một cách cẩn thận thì chưa chắc tôi đã phát hiện được tấm vé đó. Nó bị chèn lên bởi một hòn đá lớn nằm cạnh đường nước thải đang làm dở dang phía sau khu nhà của tiến sĩ. Còn rất nhiều hòn đá khác nằm ở đó nhưng chỉ có duy nhất một hòn đá nằm ở vị trí cách xa đường ống nước. Đối với người sở hữu năng lực quan sát tốt hơn Kuroda thì hẳn là hòn đá muốn ám chỉ điều gì đó. Tôi đã đưa tấm vé cho một viên quan cảnh sát điều tra xem. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn có thể nhận ra viên cảnh sát điều tra, người đã không thèm đếm xỉa đến thành ý của tôi, mắng tôi là kẻ phiền toái và bắt tôi tránh đường trong số những cảnh sát có mặt ở đây.
Điểm thứ hai, nói cách khác, nó liên quan đến dấu chân của kẻ gây án. Dấu chân xuất hiện từ cửa sau nhà tiến sĩ và đi đến đường ray nhưng lại không thấy dấu chân quay trở lại ngôi nhà. Về điểm này, tôi không biết Kuroda đã lý giải như thế nào nhưng báo chí không hề đề cập đến chi tiết quan trọng này. Mặc dù tôi chưa rõ chuyện là như thế nào nhưng có khả năng hung thủ sau khi đặt xác của nạn nhân lên đường ray, vì lý do nào đó đã đi đường vòng men theo đường ray để quay về nhà. Sự thật thì vẫn có thể có đường vòng để quay trở lại nhà của tiến sĩ mà không để lại dấu chân. Và sau đó, đôi giày để thấp được tìm thấy ở nhà tiến sĩ lại trùng khớp với dấu chân nên kể cả không tìm thấy dấu chân quay trở lại ngôi nhà đi chăng nữa thì nó vẫn đủ chứng minh kẻ sát nhân đã quay về. Suy luận này có vẻ hợp lý nhưng quý vị không thấy có điều gì không tự nhiên hay sao? Điểm thứ ba, điểm này có vẻ làm phân tán sự tập trung của rất nhiều người hoặc kể cả những người tận mắt chứng kiến cũng không để ý đến nó. Đó là có rất nhiều dấu chân của một
chú chó in trên mặt đất, đặc biệt là nó lại song song với dấu chân của hung thủ. Tại sao tôi lại chú ý đến nó là vì con chó đã ở gần đó, dấu chân của nó biến mất ở cổng sau nhà ông tiến sĩ. Tôi lấy làm lạ khi con chó mà nữ chủ nhân rất yêu quý lại không xuất hiện bên cạnh đám đông này.
Trên đây, tôi đã đưa ra những chứng cứ cùng với lập luận của mình mà không để sót chi tiết nào. Quý độc giả thông thái có lẽ đã đoán ra được điều tôi sắp nói sau đây. Với nhiều người có lẽ là thừa nhưng tôi vẫn phải trình bày tới phần kết.
Ngày hôm đó, sau khi trở về nhà, tôi vẫn chưa thấy có điều gì đáng ngờ. Kể cả ba điểm nghi vấn mà tôi vừa nói lúc nãy, tôi cũng không suy nghĩ gì sâu xa. Để khơi dậy sự chú ý của độc giả, tôi đã cố tình nói rõ ra ở đây nhưng hôm đó, tại hiện trường tôi đã không nghĩ đến chúng. Hôm sau và hôm sau nữa, nhờ những tờ nhật báo mà tôi biết tin vị tiến sĩ tôi rất kính trọng kiêm nghi phạm đã bị bắt giam. Sau khi đọc hết những câu chuyện tự sự kể về quá trình phá án gian nan của thám tử Kuroda, từ những phán đoán rất thông thường mà tôi đã nói ở phần đầu thì tôi tin chắc rằng có điểm nào đó nhầm lẫn trong suy luận của Kuroda. Khi xâu chuỗi các loại tình tiết mà tôi đã mục sở thị với nhau cộng với những điểm nghi vấn, tôi đã đến nhà tiến sĩ và đặt rất nhiều câu hỏi cho người nhà tiến sĩ, cuối cùng thì tôi đã nắm được chân tướng của sự việc.
Vì vậy, tôi sẽ thử trình bày suy luận của tôi theo trình tự dưới đây.
Như tôi đã nói lúc trước, xuất phát điểm chính là tấm vé của thương hội PL. Trước ngày xảy ra án mạng, có lẽ lúc đó đã rất khuya, tấm vé đã rơi ra từ cửa sổ của tàu tốc hành. Nhưng tại sao nó lại nằm dưới hòn đá nặng gần hai chục cân? Như vậy nó là điểm mấu chốt đầu tiên. Chỉ có thể kết luận rằng kẻ nào đó đã bê hòn đá tới sau khi đoàn tàu chạy qua vị trí tấm vé của thương hội PL bị đánh rơi. Ở đây có thể loại trừ trường hợp hòn đá rơi từ đường ray tàu hỏa hoặc từ chiếc xe hàng không có nắp. Vậy hắn bê hòn đá này từ đâu ra? Chắc chắn hòn đá không thể ở xa vì nó rất nặng. Như
vậy chỉ có thể nó là một trong số rất nhiều hòn đá ở sau nhà của tiến sĩ dùng để xây đường nước thải.
Tức là khoảng thời gian từ lúc đêm đến lúc phát hiện xác nạn nhân vào buổi sáng hôm đó, hòn đá đã được chuyển từ khu vực nhà tiến sĩ ra gần cái xác. Nếu vậy thì chắc chắn vẫn còn để lại dấu chân. Đêm hôm trước cũng chỉ mưa lất phất và đến nửa đêm đã tạnh nên chúng không thể trôi mất được. Về những dấu chân thì đúng như điều tra của Kuroda thông thái, ngoài dấu chân của những người có mặt ở hiện trường hôm đó thì xuất hiện duy nhất một “dấu chân của hung thủ”. Vậy thì kẻ bê hòn đá đi chắc chắn phải là “hung thủ”. Khi đưa ra kết luận lạ lùng này, tôi đã vắt óc nghĩ xem làm cách nào “hung thủ” vận chuyển được hòn đá ra chỗ khác. Và tôi vô cùng ngạc nhiên trước mánh khóe điêu luyện mà hắn đã sử dụng.
Dấu chân bê cái xác và dấu chân bê hòn đá giống nhau đến mức đủ làm mờ mắt vị thám tử dày dạn kinh nghiệm. Nhưng tôi đã phát hiện ra mánh khóe tinh vi này. Nói cách khác, kẻ nào đó đã xỏ vào đôi giày của tiến sĩ rồi bê hòn đá thay vì vác cái xác của phu nhân và cố tình để lại dấu chân tới tận đường ray hòng đổ tội giết người cho tiến sĩ. Chỉ có thể lý giải theo cách này mà thôi. Vậy tác giả của thủ đoạn xấu xa này, nếu để lại dấu chân thì tại sao cái xác mà người này vác đi, tức là bà vợ tiến sĩ lại có thể tới tận đường ray? Vậy, sẽ thiếu một dấu chân. Từ những suy luận trên, rất tiêu đành phải kết luận rằng phu nhân của tiến sĩ, người phụ nữ đó chính là một con ác quỷ đáng sợ đã ra tay vu oan giá họa cho chồng nhằm nguyền rủa ông ấy. Bà ta đúng là hung thủ có bộ óc thiên tài đáng sợ đến mức rùng mình. Một người phụ nữ mắc phải căn bệnh lao phổi đang cuồng loạn vì ghen. Căn bệnh quái ác vô phương cứu chữa đã làm tâm trí người bệnh minh mẫn đến bệnh hoạn. Tôi hình dung ra một người phụ nữ với những tâm địa đen tối. Tất cả đều tối tăm. Tất cả đều u ám. Nhưng trong sự tối tăm, u ám đó xuất hiện ảo ảnh của một người phụ nữ xanh xao với đôi mắt sáng rực những vòng tròn ánh sáng, ảo ảnh kéo dài từ hàng chục ngày đến hàng trăm ngày và ảo ảnh đó đã biến thành hiện thực. Chỉ nghĩ đến thôi, bất giác tôi thấy rợn cả sống lưng.
Thôi, hãy bỏ qua chuyện đó để đến với điểm nghi vấn thứ hai. Chuyện về những dấu chân không quay về căn nhà của tiến sĩ. Nếu nghĩ đơn giản theo lối suy nghĩ thông thường thì quý vị có thể cho rằng chúng không quay trở lại cũng là lẽ thường tình bởi vì chúng là những dấu chân của người chết tạo ra bằng cách đi vào đôi giày của chồng. Nhưng tôi nghĩ quý vị nên động não và nghĩ kĩ thêm một chút. Vị phu nhân tiến sĩ, chủ nhân của thủ đoạn gây án thiên tài làm sao lại quên không tạo những dấu chân từ đường ray quay trở về nhà tiến sĩ được? Thêm nữa, nếu tấm vé của thương hội PL không tình cờ rơi khỏi cửa sổ của con tàu thì đây sẽ là manh mối vụng về duy nhất mà hung thủ bỏ công ra dàn dựng.
Những dấu chân của chú chó mà tôi đã đặt cho nó làm điểm nghi vấn thứ ba, là chìa khóa cho bí ẩn này. Tôi đã không nhịn được cười khi xâu chuỗi những dấu chân của con chó với sơ hở của phu nhân. Chắc bà ta đã định tạo dựng hiện trường giả bằng việc xỏ giày của ông tiến sĩ và đi đi lại lại tới đường ray. Và bà ta cũng đã định chọn con đường không để lại dấu chân khác để đi đến đường ray. Nhưng nực cười thay, một tình huống trớ trêu đã xảy ra. John, chú chó cưng của phu nhân, tôi biết được nó tên là John vì ông xx, người hầu trong ngôi nhà đã kể cho tôi nghe, sớm đã phát hiện ra hành động bất thường của phu nhân và sủa lên inh ỏi. Bà ta sợ tiếng chó sủa sẽ đánh thức người nhà và mình sẽ bị phát hiện nên phải nhanh chóng kết thúc công việc tạo hiện trường giả. Nếu người trong nhà mà tỉnh giấc và tiếng sủa của John làm những con chó gần đó sủa theo thì hết sức bất lợi nên bà ta đã nhanh chóng nghĩ ra một mưu kế rất thông minh, lợi dụng được tình thế khó khăn này để bắt John bỏ đi mà vẫn thực hiện được kế hoạch của mình.
Từ những gì tôi khám phá được ngày hôm nay thì chú chó John thường ngày được huấn luyện ngoạm đồ tha về. Khi đi đâu đó cùng chủ nhân, nó được tập cho mang đồ vật gì đó về nhà. Và John có thói quen tha món đồ đặt vào góc khuất trong nhà. Còn một thứ khác tôi phát hiện được khi tới nhà tiến sĩ là để đến được hiên của căn phòng nằm phía sau nhà thì chỉ có cách duy nhất là đi qua cửa gỗ của hàng rào bao quanh sân trong. Nó có bản lề giống cửa của
các căn phòng kiểu tây và được thiết kế để chỉ có thể mở được từ bên trong.
Phu nhân tiến sĩ đã khéo léo lợi dụng hai điểm này. Những người hiểu rõ đặc tính của loài chó đều biết rằng chúng sẽ không bỏ đi nếu chỉ ra lệnh bằng lời nói nhưng nếu giao cho chúng việc gì đó, ví dụ ném một khúc gỗ ra xa và bảo chúng mang về thì chúng sẽ nghe theo răm rắp. Lợi dụng tâm lý đó của động vật, phu nhân đã ném đôi giày cho John và chú chó đã bỏ đi. Sau đó, đôi giày đã được chú chó mang về và đặt bên cạnh hiên nhà vì lúc đó có lẽ cửa chắn mưa đã bị đóng, John đã không thể đi đường cũ theo thói quen. Vì bị chiếc cửa gỗ chặn lại nên bà ta đã hy vọng chú chó không trở lại chỗ cũ nữa.
Sự việc không thấy dấu giày quay trở lại nhà tiến sĩ cùng với tình tiết khác về những dấu chân của chú chó và thủ đoạn gây án thiên tài của phu nhân mà tôi trình bày ở trên chẳng qua cũng chỉ là những tưởng tượng của tôi mà thôi. Tôi sợ rằng chúng có thể xa rời với thực tế quá cũng nên. Trái lại, việc không có những dấu chân quay lại thực ra là do sơ suất của phu nhân và những dấu chân của chú chó ngay từ đầu đã tố cáo toàn bộ kế hoạch sử dụng đôi giày của phu nhân. Hoặc nó cũng có thể trúng chưa biết chừng. Nhưng dù nó là cách nào đi chăng nữa thì tôi vẫn giữ nguyên quan điểm “hung thủ chính là phu nhân”.
Nhân tiện thì có một nghi vấn ở đây. Đó là tại sao một chú chó có thể mang một đôi giày, hay nói cách khác là hai chiếc giày của một đôi đi cùng một lúc được? Câu trả lời nằm trong hai chứng cứ tôi đã nêu ở trên nhưng chưa có cơ hội giải thích. Đó là “sợi dây giày của tiến sĩ được giữ làm tang chứng”. Theo trí nhớ của ông xx, người giúp việc trong nhà tiến sĩ mà tôi đã nhắc tới lúc nãy, tôi đã khó khăn lắm mới tìm hiểu ra và được biết rằng, khi hai chiếc giày bị mang đi nộp cho cảnh sát, chúng đã được buộc lại với nhau bởi sợi dây giày giống như người ta buộc giày để chuẩn bị cho những vở kịch. Về điểm này, không biết thám tử Kuroda có để ý đến không? Có khi nào ông ta đã bị sao nhãng vì quá vui sướng khi tìm ra được
vật chứng không? Cứ cho là không phải như vậy đi chăng nữa thì phải chăng việc suy luận hung thủ vì một lý do nào đó đã buộc sợi dây giày này lại rồi mang giấu nó dưới hiên đã khiến ông ta yên tâm chăng? Nếu không phải như vậy thì chắc chắn Kuroda đã không đưa ra kết luận vội vàng đến thế.
Như vậy, người phụ nữ đáng sợ đó đã uống cạn thuốc độc mà bà ta chuẩn bị sẵn rồi nằm lên đường ray, vừa nằm đợi đoàn tàu chạy qua và vừa nở nụ cười nham hiểm tưởng tượng ra cảnh chồng mình đang từ đỉnh cao của danh vọng như bị ném xuống vực sâu và phải nằm rên rỉ trong nhà tù. Tôi không biết chai đựng thuốc độc hiện đang ở đâu nhưng nếu những độc giả hiếu kì chịu khó tìm ở khu vực gần đường ray thì có lẽ sẽ phát hiện ra thứ gì đó dưới mương.
Tôi vẫn chưa đề cập đến bức thư được tìm thấy trong túi áo của phu nhân. Không cần phải nói thì quý vị cũng biết nó là chứng cứ giả mạo mà phu nhân cố ý dàn dựng, giống với những chứng cứ khác. Vì tôi không được nhìn thấy bức thư nên đây đơn giản chỉ là suy luận của tôi nhưng nếu là các chuyên gia giám định chữ viết thì chắc chắn họ sẽ phát hiện ra chính phu nhân đã tự giả mạo chữ của mình còn phần nội dung trong bức thư cũng đã sáng tỏ. Đó cũng chính là nỗi niềm thật lòng của phu nhân. Về những tình tiết vụn vặt khác thì tôi xin phép không đưa ra những lập luận bác bỏ hay giải thích thêm nữa vì với những gì tôi đã trình bày ở trên, có lẽ độc giả cũng đã tự đoán ra được rồi.
Cuối cùng, về lý do dẫn đến sự tự sát của phu nhân thì đúng như những gì quý độc giả tưởng tượng, nó vô cùng đơn giản. Theo như thông tin tôi có được từ ông xx, giúp việc nhà tiến sĩ thì đúng như trong thư đã viết, phu nhân mắc bệnh lao phổi rất nặng. Phải chăng đó chính là nguyên nhân khiến phu nhân tự sát? Tức là bà ta đã tham lam muốn chỉ bằng một cái chết mà thực hiện được cả hai mục đích là tự sát vì đã quá đau đớn với căn bệnh quái ác và để trả thù chồng.
Phần trình bày của tôi đến đây kết thúc.
Ngay lúc này, điều tôi thầm cầu nguyện là ngài thẩm phán sẽ cho triệu tập tôi càng sớm càng tốt.
Souda và Matsumura lại ngồi đối diện với nhau vẫn ở chiếc bàn trong nhà hàng họ đã vào hôm trước.
“Bỗng chốc cậu trở nên nổi như cồn.”
Matsumura nói như đang tán dương bạn mình.
“Có gì đâu. Tôi thấy vui vì mình đã làm một điều gì đó góp phần cống hiến cho giới học thuật. Nếu tương lai, tiến sĩ Tomita có công bố cuốn sách nào đó gây chấn động giới học thuật thế giới thì tôi nghĩ chắc sẽ không vấn đề gì nếu tôi yêu cầu bác sĩ đưa thêm chữ vàng có đề tên Souda Goro vào phần đồng tác giả.”
Nói đoạn, Souda lại đưa tay vuốt vuốt mái tóc dài như để chải tóc.
“Nhưng tôi không ngờ cậu lại là một thám tử tài ba đến thế.”
“Cậu hãy sửa lại giúp tôi từ thám tử thành kẻ giàu trí tưởng tượng đi. Thực tế thì tôi không biết những ảo tưởng của mình còn bay xa đến đâu. Chẳng hạn, nếu như nghi phạm không phải là vị tiến sĩ mà tôi sùng bái thì tôi thậm chí còn tưởng tượng ra thủ phạm giết phu nhân chính là tiến sĩ Tomita cũng nên. Và tôi cũng có thể phủ nhận hoàn toàn thứ mà tôi đã tự mình nộp cho cảnh sát như là một chứng cứ thuyết phục nhất. Cậu có hiểu không? Những bằng chứng mà tôi đưa ra, nếu nghĩ kĩ thì chúng chỉ toàn là những thứ mập mờ, không tưởng tượng theo cách này thì cũng có thể tưởng tượng theo cách khác. Vật chứng chắc chắn duy nhất là tấm vé của thương hội PL. Nhưng cả thứ đó, nếu không phải tôi đã nhặt nó từ dưới hòn đá mà là nhặt lên từ bên cạnh hòn đá thì sao nhỉ?”
Souda nhìn khuôn mặt vẫn còn ngơ ngác của bạn mình và nở một nụ cười đầy ẩn ý.
TRUYỆN SỐ 2
CĂN PHÒNG ĐỎ
Với mong muốn kiếm tìm thứ cảm xúc hưng phấn khác lạ, bảy người đàn ông với phong thái trịnh trọng (mà tôi là một trong số đó) đã gặp nhau. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế bành lớn bằng nhung màu đỏ tươi trong “căn phòng màu đỏ” vốn được sử dụng để dành riêng cho mục đích đó. Ai nấy đều rất háo hức “đến lúc rồi đấy, đến lúc rồi đấy” và chờ đợi xem người kể chuyện của nay sẽ kể câu chuyện kinh dị nào.
Trên chiếc bàn tròn lớn, cũng được phủ lên lớp khăn trải bàn bằng nhung màu đỏ tươi, đặt ở chính giữa bảy người là một chiếc chân nến chạm trổ theo phong cách cổ điển. Ba ngọn đèn cầy lớn đung đưa cháy bập bùng.
Bốn phía của căn phòng, cửa sổ và cửa ra vào đều được đóng kín, tấm rèm cửa dày, nhiều lớp, màu đỏ rực, rủ từ trần nhà xuống tận dưới sàn. Ánh nến lãng mạn ném những cái bóng lớn với hình thù kì dị của bảy người chúng tôi lên chiếc rèm màu đỏ thẫm tạo thành những khối màu đen lờ nhờ, trông như máu vừa mới chảy ra từ tĩnh mạch. Các bóng đó cùng với ánh nến nhún nhảy trên những nếp gấp của chiếc rèm như thể những con côn trùng khổng lồ đang bò lổm ngổm.
Như thường lệ, căn phòng khiến tôi có cảm giác như mình đang ngồi trong tim của một loài sinh vật to lớn. Dường như tôi còn cảm nhận được cả tiếng nhịp đập “thình thịch.. thình thịch..” chầm chậm, chầm chậm tương ứng với kích thước khổng lồ của nó.
