"
Chiếc Áo Màu Rêu Xanh - Phan Thái Yên full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chiếc Áo Màu Rêu Xanh - Phan Thái Yên full prc pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
CHIẾC ÁO MÀU RÊU XANH Tuyển truyện ngắn
Phan Thái Yên
Tập hợp, làm Ebook: Cuibap Cover: db
Nguồn: vanchuongviet.org
Vùng Biên Giới Im Lặng
Phan Thái Yên Mùa tuyết tan. Bạn cũ ta từ nửa đời xưa như chim từ phương xa bay đến tìm thăm. Chim bay rồi, phương trời ở lại buồn tênh, xao xác vầng trăng lạnh nghiêng mình trên nhành liễu cuối vườn. Mái lầu nhỏ ẩn mình im lìm dưới bóng bạch dương cao vời nỗi nhớ không tên, xuyến xao kỷ niệm.
Cơn mưa chờ Xuân kéo dài suốt buổi chiều, dập vùi từng mảnh tuyết tan biến vào mùa đang xưa, ủ dột hóa thân. Bóng mưa giăng bay trong hồn người, bàng hoàng nhịp đập một ước mơ rất cũ vẫn từ lâu thoi thóp trong ta hoang phế thờ ơ.
Áng trăng trải vàng lên vùng đất thấp sau vườn nhà đọng mưa lai láng. Thảng thốt một dòng sông...ai sầu ai thảm...điệu hò. Dòng đời. Biên-cương-đã-đến, nơi bao dung từng bước chân định mệnh xiêu lạc, trở thành chốn ẩn cư của giấc mơ qua, đời phong sương cũ. Và sự tình cờ lặng lẽ của gặp-nhau-chia-lìa thì xa xôi như bóng mây cuối trời viễn mộng.
Người thanh niên ngồi yên lặng phía bên này bờ kinh Vĩnh Tế. Cánh đồng lúa bên bờ Miên mênh mông chảy dọc theo dòng nước, rười rượi cơn gió đi về bát ngát chân mây. Hàng cây thốt nốt xa lắc phía chân trời xanh thẳm im lìm như hàng nến đứng chờ thắp sáng bóng chiều đang tới. Hay chỉ là nét tàn phai của một ngày đang tắt? Người thanh niên cúi đầu, nụ cười buồn rớt lên trang sách. Nietzsche. Die Sonne Sinkt. Ngày của đời ta! Vầng dương chìm đắm. Băng giá phủ trùm cơn hồng thủy cuồng quay. Ngày của đời ta! Lúc chiều vào tối. Tròng mắt nóng hực muốn làm vỡ tung giọt nước mắt sục sôi trong tuyến lệ... Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại. Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu (Bùi Giáng). Cười với nắng một ngày sao chóng thế. Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng (Tuệ Sỹ)…Giữa mốc thời gian sau trước và khoảng không gian Ðông Tây Âu Á xa vời, họ đã đến nơi cùng tận của biên cương suy tưởng. Họ đã đến nơi ngày của đêm, hồng hoang vầng dương chìm đắm và ánh nguyệt bừng soi.
Dòng biên cương lặng lờ trước mặt và ý nghĩ lao lung về một phương trời huyễn mộng khiến người thanh niên cảm thấy bồn chồn. Con sóng nhỏ chẻ đôi đàng sau chiếc xuồng máy đuôi tôm, ngập ngừng chao động làn nước đục phù sa mà nghe cơ hồ vang vọng tiếng triều dâng. Dòng nước bạc dòng sông trôi theo dõi. Cuối chân trời hình bóng một chân mây. Ðời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại. Giữa hư vô em giữ nhé chừng này (Bùi Giáng)…
Như con nước đứng chờ ròng, chàng phân vân giữa lằn ranh u uất đi về. Xuôi theo dòng, không quá nửa ngày sông, về phía Giang Thành là biển rộng. Biển của những ngày rong chơi. Theo tàu từ Phú Quốc về Rạch Giá, bầy sĩ quan trẻ nhớ bờ háo hức quàng xiên trong quán rượu làm ngượng ngập bước chân tình cờ cô học trò sau buổi tan trường. Ngược hướng Tịnh Biên, bóng mây không che được dáng núi Thất Sơn, kiêu bạc quàng vai dãi lụa sầu châu thổ. Dòng nước lung lay soi bóng người, bóng thời gian lẩn khuất không trôi. Ông quan trẻ lãnh mệnh Vua đi mở nước, từ hơn trăm năm trước từ giã đất Thần Kinh tìm đến miền ba-sông-bảy-núi xa vời đất khách. Người đã đến từ một cuối biển Ðông xa hay phải lặn lội qua đôi lần sông mênh mông sau trước? Ðỉnh núi nào người xưa đã đứng vọng một tiền đồ rồi mường tượng tới dòng kinh nối biển? Dòng sông đào như dãi ruột mềm trang trải tấm lòng quân tử vua tôi, man mác nghĩa phu thê. Thoại Hà, dòng sông vua ban cho tên gọi, đầm đìa nỗi lòng Vĩnh Tế, đã cưu mang từng giọt phù sa nặng lòng châu thổ đến tận bờ nước Hà Tiên hoang mang biển lớn.
Bàn chân bước nghe một lần sóng dậy. Sắc khuynh thành một thuở động binh đao. Người lên ngựa ngoảnh đầu về có thấy. Bờ xa bay tuyết bạch lẫn sương đào (Bùi Giáng) . Người xưa. Cơ đồ. Mệnh nước. Một thuở biên cương. Trăm năm sau, cõi giang biên âu sầu muối mặt, bơ phờ cơn gió tai ương. Chàng đã đôi lần từ biển đến, lòng lú lấp phiền hà rồi say khướt biếng lười đâu đó cuối
dòng để bây giờ, hồn nặng vàm sông bến nước, đứng bên dòng kinh biên giới, tần ngần về một nửa ngày sông. Và cả một đời mình. Phải chăng chỉ để tròn một bước chân vô ích mà lòng thì vẫn ưu tư một giấc mộng đời? Hai năm trong vùng đồng bằng máu me, rài rạc chiến tranh đã khiến tâm hồn chàng cằn cỗi chai lì. Tiếng súng nổ giữa đêm, hằng đêm, xác người chết gục mặt bên bờ kinh. Ánh sáng hỏa châu lay lắt rọi như mặt trời đến đi, chìm đắm. Trong không gian mơ hồ lịm tắt, cánh dù hỏa châu lặng lờ trôi như một nỗi lòng. Từ một lúc nào đó chẳng hề hay, chàng đã hững hờ quên cơn mộng biển. Tuổi trẻ vội vàng bỏ đi. Mất hút trong đêm, mắt mở trừng về phía màn đêm phủ chụp cánh rừng tràm nham hiểm. Giữa rình rập canh khuya, bầy lính thú Bắc Nam bơ phờ thiếu ngủ và trở nên tàn ác như nhau.
Ðoàn giang đĩnh vào đến vùng sông biên giới giữa Giang Thành và Tịnh Biên từ buổi trưa. Ðồn lính Ðịa Phương Quân, vài năm trước đây là nơi trú phòng của các đơn vị Biệt Kích Mỹ, nằm bề thế dọc theo bờ Ðông. Cổng đồn uy nghi, cột cờ cao căng gió, và dãy công sự kiên cố đã tạo nên vẽ quắc thước hiếm thấy ở một đồn lính địa phương. Chàng đã quá quen thuộc với hình ảnh sơ sài thấp mọn của những đồn lính dọc theo bãi nước bờ kinh trên nhiều vùng sông rạch miền Nam. Những đồn lính cấp trung đội hoặc đại đội, cùng mỏng manh vụng về như nhau, với dãy rào phòng ngự tháp canh dựng bằng cây tràm, mái tôn phủ đước khô queo. Tỉnh ngủ vì tiếng máy đoàn tàu đang gầm thét lướt trên dòng kinh, người lính gác xốc súng đứng dậy, đưa tay vẫy chào bâng quơ. Ðôi dép nhựa cũ kỹ vàng ỉn trong chân người nông dân cầm súng hằn nét chấm phá tội nghiệp lên nền đất đen màu mỡ thiếu người vun xới. Ngoái nhìn bóng người lính cúi đầu đứng bên bờ nước, chàng chợt nhớ phố nhớ trường đến quay quắt. Cũng như anh, chiến tranh đã bắt tôi phải làm những việc không quen. Dòng kinh trước mặt hun hút đưa buổi chiều vào tối. Lời kinh giảng vương vấn điệu hò nghe cũng buồn như lẽ nghĩa nhân giữa thời tao loạn.
Người trưởng đồn xếp tấm bản đồ, đứng dậy tiễn chào người sĩ quan Hải Quân. Nắng xế len lỏi qua tàng lá cây điệp rụng lổ đổ trước sân đồn.
- Thanh Trúc! Tên nhà binh của Trung Úy nghe con gái quá!
- Tên thật của tôi nghe còn con gái hơn, cần gì chờ tới tên nhà binh.
- Trung Úy đã từng công tác ở Tân Châu. Tui là dân Tân Châu. Chổ quen biết cả! Người sĩ quan bộ binh cười cười. Ông giáo Thượng có hai cô con gái. Thôi thì ông rộng lượng thả cô em ra, chớ đánh cả cụm coi hổng đặng đâu.
Người sĩ quan Hải Quân vỗ vai anh bạn lính mới quen, cười lửng lơ.
- Ðừng đoán già đoán non nữa ông ơi! Chẳng lẽ Tân Châu chỉ có một Trúc một Mai thôi sao? Ðoàn giang đĩnh cập sát nhau quanh cầu tàu trước sân đồn. Lính lố nhố đứng ngồi, chuyện trò, chờ đợi. Một người lính chỉ tay về phía cái hầm nổi cạnh đồn lính, hứng khởi kể lại chuyện nghe được từ câu lạc bộ.
