"
Chiếc Bản Lề Cong - John Dickson Carr full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Bản Lề Cong - John Dickson Carr full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Thứ tư, 29 tháng 7
Người đàn ông chết
Khi đang tính làm việc chi, đầu tiên phải nhớ điều này: Đừng bao giờ cho khán giả biết trước ý định của mình. Làm như thế, tức là chỉ hướng cho họ, khiến họ để tâm theo dõi. Đây là lỗi lầm cần tránh, bởi nếu mắc phải nó, nguy cơ bị lật tẩy sẽ tăng lên gấp mười. Sau đây, chúng tôi đưa ra một ví dụ.
Giáo sư Hoffmann, Phép thuật hiện đại.
I
TẠI KENT, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi.
Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo.
Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows
chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy.
Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại.
Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử.
Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường!
Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ Nhất, thuở Inigo Jones xây nên điền trang cho vị tòng nam tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu.
Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường.
Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi!
Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi.
Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề.
Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718.
Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ.
Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào!
“Bận không?” Burrows hỏi.
“Ờ,” Page ngáp dài, bỏ sách xuống, “vào làm điếu thuốc chơi.”
Burrows mở cửa kính, từ vườn bước vào căn phòng hơi tối nhưng ấm cúng. Tuy cố giữ điệu bộ bình thường, gã lộ vẻ xúc động, giữa buổi chiều nóng mà trông tái như bị rét. Từ ông cố, ông nội, tới cha, rồi tới gã, nhà Burrows bao đời nay đều đại diện pháp lí cho họ Farnleigh. Đôi khi không khỏi tự hỏi: Burrows còn trẻ, tính tình lại lăng xăng, thỉnh thoảng nói năng bộc phát, như thế có thích hợp để làm luật sư gia đình hay chăng? Tuy thế, theo Page thấy, gã nói chung kiểm soát tốt tình hình, luôn giữ được mặt lạnh, lạnh hơn cả con cá bơn nằm trên thớt.
Burrows có mái tóc đen, đường ngôi rộng, được chải mượt một cách cầu kì. Phía trên chiếc mũi dài, sau cặp kính gọng đồi mồi, cặp mắt gã chăm chú ngó ra. Gã bận đồ đen, rất chỉn chu, song trông bất an; tay đeo găng, bấu chặt chiếc cặp.
“Brian,” gã nói, “tối nay mày ăn ở nhà à?”
“Ừ. Tao…”
“Đừng,” Burrows đột ngột ngắt lời.
Page chớp mắt.
“Đi ăn bên nhà Farnleigh đi,” Burrows tiếp. “Ăn hay không cũng được, cái chính là tao muốn mày đến đó, chứng kiến một chuyện.”
Thế rồi, bộ ngực lép bỗng phồng lên, gã đổi sang giọng luật sư. “May mà tao được ủy quyền kể cho mày cái chuyện tao sắp kể đây. Nói tao nghe xem, có bao giờ mày nghi ngờ rằng ngài John Farnleigh lại không phải là John Farnleigh?”
“Không phải John Farnleigh?”
“Tức là,” Burrows giải thích rõ ràng hơn, “người ấy không phải ngài
John Farnleigh thật, mà chỉ mạo nhận, giả vờ thôi?”
“Bộ mày say nắng hả?” Page giật mình, ngồi thẳng dậy. Anh hơi cáu, cảm thấy như vô lí bị trêu. Tự dưng đâu ra lại có cái chuyện này, ngay thời khắc biếng nhác nhất giữa một ngày nóng nực?
“Đương nhiên tao chẳng có lí do gì để nghi,” anh bảo. “Tại sao tao phải nghi? Mày đang tính cái trò quỷ gì vậy?”
Nathaniel Burrows đứng lên, đặt cặp xuống ghế.
“Tao nói thế,” gã trả lời, “bởi có một người xuất hiện, xưng mình là John Farnleigh thật. Chuyện xảy ra lâu rồi, những mấy tháng cơ, nhưng bây giờ mới lên đến cao trào. Mà này…” gã chợt dừng, đưa mắt nhìn quanh, “còn ai khác ở đây không? Cái bà gì người làm của mày ấy, hay là ai khác?”
“Không có ai.”
“Lẽ ra tao không nên kể,” Burrows nói qua kẽ răng, “nhưng tao biết tao có thể tin mày. Giữa chúng mình với nhau thì nói thật: Tao cũng đang trong tình thế tế nhị lắm. Sắp tới sẽ rắc rối đây. Vụ Tichborne chưa ăn nhằm gì so với vụ này. Thì dĩ nhiên… à… chính ra mà nói… tao cũng đâu có lí do nghi ngờ thân chủ của mình không phải ngài John Farnleigh thật. Nhiệm vụ của tao là phục vụ ngài John Farnleigh mà. Song đấy chính là vấn đề, vì có tới hai người. Trong hai, một là tòng nam tước đích thực, một là giả. Hai người đó không giống nhau đâu mày, nhìn khác hẳn luôn. Khổ nỗi, thật giả thế nào, tao chẳng làm sao xác định được.”
Gã ngừng một lúc trước khi nói thêm: “Cũng may, rất có thể đêm nay mọi sự sẽ được giải quyết.”
Page nhìn nhận lại vấn đề trong đầu. Anh đẩy hộp thuốc lá về phía bạn, không quên đốt một điếu cho mình, đoạn chăm chú nhìn Burrows.
“Thật như sấm động bên tai, hết đợt này sang đợt khác,” Page nói. “Mọi chuyện bắt đầu ra sao? Dấu hiệu giả mạo xuất hiện từ bao giờ? Trước đây đã ai từng nghi ngờ như thế chưa?”
“Làm gì có. Rồi mày sẽ hiểu tại sao.” Burrows rút khăn tay, chậm rãi lau khắp mặt, bình tĩnh ngồi xuống. “Hi vọng đây chỉ là chuyện hão. Tao quý John và Molly lắm. À quên, ngài John và phu nhân Farnleigh chứ. Nếu nguyên cáo mới thật là tên giả mạo, tao sẽ ra giữa làng nhảy múa cho mày xem… Chà, nói vậy thôi, nhảy múa thì chắc không đâu, nhưng tao bảo đảm sẽ cho nó ngồi tù vì tội cáo gian, mà ngồi lâu hơn cả Arthur Orton nữa. Tối nay mày sẽ được nghe hết chuyện, bây giờ thì tao kể trước nguồn gốc, bối cảnh, cho mày biết nguyên do cớ sự. Chuyện đời ngài John, mày rõ rồi chứ gì?”
“Biết sơ sơ, chung chung thôi.”
“Biết thì biết cho rõ, sao lại sơ sơ, chung chung?” Burrows lắc đầu, vẻ không hài lòng, “Mày cũng viết sách sử theo lối sơ sơ, chung chung à? Hi vọng là không chứ? Nghe tao đây, và nhớ kĩ những thông tin cơ bản này nhé.
“25 năm trước, John Farnleigh mới 15 tuổi. Ông sinh năm 1898, là con trai thứ hai của ngài Dudley và phu nhân Farnleigh. Lúc ấy ổng không có quyền thừa kế, vì cha mẹ ông tự hào và yêu quý nhất người con cả. Người này cũng tên Dudley.
“Gia đình quyền quý họ đòi hỏi con cái cao lắm. Tao biết ông Dudley bố mà, ổng là mẫu người thời Victoria, rất chi cứng nhắc. Mẫu người ấy bây giờ bị giới viết tiểu thuyết khắc họa, phê phán, nhưng thật ra ổng không đến nỗi tệ như các nhân vật tiểu thuyết đâu. Hồi tao còn bé, ổng hay cho tao tiền, mỗi lần sáu xu. Lần nào tao cũng ngạc nhiên ngẩn người.
“Cậu Dudley con ngoan lắm. John thì không. John da ngăm, ít nói, lại có khuynh hướng nổi loạn. Cái mặt ổng cứ sưng sỉa, khinh khỉnh, nên dù phạm lỗi nhỏ, người ta cũng không tha. Ông thật ra không xấu, chỉ không thích ứng được với môi trường xung quanh. Hơn nữa, dù còn bé, ổng cứ muốn được đối xử như người lớn. Năm 1912, lúc 15 tuổi, ổng làm chuyện người lớn với một cô hầu rượu ở Maidstone…”
Page khẽ huýt gió, đưa mắt ra cửa sổ như thể muốn tìm chính ngài Farnleigh.
“Mới 15 thôi?” anh nói. “Thanh niên ra trò nhỉ!”
“Chứ gì.”
“Nhưng mà,” Page băn khoăn, “nhìn ngài Farnleigh thì cứ ngỡ…”
“Ngỡ đạo đức lắm à?” Burrows đỡ lời. “Nhưng đây ta đang nói về chú bé 15 cơ mà. Hồi đó, ổng khoái tìm hiểu những thứ hắc ám, như phép phù thủy và đạo thờ Quỷ. Thế đã là tệ rồi. Bị đuổi khỏi trường Eton lại càng tệ hơn. Nhưng vụ léng phéng với cô hầu vẫn là xì căng đan lớn nhất. Cô hầu bảo rằng mình có thai, và vụ ấy đánh dấu chấm hết cho tương lai của John. Ngài Dudley Farnleigh đi đến kết luận John là thằng lộn giống, xấu xa hết thuốc chữa, vô phương cải tạo. Cha con phải cách li nhau. Phu nhân Farnleigh có người họ hàng đang làm ăn phát đạt ở Mỹ. Bà bèn thu xếp cho John qua ở cùng. Giải quyết vấn đề như vậy là tiện.
“Người duy nhất có thể quản được John là vị gia sư mang tên Kennet Murray. Murray bấy giờ còn trẻ, chỉ độ 22 - 23 tuổi, đã đến Farnleigh Close sau khi John bị đuổi học. Cũng cần nhắc: Sở thích của Murray là nghiên cứu về tội phạm học, chính vì điều đó mà John gắn bó với thầy. Tội phạm học thời trước không được coi trọng, nhưng ngài Dudley quý mến Murray nên cũng chẳng nói gì nhiều.
“Lúc xảy ra vụ cô hầu, Murray đang được mời chào một vị trí tốt: trợ lí hiệu trưởng một trường học tại Hamilton, Bermuda. Tuy phải xa nhà, ông ta đồng ý, bởi ở điền trang không còn công việc nữa. Thế là mọi người dàn xếp với nhau, Murray được giao nhiệm vụ đi kèm John tới New York, giữ cho cậu bé khỏi gây rắc rối. Đến nơi, ông ta giao John cho người họ hàng của phu nhân Farnleigh, rồi đón tàu khác đi Bermuda.”
Burrows ngừng lời, như để lục tìm quá khứ, đoạn nói tiếp:
“Về phần tao thì tao không nhớ gì mấy. Lũ trẻ tụi mình đâu được cho chơi với ông John hư đốn. Chỉ có con bé Molly Bishop, mới sáu hay bảy tuổi, là mê John phát cuồng. Ai nói xấu John nó đều không nghe, và có thể xem như nó đã là vợ của John kể từ ngày đó. Tao còn nhớ mang máng cái ngày John ngồi xe ngựa ra ga, đội cái mũ bẹt bằng rơm, với Kennet Murray bên cạnh. Ngày hôm sau, họ lên tàu, giữa quang cảnh hội hè đình đám. Sao lại đình đám? Chắc tao không nhắc mày cũng nhớ, con tàu ấy chính là Titanic.”
Cả Burrows lẫn Page đều chìm về dĩ vãng. Với Page thời ấy thật hỗn loạn, đầy những huyên náo, ngập tràn báo chí nơi góc đường, với một lố những chuyện hoang đường vô căn vô cứ.
“Titanic, con tàu không thể chìm, rốt cuộc đâm vào tảng băng, chìm nghỉm vào đêm 15 tháng 4 năm 1912,” Burrows lại nói. “Trong cơn hoảng loạn, Murray và John lạc nhau. Ông thầy cùng hai, ba người nữa bám vào
vỉ gỗ, trôi nổi giữa dòng nước lạnh căm suốt 18 tiếng đồng hồ. Họ được tàu hàng Colophon vớt lên. Con tàu cập bến Bermuda, đúng nơi Murray cần đến. Murray nhận được điện tín, sau đó là thư tay, cho biết John an toàn, nên không phải lo lắng cho học trò nữa.
“John Farnleigh, hay người giả làm John, được tàu Etrusca cứu, đưa tới New York. Ở đấy, họ hàng của phu nhân Farnleigh, một người miền Tây,
đã chờ sẵn. Mọi chuyện lại diễn tiến theo đúng kế hoạch. Ngài Dudley dò hỏi để biết chắc con trai còn sống, xong rồi thì thôi, không quan tâm nữa. Còn ông con cũng chẳng hơn gì.
“John lớn lên, sinh sống tại Mỹ gần 25 năm, không hề viết một dòng thư thăm hỏi gia đình. Cho đến khi họ chết, ổng không gửi một bức hình, không tặng một tấm thiệp sinh nhật. Cũng may, vừa gặp ông Renwick, người họ hàng ở Mỹ, là ổng thích ngay. Vai trò của Renwick coi như thay thế cho phụ huynh. John… ờ… dường như thay đổi. Ông sống bình lặng với nghề nông trên ruộng lớn. Nếu ổng ở lại quê hương, chắc cũng chỉ đến vậy mà thôi. Trong những năm cuối chiến cuộc, John phục vụ trong quân đội Mỹ, nhưng không đặt chân lên đất Anh, cũng không gặp lại cố nhân nào. Cả Murray cũng không gặp. Murray sống ở Bermuda, chả giàu có gì, John thì ở tít Colorado, không ai có tiền đi thăm nhau.
“Tại Anh, cuộc đời phẳng lặng trôi. Hầu như không ai nhớ đến John. Sau khi phu nhân Farnleigh mất vào năm 1926, John bị quên lãng hoàn toàn. Bốn năm sau, tới lượt ngài Dudley qua đời. Dudley con, giờ đã lớn, thừa hưởng tước hiệu và điền trang. Ông ta không chịu lấy vợ, cứ bảo ngày còn rộng, tháng còn dài. Song có rộng dài gì cho cam. Tháng tám, năm 1935, Dudley con chết vì ngộ độc thực phẩm.”
“Ngay trước khi tao dọn đến đây.” Brian Page hồi tưởng. “Nhưng này, Dudley có tìm cách liên lạc với em mình không?”
“Có gửi thư. Thư được trả về, dấu niêm vẫn nguyên. Chả là ngày xưa, Dudley hay ra mặt anh trai kẻ cả. Sau đó, hai người lại xa cách nhau, có lẽ John chẳng còn cảm thấy chút thâm tình nào. Tuy nhiên, khi Dudley chết, đến lượt John thừa kế tước hiệu và tài sản…”
“Thì John chấp nhận.”
“Chấp nhận. Đúng. Chính xác.” Burrows như bùng nổ. “Mày biết ổng, mày cũng hiểu mà. John trở về đây, như tự nhiên vốn thế. Tuy đi xa gần 25 năm, ổng chẳng thấy xa lạ chi hết. Ông tư duy, hành động, thậm chí nói chuyện y như bao lâu nay đã là người thừa kế rồi. Lúc John về là đầu năm 1936. Gặp lại Molly Bishop đã trưởng thành, ổng lấy nó luôn. Đám cưới diễn ra vào tháng 5 cùng năm. Thật là lãng mạn. Từ đó đến nay đã hơn một năm, và giờ thì tự dưng có cái chuyện này. Cái chuyện này!”
“Tao nghĩ, nếu như có mạo nhận…” Page nói, giọng không quả quyết, “việc đó hẳn xảy ra vào thời điểm tàu Titanic bị chìm? Có khả năng một cậu bé khác được vớt, rồi vì lí do nào đấy tự nhận mình là John Farnleigh?”
Burrows chậm rãi đi qua đi lại, ngón tay ngúc ngoắc chĩa vào các thứ đồ đạc trong phòng. Trông gã không hài hước, chỉ thấy tỏa ra một vẻ trí thức, khiến thân chủ yên lòng, thậm chí bị mê hoặc. Gã có thói quen nghiêng đầu, le lé, chăm chú nhìn người đối diện sau cặp kính to. Lúc này đây, gã đang nhìn Page như thế.
“Đúng như vậy. Đúng như vậy. Nếu John Farnleigh hiện tại là giả thì hắn đã đóng giả suốt từ năm 1912, đã quen vai diễn rồi, trong khi người thật vẫn ẩn thân. Sau vụ đắm tàu, khi được cứu, hắn mặc quần áo và đeo nhẫn của Farnleigh thật, đem theo nhật kí của Farnleigh thật. Ở Mỹ, hắn lại được người chú Renwick kể nghe chuyện cũ. Bởi vậy, khi trở về, hắn thích nghi mà không bỡ ngỡ. Vả lại, 25 năm trôi qua còn gì! Chữ viết có thể thay đổi, khuôn mặt, dáng điệu thay đổi, ngay kí ức cũng không còn chắc chắn. Mày đồng ý không? Nếu thỉnh thoảng hắn có lỡ lời, có sơ sẩy, thì người khác cũng cho là tự nhiên thôi. Phải chứ?”
“Thế còn nguyên cáo,” Page nhẹ lắc đầu, “ắt hắn phải nắm trong tay thứ gì chắc chắn lắm mới dám đứng ra. Mày biết ở tòa người ta xử thế nào mà.
Hắn đang có cái gì?”
“Nguyên cáo nói rằng,” Burrows khoanh tay trước ngực, “hắn có bằng chứng không thể chối cãi, chứng minh mình là ngài John Farnleigh đích thực.”
“Mày thấy bằng chứng đó chưa?”
“Thấy hay không thấy, phải đợi tới tối nay, bởi nguyên cáo muốn có cơ hội được gặp ngài Farnleigh hiện tại. Không, Brian ạ, tuy gần phát điên về chuyện này, tao cũng không đến nỗi dốt đâu. Quả là câu chuyện của nguyên cáo mang tính thuyết phục, và hắn đã cung cấp một số bằng chứng phụ. Rất tiếc, nhưng mày nên biết rằng hắn đã đi cùng một tên đại diện pháp lí hợm hĩnh vào văn phòng của tao, kể tao nghe những điều mà chỉ riêng John Farnleigh mới biết. Chỉ riêng John Farnleigh thôi, tao nhắc lại đấy. Không chỉ vậy, hắn còn đề nghị để hắn và Farnleigh hiện tại cùng làm một bài sát hạch, rồi kết quả sẽ nói lên tất cả.”
“Sát hạch gì?”
“Mày sẽ biêt… Rồi mày sẽ biết.” Nathaniel Burrows cầm cặp lên. “May là tin tức chưa truyền ra ngoài. Đấy là điều tích cực duy nhất giữa mớ hỗn độn chết tiệt. Ít ra nguyên cáo cũng chơi đẹp, không muốn làm um mọi chuyện. Tóm lại, hai phía đến nay đều chơi đẹp cả. Nhưng khi tao khám phá ra sự thật thì sự tình sẽ ỏm tỏi lên thôi. Mừng cho cha tao, ổng đã qua đời, không phải chứng kiến cảnh này. Còn mày, nhớ bảy giờ có mặt ở Farnleigh Close. Đừng lo về chuyện trang phục, chả có ai ăn vận trang trọng đâu. Ăn tối chỉ là cái cớ, đến đấy chưa chắc đã có người dọn bữa.”
“À, thái độ của ngài John ra sao trước tình cảnh này?”
“Ngài John nào?”
“Để rõ ràng và thuận tiện,” Page đáp, “Tao nói ngài John tức là người
lâu nay chúng mình vẫn biết. Mà hay nhỉ. Phải chăng mày có ý cho rằng nguyên cáo mới là thật?”
“Không, không hẳn, dĩ nhiên không rồi!” Burrows thốt lên, rồi vội trấn tĩnh, nói tiếp cách đường hoàng. “Farnleigh chỉ lầm bầm thôi. Tao nghĩ đó là dấu hiệu tốt.”