Tất cả đều im lặng. Tôi thắp nến và ngồi đăm chiêu, không hẳn nhắm vào bất kỳ ai, lặng lẽ lướt qua khuôn mặt của những người đang ngồi đối diện bị bóng hắt lên những khoảng đen, khoảng đỏ. [1]
Chúng bất động một cách lạ lùng và vô cảm như mặt nạ kịch Noh
Một lúc sau, thành viên mới của hội, anh T, người được chỉ định là người kể chuyện đêm nay ra mắt. Anh ta vẫn ngồi nguyên trên ghế, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa phát ra từ cây đèn cầy và bắt đầu câu chuyện. Trong bóng tối, chiếc cằm của anh ta nhô ra như của bộ xương khô. Nhìn vẻ mặt buồn thảm cùng cử động trệu trạo, trông [2]bằng da bằng thịt.
anh ta chẳng khác nào một con rô-bốt katakuri
“Tôi nghĩ tôi là một người đầu óc hoàn toàn bình thường, mọi người cũng đối xử với tôi như vậy nhưng không rõ có thật là tôi không có vấn đề gì hay không. Có thể tôi là một thằng điên. Cũng có khi không đến mức đó nhưng tôi hơi giống với một người mắc bệnh tâm thần.
Tóm lại, tôi là một kẻ nhạt nhẽo và vô vị nhất thế gian. Tôi chán lắm, chán ngấy đến tận cổ việc mình cứ phải sống ngày qua ngày như thế này.
Ban đầu, cũng có thời kỳ tôi vùi mình vào rất nhiều sở thích như bao người bình thường khác nhưng chẳng có thứ nào có thể xoa dịu sự nhàm chán có thể nói là bẩm sinh trong tôi. Trái lại, chúng càng khiến tôi thất vọng tràn trề. Chẳng lẽ thế giới này không còn trò gì thú vị nữa hay sao? Chán không thể tưởng nổi. Thế cho nên, dần dần tôi bắt đầu cảm thấy thật phiền phức mỗi khi làm gì. Chẳng hạn, nếu có ai đó bảo với tôi rằng “Trò này thú vị lắm. Nhất định nó sẽ khiến anh sướng ngất ngây cho mà xem” thì thay vì việc hứng
khởi và bắt tay vào làm thử, tôi lại tưởng tượng ra trong đầu xem sự thú vị đó thế nào. Thế là, sau một hồi tưởng tượng chán chê, tôi buông luôn một câu xanh rờn: “Vớ vẩn, có gì hay họ đâu!”.
Cứ như thế, trong suốt một thời gian, theo đúng ý nghĩa của câu nói trên, tôi chẳng làm gì hết. Tôi chỉ ăn, ngủ rồi lại dậy cho qua ngày. Trong đầu tôi lúc nào cũng tưởng tượng ra đủ thứ, cái này cũng chán, cái kia cũng nhạt. Tôi thấy cái gì cũng xấu xa, sống mà cứ thế này thì khổ sở còn hơn cả chết nhưng trong mắt người khác thì không ai có cuộc sống an nhàn hơn tôi.
Nếu tôi rơi vào tình huống bị truy đuổi và ngày hôm đó là tất cả đối với tôi thì tốt biết bao. Hoặc tôi bị người ta cưỡng bức bắt làm việc thì miễn có gì đó để làm là đã hạnh phúc lắm. Hoặc nếu tôi trở thành trọc phú thì còn hay nữa. Nhất định tôi sẽ sử dụng sức mạnh của số tiền khổng lồ đó vào rất nhiều trò tiêu khiển mà những tên bạo chúa khét tiếng trong lịch sử đã từng làm như vung tiền vào các cuộc vui chơi xa xỉ hay những trò đẫm máu. Nhưng chúng đều là những điều không thể thành hiện thực, còn tôi thì giống như nhân vật Monokusataro trong truyện cổ tích, chỉ biết sống những chuỗi ngày buồn tủi thà chết đi cho xong.
Khi tôi nói thế này, chắc các vị đều sẽ nói “Đúng thế, đúng thế. Nhưng mà, xét về điểm chán nản với mọi thứ trong cõi này thì bọn tao đây không thua kém gì chú mày đâu. Thế nên chúng tao mới lập ra câu lạc bộ để tìm kiếm những sự hưng phấn quái lạ. Vì chú mày mở miệng ra là kêu chán nên hôm nay mày mới nhập bọn với chúng tạo phải không nào? Bây giờ, chẳng cần nghe mày kể thì bọn tạo cũng biết thừa cái sự chán nản của mày rồi” cho xem. Tôi cá là như vậy đấy. Vì vậy, tôi sẽ không cần phải giải thích dài dòng làm gì. Và chính vì nghĩ tất cả quý vị đều biết sự nhàm chán là như thế nào nên tôi quyết tâm có mặt ở đây đêm nay, để kể cho quý vị chuyện lạ về tôi.
Tôi vẫn thường lui tới nhà hàng ở tầng dưới. Ông chủ nhà hàng là một người rất cởi mở. Ông ấy không những biết về hội “căn phòng
màu đỏ” mà còn nhiều lần khuyến khích tôi tham gia. Ấy vậy mà kẻ nhàm chán như tôi mãi đến hôm nay mới gia nhập hội quả nhiên là có phần thất lễ với quý vị, nhưng đó là bởi vì tôi tự thấy sự nhạt nhẽo của tôi không thể mang ra so sánh với sự nhạt nhẽo của quý vị được. Bởi vì nó nhạt nhẽo quá thể.
Trò đuổi bắt của thám tử và tội phạm ư? Hay những thí nghiệm tâm linh của thuật gọi hồn? Tranh khiêu dâm hay những trò tiêu khiển xác thịt khác? Hoặc là tham quan nhà tù, bệnh viện tâm thần, phòng học giải phẫu? Nếu quý vị vẫn còn cảm thấy hứng thú với những trò đó thì quý vị đang là những người rất hạnh phúc. Còn tôi, tôi sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên nếu nghe thấy quý vị nói rằng quý vị đang lên kế hoạch về một vụ hành quyết. Tôi nói vậy là bởi vì khi ông chủ nhà hàng nói với tôi câu chuyện đó thì cũng là lúc tôi đã cảm thấy chán ngấy với những màn kích động thông thường. Nhưng ngoài ra, tôi vừa mới phát hiện được một trò chơi mà đối với tôi nó là trò tiêu khiển tuyệt vời, nói ra tôi thấy hơi đáng sợ nhưng tôi đang đắm chìm vào thú vui đó.
Thú vui mà tôi vừa nhắc đến, có thể nó sẽ khiến quý vị giật mình. Đó là trò giết người. Là giết người thực sự. Không những thế, kể từ khi phát hiện ra thú vui đó tới ngày hôm nay, tôi đã cướp đi sinh mạng của gần một trăm con người từ nam giới đến phụ nữ, trẻ nhỏ chỉ nhằm mỗi một mục đích là cho khỏi nhàm chán. Có thể quý vị sẽ vội kết luận rằng lúc này tôi đang rất hối hận vì những tội ác đáng sợ mà mình gây ra và định ca bài ca sám hối nhưng không đời nào có chuyện đó. Tôi không hề cảm thấy hối hận cũng không thấy sợ những tội ác mà mình gây ra. Không những thế, ôi, nói thế nào được nhỉ? Gần đây, thậm chí đến cả cái trò giết người máu me cũng đã làm tôi chán ngấy. Lần này thì tôi bắt đầu bập vào thuốc phiện để tự hủy hoại chính mình chứ tôi không giết người khác nữa. Đến nước thế này thì chắc hẳn quý vị thấy tôi đã chán sống đến mức chẳng tiếc nuối gì đến mạng sống của mình rồi. Giới hạn chịu đựng đã tìm tôi. Đến cả giết người mà tôi cũng ngán thì chẳng phải thứ duy nhất mang lại kích thích cho tôi chỉ có thể là tự sát hay sao? Không sớm thì muộn tôi sẽ chết vì chất độc của thuốc phiện thôi. Vì
nghĩ như vậy nên trước khi kể một câu chuyện có đầu có đuôi thì tôi muốn giãi bày hết những việc tôi đã làm với một ai đó. Vậy người thích hợp nhất để kể câu chuyện này không phải là các vị, những người trong “căn phòng màu đỏ” hay sao? Thế nên, thực ra không phải tôi muốn được gia nhập hội mà chẳng qua tôi chỉ muốn kể câu chuyện kì lạ của mình nên tôi đã được kết nạp vào đây. Thật may mắn cho tôi, quy định của hội là thành viên mới phải kể một câu chuyện theo tôn chỉ của hội vào ngay đêm đầu tiên nên đêm nay là cơ hội để tôi thực hiện mong muốn của mình.
Câu chuyện đã xảy ra ba năm về trước. Hồi đó, như tôi đã nói ban nãy, tôi chán nản với tất cả những sự kích thích, không biết lẽ sống là gì. Tôi uể oải sống qua ngày, giống một loài động vật mang tên buồn tẻ. Mùa xuân năm đó, nói là mùa xuân nhưng tiết trời vẫn còn lạnh, chắc độ khoảng cuối tháng Hai đầu tháng Ba, trong một đêm, tôi đã gặp phải một chuyện kì lạ. Thực ra, sự kiện đêm hôm đó chính là động cơ khiến tôi cướp đi sinh mạng của hơn một trăm con người.
Khoảng hơn một giờ đêm, tôi đang ở nơi nào đó mà tôi không nhớ rõ. Tôi nghĩ lúc đó mình có chếnh choáng men say. Đêm hôm lạnh lẽo như vậy nhưng tôi không lên xe kéo để về nhà mà đi bộ bước thấp bước cao, chân đăm đá chân chiêu. Rẽ thêm một con phố nữa, chỉ một con phố thôi là đến nhà tôi rồi vậy mà chẳng hiểu sao, khi tôi vừa mới bụng bảo dạ rẽ vào thì bất thình lình một người đàn ông dáng vẻ vội vã chạy lại và đâm sầm vào tôi. Tôi giật mình, người đàn ông nọ trông còn hốt hoảng hơn. Anh ta đứng im như trời trồng. Dưới ánh sáng ngọn đèn đường hiu hắt, anh ta đăm đăm ngó vào tôi rồi lên tiếng hỏi: “Có bác sĩ quanh đây không?” Hỏi ra tôi mới biết, anh ta là tài xế ô tô. Một cụ già (đêm hôm thế này mà đi một mình ngoài đường chắc chỉ có thể là người lang thang) bị anh ta đâm phải và đang bị thương nặng. Tôi nhìn thấy một chiếc xe ô tô đậu cách đó năm mét, bên cạnh hình như là một người đang nằm ngã vật ra ở đó, miệng rên lên ư... ư... Đồn cảnh sát thì ở xa, người kia lại bị thương rất nặng nên chắc chắn tài xế định tìm một bác sĩ để chữa chạy.
Vì sống ở gần đó nên tôi biết rất rõ phòng khám ở đâu, tôi liền bảo ngay với người tài xế như thế này.
“Anh rẽ trái, đi thêm hai khu phố nữa sẽ thấy ở bên tay trái có một ngôi nhà treo đèn màu đỏ. Đó là phòng khám M. Anh thử tới đó gõ cửa gọi họ dậy xem sao.”
Lập tức, người lái xe được phụ xe giúp khiêng người bị thương đến phòng khám M. Tôi dõi theo cho tới khi bọn họ mất hút vào màn đêm. Dây dưa vào những chuyện như thế này cũng chẳng vui vẻ gì nên tôi đã đi về nhà. Tôi là kẻ độc thân. Tôi bò vào chiếc đệm được bà lão giúp việc trải cho. Hình như tôi say thật nên đã ngủ lúc nào chẳng hay.
Thực ra chuyện cũng chẳng có gì. Chỉ cần tôi quên sự việc đã xảy ra đêm hôm đó thì mọi chuyện coi như kết thúc. Nhưng, sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, tôi lại nhớ mang máng về những gì đã xảy ra. Tôi bắt đầu nghĩ xem người bị thương đó liệu có được chữa chạy cho không. Đúng là thừa hơi. Bỗng tôi nhận ra một việc lạ lùng.
“Chết cha, mình nhầm to rồi!”
Tôi giật mình. Mặc dù say đến mấy thì lúc đó tôi vẫn ý thức được. Tôi tự hỏi mình đã nói gì để người ta khiêng người bị thương đến phòng khám M nhỉ.
“Anh rẽ trái, đi thêm hai khu phố nữa thì sẽ thấy ở bên tay trái có một ngôi nhà treo đèn màu đỏ...”
Tôi nhớ như in từng từ mình đã nói lúc đó. Tại sao không phải là “anh rẽ phải, đi thêm một khu phố nữa thì sẽ thấy ở bên tay trái có một ngôi nhà treo đèn màu đỏ...” nhỉ? Người ta kháo nhau, phòng khám M mà tôi chỉ cho bọn họ có ông thầy lang băm, thậm chí người ta còn nghi ngờ không biết ở đó có điều trị ngoại khoa được hay không. Trái ngược với phòng khám M là bệnh viện K nằm ở phía hoàn toàn ngược lại, không những được trang bị đầy đủ các thiết bị
hiện đại mà còn rất gần chỗ bọn tôi đã đứng so với phòng khám M. Đương nhiên tôi biết rất rõ điều đó. Biết vậy mà thế quái nào tôi lại chỉ sai đường nhỉ? Đến bây giờ tôi vẫn chưa thể lý giải nổi trạng thái tâm lý của mình lúc đó. Tôi bị đãng trí ư? Vì thấy hơi lo nên tôi bảo bà giúp việc đi nghe ngóng tình hình xem sao thì hình như người bị thương nọ đã chết ở phòng khám M rồi thì phải. Bác sĩ ở đâu thì cũng ghét phải chữa trị cho những người bị thương như thế. Vả lại, đã hơn một giờ rưỡi đêm, chẳng hiểu vì lý do gì mà đập cửa mãi người ở phòng khám M không chịu mở cửa. Mãi sau họ mới cho người bị thương vào khám thì lúc đó chắc chắn đã quá muộn rồi. Nhưng nếu lúc đó, bác sĩ ở phòng khám M nói rằng “Tôi không phải bác sĩ chuyên môn lĩnh vực này, hãy đưa ông ấy đến bệnh viện K gần đây” thì có lẽ ông lão đó đã được cứu sống rồi cũng nên. Thật vô lý hết sức. Hình như hắn ta đã định tự mình xử lý ca bệnh khó đó và đã thất bại. Cũng theo như những gì người ta bàn tán thì tay bác sĩ M đã luống cuống và vần vò người bệnh rất lâu.
Nghe xong, tôi cảm thấy tâm trạng mình trở nên rất kì lạ.
Trong tình huống này, rốt cuộc có bao nhiêu người đã giết hại ông lão đáng thương, xấu số đó nhỉ? Không cần bàn cũng rõ mười mươi, người lái xe ô tô và tay bác sĩ M đều có trách nhiệm trong việc này. Và nếu phải chịu tội trước pháp luật thì có lẽ người sẽ bị xử lý vì tội bất cẩn khi lái xe. Nhưng sự thật thì người phải chịu trách nhiệm lớn nhất không phải là tôi hay sao? Nếu lúc đó tôi chỉ cho bọn họ bệnh viện K thì biết đâu ông lão đã được cứu sống rồi. Người tài xế đơn giản chỉ làm ông lão bị thương chứ không giết ông ấy. Bác sĩ M cũng chỉ do tay nghề kém mới thất bại nên cũng không thể đổ hết lỗi lên hắn ta. Cho dù hắn có bị truy cứu trách nhiệm đi chăng nữa thì người có lỗi chính trong chuyện này phải là tôi, vì tôi đã chỉ cho người lái xe phòng khám M, một nơi không phù hợp. Tức là, việc cứu sống hay giết ông lão hoàn toàn phụ thuộc vào lời nói của tôi. Rõ ràng người gây ra thương tích là lái xe nhưng kẻ giết người lại là tôi.
Trường hợp này cứ cho những lời tôi nói là ngẫu nhiên đi, nhưng nếu không phải vậy mà do tôi cố ý giết người thì sao? Không phải bàn cãi gì nhiều, sự thật là tôi đã giết người. Thật đáng sợ. Luật pháp trừng phạt người tài xế nhưng lại không đả động gì đến kẻ giết người thực sự là tôi. Bởi vì tôi và ông lão đã chết không liên quan gì đến nhau.
Nếu có bị chất vấn, tôi chỉ cần trả lời là tôi quên mất có bệnh viện ngoại khoa là xong. Tất cả chỉ là vấn đề lương tâm.
Thưa quý vị, quý vị đã từng nghĩ đến cách thức giết người như này trước đó bao giờ chưa? Từ vụ tai nạn ô tô đó, tôi mới nhận ra có kiểu giết người như vậy. Nghĩ đi nghĩ lại tôi mới thấy thế giới này quả là một nơi vô cùng nguy hiểm. Từ khi nào mà một gã đàn ông như tôi không dưng lại có thể cướp đi một mạng sống một cách oan uổng bằng cách cố ý chỉ nhầm bác sĩ được nhỉ? Sau đó tôi đã thử nghiệm điều này và quả nhiên nó thành công thật. Một bà lão nhà quê định băng qua đường ray tàu điện. Bà ta mới chỉ đặt được một chân lên đường tàu thì đương nhiên không chỉ có tàu điện mà còn ô tô, xe đạp, xe ngựa kéo, xe người kéo cùng ồ ạt chạy qua, đan lại với nhau như mắc cửi. Bà già lúc đó chắc hoảng loạn lắm. Tôi giả sử khi bà già vừa mới đặt một chân xuống đường tàu thì một chiếc tàu điện lao tới nhanh như bão và cách bà ta khoảng năm mét. Bà già lúc đó không để ý đến chiếc tàu điện mà cứ thế định băng qua. Nếu ai đó hét lớn “nguy hiểm đấy, bà lão” thì đương nhiên bà ta sẽ cuống lên không biết nên băng qua tiếp hay tạm lùi lại về phía sau. Chắc chắn bà ta sẽ rất bối rối. Và nếu như chiếc tàu điện kia không kịp phanh gấp do cự ly quá gần thì chỉ bởi một câu nói “nguy hiểm đấy, bà lão” cũng có thể khiến bà lão bị thương nặng hoặc khủng khiếp hơn là cướp đi sinh mạng của bà ta chưa biết chừng. Như tôi đã nói ban nãy, bằng cách này tôi đã giết một người ở quê rồi đấy.”
Nói đoạn, anh T dừng lại một lúc. Điệu cười của anh ta khiến tôi thấy ghê tởm.
“Không còn nghi ngờ gì nữa, kẻ thủ ác chính là tôi, người đã hét lên “nguy hiểm đấy”. Cứ cho là ai đó nghi ngờ tôi cố ý giết người đi. Nhưng ai mà tưởng tượng được lại có người đàn ông chỉ vì ham muốn giết người đã sát hại một người xa lạ, vô tội và không có bất cứ thù hằn gì với hắn? Hơn thế nữa, mấy lời cảnh báo “nguy hiểm đấy” nghĩ thế nào cũng là ý tốt cơ mà. Chỉ nhìn bề ngoài thì không có lý gì tôi lại bị người chết oán hận, người ta còn phải cảm ơn tôi ấy chứ. Quý vị có công nhận với tôi rằng đây là cách giết người an toàn một cách tuyệt đối hay không? Trong thế giới này, người ta vẫn ngây thơ tin rằng những việc ác sẽ bị pháp luật trừng trị một cách thích đáng. Không ai tưởng tượng được pháp luật bỏ qua cho tội giết người. Nhưng thực tế thì sao? Từ những ví dụ thực tế mà tôi kể với quý vị ở trên thì có thể suy ra, có vô vàn cách thức giết người mà không bị pháp luật sờ đến. Khi nhận ra điều này, thay vì rùng mình trước sự thật kinh hoàng về thế giới này thì tôi lại vô cùng sung sướng trước sự vĩ đại của đấng sáng tạo đã chừa chỗ cho tội ác có thể nhởn nhơ. Tôi thực sự vui sướng đến phát điên vì phát hiện này. Các vị không thấy nó thật tuyệt vời hay sao? Chỉ bằng cách này, một mình tôi có thể xây dựng cả một xã hội tuyệt vời và được trao quyền giống như những samurai thời xưa được trao đặc quyền giết người mà không phải chịu tội.