- Khu gia binh dã chiến đó! Ai muốn nghe ngóng chuyện hào hứng thì ôm mùng mền lên đó, ngủ qua đêm sẽ biết ngay.
Khu gia binh trước đây là trung tâm hành quân của các đơn vị Biệt Kích Mỹ. Cái hộp sắt khổng lồ được đắp bít bùng bằng nhiều lớp bao cát, chỉ chừa một cửa ra vào và những ống thông hơi trên nắp. Căn hầm mát lạnh, tối như hũ nút lúc đêm về. Vợ lính chờ chồng đi kích đêm hay những người đàn bà dễ tính theo đàn ông vào ngủ ở đó. Trong canh khuya khó thấy mặt người, thân xác buông thả khơi dòng cho ngọn sóng cảm giác trào dâng. Cơn xúc động không thể cắn răng có khi thoát thành tiếng rên gào làm xốn xang vành tai nghe ngóng. Giữa tối tăm mê đắm, căn hầm trở thành khu rừng nguyên thủy. Bầy thú hoang dã vô luân liếm mép rình rập, đồng lõa đưa nhau đến biên cương mới rợi cảm xúc, vồ vập nhau qua từng hơi thở lạ điếng đam mê.
Cách đồn không xa về phía Giang Thành có cái quán nhỏ nằm sát bờ kinh. Tàu thả người sĩ quan và nhóm lính xuống quán cà phê rồi quay ra nằm rải rác hai bên bờ. Ðoàn giang đĩnh đen xám như bầy trâu đầm mình trong nước nghếch mặt nhìn trời, nghe ngóng làm quen cảnh trời nước quen thuộc mà xa lạ. Dòng kinh bất trắc. Cánh rừng lảng vảng rình rập nghi nan. Ðồng lúa dậy thì trổ đòng xanh ngút mắt. Khoang trời nõn nà mây trắng la đà vướng vất trên nóc hàng cây thốt nốt vàng óng nắng chiều. Bầy vịt trời mỏi cánh, sà thấp rồi mất hút đâu đó giữa đám ruộng nước. Có bóng chim đơn côi xoải cánh bay về núi. Chiều rồi. Dòng sông biên giới lặng lẽ như một
nỗi buồn rất cũ. Chàng đặt ly cà phê nguội lạnh xuống bàn bên trang sách mở hờ. Ngón tay vô hồn vuốt nhẹ lên hàng chữ khắc vụng về trên mặt bàn. Quán Biên Thùy. Chàng chợt cảm thấy lòng mình chênh vênh hụt hẫng như đang bị cuốn xoay, rời rụng. Cảm giác muốn khóc òa buổi sáng đầu tiên đi học, lòng run sợ đứng trước cửa lớp, tay mẹ vẫy chào từ bên kia sân trường mênh mông. Ðứa bạn cùng tắm một dòng sông, lớn lên, bỏ đi, oằn vai mối thù vay mượn. Xó rừng, mép núi hay biên cương chót vót nào thằng bạn đang ngồi đứng không yên? Như chàng chiều nay từ một dòng sông cuối đất quê hương, bơ phờ nhớ phố. Buổi chiều cuối cùng trước khi vào lính. Tháng chạp mưa mờ vịnh biển, trong nhạt nhòa, thành phố xa vời con dốc dài tóc xõa lối về. Chặng đời mới trôi nổi, ngại ngần, cưu mang thêm cuộc tình vừa trổ đã hóa trái tương tư. Những cuộc tình bỏ nhau đi, long đong mấy dòng sông nhỏ. Ở mô rồi người chị của tuổi mười hai. Nước đục bến Bao Vinh đã xa chị xuôi dòng hay đôi mắt đẹp vẫn đượm sầu đời chị đa đoan. Thôi thì ai trong chúng ta cũng có một biên giới của lòng. Nơi dừng lại để hứng lấy trái sầu mà nuôi sống giấc mộng muôn đời chẳng thể hóa thân.
Người chủ quán nhìn ông sĩ quan trẻ đơn giản trong bộ bà ba đen với cặp mắt dò xét rồi thất vọng đặt ly cà phê xuống bàn. Chị tần ngần cách xưng hô, gợi chuyện.
- Ông Trưởng uống thêm cà phê nóng.
Người đàn bà son điểm vụng về không che đậy được vết nát nhàu sót lại sau thuở hương phấn vội vàng.
- Ở đây vắng vẻ quá hả chị? Mấy năm trước khúc sông này chắc vui hơn?
Chị nhìn dòng sông nước bèo bọt trôi xuôi, đôi mắt tô chì đậm đen như bóng tối. - Hồi đó tàu Mỹ chạy hà rầm. Tui bán bar trong Tịnh Biên, thỉnh thoảng họ chở cả bầy chị em ra ngoài này. Cũng vui... Coi vậy chớ không vắng lắm đâu. Tàu chợ Giang Thành Hà Tiên kéo nhau về gần tới nơi rồi đó. Tới ngày nhóm chợ trời, chợ trâu bò bên bờ Miên, ghe đò lại càng đông hơn.
Chị chỉ tay về phía đám rừng thốt nốt suông dọc theo bờ kinh.
- Chút nữa tối trời, dơi rần rần từng bầy bay ra ăn muỗi, om sòm lắm. Ai không quen tai, cứ nằm đờ ra đó không ngủ được, nhiều khi bực mình muốn chết.
Sự hiện diện bất ngờ của toán giang đĩnh nằm rải rác hai bên bờ khiến đoàn tàu đò, tắc ráng bớt tốc độ e dè chạy qua. Khoảng sông nhộn nhịp hẳn lên với những chiếc tàu sặc sỡ đỏ xanh chất đầy hàng hóa. Nhìn chiếc tàu đò lớn, hàng chất khẳm nặng tới be, đang từ từ chạy ngược dòng, người đàn bà mừng rơn.
- Dữ thần, tàu cô Út Mười Hai bữa nay về trễ quá trời!
Người tài công chậm chạp lái chiếc tàu đò cập vào bến nước trước quán, cẩn thận không để chạm đến chiếc giang đĩnh nhỏ bé mà tua tủa súng đạn quyền uy. Cô gái khoảng ngoài hai mươi với chiếc xách lớn trên tay, từ trong khoang đò nhảy xuống đất, nhanh nhảu bước vào quán. - Cô Út bữa nay về trễ quá hén.
- Mấy ông Ðịa Phương Quân lóng rày làm khó quá chị Bảy ơi.
Cô gái vui vẻ gợi chuyện với nhóm lính Hải Quân tự nãy giờ chỉ ngồi ăn uống nghe nhạc, chơi bida ở góc quán. Ðám lính trẻ thành phố ồn ào cảm ơn về những bao thuốc lá ngoại quốc mắc tiền, món quà hậu- phương-tiền-tuyến từ cô gái buôn hàng chuyến.
An tâm với hậu thuẫn vừa đạt được từ đám lính trẻ, cô gái bước ra đầu hiên quán. Nụ cười tươi tắt vội khi nàng chạm nhìn tia mắt nghiêm nghị của người sĩ quan trẻ.
- Cám ơn cô. Tôi hút thuốc nặng quen rồi.
Cô gái tần ngần nhìn quyển sách trên bàn, cố gắng gợi chuyện.
- Cô giáo ở trọ nhà em cũng thường đọc sách loại này. Chữ nghĩa gì đâu mà khó thấy mồ. Có lần em ráng đọc thử vài trang, không hiểu gì hết đành trả lại.
- Tôi cũng không hơn gì cô đâu. Chỉ đọc cho qua ngày.
Anh nhìn theo dáng cô gái ngồi trên đống bao đường lậu thuế sắp lớp trong khoang đò oằn nặng, lòng phiền hà nghĩ tới ông thiếu tá già ở bộ chỉ huy lúc chàng đến trình diện vào buổi trưa. Ông ngồi gật gù trên chiếc ghế salon đóng bằng thùng đạn pháo binh. Mái tóc thưa mềm lấm tấm bạc, lơ thơ rủ trước trán, khiến khuôn mặt càng trắng xanh bạc nhược.
- Nhiệm vụ của cậu là tuần tiễu bảo vệ tuyến sông từ Giang Thành về Tịnh Biên. Bảo mấy thằng Ðịa Phương Quân đi chỗ khác chơi, để dọc bờ sông lại cho Hải Quân. Ngồi cạnh ông thiếu tá là một người đàn bà đẫy đà son phấn, dáng dấp kiêu kì trong bộ đồ bốn túi thời thượng của mấy ông lớn ở Sài Gòn. Bà ta ngồi nhẩn nha hút thuốc, lơ đãng nghe ông ba hoa về ngày tháng hải hồ ba gai ba góc. Khóa Tám mà moa vẫn còn đeo lon thiếu tá. Nghe như một chiến công. Chàng thầm nghĩ, muốn cười thành tiếng.
- Bà Vân là người Sài Gòn phái xuống làm việc về vấn đề an ninh tình báo trong vùng. Anh cố gắng giúp đỡ.
Bà Vân không ít nói như chàng nghĩ. Quá khứ tình báo lẫy lừng khắp bốn vùng chiến thuật của bà Vân theo người sĩ quan xuống tận bến tàu như một gánh nặng cần phải trút bỏ. Anh trung sĩ tiếp liệu lắc đầu cười.
- Vậy là ông thầy có được hân hạnh gặp bà Trung Tá rồi đó.
- Trung Tá?
Người lính chỉ tay về dãy phố chợ mua bán tấp nập.
- Thì ổng Thiếu Tá, bả phải Trung Tá coi mới đặng chứ! Vào tới vùng Trung Úy sẽ biết công tác tình báo của bả phát đạt như thế nào.