“Molly đã biết chưa?”
“Biết. Hôm nay ổng vừa nói cho vợ nghe. Thôi, xong chuyện rồi đấy. Lẽ ra tao không nên kể với mày, chắc chẳng luật sư nào lại làm như tao. Nhưng không tin mày thì tao còn biết tin ai? Vả lại, từ hồi ông già qua đời, tao cũng không vừa ý lắm về cách mình xử lí các thứ. Giờ mày biết rồi thì hành động đi, thử giải quyết mớ khó khăn tinh thần của tao coi nào. Nhớ bảy giờ đến Farnleigh Close làm nhân chứng nhé. Hãy dùng trí thông minh của mày, quan sát, xem xét kĩ hai người. Sau đó, trước khi bắt đầu vào việc, làm ơn cho tao biết…” nói đến đây, Burrows phang cặp lên bàn, “mày nghĩ ai là thật, ai là giả.”
II
BÓNG CHIỀU DẦN BUÔNG trên con dốc bên dưới của cánh rừng Rèm Treo, song khu đất bằng về phía trái vẫn còn sáng và ấm áp. Bên vệ đường, ẩn sau bức tường và rào cây, là một căn nhà xây bằng gạch màu đỏ thẫm, giống những căn ta vẫn thấy trong tranh vẽ đời xưa. Nhà trông hài hòa, mướt rượt chẳng kém bãi cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng đằng trước. Một lối đi rải sỏi dẫn thẳng vào cửa chính; hai bên có cửa sổ hẹp mà cao, với ô kính lắp bên trong những khung đá hình trái xoan. Trên mái nhà, ống khói nép vào nhau, thanh mảnh nhô cao, đón những vạt nắng cuối ngày.
Mặt tiền nhà được chăm sóc kĩ, không thấy dây leo; phía đằng sau, một hàng những cây dẻ gai mọc chen chúc. Chính tại đằng sau, một chái mới được xây thêm, khiến toàn thể căn nhà nom như chữ T ngược. Cái chái mới chia khu vườn kiểu Hà Lan làm đôi, thành ra hai vườn nhỏ. Từ một bên vườn nhìn vào, sẽ thấy cửa sổ sau thư viện. Từ phía bên kia, sẽ thấy một căn phòng, nơi ngài John Farnleigh và phu nhân Molly đang đợi khách.
Trong phòng ấm cúng và tĩnh lặng, nghe rõ tiếng đồng hồ tích tắc. Vào thế kỉ 18, phòng này gọi là Phòng Nhạc hay Phòng Nghỉ Cho Các Bà. Hiện tại, Molly Farnleigh dùng nơi này làm phòng khách. Chỉ xem phòng cũng
biết đẳng cấp chủ nhân: Chính giữa là chiếc dương cầm bằng danh mộc, gỗ để lâu ngày đã lên nước bóng lộn, nhìn giông giống màu mai rùa. Ngoài ra còn nhiều thứ đồ bạc diễm lệ, cổ kính. Từ cửa sổ phía bắc phòng, có thể nhìn ra rừng Rèm Treo.
Molly Farnleigh ngồi bên cửa sổ, dưới bóng cây dẻ gai rườm rà như bạch tuộc. Thuộc loại phụ nữ thích vận động bên ngoài, nàng có thân hình cân đối, săn chắc. Mặt nàng chữ điền, song rất quyến rũ; mái tóc màu nâu
đen, cắt ngắn kiểu cá tính. Làn da nàng rám nắng, cặp mắt ngả màu lục. Khuôn mặt Molly toát lên vẻ chân thật, thẳng thắn, trực tính không quanh co. Miệng nàng hơi rộng. Bù lại, mỗi khi cười thì khoe ra hàm răng thật chuẩn. Molly không quá xinh, nhưng sự hấp dẫn của nàng đến từ sự khỏe khoắn, mạnh mẽ. Cái khỏe, cái mạnh lại chẳng đánh chết cái đẹp hay sao?
Lúc này đây, Molly không cười, mắt không rời khỏi chồng, người đang đi qua đi lại trong phòng, với những bước chân ngắn và nhanh.
“Anh không lo lắng đấy chứ?” Nàng hỏi.
Ngài John Farnleigh chợt dừng, vặn vẹo cổ tay ngăm đen một lúc, rồi lại bước đi.
“Lo à? Không, có lo đâu. Chỉ là… ôi, chết tiệt thật!”
Ngài và phu nhân dường như rất xứng đôi. Nói đến điền chủ miền quê, ta hay mường tượng hình ảnh một kẻ to béo thích ăn chơi, nhưng hình ảnh ấy chỉ mới phổ biến từ khoảng 100 năm đổ lại. Farnleigh thuộc về mẫu điền chủ thực thụ thời cổ. Ngài dáng tầm thước, người mảnh, mình dây, vẻ năng động. Nhìn ngài, bất giác liên tưởng đến lưỡi cày: Một lưỡi cày sáng ánh kim, chắc nịch, sắc bén, lướt đi ngọt xớt trên luống.
Tuổi Farnleigh vào độ 40. Ngài có nước da ngăm, ria mép dày, nhưng được tỉa ngắn. Tóc ngài đen, đôi chỗ pha sợi bạc; mắt cũng đen, ánh nhìn
sắc, nơi khóe đã hằn chân chim. Có thể nói: Ngài đang ở vào thời điểm đỉnh cao phong độ của một người đàn ông, cả về thể chất lẫn tinh thần; trong ngài đang ẩn chứa biết bao sinh lực. Dáng đi qua lại của ngài cho thấy một vẻ khó chịu, bối rối, hơn là giận dữ hay thất vọng.
Molly đứng dậy, kêu lên: “Anh ơi, sao trước nay anh không nói em hay?”
“Bắt em để tâm làm chi,” người chồng trả lời. “Chuyện của anh, tự anh giải quyết.”
“Anh biết chuyện từ khi nào?”
“Khoảng một tháng trước. Cỡ ấy.”
“Thì ra từ đó đến nay anh lo chuyện này?” Molly hỏi, một thoáng âu lo khác lạ chợt hiện trên mi.
“Thì cũng một phần,” Farnleigh làu bàu, đưa mắt thoáng nhìn vợ. “Một phần? Ý anh là sao?”
“Một phần là một phần chứ sao nữa em.”
“John, chuyện này không liên quan gì đến Madeline Dane chứ?”
“Ôi trời! Không! Làm gì có!” Farnleigh khựng lại. “Em cứ hỏi những câu như thế làm gì? Em không thích Madeline Dane phải không?”
“Cặp mắt cổ lạ lắm. Em chả thích,” Molly nói, rồi bỏ qua một bên lòng tự ái (hay một cảm xúc nào khác mà nàng không muốn gọi tên). “Xin lỗi anh, giữa tình cảnh hiện tại, lẽ ra em không nên nói những điều đó. Vụ này rắc rối quá, nhưng thật tình là không có gì hết, đúng không anh? Người kia đâu có chứng cứ?”
“Hắn chẳng có quyền gì. Còn bằng cớ kiện tụng thì anh không biết.”
Nghe giọng nói cộc cằn, Molly nhìn chồng chăm chú:
“Mà tại sao phải lằng nhằng, bí ẩn như vậy? Nếu hắn là thằng giả mạo, sao anh không tống hắn đi, đừng quan tâm nữa là xong?”
“Burrows bảo không nên. À, chưa nên… ít nhất phải đợi nghe xem hắn nói gì đã. Sau đó, mình sẽ hành động, hành động thật sự. Vả lại…”
“Giá mà anh để em giúp từ trước,” khuôn mặt Molly trở nên ngây ra. “Em chẳng làm được gì, song dù sao cũng nên cho em hay. Em biết, kẻ kia muốn thách thức anh, muốn có cơ hội chứng tỏ hắn là anh. Đó dĩ nhiên là điều vớ vẩn rồi. Em biết anh từ bao nhiêu năm trước, và em nhận ra anh ngay khi mình tái ngộ. Thật đấy, anh không ngờ, nhưng mà em nhận ra ngay. Giờ thì anh mời hắn tới nhà, với Nat Burrows và một gã luật sư nữa, lại làm ra vẻ bí ẩn đến phát sợ. Anh định làm gì đây?”
“Em nhớ Kennet Murray, ông gia sư cũ của anh, chứ?”
“Mang máng,” Molly hơi nhăn trán. “To lớn, dễ thương, ria mép tỉa gọn như lính hải quân hay nghệ sĩ. Hồi đó chắc ổng còn trẻ, nhưng trông già khọm. Ông kể chuyện thật hay…”
“Ổng luôn mơ ước được trở thành nhà thám tử vĩ đại,” ngài John cắt ngang. “Đối phương đã mời ổng từ Bermuda về đây, hiện đang ở quán Bò Và Đồ Tể. Murray nói ổng có thể xác quyết chắc chắn ai là John Farnleigh thật.”
“Hượm đã. Dân làng đang đồn ầm lên về một ông khách ở quán trọ ‘trông giống như nghệ sĩ’. Đó là Murray ư?”
“Ông ấy đấy. Anh muốn xuống đó thăm ổng, nhưng chơi thế không đẹp,” Farnleigh nói, vẻ bối rối như đang tranh đấu trong nội tâm. “Người ta nhìn vào, sẽ bảo anh mò tới gây ảnh hưởng lên ổng, hoặc điều gì đó đại loại như vậy. Thôi thì để ổng lên đây gặp cả hai người, và nhận dạng anh.”
“Bằng cách nào?”
“Trên đời chỉ Murray biết rõ anh thôi. Gia đình anh thì như em biết, đã chết cả rồi. Mấy người gia nhân già cũng đã chết, chỉ trừ nhũ mẫu đang ở tận New Zealand. Ngay Knowles cũng mới làm tại đây 10 năm. Người anh biết sơ sơ thì nhiều, song anh không ưa giao du, không thích kết bạn. Tóm lại, chỉ còn ông Murray đáng thương, thích điều tra hình sự. Ổng đứng trung lập, không thiên về bên nào… Chà, nhưng nếu ổng lại muốn chơi trò thám tử, điều tra một vụ để đời…”
Molly thở vào thật sâu. Khuôn mặt rám nắng, khỏe khoắn, cơ thể đầy sinh lực của nàng khiến những lời thẳng thắn nàng thốt ra càng thêm sống động.
“John, em thật không hiểu. Không hiểu chút nào. Nghe anh nói thì đây giống như một trò chơi hay đánh cược vậy. ‘Chơi thế không đẹp’. ‘Không thiên về bên nào’. Chẳng cần biết tên kia là ai, anh có thấy hắn tuyên bố ngọt xớt rằng những gì của anh là của hắn hay không? Rằng hắn là John Farnleigh thật? Rằng hắn là người thừa kế tước vị tòng nam tước và 30.000 bảng đồng niên? Hắn định cướp của anh, anh không thấy à?”
“Anh biết chứ.”
“Biết! Nhưng nó có ý nghĩa như thế nào với anh?” Molly kêu. “Sao cứ phải cân nhắc, suy xét dữ như vậy?”
“Rất hệ trọng, tất cả phụ thuộc vào nó.”
“Ồ! Nếu như có người đến gặp anh và bảo ‘Ta là John Farnleigh’, theo lẽ thường, anh chỉ cần hỏi ‘thật ư?’, rồi đá nó ra khỏi nhà, chẳng phải suy nghĩ gì nữa. Cùng lắm thì gọi thêm cảnh sát. Nếu là em, đấy là điều em sẽ làm.”
“Em yêu, em không hiểu vụ này đâu. Burrows nói rằng…”
Farnleigh từ từ nhìn quanh phòng. Dường như ngài để tai lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc, tận hưởng mùi hương của màn cửa mới và sàn nhà được lau chùi sạch bong. Có vẻ ngài muốn vươn người ra giữa trời nắng ấm, ôm lấy hết thảy vùng lãnh thổ thanh bình, phì nhiêu mà mình đang làm chủ. Lạ thay, trong giây phút ấy, trông Farnleigh vừa nguy hiểm, vừa giống một người Thanh giáo đạo đức.
“Nếu bây giờ mất tất mọi thứ,” ngài chậm rãi nói, “thì thật tồi tệ.”
Khi cánh cửa mở ra, Farnleigh trấn tĩnh trở lại, dáng vẻ bạo lực ngấm ngầm liền biến mất. Knowles, ông quản gia già, đầu hói, dẫn Nathaniel Burrows và Brian Page vào.
Burrows trông cực kì nghiêm trọng, hay nói theo kiểu Page là giống… con cá bơn. Ngay khi còn đi trên đường, gã đã ra vẻ như vậy rồi. Buổi chiều đó, gã không còn là người bình thường Page vẫn biết. Mà cũng phải thôi, làm sao khác được trong tình huống khó xử dường này? Chính Page cũng cảm thấy lúng túng cực điểm. Vừa nhác thấy gia chủ và phu nhân, anh đã ước thầm giá mình đừng đến.
Viên luật sư nhọc nhằn chào gia chủ theo đúng lễ nghi. Động tác của Farnleigh cứng đơ, như thể sắp sửa đi giao đấu.
“Tôi nghĩ,” Burrows nói, “chúng ta sẽ bắt đầu vào việc nhanh thôi. Ông Page đây đã có nhã ý, chấp nhận làm nhân chứng…”
“Thôi nào,” Page lên tiếng phản đối. “Cậu cứ làm như chúng ta đang bị vây trong thành vậy.” Anh nhìn thẳng Farnleigh, như muốn rũ bỏ vấn đề. “Thưa ngài, ngài là một trong những điền chủ lớn nhất, đáng kính nhất tại Kent. Chuyện Burrows kể tôi nghe nó vô lí chẳng khác chuyện cỏ màu đỏ, hay nước chảy ngược lên đồi. Ai nhìn vào cũng phải thấy như vậy. Ngài đâu cần phải quá thận trọng?”
“Đúng thế,” Farnleigh chầm chậm thừa nhận. “Chắc là tôi hơi ngớ ngẩn.”
“Hẳn rồi,” Molly đồng ý. “Cảm ơn anh Brian.”
“Còn thầy Murray,” Farnleigh hỏi, giọng lơ đãng. “Anh gặp ông ấy chưa, Burrows?”
“Thưa ngài, đã gặp, nhưng chỉ một chốc, và không với tư cách chính thức. Bên đối phương thì chưa tiếp xúc. Murray cho hay sẽ đưa ra một bài sát hạch, nhưng không giải thích gì thêm.”
“Ông ấy thay đổi nhiều không?”
“Không nhiều,” Burrows tỏ ra nhẹ nhõm một chút. “Dĩ nhiên là già hơn, yếu hơn, khó tính hơn, râu đã bạc cả. Chà, những ngày xưa cũ…”
“Những ngày xưa cũ… ờ, phải!” Farnleigh thốt lên rồi chuyển đề tài. “Có một câu tôi muốn hỏi anh. Anh có cho rằng Murray trung thực không? Tôi biết, nói ra điều này chẳng hay chút nào. Thầy Murray vốn luôn chân thật, minh bạch. Dù vậy, chúng ta đã không gặp ông ấy suốt 25 năm nay. Lâu quá rồi, bản thân tôi cũng đã thay đổi. Không có khả năng gian lận gì ở đây chứ hả?”
“Xin ngài an tâm, không có đâu,” Burrows nghiêm mặt. “Chuyện này chúng ta đã từng bàn. Tôi đã nghĩ tới khả năng ấy ngay từ đầu và đã tiến hành các biện pháp cần thiết. Chẳng phải chính ngài đã thừa nhận thầy Murray là thật sao?”
“Vâng, tôi cho là thế.”
“Thế thì tại sao lúc này ngài lại khơi vấn đề ấy lên?”
“Xin anh làm ơn,” Farnleigh đột ngột cứng người lại, trong một dáng điệu y hệt Burrows, “đừng có nhìn tôi theo kiểu chính tôi là tên lừa đảo, giả
mạo. Chối cũng vô ích, rõ ràng anh đang nhìn tôi theo kiểu đó. Bình yên, bình yên, bình yên. Tôi đi khắp thế giới để tìm bình yên, rốt cuộc ở đâu mới có nó đây? Tại sao lại hỏi về Murray à? Để tôi nói cho mà biết. Nếu anh không nghĩ Murray có điều gian lận, sao lại thuê thám tử tư theo dõi ông ấy?”
Đằng sau cặp kính, đôi mắt Burrows mở to. Hiển nhiên, gã đang kinh ngạc.
“Mong ngài thứ lỗi, ngài John. Tôi không hề thuê thám tử tư theo dõi ông Murray hay bất kì ai khác.”
“Vậy người ở quán Bò Và Đồ Tể là ai?” Farnleigh bật dậy. “Cái tay còn trẻ, mặt mày rắn rỏi, chuyên đi nói nhỏ nói to, dò hỏi những câu quỷ quyệt ấy? Trong làng ai cũng bảo nó là thám tử. Nó thì nói nó đang nghiên cứu văn hóa dân gian, đi tìm tư liệu viết sách. Dân gian cái đầu nó chứ. Lúc nào nó cũng như con đỉa bám dính Murray.”
Hai người cùng nhìn nhau.
“Đúng,” Burrows vẻ thận trọng. “Tôi có nghe nói về nhà dân gian học cùng sở thích tìm hiểu con người của anh ta. Có thể đấy là tay trong của Welkyn…”
“Welkyn?”
“Luật sư của nguyên cáo. Nhưng cũng nhiều khả năng anh ta chỉ là người ngoài, không liên quan đến sự vụ.”
“Tôi thì ngờ,” máu dường như dồn lên hai mắt Farnleigh, khiến mặt ngài đã tối lại càng tối hơn. “Tên thám tử tư nhúng mũi vào nhiều thứ lắm. Nghe bảo nó hỏi đủ mọi chuyện về cô Victoria Daly tội nghiệp.”
Với Brian Page lúc này, các giá trị dường như đổi khác, và những thứ
dường như quen thuộc bỗng trở nên lạ lẫm. Giữa cuộc tranh chấp về quyền thừa kế điền trang đi kèm hoa lợi 30.000 bảng đồng niên, không hiểu sao ngài Farnleigh lại đi lo đến thảm kịch xảy ra mùa hè năm ngoái? Vụ giết người ấy đê tiện thật, song cũng như nhiều vụ khác mà thôi: Victoria Daly, bà cô ế chồng 35 tuổi, hiền lành chẳng gây hại đến ai, bị một gã lang thang chuyên bán dây giày và vòng cổ đột nhập vào nhà, siết cổ đến chết. Lạ là cô bị siết bằng dây giày, còn ví của cô được tìm thấy trong túi gã lang thang, lúc hắn bị xe lửa chẹt.
Bầu im lặng bao trùm. Page và Molly Farnleigh đang nhìn nhau thì cửa phòng bật mở. Knowles bước vào, vẻ mặt hoang mang chẳng kém những người bên trong.
“Có hai ông xin vào gặp ngài,” quản gia thông báo. “Một là luật sư Welkyn, người kia…”
“Người kia là ai?”
“Người kia nhờ tôi cáo lại ông ấy là ngài John Farnleigh.” “Thế à? Ái chà…”
Molly lặng lẽ đứng lên, hàm nàng mím lại, khiến cơ nổi rõ.
“Hãy truyền đạt lại thông điệp của ngài John Farnleigh,” nàng lệnh cho Knowles. “Ngài gửi lời thăm, nhưng nếu kẻ kia không xưng danh thật, hắn không được vào nhà, mà phải đợi tại sảnh dành cho gia nhân. Khi nào ngài John có thời giờ thì sẽ tiếp.”
“Nào, nào!” Burrows lắp bắp trong nỗi thống khổ pháp lí. “Tình huống phiền phức đây… cần phải xử trí khéo léo… Ghét hắn thế nào thì ghét… nhưng đừng…”
Nụ cười thoáng phảng qua khuôn mặt ngăm ngăm của Farnleigh.