Vì vậy, tôi nảy ra ý định giết người theo cách này để giải tỏa nỗi buồn. Những vụ giết người mà không bị pháp luật sờ gáy, vụ giết người mà có tài thánh Sherlock Holmes cũng không thể tìm ra lời giải. Đúng là liều thuốc hữu hiệu giúp tôi tỉnh ngủ. Kể từ đó, trong suốt ba năm trời, tôi đắm chìm trong thú vui giết người và hoàn toàn quên hẳn sự nhàm chán lúc nào không hay. Quý vị đừng cười. Tôi thấy mình chẳng khác nào những bậc hào kiệt thời chiến quốc cầm kiếm giết một trăm người. Đương nhiên tôi không cầm kiếm đi giết ai nhưng tôi đã nguyện với lòng mình tuyệt đối sẽ không dừng lại hành vi này cho tới khi giết được một trăm người.
Ba tháng trước, số người tôi ra tay giết hại lên đến chín mươi chín người. Đến lúc chỉ còn một người là hoàn thành ước nguyện thì như tôi vừa mới nói, tôi lại đâm ra chán ngấy với việc giết người đó. Mà
thôi, tạm bỏ qua chuyện tôi chán chường ra sao. Chắc hẳn quý vị sẽ thắc mắc tôi đã giết chín mươi chín người kia như thế nào. Đương nhiên tôi chẳng có ân oán với bất kì ai trong số chín mươi chín người đó. Tôi xuống tay với họ bằng những cách mà không ai hay biết và nó đem lại vui thú cho tôi. Tôi không bao giờ lặp lại cách thức giết người. Sau khi giết được một người, tôi lại có niềm vui khác là dày công nghĩ tới cách thức giết người mới.
Nhưng tại đây, tôi không có thời gian để kể hết với quý vị về chín mươi chín cách giết người khác nhau đó. Hơn nữa, mục đích tôi tới đây đêm nay cũng không phải để thú nhận về từng cách giết người. Những tưởng bằng cách giết người tàn bạo như vậy, tôi sẽ thoát khỏi sự nhàm chán nhưng nào ngờ cuối cùng, tôi lại mệt mỏi với chính những tội ác đó. Lần này, tôi đang cố gắng hủy hoại chính bản thân và vì muốn nói với các quý vị về thứ cảm xúc bất bình thường của mình cũng như muốn nhận được sự phán xét từ quý vị nên tôi chỉ xin phép kể hai đến ba vụ giết người mà thôi.
Không lâu sau khi tôi phát hiện ra cách thức giết người bí ẩn thì có một chuyện như thế này. Ở gần nhà tôi có một người chuyên tẩm quất, bấm huyệt. Mặc dù bị mù nhưng anh ta vô cùng ngang ngạnh. Nếu người khác có tử tế nhắc nhở anh ta chú ý cái này cái kia thì ngược lại không những không làm theo mà anh ta còn tỏ thái độ như biết tỏng rằng đừng tưởng ta đây mù mà chơi khăm ta. Vì thế, nhất định anh ta sẽ làm ngược lại những điều người khác nói. Một kẻ ngoan cố không ai bằng.
Một ngày nọ, khi tôi đang đi bộ trên đường lớn thì gặp anh chàng người mù tẩm quất ngang bướng nọ từ phía đằng kia đi lại. Anh ta trông rất ngông nghênh, một tay vác chiếc gậy batoong lên vai, chân đi xoắn quẩy còn miệng thì lẩm nhẩm hát gì đó. Vừa hay, hôm qua phố đó bắt đầu thi công đường ống nước nên bên đường có một chiếc hố sâu. Vì bị mù nên anh chàng kia không thể nhìn thấy biển báo, cứ thản nhiên bước về phía cái hố mà không hay biết gì.
Thấy thế, tôi liền nảy ra một ý tưởng điên rồ. Thế là tôi hét lớn gọi tên anh chàng tẩm quất mù: “N ơi!” Tôi hay nhờ anh ta tẩm quất nên chúng tôi biết nhau. “Chỗ đó nguy hiểm lắm, dịch sang trái, dịch sang trái mà đi.”
Tôi cố tình pha chút giọng hài hước vào đó. Tôi đoán, thế là với bản tính thường ngày, chắc chắn anh ta sẽ tưởng mình bị chơi xỏ mà đi sang phải thay vì bước sang trái. Y rằng, anh ta đáp lại tôi: “Ê hệ hệ... Anh chỉ được cái khéo đùa.”
Đã thế anh ta còn nhè cái giọng ra mà nói rồi bước hai, ba bước sang bên phải. Đương nhiên, anh ta bị thụt chân ngã xuống hố và chỉ kịp kêu “Á” một tiếng. Tôi giả bộ kinh ngạc rồi chạy đến bên miệng hố.
Tôi nhòm xuống xem “thành công chưa” thì thấy anh ta nằm đuột dưới đấy, những viên đá sắc nhọn xung quanh hố chọc khắp người anh ta. Phần đầu bị đâm thủng, máu đen lẫn máu đỏ xối ra ầm ầm. Tôi trông như anh ta cắn phải vào lưỡi, máu từ mũi và miệng cũng chảy ra không ngừng. Mặt anh ta bấy giờ đã tím ngắt chẳng còn sức để mà rên rỉ.
Thế là anh chàng tẩm quất mù này, cũng phải mất một tuần thoi thóp rồi mới chết. Kế hoạch của tôi thành công mỹ mãn. Ai có thể nghi ngờ tôi nào? Tôi yêu quý anh ta, thường xuyên gọi anh ta tới tẩm quất cho thì không thể nào tôi lại có thù hằn đến độ nảy sinh động cơ giết người. Hơn nữa, tôi đã bảo anh ta “dịch sang trái” để tránh cái hố sâu bên phải cơ mà. Ai cũng sẽ công nhận ý tốt của tôi thôi. Chắc chắn không ai có thể ngờ được đằng sau những lời tử tế đó là âm mưu giết người đến ghê rợn.
Chà chà, một trò tiêu khiển đáng sợ nhưng rất hay ho. Niềm vui sướng khôn tả khi nghĩ ra mánh khóe tài tình có thể nói sánh ngang với người nghệ sĩ hay cảm giác hồi hộp khi thực hiện mánh khỏe và cuối cùng là sự hài lòng khó có thể diễn tả bằng lời khi đạt được mục đích của mình. Chưa hết, những nạn nhân xấu số hy sinh vì họ
không hề hay biết kẻ giết người lại ở ngay trước mắt. Cảnh họ quần quại, giãy chết trong đống máu me chảy ra lênh láng ban đầu đã khiến tôi ngây ngất vì sung sướng.
Tôi xin kể một câu chuyện khác. Đó là một ngày hè mây u ám. Tôi có mặt ở một nơi có thể gọi là làng văn hóa nằm ở ngoại ô. Tôi đang đi bộ qua khu vực có khoảng chục ngôi nhà xây kiểu Âu đồ sộ. Đúng lúc đó, khi ngang qua sân sau của một công trình kiến trúc phương Tây được xây bằng bê tông vô cùng tráng lệ thì bất ngờ một vật lạ dừng lại trước mắt tôi. Thứ tôi đang nói đến là một con chim sẻ. Nó bay sượt qua rất mạnh trước mũi tôi từ trên mái của ngôi nhà đó xuống hàng dây kim loại được chăng dưới mặt đất. Vừa mới đậu xuống thì bất ngờ nó lăn đùng ra và rơi xuống đất mà chết.
Thấy lạ, tôi mới lại gần và xem thì phát hiện ra, hàng dây kim loại đó nối với cột thu lôi trên nóc nhà nhọn hoắt của ngôi nhà kiểu Âu đó. Đương nhiên, đống dây kim loại đó đã được bọc lại nhưng chẳng hiểu sao chỗ con chim sẻ đậu lại bị tróc ra. Tôi không hiểu lắm về điện đóm nhưng tôi nhớ ở đâu đó người ta có nói rằng dòng điện mạnh có thể chạy qua do tác động của điện trong không khí vào sợi dây kim loại của cột thu lôi. Lần đầu tiên tôi mới gặp chuyện như thế này nên tôi lấy làm lạ lắm. Tôi đứng bất động một hồi lâu và nhìn chằm chằm vào hàng dây kim loại.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng láo nháo của đám trẻ con đang chơi trò tập trận ở bãi trống bên cạnh tòa nhà. Trong số đó, có một đứa bé trai khoảng sáu, bảy tuổi. Khi những đứa khác chạy biến đi đâu mất thì một mình nó ở lại và làm gì đó. Tôi thấy nó đứng trên một mô đất cao cao ngay trước hàng dây kim loại nối với cột thu lôi ban nãy, che người lại và bắt đầu đi tè. Nhìn thấy thế, tôi lại nảy ra một kế hoạch tinh vi. Hồi còn học cấp hai, tôi được dạy rằng nước là một chất dẫn điện. Từ chỗ thằng bé đang đứng lúc này, nước tiểu của nó không thể tiếp xúc được với phần dây kim loại bị hở. Nước tiểu là nước nên chắc chắn nó cũng dẫn điện.
Thế là tôi bảo với thằng bé đó thế này: “Này nhóc, chú mày thử tè vào cái dây kia xem có tè tới chỗ đó được không?”
Nó đáp lại ngay: “Sao lại không? Ông chống mắt ra mà xem đi.”
Dứt lời, nó liền thay đổi ngay tư thế đứng và bất ngờ cẩu lên đoạn dây bị hở ra. Không biết nước tiểu có chạm tới sợi dây hay không nhưng có thứ còn đáng sợ hơn. Thằng bé bật tung lên rồi ngã đánh phịch xuống. Sau đó tôi mới biết hiếm có dòng điện mạnh như vậy chạy qua cột thu lôi còn tôi thì từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, lần đầu được chứng kiến tận mắt người chết vì bị điện giật.
Đương nhiên lần này tôi cũng không mảy may lo sợ mình bị nghi ngờ. Tôi chỉ việc nói đôi lời chia buồn đầy thành ý với người mẹ đang ôm xác con mà khóc tức tưởi rồi bỏ đi là xong.
Lại một câu chuyện khác cũng xảy ra vào mùa hè. Tôi là bạn thân của người đàn ông mà tôi nhắm làm vật hy sinh. Nói vậy thôi chứ tôi chẳng có thù hằn gì với cậu ta cả. Có thể nói, cậu ta là người bạn thân lâu năm, có một không hai của tôi. Nhưng về phần tôi, trái lại, tôi có một mong ước quái đản là không nói gì và mỉm cười nhìn người bạn thân chết trong tích tắc. Tôi đã cùng người bạn đó đến một làng chài hẻo lánh ở Boshu thuộc tỉnh Chiba để tránh nóng. Chỗ đó tất nhiên không thể bơi được nhưng bọn trẻ con sống ở làng chài với làn da đen sạm vì nắng vẫn lồng nhồng nghịch nước. Khách du lịch từ thành phố đến ngoài hai bọn tôi ra còn có một đám gồm vài đứa sinh viên khoa hội họa. Chúng cầm sổ vẽ và đi lòng vòng bên bờ biển.
Không giống với những bãi tắm nổi tiếng nơi có thể nhìn thấy thân hình nóng bỏng, quyến rũ của các cô gái thành phố, nơi đây khá bất tiện và buồn tẻ. Nếu xác định nghỉ lại qua đêm thì cũng chỉ có mấy nhà trọ tự phục vụ, chưa kể đồ ăn thì dở tệ, không món nào hợp khẩu vị trừ món sashimi. Trái ngược hoàn toàn với tôi, bạn tôi lại là người thích nếm trải cuộc sống cô độc ở một nơi tĩnh lặng như thế. Ban đầu tôi rất sốt sắng tận dụng cơ hội để ra tay với cậu ta
nhưng sau vài ngày ở làng chài chán ngắt đó, tôi đã lấy lại được bình tĩnh.
Một hôm, tôi dẫn bạn tôi đến xem một vách đá cách làng chài khá xa. Rồi tôi nói với cậu ta rằng: “Đây là nơi lý tưởng để nhảy từ trên vách cao xuống biển đấy”, và đứng dậy cởi kimono ra. “Ừ, hay đấy!” Bạn tôi cũng có kiến thức bơi lội nên cậu ta không do dự, bắt chước tôi cởi đồ ra.
Đứng ở chỗ vách đá nhô ra, tôi giơ hai tay lên đầu, hét thật to lên đếm “một, hai, ba” rồi lao vút đi. Tôi vẽ vào không trung một đường cong tuyệt đẹp trước khi rơi xuống biển.
Khi chạm xuống nước đánh “tòm”, hít thở bằng lồng ngực và bụng rồi rẽ nước lặn xuống biển khoảng gần một mét, sau đó ngoi lên trên mặt nước như cá chuồn, tôi thành thạo biểu diễn kỹ thuật của “nhảy mạo hiểm”. Tôi vốn giỏi bơi lội từ nhỏ nên việc này với tôi dễ như bỡn. Khi cách bờ biển khoảng gần ba chục mét, tôi ngoi đầu lên, vừa đứng dưới nước vừa lấy tay vuốt mặt.
“Ê, nhảy thử xuống đây đi.” Tôi gạ bạn tôi. “Được rồi!”
Cậu ta đáp. Chẳng nghi ngờ gì, cậu ta cũng làm động lác giống tôi rồi lao xuống biển.
Nhưng chỉ thấy bọt nước sủi lên trên mặt biển, còn bạn tôi thì lặn mãi mà không thấy ngoi lên... Tôi đã biết trước được điều đó vì có một hòn đá to nằm dưới đáy biển, ở chỗ cách mặt nước chừng gần hai mét. Tôi đã tìm nó và lén đặt nó vào vị trí đó từ trước. Với trình độ của bạn tôi thì nếu làm một cú “nhảy mạo hiểm” thì chắc chắn cậu ta sẽ lặn xuống nước khoảng hơn một mét và sẽ đập đầu vào hòn đá. Công việc của tôi là tính toán để cậu ta trúng bẫy. Quý vị cũng biết đấy, người lặn giỏi đến mấy mà không quen lặn ở đây, sẽ khó tránh khỏi những tình huống nguy hiểm. Vì đã luyện tập khá thành thục rồi nên trước khi đập phải hòn đá dưới đáy biển, tôi đã kịp chuyển hướng và nổi lên nhưng bạn tôi lại khác. Kỹ thuật của
cậu ta vẫn còn non nên khi thực hiện cú “nhảy mạo hiểm” thì bị đập ngay đầu vào hòn đá.
Đúng như kế hoạch, tôi đợi một lúc thì thấy xác bạn tôi nổi lềnh phềnh như một con cá ngừ và bị sóng đánh trôi dập dềnh trên mặt nước. Tôi không cần phải nói thêm thì chắc quý vị cũng đều biết rằng cậu ta đã tắt thở.
Tôi ôm lấy cậu ta bơi vào bờ, rồi cứ thế đi về phía làng chài và vội vã hô hoán báo cho người ở khu trọ biết. Một ngư dân hôm đó nghỉ không ra khơi, đang ở nhà liền chạy ra cấp cứu bạn tôi nhưng cậu ta bị thương rất nặng ở đầu, không còn dấu hiệu của sự sống. Tôi thấy đỉnh đầu cậu ta bị rách gần hai mươi phân, phần thịt trắng lòi ra. Máu đen, máu đỏ chảy từ đầu rỉ xuống đất lênh láng cũng đã đông lại.
Từ trước đến giờ, tôi chỉ bị cảnh sát thẩm vấn có hai lần thì đây là một trong số hai lần đó. Sự việc xảy ra ở nơi vắng vẻ, ít người nên bị thẩm vấn là chuyện đương nhiên. Sau đó thì họ biết tôi và cậu bạn là những người bạn thân chí cốt, giữa chúng tôi chẳng hề xảy ra xích mích gì. Vả lại cả tôi và cậu bạn đều không biết có hòn đá lớn năm dưới đáy biển. Tôi may mắn thoát chết vì bơi lội giỏi còn bạn tôi bơi kém nên mới gặp phải chuyện không hay. Tất cả đều được làm sáng tỏ. Không những thế, tôi còn nhận được những lời chia buồn từ phía cảnh sát rằng: “Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì anh đã mất đi người bạn thân thiết của mình.”
Mà thôi, nếu cứ lan man hết chuyện này sang chuyện khác như thế này thì không biết bao giờ mới hết. Chỉ cần ke so qua thì tôi đoán quý vị đều biết tỏng cách thức giết người mà không bị pháp luật sờ gáy của tôi rồi. Tất cả các vụ án đều diễn ra theo phương thức này. Một lần, tôi trà trộn vào đám đông khán giả trong rạp xiếc. Đột nhiên, tôi làm điệu bộ nực cười ra hiệu với cô diễn viên nhào lộn rằng nếu nói chuyện ở đây sẽ rất xấu hổ. Thế là tôi khiến cô ta bị phân tâm khi đang đi bộ trên dây và cô ta đã ngã lộn cổ từ trên cao xuống. Lần khác, trong một vụ hỏa hoạn, tôi nói với một người mẹ
đang điên cuồng tìm con trong đám cháy rằng “hình như tôi nghe thấy tiếng trẻ con khóc” và ám chỉ đứa trẻ đang ngủ trong nhà. Tôi đã xúi giục được người mẹ đó lao vào đám lửa và kết quả là cô ta bị chết cháy. Lại một lần khác, tôi bất ngờ hét lên thất thanh “đợi đã” khi thấy một con bé chuẩn bị gieo mình xuống nước.
Nếu tôi không làm thế thì có khi nó lại chẳng nhảy xuống chưa biết chừng. Nhưng vì tiếng hét của tôi khiến nó giật mình loạn nhịp rơi tõm xuống nước. Tôi mà kể nữa thì vẫn còn khối chuyện nhưng đêm đã khuya lắm rồi và chắc quý vị cũng không muốn nghe thêm những chuyện đau lòng như thế này nên hãy cho phép tôi kể nốt một câu chuyện để đổi gió hầu quý vị.
Mỗi một vụ giết người tôi kể ở trên đều cướp đi sinh mạng của một con người. Nhưng toàn bộ không phải như vậy. Nếu không thế thì làm sao tôi có thể giết được chín mươi chín người chỉ chưa đầy ba năm bằng thủ đoạn tinh vi mà không bị pháp luật rờ tới. Số người mà tôi giết nhiều nhất trong một vụ phải kể đến câu chuyện diễn ra vào mùa xuân năm ngoái. Tôi đoán tất cả quý vị đều đã đọc bài báo liên quan đến sự kiện đó. Vụ lật tàu tuyến trung tâm khiến nhiều người chết và nhiều người bị thương nặng Chính là vụ đó đó.
Cách thức đơn giản đến ngớ ngẩn nhưng tìm được đoạn đường tàu lý tưởng để thực hiện nó mới hao tâm tổn sức. Duy nhất một việc tôi liệu được trước là đoạn đường đó nằm ở dọc đường tàu tuyến trung tâm. Tức là trong kế hoạch của tôi, tuyến tàu này không những đi qua đoạn đường núi lý tưởng tuyệt đối mà ở đó còn thường xuyên xảy ra các vụ tai nạn đường sắt nên nếu thiết kế một vụ lật tàu thì cũng không ai lấy làm lạ và không lo bị chú ý so với những tuyến tàu khác.
Nhưng kể cả có như thế đi nữa thì để tìm được vị trí thích hợp đúng như yêu cầu cũng mướt mồ hôi. Tôi đã mất một tuần liền tính toán mới quyết định chọn vách đá ở gần ga M. Vì ga M có một khu suối tắm nước nóng nho nhỏ nên tôi đã trọ lại ở một nhà nghỉ gần đó. Ngày ngày tôi tới tắm nước nóng hoặc đi dạo. Nhìn bề ngoài,
trông tôi không khác gì một vị khách tới khu suối khoáng nóng để điều trị dài ngày. Sau hơn mười ngày chờ đợi vô ích, cuối cùng thì thời cơ cũng đã đến. Một ngày nọ, tôi lại đi dạo ở khu đường núi như thường lệ.
Sau đó, tôi trèo lên đỉnh của một vách đá nhỏ cách nhà trọ khoảng nửa dặm và ngồi im lìm trong bóng tối chờ đợi. Ngay dưới chân vách đá, đường ray tàu chạy vẽ lên những đường cua ngoằn ngoèo. Phía bên kia đường ray, đối diện với chỗ tôi đang ngồi là thung lũng sâu hoắm, hiểm trở. Dưới đáy vực là dòng sông nhỏ chảy qua, mờ mờ ảo ảo trong đêm tối.