Tiếng cười không vui của người lính theo đuổi trong trí tưởng chàng suốt chuyến giang hành. Sự bí mật công khai có hệ thống mà ồn ào như tiếng máy tàu đò khẳm nặng hàng hóa nối đuôi nhau trên dòng sông biên giới.
Chiếc tàu đò rời bến, tiếp tục chạy về Tịnh Biên cho kịp tối. Cô gái tươi cười vẫy chào nhóm lính ồn ào đứng bên bờ nước. Bao nhiêu xấp tiền, gói thuốc, cô gái đã rải dọc theo chặng sông vừa hơn năm mươi cây số để mua đường đi nước bước? Còn món hàng quốc cấm nào khác nằm sâu bên trong những bao đường vô tri nặng nề? Cô gái chỉ là người đi buôn hàng chuyến. Cũng như chàng chỉ là người lính bị sai chạy cuồng quay trong hệ thống quân cơ giai cấp và lắm khi biển lận.
Phố chợ giang biên sầm uất, quán tiệm nhan nhản hàng lậu thuế. Ông thiếu tá già lỡ thời, bám víu đua chen một cách tội nghiệp. Bà trung tá từ Sài Gòn phái xuống, úp mở mưu toan. Tuyến đường buôn lậu rộn rịp ghe đò, lừa lọc đám người tranh giành nhau sống. Ly cà phê nguội lạnh từ tay cô gái giang hồ về chiều. Bầy dơi chờ đêm mù lòa bay trong bóng tối phủ chụp lên vùng biên giới im lặng. Những đôi cánh không phải của chim. Ánh mắt đàn ông đàn bà xa lạ nhìn nhau sau đêm động tình. Ðã quá đủ cho một ngày. Die Sonne Sinkt...Vầng dương đã chìm đắm. Chàng ngơ ngác sa chân và cảm thấy lòng buồn.
Vùng biên giới im lặng…Trong lạnh ngắt vườn khuya, ta chợt muốn nghe lại một lần nữa cung điệu fado thảm sầu cứa xé ruột gan. Ta muốn đọc lại một lần nữa lời viết từ tim, rúng đến thần hồn của Thư gởi đến... Sou estrela ébria que perdeu os céus...Ta là vì sao rơi xa hút đến cuối trời thăm thẳm vì bầu trời cưu mang ta đã mất. Ta say loạn hết biết còn nơi cư trú. Lối ngõ là một cái gì xa xăm. Ðường về ư? Nhà ta đã mất từ dạo con người biết định nghĩa về một chốn nghĩ chân. Sereia louca que deixou o mar... Ta là loài nhân ngư say hết một đời say. Ðừng nói đến phương hướng với ta. Người có một bến cảng để về, còn ta? Biền xa xăm ta lạc mất, cồn đá và cát bờ là những hoại ngữ ở trên đời...Ta là pho tượng huyễn hư đứng vô vọng nhìn thời gian tàn nhẫn kéo quanh mình. Estátua falsa... Ôi, huyễn hư tôi…
Phan thái Yên
Hương Sen Châu Thổ
Phan Thái Yên
Quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ
Giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ
Ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
Con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ
Hoài Khanh
Buổi chiều quân y viện có nắng vàng im lìm trải dài trên lối đi rộng trước khu điều dưỡng sĩ quan. Ðã quá giờ thăm viếng từ lâu nên bên trong chỉ còn vài người đàn bà được phép ở lại để săn sóc thân nhân. Họ nhẫn nại đứng ngồi trong khu nhà sâu hút hai dãy giường bệnh trắng. Từng chai chuyền sinh lủng lẳng chúc đầu, uể oải từng giọt nước mắt rơi dọc theo ống nhựa trong vắt cắm sâu vào thân thể thương tích mở toang. Khu trại tưởng đã hoàn toàn yên lặng nếu không có tiếng ồn ào nói cười chen với nhạc lính từ phía câu lạc bộ vọng về. Nắng chiều len qua dãy cửa lá sách từ nóc tường cao rơi nằm uể oải trên tấm áo thương binh xanh xao bạc nhược. Những khuôn mặt gầy rạc bất động, mắt nhắm sâu vào cõi im lìm của giấc ngủ mệt nhọc tiếp nối nhau vì chất thuốc giảm đau.
Trong phòng thuốc cạnh cửa ra vào, người nữ y tá đang sắp xếp chồng hồ sơ bệnh nhân nằm ngổn ngang trên mặt bàn. Kín đáo trong bộ quân phục bốn túi rộng, có lẽ làn da trắng mát là nguồn an ủi cuối cùng cho cô gái. Người nữ hạ sĩ quan Quân Y có khuôn mặt xấu xí đến tội nghiệp.
Người thương binh Hải Quân nằm ở cuối phòng, khuôn mặt gầy xanh vì mất máu, gượng đau thì thào câu nói đùa với ông thượng sĩ y tá đang thay băng làm thuốc cho chàng. - Phải chi cô Ngọc Kỷ có nhan sắc một tí thì tôi nằm bệnh viện bao lâu cũng được. Ông y tá già mắt nhấp nhem sau cặp kính dày, nhìn về phía cô gái.
- Trung Úy đừng giỡn vậy. Cô Kỷ nghe được thì buồn lắm. Cổ hiền lành và mát tay lắm đó. Ngọc Kỷ mở hồ sơ đọc đi đọc lại tên người sĩ quan Hải Quân được chuyển đến từ phòng hồi sinh vài hôm trước. Gần một năm nay, từ ngày nàng về làm việc ở khu điều dưỡng này, đây là lần đầu tiên nàng có dịp săn sóc một sĩ quan Hải Quân.
Thượng sĩ Bảy nói đùa với nàng lúc tiếp nhận người thương binh từ phònh hồi sinh. - Vậy mà tui cứ tưởng mấy ông quan tàu thủy nếu có xui lắm thì vì nhậu xỉn quá bị rớt sông chết đuối thôi chớ ?!
Chiến trường nơi người Trung Úy Hải Quân bị thương càng gây sự tò mò chú ý của nàng. Mỹ An, Kiến Phong. Ngọc Kỷ đã sinh ra trên vùng đất thấp mênh mông tràm đước đó. Nàng đã lớn lên bên dòng kinh khốn khó, lớn ròng nổi mặc cảm triền miên của đứa con gái trời bắt xấu. Nàng đã bỏ đi, đem theo nỗi bâng khuâng riêng lắng của ngày học trò mới lớn có lắm tủi thân và những cánh sen ngát hương kỷ niệm đọng lại đâu đó trong hồn.
Cha mẹ Ngọc Kỷ lấy nhau sau ngày họ học hết lớp ở trường quận. Sau năm đệ tứ, học trò trường trung học đệ nhất cấp Tổng Ðốc Lộc muốn học tiếp phải khăn gói ra Kiến Văn, Cao Lãnh. Ngôi trường quận nhỏ nằm khiêm nhường bên góc ngã tư kinh đối diện với chi khu Mỹ An. Lục bình từ kinh Phước Xuyên, kinh Tháp Mười theo con nước giao nhau quây quần trước chợ quận rồi trôi tấp đến tận hiên trường.
Người cha qua đời năm Ngọc Kỷ lên ba tuổi. Nội vẫn ít lời về thằng con trai đèo bồng lêu lổng của bà. Gả thợ may ươn lười ở chợ quận đã say rượu, trúng gió, chết lúc chèo xuồng về nhà. Vài năm sau đó mẹ của Ngọc Kỷ bỏ nhà đi theo một người lính Sư Ðoàn 9 về sống ở Kiến Tường. Những lần người mẹ theo tắc ráng về thăm con thưa dần cho đến khi có người cho hay người
chồng sau của bà tử trận. Người đàn bà đa truân lại phó thác phận mình cho một người lính khác, đèo bồng nhau lên tận miệt núi rừng Tây Nguyên, biệt tăm biệt tích.
Hai bà cháu sống hẩm hiu trong ngôi nhà nhỏ cuối chợ. Con Kỷ lớn lên âm thầm như bóng. Vết chàm thâm đen trên khuôn mặt thô xấu như nét khắc ghi lời nguyền rủa rớt lại tự một tiền kiếp hồ đồ. Con bé thường ngồi im hằng giờ trên chiếc xuồng cột vào gốc cây ô môi trước nhà tìm bóng mình trong làn nước. Dòng kinh nước đục lả tả bầy lục bình trôi lung lay bóng đời u uẩn.
Ngọc Kỷ đi học trễ. Gần mười lăm tuổi con Kỷ mới học xong tiểu học. Ngày bãi trường Nội nấu chanh chùm kết gội đầu cháu cho thơm. Nằm nhắm mắt trên chiếc chõng tre đầu hiên nhà, con Kỷ lắng nghe từng giọt nước thơm bò nhột nhạt lên đôi vú vừa nhú căng như hai trái đào non. Bà Nội xuýt xoa khen cháu có nước da trắng không ăn phèn làm con Kỷ lần đầu tiên trong đời có được cảm giác lâng lâng e thẹn.
Bà Nội kéo sửa phần căng căng ở ngực lúc con Kỷ mặc thử chiếc áo bà ba lụa trắng Tân Châu bà vừa may cho cháu.
- Con nhỏ này lớn lẹ như thổi. Vú gần bằng nắp vung rồi. Cái áo tới Nội sẽ chít chỗ này rộng hơn chút nữa.
Con Kỷ mắc cỡ quay mặt bước một mạch vô nhà sau. Tiếng vải quần lãnh đen Tân Châu kêu sột soạt theo bước chân. Bà Nội lắc đầu cười, nói với theo.
- Rằm này Nội cho con lấy tiền bán bông sen ra chợ mua một hai cái xú chiên mà nịt lại. Con gái lớn rồi, đừng để xõng xõng coi vô duyên lắm.
Con Kỷ trở ra với cái áo bà ba đen rộng cũ trên người.