“Knowles, bác nghe rồi đấy,” ngài nói. “Cứ truyền đạt đúng như thế.” “Trơ tráo!” Molly thở mạnh.
Khi Knowles quay về, già không còn phong thái của người đưa tin, mà giống như quả banh quần vợt dễ nảy, hết bị đập qua góc này lại đánh sang góc khác.
“Vị khách bảo rằng, thưa ngài, ông ấy xin lỗi sâu sắc vì những lời lúc trước. Những lời ấy nói ra hơi sớm quá, hi vọng ngài không phiền. Ông ấy cho biết từ vài năm nay đã lấy tên là Patrick Gore.”
“Biết rồi,” Farnleigh nói. “Bác hãy dẫn hai ông Gore và Welkyn vào thư viện.”
III
MỘT BÊN TƯỜNG THƯ VIỆN làm toàn bằng cửa sổ, với hàng dãy ô kính, ô này kế sát ô kia, lắp bên trong những khung đá hình trái xoan. Mặc dù vậy, khung cảnh vẫn tối tăm, vì ánh dương sắp tàn, những hàng cây nặng nề phủ bóng. Dưới sàn phòng, thảm trải không khắp, để lộ ra nền nhà lát đá. Dọc theo bức vách, những kệ sách to nặng san sát đứng kề nhau, nom như tầng bậc trong hầm mộ. Chút nắng tàn chiếu ánh sáng xanh qua cửa, bóng từng ô kính in trên nền, trải dài đến bên bàn, nơi nguyên cáo đang rời ghế đứng lên.
Molly sau này thú nhận: Lúc cánh cửa mở, tim nàng nhảy khỏi lồng ngực, tự hỏi kẻ đứng đằng sau liệu có giống chồng mình như khuôn đúc hay chăng. Hóa ra, hai bên chả giống gì nhau lắm.
Kẻ ấy cũng cỡ Farnleigh, song người không đanh bằng. Tóc y đen mượt, chưa bạc, nhưng hơi hói trên đỉnh. Da y ngăm, mày râu nhẵn nhụi, mặt còn căng, tương đối không nếp nhăn. Cặp mắt y xám đen, lông mày phía cuối hơi xếch. Từ y toát ra một vẻ ung dung, châm biếm, như đang thích thú một điều gì. Khi nếp nhăn xuất hiện trên trán, hay quanh mắt y,
đấy là biểu hiệu thích thú hơn là căng thẳng. Y ăn vận lịch sự, theo lối thành thị, tương phản với bộ đồ vải tuýt cũ kĩ của Farnleigh.
“Xin ngài thứ lỗi,” y lên tiếng.
Ngay giọng nói cũng khác. Y nói giọng trung, còn Farnleigh giọng cao, nghe chói và gắt. Dáng đi của y không đến nỗi khập khiễng, nhưng hơi lóng ngóng.
“Xin ngài thứ lỗi,” tuy nói rất trịnh trọng, y nhìn xéo kiểu châm biếm, “thứ lỗi cho tôi vì cứ nhất quyết đòi về nhà cũ. Tôi có nguyên do của tôi, rất mong ngài hiểu. Xin giới thiệu vị đại diện pháp lí bên phía tôi, ông Welkyn.”
Welkyn, một lão béo, mắt hơi lồi, từ trước đã đứng lên phía bên kia bàn, song không ai để ý. Nguyên cáo nói xong thì ra vẻ thú vị ngắm nghía mọi người. Y nhìn khắp phòng, như thể nhận ra, muốn nuốt lấy từng kỉ vật ngày xưa.
“Vào thẳng công việc nhé,” Farnleigh nhanh chóng đề nghị. “Burrows chắc ông từng gặp rồi. Đây là ông Page, còn kia là vợ tôi.”
“Tôi từng…” nguyên cáo ngần ngừ giây lát, đoạn nhìn thẳng Molly, “gặp vợ ngài. Mạn phép ngài, tôi không biết phải gọi bà ấy thế nào. Không thể gọi phu nhân Farnleigh. Gọi Molly như ngày xưa, khi nàng còn cài nơ trên tóc, cũng không được.”
Vợ chồng chủ nhân không nói gì. Dẫu vẫn bình tĩnh, mặt Molly ửng hồng. Mắt nàng thoáng lộ vẻ căng thẳng.
“Ngoài ra,” nguyên cáo tiếp lời, “còn phải cảm ơn ngài. Việc khó xử, khó chịu thế này, nhưng ngài tiếp nhận thật là nhã nhặn.”
“Không đâu,” Farnleigh đốp chát. “Cái việc quỷ này làm tôi điên lắm chứ, chắc ông cũng thừa hiểu. Nếu luật sư không bảo cần xử trí cho khéo, tôi đã tống ông khỏi nhà từ lâu. Được rồi, nói đi. Ông có gì để nói nào?”
Welkyn bước khỏi bàn, hắng giọng lấy hơi. “Thân chủ tôi ngài John Farnleigh…” lão bắt đầu.
“Khoan đã!” Burrows nhẹ nhàng ngăn lại. “Cho phép tôi đề nghị, để cho thuận tiện, hãy gọi thân chủ ông bằng một tên khác. Ông ấy đã xưng danh Patrick Gore.”
Brian Page nghe có tiếng huýt nhẹ. Thế là búa rìu tư pháp đã bổ, các nhà giám định đã xắn tay áo lên, buổi nói chuyện được đẩy về cao trào.
“Nếu thế thì…” Welkyn đáp, “tôi sẽ gọi đơn giản là ‘thân chủ’ thôi. Như vậy ổn chứ?”
“Tuyệt.”
“Xin cảm ơn. Tôi có nơi đây,” Welkyn mở cặp, “bản đề xuất của thân chủ. Thân chủ tôi muốn chuyện gì cũng phải công bằng. Trước hết, cần chỉ ra rằng vị trang chủ hiện tại không có quyền hợp pháp đối với tước hiệu và
điền trang. Tuy vậy, thân chủ tôi thấu hiểu hoàn cảnh đưa đến sự giả mạo. Ông cũng thừa nhận trang chủ đã quản lí tài sản tốt, không những không làm tổn hại, mà còn đem thêm tiếng thơm cho dòng họ Farnleigh.
“Do đó, nếu trang chủ chịu rút lui thì chúng ta sẽ không cần ra tòa, không cần khởi kiện gì cả. Thậm chí, thân chủ tôi còn chấp nhận đền bù về tài chính cho trang chủ: Mỗi năm 1.000 bảng cho tới trọn đời. Thân chủ tôi cũng xác định rằng vợ của trang chủ, nhũ danh Mary Bishop, có quyền thừa kế phần của mình. Vì vậy, không có vấn đề tranh chấp tài sản với bà ấy. Dĩ nhiên, nếu bà ấy muốn xét lại tính hợp pháp của hôn nhân thì…”
“Chúa ơi!” máu lại trào dưới mắt Farnleigh. “Lũ trắng trợn, mặt dày…”
Nathaniel Burrows làm tiếng động gì đó, quá lễ độ, chưa thể coi là tiếng xùy, nhưng cũng đủ khiến Farnleigh dừng lời.
“Thưa ông Welkyn,” Burrows nói, “theo tôi biết thì chúng ta gặp nhau ở đây để xác định nhân thân của thân chủ ông. Việc ấy chưa xong thì chưa thể bàn việc khác.”
“Xin chiều ý.” Welkyn khinh khỉnh nhún vai. “Thân chủ tôi chỉ muốn tránh việc khó xử. Trong vài phút nữa, ông Kennet Murray sẽ đến, kết quả sẽ rõ ràng, không còn nghi ngờ. Nếu trang chủ vẫn giữ thái độ ngoan cố, tôi e hậu quả sẽ là…”
“Thôi nào,” Farnleigh lại xen vô, “bớt nói dông dài, đến thẳng chỗ ngựa đi.”
“Mọi người thấy không? Nói ‘ngựa’ chứ không nói ‘ựa’. Đóng giả quý tộc riết rồi nhập tâm luôn”. Nguyên cáo nhận xét bông đùa đầy ẩn ý. Y mỉm cười, khiến hai mắt xích lại gần nhau.
“Ít nhất thì ảnh cũng không làm trò mạt hạng, sỉ nhục người khác.” Molly can thiệp.
“Tôi nói có điều không phải. Xin bà miễn chấp.” Nguyên cáo hơi đỏ mặt, đổi giọng. “Bà nhớ cho rằng tôi từng ở nơi xấu xa, bên cạnh đâu có suối Bồ Câu. Quý vị cho phép tôi tự mình trình bày sự việc chứ?”
“Được,” Farnleigh nói, rồi quay qua hai luật sư. “Hai ông giữ yên lặng, đây là vấn đề cá nhân.”
Không ai bảo ai, mọi người cùng trở lại bàn và ngồi xuống. Nguyên cáo quay lưng về phía cửa sổ lớn. Y trầm tư một lúc, lơ đãng giơ tay vỗ lên phần hơi hói trên đỉnh đầu. Rồi y ngước lên, mắt nheo lại vẻ nhạo báng.
“Tôi là John Farnleigh,” y giản dị mở lời, giọng điệu dường như chân thật. “Làm ơn đừng chơi trò pháp lí để ngắt lời tôi. Giờ là phần tôi trình bày, tôi muốn tự xưng Đại Hãn tộc Thát Đát cũng chẳng sao. Nhưng thật tình, chính tôi là John Farnleigh. Tôi sẽ kể hết cho quý vị nghe những
chuyện xảy ra.
“Hồi bé, tôi là một thằng lợn, mặc dầu bây giờ nhìn lại, chưa hẳn tôi đã sai. Người cha quá cố của tôi, Dudley Farnleigh, nếu bây giờ còn sống, chắc ổng với tôi vẫn hục hặc như trước. Không, tôi không sai đâu, nhưng lẽ ra tôi nên biết nhượng bộ, chịu thỏa hiệp hơn. Tôi cãi nhau với các bậc trưởng thượng, vì họ chỉ ra tôi còn bé dại. Tôi cãi nhau với các thầy, bởi coi thường những môn mình không thích.
“Vào thẳng vấn đề, quý vị đã biết vì sao tôi rời quê. Tôi đi cùng thầy Murray trên con tàu Titanic. Ngay từ ngày đầu, hễ có thể là tôi chui xuống ngồi với các hành khách đi vé hạng bét. Chả phải thích thú gì họ, chẳng qua tôi không ưa đám cùng đẳng cấp với mình nơi khoang hạng nhất. Nói đây không phải để bào chữa, chỉ là một lí giải tâm lí mà có lẽ quý vị cũng thấy hợp tình.
“Tại khoang hạng bét, tôi gặp, và cảm thấy thích một cậu bé mang hai dòng máu Anh và Romania, trạc cỡ tuổi tôi, đang trên đường đến Mỹ một mình. Bố nó là quý ông người Anh, chơi hoa xong thì quất ngựa truy phong. Mẹ nó là gái Romania, cũng ở Anh, nhậu nhẹt suốt ngày, khi nào tỉnh thì làm vũ công múa rắn, thành viên một đoàn xiếc lưu động. Rồi cũng đến ngày rắn thật không chịu chơi chung với rắn rượu, và bà ta mất việc, bị đẩy xuống làm đầu bếp bán thời gian trong lều xiếc hỗn độn. Đứa bé trở nên mối phiền toái. Một người hâm mộ cũ của mẹ nó lúc ấy đang làm ăn hơi khá khẩm với gánh xiếc ở Mỹ. Thế là bà ta khăn gói gửi nó cho người này.
“Nghe kể mà tôi ghen tị, cứ tưởng tượng đến một ngày nó sẽ được dạy cách chạy xe đạp trên dây, và đủ trò khác nữa. Thánh thần rồng rắn ơi, lúc đó tôi ghen với nó biết chừng nào! Liệu những người đầu óc bình thường có trách tôi không nhỉ?”
Nói đến đây, nguyên cáo hơi nhúc nhích trên ghế, nhìn về sau dường thoáng vẻ hoài nghi, song vẫn không giấu được nét tự mãn trên mặt. Không ai khác cử động. Lão Welkyn lịch thiệp đang định bình luận hay đề nghị điều chi đó, nhưng sau khi quan sát khắp mọi người thì lại thôi.
“Oái ăm là,” diễn giả nói tiếp, mắt nhìn xuống móng tay, “cậu bé cũng ganh với tôi. Tên thật của nó khó đọc lắm. Nó đổi tên thành Patrick Gore vì thích âm hưởng mấy chữ này. Nó không thích đời diễn xiếc, ghét các động tác, ghét sự đổi thay, ghét những xáo xào, huyên náo. Cọc lều vừa đóng xuống ban tối, đến sáng đã phải dỡ lên; đi ăn thì chen chúc, lãnh cùi chỏ vô mặt. Nó chán ngán cảnh ấy.
“Nó là một thằng ranh luôn giữ mặt lạnh, kín đáo và lịch thiệp; chẳng biết học được từ đâu. Lần đầu gặp gỡ, tôi và nó lao vô đánh nhau, cả nửa khoang phải xông vào can. Trong khi tôi cáu kỉnh đến độ muốn vớ dao bấm xử ngay nó, nó bình thản chào tôi rồi quay đi. Bây giờ tôi vẫn đang thấy nó đây. Bạn ơi, tôi muốn nói đến bạn đấy.”
Y nhìn lên Farnleigh.
“Không thể nào,” Farnleigh đưa tay vuốt trán, đột ngột lên tiếng, “không thể là thật. Quả là ác mộng. Nghiêm túc đấy à? Ông muốn nói…”
“Đúng thế,” người kia bật ngón tay quyết đoán. “Ta đã cùng bàn: Nếu đổi vai cho nhau thì thích biết bao. Dĩ nhiên, lúc đó chỉ là mộng mơ. Bạn nói không đổi được đâu, nhưng trông mặt bạn như đang muốn giết tôi để giành địa vị. Thật tình, tôi nói vậy chứ nào muốn đổi, chỉ bạn là muốn thôi.
Tôi từng kể cho bạn về bản thân. Tôi bảo ‘Nếu bạn gặp cô tớ, bà X hay anh họ tớ, thằng Y, thì phải nói với họ thế này này…’ Tôi còn ra oai với bạn đủ điều, mà bây giờ tôi chả muốn nhớ nữa: vì tôi không định biện hộ cho hành động của mình hồi xưa. Lúc đó cũng như bây giờ, tôi đều cho bạn là tên kẻ cắp. À, tôi cho bạn xem cả nhật kí. Tôi luôn viết nhật kí, đơn giản vì chẳng
có ai để nói chuyện cùng. Giờ tôi vẫn viết.”
“Nhớ tôi không, Patrick?” Nguyên cáo lại ngẩng lên, với ánh nhìn gần như kì quái. “Bạn có nhớ cái đêm tàu Titanic bị chìm?”
Bốn bề yên tĩnh.
Khuôn mặt Farnleigh không lộ vẻ giận, mà chỉ bối rối.
“Đã nói rồi,” ngài bảo, “ông là đồ điên.”
“Khi tàu đâm vào băng,” nguyên cáo kể chi tiết, “tôi sẽ kể cụ thể các vị nghe tôi làm gì. Tôi và Murray già tội nghiệp ở chung buồng, nhưng chỉ mình tôi trong buồng, còn Murray đang chơi bài ở phòng hút thuốc. Trong túi áo khoác của Murray có ve rượu brandy. Tôi vớ uống thử, vì ngoài quầy, đời nào họ chịu bán cho.
“Lúc va chạm, tôi hầu như không cảm thấy gì. Chắc mọi người cũng vậy. Chỉ rung rất nhẹ, chẳng đủ làm li cocktail trên bàn sánh ra ngoài. Nhưng rồi động cơ đều dừng. Không hiểu sao lại dừng, tôi bước ra hành lang, chỉ nghe tiếng người ồn ào, ngày càng lớn và tiến tới gần. Một bà bỗng chạy ngang qua, la hét ầm ĩ, quấn ngang vai tấm mền màu xanh.”
Nguyên cáo ngưng nói. Từ đầu buổi đến giờ, mới thấy y tỏ ra do dự.
“Thảm kịch ngày xưa nhắc lại làm chi,” tay y cứ mở rồi lại nắm. “về tình huống lúc đấy, tôi chỉ nhắc lại thế này: Tôi không sợ chút nào, mà còn thích thú. Chúa tha thứ cho con, con chỉ là con nít mà thôi. Sở dĩ khoái, vì đó là điều lạ, khác hẳn những sự thông thường hằng ngày. Đời tôi luôn kiếm tìm cái bất thường như thế. Giữa cơn hưng phấn cao độ, tôi quyết định đồng ý đổi vai với Patrick Gore. Trong một phút, tôi bỗng tràn ngập quyết tâm. Còn Gore thì chắc nó suy tính đã lâu rồi.
“Tôi gặp Gore, tức là tôi gặp bạn đấy,” y cao giọng, lại nhìn gia chủ
chằm chằm, “tại boong B. Tất cả tài sản của bạn nằm trong cái túi rơm nho nhỏ. Bạn bảo tôi với giọng khá bình thản rằng tàu đang chìm, và chìm nhanh; nếu tôi thật sự muốn đổi thân phận, có thể làm ngay giữa cảnh hỗn loạn (Đương nhiên, còn phải chờ xem có sống sót được không). Tôi hỏi: ‘Còn Murray thì sao?’ Bạn nói dối Murray đã văng xuống biển chết. Tôi hứng chí muốn làm diễn viên xiếc đại tài, nên chúng ta đổi mọi thứ cho nhau: quần áo, giấy tờ, nhẫn đeo tay. Bạn cầm theo cả nhật kí của tôi.”
Farnleigh im không nói.
“Sau đấy,” nguyên cáo giữ nguyên giọng điệu, “trông bạn rất bảnh. Chúng ta cùng chạy ra chỗ xuồng cứu hộ. Bạn đã chôm được của nhân viên chiếc vồ bằng gỗ. Tôi vừa quay lưng, liền bị bạn cầm vồ quật vô sọ, không chỉ một lần, mà những ba lần cho chắc ăn.”
Farnleigh vẫn lặng câm. Molly đứng lên, song thấy chồng ra dấu, bèn ngồi lại như cũ.
“Cứ yên tâm,” nguyên cáo phẩy tay, như muốn phủi bụi khỏi bàn, “tôi không đến để kết tội bạn chuyện ấy. Hồi xưa bạn còn bé, và 25 năm đã qua rồi, dù rằng chẳng biết ngày nay đã lớn, bạn có thay đổi hay không. Bản thân tôi cũng bị coi là đứa chẳng ra gì. Có thể bạn khinh tôi, và cho rằng mình có lí do để làm như vậy. Nhưng tôi đã chấp nhận đổi vai cơ mà, đâu cần phải kĩ lưỡng thế chứ? Tôi là con chiên ghẻ của gia đình, song cũng không đến nỗi đen tối như bạn.
“Bây giờ, tôi kể bạn nghe phần còn lại. Nhờ số hên, tôi bị thương mà không chết, được đưa lên chiếc xuồng cuối cùng. Danh sách nạn nhân ban đầu không rõ ràng, và nước Mỹ lại quá rộng lớn, nên suốt một thời gian, tôi như sống trong bóng tối. Cả John Farnleigh lẫn Patrick Gore đều bị xem là mất tích. Tôi và bạn đều ngỡ nhau đã chết. Rồi Boris Yeldritch, ông chủ gánh xiếc, tìm tới. Ông chưa gặp bạn bao giờ, nhìn giấy tờ và vật tùy thân
thì tưởng tôi là Patrick Gore.
“Tôi vui vẻ đi theo gánh xiếc, tự nhủ lòng mình nếu mai mốt không thích nữa, chỉ việc tiết lộ thân phận cũ là xong; trải qua cơn chết đi sống lại, có lẽ sẽ được gia đình yêu thương hơn. Cứ nghĩ đến viễn cảnh ấy là tôi lại vui. Tôi ăn được ngủ được, vì đã có trong tay quân bài tủ để phòng hờ.”