Chẳng bao lâu, giờ khắc định mệnh cũng đã đến. Mặc dù chẳng có ai nhìn thấy nhưng tôi cũng giả bộ như bị vấp phải một hòn đá to, đương nhiên hòn đá cũng đã được chuẩn bị trước, và đá bay nó đi. Chỉ cần một cú đá khẽ thì hòn đá cũng sẽ rơi đúng xuống đường ray ở phía dưới. Tôi đã chủ ý nếu không thành công, tôi sẽ thực hiện một cú đá khác nhưng hòn đá vừa rồi lại rơi xuống một vị trí quá hoàn hảo trên một bên đường ray.
Ba mươi phút sau, một đoàn tàu chạy qua đoạn đường ray đó. Bấy giờ, trời đã tối đen như mực, hòn đá lại nằm ở khúc cua bên kia nên chắc chắn người lái tàu không thể nhìn thấy nó. Tận mắt thấy rõ mọi diễn biến rồi tôi bèn hối hả chạy ngược về phía ga M (đoạn đường núi lại những hơn nửa dặm khiến tôi mất ba mươi phút mới quay về được). Tôi lao như bay vào phòng trưởng ga và hét toáng lên: “Nguy to rồi! Tôi là khách đến điều trị bằng suối khoáng đây.” Tôi vừa đi bộ trên vách đá chạy dọc theo đường ray cách đây nửa dặm để về đây. Đang định đi xuống con dốc thi không may tôi đá phải một hòn đá từ trên vách xuống đường ray phía dưới. Nếu như có đoàn tàu nào chạy qua chỗ đó thì chắc chắn nó sẽ bị lật. Cũng không loại trừ khả năng nó có thể rơi xuống dòng sông phía dưới. Tôi đã tìm đủ đường để xuống đó nhặt hòn đá lên nhưng tôi không rành đường núi cho lắm, cũng không biết làm cách nào đi từ trên vách đá cao để xuống nên tôi mới nghĩ thay vì lúng túng ở đó, chỉ bằng chạy về đây báo có khi lại giải quyết được vấn đề. Phải làm
sao bây giờ? Ông có thể cho người đi lấy hòn đá đó khẩn cấp được không?”
Tôi vừa nói, vừa làm ra vẻ lo lắng lắm. Trưởng nhà ga nghe thấy thế thì kinh ngạc. “Gay to rồi. Tàu vừa mới chạy qua. Bình thường thì tầm giờ này, chắc chắn nó đã chạy qua rồi...”
Có thể chứ! Đúng như những gì tôi đã nghĩ. Trong lúc chúng tôi còn đang hỏi đáp qua lại thì có vô vàn tin cấp báo từ nhân viên soát vé đã thoát chết trong gang tấc trên chuyến tàu định mệnh về tình hình số người bị chết, bị thương trong vụ lật tàu. Chà, to chuyện rồi đây.
Tôi bị lôi đến đồn cảnh sát M và bị giữ ở đó suốt một đêm. Kể cả chuyện này tôi cũng đã tiên liệu được trước. Chắc chắn tôi không có bất cứ sơ hở nào. Đương nhiên tôi bị chửi bởi thậm tệ nhưng cũng không đến mức phải nhận bất cứ sự trừng phạt nào. Sau đó, hỏi ra thì tôi được biết, hành vi của tôi, căn cứ theo luật hình sự Nhật Bản, điều một trăm hai mươi chín thì tôi bị xử phạt số tiền dưới năm trăm Yên Nhật nhưng lại chẳng ứng với khung hình phạt nào nên thành ra tôi chẳng bị phạt gì chỉ vì một hòn đá. Ồ, thế là như thế nào? Vâng, là mười bảy mạng người đấy. Tôi đã thành công khi cướp đi tính mạng của mười bảy con người.
Quý vị, tôi là gã đàn ông đã giết chín mươi chín mạng người theo kiểu đó. Tôi cũng chính là kẻ không những chẳng mảy may ăn năn, hối lỗi về những tội ác mình gây ra mà còn chán ngấy với mấy trò kích thích máu me và đang tìm cách kết liễu đời mình đây. Quý vị đang nhíu mày khó chịu trước những việc làm tàn ác của tôi kìa. Phải! Chúng là những hành vi giết người man rợ trái với luân thường đạo lý mà không một người bình thường nào có thể nghĩ đến. Nhưng tôi mong quý vị hãy hiểu cho tâm trạng của tôi, tôi đã không thể tìm thấy được điều gì đáng sống trên đời mới chán đến độ phải tìm cách gây ra những tội ác liên hoàn nếu không thì không biết làm gì cho hết chán. Tôi xin để quý vị được quyền phán xét. Tôi có phải là một kẻ điên loạn hay không? Hay tôi là một kẻ cuồng sát?”
Và như thế, câu chuyện hết sức kì quái của người kể chuyện đêm nay đã kết thúc. Hắn nhìn chúng tôi khắp một lượt bằng đôi mắt trợn ngược, trắng dã vằn lên những tia máu đỏ của một kẻ điên cuồng. Nhưng không một ai trong căn phòng mở miệng đáp lại câu hỏi của hắn. Ánh lửa phát ra từ ngọn đèn cầy vẫn bập bùng nhảy múa, soi chiếu vào bảy gương mặt dường như bất động.
Bất ngờ, tấm rèm phía cửa lóe sáng. Nhìn kĩ thì món đồ vật phát ra thứ ánh sáng màu bạc mỗi lúc một lớn dần. Vật hình tròn đó xuất hiện từ phía sau những tấm rèm màu đỏ như trăng tròn rẽ đám mây dày đặc chui ra. Ngay lúc ấy, tôi nhận ra đó là chiếc khay tròn màu bạc lớn đựng đồ uống của chúng tôi được cô hầu bàn bưng lên bằng hai tay. Nhưng lạ ở chỗ, trong không khí của “căn phòng màu đỏ” không có chỗ cho những biến hóa ảo ảnh thì chiếc khay bạc bình thường trong thế giới này lại khiến ta liên tưởng đến chiếc khay bạc đựng chiếc đầu của nhà tiên tri, nô lệ bước ra từ chiếc bể chứa cũ
trong vở bi kịch Salomé.
[3] Khi chiếc khay bạc được mang ra khỏi
những tấm rèm, thứ ánh sáng lóe lên đó lại khiến ta liên tưởng tới ánh sáng chói lòa của một thanh thiên long đao lớn.
Nhưng thay vì cơ thể bán thân trần trụi của gã nô lệ với bờ môi dày thì lại là cô hầu bàn xinh đẹp mọi ngày. Cô ấy vui vẻ đi vào và bắt đầu đi lại chỗ bảy người đàn ông đang ngồi và đưa đồ uống. Tôi cảm thấy có gì đó khác lạ như thể có một ngọn gió của thế giới thực tại thổi vào căn phòng ma quái, tách biệt với phần còn lại của thế giới. Cô gái làm việc ở nhà hàng bên dưới ngôi nhà này, xung quanh cô là những tiếng ca hát, nhảy múa tưng bừng, tiếng la hét của những cô gái trẻ say khướt.
“Đứng im, không tôi bắn đấy!”
Bất ngờ, anh T thong thả cất giọng trầm trầm không khác gì với khi anh ta kể chuyện lúc nãy. Thế rồi tay phải anh ta rút ra từ túi áo một vật gì đó sáng choang và chĩa nó về phía cô hầu bàn.
Những người còn lại chỉ kịp kêu lên một tiếng “Á” thất thanh. Tiếng súng nổ “Đoàng”, và tiếng hét sợ hãi của cô gái vang lên gần như cùng lúc.
Tất cả bọn tôi đứng bật dậy. Nhưng không hiểu vì sao, cô gái mặc dù bị bắn vẫn không hề hấn gì. Cô ấy đang đứng như trời trồng ngơ ngác nhìn những chiếc ly đựng đồ uống bị bắn vỡ tan tành.
“A ha ha..” Gã T phá lên cười như điên dại.
“Đồ chơi đấy. Chỉ là một món đồ chơi thôi. A ha ha... Ăn quả lừa rồi nhé. Ha ha ha...”
Khẩu súng vẫn đang nhả khói trắng nghi ngút trong tay gã T chẳng qua chỉ là một khẩu súng đồ chơi thôi ư?
“Ôi, làm tôi giật hết cả mình... Thứ đó, là đồ chơi thật hả?”
Cô hầu bàn hình như đã biết gã T này từ trước, cô lại thân mật bắt chuyện và tiến lại gần về phía gã, mặc dù đôi môi vẫn cắt không còn một giọt máu.
“Đâu? Cho tôi mượn thử xem nào. Ôi, giống y chang súng thật.”
Cô gái cầm lấy khẩu súng loại nạp sáu viên đạn lên xem một cách ngượng nghịu.
“Thật đáng tiếc. Vậy thì, đến lượt tôi.”
Dứt lời, cô gái gập tay trái lại và chĩa nòng súng lên ngực gã T mà nhắm bắn bằng điệu bộ thách thức.
“Bắn được thì cô em cứ thử xem nào.” Gã T nhếch miệng, vừa cười vừa nói với giọng như trêu chọc.
“Tôi không bắn được đâu.”
Đoàng... Tiếng súng vang lên, đanh sắc hơn lần trước gấp nhiều lần, vọng khắp căn phòng.
“Ư ư ư..” Tiếng nên rỉ không thành lời. Gã T bị bật khỏi ghế và ngã lăn xuống sàn. Hắn giãy giụa chân tay trong đau đớn.
Là một trò đùa ư? Tại sao trò đùa này lại thật đến quá đỗi như vậy? Chẳng nói chẳng rằng, chúng tôi ai nấy đều chạy đến vây xung quanh hắn ta. Một người ở bên cạnh bèn với lấy giá nến trên bàn và chĩa về phía kẻ đang bị thương nặng. Tôi thấy mặt gã T tái nhợt, toàn thân hắn giật đùng đùng. Mỗi khi hắn cử động, dòng máu đỏ thẫm từ miệng vết thương đen ngòm trên ngực chảy ồ ạt xuống làn da trắng.
Phát thứ hai là viên đạn thật đã được nạp vào khẩu súng đồ chơi có ổ đạn sáu viên. Chúng tôi cứ đứng chôn chân mãi một lúc, ai nấy đều bất động. Sự việc xảy ra ngay sau khi câu chuyện kì quái vừa kết thúc khiến tất cả đều bị kích động mạnh. Nếu tính theo đồng hồ thì có thể nó chỉ là một khoảng thời gian tương đối ngắn ngủi nhưng chí ít với chúng tôi, thời gian đứng im mà không làm gì đó dài đến bất tận. Nhưng tại sao, trước tình huống diễn ra trong nháy mắt đó, nhìn người bị thương đang nằm nên rỉ ở kia, trong đầu tôi lại lóe lên ý nghĩ này.
Chắc chắn sự việc xảy ra ngoài ý muốn. Nhưng nghĩ kĩ thì chẳng phải ngay từ ban đầu, toàn bộ câu chuyện đều nằm trong kế hoạch đêm nay của T hay sao? Hắn đã giết chín mươi chín người và người thứ một trăm hắn chừa lại cho chính mình. Như vậy thì “căn phòng màu đỏ” chính là địa điểm lý tưởng cho cái chết cuối cùng. Với tính cách quái gở của gã đàn ông này thì không gì là không thể. Phải rồi. Việc hắn khiến tất cả mọi người tin rằng đó là khẩu súng đồ chơi, thủ đoạn tinh vi khiến cô hầu bàn bóp cò, chúng đều có điểm chung với cách thức giết người rất đặc trưng của hắn. Làm thế này thì, cô hầu bàn cũng chính là kẻ giết người sẽ không phải lo lắng tới chuyện bị truy cứu bởi vì nhân chứng chính là sáu người bọn tôi. Tức là, gã T đã áp dụng phương thức mà hắn vẫn ra tay trước đây với chính
mình, phương thức mà kẻ gây hại vẫn có thể nhởn nhơ sau khi gây án ư?
Không chỉ mình tôi, những người còn lại cũng đang đắm chìm vào những cảm xúc của riêng mình. Có thể bọn họ đều nghĩ như tôi cũng nên. Thực tế thì không thể nghĩ thêm được gì thích hợp hơn tình huống này.
Không khí im lặng đến đáng sợ bao trùm lên toàn bộ căn phòng. Cô hầu bàn ôm mặt khóc thút thít vì đau buồn. Bi kịch trong “căn phòng màu đỏ” dưới ánh nến lập lòe khiến cho sự kiện xảy ra trong cõi trần tục hư ảo như một giấc mơ.
“Khục khục khục...”
Bất ngờ, chúng tôi nghe thấy một giọng lạ thường ngoài tiếng khóc của cô gái. Hình như nó là từ miệng của gã T đang nằm sóng sượt như người chết, chân tay đã thôi không giãy giụa. Tôi như bị giội cho một xô nước đá ở sau lưng, lạnh đến rùng mình.
“Khục khục khục...”
Tiếng cười mỗi lúc một to hơn. Cái xác tưởng đã chết của gã T lồm cồm đứng dậy. Hắn vẫn không thôi điệu cười “khục khục khục” bằng cái giọng kì lạ, giống như thể được rút ra từ tận lồng ngực. Nhưng mà... có lẽ nào... Ồ, quả nhiên ngay từ đầu hắn đã nhai đi nhai lại những trò hề.
“Quý vị!” Hắn lại cười lớn và hét lên. “Quý vị đã rõ rồi phải không? Thứ này này.”
Lại chuyện gì nữa đây? Cô hầu bàn nãy giờ còn khóc rưng rức bất ngờ đứng dậy, mặt rất tươi tỉnh. Như thế không chịu đựng được màn kịch nữa, gã T lại cười phá lên.
Hắn rút ra một túi nhỏ hình trụ, đặt lên tay mình và chìa ra trước mặt chúng tôi. “Đạn làm từ bàng quang con bò đấy. Tôi đã bơm đầy mực đỏ vào bên trong, chỉ cần nhắm trúng mục tiêu thì chất lỏng sẽ phun ra. Thêm nữa, cũng giống viên đạn giả này, toàn bộ câu chuyện tôi kể ban nãy, từ đầu chí cuối đều là chuyện tôi bịa ra. Nhưng quý vị có công nhận tôi diễn rất đạt không? Thôi nào, các quý ông nhàm chán. Đây không phải là thứ kích thích mà quý vị vẫn luôn tìm kiếm hay sao?”
Trong lúc hắn vén bức màn bí mật ra với chúng tôi thì cô hầu bàn, tới tận lúc này vẫn là trợ thủ đắc lực cho hắn, hình như đã lén bật công tắc dưới nhà khiến cho căn phòng đột ngột trở nên sáng rõ như ban ngày. Ánh sáng đèn điện chiếu vào mắt chúng tôi chói lóa. Và thứ ánh sáng rực rỡ ấy ngay lập tức xóa tan bầu không khí hư ảo, đặc quánh trong căn phòng. Mánh khóe của màn ảo thuật cũng được phơi bày ra trước ánh sáng. Chiếc thảm và những tấm rèm màu đỏ cùng những chiếc ghế bành, bàn tròn đến cả chân nến bằng bạc được sắp đặt một cách có chủ ý trông chúng thật đáng thương. Dù có tìm kiếm mọi ngóc ngách trong “căn phòng màu đỏ” cũng không thấy bóng dáng của giấc mơ, của ảo ảnh, thậm chí là cả một cái bóng.
TRUYỆN SỐ 3
HAI PHẾ NHÂN
Hai người đàn ông rời khỏi bồn tắm, họ châm điếu thuốc rồi vừa
nhâm nhi tách trà sencha
[4] vừa tán gẫu nhỏ to về chuyện thể sự
như mọi khi. Ánh nắng dịu nhẹ của mùa đông xuyên qua lớp của giấy tràn ngập vào căn phòng, sưởi ấm sàn nhà rộng chừng hơn chục mét vuông. Chiếc ấm bạc trên bếp lớn sôi ùng ục như muốn ra người ta vào giấc ngủ. Một buổi chiều mùa đông ở khu suối khoáng nóng an yên ngỡ như một giấc mơ.
Những câu chuyện về thế sự vô nghĩa bỗng chốc gợi lại những chuyện xa xưa. Vị khách tên là Saito bắt đầu kể về những trận chiến [5]. Ihara, chủ phòng vừa khế hơ hai bàn
đã diễn ra ở đảo Aoshima
tay lên bếp vừa im lặng ngồi nghe câu chuyện sặc mùi máu me. Xa xa là tiếng chim chích bụi gù theo như thể phụ họa thêm cho câu chuyện. Khung cảnh xung quanh lúc này rất thích hợp để kể chuyện quá khứ.
Khuôn mặt chằng chịt những vết sẹo của Saito rất hợp để kể những câu chuyện về sự gan dạ, dũng cảm. Anh ta vừa chỉ tay lên một nửa khuôn mặt bên phải bị mảnh đạn đại bác cứa vào vừa kể những câu chuyện với thông tin tưởng như anh ta cũng có mặt tại thời điểm bấy giờ. Thêm vào đó, trên cơ thể của Saito còn có nhiều vết chém mà mỗi khi mùa đông đến lại vô cùng đau nhức. Vì vậy, anh ta đã đến khu suối nước nóng để trị liệu và khi cởi bỏ lớp đồ đã để lộ ra những vết sẹo xưa cũ.
“Hồi còn trẻ, tôi cũng oanh liệt lắm đấy. Bây giờ thành ra thế này thì cuộc đời kể như cũng đến hồi kết rồi.”
Saito nói và kết lại câu chuyện về chiến trường tại đó. Về phần Ihara, anh ta trầm ngâm mất một lúc như thể đang tận hưởng nốt dư âm của câu chuyện.
“Vì chiến tranh mà cuộc đời của người đàn ông bị hủy hoại thành ra thế này. Chúng ta đều là những kẻ tàn tật. Nhưng anh còn được an ủi phần nào về danh dự chứ tôi đây thì..”
Ihara rùng mình khi chạm vào những vết thương lòng Anh ta cho rằng người đang đau đớn chịu đựng với những vết thương cũ về thể xác là Saito đây còn hạnh phúc hơn gấp vạn lần so với mình.
“Lần này, anh có muốn nghe một câu chuyện như lời thú tội của tôi không? Sau câu chuyện kể về cuộc chiến tranh anh dũng quả cảm thì có thể chuyện này hơi u ám một chút.”
Sau khi rót thêm một tách trà mới rồi uống liền một hơi, Ihara nói với vẻ rất phấn chấn.
“Tôi rất sẵn sàng lắng nghe anh đây.”
Saito đáp lại ngay lập tức. Thế rồi, Saito liếc nhìn Ihara như thể chờ đợi điều gì nhưng anh ta lại nhanh chóng cụp mắt xuống.
Giây phút đó, Ihara chợt cảm thấy có điều gì rất lạ. Anh là cảm giác như đã từng nhìn thấy biểu cảm của Saito vừa liếc nhìn mình ở đâu đó rồi. Ihara biết Saito được khoảng mười ngày, kể từ lần gặp đầu tiên nhưng Ihara có cảm giác giữa hai người họ có cái gì đó níu kéo lẫn nhau như thế một lời hứa từ tiền kiếp. Càng ngày, cảm giác đó lại ngày một sâu sắc hơn.
Nếu không phải vậy thì nhất định hai con người ở hai căn phòng khác nhau, với hai thân phận khác nhau, không thể trở nên thân thiết đến nhường này chỉ trong có vài ngày ngắn ngủi.
Ihara nghĩ.
Lạ nhỉ.Rõ ràng là mình đã nhìn thấy khuôn mặt của người đàn ông này ở đâu đó rồi. Nhưng nghĩ mãi vẫn chẳng thể nhớ ra là ở đâu. Có khi nào người này với mình là những người bạn từ thuở xa xưa, hồi còn chưa có ý thức gì mấy không nhỉ? Nếu nghĩ như vậy thì cũng có thể là như vậy lắm chứ.
“Hẳn là tôi sẽ được nghe một câu chuyện rất thú vị đây. Anh không thấy hôm nay là một ngày yên bình để nhớ về những năm tháng xa xưa hay sao?”
Saito nói như muốn thúc giục.