- Con hổng ham mấy thứ đó đâu. Nội cứ may áo thiệt rộng cho con là được rồi. Thợ may ăn giẻ nên con Kỷ lúc nào cũng có áo quần tươm tất. Ngôi nhà đất cuối chợ cũng là tiệm may nhỏ của bà Hai Sen. Lính ngoài chi khu vào sửa quần áo lính hà rầm nên hai bà cháu sống đắp đổi qua ngày. Con Kỷ cúi đầu lấy tóc che vết chàm trên mặt, ngồi lặng lẽ đơm khuy nút giúp Nội. Những người lính trẻ tới tiệm may, họ nhìn vội vết chàm xấu xí trên gò má đứa con gái rồi quay mắt dửng dưng trò chuyện với bà Hai.
Ông Hai chết trẻ, từ trào Bình Xuyên Hòa Hảo. Bà Hai ở vậy nuôi hết con rồi tới cháu từ mấy chục năm nay. Miếng ruộng hương hỏa bên kia bờ kinh Tháp Mười, không sạ lúa, bông sen bông súng mọc đầy. Xuồng chống sâu theo mương nước luồn lách qua đám ruộng đước cao xấp xỉ đầu người chừng mấy chục tầm đất thì tới đồng sen. Mũi vừa hít thở được hương sen tỏa ngát trong cơn gió thoảng đồng nội thì màu sen hồng, sen trắng, điểm với màu vàng bông súng, nhẹ nhàng lung linh trong nền đước xanh cũng vừa đập vào mắt nhìn với sự ngạc nhiên kỳ thú. Cái chòi mảnh khảnh dựng bằng cây tràm giữa đồng sen hắt vào khoang trời xanh lơ nét chấm phá cô đơn nỗi đợi chờ mây trắng. Hai ông cháu thằng Nèm dựng căn chòi đã mấy năm nay, từ lúc được bà Hai cho phép cắm chà đặt lợp, bắt cá bắt lươn trong ruộng nhà.
Ông Bảy Chà có đứa con gái rượu, nhan sắc cũng mặn mà. Con Bé Hai chê cuộc sống bưng biền bỏ Mỹ An đi Long Xuyên buôn bán làm ăn. Ðược mấy năm thì Bé Hai một hôm dẫn thằng Nèm về bỏ lại cho ông Nội nuôi rồi đi biệt tăm từ đó. Căn nhà tranh nhỏ ở đầu con mương, thấp thoáng sau lùm cây điên điển, có thêm tiếng cười con nít lẫn trong tiếng ho khan của ông già Bảy mỗi đêm về nghe cũng vui hơn. Thỉnh thoảng có con cá ngon đem qua cho người hàng xóm tốt bụng, ông Bảy lại thở than.
- Ông Trời sao nghiệt quá há chị Hai. Già cả như tụi mình mà hết nuôi con lại tới nuôi cháu. Tui nói thiệt nghe chị Hai. Ông Trời ổng nghiệt ngã lắm chị Hai ơi.
Giọng thở than của ông Bảy Chà trộn trong tiếng ho khan theo ông xuống tới bến, buồn bã như tiếng chao động của mái dầm khua nước.
Nhà nghèo mà thằng Nèm học giỏi lắm. Nó đi học đúng tuổi. Mười lăm nó đã học xong đệ ngũ, lại còn biết nói tiếng với mấy ông lính Mỹ vẫn hay đậu tàu ở bến chợ trước chi khu. Trước chạng vạng tối mỗi ngày ông Bảy chống xuồng vào đồng sen cắm chà đặt lợp. Người già ít ngủ, ông Bảy thức dậy sớm, ngồi nấu nước trà hút thuốc rê chờ sáng. Riết rồi quen. Tiếng ho khan của ông Nội đánh thức thằng Nèm dậy mỗi sáng vừa đúng lúc mãn giờ giới nghiêm. Thằng Nèm mắt nhắm mắt mở, bước ra đầu hiên múc nước lóng phèn trong lu rửa mặt súc miệng. Nhổ phẹt miếng nước
trong miệng xuống đất, khoác vội cái áo trây-di cũ dài tay lên người, thằng Nèm vội vàng bước xuống mương ở đầu hông nhà. Hắn chống xuồng vô đồng sen, giở chà đổ lợp, đem cá về để ông Nội kịp phiên chợ sớm và hắn kịp giờ học buổi sáng.
Con Kỷ đứng dựa gốc cột hiên nhà nhìn vào phía bên trong cửa sổ, nơi bà Hai đang ngồi may. Dãy hàng lụa vải đủ màu treo ngay ngắn trên sợi dây thép giăng cao phía sau lưng bà Hai đong đưa vui mắt.
- Từ rày trở đi hễ Rằm Mồng Một đi hái bông sen bán, Nội để con đi một mình nghen. Ði với Nội hổng vui gì hết.
- Trời đất. Cái con này, mày lại sanh chứng rồi. Chống xuồng vô trỏng, ngắt lẹ bông sen cho đầy xuồng rồi trở ra để kịp bán cho người ta cúng Rằm cúng Mồng Một thì vui cái mửng gì không biết.
Con Kỷ ngúng nguẩy kể lể.
- Thì mới bữa hổm đó... Bông hái đầy xuồng rồi trời còn sớm bưng vậy mà xin Nội leo lên chòi ngồi ngó lung một chút, Nội cũng không cho.
Bà Hai Sen ngó ra phía bờ kinh, giọng bà mừng rơn.
- Cái thằng này linh thiệt. Vừa tính nhắc tới nó là đã thấy ló mặt ra rồi.
Thằng Nèm lúi húi cột xuồng vào gốc cây ô môi, lủng lẳng xách hai con cá bông lau to bằng bắp chân, bước vào nhà.
- Nội Bảy biểu tui đem cá qua cho bà Hai. Mấy bữa rày cá ăn lợp quá trời.
Bà Hai nhìn theo con Kỷ xách cá đi xuống bếp.
- Con Ngọc Kỷ đứng cự nự tao nãy giờ đó. Nó muốn chống xuồng đi ngắt sen một mình. Con Kỷ hậm hực.
- Nội sợ đủ thứ hết. Sợ tui bị lật xuồng, sợ tui lên chòi chơi nằm ngủ quên rồi trễ chợ. Thằng Nèm cười. Mắt hắn nhìn thẳng thắn vào mặt con Kỷ.
- Trời đất! Bà Hai khéo lo. Con Kỷ nó lớn trộng rồi, qua hè này là vô trường trung học chớ còn nhỏ nhắn gì nữa mà bà Hai lo cho mệt.
- Vậy thì... Nèm à, mầy coi cho con Kỷ chống xuồng theo rồi chờ khi nó ngắt sen xong thì dẫn nó trở ra. Rồi mầy cho nó quá giang đi học luôn.
Thằng Nèm gật đầu nhìn con Kỷ.
- Tui chống xuồng lẹ lắm à nghen!
- Tại bà Nội tui nhờ chớ tui đi mình ên cũng được vậy.
Con Kỷ xách rổ xuống xuồng ngồi làm cá. Cây ô môi trải bóng mát rượi lên bến nước. Dáng thằng Nèm dõng cao trong cái áo lính cũ dài tay đang bơi xuồng về nhà bên kia bờ kinh. Mái dầm khua động con sóng nhỏ làm lao xao bến nước nơi con Kỷ đang ngồi. Lùm cây điên điển trước nhà thằng Nèm nở bông vàng rực đong đưa cơn nắng đầu mùa hạ.
Từng ngày hè rộn ràng qua như lòng dạ con Kỷ nôn nao chờ tới Mồng Một, Rằm để theo thằng Nèm đi hái sen trong đồng. Tiếng súng xả giới nghiêm vừa vang lên đánh thức dòng kinh đang ngái ngủ là con Kỷ đã chống xuồng tới đầu mương đứng chờ. Ông già Bảy đã thức dậy từ lâu. Ông ngồi im lìm uống trà chờ sáng trong bóng tối dưới hiên nhà. Ông Bảy hối thằng Nèm sau cơn ho rũ rượi đến xốn ruột người nghe.
- Nèm à, mầy rị mọ gì trong đó mà lâu quá vậy? Cháu chị Hai Sen đang chờ dưới bến kìa. Thằng Nèm khoác vội chiếc áo lính cũ, múc nước rửa mặt, ngửa cổ uống một búng nước, súc miệng rồi ba chân bốn cẳng nhảy xuống xuồng.
Con Kỷ thơ thẩn bơi xuồng lựa ngắt những búp sen lớn tươi tắn. Từng bó sen trắng hồng xen lẫn nhau nằm ngay ngắn trên lớp lá sen xanh lót trên xuồng. Mùi thơm của sen quyện ngát trong hương đồng cỏ nội buổi tinh mơ khiến tâm hồn con Kỷ lâng lâng một niềm vui khó tả.
Thằng Nèm hà tiện lời ăn tiếng nói. Hắn im lìm chống xuồng quanh đồng sen giở chà đổ lợp. Tiếng cá quẩy nghe thật vui tai. Thỉnh thoảng lại nghe hắn chắc lưỡi tiếc rẻ vì một con cá to vuột khỏi chà lội mất.
Thường thì thằng Nèm xong sớm trong lúc con Kỷ vẫn còn nhởn nhơ lưỡng lự với mấy cánh sen trắng hồng lớn nhỏ. Hắn chống xuồng về chòi, thay áo quần khô, rồi phụ con Kỷ ngắt sen và gói
riêng một bó sen trắng để nội Bảy cúng chùa.
Một bữa cuối mùa, hái sen xong sớm con Kỷ bơi xuồng trở ra, vô tình nhìn thấy thằng Nèm đang đứng ở truồng giồng giổng trong chòi thay áo quần. Con Kỷ mắc cỡ, má nóng rần, sẹ sẹ quay xuồng ngồi nín khe giữa đám sen rậm.