“Thế,” Molly dường lộ vẻ thú vị, “ông có trở thành diễn viên đạp xe trên dây không?”
Nguyên cáo quay nhìn sang bên, cặp mắt xám đen ánh lên nét khoái trá ngầm, nom chẳng khác một cậu bé ma lanh. Y lại giơ tay xoa chỗ hói trên đầu.
“Không đâu. Mặc dù vừa diễn đã thành công, tôi lại làm trò khác. Trò gì thì chưa thể tiết lộ lúc này. Đó là bí mật tuyệt hảo của tôi. Vả lại, tôi không muốn kể quá chi tiết, kẻo lại nhàm tai bà.
“Quý vị tin tôi đi. Tôi luôn dự tính một ngày sẽ trở về quê cũ. Chà, con chiên ghẻ tưởng đã mồ yên, nay bỗng trở về kêu be be, mọi người hẳn sẽ kinh ngạc lắm. Tại Mỹ, tôi đã thành công. Thề có các thánh, tôi đã thành công. Ông anh Dudley mà thấy tôi như thế ắt phải tức nghẹn họng. Tuy nhiên, thứ gì tốt nhất thì ta chưa vội xài, mà thích để dành, nên có lần đã ghé Anh, nhưng tôi vẫn không tìm gặp ai. Tôi không hề biết thằng ‘John Farnleigh’ còn sống. Cứ tưởng là chết rồi, chứ đâu biết nó đang phơi phới ở Colorado.
“Khoảng sáu tháng trước, tình cờ mở tờ họa báo, tôi thấy đăng ảnh ngài John và phu nhân Farnleigh. Chắc quý vị cũng tưởng tượng được tôi ngạc nhiên chừng nào. Báo cho biết Dudley đã chết vì ngốn quá nhiều cá mút đá, quyền thừa kế được chuyển cho ‘người em’. Thoạt tiên, tôi nghĩ vì đường sá xa xôi, báo đưa tin bị nhầm, sau dò hỏi mới rõ ra sự thật.
“Ồ, quý vị biết đấy, tôi mới là người thừa kế cơ mà. Tôi còn trẻ, còn mạnh, nhưng không mang hận thù đâu. Chuyện cũ đã nhạt nhòa, một thế hệ mới đã lớn lên. Thằng nhỏ mất dạy dùng vồ đập tôi để giành địa vị, ngày xưa giữa tôi và nó từng sẻ chia nhiều kỉ niệm đẹp. Vả chăng nghe nói, giờ đây nó cũng là một công dân tốt. Hàng cây ngoài kia không đổi, song tôi đã đổi thay. Giữa căn nhà xưa, tôi thấy lạ lùng, sượng sạo. Rồi đây, sẽ phải đảm nhiệm chức vụ bảo trợ cho đội cric-kê hay hướng đạo sinh địa phương, chưa biết có làm tốt hay không. Song như quý vị cũng đã thấy, tôi khoái nói, khoái đọc diễn văn, nên chắc cuối cùng cũng ổn thôi.
“Vậy đó, Patrick Gore, bạn đã nghe đề xuất của tôi. Như vậy là rộng lượng lắm rồi. Tôi cảnh báo: Nếu mọi việc mà ra đến tòa, bạn không khỏi bị lột da đâu. Về phần quý vị, ai đã từng biết tôi, muốn hỏi gì xin cứ hỏi. Tôi cũng có một vài câu hỏi của riêng mình đây. Thách bạn Gore dám trả lời.”
Giọng nguyên cáo như mang sức mạnh thôi miên. Y ngừng đã lâu, căn phòng tối vẫn lặng yên. Mọi người đổ dồn nhìn về Farnleigh. Chủ nhân đứng lên, tay đặt trên bàn, ngắm nhìn vị khách. Khuôn mặt ngăm đen của ngài hiện lên vẻ lạ, thanh thản và nhẹ nhõm. Ngài đưa tay vuốt ria mép, gần như nở môt nụ cười.
Trông thấy nụ cười kia, Molly hít một hơi sâu.
“Anh muốn nói điều gì sao, John?” nàng hỏi.
“Ừ. Anh không biết tại sao hắn đem câu chuyện này đến đây, hoặc muốn kiếm chác cái gì. Những gì hắn nói, từ đầu đến đuôi, đều là giả cả.”
“Ngài định chiến à?” nguyên cáo tỏ vẻ quan tâm.
“Dĩ nhiên là chiến rồi, đồ lừa. Mày muốn chiến thế nào, tao cho thế ấy.”
Lão Welkyn hắng giọng thật to, định can thiệp, nhưng bị nguyên cáo can ngăn.
“Không, không,” y nói ung dung. “Đừng dính vô, Welkyn ạ. Luật sư các ông rất giỏi về các khoản ‘xét rằng’ hay ‘hành động cẩn trọng’, nhưng trong cuộc xung đột cá nhân kiểu này thì không có đất dụng võ đâu. Nói thật, tôi bắt đầu khoái rồi đấy. Ta làm vài phép thử nhé. Phiền gia chủ cho mời quản gia vào có được không?”
“Nhưng Knowles đâu có…” Farnleigh cau mày.
“Thì cứ theo lời hắn đi anh!” Molly ngọt ngào.
Farnleigh nhìn nàng. Nếu trên đời có cái nghịch lí gọi là sự hài hước không hài, thì cái đấy thể hiện rõ trên khuôn mặt ngài. Ngài bấm chuông gọi Knowles, người bước vào với vẻ hoang mang y hệt lúc nãy. Nguyên cáo ngó Knowles đăm đăm.
“Vừa đến đây, tôi đã cho rằng tôi nhận ra ông,” y nói. “Ông ở đây từ hồi cha tôi còn sống phải không?”
“Gì ạ, thưa ngài?”
“Ông ở đây từ hồi cha tôi, ngài Dudley Farnleigh, còn sống, có phải không?”
Farnleigh bỗng lộ nét căm phẫn.
“Cứ thế này không lợi cho ông đâu,” Nathaniel Burrows thình lình chen ngang. “Thời ngài Dudley Farnleigh, quản gia là Stenson, ổng đã qua đời…”
“Vâng, tôi biết chứ,” nguyên cáo đảo mắt sang bên, đoạn lại nhìn viên quản gia. Y ngồi xuống chỗ cũ, bắt chéo chân một cách nặng nề. “Ông tên Knowles. Thời cha tôi, ông ở Frettenden, làm quản gia cho vị đại tá già
Mardale. Ông lén nuôi hai con thỏ mà đại tá không biết. Hai con thỏ ở trong một góc nhà xe, gần vườn cây. Một con tên là Billy.” Chợt y ngước mắt lên: “Hãy hỏi chủ ông con kia tên gì?”
Mặt Knowles chuyển sang hồng.
“Hỏi đi chứ?”
“Mẹ!” Farnleigh nổi cáu, song vội trấn tĩnh ngay.
“Ồ, không trả lời được hả?”
“Tao không thèm trả lời.”
Đáp xong, thấy sáu cặp mắt dồn vào mình, Farnleigh cảm nhận sức ép, liền đổi thái độ, gần như lắp bắp: “25 năm rồi, ai mà nhớ tên con thỏ? Được rồi, được rồi, coi nào. Tên chúng nó vớ vẩn lắm thì phải. Để nghĩ đã. Billy và W… à, không đúng. Billy và Silly, đúng không? Hình như thế.”
“Đúng rồi, thưa ngài,” Knowles nhẹ nhõm trả lời.
“Thử lại nào.” Nguyên cáo không biến sắc. “Một tối mùa hè, một năm trước khi tôi đi, ông băng ngang vườn cây để đưa tin cho hàng xóm. Ông kinh ngạc, choáng váng khi thấy tôi đang ân ái với một cô bé độ 12, 13 tuổi. Hỏi chủ ông xem cô bé tên gì?”
“Tôi chẳng nhớ chuyện đó.” Farnleigh sầm mặt nặng nề.
“Ngài đang giả bộ vì lịch sự nên không nói ra ư? Không, bạn ơi, làm trò đó không xong đâu. Chuyện xảy ra lâu rồi, tôi lấy lời danh dự bảo đảm không ai bị tổn thương. Knowles, ông nhớ chuyện vườn táo chứ?”
“Thưa ngài,” Knowles nhăn nhó, “tôi…”
“Ông nhớ, nhưng chủ ông thì không, vì nếu không nhầm thì tôi đã
không ghi chuyện đó trong nhật kí. Nào, cô ấy tên gì?”
“Thôi được,” Farnleigh gật đầu, cố gắng nhẹ giọng, “đó là cô Dane, Madeline Dane.”
“Madeline Dane…” Molly thốt lên.
Lần này nguyên cáo mới giật mình. Y đảo mắt nhìn quanh. Trực giác của y dường như cũng ứng biến theo.
“Ắt hẳn cô ấy đã viết thư đến Mỹ cho ngài,” Y nói. “Lần này phải đi sâu hơn. Nhưng trước tiên, mong ngài bỏ quá cho. Hi vọng tôi không vừa làm điều dại dột chứ? Nếu cô Dane vẫn sống ở đây thì tôi đã làm ngài khó xử mất rồi?”
“Mẹ mày,” Farnleigh chợt quát, “Tao chịu đủ rồi, không nhịn được nữa đâu nhé. Làm ơn cút ra khỏi đây đi.”
“Không, tôi phải vạch mặt trò phỉnh của bạn đã. Chỉ là trò phỉnh bạn ơi, bản thân bạn cũng biết. Thêm nữa, chúng ta đã đồng ý đợi Kennet Murray tới mà.”
“Murray tới đây…” Farnleigh cố gắng nói cho mạch lạc, “thì giải quyết được điều gì? Có chứng minh được gì không, ngoài những câu hỏi vớ vẩn mà chúng ta dường như đều biết câu trả lời? Mà thật ra nãy giờ mày chỉ bịp chứ biết gì đâu. Tao cũng có thể hỏi những câu nhảm nhí như mày, nhưng nó chả nói lên điều chi cả. Bằng cách nào chứng minh một việc thế này? Mày nghĩ mày có thể chứng minh à?”
Nguyên cáo ngồi lùi về sau, khoan khoái tận hưởng vị trí của mình. “Bằng chứng cứ vân tay không thể chối cãi,” y nói.
IV
CHỨNG CỨ VỀ DẤU VÂN TAY, hình như nguyên cáo muốn giữ làm quân bài tẩy, đợi khi thích hợp mới tung ra, để rồi khoái trá ca trước khúc khải hoàn. Phải lộ bài quá sớm, khi kịch tích chưa lên đỉnh cao, có vẻ y hơi thất vọng. Song le, những người khác trong phòng không ai nghĩ mình đang xem kịch.
Brian Page nghe Burrows thở vào nặng nhọc, dường như hơi run. Burrows đứng bật lên, nói giọng gay gắt: “Tôi không được thông tin về chuyện này.”
“Thế ông có đoán được không?” Welkyn béo mỉm cười.
“Đoán điếc không phải việc của tôi. Tôi lặp lại, thưa ông: Tôi không được thông tin về chuyện này. Chưa ai cho tôi hay về vụ vân tay cả.”
“Chính thức mà nói, phía tôi cũng vậy thôi. Ông Murray có tiết lộ điều gì đâu. Tuy nhiên…” Welkyn ngọt ngào hỏi, “Chẳng lẽ trang chủ phải đợi ai bảo mới biết hay sao? Nếu ông ấy là John Farnleigh thật, thì hẳn phải nhớ rõ vào khoảng 1910,1911, mình đã được thầy Murray lấy dấu vân tay?”
“Tôi lặp lại, thưa ông…”
“Ông Burrows, tôi cũng lặp lại đây: Phía ông phải đợi bảo mới biết hay
sao? Trang chủ, ngài nói xem nào?”
Farnleigh như đã phong tỏa cảm xúc, gương mặt không hiện nét chi. Như thường lệ mỗi khi đang suy tính, ngài làm hai điều: Đi qua lại trong phòng, với những bước ngắn và nhanh; lấy móc chìa khóa ra khỏi túi, dùng ngón tay xoay nó vòng vòng.
“Ngài John?”
“Hở?”
“Ngài có nhớ điều ông Welkyn vừa đề cập không?” Burrows hỏi. “Thầy Murray có bao giờ lấy dấu vân tay của ngài?”
“À, chuyện ấy!” Farnleigh tỏ vẻ không chú tâm. “Tôi nhớ rồi. Trước thì quên mất. Nhưng lúc nãy nói chuyện với vợ tôi và với anh, tôi lại nhớ lại. Cứ ngờ ngợ, mang máng chẳng biết có đúng không, bây giờ mới nhẹ hẳn người. Đúng, thầy Murray có vân tay của tôi đấy.”
Nguyên cáo quay lại. Bộ điệu y không chỉ hơi kinh ngạc, mà còn có vẻ bàng hoàng, ngờ vực.
“Không giỡn chơi đâu nhé. Ý ngài là sẵn sàng thử dấu vân tay?”
“Thử chứ! Thử chứ!” Farnleigh lặp lại với vẻ hồ hởi dữ tợn. “Đó là cách tốt nhất còn gì. Mày cũng biết mày giả mạo mà. Ơn Chúa, nhớ rồi, nhớ hết từng chi tiết việc lấy dấu tay ngày xưa. Giờ thì mọi việc sẽ được giải quyết xong xuôi, và tao sẽ tống mày ra khỏi cửa.”
Hai kẻ kình địch cùng nhìn nhau.
Từ nãy đến giờ, Brian Page ra sức đánh giá hai bên, song cán cân sự thật không ngừng dao động. Bỏ qua một bên tình bạn và thành kiến, anh suy xét vấn đề, hòng xác định ngay gian. Vấn đề rất đơn giản. Nếu nguyên cáo, hay Patrick Gore như lúc đầu tự xưng danh, là kẻ gian phi, y quả mặt dày
mày dạn, mức độ ăn không nói có đạt đến thượng thừa. Còn nếu John Farnleigh mạo danh, ngài không chỉ là kẻ láu cá ẩn sau mặt nạ khù khờ, mà còn mang máu lạnh, có khi đến giết người cũng chẳng từ nan.
Im lặng một lúc, đoạn nguyên cáo có vẻ hứng thú trở lại.
“Bạn ơi,” y nói, “tôi thật ngưỡng mộ độ trâng tráo của bạn. Từ từ đã, không phải tôi gây chuyện cãi nhau, mà ngưỡng mộ thật. Mặt của bạn thật là trâng tráo, trơ như sắt, vững như đồng, Casanova còn phải kém xa. Tôi không ngạc nhiên khi bạn ‘quên’ chuyện lấy dấu tay, vì chuyện ấy xảy ra trước khi tôi viết nhật kí. Nhưng mà… bảo rằng quên thì… bảo rằng quên thì…”
“Làm sao chứ hả?”
“John Farnleigh không thể quên một việc như thế. Tôi là John Farnleigh, và chắc chắn tôi không quên. Kennet Murray là người duy nhất trên đời có thể gây ảnh hưởng lên tôi. Ổng giảng về dấu chân này, thuật hóa trang này, cách giấu xác này. Trời ơi, đặc biệt là vân tay, mốt khoa học thời thượng
khi ấy. Đương nhiên tôi biết,” nguyên cáo lên giọng, nhìn quanh cả nhóm, “ngài William Herschel đã sử dụng dấu vân tay từ thập niên 1850, khoảng 20 năm sau thì đến lượt bác sĩ Faulds. Thế nhưng tại Anh, mãi đến 1905,
vân tay mới được chấp nhận là bằng chứng pháp lí. Dấu vậy, thái độ của thẩm phán vẫn còn mơ hồ. Phải mất thêm nhiều năm tranh luận, thiên hạ mới tin tưởng vào nó. Chà, thế mà khi nghe đến bài sát hạch của Murray, ngài chủ nhân lại không nghĩ ngay đến dấu tay.”
“Mày nói nhiều quá đấy.” vẻ nguy hiểm, cáu kỉnh lại trở về trên mặt Farnleigh.
“Hiển nhiên. Đã quên nhưng bây giờ lại nhớ hả? Thế thì xin ngài cho biết: Vân tay được lấy khi nào, và bằng cách nào?”
“Bằng cách nào?”
“Ở dạng nào ấy?”
“Trên mảnh thủy tinh,” Farnleigh suy nghĩ rồi đáp.
“Nói xàm. Nó được lưu trong Sách Dấu Tay, một thứ đồ chơi phổ biến thời đó. Cuốn sách nho nhỏ màu xám. Murray có cả vân tay của cha mẹ tôi và nhiều người nữa. Xin được của ai thì ổng xin tất.”
“Từ từ, hượm đã. Đúng là có cuốn sách. Tôi và thầy Murray ngồi ở cửa sổ kia..
“Giờ thì nhớ rồi ư?”
“Này này,” Farnleigh trầm giọng, “Mày nghĩ tao là ai? Tao đâu phải cái thằng ngồi trong rạp, đợi người ta hỏi rồi đáp ngay Đại Hiến Chương có bao nhiêu khoản, hay ngựa nào về nhì trong cuộc đua năm 1882. Mày làm như tao là nó hả? Đời có lắm thứ nên quên thì tốt hơn. Con người ai cũng thay đổi, tao bảo cho mà biết.”
“Nhưng không thể đổi bản chất như ngài tự nhận. Không ai đảo ngược được cái tâm mình, vấn đề là đấy đấy.”
Lão Welkyn từ nãy ngồi ục ịch không nói, cặp mắt xanh lồi lộ ánh tự đắc, nay bỗng giơ tay lên:
“Quý vị, quý vị… Xin mạn phép… cần gì phải tranh cãi như vậy? Chỉ trong chốc lát thôi, mọi sự sẽ rõ ngay mà…”
“Tôi tái khẳng định,” Nathaniel Burrows cắt ngang, “vì không được báo trước về việc dấu vân tay, để bảo vệ quyền lợi của ngài John Farnleigh, tôi…”
“Ông Burrows,” nguyên cáo bình tĩnh, “Ngay khi chúng tôi không nói, ông cũng phải đoán được chứ. Tôi đồ rằng từ đầu ông đã đoán được, nên
mới để yên cho bên tôi. Ông đang muốn giữ thể diện cho cả hai bên, bất kể thân chủ ông có phải kẻ gian hay không. Tốt nhất ông nên đứng về phía chúng tôi luôn đi.”
Farnleigh chợt dừng. Ngài tung móc khóa lên không, khi nó rơi xuống thì xòe lòng bàn tay đỡ, và nắm chặt lại.
“Hắn nói có đúng không?” Ngài hỏi Burrows.
“Thưa ngài, nếu như đúng thì tôi đã hành xử khác rồi. Tuy vậy, nhiệm vụ của tôi là phải điều tra…”
“Không sao. Tôi chỉ muốn biết thái độ bạn mình thế nào. Chẳng cần nói nhiều làm chi. Kí ức của tôi có chuyện hay lẫn chuyện buồn, có cả chuyện khiến tôi trằn trọc không ngủ được. Tất cả tôi sẽ giữ cho bản thân. Cứ đem dấu vân tay đến đây, cứ đợi mà coi. Giờ này sao chưa thấy Murray? Ông ấy ở đâu rồi?”
Nhìn nguyên cáo lúc này, có thể thấy nét khoái trá đầy tà khí, như thể đang mưu tính điều gở.
“Nếu sự việc diễn tiến theo khuôn mẫu,” y trả lời đầy ý vị, “Murray hiện đã chết, thi thể nằm dưới đáy ao. Ngoài vườn có cái ao mà, đúng không? Nhưng nói nghiêm chỉnh hơn thì tôi nghĩ ông ấy đang trên đường đến đây. Thêm nữa, tôi chẳng muốn gợi ý cho ai đó hành động đâu.”
“Gợi ý?” Farnleigh hỏi.
“Ừ, như bạn đã làm lần trước ấy. Đập vồ rồi sống phủ phê.”