Từ trước tới giờ, Ihara chưa bao giờ kể những điều đáng xấu hổ về bản thân với ai. Ngược lại, anh ta còn muốn giấu nó đi càng kĩ càng tốt. Anh ta cố tìm mọi cách để quên đi những chuyện đó. Nhưng chẳng hiểu sao hôm nay, không biết vì một sự phấn khích nào mà Ihara lại muốn thử nói về chúng một lần xem sao.
“Chà, tôi không biết nên bắt đầu thế nào... Tôi là con trưởng của một gia đình kinh doanh lâu đời tại phố X. Có lẽ do được bố mẹ nuông chiều nên ngay từ nhỏ, tôi đã rất ốm yếu, vì thế tôi đi học muộn mất một đến hai năm. Mặc dù bị chậm hơn so với những người khác nhưng từ cấp một, cấp hai rồi sau đó là học đại học ở
Tokyo, mọi thứ với tôi đều rất thuận lợi. Sau khi đến Tokyo thì sức khỏe của tôi cũng tốt hơn, tôi trở nên hứng thú với chuyên ngành mình học và dần dần có được vài người bạn thân. Cuộc sống ở nhà trọ tuy thiếu thốn, bất tiện nhưng tôi vẫn thấy rất vui, quãng đời sinh viên rất thú vị. Bây giờ nghĩ lại thì đó là khoảng thời gian rực rỡ nhất trong cuộc đời tôi. Nhưng chưa đầy một năm sau khi đến Tokyo, tôi chợt nhận ra một điều thật đáng sợ.”
Nói đến đây, không hiểu sao Ihara lại hơi run run. Saito dụi mẩu thuốc lá cuốn vào bếp và chăm chú lắng nghe.
“Chuyện xảy ra vào một buổi sáng. Lúc đó, tôi đang sửa soạn quần áo để chuẩn bị đến trường thì một người bạn ở cùng nhà trọ bước vào phòng tôi. Thế rồi vừa đợi tôi thay bộ kimono, bạn tôi vừa lạnh lùng nói: Đêm qua ầm ĩ ghê cơ. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn chẳng hiểu chuyện gì. Ầm ĩ á? Ý cậu là tôi gây ra ư?. Tôi khó chịu hỏi lại. Bạn tôi ôm bụng cười phá lên và chọc ghẹo tôi: “Sáng nay cậu chưa rửa mặt phải không? Tôi đã hỏi thử bạn tôi là có chuyện gì thì cậu ta bảo đêm hôm trước, tôi đã vào phòng nơi bạn tôi đang ngủ, đánh thức cậu ta dậy và bắt đầu tranh luận. Hình như tôi còn tuôn ra một
tràng những so sánh quan điểm của Plato và Aristoteles
[6] về phụ
nữ, nói đến sướng miệng mà không thèm nghe ý kiến của bạn tôi rồi bỏ về. Bạn tôi nói gì như thể lừa tôi vậy. ‘Có cậu mơ thì có. Tối qua tôi đi ngủ từ sớm, ngủ say như chết tới tận sáng nay thì không thể có chuyện vô lý đó được!’ Tôi nói. “Tôi có bằng chứng chứng minh không phải cậu mơ đấy. Sau khi cậu về rồi, tôi chẳng ngủ được và phải lôi sách ra đọc mãi. Nhưng quan trọng hơn cả, cậu hãy nhìn những dòng này đi, cậu đã viết tối qua đó. Làm gì có ai viết được trong lúc mơ chứ!” Bạn tôi cũng điên lên đáp trả.
Bọn tôi đã lời qua tiếng lại một hồi như thế. Ngày hôm đó, mặc dù đến trường nhưng tâm trạng tôi cứ không yên. Trong lúc đợi giáo sư vào lớp, cậu bạn nhìn tôi bằng ánh mắt đăm chiêu. Từ trước tới giờ cậu đã bị rối loạn giấc ngủ bao giờ chưa đấy? Bạn tôi hỏi. Nghe thấy thế, tôi sững lại như thể vừa chạm phải thứ gì rất gớm ghiếc...
Vì tôi đã từng bị như thế rồi. Hồi còn nhỏ, nghe nói tôi thường hay nói mớ. Hễ ai đó trêu tôi nói mớ thì lúc ngủ tôi đều đối chất lại họ rất rõ ràng. Nhưng cứ đến sáng là tôi hoàn toàn không có chút kí ức gì về chuyện đó nữa. Vì căn bệnh của tôi rất kì lạ nên hàng xóm không khỏi bàn ra tán vào. Nhưng tôi chỉ bị như thế hồi cấp một, đến khi lớn thì lại tự khỏi, thậm chí tôi gần như quên mất mình bị mắc chứng bệnh đó. Giờ đây, đối mặt với câu hỏi của cậu bạn, tôi mới thấy có vẻ căn bệnh hồi nhỏ và chuyện xảy ra đêm qua thực sự liên quan đến nhau. Khi tôi kể cho bạn tôi nghe chuyện ấy, cậu ta đáp lại bằng vẻ mặt đầy thương cảm. Thế thì nó lại tái phát rồi. Tức là một dạng của bệnh mộng du đây mà.
Ôi, tôi bắt đầu thấy rất lo lắng. Đương nhiên, tôi không biết rõ bệnh mộng du là như thế nào nhưng những từ ngữ phổ biến của căn bệnh này như “miên hành”, “hồn lìa khỏi xác, phạm tội trong mơ” hiện lên đầy ám ảnh và đáng sợ. Thứ nhất, người trẻ như tôi hồi đó mà mắc bệnh rối loạn giấc ngủ thì xấu hổ không để đâu cho hết. Nếu những việc tương tự như thế này lại xảy ra thì tôi biết phải làm thế nào? Tôi lo lắng không yên. Sau đó hai, ba ngày, tôi lấy hết can đảm để đi gặp vị bác sĩ mà tôi quen và trao đổi với ông ấy về vấn đề của mình. Nhưng bác sĩ lại đưa ra lời khuyên vô cùng lạc quan. Có vẻ đó là triệu chứng của bệnh mộng du nhưng mới chỉ phát bệnh có một lần nên cậu cũng không cần phải lo lắng quá mức. Nếu để thần kinh quá căng thẳng trái lại còn khiến bệnh nặng hơn đấy. Cố gắng thả lỏng, bình tĩnh, sinh hoạt điều độ và giữ cho cơ thể khỏe mạnh thì tự nhiên sẽ khỏi bệnh thôi. Bác sĩ đã nói vậy thì tôi cũng đành chịu nhưng không may tôi lại là đứa mắc bệnh thần kinh từ nhỏ, một khi chuyện như thế xảy ra thì tôi lại càng lo lắng và không tài nào tập trung vào học được.
Hằng ngày tôi cứ bồn chồn cầu mong căn bệnh không tái phát thêm lần nào nữa. May mắn cho tôi, trong suốt khoảng một tháng đã không có chuyện gì xảy ra. Tôi đang phấn khởi thì chẳng bao lâu sau nó lại tái diễn và lần này còn kinh khủng hơn lần trước. Trong lúc mơ, tôi đã đi ăn trộm đồ của người khác.
Sáng đó khi tỉnh dậy, tôi thấy dưới gối xuất hiện một cái túi đựng đồng hồ lạ hoắc. Còn chưa hiểu chuyện gì tôi bỗng nghe thấy tiếng la ó của một người đàn ông là nhân viên công ty ở cùng khu nhà trọ với tôi: ‘Mất đồng hồ rồi, mất đồng hồ rồi!′. ‘Gay to rồi!′ Tôi hiểu ngay ra vấn đề nhưng không biết phải làm thế nào. Bây giờ mà đi xin lỗi thì cũng dở, lại còn là chuyện đáng xấu hổ nữa. Cuối cùng tôi đành nhờ cậu bạn hôm nọ đi cùng để giải thích giúp tôi rằng tôi bị bệnh mộng du và trả lại chiếc đồng hồ cho anh ta nên anh ta đã chấp nhận lý do đó mà thông cảm cho tôi. Thế là từ hôm đó, tin đồn Thara là kẻ mắc bệnh mộng du nhanh chóng lan đi khắp nơi, còn trở thành chủ đề bàn tán trong các lớp học ở trường nữa.
Vì muốn chữa khỏi căn bệnh đáng xấu hổ này nên tôi đã tìm đủ mọi cách. Tôi mua sách về chủ đề này và đọc ngấu nghiến, thử đủ mọi phương pháp rèn luyện sức khỏe khác nhau và đương nhiên cũng khám thêm một vài bác sĩ nữa. Mặc dù tôi đã cố gắng hết sức có thể nhưng chẳng những căn bệnh không khỏi mà càng ngày càng trở nên nặng hơn. Trung bình một tháng một lần, nhiều thì hai lần nhất định sẽ có chuyện. Dần dần, phạm vi di chuyển lúc mộng du của tôi càng mở rộng hơn. Mỗi lần mang đồ của người khác về, tôi thường đánh rơi đồ của mình ở chỗ đó mà không hề hay biết. Nếu không đánh cắp và làm rơi đồ thì sẽ chẳng ai biết và sự việc cứ thế trôi qua nhưng rủi thay, chứng cứ lại còn ở đó. Nhưng dù mọi người có biết hay không biết chuyện tôi ăn cắp thì với tôi, đó cũng là việc làm chẳng hay họ gì. Có lần, đêm hôm khuya khoắt, tôi một mình đi loanh quanh khắp khu nghĩa địa trong ngôi chùa gần đó. Không may cho lôi, một người sống cùng khu nhà đi ăn tiệc về muộn ngang qua đó thấy tôi qua hàng rào thì lại tưởng hồn ma nên cả khu được một phen lao xao, Thế là tôi trở thành chuyện cười cho mọi người. Người ta cho rằng tôi còn hài hơn cả cây hài Soganoya nhưng không ai hiểu tôi đã khổ sở đến mức nào. Hồi đầu tôi rất sợ, tôi sợ không biết đêm nay mình có làm gì sai hay không, sợ lại mộng du nhưng càng về sau, nỗi sợ của tôi càng tăng lên, đến nỗi cứ nhắc đến ngủ là tôi sợ. Việc phải đi ngủ vào ban đêm trở thành một nỗi ám ảnh đối với tôi. Thế mới dẫn đến câu chuyện ngớ ngẩn là chỉ cần thấy những vật dụng dùng khi đi ngủ, tôi đều cảm thấy bực mình. Với người
thường giấc ngủ là khoảng thời gian nghỉ ngơi êm ả nhất sau một ngày vất vả nhưng với tôi đó là thời gian khổ sở nhất. Tôi thấy mình bất hạnh vô cùng.
Hơn nữa, từ khi căn bệnh bắt đầu phát tác, tôi đã có một nỗi lo lắng khủng khiếp. Nếu chúng chỉ dừng lại là những câu chuyện hài để mọi người cười vui thì không sao nhưng nếu căn bệnh này sinh ra những bi kịch không thể cứu vãn nổi thì phải làm thế nào? Lúc trước tôi cũng đã nói là mình đã sưu tầm đủ các loại sách liên quan đến căn bệnh mộng du và đọc đi đọc lại chúng không biết bao nhiêu lần, tôi cũng biết rất nhiều ví dụ thực tế về các vụ phạm tội do người mộng du gây ra. Trong số đó có rất nhiều vụ giết người đẫm máu khiến tôi rùng mình. Không phải vô cớ mà người thần kinh yếu như tôi cứ nhìn thấy tấm đệm là cảm thấy buồn nôn. Rồi tôi nhận ra mình không thể cứ như thế này mãi được. Tôi quyết định gác lại chuyện học hành và về quê. Một ngày nọ, tức là nửa năm sau khi căn bệnh tái phát lần đầu tiên, tôi đã viết một bức thư rất dài và gửi cho bố mẹ tôi để trao đổi về tình hình của mình. Trong lúc đợi hồi âm của họ, nói thế nào nhỉ, thì sự việc khiến tôi lo lắng và sợ hãi cuối cùng cũng trở thành sự thật. Một bi kịch không thể cứu vãn ập đến và hủy hoại cả cuộc đời tôi.”
Saito vẫn ngồi im và chăm chú lắng nghe nhưng trong cặp mắt của anh ta như muốn nói điều gì đó nhiều hơn là bị thu hút bởi sự thú vị của câu chuyện. Khu suối nước nóng đã qua đợt cao điểm vào dịp tết, lúc này khách tới điều trị cũng ít dần, không gian im ắng không một tiếng động, cũng không nghe thấy tiếng những chú chim nhỏ hót nữa. Ở một thế giới khác xa với thế giới thực, hai người đàn ông đầy thương tích ngồi đối diện nhau với một sự căng thẳng khác thường.
“Chuyện xảy ra cách đây đã hai mươi năm, vào một ngày mùa thu năm Minh Trị thứ xx. Chuyện đã rất xưa rồi phải không? Buổi sáng tỉnh dậy, tôi thấy trong nhà rất huyện náo. Ngay lập tức, tôi bị tấn công bởi một cảm giác khó chịu vì nghĩ rằng không biết mình có phạm phải sai lầm nào nữa với cái chân bị thương hay không nhưng
khi nằm xuống và suy nghĩ tình hình một lúc, tôi bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không ổn. Một dự cảm khủng khiếp không biết phải diễn tả như thế nào, chạy dọc sống lưng tôi. Tôi sợ hãi nhìn căn phòng khắp một lượt. Tôi cảm thấy trong phòng như có chỗ nào đó đã thay đổi so với lúc tôi đi ngủ. Tôi ngồi dậy và kiểm tra kĩ lưỡng căn phòng thì quả nhiên có thứ lạ đập vào mắt. Gần cửa ra vào có một cái bọc nhỏ mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ. Tôi túm vội lấy nó và ném vào tủ. Xong xuôi, tôi lại nhìn căn phòng một lượt chẳng khác gì một tên ăn trộm và thở phào nhẹ nhõm.
Đúng lúc đó, cánh cửa phòng mở ra, một người bạn của tôi thò cổ vào. Cậu ta thì thào với tôi: ‘Này, rắc rối to rồi.’ Tôi vẫn còn quá sợ hãi vì sự việc xảy ra lúc trước nên vẫn đứng im không trả lời. ‘Ông cụ bị giết rồi. Đêm qua, trộm đã lẻn vào nhà đấy. Cậu đến mà xem xem.’ Nói rồi bạn tôi bỏ đi. Nghe thấy vậy, cổ họng tôi như cứng lại, tôi đứng bất động mất một lúc, không thể cử động được. Mãi tôi mới lấy lại được bình tĩnh và ra khỏi phòng để xem tình hình thế nào. Rốt cuộc tôi đã nhìn thấy, nghe thấy gì?... Cảm xúc của tôi lúc đó rất lạ. Hai mươi năm sau, tới tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in, nó vẫn rất sống động như thể mới vừa xảy ra hôm qua. Đặc biệt là khuôn mặt đáng sợ của ông cụ lúc chết. Dù tôi ngủ, hay thức thì nó vẫn cứ thoắt ẩn, thoắt hiện chưa khi nào biến mất khỏi tầm mắt của tôi.”
Ihara nhìn tránh ra chỗ khác như thể anh ta không thể chịu đựng nổi sự sợ hãi.
“Tôi xin nói luôn vào vấn đề. Đúng vào đêm vợ chồng người con trai của ông cụ đi thăm họ hàng và ngủ lại ở đó, một mình ông cụ - chủ nhà trọ - đã ngủ ở căn phòng nằm cạnh cửa ra vào của căn nhà. Ông cụ là người lúc nào cũng dậy rất sớm nhưng riêng hôm đó ông ấy cứ ngủ mãi. Lấy làm lạ, một chị giúp việc đã thử ngó vào căn phòng xem tình hình thế nào thì thấy ông cụ trong tư thế nằm ngửa, chiếc chăn vẫn phủ kín trên người nhưng cổ thì bị siết bởi một chiếc khăn và cơ thể đã lạnh ngắt. Theo kết quả điều tra thì hung thủ đã sát hại ông cụ rồi lấy chìa khóa từ trong chiếc túi trên người ông cụ
ra. Hắn mở ngăn kéo và trộm hết số cổ phiếu, trái phiếu trong chiếc két đựng tiền. Vì nhà trọ đó không bao giờ khóa cửa ra vào để những khách trọ về muộn vẫn có thể vào nhà nên rất lý tưởng cho những tên trộm lẻn vào chôm đồ, nhưng cũng có cái hay là ông cụ chủ nhà - người bị giết hại - lại là người hay soi mói nên mọi người mới yên tâm chắc sẽ không có sự việc phiền phức nào xảy ra. Ở hiện trường, ta không tìm thấy bất kì hung khí gây án nào. Người ta kháo nhau rằng thứ duy nhất rơi bên cạnh gối của ông cụ đó là một chiếc khăn tay lấm lem bẩn đã được một vị quan chức mang đi.
Tôi đứng trước cái tủ trong phòng mình một hồi lâu, tần ngần nghĩ xem mở hay không mở, cứ đưa tay ra rồi lại rụt tay lại. Trong tủ có cái bọc mà tôi đã nói lúc trước. Tôi nghĩ mãi. Nếu tài sản của ông cụ bị giết ở trong đó thì... Anh thử đoán xem tâm trạng tôi lúc đó thế nào. Thực sự tôi như người đứng trước đoạn đầu đài, không biết tính mạng sẽ ra sao. Tôi đứng đó rất lâu, vừa lo sợ vừa nhìn cánh tủ im lìm. Nhưng cuối cùng tôi cũng hạ quyết tâm mở cái bọc ra. Ngay lập tức, tôi xây xẩm mặt mày, chết lặng đi... Nó ở đó. Số trái phiếu, cổ phiếu nằm sờ sờ trong cái bọc... Sau đó thì tôi hiểu ra chiếc khăn tay rơi ở cạnh gối ông cụ là của tôi.
Ngày hôm đó, tôi đã ra đầu thú. Sau khi bị nhiều điều tra viên thẩm vấn không biết bao nhiêu lần, tôi đã bị tống vào một trại giam mà đến giờ tôi vẫn còn rùng mình. Tôi cảm thấy như mình đang gặp ác mộng giữa ban ngày. Vì không có nhiều vụ án liên quan đến người mắc bệnh mộng du nên cảnh sát đã mất rất nhiều công sức để điều tra. Họ đã cho vời các bác sĩ chuyên gia đến giám định và lấy lời khai từ những người sống trong khu nhà trọ. Về phần tôi, không có lý do gì tôi phải giết người để cướp của vì tôi vốn là con trai của một gia đình danh giá. Với lời khai của người bạn thân thì rõ ràng tôi là một người mắc bệnh mộng du. Hơn nữa, bố tôi cũng đã từ quê lên kinh đô và nhờ ba luật sư đi cùng để biện hộ cho tôi. Họ đã làm việc cật lực để bào chữa cho tôi. Người bạn phát hiện ra tôi bị bệnh mộng du, tên cậu ta là Kimura, còn đại diện cho những người bạn thân đứng ra nhiệt tình làm chứng cho tôi. Ngoài ra, còn rất nhiều lý do, bằng chứng khác nữa có lợi cho tôi. Sau một thời
gian dài sống trong trại giam, cuối cùng tôi cũng được kết án vô tội. Mặc dù thế thì sự thật tôi đã giết người vẫn còn đó, không thể chối cãi. Tình cảnh thật trớ trêu. Tôi lúc đó đã kiệt sức đến mức không thể vui mừng vì mình được chứng minh vô tội.
Tôi nhanh chóng theo bố về quê sau khi được trả lại tự do. Nhưng khi về được đến nhà thì tôi đang từ một người chớm mắc bệnh bỗng trở thành người bệnh thực sự. Tôi ốm và năm liệt giường suốt nửa năm trời... Vì thế mà quãng đời còn lại của tôi coi như bỏ. Tôi để cho em trai kế nghiệp bố, còn mình thì sống trong tình cảnh ẩn dật đằng đẳng hai mươi năm nhưng bây giờ thì tôi không còn cảm thấy cắn rứt lương tâm nữa. Ha ha ha...”
Ihara kết thúc câu chuyện dài bằng một điệu cười yếu ớt, rồi anh ta nói tiếp.
“Chắc anh thấy câu chuyện vô nghĩa này của tôi tẻ nhạt lắm đúng không? Nào, để tôi rót cho anh một tách trà nóng mới nhé.”
Nói đoạn, Ihara lấy ấm trà xuống.