Mặc cho thằng Nèm hỏi han, con Kỷ te te chống xuồng thật nhanh về nhà trước, không một tiếng chào. Hắn chống dầm nhìn theo dáng con Kỷ đang khuất dần sau đám ruộng đước rồi lắc đầu chèo xuồng đi ngắt sen trắng cúng chùa.
Con Kỷ bước như chạy vào nhà, khép cửa buồng, trùm mền nằm im. Nó nhắm nghiền đôi mắt, lắng nghe thân xác tê rần trong cảm giác thẹn thùng khó tả. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, lạ lùng bấc giác mà thôi thúc. Con Kỷ ngồi dậy nhìn vào tấm gương treo trên vách đất. Mặt con Kỷ đỏ hồng, đôi mắt long lanh. Trong một phút giây huyền hoặc, vết chàm trên mặt trở thành cánh sen đọng lung linh trên gò má hây hây hương sớm. Con bé run rẩy cởi từng khuy nút áo, nhìn trộm cặp vú mình trong gương đẹp như hai búp sen hồng. Trong mộng mị, con Kỷ đứng lên trút bỏ hết áo quần. Lần đầu tiên trong đời, con Kỷ nhìn thấy thân thể mình từ một góc cạnh hớ hênh. Ngọc Kỷ cảm thấy mình đẹp đến lạ lùng.
Mùa hè năm sau, thằng Nèm thi trung học. Hắn bảnh bao trong bộ áo sơ mi trắng quần kaki xanh bà Hai Sen may cho, theo tắc ráng ra Cao Lãnh dự thi. Ông trời quá cay nghiệt với hai ông cháu thằng Nèm. Ông Bảy Chà ngồi chết gục ở đầu hiên nhà không kịp chờ kết quả thi của thằng cháu nội. Cái lợp đan dở dang nằm lăn lóc bên hộp thuốc rê đổ tung trên nền đất. Búng máu ứ trong lồng phổi làm ông mất ngủ ho khan từ mấy năm nay đã trào vọt ra loang lổ mặt đất của cõi trần gian đầy tai ương đày đọa.
Chôn cất ông Nội xong, thằng Nèm đốt cái chòi tranh nhỏ bên bờ mương, ăn bữa cơm cá lóc kho với bà cháu con Kỷ rồi bỏ đi. Thằng Nèm về Bạc Liêu ở chùa đi học. Bà Hai Sen đứng dưới hiên nhà ngó vói theo bóng thằng Nèm lầm lủi đi dọc theo bờ kinh. Bà thầm nghĩ, thằng Nèm sáng dạ thế nào cũng học hành tới nơi tới chốn.
Con Kỷ ngồi buồn nhìn hai cái xuồng nhỏ nhoi nằm bên nhau dưới bóng cây ô môi. Nó nằm khóc hết mấy đêm liền và biết bao đêm sau đó trong đời. Những đêm nằm trằn trọc mường tượng cơn gió đồng nội mơn man miền châu thổ xuân thì, lấp lửng bóng dáng thằng Nèm vạm vỡ đứng bên chòi tranh rạo rực hương sen.
Thi đậu tú tài xong thằng Nèm về Mỹ An thăm mộ Nội và bà con chòm xóm. Con Kỷ cũng đã lấy được bằng trung học, đang chờ đi Sài Gòn học trường Nữ Quân Nhân. Ðứng trước mặt hai bà cháu là một nhà sư trẻ, thư thái trong chiếc áo tràng màu lam. Nhìn bà Hai Sen có vẽ kính nể lúng túng, thằng Nèm đỡ lời.
- Bà và cô Hai Kỷ cứ gọi cháu là Chú Tuệ cho tự nhiên. Ở chùa đi học, gần kinh kệ nên cháu đã thí phát quy y được gần hai năm nay.
Bà Hai Sen lăng xăng hối con Kỷ ra chợ mua thức ăn về nấu cơm chay đãi khách. Chú Tuệ tươi cười từ chối.
- Bà Hai đừng lo. Chút nữa cháu xin phép vào đồng sen hái mớ sen trắng cúng chùa, nhân tiện bứt một mớ bông súng về luộc chấm tương chao là được rồi.
Chú Tuệ đứng bên gốc ô môi đưa mắt nhìn về bãi đất trống ở đầu con mương phía bên kia bờ kinh.
- Mới đó mà đã ba năm rồi. Thời gian qua nhanh quá phải không cô Hai? Ðứng đây mà tui tưởng như thấy Nội Bảy tóc búi củ hành, ngồi đan lợp dưới bóng nắng. Cơn ho khan vừa dứt là miệng đã phì phèo điếu thuốc rê.
Ngọc Kỷ đưa mái dầm cho Chú Tuệ.
- Vậy mà tui cứ nghĩ là chỉ mới đây thôi... Ðể coi Chú Tuệ có còn nhớ chèo xuồng không nha?! Cái xuồng cũ của chú vẫn còn đó.
Cuối hè, sen đã qua mùa rộ. Lác đác trên hồ những búp sen vừa chớm nở, ngại ngùng náu mình dưới tàng lá cao vượt khỏi mặt nước đang trở màu nâu. Ngọn gió đồng nhè nhẹ thổi đùa từng cánh sen tàn tả tơi rụng trắng hồng mặt nước. Ðài sen e ấp nhụy vàng thuở thanh xuân giờ trơ trọi một màu xanh đậm, cứng cỏi phơi mình trong nắng chiều. Chú Tuệ thơ thẩn bơi xuồng,
tìm ngắt những búp sen trắng đẹp hiếm hoi cuối mùa.
Lúc chú Tuệ chèo xuồng trở ra, Ngọc Kỷ đang ngồi chờ ở góc chòi. Thiếu bàn tay chăm sóc của ông cháu thằng Nèm, cái chòi dựng bằng cây tràm giữa đồng sen trở nên cũ kỹ rách nát. Chú Tuệ giở nón lá, đưa tay áo lau mồ hôi rướm trên mặt đỏ hồng vì nắng. - Tui vẫn lo cái chòi đã bị hư mục rồi.
Ngọc Kỷ cười, lắc đầu.
- Không có Chú thúc bên lưng nên sau mỗi lần ngắt sen, khi nào tôi cũng nằm đây ngó lung một hồi rồi mới chống xuồng về nhà. Mùa hè này tui còn ra đây học thi nữa đó. Chú Tuệ sắp bó sen cho ngay ngắn, nhìn trời.
- Tui phải đem sen ra chùa cho kịp cúng lễ chiều. Cô Hai đã muốn về chưa hay vẫn còn muốn ở lại ngó lung trời nước.
Ngọc Kỷ chào từ giã chú Tuệ. Nàng ngồi yên nhìn nhà sư trẻ chống xuồng ra kinh lớn. Cái nón lá của chú Tuệ nhấp nhô, xa dần, rồi mất tăm sau đám ruộng đước.
Nàng muốn ở lại với hình ảnh thằng Nèm đứng bên chòi buổi sáng hương nồng. Nàng muốn ở lại với con Kỷ buổi trưa gió nội thênh thang chòi vắng. Mắt nhắm sau tàng lá sen xanh biếc che đầu, không còn nghĩ suy, không còn vết chàm thâm trên mặt mày thô xấu. Còn lại bàn tay rịt chặt thân xác mình. Còn lại cơn gió mơn man vùng châu thổ sơ khai. Còn lại nàng. Riêng nàng...
Mấy tháng ở trường nữ quân nhân rồi cũng qua. Ngày ra trường được thuyên chuyển về quân y viện Cần Thơ, Ngọc Kỷ mừng như bắt được vàng. Thành phố xô bồ lường đảo. Bầy nữ binh thèm khát, bạo dạn đến thô lỗ. Tất cả chỉ làm nàng nhớ thêm dòng kinh êm đềm, tiếng máy may Nội trầm đều buổi trưa vắng, âm vọng lời kinh giảng mang điệu buồn cải lương xao xuyến nguyệt rằm. Nàng nhớ đến mặt hồ sen lung lay bóng nàng trên chiếc chòi cây xiêu đổ, gió rưng rưng cơn mộng tưởng bọt bèo.
Từ gần một năm nay, công việc ở bệnh viện tuy bận rộn đã giúp Ngọc Kỷ tìm được yên ổn trong cuộc sống. Chuyến xe lam đưa nàng trở về căn nhà mướn bên rìa thành phố mỗi ngày, lúc bến xe ngoại ô đã lên đèn. Có khi là chuyến xe đầu ngày, gã tài xế còn ngái ngủ trễ nải dừng bánh cho cô gái giang hồ đáp xe về nhà. Cũng như nàng, cả hai đều phờ phạc sau một đêm mất ngũ. Liếc nhìn nàng kiều phấn son trên chuyến xe tình cờ, nàng chợt nhếch môi cười vì ý nghĩ so sánh ngộ nghĩnh mà buồn bã thoáng qua đầu. Ít ra cô gái đã không phải săn sóc vuốt ve phần cơ thể đàn ông mềm nhũn, thiếu sinh khí, lắm khi thương tích máu me. Những người thương binh chỉ vừa hồi phục đủ để biết ngượng ngùng khi người nữ y tá đụng chạm đến phần thân thể vẫn còn bạc nhược của mình thì đã xuất viện. Trang báo ngoại quốc dơ dáy hình ảnh khỏa thân, làm tình kiểu cách, đã bị bỏ lại không tiếc rẻ dưới tấm nệm giường lúc họ vội vã trở về với đời sống phấn động bình thường. Những lúc như vậy nàng nhớ tới thằng Nèm đến quay quắt. Trong khuya khoắt, căn phòng vắng lặng nằm sâu trong ngõ hẻm là cõi bơ vơ nàng với cơn mất ngũ trở lăn trong thườn thượt thở dài. Ðêm bừng con nước khát khao. Ngón tay mồ côi như từng cánh sen hồng rụng tả tơi trên vùng châu thổ hoang sơ cỏ mượt suối khe.