Lời y tạo nên bầu không khí ớn lạnh, bức bối trong phòng. Giọng Farnleigh lên cao và gay gắt. Ngài giơ tay lên, rồi chà mạnh vào hông chiếc áo khoác vải tuýt cũ, như để tự kiềm chế bản thân. Đối phương thật tài, đã chọn đúng những lời khiến Farnleigh chạm nọc.
“Có ai tin lời nó không?” ngài vươn cổ hét, chiếc cổ dài như càng dài hơn, “Molly, Page, Burrows, có ai tin không?”
“Chẳng ai tin,” Molly đáp, mắt nhìn thẳng. “Hắn đang cố khiêu khích anh mà, sao anh ngờ nghệch rơi vào bẫy vậy?”
“Cả bà nữa ư?” nguyên cáo quay sang nhìn nàng với vẻ quan tâm.
“Cả tôi làm sao?” Molly hỏi, đoạn tự nổi cáu với chính mình. “Xin lỗi vì to tiếng, nhưng ông biết tôi muốn nói gì.”
“Bà tin tưởng chồng bà là John Farnleigh chứ?”
“Không tin, mà tôi biết.”
“Bằng cách nào?”
“Thì chỉ bằng trực giác phụ nữ thôi,” Molly điềm tĩnh. “Tự nhiên như thế, tự tôi cảm nhận được nó đúng, nó hợp lẽ. Khi vừa gặp lại anh ấy, tôi đã biết ngay. Đương nhiên, tôi sẵn sàng lắng nghe lí trí, nhưng phải là thứ lí trí đúng đắn, hợp lí.”
“Cho tôi hỏi, bà có yêu chồng không?”
Làn da rám nắng của Molly ửng hồng, song nàng vẫn trả lời thẳng thắn như thường lệ. “Ừ, thì cứ cho là tôi có cảm tình với ảnh.”
“Đúng thế, đúng thế! Bà có cảm tình với chồng, và sẽ mãi có cảm tình. Bà hòa hợp với chồng, và sẽ mãi hòa hợp. Có điều, bà không yêu ông ta, không đổ vì ông ta. Người bà yêu là tôi. Nói đúng hơn, từ thời thơ ấu, bà lưu giữ và yêu thương cái ảo ảnh của tôi, và ảo ảnh ấy như hào quang tỏa quanh kẻ giả mạo khi hắn xuất hiện…”
“Quý vị, thưa quý vị!” Welkyn la lên, như MC đang phải giữ trật tự trong buổi tiệc hỗn loạn. Trông lão có vẻ choáng.
Để giảm căng thẳng, Brian Page lên tiếng theo kiểu bông đùa. “Nào mọi người, câu chuyện đi quá xa rồi đấy. Burrows, giờ giải quyết chuyện cù nhầy này sao đây?”
“Tôi chỉ biết rằng trong nửa giờ vừa qua, chúng ta liên tục làm khó nhau,” Burrows vẻ lạnh lùng, “và đi lạc khỏi chủ đề chính.”
“Có lạc đâu,” nguyên cáo vội trấn an, dường như thật lòng muốn hòa giải. “Hi vọng tôi không làm người nào phật ý thêm lần nữa. Nếu quý vị đi theo gánh xiếc như tôi, da quý vị sẽ dày hơn. Bây giờ, tôi đặt câu hỏi cho ông,” y nhìn thẳng Page. “Lời tôi nói về phu nhân đây không hợp lí sao? Hay ông cho rằng bà ấy quá nhỏ, không thể có tình cảm dành cho tôi, mà phải lớn hơn chút nữa, cỡ tuổi của cô Madaline Dane? Ý ông phải thế chăng?”
Molly bật cười.
“Không,” Page đáp. “Tôi không đồng tình không phản đối gì cả. Tôi chỉ nghĩ tới cái nghề nghiệp bí ẩn của ông.”
“Nghề nghiệp?”
“Thì cái trò lúc nãy ông úp mở, đã đem lại thành công ban đầu cho ông nơi rạp xiếc đấy. Ông là ai nhỉ? Thầy bói chăng? Nhà phân tâm học chăng? Chuyên gia về kí ức chăng? Ảo thuật gia chăng? Hay là tổng hợp tất cả? Tôi thấy cả bốn trong ông, và còn nhiều hơn thế nữa. Ông không thuộc về nơi đây, mà giống một ác ma chợt xuất hiện tại Kent, khuấy động mọi thứ, gây phiền toái cả cho tôi.”
“Thế ư? Cũng cần khuấy động các vị một chút chứ,” nguyên cáo dường hài lòng, “về nghề của tôi, có lẽ đúng là mỗi thứ một tí thật. Nhưng có một điều chắc chắn đúng không sai: Tôi là John Farnleigh.”
Cánh cửa đầu phòng lại mở. Knowles bước vào:
“Ông Kennet Murray đến gặp, thưa ngài.”
Ai nấy chợt im. Giữa hoàng hôn sắp tàn, một ánh nắng chói tìm đường xuyên qua được hàng cây, rọi vào cửa sổ. Nó làm rực căn phòng nặng nề, rồi phai dần thành một luồng sáng ấm, vừa đủ để mọi người trong thấy mặt mũi, hình hài nhau.
Trong ánh mộ dương buổi chiều giữa hạ, Kennet Murray đứng đó, hồi tưởng những kỉ niệm xưa. Người thầy cao, gầy, đi lại có vẻ khó khăn. Dù thông minh nhất hạng, thầy không thành công trong bất cứ việc gì, như định mệnh đã an bài. Chưa đầy 50, râu thầy đã bạc: những cọng râu ria được tỉa ngắn đến nỗi trông như gốc rạ. Như Burrows kể, Murray già đi, ốm hơn và cáu bẳn hơn, song tính tốt ngày xưa vẫn còn nhiều. Nó thể hiện trên khuôn mặt, khi thầy chầm chậm bước vào thư viện. Như nhiều người sống nơi miền nắng nóng, mắt thầy khi nhìn có hơi lác.
Đang đi, Murray ngừng lại, nhíu mắt như thể đang nhìn cuốn sách nào đó, rồi đứng thẳng lưng. Giữa hai vị đang tranh chấp điền trang, một người bỗng cảm thấy kí ức tràn về, nhớ lại những ngày xưa cũ, những cay đắng một thời với các thân nhân nay đã yên mồ. Với người ấy, Murray vẫn hệt thuở nào.
Murray ngắm nghía mọi người, vẫn giữ dáng điệu nhà giáo, thầy chau mày, ra vẻ băn khoăn, đoạn nghiêm mặt, đưa mắt nhìn vào khoảng giữa gia chủ và nguyên cáo.
“Nào, cậu John đâu?”
V
TRONG KHOẢNG VÀI GIÂY, hai bên không nói gì, chờ xem hành động của nhau. Thế rồi mỗi người ứng xử một kiểu. Farnleigh hơi nhún vai, như thể không thèm tranh cãi việc này, song cũng ra dấu, gật đầu, nở nụ cười gượng. Giọng Murray không mang sức mạnh gì, nhưng nguyên cáo sau khi ngần ngừ một thoáng, đã mở lời với thái độ ân cần kín đáo.
“Xin chào thầy Murray,” y nói.
Brian Page quá biết thái độ của học sinh đối với thầy giáo cũ. Anh cảm thấy cán cân sự thật đột ngột nghiêng về Farnleigh.
“Ờ, ai đó giới thiệu tôi đi chứ,” Murray nhìn quanh, nói giọng vui vẻ.
Đang tỏ vẻ hờ hững, Farnleigh phải đứng ra giới thiệu mọi người. Ai nấy đều ngầm chấp thuận, để Murray giữ vai “trưởng lão” trong phòng, mặc dù thầy trẻ hơn Welkyn nhiều. Phong thái Murray quả thật rất trưởng thượng, có hơi lơ đãng, song tinh anh và đáng tin. Thầy ngồi xuống đầu bàn, quay lưng lại hoàng hôn, trịnh trọng rút cặp kính “con cú”, gọng đồi mồi, đeo lên mắt để trông rõ từng nhân vật.
“Nếu bình thường gặp, không thể nhận ra cô Bishop hoặc ông Burrows,” thầy nói. “Ông Welkyn đây thì đã biết sơ. Lâu lắm rồi tôi mới
có được kì nghỉ thật sự, đều nhờ sự hào phóng của ông.”
Welkyn nghĩ đã đến phiên mình cầm trịch, đi thẳng vào vấn đề. Lão đắc ý lên tiếng.
“Đúng vậy. Thưa ông Murray, thân chủ tôi…”
“Ồ, từ từ, từ từ…” Murray hơi gắt. “Nói theo kiểu ngài Dudley ngày xưa: Cho tôi thở cái, rồi tôi bảo cho nghe.”
Thầy thở thật, hít sâu vài ba lần, đoạn nhìn quanh, trước khi chú mục vào hai nhân vật chính.
“Dính vào vụ này rắc rối to đây. Người ngoài chưa ai biết chứ?” “Thưa chưa,” Burrows đáp. “Chắc ông cũng chưa nói với ai?”
“Tôi đành nhận lỗi,” Murray nheo mày. “Tôi đã kể cho một người. Nhưng nếu nghe tên người ấy, chắc quý vị không phản đối. Đó là tiến sĩ Gideon Fell, bạn già của tôi, ngày xưa cũng từng dạy học. Ông hay làm
công tác điều tra, chắc quý vị từng nghe. Tôi gặp Fell khi ghé ngang London.”
“Nhân tiện, tôi xin báo trước,” Murray vẫn giữ vẻ hiền từ, nhưng cặp mắt lác màu xám bỗng sáng quắc, sinh động hẳn lên, “Có thể chính tiến sĩ Fell cũng sắp đến đây. Quý vị hẳn biết ngoài tôi ra, tại quán Bò Và Đồ Tể còn có một người hay tò mò, hỏi thăm các thứ?”
“Gã thám tử tư chứ gì?” Farnleigh hỏi liền, khiến nguyên cáo lộ vẻ ngạc nhiên.
“Ngài cũng tin thế à? Anh ta là thanh tra chính thức của Scotland Yard. Vụ này cũng do tiến sĩ Fell đầu têu đấy. Tiến sĩ bảo: Cách tốt nhất để che giấu thân phận thanh tra là hãy hành xử như một thám tử tư.” Tuy vẫn để mắt dè chừng, trông Murray hứng chí hẳn lên. “Ông giám đốc cảnh sát hạt
Kent đã báo Scotland Yard, nên họ đang quan tâm đến cái chết của cô Victoria Daly tại đây vào hè năm ngoái.”
Thật là tin giật gân!
Nathaniel Burrows có vẻ rối lên, làm một động tác gì đó rồi nói:
“Cô Daly bị một tên lang thang giết chết. Tên lang thang sau cũng chết, khi đang chạy trốn.”
“Hi vọng đúng như vậy. Tôi cũng chỉ nghe loáng thoáng lúc đang nói chuyện với tiến sĩ Fell về vụ nhập nhằng nhân thân này. Tiến sĩ khá quan tâm… Mà nào, cậu John…”
Giọng Murray lại trở nên sắc và đục (nếu từ “đục” có thể dùng diễn tả giọng nói). Ngay bầu không khí trong phòng dường như cũng hồi hộp chờ đợi. Nguyên cáo và Farnleigh cùng gật đầu. Page nhận thấy gia chủ hơi đổ mồ hôi trên trán.
“Làm nhanh cho xong có được không?” Farnleigh yêu cầu. “Chơi trò mèo vờn chuột mãi chẳng hay ho đâu, thầy Murray. Không hay gì, mà cũng chẳng phải phong cách của thầy. Nếu thầy có dấu vân tay thì đem ra đây, chúng ta cùng xem.”
Cặp mắt Murray mở to rồi thu hẹp lại, có vẻ bực mình.
Giọng thầy đĩnh đạc đầy vẻ chuyên nghiệp, pha thêm châm biếm: “Tôi giữ kín, để dành nó, té ra quý vị biết rồi. Xin cho tôi hỏi: Ai là người đoán được trước tiên tôi sẽ dùng cách này?”
“Em cho rằng vinh dự đó thuộc về em,” nguyên cáo vừa đáp vừa lướt mắt khắp phòng dò hỏi. “Bạn Patrick Gore bảo sau đó cũng nhớ ra, nhưng lại nói thầy dùng miếng thủy tinh để lấy vân tay.”
“Đúng thế còn gì.”
“Nói láo.” Nguyên cáo đột ngột đổi giọng, khiến Page nhận ra bên trong lớp vỏ tà đạo nhưng mềm mỏng, tính y cũng nóng nảy và bạo động.
“Thưa ông,” Murray đảo mắt lên xuống, “Tôi không có thói quen…”
Như trở về làm học trò bé dại, nguyên cáo có vẻ muốn thối lui, xin thầy tha lỗi. Nhưng rốt cuộc, y kịp kìm chế, mặt mày dãn ra, lấy lại bộ điệu nhạo báng thường lệ.
“Em lại nhớ khác, để em nhắc thầy nghe. Thầy lưu vân tay em trong Sách Dấu Tay. Thầy mua đến mấy cái như thế ở Tunbridge Wells. Trong cùng một ngày, thầy lấy vân tay của em và anh Dudley.”
“Không sai. Tôi có đem theo Sách Dấu Tay với đầy đủ vân tay đây.” Murray đồng ý, vỗ lên chiếc áo khoác thể thao đang mặc, chỗ túi ngực.
“Vậy em đúng, nó sai.”
Không khí quanh bàn bỗng dưng đổi khác.
“Nhưng mà,” Murray nói tiếp, vẻ không lưu tâm. “Những lần đầu tiên, tôi lại thí nghiệm trên mấy miếng thủy tinh nhỏ.”
Đến đây, giọng thầy lại càng sắc bén và bí hiểm hơn. “Thưa ông, vì ông là nguyên cáo đứng ra đòi quyền lợi, ông phải trả lời tôi một vài câu hỏi. Nếu ông thật là ngài John Farnleigh, thì có những điều chỉ ông và tôi biết với nhau thôi. Ngày ấy, ông đọc đủ loại sách. Ngài Dudley phải lập ra một bản kê, giới hạn các sách ông được phép đọc. Chắc ông cũng phải nhận ngài ấy sáng suốt. Mỗi lần xem xong sách, ông không bao giờ tiết lộ cảm xúc hay nhận định cho người khác hay. Chả là có lần ngài Dudley từng chế giễu ý tưởng của ông. Ngài ấy chả có ác ý gì, nhưng từ đó, dẫu có tra tấn, ông cũng không mở miệng nữa. Chỉ có với tôi là ông chia sẻ. Ông còn nhớ không?”
“Vẫn nhớ rất rõ,” nguyên cáo đáp.
“Vậy làm ơn nhắc lại cho tôi: Sách nào ông thích nhất, ấn tượng nhất?”
“Sẵn sàng,” nguyên cáo nhướng mắt lên. “Hễ cứ truyện Sherlock Holmes, truyện của Poe, truyện ma, truyện liên quan đến cướp biển, giết người, lâu đài cổ… là em thích. Tu viện và lò sưởi này, Bá tước Monte Cristo này, Bắt cóc này, Chuyện hai thành phố này…”
“Được rồi,” Murray chưa bị thuyết phục. “Vậy sách nào ông ghét nhất?”
“Các cuốn chết tiệt của Jane Austen và George Eliot, cùng loại sách giả nhân giả nghĩa dành cho học sinh, đề cao ‘thanh danh nhà trường’ hay đại loại thế. Bên cạnh đó là truyện loài vật, và sách hướng dẫn, dạy cách chế tạo hoặc vận hành đồ cơ khí. Xin nói thêm rằng: Ngay tới bây giờ, em vẫn giữ nguyên quan điểm ngày xưa.”
Brian Page bắt đầu cảm tình với nguyên cáo.
“Hãy nói qua chuyện các cô cậu nhỏ thời ấy,” Murray tiếp tục. “Chẳng hạn, bé Molly Bishop, tức phu nhân Farnleigh hiện tại. Nếu ông là John Farnleigh, ông còn nhớ mình từng đặt biệt danh cho cô bé là gì?”
“Con di-gan,” nguyên cáo đáp ngay.
“Vì sao?”
“Vì Molly da ngăm, lại hay chơi với mấy đứa nhóc di-gan cắm trại bên kia cánh rừng.”
Nói đoạn, y cười, ghé mắt ngó Molly đang giận dữ.
“Còn ông Burrows đây, ông đặt biệt danh là chi?”
“Uncas.”
“Lí do?”
“Vì khi chơi Điệp Viên hay các trò tương tự, nó có thể chui qua bụi cây mà không gây tiếng động.”
“Cảm ơn. Và giờ đến phiên ngài.” Murray quay sang bên, soi kĩ Farnleigh như thể gia chủ ăn vận không tề chỉnh. “Tôi không muốn ngài cho rằng tôi chơi trò mèo chuột. Trước khi lấy vân tay, tôi chỉ hỏi ngài một câu duy nhất. Vân tay sẽ là bằng chứng tối hậu, nhưng câu hỏi này cũng đủ cho tôi đi đến kết luận cho riêng mình. Câu hỏi như sau: Sách Đỏ Appin là gì?”
Thư viện đã gần tối mịt. Tuy hơi nóng vẫn còn, gió nhẹ bắt đầu thổi. Gió động cành cây, luồn vào phòng qua vài ô cửa sổ đang mở. Farnleigh gật đầu, nở nụ cười u ám, khó chịu. Ngài lấy cây bút chì vàng trong túi, xé giấy trong sổ, viết vài chữ lên, đoạn gập giấy lại, đẩy qua cho Murray.
“Thật ra em chẳng quan tâm đến nó,” ngài nói rồi hỏi lại. “Trả lời như thế có đúng chưa?”
“Rất đúng,” Murray gật gù, đoạn chuyển hướng qua nguyên cáo. “Thưa ông, phiền ông trả lời cùng câu hỏi.”
Lần đầu tiên, nguyên cáo tỏ vẻ hoang mang. Hết nhìn Farnleigh, y ngó Murray với nét mặt lạ lùng. Page không rõ nét mặt ấy nói lên điều chi. Không nói không rằng, nguyên cáo vẫy tay, ra hiệu cần viết. Nhận bút và sổ từ Farnleigh, y ghi hai, ba chữ, rồi cũng xé giấy, đưa nộp Murray.
“Bây giờ, thưa quý vị,” Murray đứng dậy, “đã đến lúc lấy vân tay. Tôi có đem theo cuốn Sách Dấu Tay, đã cũ lắm rồi. Còn đây là hộp mực và hai tấm thẻ trắng. Ai đó làm ơn bật đèn với.”
Molly bước tới, mở công tắc điện bên cạnh cửa. Trên trần thư viện có chiếc đèn chùm nhiều lớp, làm bằng hợp kim sắt. Thay vì nến như xưa,
trên đèn gắn nhiều bóng điện nhỏ. Chỉ có một số bóng hoạt động, nên tuy đèn bật mà phòng vẫn không sáng lắm. Tuy vậy, bóng tối cũng đã lùi xa. Ánh điện rọi ra cửa sổ rồi phản chiếu ngược lại, soi sáng những cuốn sách trên kệ cao, khiến chúng trông càng kì dị hơn.
Murray đặt dụng cụ lên bàn. Mọi người cùng nhìn vào Sách Dấu Tay, thấy nó là cuốn sách nhỏ, cũ xì, bìa bằng giấy xám lâu ngày đã sờn. Tựa sách in chữ đỏ, bên dưới là hình ngón tay cái to, cũng màu đỏ.