“Thì ra là vậy. Nhìn thoáng qua thì có vẻ anh là người có cuộc sống đủ đầy nhưng xem ra anh cũng là một người khá bất hạnh nhỉ!” Saito thở dài đầy ẩn ý, anh ta hỏi tiếp. “Nhưng căn bệnh mộng du của anh đã khỏi hoàn toàn chưa?”
“Kì lạ thay, sau vụ giết người lùm xùm đó thì không xảy ra bất cứ vụ nào khác nữa, như thể tôi đã quên sạch tất cả vậy. Bác sĩ nói với tôi, có khả năng ngày đó tôi đã bị kích động về mặt tinh thần nào đó rất khủng khiếp nên mới xảy ra cơ sự kia.”
“Vậy còn người bạn của anh... cái người tên là Kimura ấy... Anh ta là người đầu tiên phát hiện anh bị mộng du nhỉ? Còn vụ chiếc đồng hồ, vụ hồn ma ở nghĩa địa... những vụ khác nữa thì thế nào? Nếu vẫn còn nhớ thì anh kể tôi nghe có được không?”
Saito tự nhiên trở nên lắp bắp, anh ta nói, con mắt còn lại sáng lên một cách lạ thường.
“Phải rồi. Những chuyện còn lại chúng cứ giống giống nhau, nếu không tính đến vụ giết người kia thì chắc có lẽ lúc tôi đi lang thang ở nghĩa địa là kì lạ nhất. Còn lại toàn là lẻn vào phòng của người cùng khu trọ mà thôi.”
“Những lúc đó anh phát hiện mình sẽ mang thứ gì đó về phòng mình hoặc đánh rơi đồ ở phòng người khác có phải không?”
“Vâng. Nhưng cũng có thể có những trường hợp không phải vậy. Nhỡ đâu có lần tôi còn đi lang thang tới một nơi nào đó rất xa, không phải nghĩa địa chưa biết chừng.”
“Còn ai khác thấy anh nữa không ngoài cậu bạn Kimura đã tranh luận với anh hôm đầu tiên và người nhân viên công ty nhìn thấy anh ở nghĩa địa ấy?”
“Ồ không, hình như vẫn còn nhiều người khác nữa. Có người nghe thấy tiếng tôi đi lại ở hành lang lúc nửa đêm, còn có người nhìn thấy tôi từ đằng sau, đột nhập vào phòng người khác nữa. Nhưng tại sao anh lại hỏi vậy? Tôi cảm giác như mình đang bị điều tra.”
Ihara khẽ cười trừ nhưng thực ra không thể không cảm thấy khó chịu trong tình huống này.
“À, không. Xin anh hãy lượng thứ cho tôi. Tôi hoàn toàn không hề có ý đó. Tôi chỉ không thể hiểu nổi một người như anh, kể cả là mắc bệnh mộng du đi chăng nữa, lại có thể gây ra những chuyện đáng sợ như thế. Hơn nữa, một điểm tôi thắc mắc. Xin anh đừng giận nếu tôi hỏi anh câu này. Khi trở thành người ốm yếu như thế này và sống tách biệt với thế giới, chắc anh đã nghiệm ra được điều gì rồi nhỉ?... Nếu không thì đã bao giờ anh nghĩ đến chi tiết này chưa? Người mắc bệnh mộng du thì bản thân người đó tuyệt nhiên sẽ
không biết được các biểu hiện của bệnh là gì. Kể cả đêm hôm trước họ có đi lang thang đi chăng nữa, có nói chuyện lúc nửa đêm đi chăng nữa thì đến sáng là họ quên sạch. Tức là, khi người khác nói cho biết thì lúc bấy giờ họ mới nghĩ ‘Mình là kẻ mộng du ư?’ Nói như bác sĩ thì hình như có rất nhiều triệu chứng về mặt thể chất nhưng kể cả có là như thế, thực ra những dấu hiệu cũng không rõ ràng, chẳng phải khi bệnh phát tác thì mới gọi là mắc bệnh hay sao? Không biết có phải tính tôi đa nghi hay không nhưng tôi nghĩ anh đã mù quáng mà tin chắc rằng mình bị bệnh đấy.”
Ihara bắt đầu cảm thấy một nỗi bất an không rõ từ đâu ùa tới. Nó không phải là sự lo lắng từ câu chuyện của Saito mà là sự sợ hãi khi nhìn vào khuôn mặt của người đối diện, không biết có thứ gì ẩn giấu đằng sau bộ mặt kia. Nhưng Ihara đã cố gắng kìm nén nỗi sợ đó và đáp.
“Thì ra là vậy. Lần đầu phát bệnh, tôi cũng có những nghi ngờ giống như anh vừa nói. Tôi đã cầu mong rằng những gì tôi nghĩ là sai, là mình bị ảo tưởng thái quá. Nhưng những sự việc cứ xảy ra liên tiếp, trong suốt một thời gian dài như vậy thì tôi không thể tự an ủi mình theo cách đó được.”
“Nhưng tôi cho rằng anh đã không nhận ra được một chi tiết vô cùng quan trọng. Ý tôi muốn nói ở đây là người nhìn thấy anh phát bệnh lần đầu tiên không có nhiều. Không, chính xác thì chỉ có một người nhìn thấy thôi.”
Ihara nhận ra hình như đối phương đang ảo tưởng về một chuyện không thể xảy ra. Nó thật đáng sợ, ngoài sức tưởng tượng của những người bình thường.
“Một người thôi ư? Không thể có chuyện đó được. Như tôi đã nói ban nãy, có nhiều người nhìn thấy tôi từ phía sau, đi vào phòng của người khác, nghe thấy tiếng bước chân của tôi ở hành lang. Còn cả sự việc xảy ra ở nghĩa địa nữa, người nhân viên đó tên là gì thì tôi quên mất rồi, nhưng anh ta đã nói chuyện đó với tôi mà. Nếu không
phải vậy thì làm sao khi phát bệnh, trong phòng tôi lại xuất hiện đồ của người khác và đồ của tôi lại rơi ở những nơi xa không tưởng chứ? Từ những bằng chứng đó thì nghi ngờ ở chỗ nào được? Những món đồ, chúng không thể tự thay đổi vị trí của chúng được, đúng không?”
“Ấy không. Chính chi tiết xuất hiện vật chứng sau mỗi lần phát bệnh mới bất bình thường. Anh thử nghĩ mà xem, những món đồ đó đâu cứ nhất thiết phải anh động tay vào, người khác cũng có thể lén thay đổi vị trí của chúng được mà. Ngoài ra, anh có nói hình như có rất nhiều người bắt gặp khi anh mộng du. Trường hợp ở nghĩa địa cũng vậy. Người ta cứ nói là nhìn thấy từ sau lưng hoặc cái gì đại loại như thế đi chăng nữa thì tất cả cũng đều rất mơ hồ. Kể cả họ có nhìn thấy ai khác không phải anh, nhưng vì đã trót bị tiêm nhiễm về chuyện kẻ mộng du từ trước rồi, nên hễ nhìn thấy bóng người nào hơi khả nghi trong đêm thì họ sẽ nghĩ ngay đó là anh. Và khi có quá nhiều lời đồn đại nhầm lẫn kiểu đó rồi thì anh cũng chẳng buồn khi bị người ta chê trách nữa. Thêm vào đó, tâm lý chung của con người là hễ báo cáo về một tình tiết mới xảy ra cũng như đóng góp thêm công trạng vậy. Nếu nghĩ như vậy thì những người phát hiện ra anh bị bệnh, rồi rất nhiều những đồ vật làm bằng chúng, chúng đều là sản phẩm được sinh ra từ trò ảo thuật của một người đàn ông mà thôi. Chắc chắn đó là một màn ảo thuật xuất sắc. Nhưng có tài giỏi đến mấy thì ảo thuật cũng chỉ là ảo thuật, anh có công nhận với tôi không?”
Ihara thẫn thờ nhìn mặt người đàn ông đang ngồi đối diện, như thể đã nhận ra điều gì. Trông anh ta như một người mất hết khả năng tổng hợp thông tin.
“Để tôi nói anh nghe suy nghĩ của tôi nhé. Tôi cho rằng cũng có thể những thứ này là do người bạn tên là Kimura dày công nghĩ ra. Vì một lý do nào đó mà hắn rất muốn ông cụ chủ nhà trọ biến mất khỏi thế giới nên đã lén sát hại ông cụ. Nhưng có bằng thủ đoạn tinh vi đến mấy thì giết người vẫn là giết người, một khi án mạng đã xảy ra, nếu không tìm được kẻ đã hạ thủ thì cảnh sát sẽ không chịu
để yên nên hắn phải tìm một kẻ khác để thí chỗ, nhưng phải tìm cách để kẻ đó không gây rắc rối cho mình... Giả sử, tôi chỉ giả sử thôi nhé, người tên Kimura rơi vào tình thế đó thì việc hắn nói dối và làm cho một kẻ dễ tin, thần kinh yếu như anh tưởng mình bị mộng du là chuyện hoàn toàn có thể nghĩ đến, có đúng không? Trước tiên ta hãy thử đặt giả thiết và tìm hiểu xem về mặt logic có thể thực hiện được hay không nhé. Gã Kimura đó đã tìm cơ hội và kể cho anh nghe câu chuyện mà hắn bịa đặt ra. May cho hắn, hồi nhỏ việc anh bị rối loạn giấc ngủ đã giúp ích rất nhiều cho kế hoạch của hắn và thí nghiệm đã đem đến một kết quả đáng ngạc nhiên. Thế là Kimura đã vào phòng của những người trong khu nhà trọ, lấy trộm đồng hồ và những món đồ khác rồi mang vào phòng của anh trong lúc anh đang ngủ, hoặc thừa lúc anh không để ý, hắn đã trộm đồ của anh và ném đi chỗ khác. Sau đó hắn cải trang cho giống anh rồi đi đi lại lại ở hành lang và tìm mọi cách để anh tin sái cổ. Mặt khác, hắn còn ra sức tuyên truyền để những người xung quanh anh cũng tin như vậy. Và như thế, cả anh và tất cả mọi người đều nghĩ anh bị mắc bệnh mộng du. Kimura đã chờ thời cơ và ra tay sát hại ông cụ, là kẻ thù mà hắn ghét cay ghét đắng. Sau đó, hắn bí mật để những tài sản đã ăn cắp được vào phòng anh và mang đồ mà hắn đánh cắp được của anh để ở hiện trường. Tưởng tượng như vậy anh thấy có hợp lý không? Không hề có bất cứ điểm sơ hở nào nhỉ? Và kết quả là anh tự mình ra đầu thú. Chắc chắn anh đã rất đau khổ. Về hình phạt, thì kể cả không phải là trắng án, anh cũng thừa hiểu sẽ là hình phạt tương đối nhẹ nhàng và mọi thứ sẽ được cho qua. Cho dù anh có ít nhiều phải chịu hình phạt nào đó đi chăng nữa thì với anh, vì đây là tội ác gây ra bởi một căn bệnh nên chắc chắn nó sẽ không đau đớn bằng một tội ác thực sự. Ít nhất là có thể cái gã Kimura đã tin như vậy. Hắn không thù hằn gì với anh đâu. Nhưng nếu vừa rồi mà hắn ta nghe được những lời thú tội của anh thì hắn ta sẽ hối hận lắm. Xin anh đừng buồn nếu những lời tôi sắp nói xúc phạm đến anh. Đó là bởi vì tôi cảm thấy thật đáng thương sau khi nghe anh bộc bạch nên tôi đã quên mất mình là ai và trót nói ra những suy nghĩ giáo điều. Nhưng vì anh đã phải chịu đựng đau khổ suốt hai mươi năm qua rồi nên nếu nghĩ theo cách này thì anh sẽ thấy thanh thản hơn chăng? Dù gì thì những điều tôi vừa nói cũng có thể chỉ là
phỏng đoán vô căn cứ. Nhưng ngay cả đó chỉ là phỏng đoán và nếu cách nghĩ đó hợp lý và khiến tâm trạng anh thoải mái hơn thì chẳng phải cũng ổn hay sao? Tại sao gã Kimura đó phải giết ông cụ? Vì tôi không phải là Kimura nên tôi không biết nguyên nhân là gì nhưng chắc hẳn phải có một lý do sâu xa mà hắn không thể nói ra. Để báo thù cho người thân của hắn chẳng hạn...”
Thấy Ihara mặt mày tái mét, Saito bất ngờ ngừng câu chuyện và cúi xuống như thể rất áy náy vì những điều mình đã nói ra.
Bọn họ cứ ngồi như vậy và im lặng một hồi lâu. Những ngày mùa đông trời tối nhanh, ánh mặt trời cũng nhạt dần qua tấm cửa giấy, một luồng không khí lạnh tràn vào bên trong căn phòng.
Cuối cùng, Saito đứng dậy chào từ biệt và nhanh chóng ra về như thể chạy trốn. Ihara cũng chẳng buồn tiễn Saito ra tới cửa. Anh ta vẫn ngồi nguyên tại chỗ của mình và cố gắng kìm nén cơn phẫn nộ đang dâng lên. Anh ta cố hết sức để không phát điên vì phát hiện bất ngờ.
Thời gian càng trôi qua thì khuôn mặt của hắn ta lại càng hiện rõ. Cuối cùng thì nụ cười chua chát đã xuất hiện.
“Khuôn mặt tưởng như đã hoàn toàn thay đổi nhưng hắn ta, hắn ta... Nhưng kể cả hắn chính là Kimura đi chăng nữa thì mình cũng lấy đâu ra chứng cứ để trả thù đây? Mình đúng là một kẻ ngu ngốc, đến giờ mình vẫn chỉ biết bất lực chấp nhận sự thương hại trước mặt gã đàn ông đó ư?”
Ihara dần như đã hiểu ra sự ngu ngốc của chính bản thân mình nhưng đồng thời với nỗi căm hận, anh ta không thể không tán dương trí tuệ hơn người của Kimura.
TRUYỆN SỐ 4
CHIẾC GHẾ NGƯỜI
Sáng nào cũng vậy, Yoshiko đều tiễn chồng đi làm. Phải cho riêng mình. Như thường lệ, cô lại giam mình trong thư phòng kiểu Âu, nơi cô vẫn thường chia sẻ không gian làm việc với chồng. Lúc này, cô đang vùi đầu sáng tác cho kịp đăng bài trên số đặc biệt phát hành vào mùa hè của tạp chí K.
Là một nhà văn tài giỏi lại xinh đẹp nên thời gian gần đây Yoshiko nổi tiếng như cồn, đến mức người chồng vốn là thư kí bộ ngoại giao cũng phải chịu lu mờ. Hầu như ngày nào cũng có hàng tá những bức thư từ những kẻ sùng bái vô danh được gửi tới cho Yoshiko.
Sáng nay, lúc ngồi vào bàn làm việc, trước khi bắt tay vào viết bản thảo, Yoshiko phải xem qua một lượt các bức thư của những người vô danh đó.
Chẳng cần nói cũng thừa biết, nội dung của những bức thư vô cùng nhạt nhẽo nhưng vốn là một người có tấm lòng vị tha nên dẫu cho đó là bức thư như thế nào chăng nữa, Yoshiko vẫn đọc hết vì dù sao chúng cũng được gửi đến cho cô.
Cô bắt đầu từ những bức thư đơn giản nhất. Hai bức thư được dán rất cẩn thận và một tấm thiệp, còn sót lại một bì thư nhìn qua có vẻ là một tập bản thảo rất dày. Yoshiko vẫn thường nhận được những bì thư một cách đường đột mà không hề có bất cứ bức thư thông báo nào như thế này. Đa phần chúng toàn là những chuyện vô cùng nhàm chán nhưng Yoshiko vẫn mở bì thư lấy tập giấy dày cộp ra và đọc qua tiêu đề.
Đúng như Yoshiko dự đoán, một tập bản thảo được kẹp vào bên trong. Thế nhưng không hiểu vì sao, thay vì phải viết tên tiêu đề tác phẩm hoặc tên tác giả thì nó lại được bắt đầu bằng dòng chữ, xưng hô là Kính gửi quý phu nhân. Gì vậy nhỉ? Hình như đây là một bức thư. Nghĩ vậy nên Yoshiko cũng liếc mắt đọc qua đôi, ba dòng. Mới đọc đến đó, Yoshiko nhận thấy có sự bất thường, một dự cảm chẳng lành ập đến. Vốn tính hiếu kì, cô liền đọc tiếp.
Kính gửi quý phu nhân, Có lẽ quý phu nhân không hề biết đến tôi nhưng xin cô hãy ngàn lần lượng thứ cho tội lỗi mà tôi sắp nói ra cũng như bức thư vô phép được gửi tới đường đột như thế này từ một người đàn ông xa lạ.
Chắc hẳn cô sẽ tôi cùng ngạc nhiên khi đọc đến những dòng này. Ngay bây giờ, trước mặt cô, tôi định thú nhận về một tội ác kì lạ mà tôi cam đoan không thể tìm thấy được ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này do chính tôi gây ra.
Đã mấy tháng nay, tôi hoàn toàn biến mất khỏi thế giới loài người và đang sống một cuộc đời như của ác ma. Đương nhiên, trong thế giới rộng lớn này, không ai hay biết những việc mà tôi đang làm. Nếu như không có chuyện gì xảy ra thì chắc có lẽ tôi sẽ vĩnh viễn sống như thế và đã không quay về với thế giới loài người.
Nhưng những ngày gần đây trái tim tôi lại có những thay đổi lạ lùng. Tôi không thể không sám hối cho những nghiệp quả của bản thân. Chỉ có điều, như tôi đã nói ban nãy, chắc cô thấy có rất nhiều điểm khiến cho cô nghi ngờ nhưng làm ơn hãy kiên nhẫn đọc cho hết bức thư này. Làm như vậy thì cô sẽ hiểu được tại sao tôi lại mang trong mình những cảm xúc như thế và tại sao nhất định tôi cứ phải giãi bày nó với cô. Mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ ngay thôi.
Chà, tôi không biết mình nên bắt đầu viết từ đâu. Sự thật khó tin là tôi đã sống tách biệt với loài người đến mức tôi cảm thấy có phần xấu hổ khi bằng cách này, tôi đang viết cái thứ được gọi là bức thư để bày tỏ suy nghĩ của mình. Tôi vẫn nhớ như in tiếng bút chạy trên giấy. Nhưng việc tôi do dự âu cũng là lẽ thường tình. Thôi thì cho phép tôi viết một cách tuần tự, kể từ khi sự việc bắt đầu xảy ra.
Tôi là người từ khi sinh ra đã có vẻ ngoài xấu xí có một không hai. Xin hãy nhớ thật kĩ điều này. Nếu không làm thế, tôi cứ giả dụ trong trường hợp cô chấp nhận lời đề nghị có phần khiếm nhã mà đến gặp tôi trong khi tôi còn không có chút hiểu biết nào để chuẩn bị tinh thần cho chuyện này, thì việc bị cô nhìn thấy cơ thể tàn tạ, khuôn mặt xấu xí đến nỗi không nhìn ra rằng tôi có hai con mắt, do năm tháng dài sống trong khổ cực, ốm yếu quả thực sẽ khiến tôi đau khổ đến tột cùng.
Bởi vì tôi là một người đàn ông từ bẩm sinh đã mang tính nhân quả. Tuy ngoại hình xấu xí nhưng trong trái tim tôi luôn rực cháy những cảm xúc mãnh liệt mà không người nào trên thế giới này biết đến. Quên đi hiện thực phũ phàng rằng mình chẳng qua chỉ là một gã thợ có khuôn mặt gớm ghiếc như quỷ, lại nghèo rớt mồng tơi, tôi khao khát vô vàn “những giấc mơ” ngọt ngào, xa hoa đến mức quên cả bản thân mình là ai.
Nếu như tôi được sinh ra trong một gia đình giàu có hơn thì với tiềm lực kinh tế của gia đình, tôi đã có thể tha hồ đắm chìm trong các cuộc chơi để tìm kiếm sự an ủi cho hình hài xấu xí của mình. Hoặc nếu tôi được trời phú cho một năng khiếu nghệ thuật nào đó
thì tôi đã có thể quên đi được cái thế giới vô vị này. Nhưng, thật bất hạnh! Tôi chẳng được ban cho bất cứ thứ gì, tôi chỉ là con của một gia đình làm nghề đóng đồ gỗ và đành phải kiếm sống qua ngày nhờ công việc cha mẹ để lại.