Người sĩ quan Hải Quân nằm điều trị hơn hai tuần lễ rồi chờ khám xuất viện. Ông quan tàu trẻ tuổi vui tính đã giúp khu điều dưỡng bớt buồn hơn. Gầy xanh trong bộ quần áo bệnh viện, anh chàng chống người trên chiếc gậy bằng gỗ tràm, cố gắng đi từng bước nhỏ vì vết thương đau. Anh chậm chạp tới lui giữa hai hàng giường bệnh, thỉnh thoảng đứng lại tán chuyện nhà binh với những sĩ quan còn nằm liệt giường hoặc chuyện trò bâng quơ với hai người y tá.
Ngày xuất viện không vui như anh chờ đợi. Người sĩ quan nhìn quanh phòng bệnh yên lặng. Chàng như vừa tỉnh dậy từ một cơn mơ dài. Ðầu óc váng vất những hình ảnh hỗn độn, úng ấp không thành tiếng. Tất cả bắt đầu từ một ngày bình thường trong chiến tranh. Dòng kinh quen. Cánh đồng lúa vừa chín tới. Những người nông dân lo lắng bỏ ruộng về nhà vì chiến trận hiện hình. Ðoàn giang đỉnh phơi mình dọc theo bờ kinh. Cánh rừng tràm nằm đen đúa im lìm như vết chân trời vây khốn, rập rình đe dọa. Vài chiếc trực thăng chao đảo trong bầu trời không mây xanh ngắt như bầy cá óc nóc quẫy đuôi trong chiếc thau nhựa xanh thời tuổi dại. Những tràng súng liên thanh từ hai phía réo tràn trong không gian. Làn đạn vô tình xé gió, gặp nhau đâu đó trên trên nóc cánh đồng làm run rẩy màu vàng rộm của từng nhánh lúa vô tội. Viên đạn lẻ cắm sâu
vào thân thể. Chút âm thanh sắt gọn lao đến bất chợt như một điều không dám nghĩ. Những hơi thuốc, không giảm được cơn đau, hụt dần vì máu đổ bên trong làm căng ngạt thân thể. Ðôi mắt ríu lại. Tiếng cánh quạt trực thăng chập chùng chao đổ. Chiếc khăn lót đầu vụt bay, trắng dịu mơ hồ. Vầng sáng lảo đảo vô nguồn. Màu đen phủ chụp tràn lấp thinh không. Bóng tối. Phòng hồi sinh trắng đục mịn màng, im lặng như hư vô. Khu điều dưỡng. Những người thương binh mới trong cuộc chiến. Người chị, bà mẹ, nhẫn nại thương em, thương con, từ thuở ẳm bồng vẫn cũ kỹ ấm lòng như điển tích dịu dàng. Cô y tá hiền hậu có khuôn mặt xấu xí mà vóc dáng căng ấp bị mặc cảm trùm kín trong bộ đồ lính thùng thình. Bầy con gái thành phố áo màu và nỗi buồn thời thượng. Dự định trở về. Mái tóc dài theo đợi chờ làm xao xuyến cơn mơ có rực rỡ giàn bông giấy trước sân nhà bên kia con dốc thành phố mặn gió.
Người sĩ quan thở dài nhìn khoảng trời xanh bên ngoài khung cửa lá sách trên vách cao. Anh chào từ giã những thương binh còn nằm lại. Sờ lên khuôn mặt gầy xanh, cánh tay khẳng khiu, phần còn lại của đôi chân, vụng về nói lời chào ra đi ở lại mà lòng buồn muốn khóc.
Người sĩ quan Hải Quân chống gậy bước ra khoảng sân trước khu điều dưỡng, ngỏ lời từ biệt người nữ y tá đang đứng chờ dưới bóng cây bã đậu. Anh trao nàng gói quà nhỏ, tay vuốt hờ lên vết chàm trên mặt cô gái. Bàn tay quyện thành vết lăn rờn rợn trên má, lên bờ cổ trắng ngần, rồi đọng lại cơ hồ khóe ngực nguyên sơ.
Cô gái mở hộp quà trang trọng chiếc mặt nạ thiên thần tuyệt đẹp, mắt đọng hồi lâu trên mảnh giấy nhỏ thân tình đôi hàng chử viết. Hởi nàng tiên hiền dịu, hảy mang chiếc mặt nạ này thường xuyên để thấy khuôn mặt thật của mình. Nàng ôm chiếc mặt nạ vào lòng mà nước mắt rưng rưng nỗi xúc động không cùng. Trong một thoáng, xác thân nàng tan lướt theo từng cánh sen hồng trong gió nội. Nàng nhớ đến Nội móm mém buổi trưa nắng hiên nhà. Giọt nước thơm bồ kết gội đầu nhột nhạt lăn trên đỉnh vú thanh tân. Nàng nhớ đến đôi mắt nàng nhìn nàng lạ lẫm trong chiếc gương con treo trên vách đất. Dáng vóc lồng lộng xuân thì, ngỡ ngàng ngón tay quen bịn rịn bờ cỏ mượt. Nàng nhớ đôi mắt thằng Nèm thẳng thắn nhìn vào mắt nàng rồi vô tư ở đó. Vô tư ra đi, để lại hình ảnh thằng Nèm trần cứng bên chòi giữa đồng sen ngạt ngào hương sớm. Những gì ở lại trong cặp mắt thanh xuân mở lớn vẫn làm tê rần cảm giác lúc nhớ về, trong thường trực chiêm bao.
Nàng nhìn theo người đàn ông. Bóng người còn trong tầm mắt mà nàng đã nhớ đến đôi mắt cười đa tình. Ðôi mắt nhìn chân thành, không vội vàng lẩn tránh, không e dè tội nghiệp. Ðôi mắt vời vợi ý tình khiến nàng muốn nhắm mắt đợi chờ để cảm nhận trong vô vàn dâng hiến tia nhìn làm rợn từng tia máu dưới da mình.
Ðêm trở về sâu lắng cõi riêng nàng, đằm thắm cơn mộng du tình yêu với khuôn mặt thiên thần. Ðôi tình nhân ngồi bên nhau trong quán vắng bến sông mờ ảo ánh đèn. Lời nhạc tình huyễn hoặc, lượn lờ cánh hạc vàng bay bỏ lại trời mơ. Dòng sông đêm mong manh, mơ hồ con sóng e ấp bờ lau. Khu xóm trần ai bên kia bờ chìm sau rặng xa, thăm thẳm chân trời. Mỗi ngọn đèn lu lay lắt trong đêm là mái ấm gia đình, là những trái tim chất chứa hy vọng khổ đau. Ðêm dạt dào trôi vào trong tiếng thở dài của dòng sông. Giọng hát sầu vương quyến luyến dư âm rồi cuốn chìm trong làn nước.
Họ đưa nhau trở về. Căn nhà nhỏ u hoài mỗi đêm về chợt hạnh phúc mượt mà, êm đềm chăn chiếu. Người đàn bà nằm đắm say trong cơn bão tình yêu. Chiếc mặt nạ thiên thần lăn lóc bên giường. Trong đêm hôm, khuôn mặt thiệt thà của tình yêu hiện hình, rưng rưng máu thịt. Người đàn bà trở mình khi cánh sen hồng ngỡ ngàng rơi lên thoáng chốc nhân duyên làm chao động giấc mơ nàng. Khung cửa hẹp mở khép âm thầm. Mơ hồ bóng người đàn ông bỏ đi mang theo mùi hương sen châu thổ...
Trôi Sông
Phan Thái Yên
Trời chưa muốn sáng. Không gian còn sũng hơi nước từ cơn mưa hạ về qua lúc cuối đêm. Người đàn bà thức giấc vì tiếng mưa rì rào trên mái tranh rồi không ngủ lại được. Chị nằm trong căn nhà lạ lắng nghe tiếng nước giọt chạm vào máng tôn lanh canh đều đặn đâu đó phía ngoài hiên. Mưa tạnh rồi tiếng chim từng đàn bay. Âm thanh quang quác bay ruồng trên mái nhà rồi nhỏ dần mất hút nghe buồn buồn. Chưa kịp trở mình trên chút im vắng vừa có được, tiếng bầy chim khác lại xao xác bay qua. Chim gì mà lạ quá, chị thầm nghĩ, hình như chỉ bay theo một đường từ phía sông ra biển. Chị chưa hề nghe tiếng chim bay đàn vào buổi sáng bao giờ. Những ngày ở Nông Sơn, chị còn quá nhỏ chẳng còn sót gì trong trí nhớ, mơ hồ họa chăng tiếng chim tu hú kêu bầy trong đám mía còi dọc theo bến đò Cà Tang. Tháng năm lưu lạc theo chồng xuống tận miệt dinh điền Đồng Tháp tràm đước mênh mông riết rồi quen với hình ảnh từng đàn le le trên cánh đồng năng nước nổi. Hồi đó chị nhìn chim bay mà thương chúng sao quá lẻ loi trong lướt thướt ráng chiều. Thương mình sao lẻ loi giữa đất Sài Gòn hồi ba mẹ con hẩm hiu với nhau sau khi chồng chị qua đời. Sau ngày giải phóng, mẹ con phải bỏ trống căn nhà nghèo nàn cuối xóm bên bến đò Thủ Thiêm lên vùng Bình Dương đi kinh tế mới theo lệnh của nhà nước. Những buổi trưa trong căn chòi gió luồn vách thưa, tiếng chim cu rúc trong bụi chuối xơ xác mấy tàu lá khô vàng nghe mà buồn nhảo cả ruột.