“Bạn già của tôi đấy,” Murray vỗ lên sách. “Thưa quý vị, khi lấy dấu, nếu lăn tay sẽ tốt hơn in phẳng. Tuy nhiên, tôi không đem con lăn, vì muốn dùng đúng phương pháp nguyên thủy. Có một dấu để so sánh thôi, nên tôi chỉ cần lấy vân từ ngón cái tay trái. Đây là khăn tay, một đầu tẩm benzen. Hãy dùng nó để lau mồ hôi tay. Rồi thì…”
Trong lúc Murray lấy vân tay, không hiểu tại sao, Page cảm thấy quả tim như nhảy khỏi lồng ngực. Không riêng mình anh, mọi người đều rơi vào trạng thái xúc động bất thường. Farnleigh nhất quyết xắn tay áo trước khi điểm chỉ, như thể sắp phải thử máu; nguyên cáo thì dùng khăn lau nhanh tay rồi mới nghiêng người in vân. Luật sư hai bên đều đứng há hốc mồm. Điều khiến Page ấn tượng nhất là hai nhân vật chính đều tỏ ra tự tin. Trong đầu anh chợt nảy một ý nghĩ lạ: Nếu như hai dấu tay y hệt như nhau thì sao?
Trường hợp hai dấu trùng nhau, theo Page nhớ, chỉ là một trên sáu mươi bốn ngàn triệu. Thế mà trước cuộc sát hạch, không ai nao núng, khóc than. Không ai…
Murray rút cây bút máy cũ, sột soạt ghi tên và đánh dấu dưới chân hai tấm thẻ mộc màu trắng. Thầy tỉ mỉ bôi mực lên, trong lúc Farnleigh và nguyên cáo chùi ngón tay.
“Thế nào?” Gia chủ hỏi.
“Nếu có thể, quý vị cho tôi làm việc riêng trong mười lăm phút. Xin thứ lỗi, nhưng tôi muốn ở một mình, bởi như ta đều rõ, đây là việc hệ trọng.”
“Thế ông… Ông không nói ngay được à?” Burrows chớp mắt.
“Ông ơi,” cả Murray cũng lộ nét bồn chồn, “ông nghĩ chỉ liếc sơ là đủ so sánh dấu tay sao? Đặc biệt, vân tay mẫu trong trường hợp này lại là của một cậu bé, lấy cách đây 25 năm, màu mực đã phai. Tuy vẫn kiểm chứng được, song phải làm rất kĩ lưỡng, 15 phút còn là ít đấy. Nửa tiếng thì sẽ chính xác hơn. Bây giờ để tôi làm việc được chưa?”
“Không ngoài dự kiến,” nguyên cáo cười khụt khịt. “Nhưng em báo trước thầy hay: Thầy đừng chơi dại. Đối phương lâm vào thế bí rồi, thầy sẽ bị giết cho xem. Không, đừng cáu với em. 25 năm trước, lẽ ra thầy nên hài lòng, tận hưởng vị trí và vai trò của mình.”
“Chuyện này chẳng có gì đáng cười.”
“Đúng vậy, có gì đáng cười đâu. Thầy ngồi đây trong căn phòng sáng đèn, với bức tường đầy cửa sổ trông ra khu vườn tối đen. Đằng sau tán lá, hàng cây, ai biết quỷ sứ đang thì thầm điều chi. Cần bảo trọng.”
“Ờ,” Murray nhếch miệng, nụ cười nhẹ tỏa từ ria mép tới râu hàm, “vậy tôi bảo trọng là được. Nếu cảm thấy lo thì cứ đứng ngoài cửa sổ nhìn tôi. Giờ tôi phải cáo lỗi quý vị.”
Sáu người kéo ra hành lang đứng nhìn nhau. Murray đóng cửa lại. Hành lang sáng đèn, dài và ấm cúng. Quản gia Knowles đứng đằng phòng ăn, nơi chái mới được xây thêm, dính liền với khu trung tâm căn nhà, như phần thân một chữ T ngược. Tuy mặt vẫn đỏ hồng, căng thẳng, Molly Farnleigh cố giữ giọng bình thản:
“Có lẽ tốt hơn nên ăn gì đó? Tôi đã bảo dọn bữa nguội. Cứ việc ăn như thường chứ có gì đâu.”
“Cám ơn bà,” Welkyn thấy nhẹ cả người. “Cho tôi xin bánh mì sandwich.”
“Cám ơn,” Burrows nói. “Tôi không thấy đói.”
“Cám ơn,” nguyên cáo cũng hòa dàn đồng ca. “Đòi ăn hay từ chối đều tệ như nhau, thôi thì để tôi đi làm điếu xì gà đen loại mạnh, rồi sẽ quay lại canh chừng, không cho ai hại Murray.”
Farnleigh im lặng. Ngay phía sau ngài là cánh cửa trổ ra vườn, chỗ kế bên cửa sổ thư viện. Ngài chăm chú nhìn khách khứa một lúc, đoạn mở cửa bước ra.
Chẳng mấy chốc, Page bị bỏ lại một mình. Vị khách duy nhất còn trong tầm mắt của anh là Welkyn, người đang hau háu xơi món sandwich cá trong căn phòng ăn nửa tỏ nửa mờ. Nhìn đồng hồ chỉ 9 giờ 20, Page lưỡng lự giây lâu, trước khi theo bước Farnleigh, đi vào khu vườn tối mờ, mát mẻ.
Khoảnh vườn hình chữ nhật, dài độ 25 thước, rộng độ 13, dường như tách biệt với thế giới bên ngoài. Một bên vườn giáp với chái mới căn nhà, bên kia bao bọc bởi giậu thủy tùng cao. Xuyên qua hàng cây dẻ gai, ánh đèn từ thư viện chiếu ra, tạo nên một bức tường sáng yếu ớt, mờ nhạt. Cũng như thư viện, phòng ăn được lắp cửa kính trông ra vườn. Ngay trên phòng ăn là ban công buồng ngủ.
Dựa theo ý tưởng của vua William Đệ Tam tại Hampton Court, một ngài Farnleigh sống hồi thế kỉ 18 đã cho trồng thủy tùng theo những đường góc cạnh, uốn éo chạy khắp vườn. Giữa các giậu cây là lối đi rải cát. Các giậu này cao ngang hông người, nom chẳng khác cái nền của mê cung. Bình
thường, tìm lối đi trong vườn không khó, song nếu ta khom xuống bên dưới bờ giậu, sẽ chẳng ai thấy ai. Quả là chỗ chơi trốn tìm lí tưởng, Page nhận xét.
Giữa vườn là một khoảng đất rộng, quanh đầy cây hồng. Chính giữa khoảng đất là cái hồ nhỏ, mang tính trang trí, thành hồ xây rất thấp. Ánh đèn hắt từ nhà ra, hội cùng ánh tà dương phía tây, tạo cho khu vực đầy hương hoa này một vẻ bí ẩn, ảo huyền. Nhưng không hiểu vì lí do gì, Page lại không thích vẻ ấy.
Lòng Page cảm thấy bồn chồn, khó chịu. Dĩ nhiên, khu vườn chỉ là vườn, với bờ giậu, bụi cây, với hoa và đất; bản thân nó chẳng khiến ta bất an. Chẳng qua tâm trí mọi người đều tập trung cao độ vào thư viện, vây quanh lấy nó như bướm đêm bám hộp đèn. Thật là vô lí khi cho rằng Murray sắp bị hại. Đâu ai lại xử trí vụ việc lộ liễu như vậy? Có điều, nguyên cáo như biết thuật thôi miên, lời y nói khiến nỗi sợ len lỏi vào từng người.
“Dù sao,” ý nghĩ trong Page suýt nữa bật thành tiếng, “cứ thử đi ngang cửa sổ xem thế nào.”
Anh đi ngang, nhưng chợt nhảy lùi, lầm bầm văng tục, nhận thấy một bóng người cũng đang nghiêng ngó. Không hiểu là ai, vì người đó vội thối lui sau hàng dẻ gai. Tuy nhiên, Page kịp thấy Murray ngồi tại bàn bên trong, quay lưng về cửa sổ, đang mở cuốn sách màu xám.
Rõ là nỗi sợ vu vơ!
Lại rảo bước về vườn mát, Page đi quanh hồ tròn, ngước nhìn ngôi sao độc nhất, sáng rỡ trên trời cao, phía trên cụm ống khói của chái nhà mới (Madeline Dane từng đặt cho sao ấy cái tên rất nên thơ). Xuyên qua mê cung giậu cây, anh đến cuối vườn, trong đầu nghĩ ngợi đủ điều hỗn tạp.
Farnleigh giả mạo, hay kẻ kia? Page không thể biết. Trong hai giờ qua, anh đã đổi ý biết bao lần, giờ đây phát chán, chẳng muốn đoán nữa. Rồi lại còn Madeline Dane. Tuy vô tình, tên cô cứ liên tục được nhắc đến trong cuộc đối thoại.
Nơi cuối vườn có băng ghế đá ẩn đằng sau tàng cây nguyệt quế. Page ngồi xuống, đốt một điếu thuốc. Ngẫm lại mọi điều, thành thực hết mức có thể, anh nhận ra mình bức bối, bất an một phần vì cái tên Madeline Dane liên tục vang lên. Madeline dáng thon, tóc vàng, quả đúng như họ Dane cô mang. Chính vì cô mà đầu óc Page ngổn ngang, cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh cũng thành ra lộn xộn. Nghĩ ngợi về cô suốt chẳng tốt cho anh chút nào, nó khiến anh dần trở nên một gã độc thân hay càu nhàu, cáu bẳn.
Vẳng nghe tiếng động từ khoảnh vườn đằng sau. Page nhảy dựng lên, quẳng cả Madeline lẫn chuyện hôn nhân ra khỏi đầu. Tiếng động không lớn, nhưng rõ ràng đến đáng sợ, phát xuất từ giậu cây thấp, tối tăm. Ấy là tiếng người mắc nghẹt, theo sau bằng tiếng kéo lê chân, tiếng vật thể bị quăng, và tiếng nước văng lên tung tóe.
Trong một thoáng, Page không muốn quay đầu, không muốn tin chuyện xấu vừa xảy ra. Nhưng rồi anh cũng quẳng tàn thuốc xuống, gí chân dập tắt, đoạn quay bước về căn nhà, đi nhanh gần như chạy. Đang cách nhà hơi xa, nên anh quẹo nhầm mất hai lần trong “mê lộ”. Ban đầu, tưởng như trong vườn không còn ai, song không mấy chốc, đã thấy bóng dáng cao cao của Burrows trờ tới, và ánh đèn pin huơ huơ trên bụi cây, chiếu thẳng mặt Page. Khi Page đến gần, đủ để nhìn rõ Burrows, sự mát mẻ và hương thơm của khu vườn như biến đâu hết sạch.
“Xảy ra chuyện rồi,” Burrows nói.
Page cảm thấy hơi buồn nôn.
“Không hiểu mày nói gì,” anh giả tảng, “sao lại xảy ra được?”
“Thì tao bảo mày, thế thôi,” Burrows mặt trắng bệch, khẩn khoản nài. “Lại đây mau, giúp tao kéo ổng lên. Ông nằm úp mặt giữa hồ. Không dám khẳng định, nhưng chắc là đã chết.”
Page nhìn theo hướng gã chỉ. Tuy không thấy cái hồ sau hàng giậu, anh trông rõ phía sau ngôi nhà. Phía trên thư viện, một phòng bật sáng đèn, già Knowles ló đầu ra cửa sổ. Molly Farnleigh thì đang đứng nơi ban công buồng ngủ.
“Nghe tao này,” Page khăng khăng, “ai dám đụng tới Murray? Không thể được. Quá vô lí. Mà Murray làm chi ngoài ao kia chứ?”
“Murray?” Burrows nhìn Page chằm chằm. “Murray gì? Tao có nói Murray đâu? Là Farnleigh mày ơi, John Farnleigh. Trước khi tao tới nơi, mọi chuyện đã xong rồi. E rằng đã quá trễ.”
VI
“NHƯNG ĐỨA QUÁI NÀO muốn giết Farnleigh?”
Page hỏi và cân nhắc trong đầu. Giả thuyết đầu tiên anh nghĩ tới: Đây là vụ giết người. Sau này, tuy có nghiêng về giả thuyết khác, anh vẫn nhớ rõ những suy nghĩ ban sơ. Nếu quả là giết người, hung thủ đã xếp đặt rất tài tình. Hắn chơi trò đánh lộn sòng, khiến bao nhiêu tai mắt tập trung cả vào Kennet Murray. Ngoài Murray, không ai trong nhà nghĩ về ai khác. Ngoài Murray, ai muốn đi đâu cứ đi, không ai quan tâm. Trong tình thế ấy, nếu muốn tấn công giấu mặt thật dễ như trở bàn tay, miễn đừng tấn công ông thầy.
“Giết Farnleigh?” Giọng Burrows lạ lẫm. “Mày nghĩ gì vậy? Tỉnh dậy, thôi đi, bình tĩnh đi theo tao nào.”
Giọng điệu như đang hướng dẫn cho xe lùi, gã sải những bước lêu nghêu dẫn đường. Đèn pin tỏa ánh sáng đều, song gã tắt nó đi khi chưa đến hồ, có lẽ vì trời chưa tối hẳn, hoặc vì gã không muốn thấy mọi việc quá rõ ràng.
Ngoài hồ đắp một lớp cát rộng chừng thước rưỡi. Trời vẫn sáng đủ để mờ mờ trông thấy hình dáng, mặt người. Đứng quay về cuối vườn thì thấy Farnleigh nằm úp sấp trong hồ, chân chạm mép thành, hơi nghiêng về phía
phải. Vì mực nước không sâu, thân hình ngài cứ nhấp nhô. Nước từ trong tràn qua thành hồ thấp tủn, dạt vào bãi cát. Nổi trên mặt nước, xung quanh Farnleigh là một chất gì sẫm màu. Burrows và Page không thấy rõ màu chi, cho đến khi chất ấy thấm lên những bông súng trắng gần bên thi thể.
Nước lại sánh trào khi Page cố kéo thi thể lên. Sau một phút, anh đứng dậy, muốn quên ngay đi điều mình vừa thấy.
“Không cứu được nữa,” anh nói. “Cổ bị cắt rồi.”
Chưa hết cơn choáng váng, song hai người đều giữ vẻ bình tĩnh. “Tao cũng đoán đã chết. Vậy là…”
“Là giết người. Hoặc…” Page bỗng đổi giọng, “tự tử.”
Họ nhìn nhau trong bóng hoàng hôn.
“Dù sao đi nữa,” Burrows phân tích, cố gắng hòa giải phần luật sư và phần người thường bên trong bản thân, “cũng phải kéo ổng lên. Theo lệ thì không được chạm vào bất cứ thứ gì, phải ngồi chờ cảnh sát, nhưng cứ để người nằm đó coi sao tiện. Vả lại, có xáo trộn thì hiện trường cũng đã xáo trộn rồi. Cùng kéo nhé?”
“Được.”
Bộ cánh của Farnleigh đã ngả màu đen và phình lên, dường như chứa cả tấn nước. Khó nhọc lăn gia chủ lên khỏi thành hồ, cả hai bị nước bắn ướt khắp người. Khung cảnh vườn đêm yên tĩnh, lãng mạn, phảng phất hương hồng, thật không thích hợp chút nào với thực tế đang diễn biến. Trong đầu Page lặp đi lặp lại một câu: Không thể nào! John Farnleigh đã chết mất rồi! Nhưng đồng thời, một ý nghĩ nảy ra, ngày càng rõ rệt hơn, khiến điều không thể dần trở nên có thể.
“Mày cho là tự tử à?” Burrows chùi tay. “Vậy cũng chẳng khá hơn bị
giết. Mày biết điều đó nghĩa là sao không? Là ổng vốn giả mạo. Ông cố gắng phỉnh phờ, tới đâu hay tới đó, hi vọng Murray không còn giữ dấu vân tay. Khi cuộc chơi đã xong, ổng không dám đối mặt sự thật. Vì vậy, ổng ra đây, đứng trên thành hồ, rồi…” Gã đưa tay ngang cổ.
Nghe khá hợp lí.
“Tao cũng e vậy,” Page đồng tình.
E vậy? E vậy? Nhưng Farnleigh chẳng từng là bạn mình sao? Nỡ nào lại cáo buộc bạn, khi bạn đã qua đời, không còn có thể biện minh? Nghĩ đến đó, Page cảm thấy bức bối, đau nhói trong lòng, vội lên tiếng hỏi lại:
“Hiện giờ mình chỉ nghĩ được như thế. Song còn thực tế thì thế nào, trời ơi, chuyện gì đã xảy ra? Mày có chính mắt thấy ổng tự tử không? Ổng đã làm gì?”
“Không, không chính mắt. Tao đi ra từ cửa chỗ hành lang. Cái đèn pin này,” Burrows mở rồi lại tắt đèn, sau đó cầm dựng nó lên, “tao lấy trong ngăn kéo tủ. Trời tối mắt tao yếu lắm. Lúc mở cửa, tao còn trông thấy Farnleigh. Rất mờ thôi, nhưng rõ ràng đang đứng ven hồ, quay lưng lại tao. Bỗng ổng làm gì đó, hay chuyển động một chút, tối quá không nhìn kĩ được. Chắc mày cũng nghe tiếng động. Tao thì nghe tiếng nước tóe lên, và ghê hơn nữa là tiếng người quẫy đạp. Chưa bao giờ thấy trước mắt một chuyện đáng sợ như thế.”
“Có ai ở đó với ổng không?”
“Không,” Burrows xòe bàn tay, lấy ngón ấn ấn lên trán, “nhưng cũng không chắc hoàn toàn, vì giậu cây cao tới tận hông, và…”
Nghe bạn cẩn trọng dùng chữ “không chắc hoàn toàn”, song Page chẳng có thời gian hỏi thêm. Từ phía nhà, đã nghe tiếng người, cùng tiếng chân thình thịch chạy ra.
“Mày là người có quyền ở đây,” anh nói nhanh. “Họ đang tới đấy. Đừng cho Molly biết. Lấy quyền luật sư kêu họ đi chỗ khác đi.”
Burrows hắng giọng hai, ba lần, như nhà hùng biện đang hồi hộp đợi giờ diễn thuyết. Vai gã thẳng đơ. Gã tiến lên, bật đèn pin chĩa về phía trước. Ánh đèn chiếu vào Molly, và Kennet Murray phía sau, song không soi sáng được mặt họ.
“Xin thứ lỗi,” giọng Burrows cao và sắc hơn thường lệ. “Quý vị đừng ra đây thì hơn. Ngài John vừa gặp tai nạn.”
“Đừng làm trò,” Molly gắt, đoạn dùng sức đẩy gã sang bên, chạy vào vùng tối bên hồ. Cũng may, nàng không chứng kiến toàn thể sự tình. Dù nàng cố nén thương đau, Page nghe tiếng gót chân quay ngược trở lại. Anh đưa tay đỡ vai Molly. Nàng dựa vào anh, hơi thở run run, ngắt quãng. Trong cơn thổn thức, nàng thốt lên: “Khốn kiếp, hắn đã đúng rồi!” Nghe thật lạ lùng.
Cứ theo ngữ điệu, “hắn” ở đây không thể chỉ người chồng. Nhưng giữa cơn bàng hoàng, Page không quan tâm mấy. Về phần Molly, dù trời đã tối om, nàng vẫn đưa tay che mặt, rảo bước quay về nhà.
“Cứ để bà ấy đi,” Murray nói. “Như thế tốt hơn.”
Chẳng như kì vọng, có vẻ Murray không đủ năng lực xử lí tình huống gay cấn như này. Thầy ngần ngừ mãi mới cầm lấy đèn pin từ tay Burrows, rọi lên thi thể bên hồ. Miệng thầy huýt một tiếng nho nhỏ, để lộ hàm răng giữa ria mép và râu hàm.
“Ông đã chứng thực được,” Page hỏi, “ngài John Farnleigh không phải John Farnleigh chưa?”
“Xin lỗi, tôi nghe không rõ.”
Page lặp lại câu trên.
“Chưa chứng được gì,” giọng Murray nặng nề. “Tôi đã so sánh xong đâu, chỉ vừa bắt đầu thôi.”
“Đến nước này rồi, chắc ông chẳng cần tiếp tục nữa,” Burrows thẽ thọt.