Chuyên môn của tôi là đóng các loại ghế. Những chiếc ghế tôi đóng luôn làm hài lòng khách hàng cho dù đó là vị khách khó tính đến mấy. Trong giới, tôi luôn được ưu ái, kể cả trong công việc tôi cũng luôn được giao làm những món đồ cao cấp. Những món đồ cao cấp ở đây có thể kể đến như những chiếc ghế với phần tựa lưng, phần tay vịn được yêu cầu chạm khắc một cách rất tỉ mỉ, công phu hay những chiếc ghế đòi hỏi sự vừa vặn của phần đệm ngồi hoặc kích thước chuẩn xác của từng bộ phận chiếc ghế. Mỗi khách hàng lại có một sở thích khác nhau. Phải đổ mồ hôi công sức, lao tâm khổ tứ mới có thể làm ra được những chiếc ghế như vậy. Điều này chưa chắc một người thợ nghiệp dư có thể tưởng tượng được. Nhưng càng là những yêu cầu khó thì niềm vui sướng khi sản phẩm đó được hoàn thành lại càng được nhân lên gấp bội. Những điều tôi nói nghe có vẻ huênh hoang nhưng cảm xúc ấy có thể sánh với cảm xúc của người nghệ sĩ khi hoàn thành được một tuyệt tác.
Khi một chiếc ghế được hoàn thiện, việc đầu tiên là tôi sẽ tự mình ngồi vào để kiểm tra xem nó đã thực sự thoải mái hay chưa. Trong cuộc sống vốn tẻ nhạt của người thợ làm nghề thì chỉ có duy nhất lúc đó, tôi mới cảm thấy mình giỏi giang biết bao. Vị quý tộc cao sang hay tiểu thư xinh đẹp nào sẽ ngồi vào đó nhỉ? Vì chiếc ghế sang trọng này được đặt hàng bởi một dòng họ danh giá nên nhất định nó sẽ được đặt trong một căn phòng cực kì hoa lệ, phù hợp với nó. Trên tường hẳn sẽ treo những bức tranh sơn dầu của những họa sĩ nổi tiếng, giữa phòng sẽ có một chiếc đèn chùm lộng lẫy rủ xuống từ trần nhà, còn trên sàn sẽ được trải một tấm thảm vô cùng cao cấp. Trên chiếc bàn đặt ở phía trước chiếc ghế này sẽ bày một lọ hoa nhập từ Tây Âu, những bông hoa đua nhau nở và tỏa hương thơm ngọt ngào. Tôi cứ mải mê, đắm chìm vào những ảo tưởng ấy và chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác như mình chính là chủ nhân
của căn phòng xa hoa đó. Trong thoáng chốc, tôi thấy vui sướng khôn tả.
Những tưởng tượng nhất thời của tôi cứ thi nhau xuất hiện mãi không thôi. Trong thế giới ảo mà tôi tự nghĩ ra, gã thợ quèn, xấu xí, nghèo khổ là tôi bỗng chốc trở thành quý công tử cao sang và ngồi vào chiếc ghế đẹp đẽ do tự tay mình làm. Rồi cô người tình xinh đẹp luôn xuất hiện trong những giấc mơ của tôi đứng bên cạnh, nở nụ cười thật tươi và lắng nghe câu chuyện của tôi. Không chỉ có thế, tôi còn tưởng tượng ra mình nắm tay cô ấy và cùng thủ thỉ, trao nhau những lời yêu thương ngọt ngào.
Nhưng lúc nào cũng vậy, giấc mộng màu tím bồng bềnh của tôi ngay lập tức bị giọng nói the thé điếc tai của bà chủ quán ăn nhà hàng xóm hay tiếng khóc inh ỏi của đứa trẻ ốm yếu gần đấy phá đám. Một lần nữa, hiện thực xấu xí lại bày ra trước mắt cùng sắc màu xám xịt. Tôi bị kéo về với thực tại. Ở đó không còn nhận ra vị quý công tử hào hoa trong mơ kia nữa mà là hình hài của chính tôi hiện ra, gớm ghiếc và rầu rĩ. Còn người đẹp vừa mới cười với tôi trước đó thì... Cô ấy có thể biến mất đi đâu được nhỉ? Đến cả những cô bảo mẫu lấm lem đang chơi ngoài kia cũng không buồn ngó ngàng đến tôi. Thứ duy nhất vẫn nằm lại ở đó, trơ trọi như tàn dư của giấc mơ ban nãy chính là chiếc ghế mà tôi làm. Nhưng chẳng phải chiếc ghế đó rồi cũng sẽ được chuyển đến một thế giới khác biệt hoàn toàn với thế giới của chúng tôi hay sao? Cứ như thế, mỗi lần tôi hoàn thiện xong một chiếc ghế là y như rằng tôi bị thứ cảm xúc buồn tẻ đến khó tả tấn công. Năm tháng cứ thế trôi qua và cũng đến lúc tôi không thể chịu đựng nổi sự nhạt nhẽo, vô vị đó.
“Nếu cứ tiếp tục cuộc sống như của giòi bọ thế này thì thà chết đi còn hơn.” Tôi đã nghiêm túc nghĩ như vậy đấy. Ở nơi làm việc, tôi vừa miệt mài, tỉ mỉ đục đẽo, đóng đinh, sơn màu cho những chiếc ghế vừa trăn trở khôn nguôi. “Nhưng mà, đợi đã. Nếu đã có gan định tìm đến cái chết thì liệu còn có cách nào tốt hơn hay không? Chẳng hạn như...” Thế là những ý tưởng trong đầu tôi càng ngày càng phát triển theo hướng điên rồ, đáng sợ.
Thời điểm đó, tôi được người ta đặt hàng làm một chiếc ghế bành bằng da lớn, loại mà tôi chưa từng làm trước đây. Chiếc ghế này sẽ được sử dụng tại một khách sạn do người nước ngoài quản lý trong thành phố Y. Đáng lý thì nó phải được nhập về từ chính quốc nhưng vì thương hội nơi tôi làm đấu tranh, họ bảo rằng họ có thợ làm ghế tay nghề không thua kém gì nước ngoài nên cuối cùng thì chúng tôi đã có được đơn hàng. Vì nó mà tôi quên ăn quên ngủ, dốc toàn tâm toàn ý cốt để hoàn thành được sản phẩm. Thực sự tôi đã dành hết cả trái tim lẫn tâm hồn vào chiếc ghế và bị cuốn hút bởi nó.
Ngắm nhìn chiếc ghế sau khi được hoàn thành, tôi cảm thấy mãn nguyện không sao kể xiết. Đó là cảm xúc mà tôi chưa từng có từ trước tới nay. Tác phẩm tôi làm ra hoàn hảo đến mức tôi như bị nó mê hoặc. Như thường lệ, tôi mang một chiếc ghế trong bộ bốn chiếc ra nơi có ánh nắng ngập tràn, trong căn phòng được lát sàn gỗ rồi từ từ ngồi xuống. Nó mới thoải mái làm sao. Đệm ngồi thật êm ái, không quá cứng cũng không quá mềm. Vì ghét màu nhuộm và không muốn can thiệp quá nhiều vào chất liệu nên tôi đã giữ nguyên màu sắc xám tro của tấm da bọc ghế mềm mượt. Chiếc ghế có độ dốc vừa phải, tựa ghế căng đầy nâng đỡ cho lưng, hai bên tay vịn của ghế hơi chẽ ra vẽ nên một đường cong quyến rũ. Tất cả hài hòa một cách kì lạ. Tôi thấy chiếc ghế toát lên sự thoải mái không thể chê vào đâu được.
Tôi thả người chìm sâu vào trong ghế, khẽ vuốt ve hai đầu tay vịn tròn tròn và bị nó hớp hồn. Lập tức, như một thói quen, những ảo tưởng bất tận ùa đến với những sắc màu chói lọi như cầu vồng ngũ sắc. Chúng là ảo ảnh ư? Những trăn trở trong lòng hiện ra rõ mồn một trước mắt đến mức tôi còn tưởng mình đang nhìn nhầm.
Đang miên man thả hồn mình cho trí tưởng tượng bay xa thì bất chợt trong đầu tôi nảy ra một ý định tuyệt vời. Ma xui quỷ khiến chắc là để nói về những việc như thế chăng? Nó nhảm nhí và vô cùng ma quái y hệt trong mơ. Nhưng chính sự ma quái đó có một mị lực khó diễn tả bằng lời, xúi giục tôi hành động.
Ban đầu, tôi chỉ có một ước ao rất đơn giản là sẽ không bao giờ buông chiếc ghế xinh đẹp mà tôi đã dành hết tâm huyết để làm nó. Và nếu có thể, tôi muốn mang chiếc ghế này theo đến bất cứ nơi đâu. Trong lúc tôi bị mê muội bởi những ảo tưởng được chắp cánh bay cao thì không biết từ lúc nào, chỉ trong ngày hôm đó thôi, những ảo tưởng như chất men được ủ trong đầu tôi đã kết lại thành một ý tưởng đáng sợ. Chắc tôi bị điên mất rồi. Tôi định sẽ biến những ảo tưởng kì quái đó thành hiện thực.
Tôi vội vàng chọn lấy một chiếc ghế tôi cho là đẹp nhất trong bốn chiếc ghế bành rồi chặt nát nó ra. Sau đó, tôi làm lại một chiếc mới tốt hơn theo ý mình nhằm phục vụ cho kế hoạch của tôi.
Bởi vì nó là một chiếc ghế bành cực lớn nên phần kê chân, sau khi được bọc một lớp da thì chạm gần đến sàn. Ngoài ra, phần tựa lưng và tay vịn được làm cực dày còn lòng ghế thì sâu như một cái hố đến mức một người có thể ngồi lọt thỏm trong đó mà không bị bên ngoài phát hiện. Đương nhiên, chiếc ghế được lắp cho bộ khung gỗ chắc chắn cùng rất nhiều lò xo. Tôi đã sử dụng một vài kỹ thuật vào đó. Chẳng hạn như phần kê chân tôi tạo ra khoảng trống để có thể cho được đầu gối vào, phần tựa lưng lớn để đầu và thân có thể chui lọt nên nếu ngồi vào chiếc ghế, tôi hoàn toàn có thể ẩn nấp mà không ai hay biết. Tôi thừa sức để làm ra những thứ đó.
Những kỹ thuật thủ công trên là sở trường của tôi nên tôi đã làm ra một chiếc ghế tiện lợi nhất có thể. Ví dụ, tôi đã tạo một khe nhỏ mà bên ngoài nhìn vào cũng không phát hiện ra trên lớp da bọc ghế. Nó giúp tôi có thể hít thở không khí hoặc nghe ngóng âm thanh từ bên ngoài. Hay ở phần tựa lưng, chỗ gáy chạm vào tôi lắp thêm một cái tủ nhỏ như là một cái kho để nhét bình nước hay lương khô của quân đội. Tôi còn lắp thêm cả túi cao su lớn dùng cho những mục đích khác nhau và còn vô vàn những công dụng hay họ cũng đều được tôi đưa vào. Vậy là chỉ cần có thực phẩm thì tôi có thể sống trong đó hai đến ba ngày mà không gặp bất kì bất tiện nào. Nói cách khác, chiếc ghế đó trở thành căn phòng đủ cho một người sinh hoạt.
Tôi mặc độc một chiếc áo sơ mi rồi mở nắp của lối vào ở đáy của chiếc ghế rồi chui tọt vào bên trong. Đó là một cảm giác vô cùng kì lạ. Bên trong tối om và rất khó thở. Tôi có cảm giác như thể mình đang chui vào trong một ngôi mộ. Nhưng nghĩ kĩ thì nó có khác gì một ngôi mộ thật đâu. Ngay khi tôi chui vào bên trong chiếc ghế thì cũng là lúc tôi biến mất khỏi thế giới loài người giống như người ta [7] và bị lút mình vào trong.
mặc mộtchiếc áo tơi
Không lâu sau, người từ thương hội mang đến một chiếc xe đẩy lớn để chở bốn chiếc ghế đi. Tên đệ tử của tôi (thực ra chỉ có mỗi tôi và cậu ta sống cùng với nhau) ra tiếp những người đó mà không hay biết gì. Lúc bê chiếc ghế lên xe đẩy, vì một trong số những phu vác đột nhiên la lên tức tối “Cái này nặng thấy gớm” làm tôi nằm ở bên trong giật mình đánh thót nhưng vốn dĩ ghế bành lại kèm cả kê chân là thứ rất nặng nên chẳng ai nghi ngờ. Một hồi sau, tôi bắt đầu thấy xe rung lạch cạch, đường xóc đến nỗi cả người tôi nảy lên bần bật theo xe.
Mặc dù lo lắng như vậy nhưng rốt cuộc, chiều ngày hôm đó chiếc ghế bành mà tôi ngồi bên trong đã được đặt yên vị trong một căn phòng mà không gặp bất cứ sự cố nào. Sau đó tôi mới biết, căn phòng đó không phải là tư phòng của một ai mà là một căn phòng nhiều người đi ra đi vào được gọi là sảnh khách sạn để cho khách ngồi đợi, đọc báo hay hút thuốc.
Chắc cô đã đoán ra được rồi phải không? Mục đích chính của tôi khi tạo ra chiếc ghế có một không hai này là thừa lúc không có người ở đó, tôi sẽ chui ra khỏi chiếc ghế và lượn một vòng khách sạn để ăn cắp đồ. Ai mà ngờ có người lại nấp được trong chiếc ghế đó chứ? Thật điên rồ phải không? Như một cái bóng, tôi ung dung tự do sục sạo hết phòng này sang phòng khác. Và khi mọi người náo loạn bủa đi tìm kiếm thì tôi sẽ chạy trốn về hang ổ của mình trong chiếc ghế. Tôi chỉ cần ngồi và nín thở quan sát công cuộc tìm kiếm ngớ ngẩn của bọn họ. Chắc cô cũng biết một loại cua gọi là ‘cua ẩn sĩ’ hay được sóng đánh dạt vào bờ biển chứ ạ? Nó trông giống con
nhện khổng lồ, hễ không có con người ở đó thì nó sẽ bò ra để đánh dấu lãnh địa của mình. Nếu nghe thấy bước chân của con người, dù chỉ là một tiếng động rất nhỏ thì ngay lập tức nó sẽ lẩn rất nhanh vào trong vỏ. Sau đó, nó khẽ thò chân trước đầy những lông lá gớm ghiếc ra khỏi vỏ, nằm im lặng quan sát mọi động tĩnh của kẻ thù. Tôi đích thị là con “cua ẩn sĩ” đó. Nhưng thay vì là cái vỏ, tôi có hang ổ của mình và nơi tôi đi lại để đánh dấu lãnh thổ là bên trong khách sạn chứ không phải ngoài biển khơi.
Kế hoạch táo bạo của tôi quả đúng là táo bạo thật. Nó nằm ngoài dự đoán của con người. Tôi đã thành công mỹ mãn. Mới chỉ ở khách sạn được ba ngày mà tôi đã làm được khối việc. Cảm giác lúc đi ăn trộm có gì đó vừa sợ vừa vui. Tôi vui sướng không lời nào tả xiết khi những phi vụ thành công. Kì cục ở chỗ họ ở ngay trước mũi tôi mà không phát hiện ra còn tôi thì ngồi im, lặng lẽ quan sát bọn họ hô hoán “nó trốn đằng này, nó chạy đằng kia”. Thứ mị lực bí ẩn nào khiến nó có thể làm tôi vui đến như vậy nhỉ? Nhưng đáng tiếc là lúc này, tôi không có thời gian để giải thích cho cô một cách tường tận vì ở đó, tôi đã phát hiện ra một thứ khoái lạc kì quái có thể khiến tôi vui gấp mười, gấp hai mươi lần so với việc trộm cắp.
Tôi xin phép quay về phần đầu câu chuyện từ chỗ chiếc ghế tôi làm được đặt ở sảnh khách sạn.
Khi bộ ghế được chuyển tới nơi, những người chủ của khách sạn đã đến và ngồi thử vào ghế xem có thoải mái hay không. Một lúc sau, không gian hoàn toàn trở nên im ắng. Có lẽ trong phòng không còn bất cứ ai. Nhưng vì vừa mới đến nên tôi không thể liều lĩnh chui ra khỏi chiếc ghế ngay được. Phải rất lâu sau đó (hoặc có thể là do tôi tự nghĩ như vậy), tôi nghe thấy tiếng động rất nhỏ. Tôi tập trung cao độ, dỏng tại lên nghe và tiếp tục quan sát khu vực xung quanh chiếc ghế.
Sau đó, tôi nghe thấy có tiếng bước chân nặng nề vọng lại, có lẽ phát ra từ phía hành lang. Tiếng bước chân tiến lại gần và cách lôi độ hai, ba mét, vì trong phòng có trải thảm nên tôi chỉ còn nghe
được âm thanh rất nhỏ gần như không rõ là âm thanh gì. Một lúc thì có tiếng người đàn ông thở hổn hển qua đằng mũi. Tôi còn chưa kịp định thần xem có chuyện gì thì người đàn ông có lẽ đến từ châu Âu đã thả đánh phịch cơ thể đồ sộ lên đầu gối tôi, lại còn day thêm hai, ba cái nữa. Cái mông vĩ đại, rắn chắc của ông ta chỉ cách đùi tôi một lớp da mỏng của chiếc ghế bành, gần sát đến nỗi tôi cảm nhận được cả hơi ấm tỏa ra từ đó. Bờ vai rộng thì tựa vào phần ngực tôi, hai cánh tay nặng trịch đặt lên tay vịn, chồng lên hai tay của tôi. Sau đó hình như ông ta đã châm một điếu xì gà. Một mùi thơm nồng, đầy nam tính len lỏi qua kẽ hở của lớp da bọc ghế phả đến chỗ tôi.
Cô hãy thử đặt mình vào vị trí của tôi lúc đó và tưởng tượng mà xem. Một cảnh tượng hết sức ngớ ngẩn có phải không ạ? Lúc đó tôi quá sợ hãi, chỉ biết cổ thu mình bé lại cứng queo trong chiếc ghế tối thui. Mô hội túa ra lã chã từ hai bên nách và tôi dần mất ý thức. Tôi rơi vào trạng thái mơ hồ.
Sau người đàn ông ngoại quốc thì trong ngày hôm đó rất nhiều người đã đến và ngồi lên lòng tôi. Và không một ai nhận ra rằng tôi đang ngồi trong chiếc ghế. Chắc chắn họ tưởng dưới mông họ là chiếc đệm ngồi êm ái chứ không ai nghĩ thực ra đó lại là cặp đùi có dòng máu vẫn đang chảy qua của một thằng người là tôi.
Cứ như thế, tôi nằm co cứng trong thế giới đen sì được căng bởi tấm da, không tài nào cử động được. Thế giới đó mới hấp dẫn đến kì quái làm sao. Tôi cảm thấy con người trong thế giới đó là những sinh vật sống bí ẩn khác hẳn với những người tôi vẫn nhìn thấy bằng mắt thường hằng ngày. Bọn họ chẳng khác nào những miếng thịt đẫy đà có độ đàn hồi. Từ họ cũng phát ra giọng nói, hơi thở, bước chân hay tiếng sột soạt của quần áo. Thay vì khuôn mặt thì tôi nhận biết từng người, từng người một qua sự tiếp xúc với cơ thể. Có kẻ béo múp míp, mang đến cảm giác như thứ đồ nhắm bốc mùi. Trái lại, cũng có kẻ gầy tong teo như con cá mắm hay bộ xương khô. Ngoài ra, độ cong của cột sống, độ mở của bờ vai, độ dài của cánh tay, độ dày của đùi, độ ngắn dài của xương cụt nhìn tổng thể, dẫu đó là người có vóc dáng tiêu chuẩn đến mấy thì đâu đó cũng có
điểm khác biệt. Ngoại trừ dung mạo và vân tay thì một con người hoàn toàn có thể được nhận biết thông qua cảm nhận về toàn bộ cơ thể như thế này.
Ta cũng có thể nói những điều tương tự như vậy về người khác phái. Bình thường, không phải người ta vẫn hay đánh giá xấu đẹp bằng dung mạo hay sao? Nhưng trong thế giới của chiếc ghế này thì những thứ như vậy dường như chẳng thành vấn đề. Thế giới trong chiếc ghế dường như chỉ còn lại cơ thể trần trụi, giọng nói và mùi hương.