Người đàn bà khoát mùng ngồi tư lự chờ sáng. Những vệt sáng mờ len qua vách nhà làm nhạt dần bóng tối trong phòng. Giờ này có lẽ thằng Lai con Lụa đã thức dậy cụ bị lên rẫy. Chị gạt nước mắt nhớ con, với tay quấn chiếc khăn rằng lên đầu rồi làm dấu thánh giá âm thầm đọc kinh cầu nguyện. Tiếng kinh hòa quyện theo nhịp thở đọng thành tràng giọt vô thanh lặng rớt vào hồn giúp người đàn bà lấy lại chút lòng bình thản. Chị xuống giường sẹ bước ra gian trước lờn vờn ánh sáng tỏa ra từ cái đèn hột vịt đặt trên bàn thờ. Tấm hình đôi vợ chồng đặt bên bài vị rờn rợn vắng xa. Chị đứng nhìn sửng vào đôi mắt hiền từ mà nghiêm nghị của người anh họ. Hơn bốn mươi năm suốt cuộc đời luân lạc của chị thoắt hiện trở về. Từ đầu nguồn sông Thu hắt hiu ghềnh Đá Bát bên bến Cà Tang nước cuộn, chị đã nổi trôi qua bao dòng sông bến nước để rồi chiều qua tình cờ thấy mình trở về đứng lạc loài nơi cuối dòng sông thơ ấu.
Cha chết năm chị lên mười vào giữa thời chín năm kháng chiến. Cả đoàn dân công tải đạn ra mặt trận bị máy bay Pháp rượt bắn. Xác cha đứt mất chân nằm trong cái hòm gổ sung xộc xệch được hàng xóm trong đoàn gánh chạy từ Trung Phước về bến đò trên chiếc vỏng đan dây dừa. Cha yên phần ông, mộ đắp trên ghềnh Đá Bát ấm áp khói hương. Chị thế cha giúp mẹ chèo đò đưa dân làng qua về bến sông kiếm sống. Hai mẹ con chèo chống rồi cũng qua những ngày sông Thu mùa lũ, ghe tròng trành quay như lá giửa dòng.
Kháng chiến thắng lợi mà đất nước thì bị chia đôi. Có điều phần được chia của kháng chiến lại nằm tuốt bên kia bờ Bến Hải phía ngoài Cửa Việt, Đông Hà. Người dân khốn khổ qua chín năm sống tiêu thổ chui rúc nay lại được kết nạp dỗ dành ai đi tập kết, ai ở lại nằm vùng.
Cô gái đưa đò tuổi vừa mười sáu hây hấy xuân thì lọt vào cặp mắt toan tính của các mẹ các chị trong hội Phụ Nữ xã và kế hoạch lâu dài của cách mạng. Thế là sau vài lần họp hành thuyết phục, duyên phận chị được định đoạt. Anh bộ đội người Đại Lộc về đóng chốt ở khu chiến Nông Sơn, hơn cả giáp tuổi, đã trở thành chồng của chị. Người thanh niên ít nói rụt rè giúp vợ chèo đò mấy tuần lễ trước ngày tập kết. Rồi đi.
Bộ đội ra Bắc. Không còn cán bộ Phụ Nữ họp hành kiểm thảo, không biểu tình, hết vót chông đào hầm, hết dân công tải đạn…thôn xóm vắng buồn như bến sông hẩm hiu con đò neo vắng khách. Đàn bà ở lại, có người không chồng mà tay xách nách mang. Nhiều người bụng đã lùm
lùm thai nghén. Trong đó có nhiều cô gái còn bẽn lẽn dáng tân hôn, vụng về bước đầu làm mẹ. Những câu nói ngon ngọt dỗ dành trong các buổi họp phụ nữ trước đây trở thành niềm hi vọng cho những người đàn bà chờ chồng. Tập kết chỉ là tạm thời thôi vì hai năm sau sẽ có bầu cử, hiệp thương. Bộ đội đi rồi bộ đội sẽ về. Xóm làng rớt vào cảnh hồi hộp đợi chờ.
Ngày quốc gia tiếp thu mà ai nấy đều lo sợ vì nhiễm tuyên truyền rồi cũng lặng lẽ đến. Không thực dân đế quốc, không lê dương hảm hiếp, chẳng máy bay cà nông, chẳng súng ngắn súng dài. Chỉ lá cờ vàng ba sọc đỏ lặng lẽ bay trước sân ủy ban. Chừng như đã qua lâu lắm rồi cái ngày những người cán bộ ưu tú của cách mạng bước khỏi bong tàu Ba Lan, lạ lẫm từng bước chân dép lốp Bình Trị Thiên trên bến tàu ở Vinh hay Hải Phòng rồi biến mất âm thầm trong lòng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cũng ông hương kiểm, ông tổng, ông lý trưởng trước hồi chín năm sống sót qua những đêm đấu tố địa chủ việt gian, nay là thân hào nhân sĩ, là xã trưởng, ấp trưởng. Cũng anh du kích hôm nào nay là nghĩa quân dân vệ, bận rộn vào ra không mục đích qua khoảng sân trước ủy ban lầy lội những ngày mưa. Cụ Diệm thì vẫn anh minh và lùn, duy chỉ cô em dâu thì ngày càng ngoa ngoắt hơn.
Nước sông Thu Bồn vẫn đêm ngày cuồn cuộn chảy qua bến Cà Tang. Cô gái vẫn giúp mẹ chèo đò. Dáng dấp nàng vẫn thon gọn xuân xanh trong lúc bụng chửa những người đàn bà có chồng tập kết ngày càng phểnh ra. Nàng chẳng hề hé môi cho ai biết về những ngày hôn phối của mình. Cô gái chẳng buồn nhớ và cũng chẳng tiếc rẽ chi sự vồ vập nửa vời hằng đêm của người thanh niên. Chỉ còn lại sự trở lăn lạ lẫm giữa đêm, một mình với cơn xúc động mồ côi rịn ràn vùng hạ lưu phong kín mép bờ. Còn lại nỗi phiền bực bị mang tiếng có chồng đi tập kết, nhiều tối phải chiếu gối đến trụ sở ấp mà ngủ trong tiếng muỗi vo ve, sàm sở ánh đèn pin của toán dân vệ và lời ghen tương than thở của đám đàn bà bụng bầu vượt mặt.
Những đứa con được sinh ra, lớn lên âm thầm như bóng trong nỗi đợi chờ, hi vọng một đoàn viên. Tình cảm gia đình, lòng thương yêu chồng con của người đàn bà Việt Nam đã xốc họ đứng dậy, dắt díu đứa-con-hiệp-thương nay đã biết chạy biết đi đòi tìm cha. Đúng như kế hoạch cách mạng đã đề ra bốn năm năm về trước. Một số cán bộ nằm vùng lác đác lộ diện hay tập kết lén lút trở về. Những nấm mộ chôn vũ khí được bới lên. Chiến tranh lại tiếp diễn trên đất nước đã quá nhiều đau thương bom đạn.
Mùa lũ năm đó người mẹ chết. Buổi chiều tang thương trên đầu sông Thu, con gái không kịp cứu được mẹ lúc chiếc đò lật úp giữa dòng nước xoáy. Mai táng mẹ bên cha nơi mộ phần lặng lẽ đầu ghềnh, cô gái bỏ đò bỏ bến xuống Hội An tìm sống.
Vợ chồng người anh họ cho cô về ở làm việc nhà và giúp săn sóc đứa con thứ hai của họ vừa chập chửng biết đi. Cô gái thích cuộc sống mới, không mấy bận rộn nhọc nhằn lại có đồng ra đồng vào nhờ nơi ăn chốn ở đã được chu toàn. Người anh họ là công chức ở thị xã, ông nghiêm nghị mà nhân từ. Người vợ dễ mến tuy bận rộn với cửa hàng tạp hóa bên phố chợ vẫn thu vén việc nhà và săn sóc con nhỏ. Bé Nhi ngoan hiền đang học tiểu học và cu Niên bụ bẩm mau lớn hơn những bé cùng tháng tuổi.
Phố Hội An tuy nhỏ nhưng đối với cô gái chèo đò từ vùng núi quê heo hút thì dãy phố xưa ngoằn ngoèo thâm thấp từng gian nhà mái ngói âm dương rêu đọng đã có một sức thu hút kì lạ. Giữa giấc trưa trong sân nhà bốn bề tường vây tĩnh mịch, chiếc phong linh treo dưới vòm cổng lặng câm chờ gió như bóng lá im lìm trên mặt đất. Qua mấy ô tròn trên cánh cổng nhìn thông ra phố, nhịp ngói mái nhà xiên xiên nối tiếp nhau địu vời từng vạt nắng xuống lòng đường phố xuôi dài như dãi sóng vàng quánh bất tận. Phía ngoài đó là cuộc sống. Là định mệnh đang chờ. Lòng cô gái náo nức muốn xô rộng cánh cửa bước ra.
Giữa đám đông người một đêm hội thả đèn họ đã tìm ra nhau. Hai tia mắt chạm nhìn rồi quay mặt, trốn tìm mà đã thuộc về nhau chẳng chịu rứt rời. Ở một đầu là cô gái không thướt tha, dáng vóc tảo tần, khuôn mặt còn son mà đôi mắt sớm buồn. Phía kia là anh lính dáng người đen đúa rắn rỏi, nét mặt thô chai sạm với tia mắt thu hút dữ dội của một con thú dữ săn mồi. Định mệnh đã khiến cô gái nhìn sâu vào đôi mắt đó.