Quả vậy, nhìn vào thực tế và suy bằng lí lẽ, việc Farnleigh tự tử khá là hợp lí. Song Murray vẫn giữ vẻ lơ đãng, nhẹ gật đầu như thể không quan tâm tới vấn đề. Tay thầy vuốt râu, dường đang lần mò, tìm lại một kí ức trong dĩ vãng.
“Vụ việc không còn nhiều nghi vấn, phải không?” Page nóng lòng đặt câu hỏi. “Ông nghĩ ai là kẻ giả mạo?”
“Tôi chả vừa nói…” Murray cáu kỉnh.
“Tôi biết. Tôi chỉ hỏi về suy nghĩ của ông thôi mà. Sau khi nói chuyện với họ, hẳn ông cũng xác định được phần nào rồi chứ. Đây là điều tối quan trọng trong cả vụ mạo nhận lẫn vụ án mạng. Chúng ta có thể đồng ý với nhau Farnleigh đã tự sát. Nếu Farnleigh là kẻ gian phi, động cơ tự sát đã rõ. Nhưng liệu có khi nào ông ấy là người ngay…”
“Ông cho rằng như vậy?”
“Không, không, tôi chỉ hỏi thôi. Nếu ông ấy là John Farnleigh thật thì đâu có lí do gì phải cắt cổ. Hẳn phải là giả?”
“Chưa tìm hiểu kĩ lưỡng dữ kiện mà đã kết luận,” giọng Murray hơi khó chịu, “chỉ những người không có đầu óc khoa học thì mới…”
“Thôi được, tôi không hỏi nữa.”
“Ông hiểu nhầm rồi,” Murray phẩy tay theo điệu bộ nhà thôi miên, vẻ như bực bội vì cuộc tranh luận trở nên rối rắm. “Ông muốn gợi ý rằng: Nếu người nằm đây là John Farnleigh thật, ông ta không dại gì tự tử. Theo
đó, đây phải là vụ giết người. Nhưng này, thật thì sao mà giả thì sao? Tại sao lại phải giết ông ta? Nếu là giả, tại sao phải giết? Đã có luật pháp lo liệu. Nếu là thật, tại sao phải giết? Ông có làm hại ai đâu. Ông thấy không, tôi chỉ đơn giản xét cả hai khía cạnh vấn đề.”
“Chỉ tại lúc nãy tự dưng nhắc đến Scotland Yard và cô Victoria Daly tội nghiệp,” Burrows u ám. “Tôi luôn tự tin vào khả năng biện biệt của mình, nhưng thiệt tình, cái vụ này rối tinh rối mù. Có bao nhiêu thứ tôi đang cần tống khỏi đầu óc đây. Còn cái vườn chết tiệt này nữa, trước giờ tôi không ưa nó chút nào.”
“Mày cũng không ưa hả?” Page hỏi.
“Hượm nào.” Murray quan tâm nhìn cả hai. “Ông Burrows, sao ông không thích khu vườn? Có kỉ niệm gì không hay ư?”
“Không hẳn là kỉ niệm,” Burrows ấp úng. “Nếu như kể chuyện ma, kể tại vườn này chắc thiên hạ sợ gấp đôi. Tôi còn nhớ một chuyện về… nhưng thôi, việc ấy chả liên quan gì. Tôi cũng từng nghĩ rằng vườn này là nơi lí tưởng để gây rối. Gây chuyện lớn cơ, chứ chẳng phải cắt đi mấy hàng cây đâu. Ơ, mà nói mãi vẫn cứ ngoài đề. Chúng ta còn việc phải làm, đứng mãi đây nói chuyện làm chi?”
“À, còn cảnh sát nữa,” Murray phấn chấn đứng lên. “Vâng, rất nhiều điều thực tế phải làm đây. Cho phép tôi điều phối công việc nhé? Ông Burrows, xin đi cùng tôi. Ông Page, ông có vui lòng ở lại canh thi thể cho đến khi chúng tôi trở lại?”
“Sao phải thế?” Page cũng hỏi một cách thực tế.
“Theo lệ phải vậy mà. Rất, rất cần thiết đấy. Burrows, đưa đèn pin cho ông Page, rồi mình cùng đi. Hồi xưa tôi ở đây, điền trang chưa có điện thoại, bây giờ chắc có chứ? Tốt, tốt. Phải đi tìm bác sĩ nữa.”
Thầy hối hả quay đi, dắt theo Burrows, bỏ Page một mình bên hồ, cạnh thi thể John Farnleigh. Cơn choáng đã qua, Page đứng trong bóng tối, ngẫm lại từng diễn biến tấn bi kịch. Vụ này ngày càng vô dụng và rối rắm. Kẻ giả mạo tự tử thì dễ hiểu rồi. Nhưng sao Murray không tỏ thái độ? Sao ông không nói: “Đúng thế, hắn đã mạo danh. Tôi biết ngay từ đầu”? Nhìn cung cách Murray, dường như ông nghĩ như thế. Vậy sao không nói ra? Chỉ vì khoái làm bộ bí mật ư?
“Farnleigh! Farnleigh!” chợt Page kêu lớn.
“Gọi tớ đấy à?” Một giọng nói vang lên sát cạnh.
Giữa trời tối đen, lại nghe âm thanh bất ngờ, Page giật mình nhảy lui, suýt vấp nhằm xác chết. Màn đêm đã buông, không trông thấy đường nét, hình dáng chi nữa, chỉ nghe chân khua trên đường cát, rồi tiếng loẹt xoẹt của diêm. Ánh lửa nhá lên, soi sáng bàn tay khum khum che gió, rồi đến khuôn mặt của nguyên cáo, tức Patrick Gore hay John Farnleigh. Từ khoảng trống giữa giậu thủy tùng trông ra bên hồ, y nặng nề bước tới.
Tay nguyên cáo cầm nửa điếu xì gà đen mảnh đã dụi. Y đưa xì gà lên miệng, châm lửa hút tiếp, đoạn ngẩng nhìn, lặp lại câu hỏi:
“Gọi tớ đấy à?”
“Không,” Page giữ mặt nghiêm. “Nhưng ông trả lời cũng tốt. Ông biết chuyện xảy ra chưa?”
“Biết.”
“Nãy giờ ông ở đâu?”
“Đi vòng vòng.”
Ánh diêm lụi tắt. Page vẫn nghe rõ tiếng thở. Nguyên cáo chắc cũng đang run. Y lại gần hơn, hai tay chống nạnh, xì gà ánh nơi khóe miệng.
“Thằng lừa đáng thương,” y ngó xuống. “Nó có nhiều điểm đáng tôn trọng lắm chứ. Thật tiếc, tớ đã gây nên cớ sự. Nó chiếm điền sản, nhưng chắc bao năm qua cũng ăn năn, quay về với đức tin Thanh giáo của cha ông. Lẽ ra, nó có thể tiếp tục giả mạo, đóng vai điền chủ đạt hơn tớ nhiều. Chỉ là nó không có cái chất Farnleigh thật, nên rốt cuộc phải thế này đây.”
“Tự tử.”
“Hẳn rồi.” Nguyên cáo nhả thuốc, khói từ miệng y tỏa lên không trung, trông như ma đang hiện hình trong đêm. “Có lẽ Murray đã so sánh vân tay xong. Khi ấy cậu cũng có mặt, thử nói tớ nghe xem, cậu có nhận ra anh bạn quá cố này bị lòi đuôi, lộ mặt giả mạo vào lúc nào không?”
“Không.”
Page chợt nhận ra: Nguyên cáo run người vì nhẹ nhõm, chứ chưa chắc vì cảm xúc nào khác. Y nói vẻ phớt lạnh:
“Nếu không đặt câu hỏi bẫy, Murray đâu còn là Murray. Bản tính ổng vốn thế. Tớ vẫn biết Murray sẽ bẫy, nhưng lại lo lỡ quên khuấy điều gì, ổng hỏi thật mà nhầm là bẫy thì toi. Nhưng câu hỏi cuối cùng thì không nhầm được. Cậu nhớ không? Sách Đỏ Appin là gì?”
“Vâng, cả hai ông cùng viết lên giấy câu trả lời.”
“Làm gì có thứ ấy. Chẳng biết mồ ma địch thủ của tớ nó viết nhăng viết cuội, giải thích những gì. Murray lại còn giả vờ, ra vẻ trịnh trọng như con cú, bảo rằng nó trả lời đúng. Tuy ổng trấn an, chứ từ lúc đó, nó coi như đi đứt. Ôi, mọi chuyện chả ra làm sao…” nguyên cáo dừng lại, huơ xì gà theo hình dấu hỏi, rồi tiếp, “để xem xem, thằng quỷ tự tử ra sao? Làm ơn cho tớ mượn đèn pin.”
Page đưa đèn, đứng tránh sang bên, để nguyên cáo ngồi xuống săm soi. Y im lặng hồi lâu, thỉnh thoảng lầm bầm chi đó, đoạn đứng dậy, chầm
chậm bước đi, hết tắt lại mở công tắc đèn.
“Anh bạn,” giọng y đổi khác, “thế này thì chưa xong đâu.” “Điều gì chưa xong?”
“Vụ này. Tớ ghét phải nói ra, song tớ dám thề rằng nó không tự tử.”
(1–0 cho linh cảm, trực giác, hay cho ảnh hưởng của khu vườn dưới bóng hoàng hôn.)
“Lí do?”
“Cậu nhìn kĩ chưa? Chưa thì lại đây xem. Có phải nó tự cắt không? Tớ không biết, song tớ ngờ lắm. Tự cắt làm sao cắt được ba nhát, nhát nào cũng đứt mạch cổ? Một nhát thôi cũng đủ chết rồi. Đừng quên tớ vốn là dân diễn xiếc. Tớ chưa từng thấy chuyện gì giống vậy, kể từ khi Barney Poole, nhà xiếc thú số một vùng phía tây Mississippi, bị con báo vồ.”
Cơn gió đêm thổi vào mê lộ, làm lay động những cánh hồng nhung.
“Vậy thì hung khí ở đâu?” nguyên cáo chiếu đèn xuống mặt nước phủ sương. “Tớ cho rằng ở dưới hồ, nhưng tốt hơn đừng nên lội xuống. Vai trò cảnh sát đôi khi quan trọng hơn ta nghĩ đấy, cứ để cho họ lo. Có điều, vụ việc thế là chuyển biến theo hướng đáng ngại…”, y nói như đang phải nhượng bộ. “Ai đi giết thằng giả mạo làm gì?”
“Hay là người thừa kế thật?”
“Cậu vẫn chưa tin…” nguyên cáo ném cho Page cái nhìn sắc lạnh.
Cuộc đối thoại bị cắt ngang bởi tiếng chân hối hả nhưng khệnh khạng từ phía căn nhà. Nguyên cáo rọi đèn pin, thấy mặt luật sư Welkyn, người lúc nãy Page còn nhớ, đang đứng xơi sandwich cá nơi phòng ăn. Welkyn ra dáng sợ hãi, tay bấu chặt vạt trong của áo gi lê như sắp diễn giảng điều gì, song cuối cùng lại thôi.
“Xin mời hai ông,” lão nói. “Ông Murray cần gặp mọi người. Tôi hi vọng,” lão hung hiểm nhấn mạnh chữ “hi vọng”, trong khi nhìn xoáy vào nguyên cáo, “từ khi sự cố xảy ra, hai ông chưa vào trong nhà.”
“Đừng nói trong nhà cũng xảy ra chuyện chứ?” Patrick Gore hỏi vội.
“Cũng có chuyện rồi,” Welkyn xẵng giọng. “Dường như ai đó đã nhân lúc hỗn loạn, thừa cơ Murray đi ra để đột nhập thư viện, cuỗm mất cuốn Sách Dấu Tay chứa đựng bằng chứng duy nhất.”
Thứ năm, 30 tháng 7
Đời con người máy
Thế rồi bỗng chốc lặng yên. Moxon tái xuất, nở nụ cười xin lỗi:
“Bỏ quá cho tôi vì rời đi đột ngột. Cái máy trong ấy nó nổi điên, quậy phá tứ tung.”
Nhìn lên má trái ông, thấy hằn lên bốn vết xước song song rỉ máu, tôi hỏi:
“Thế sao không cắt móng tay cho nó đi?”
Ambrose Bierce, Chủ của Moxon
VII
TRƯA HÔM SAU, khi mưa ấm áp rơi, và mây đen phủ kín bầu trời thôn dã, Page lại ngồi tại bàn nơi phòng làm việc, trong đầu suy nghĩ những điều khác hẳn hôm qua.
Bước qua bước lại trước mặt anh, tiếng chân đều đều như tiếng mưa, là thanh tra Elliot.
Và chễm chệ trên chiếc ghế to nhất là tiến sĩ Gideon Fell.
Vừa đến Mallingford sáng nay, tiến sĩ thấy ngay đây là ca khó. Ngồi dựa ghế, ông thở nhẹ phì phò, tập trung nhìn vào góc bàn, không để ý đến vại bia rót sẵn để sát khuỷu tay. Mắt Fell đeo kính, dây kính to bản, màu đen. Ria mép ông để theo kiểu cướp biển, tua tủa như sẵn sàng tranh luận; mái tóc dày, ngả bạc, phủ xuống một bên tai. Trên một ghế khác cạnh bên, có chiếc mũ to vành, và cây can với tay cầm bằng ngà.
Giọng cười của Fell không sang sảng như mọi khi. Khuôn mặt ông vẫn đỏ au, đỏ hơn sức nóng mùa hè, song thiếu vắng vẻ vui tươi thường nhật. Đã nghe tả Fell là người cao lớn, dềnh dàng nhưng Page không nghĩ lại to béo thế này. Khi vừa bước vào, ông như choán cả căn phòng, giành hết chỗ của đồ vật bên trong.
Người dân Mallingford và Sloane chẳng thích gì tình cảnh hiện tại. Ai ai cũng thu mình, khiến sự im lìm gượng gạo bao trùm khu vực. Mọi người nay đã rõ: “Chuyên gia văn hóa dân gian” ở quán Bò Và Đồ Tể, không ai khác, chính là thanh tra thuộc Cục Điều tra Hình sự. Dẫu vậy, không ai bàn tán chi. Buổi sáng, khách hàng đến quán uống rượu đều thấp giọng thì thầm, và ra về sớm hơn thường lệ. Chỉ thế thôi! Quán rượu, hay gọi cho nhã là lữ quán, không còn chỗ cho tiến sĩ Fell, bởi hai phòng trọ đều đã có người. Page vui vẻ cho ông ở tạm nhà mình.
Ngoài tiến sĩ Fell, Page cũng mến viên thanh tra. Andrew MacAndrew Elliot trông không ra nhà dân gian học, cũng chẳng giống nhân viên Scotland Yard. Anh còn khá trẻ, điệu bộ nghiêm trang, người xương xương, tóc sáng màu. Elliot thích tranh luận, hay nói chuyện theo lối “tinh vi”, cái lối mà chánh thanh tra Hadley rất ghét. Hấp thụ nền giáo dục Scotland truyền thống, nên ngay các vấn đề nhỏ nhặt nhất, anh cũng xem xét thật tỉ mỉ. Giờ đây, trong cơn mưa hạ, anh đang đi lại giữa phòng, tìm cách diễn giải quan điểm của mình sao cho mạch lạc.
“Hừm hừm,” tiến sĩ Fell càu nhàu. “Đến giờ đã làm được những gì?”
“Ông giám đốc cảnh sát, tức đại úy Marchbanks, đã điện lên Scotland Yard hồi sáng, sau đó phủi tay khỏi trách nhiệm vụ này,” Elliot đáp. “Theo thông lệ, họ phải cử chánh tranh tra đến đây. Tuy nhiên, vì tôi hiện đang có mặt, và đang điều tra một vụ có thể có liên quan.
(Hẳn là vụ giết cô Victoria Daly,” Page nghĩ. “Nhưng liên quan như thế nào?)
“Tốt lắm,” tiến sĩ Fell nói. “Vậy là anh được giao nhiệm vụ.”
“Vâng, tôi được giao nhiệm vụ,” Elliot chống nắm tay đầy tàn nhang lên bàn, dựa cả thân hình vào nó. “Đây cũng là cơ hội mà tôi cần tận dụng,
chắc tiến sĩ cũng hiểu. Thế nhưng…” anh thở hắt ra, “sắp tới sẽ đầy những khó khăn. Muốn dòm ngó nội tình mà không sao dòm được. Dân địa phương khóa miệng chặt hơn khóa cửa sổ. Họ ngồi quán uống bia, chuyện gẫu như thường, nhưng ta khơi đề tài thì họ lảng đi hết. Với tầng lớp thượng lưu thì còn khó hơn nữa, ngay cả trước khi vụ này xảy ra.” (giọng thanh tra hơi khinh miệt khi nhắc hai chữ “thượng lưu”.)
“Ý anh là vụ kia cũng thế?” tiến sĩ Fell mở một mắt.
“Trong vụ kia, người duy nhất cung cấp thông tin hữu ích là Madeline Dane,” Elliot thận trọng nhấn mạnh. “Như cô Dane mới thật là phụ nữ. Trò chuyện với cổ thật vui, không như với mấy con mụ cứng quèo chuyên phà khói vào mặt người đối diện, vừa thấy tôi trình danh thiếp đã gọi ngay luật sư. Thật đấy, đàn bà phải như cô Dane! Xưa ở quê, tôi từng quen một người giống thế.”
Tiến sĩ Fell mở nốt con mắt còn lại, trong khi Elliot tỏ ra bối rối vì những điều vừa thốt. Những gì thanh tra nói, Page hiểu và tán đồng. Trong anh còn dâng lên một mối ghen vô căn cứ.
“Về vụ Farnleigh Close,” Elliot tiếp, “xin thưa tiến sĩ hay: Tôi đã lấy lời khai sơ bộ từ tất cả mọi người có mặt đêm qua, riêng các gia nhân thì chưa. Phải đi tìm mãi đấy. Ông Burrows ngủ lại điền trang, sẵn sàng gặp gỡ chúng ta, song nguyên cáo, tức Patrick Gore, cùng luật sư Welkyn đã trở về Maidstone.” Giữa chừng, anh quay nhìn Page. “Thưa ông, nghe nói có cãi nhau, tình hình khá căng thẳng sau khi dấu vân tay bị đánh cắp?”
“Rất căng thẳng sau vụ đánh cắp,” Page sôi nổi tường thuật. “Lạ lùng là tất cả, trừ Molly Farnleigh, ai cũng xem việc bằng chứng bị trộm quan trọng hơn việc chủ nhân bị giết, nếu quả thật ông ấy bị giết.”
“Bị giết hay tự sát?” cặp mắt tiến sĩ Fell ánh lên lí thú. “Ý kiến mọi
người thiên về hướng nào?”
“Cũng khá bất ngờ: Mọi người đều thận trọng, không tỏ thái độ rõ ràng. Chỉ có một người khẳng định Farnleigh bị giết, đó là Molly, à không, phu nhân Farnleigh. Bà ấy thậm chí gào lên như thế. Còn thì hai bên cáo buộc lẫn nhau đủ điều không hay, tôi chả muốn nhớ làm chi. May là đến nay, tôi cũng quên đi quá nửa rồi. Nhưng nghĩ cho cùng cũng không lạ. Trước đó, ai nấy đều căng thẳng, song cố gắng kiềm chế, xử sự văn minh, đến khi sự cố xảy ra, không kiềm được nữa thì phải bùng nổ. Luật sư chẳng qua cũng chỉ là người. Murray cố gắng cầm chịch mà không ai nghe. Ông cảnh sát khu vực cũng chịu chết.”
“Tôi đang cố gắng giải quyết vấn đề,” tiến sĩ Fell nhăn mặt, nhấn giọng. “Thanh tra viên, theo anh, đây là vụ giết người?”