Mong cô đừng phật lòng vì những lời lẽ lỗ mãng của tôi bởi vì ở đó, tôi đã có rung động mãnh liệt với cơ thể của một cô gái (người con gái đầu tiên đã ngồi vào chiếc ghế của tôi).
Qua giọng nói, tôi đoán đó là một cô gái còn rất trẻ đến từ ngoại quốc. Lúc đó, trong phòng không có ai. Hình như cô gái ấy có điều gì rất vui nên vừa khe khẽ hát một bài hát lạ lùng vừa nhảy chân sáo lại gần chiếc ghế. Tôi mới chỉ kịp nhận ra cô ấy đã đứng trước chiếc ghế bành thì bất ngờ cô ấy ngã cơ thể đầy đặn nhưng rất mềm mại lên tôi. Thế rồi, không biết cô ấy đã thấy điều gì thú vị mà chợt phá lên cười “a ha ha” và lắc lắc tay chân như chú cá bị mắc kẹt trong lưới.
Cô ấy ngồi trên lòng tôi khoảng hơn nửa tiếng, thỉnh thoảng vừa cất tiếng hát vừa lắc lư thân hình đầy đặn theo nhịp điệu.
Đối với tôi, đây thực sự là một sự kiện kinh thiên động địa, nằm ngoài dự tưởng. Cô ấy như là thánh thần, à không, phải ngược lại mới đúng. Cô ấy đáng sợ khiến tôi thậm chí không dám nhìn mặt. Một thằng tôi nhút nhát như này, lại đang ở cùng phòng với một thiếu nữ ngoại quốc xa lạ, cùng ngồi trên một chiếc ghế. Đâu chỉ có thế. Chúng tôi gần nhau đến mức tôi còn cảm nhận được hơi ấm từ cơ thể của cô ấy chỉ cách một lớp da mỏng. Mặc dù vậy nhưng cô ấy không có một chút lo ngại nào. Cô ấy phó mặc toàn bộ sức nặng cơ thể mình lên tôi và ngồi một cách thoải mái nhất theo ý thích, thoải
mái đến độ tôi chưa từng gặp được ai như thế. Tôi có thể giả vờ ôm cô ấy trong chiếc ghế này. Tôi còn có thể hôn lên chiếc cổ đầy đặn của cô ấy từ sau lớp da. Ngoài ra, tôi cũng có thể tự do làm bất cứ điều gì mà tôi muốn.
Sau khi phát hiện ra sự thật đáng kinh ngạc này, tôi bèn gác lại mục tiêu chính là đi ăn trộm vì lúc này tôi đã hoàn toàn bị đắm chìm vào thế giới của những động chạm lạ thường. Tôi cứ nghĩ mãi. Phải chăng chính nơi này, chính cái thế giới trong chiếc ghế này mới thực sự là ngôi nhà dành cho tôi ư? Gã đàn ông xấu xí và yếu đuối như tôi trong thế giới tươi sáng và rực rỡ, luôn cảm thấy mặc cảm, xấu hổ. Không những phải sống một cuộc đời buồn tủi mà còn rất vô dụng. Nhưng hắn đã thử một lần thay đổi cái thế giới đó và như thế, trong chiếc ghế này, chỉ cần chịu đựng được sự tù túng nơi đây thì hắn có thể nghe thấy giọng nói của những người phụ nữ xinh đẹp hay chạm vào làn da của họ, điều mà trong thế giới tươi sáng, hắn không những không được phép nghĩ đến chứ đừng nói đến việc lại gần những người phụ nữ xinh đẹp.
Tình yêu trong chiếc ghế bành... Nó có một sức hấp dẫn khiến ta ngất ngây đến kì lạ. Cô không thể hiểu được nó trừ khi cô thực sự chui vào ghế và cảm nhận nó. Đó là thứ tình yêu có được bằng xúc giác, thính giác và một chút khứu giác, tình yêu của thế giới bóng tối. Nó tuyệt đối không thuộc về thế giới này. Nó chính là những ham muốn dục vọng trong thế giới của ma quỷ. Cô thử nghĩ mà xem. Những điều đáng sợ, quái gở như thế nào đang diễn ra ở góc khuất của thế giới này? Nó thực sự nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Đương nhiên, dự định ban đầu của tôi là sau khi ăn trộm thành công, tôi sẽ mau chóng rút khỏi khách sạn nhưng thế giới này cũng có lắm những niềm vui kì quái. Một kẻ đang say men tình như tôi không những không muốn chạy trốn mà thậm chí tôi còn muốn tiếp tục cuộc sống này, mãi mãi và vĩnh viễn trong chiếc ghế.
Khi đi ra ngoài vào ban đêm, tôi phải tập trung chú ý cao độ, không phát ra tiếng động dù chỉ là âm thanh rất nhỏ. Nếu tôi không làm gì để gây sự chú ý của người khác thì đương nhiên sẽ không gặp bất cứ nguy hiểm nào. Nhưng kể cả có là như thế đi chăng nữa, chính tôi cũng còn phải ngạc nhiên vì mình có thể sống trong chiếc ghế đến mấy tháng trời mà không hề bị phát hiện.
Gần như hai mươi sáu tiếng đồng hồ, tôi ở suốt trong chiếc ghế chật chội. Tôi cứ phải ngồi mãi trong tư thế hai tay gập lại, hai đầu gối co lên nên toàn thân bị tê liệt, không tài nào đứng dậy nổi. Cuối cùng thì tôi đi như lết tới phòng ăn, nhà vệ sinh. Tôi là một gã đàn ông thật điên rồ vì tôi chẳng có ý định vứt bỏ cái thế giới cảm xúc quái đản kia dẫu cho tôi có phải chịu khổ đến mấy.
Trong số những vị khách ở đây, có những người nghỉ lại trong khách sạn một đến hai tháng và vì là khách sạn, nên khách ra vào nườm nượp. Do đó, mối tình kì lạ của tôi cũng chỉ có hạn và người tình cũng thay đổi theo thời gian. Tôi chẳng thể nào làm khác được. Kí ức của tôi về các cô người tình đó không phải là kí ức về dung mạo của họ như bình thường mà chủ yếu là hình dáng cơ thể họ sẽ được khắc sâu trong trái tim của tôi.
Một cô nàng thân hình săn chắc, thông minh như chú ngựa con. Cô khác lại sở hữu cơ thể uyển chuyển, mê hoặc như một con rắn. Có cô lại đẫy đà, màu mỡ như quả bóng cao su hoặc có cô thân hình mạnh mẽ, rắn rỏi như bức tượng điêu khắc của Hy Lạp. Cơ thể họ lại có một sức hút đặc biệt, một mị lực rất riêng.
Và khi tạm biệt cô gái này để đến với một cô gái khác, tôi lại được nếm trải những dư vị khác lạ mới mẻ.
Một lần, đại sứ của một cường quốc Âu châu (đấy là tôi nghe mấy cậu trai trẻ người Nhật bàn tán mà biết) đã đặt tấm thân đồ sộ lên lòng tôi. Ngài ấy được mọi người biết đến như một nhà thơ nổi tiếng tầm cỡ thế giới hơn là một chính trị gia. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến tôi rất xúc động và tự hào vì tôi đã được biết đến thế nào là
da thịt của người cao quý. Ngài ấy đã ngồi trên lòng tôi và nói chuyện khoảng mười phút với hai, ba người ở nước mình rồi mới rời đi. Đương nhiên, tôi hoàn toàn không hiểu bọn họ nói gì nhưng mỗi lần ngài ấy đưa tay làm điệu bộ nào đó thì cơ thể ngài lại cử động theo một cách rất uyển chuyển. Cảm giác nhồn nhột, buồn buồn trên cơ thể mà tôi cho là ấm hơn người thường này mang đến cho tôi một sự kích thích đến khó tả.
Lúc đó, tôi bất chợt tưởng tượng ra chuyện như thế này. Nếu! Tôi đâm một nhát vào tim ngài ấy từ phía sau tấm da này bằng một con dao sắc thì chuyện động trời gì sẽ xảy ra nhỉ? Tất nhiên nó là một nhát đâm trí mạng khiến ngài ấy không bao giờ có thể tỉnh lại. Khỏi phải nói, chắc chắn đất nước của ngài ấy sẽ náo loạn vì tin dữ, còn giới chính trị của Nhật Bản không biết sẽ điêu đứng như thế nào? Báo chí sẽ lại được dịp đăng những nội dung giật tít ra sao đây? Vụ việc chắc chắn sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho quan hệ hai nước và đối với giới nghệ thuật, cái chết của ngài ấy sẽ là một mất mát lớn. Vụ ám sát chính khách chấn động như vậy có thể dễ dàng trở thành hiện thực chỉ bởi một thao tác rất đơn giản của tôi.
Lần khác, một vũ công từ một đất nước nổi tiếng đã tới Nhật Bản. Tình cờ cô ấy đã nghỉ lại khách sạn và ngồi vào chiếc ghế tôi làm một lần duy nhất. Cũng giống với trường hợp của ngài đại sứ, tôi vô cùng xúc động và mãi không bao giờ có thể quên cô ấy. Chưa hết, cô ấy còn cho tôi cảm xúc về một hình thể đẹp lý tưởng, thứ mà tôi chưa từng được trải nghiệm trước đây. Trước vẻ đẹp tuyệt mĩ đó, tôi còn chẳng có thời gian để nghĩ đến những mặc cảm, tự ti. Tôi chỉ có thể dành hết lời ngợi ca tán dương cô ấy bằng một tấm lòng thành kính, mộ đạo như đối với một kiệt tác nghệ thuật.
Ngoài ra, tôi còn vô vàn những trải nghiệm hiếm có, kì lạ thậm chí còn có những trải nghiệm rất kinh tởm. Nhưng kể hết những chuyện đó ra ở đây không phải là mục đích của bức thư này. Màn dạo đầu cũng khá dài rồi nên cho phép tôi vào ngay phần chính của câu chuyện.
Sau đó vài tháng kể từ khi tôi đến khách sạn, một thay đổi lớn trong số phận của tôi đã xảy ra. Điều mà tôi muốn nói đến là người chủ ngoại quốc của khách sạn, không vì lý do gì phải về nước nên ông ấy đã nhượng lại toàn bộ khách sạn đó cho một công ty của người Nhật. Ngay lập tức, công ty mới đã thay đổi lại chính sách kinh doanh khách sạn cao cấp vốn có trước đây sang hình thức kinh doanh thiết thực và có lợi hơn, đó là nhà nghỉ bình dân. Vì thế, với những vật dụng không cần thiết, công ty đã ủy thác cho một hiệp hội lớn, chuyên kinh doanh đồ nội thất để bán đấu giá. Trong danh mục đồ đạc đem đi bán đấu giá cũng có chiếc ghế của tôi.
Biết được điều đó, tôi đã thất vọng mất một thời gian. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng vì sự thay đổi đó mà một lần nữa tôi lại phải quay [8]. Lúc đó, tôi đã kiếm được số tiền lớn nhờ việc
trở về với cõi Sa Bà
ăn trộm nên nếu có bước chân ra thế giới bên ngoài thì tôi cũng không phải sống cuộc đời nghèo hèn như trước nữa. Nghĩ đi nghĩ lại thì việc rời khỏi khách sạn lớn của người nước ngoài có phần khiến tôi thất vọng tràn trề nhưng mặt khác, nó cũng mang đến cho tôi một hy vọng mới. Ý tôi muốn nói là mấy tháng nay, tôi đã trải qua không biết bao nhiêu mối tình với người khác giới nhưng bọn họ đều là người nước ngoài, mặc dù sở hữu thân hình quyến rũ, đáng mơ ước nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu thiếu thứ gì đó về mặt tinh thần. Phải chăng, nếu không phải là giữa người Nhật với người Nhật thì không thể cảm nhận được thế nào mới là tình yêu đích thực? Tôi đã nghĩ vậy đấy. Đúng lúc đó, chiếc ghế tôi làm được mang đi bán đấu giá. . Lần này, cũng có thể một người Nhật sẽ mua nó cũng nên. Và rồi chiếc ghế sẽ được đặt trong ngôi nhà của người Nhật… Nó chính là hy vọng mới của tôi. Vậy là tôi quyết định sẽ tiếp tục cuộc sống trong cái ghế này một thời gian nữa xem sao.
Tôi đã trải qua hai, ba ngày đến là khổ sở trong cửa hàng bán đồ nội thất. Nhưng khi cuộc đấu giá bắt đầu thì may mắn cho tôi, chiếc ghế đã mau chóng tìm được chủ nhân bởi vì dù có cũ đi chăng nữa thì nó vẫn là một chiếc ghế tuyệt đẹp, khó ai có thể cưỡng lại sức hút của nó.
Người mua chiếc ghế đó là một quan chức nhà nước, sống ở thành phố lớn, cách thành phố Y không xa. Mất vài dặm để đi từ cửa hàng bán đồ nội thất đến tư gia của người đó. Chiếc xe vận chuyển rung lắc dữ dội khiến tôi phải nếm mùi vật vã tưởng chết đi trong chiếc ghế. Nhưng những thứ đó chẳng thể so sánh với niềm vui được về một nhà người Nhật theo đúng sở nguyện của tôi.
Vị quan chức nọ là chủ một cơ ngơi khá là bề thế cho nên chiếc ghế tôi làm ra được đặt trong thư phòng kiểu Âu rất rộng nhưng đối với tôi, thứ khiến tôi cực kì mãn nguyện chính là việc chiếc ghế được phu nhân xinh đẹp trong ngôi nhà đó sử dụng chứ không phải người chồng. Kể từ hôm đó, tôi đã ở cùng phu nhân trong suốt gần một tháng. Trừ những lúc phu nhân đi ăn hay đi ngủ thì hầu như lúc nào cơ thể mềm mại của phu nhân cũng ở trên người tôi. Sở dĩ, khoảng thời gian đó phụ nhân luôn xuất hiện ở thư phòng là vì cô ấy đang vùi đầu vào sáng tác một tác phẩm. Không cần phải kể lể dài dòng chắc cô cũng biết tôi yêu cô ấy đến nhường nào. Cô ấy là người phụ nữ Nhật đầu tiên mà tôi tiếp xúc, đồng thời cũng là chủ nhân của một cơ thể vô cùng quyến rũ. Lúc bấy giờ tôi mới thực sự biết thế nào là yêu. Tất cả những trải nghiệm tôi có được ở khách sạn không thể so sánh được với tình yêu này, nhất định chúng không phải thử được gọi là tình yêu đôi lứa. Bằng chứng là tôi chưa bao giờ cảm nhận được điều đó dù chỉ một lần, cho tới khi tôi gặp phu nhân. Nếu chỉ một mình tận hưởng sự mơn trớn bí mật thì tôi không cam lòng. Tôi khổ tâm, dằn vặt lắm vì tôi rất muốn báo cho cô ấy biết về sự tồn tại của tôi.
Bởi vì, nếu được thì tôi mong muốn vị phu nhân ấy ý thức rằng có tôi bên trong chiếc ghế. Và, thế này có lẽ hơi ích kỷ nhưng tôi cũng muốn cô ấy yêu tôi. Nhưng bằng cách nào tôi có thể ra hiệu cho cô ấy biết được nhỉ? Nếu biết có người trốn ở bên trong chiếc ghế, chắc chắn cô ấy sẽ vô cùng kinh ngạc và báo ngay cho chồng hoặc tôi tớ trong nhà. Thế thì chẳng phải mọi cố gắng của tôi từ trước tới nay thành công cốc hay sao? Rồi tôi sẽ bị khép cho tội danh khủng khiếp nào đó và bị luật pháp trừng phạt.
Vậy là tôi quyết định thôi thì chí ít hãy cố gắng hết sức để cô ấy cảm thấy thoải mái nhất có thể khi ngồi trên chiếc ghế của tôi và khiến cô ấy cảm thấy gắn bó với nó. Là một nghệ sĩ, chắc chắn cô ấy phải có cảm quan tinh tế hơn người thường. Nếu cô ấy cảm nhận được chiếc ghế của tôi có linh hồn và yêu thương nó như một vật thể sống chứ không phải một thứ cô tri thì bấy nhiêu thôi cũng đủ làm tôi mãn nguyện rồi.
Tôi luôn tự dặn lòng phải nâng đỡ cô ấy nhẹ nhàng nhất có thể mỗi khi cô ấy ngả mình lên tôi. Khi cô ấy mệt mỏi và nằm lên tôi, tôi sẽ khẽ rung thật nhẹ nhưng không để cô ấy biết và giúp cô ấy thay đổi tư thế. Nếu cô ấy bắt đầu mơ màng chìm vào giấc ngủ, tôi sẽ rung đùi nhè nhẹ để làm nôi.
Không biết có phải là một sự báo đáp cho tấm lòng chân thành đó của tôi hay không hay đơn giản chỉ là do tôi tự huyễn hoặc bản thân mà dạo gần đây, tôi thấy hình như phu nhân có vẻ rất yêu chiếc ghế của tôi. Cô ấy ngả người vào chiếc ghế với một sự dịu dàng và ngọt ngào, giống như một đứa trẻ sơ sinh được ôm trong vòng tay của người mẹ hay một trinh nữ đón nhận vòng tay của người mình yêu. Chưa hết, cô ấy còn lắc lư cơ thể trên lòng tôi rất thoải mái.
Và như thế, tình cảm trong tôi ngày càng trở lên mãnh liệt. Cuối cùng thì điều đó cũng xảy ra. Tôi bỗng có một ước muốn hoang đường đến nỗi chính tôi cũng không thể hiểu nổi. Tôi khát khao chỉ cần được nhìn thấy khuôn mặt của người mình yêu và trò chuyện với cô ấy dù chỉ một lần thì dẫu có phải chết thì tôi cũng cam lòng.
Phu nhân, chắc cô đã đoán ra rồi phải không ạ? Cô người tình mà tôi thầm thương trộm nhớ ấy, xin hãy lượng thứ cho sự thất lễ của tôi, thực ra chính là cô đấy. Kể từ khi chồng cô mua chiếc ghế của tôi ở một cửa hàng nội thất tại thành phố Y, tôi đã trao trọn tình yêu của mình cho cô. Phải, tôi chính là gã đàn ông đáng thương đó.
Phu nhân, đây là ước nguyện duy nhất trong cuộc đời tối. Cô có thể gặp tôi một lần duy nhất thôi có được không? Và hãy nói với gã đàn ông xấu xí, tội nghiệp này một lời an ủi động viên nhé? Tôi xin cam đoan sẽ không đòi hỏi gì hơn thế nữa bởi vì tôi đã đủ xấu xí và bẩn thỉu để dám mong ước những điều như vậy. Tôi cầu xin cô hãy chiếu cố đến lời thỉnh cầu của gã đàn ông bất hạnh nhất thế gian là tôi đây.
Đêm hôm qua tôi đã ra khỏi ngôi nhà để viết bức thư này. Sẽ rất nguy hiểm cho tôi nếu như tôi xuất hiện trước mặt cô và nói ra những mong ước đó. Vả lại, tôi cũng không đủ can đảm để lộ diện.
Lúc này, khi cô đang đọc những dòng thư tay tôi viết thì tôi đang đi lại lòng vòng trong dinh thự của cô và mặt mũi xanh lét vì lo lắng.
Nếu cô chấp nhận lời thỉnh cầu lỗ mãng này thì tôi xin cô hãy để chiếc khăn tay của cô lên chậu hoa cẩm chướng gần cửa sổ phòng làm việc. Khi thấy nó, tôi sẽ bước tới cửa nhà cô và vờ như một vị khách tình cờ ghé thăm.
Bức thư kì lạ đã kết thúc bằng một khẩn cầu thống thiết. Khi đọc đến nửa bức thư, Yoshiko tái mét vì một dự cảm đáng sợ.
Vô thức, cô đứng bật dậy để chạy trốn khỏi phòng làm việc có kê chiếc ghế gớm ghiếc và chạy về phía căn phòng kiểu Nhật. Yoshiko đã định không đọc bức thư nữa mà xé nó đi, nhưng cô lại thấy lo lắng không biết liệu sẽ có chuyện gì nếu không đọc hết nên cô lại tiếp tục đọc nốt bức thư trên chiếc bàn nhỏ ở phòng khách.
Quả nhiên linh cảm của cô đã đúng.
Một sự thật khủng khiếp không thể tưởng tượng nổi. Có người đàn ông lạ mặt trốn trong chiếc ghế mà cô vẫn ngồi hằng ngày đó ư?
"""