“Vâng, thưa tiến sĩ.” Elliot quả quyết. “Có ba vết cắt trên cổ, và đến nay chưa tìm ra hung khí, dù ở dưới hồ hay bất cứ đâu gần đấy. Đương nhiên,” anh chuyển giọng thận trọng, “xét nghiệm pháp y hiện chưa có, tôi cũng không dám khẳng định một người không thể tự cắt ba lần. Song việc không thấy hung khí dường như chỉ rõ đây là án mạng.”
Ba người trầm ngâm, lắng nghe mưa rơi. Trong phòng chỉ nghe tiếng thở khò khè, hồ nghi của tiến sĩ Fell.
“E hèm,” tiến sĩ lên tiếng, “tôi chỉ nêu giả thuyết thôi nhé: Có khi nào nạn nhân tự tử, rồi trong cơn quằn quại, quăng con dao ra xa, làm chúng ta không tìm thấy? Tôi nhớ hồi xưa từng có vụ tương tự.”
“Có khả năng ấy, nhưng thấp. Nạn nhân không thể quăng dao quá xa. Vả lại, nếu dao nằm đâu đó trong vườn, trung sĩ Burton hẳn đã tìm được.” Khuôn mặt Elliot lộ vẻ lạ lùng. “Thưa tiến sĩ, ông vẫn cho vụ này là tự tử sao?”
“Không, không,” tiến sĩ như giật mình, vội vàng giải thích, “Nhưng dù chấp nhận giả thuyết án mạng, tôi vẫn muốn xác định cho rõ vấn đề ở đây là gì.”
“Vấn đề là ai giết ngài John Farnleigh.”
“Ừ, song anh chưa thấy hết cái lắt léo, quỷ quái bên trong. Tôi thì tôi lo, vì vụ này nó chả theo quy luật nào cả. Lẽ ra nạn nhân phải là người khác. Giá như ông Murray bị giết thì mọi chuyện đã dễ dàng. Quý vị hiểu cho, tôi chỉ nói trên lí thuyết, chứ không có ý gì. Vâng, theo lẽ thông thường, kẻ bị giết phải là Murray. Ông ấy là người sở hữu bằng chứng quan trọng để xác định nhân thân, thậm chí không cần bằng chứng vẫn có thể xác định được. Muốn xử thì phải xử ông ấy chứ. Ấy thế mà, Murray rốt cuộc chẳng bị ai sờ đến, còn một trong hai nhân vật chính lại chết, khiến ta không biết phải giải thích vấn đề ra sao. Tôi nói anh hiểu không?”
“Tôi hiểu,” Elliot nghiêm nghị.
“Trước tiên hãy xét các khả năng phụ”, tiến sĩ Fell lại tiếp. “Thí dụ, có thể nào hung thủ bị nhầm? Cứ cho người chết là ngài John Farnleigh đi, có thể nào ngài ấy bị giết nhầm? Hung thủ thật ra định hại kẻ khác?”
“Chắc không có đâu,” Elliot nhìn sang Page.
“Không thể nào,” Page nói. “Tôi cũng từng nghĩ khả năng đó, nhưng xin lặp lại: Không thể nào. Lúc bấy giờ còn sáng, Farnleigh ăn vận không giống ai, và trông cũng không giống ai, ngay cả nhìn từ xa cũng không lẫn được, huống hồ muốn cắt cổ phải tới thật gần. Công nhận: Cảnh vật hoàng hôn ướt át, mờ ảo, song vẫn nhận ra ai là ai.”
“Vậy là không nhầm,” tiến sĩ Fell đằng hắng một tiếng dài, nghe như sấm động. “Hãy xét một số khả năng khác, chẳng hạn: Vụ giết người không liên quan đến chuyện thừa kế tước hiệu và điền trang? Hung thủ
không quan tâm nạn nhân là John Farnleigh hay Patrick Gore. Hắn chỉ tận dụng thời cơ, lẻn vào hạ thủ, vì một động cơ nào đó, ta chưa rõ? Có thể đấy, ai mà biết. Tuy nhiên, riêng tôi, tôi không nghiêng về thuyết ấy, bởi các chi tiết trong vụ việc rất gắn kết với nhau, chuyện này phụ thuộc vào chuyện kia. Quý vị cũng thấy: Khi Farnleigh bị giết, dấu vân tay cũng mất tăm.
“Do đó, kết luận hiện tại là: Farnleigh bị giết, và động cơ giết người có liên quan đến quyền thừa kế. Nhưng vấn đề thật sự hãy còn hai đầu, thậm chí hai mặt, ta chưa xác định được. Nếu nạn nhân là kẻ gian phi, có thể nêu ra 2 - 3 lí do để giải thích án mạng. Nếu nạn nhân là người thừa kế thật, cũng có 2 - 3 lí do, song hoàn toàn khác. Các lí do trên các vị có thể tự suy diễn. Mỗi lí do bao hàm trong nó những cách nhìn riêng, những động cơ riêng, những khía cạnh riêng. Giữa hai người, ai thật ai giả? Ta cần phải biết, sau đó mới vạch được phương hướng cần đi. E hèm!”
“Ý tiến sĩ là ông Murray vẫn giữ vai trò then chốt?” mặt Elliot càng cứng hơn.
“Đúng vậy. Ông bạn già, bí ẩn của tôi: Kennet Murray.”
“Ông nghĩ Murray biết ai là ai?”
“Không nghi ngờ gì.”
“Tôi cũng thế, để xem nào.” Viên thanh tra mở cuốn sổ tay. “Có nhiều điều các nhân chứng đều đồng ý với nhau. Họ cho biết ông Murray ở một mình trong thư viện từ khoảng 9 giờ 20. Đúng chứ, ông Page?”
“Chính xác.”
“Thống nhất vụ này là án mạng nhé. Án mạng xảy ra khoảng chín rưỡi, theo khẳng định của chính Murray và luật sư Harold Welkyn. Để so sánh vân tay, cần phải cẩn trọng, song cũng chẳng mất quá nhiều thời gian như
Murray nói. Tuy mười phút không lâu, thế cũng đủ cho kết quả sơ bộ rồi. Tiến sĩ, ông có nghĩ Murray giở trò ma không?”
“Không,” tiến sĩ Fell nhíu mày nhìn vại bia. “Tôi nghĩ ổng đang cố làm cho giật gân. Từ từ, lát nữa, tôi sẽ trình bày ý tôi về sự vụ. Còn bây giờ, các nhân chứng làm gì trong khoảng 10 phút trên, nghe bảo họ đã khai với anh?”
“Mỗi người viết vài dòng vắn tắt, chẳng giải thích, nêu ý kiến chi,” Elliot bỗng dưng nổi cáu. “Họ bảo: Nêu ý kiến gì cơ? Mai mốt tôi sẽ phải thẩm tra lại, dẫn giải lại. Dân nơi đây kì quá. Vẫn biết, báo cáo của cảnh sát đọc rất rời rạc, vì ta phải đem những dữ kiện nhỏ lẻ, riêng biệt đúc kết lại với nhau, có được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Song le, đây là thảm kịch án mạng xảy ra ngay trước mắt, thế mà họ chỉ kể được như này. Tiến sĩ nghe nhé.”
Thanh tra mở sổ.
“Lời khai của phu nhân Farnleigh: Khi rời thư viện, tôi không vui, nên lên lầu, vô phòng ngủ. Phòng ngủ của tôi và chồng nằm kế nhau, phía trên phòng ăn, tại tầng một của chái mới căn nhà. Sau khi rửa mặt rửa tay, tôi thấy mình hơi lôi thôi, bèn
bảo cô hầu trải thêm tấm áo. Tôi lên giường, vặn nhỏ đèn ngủ. Cửa sổ ban công phòng tôi vẫn mở, trông ra vườn. Nghe tiếng kêu, tiếng xô đẩy, đánh nhau, rồi tiếng nước bắn tung, tôi chạy tới ban công, thấy rõ chồng tôi chỉ có một mình, dường như nằm giẫy giụa trong hồ. Tôi vội xuống cầu thang, chạy ra chỗ chồng. Ngoài vườn, không thấy hay nghe điều gì đáng nghi.
“Kế tiếp, lời khai của Kennet Murray: Từ 9 giờ 20 đến 9 giờ 30, tôi ở trong thư viện. Không ai vào, và tôi cũng không thấy ai. Đang quay lưng về cửa sổ, tôi nghe tiếng động (đoạn này kể giống bà Farnleigh). Cứ ngỡ không có gì quan trọng nhưng rồi ai đó chạy xuống. Có tiếng phu nhân Farnleigh gọi quản gia, e rằng có chuyện chẳng lành với ngài John. Tôi nhìn đồng hồ thì thấy đúng chín rưỡi. Tôi ra hành lang, gặp phu nhân Farnleigh. Cả hai ra vườn, bắt gặp thi thể bị cắt cổ. Về các dấu vân tay, cũng như nhận định của tôi về chúng, hiện xin miễn bình luận.
“Tốt ghê, hữu ích ghê nhỉ? Và sau đây là…
“Lời khai của Patrick Gore, nguyên cáo: Tôi đi vòng vòng: Trước tiên ra bãi cỏ
trước nhà hút thuốc, sau đó quành lại khu vườn phía nam. Tôi không nghe gì, ngoại trừ tiếng nước văng rất nhẹ. Tiếng này vang lên khi tôi bắt đầu quay về. Tôi không nghĩ có sự cố xảy ra. Vào đến vườn, tôi nhận thấy có người to giọng nói chuyện. Vì không muốn gặp ai, tôi đi theo đường nhánh, dọc theo giậu thủy tùng cao. Tôi để tai
lắng nghe, hiểu rõ mọi thứ. Rồi mọi người quay trở vô nhà, trừ ông Page. Đến lúc ấy, tôi mới bước ra hồ.
“Cuối cùng, đến lượt:
“Lời khai của Harold Welkyn: Tôi ngồi trong phòng ăn, không bước chân ra, dùng hết năm miếng sandwich nhỏ, uống li rượu vang đỏ. Phòng ăn có cửa kính trổ ra vườn, một trong các cửa nằm không xa hồ, nhìn thẳng là thấy. Song trong phòng quá sáng, ngoài vườn quá tối, sự tương phản khiến tôi không trông rõ phía ngoài…
“Nhân chứng thế cũng như không! Ngồi ngay tầng trệt, cách chỗ Farnleigh đứng chưa đầy sáu thước, giậu cây bên ngoài chỉ cao tới hông…” Elliot ve vẩy cuốn sổ giữa ngón trỏ và ngón cái, “thế mà như điếc như mù, lại viện cớ ánh sáng tương phản. Lão ấy kết luận như vầy:
“Lúc chiếc đồng hồ cổ kính trong phòng chỉ 9 giờ 31, tôi nghe tiếng chi như ẩu đả, như giọng ai đó kêu nhưng bị bịt mồm, theo sau bằng tiếng nước tung tóe. Có cả tiếng sột soạt trong hàng giậu hay bụi cây. Tôi cảm giác một cái gì nhìn mình qua cửa kính, chỗ khung cửa bên dưới, gần vườn nhất. Tôi nghĩ đã có chuyện xảy ra, song chưa chắc liên quan đến bản thân, nên lại ngồi xuống, ăn thêm miếng sandwich. Sau đó ông Burrows vào, cho tôi hay ngài John Farnleigh giả đã tự tử.”
Fell ngồi thẳng lên, với lấy vại bia làm một ngụm to. Đằng sau cặp kính, cặp mắt tiến sĩ lim dim, thích thú, ý chừng không ngờ bia lại ngon vậy.
“Ôi, tửu thần!” ông trầm giọng. “Lời khai ‘rời rạc’ ư? Anh cho rằng thế à? Nghe ông Welkyn kể sao thấy cái gì ớn lạnh. Hờ hờ, khoan nào. Welkyn! Welkyn! Cái tên ấy đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Chắc chắn gặp rồi, tên cứ như đùa, nên tôi nhớ mãi trong… Tâm là gì? Là không vật. Vật là gì? Chớ quan tâm… Ấy chết, anh thứ lỗi, tôi lại nói lông bông. Nào, còn chuyện gì nữa?”
“Còn hai vị khách, ông Page đây, và ông Burrows. Tiến sĩ đã nghe ông
Page, và cũng đã biết qua ý chính trong bản khai của ông Burrows.” “Không sao. Phiền anh đọc lại.”
Elliot chau mày.
“Lời khai của Nathaniel Burrows: Tôi định ăn, nhưng Welkyn đang ở trong buồng. Nói chuyện với ông ta lúc này e không phù hợp. Nghĩ vậy, tôi đi sang phía bên kia căn nhà, ngồi đợi nơi phòng khách. Rồi tôi nghĩ mình nên ở cùng ngài John Farnleigh, người trước đó đã ra khu vườn phía nam. Vì mắt kém, tôi lục trong ngăn kéo bàn hành lang, lấy đèn pin cầm theo. Vừa mở cửa vườn, tôi thấy gia chủ đứng bên mép hồ, dường như đang cử động hay làm gì đấy. Từ cửa đến mép ngoài hồ, khoảng cách chừng hơn 10 thước. Tôi nghe tiếng lục đục, rồi nước bắn lên, và tiếng quẫy đạp. Chạy đến nơi thì gặp ngài ấy đang nằm. Tôi không thể tả chính xác cử động của Farnleigh, cũng không thật rõ liệu có người thứ hai ở cạnh hay chăng. Có vẻ Farnleigh bị thứ gì đó nắm lấy chân.
“Thế đấy, tiến sĩ. Ngoài Burrows, không ai thấy nạn nhân trước khi ổng bị tấn công, rồi té hay bị đẩy xuống hồ. Ông nằm dưới hồ rồi bà vợ mới thấy, sau đó đến lượt các ông Gore, Murray, Welkyn, và Page. Theo lời họ thì như vậy. Tiến sĩ có nhận xét thêm không?”
“Gì hả?” Fell lơ đãng.
“Tôi hỏi nhận định của ông.”
“Nhận định của tôi à? Chúa chứng cho, vườn đẹp dường nào,” tiến sĩ Fell đáp. “Nhưng sau đó thì sao? Sau khi Farnleigh bị giết, Murray chạy ra vườn xem xét tình hình, cuốn Sách Dấu Tay liền biến mất khỏi thư viện. Ông có hỏi các nhân chứng họ đang làm gì lúc ấy, cũng như nghi ngờ ai là kẻ trộm?”
“Có, nhưng tôi không cần kể tiến sĩ nghe. Vì sao? Vì nó chỉ là con số không to tướng. Giữa cơn hỗn độn, đâu ai để ý đến ai. Phân tích cho cùng thì bất cứ ai cũng có thể là kẻ trộm.”
“Ôi trời!” Fell im giây lát rồi than. “Cuối cùng đã gặp.”
“Gặp gì?”
“Gặp điều mà tôi vẫn sợ lâu nay: Một vấn đề nan giải không đầu mối. Trong những bản khai, các lời kể, thời điểm, thậm chí là các khả năng, đều ăn khớp với nhau. Tại sao hung thủ sắp đặt cầu kì để giết Farnleigh mà không phải Murray, đấy là câu hỏi lớn. Nhưng ngoài nó ra, chẳng còn điều gì phi lí. Trên hết, ta không có vật chứng: Không vải rách, không tàn thuốc, không cuống vé, không bút, không mực, không giấy… Hừm. Phải có bằng chứng hữu hình, không thì đành phải chơi trò mò kim, dò dẫm, suy đoán hành vi con người. Đoán xem nào. Ai là người có động cơ giết nạn nhân? Và vì sao? Về mặt tâm lí, ai là người giống nhất với mẫu hung thủ anh đã dựng nên trong vụ Victoria Daly?”
“Xin tiến sĩ cho ý kiến,” Elliot huýt sáo qua kẽ răng.
“Coi nào. Vụ Victoria Daly tôi đã nắm được thông tin thiết yếu. Nạn nhân 35 tuổi, làm nông, dốt nát, không chồng, sống một mình. Ờ… phải rồi… bị giết lúc 11 giờ 45 tối, ngày 31 tháng 7 năm ngoái, đúng chưa?”
“Đúng.”
“Một bác nông dân lái xe ngang nhà Daly, nghe tiếng kêu la, bèn báo động. Cảnh sát khu vực chạy xe đạp tới nơi. Cả hai thấy một người leo ra từ cửa sổ phía sau tầng trệt. Người này là gã lang thang trong vùng đều biết. Bị rượt chừng ¼ dặm, gã lang thang tính cắt đuôi bằng cách nhảy qua thanh chắn, chạy cắt đầu đoàn tàu chở hàng của công ty Hỏa Xa Miền Nam. Kết quả: Bị cán banh thây, chết ngay tắp lự, đúng chưa?”
“Đúng luôn.”
“Cô Daly được tìm thấy trong phòng ngủ nơi tầng trệt, cổ bị thắt bởi dây giày. Khi bị tấn công, cô đang chuẩn bị lên giường, mình mặc áo ngủ và áo khoác bông, chân đi dép. Trên thi thể gã lang thang có tiền và đồ quý
của cô, nên vụ việc dường như rõ ràng. Tuy nhiên, khi khám xác, bác sĩ phát hiện người cô dính một chất gì đen đen. Dưới các ngón tay cũng có chất đó. Người bên Phòng Nội chính xét nghiệm, chứng minh đây là hợp chất chiết xuất từ củ cần nước, cây phụ tử, cây ỷ lăng và cà độc dược. Thêm vào còn có bồ hóng.”
Page ngồi thẳng dậy, trí óc bàng hoàng. Chi tiết vụ Daly, anh đã nghe ngàn lần, riêng mấy câu cuối thì chưa.
“Ơ này!” anh kêu. “Giờ tôi mới biết. Người cô ấy dính chất màu đen, trong chất ấy có hai loại độc dược ư?”
“Phải,” Elliot há miệng cười mỉa. “Bác sĩ làng đâu thèm phân tích nó. Nhân viên điều tra án mạng cũng không quan tâm, không buồn đề cập, chắc tưởng nó là hóa chất làm đẹp, không nên nhắc tới làm chi. Tuy nhiên, ông bác sĩ sau đó vô tình tiết lộ tin ra, thế là…”
“Cây phụ tử và cà độc dược!” Page băn khoăn. “Cô Daly đâu có nuốt chúng phải không? Nếu chạm ngoài da làm sao chết được?”
“Ô, không nuốt. Dù sao đi nữa, vụ đó cũng khá rõ ràng, tiến sĩ nhỉ?” “Rõ ràng một cách tai hại,” Fell đồng tình.
Giữa tiếng mưa rơi, Page nghe ai gõ trước cổng nhà. Vừa cố gắng nhớ lại một điều gì, anh vừa băng qua hành lang ngắn, bước ra mở cửa. Người gọi là trung sĩ Burton, cảnh sát khu vực. Dưới lớp áo mưa, anh ta cầm vật chi quấn trong giấy báo. Điều trung sĩ nói khiến dòng tư tưởng của Page chuyển từ Daly sang Farnleigh:
“Thưa ông, tôi gặp thanh tra Elliot và tiến sĩ Fell được không? Đã kiếm được hung khí, và…”
Burton ra dấu bằng đầu. Bên ngoài khu vườn lấm bùn, đầy vũng nước
mưa, một chiếc xe quen thuộc đang đậu. Xe này hiệu Morris đời cổ, bên trong, sau tấm màn, thấp thoáng bóng hai người.
“Cậu vừa nói là…” thanh tra Elliot tức tốc chạy ra cửa.
“Đã tìm được hung khí giết ngài John, thưa thanh tra. Và còn nữa,” Burton lại quay đầu về hướng xe. “Cô Madeline Dane và ông già Knowles, quản gia đằng Farnleigh Close. Knowles ngày xưa từng phục vụ người bạn thân của cha cô Dane. Khi có điều băn khoăn, khó xử, Knowles thường đi tìm cô Dane, và Dane dẫn ổng tới cho tôi. Ổng có điều muốn nói, có thể sẽ giải quyết được cả vấn đề đấy.”
"""