Nhiều năm sau này, những lúc chị hồi tưởng về Hội An là nhớ về tháng ngày sôi nổi, thật sống với khát vọng yêu đương rực lòng cô gái đôi mươi. Quá khứ hằn lên trí nhớ những vết sướt cào
tưởng còn tươm máu từ ngón tay sắc nhọn đam mê bấu lên da thịt. Những đêm hẹn hò trong góc vắng dưới chân Chùa Cầu hay trong bóng tối hiên đình Cẩm Phô là những lần thân xác tan nhập vào nhau chật cứng sổ sàng. Anh lính ôm người yêu thì thầm kể chuyện nhà với giọng nói miền ngoài xa xôi lạ lùng. Chuyện anh sắp mãn quân dịch muốn đưa cô gái về nhà tuốt tận trong Nam. Cô gái rướn nhận ngón tay thô tháp mân mê lên bờ ngực vun mềm rồi mơn động không ngừng trong thân thể nàng. Lịm người trong cảm giác trơn tuột, cô ghì siết vòng tay thêm chặt lên bờ lưng cuồn cuộn, môi hả trào bật cắn khoảng vai sạm nắng đượm mặn mồ hôi và máu rướm. Sức nóng cuồn cuộn của con trốt thô cứng xoáy từng cơn ruồng rật vào hang động làm chảy tan đầm đìa phún thạch. Bờ vai chắc nịch không ngừng nhấp nhô và nước sông Hoài dập dềnh xuống lên theo cơn gió thốc.
Cô gái biết ra mình có thai gần như cùng lúc tin người yêu được mãn quân dịch về lại quê nhà. Tuổi trẻ có những dại khờ của nó. Thay vì nói thật cho vợ chồng người anh bà con biết để lo việc cưới xin rồi chính thức theo chồng, cô gái bỏ nhà trốn theo người yêu.
Gia đình chồng gốc người Nùng di cư từ miền Bắc vào Nam sau ngày đất nước chia đôi. Cả họ đạo theo vị cha sở định cư sinh sống tại một khu dinh điền trong Đồng Tháp Mười. Vợ chồng sống yên ấm trong căn nhà nhỏ ở đầu con kinh Xáng thẳng tắp chảy ra Đồng Tiến. Lần đầu tiên trong đời, chị được sống trong ngôi nhà của riêng mình, hạnh phúc đơn sơ. Anh làm ruộng, chăm nuôi bầy vịt đẻ, và làm trưởng cái đồn dân vệ vỏn vẹn nửa tiểu đội dân quân đóng bên bờ kinh Ngang. Từ nhà người vợ có thể nhìn thấy lá cờ vàng quốc gia chấp chới bay trên nóc đồn. Cờ treo lên sào tre lủng lẳng sợi dây ăng-ten của chiếc máy truyền tin, phương tiện liên lạc duy nhất với đồn chính ở khu Hai và các đồn khác trong vùng, chỉ huy bởi một ông thiếu úy già Hòa-Hảo-đồng-hóa say sưa tối ngày.
Những ngày chồng lùa vịt vô đồng ăn lúa sót sau mùa gặt, chị nôn nao chờ, mặt trời chưa kịp lửng trưa đã chống xuồng bới cơm cho anh. Rạ mới dòn thơm là nệm chiếu ấm êm trong cái chòi vịt giữa cánh đồng vắng ngắt. Vợ chồng trần truồng giữa trời nước. Cảm giác hạnh phúc nhất là thói quen của nhau sau mỗi lần thỏa thuê cảm giác. Anh ngắm nhìn vợ đẩy đà bước xuống dòng kinh, chị đưa tay bới tóc cao rồi quay lại đón mời. Lùm điên điển lung linh trên triền nước trong nắng gió hây hây đồng nội. Chị đứng trâng nhìn chồng chắc nịch tồng ngồng xốc khỏi rơm rạ bước về phía chị. Họ trầm mình vào dòng nước mát hân hoan.
Cuộc sống gia đình êm đềm trôi theo từng mùa nước lớn ròng. Chị sinh thằng Lai rồi con bé Lụa. Cánh đồng vẫn bao la vắng ngắt, nhất là vào buổi trưa. Bầy vịt đẻ vẫn xúm xít bên đám ruộng nước mãn mùa, có khi chúng ngưng rỉa tìm nghiêng đầu hồi lâu nhìn đàn vịt trời đang sải cánh bay. Cánh đồng bất tận biết đâu phương hướng mà về.
Chị ở yên với gia đình chồng con chẳng để ý chi tới tình hình đất nước ngày càng chộn rộn. Anh em ông Diệm bị đảo chánh, chết bất đắc kì tử. Chiến tranh ngày càng lan rộng. Chồng chị phải vô đồn ngủ thường hơn. Rồi tai họa chụp xuống gia đình. Một bửa trưa chống xuồng mang cơm vô chòi vịt cho chồng thì thấy anh nằm hấp hối trong đống rơm. Lưởi mã tấu ngập sâu vào bụng, máu thấm ướt loang chiếc áo trây-di. Bản án cách mạng trừng trị tên trưởng đồn tay sai mỹ ngụy cũng bê bết máu. Chị hốt hoảng khóc ròng lúc anh gượng tỉnh dặn dò trăn trối. Chị cuống quít đẩy chồng máu me ra tới kinh Xáng rồi theo xuồng máy mới nửa đường tới bến đò An Long thì anh qua đời.
Chị nuốt đau thương chôn cất chồng. Buổi sáng sau ngày mở cửa mả, chị dắt con đến khu Hai gặp người trưởng đồn. Ông Thiếu Úy già giật mình tỉnh rượu. Chiếc xuồng máy chở ba mẹ con phóng thẳng ra Chợ Mới cho kịp chuyến xe qua bắc Năng Gù về Sài Gòn. Qua màn nước cuộn chị thoáng thấy ông Thiếu Úy đang hối hả tập họp lính dẩn vào đồn kinh Ngang. Trên đầu chị bầy le le bay tan tác giữa khoang trời mang mang châu thổ.
Người đàn bà thắp nhang đứng vái lạy trước bàn thờ. Chị kính cẩn nhìn vầng hương khói lung linh trước bài vị hồi lâu rồi thở dài mở hé liếp cửa lách mình ra đứng trước sân nhà. Chiếc thau nhôm cũ đầy nước mưa đọng nằm chênh vênh cuối hiên. Thủ phạm của tiếng lanh canh suốt đêm. Chị thầm nghĩ. Hơi nước còn đọng kín mặt sông và khoảng cửa biển đâu đó ở cuối dãi cát cũng mờ chìm trong sương. Bỏ lại phía sau màn sương trắng đục bầy chim chấp chới bay về biển
trong khi xóm nhà còn biếng lười ngủ nướng trong buổi sớm cuối hè.
Cửa biển hiện dần trong sương tan thấp thoáng vài cánh buồm về bến. Người đàn bà cố mường tượng hình ảnh người anh họ đứng trên thuyền cá vất vã vào ra cửa biển những sớm hôm và dáng ông mệt mỏi bước qua dốc cát về nhà. Cùng lúc, bóng dáng nghiêm trang phong thái của ông bước qua cổng nhà vào những buổi trưa hơn hai mươi năm trước từ trong trí nhớ ập đến chiếm lĩnh, tràn lan vuốt mặt. Chị bâng khuâng nghĩ tới vợ chồng người bà con tốt bụng đã qua đời mà bàng hoàng thương đứa cháu gái phải sống đơn độc trong căn nhà sau cửa biển bất trắc cảnh đời. Tội nghiệp cho lớp tuổi trẻ phải sống lầm lủi xác xơ. Thằng Lai, thằng Niên, con Nữ, con Lụa…Sóng gió biển dâu chẳng chừa một ai. Và cả những tình cờ gặp gỡ trên đường đời cũng trở thành định mệnh trớ trêu.
Sau hơn hai năm cam khổ trên vùng kinh tế mới, cuộc sống của chị và con Lụa càng bi đát hơn lúc thằng Lai bị bắt đi bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế bên Miên. Ngày đứa con trai bỏ lại một phần bàn tay trên chiến trường giải ngũ trở về chị mừng như sống lại mà Lai thì hàng ngày chỉ câm lặng cày cuốc, sống bơ phờ xa cách trong một thế giới riêng rất buồn.
Nhiều tháng sau đó, trong một cơn say Lai khóc kể cho mẹ và em nghe đoạn đời máu me khốc liệt của mình. Chặng đường địa ngục mà sự lựa chọn chỉ còn là nỗi tuyệt vọng và tình thâm bằng hữu.
Nghĩa vụ quốc tế của bộ đội Việt Nam lan dần về phía biên giới Campuchia Thái Lan với những cuộc truy quét lính Khmer Đỏ lủi trốn qua những cánh rừng rậm dần về phía sông Mekong. Hi vọng của một số bộ đội Sài Gòn bị bắt đi nghĩa vụ trên đất Miên cũng lớn dần khi vệt quanh co như con rắn xanh trên bản đồ ngày một gần hơn. Lai và người bạn đồng đội trong một tổ tam tam được giao công tác đi kích trong khu rừng gần bờ sông cũng thuộc lớp thanh niên này. Dòng sông biên giới giữa hai quốc gia đã bao lần chảy qua giấc mơ họ cũng chính là lằn ranh giữa sự sống và chết. Qua sông về hướng tương lai là động lực duy nhất giúp họ chịu đựng gian nguy, bệnh tật, chết chóc. Nhiều người trong số họ đã bỏ cuộc, qui hàng số phận lúc mắt chưa thấy được ánh nắng lấp lánh nhảy múa trên dòng sông chảy xiết.
Người bạn chống súng đứng nhìn khúc sông ngầu đục phù sa, rời rã lục bình. Anh quay nhìn định nói điều gì đó nhưng vội nghiêm nét mặt khi thấy Lai quắt mắt về phía người tổ trưởng đang lúi húi đào hố cá nhân. Như rất nhiều tổ tam tam khác trong quân đội CSVN, người bộ đội miền Bắc là tổ trưởng chỉ huy hai tổ viên gốc miền Nam.
Một lúc lâu sau, lợi dụng lúc tổ trưởng không để ý, người bạn lại gần Lai nói vừa đủ nghe. - Ba ngày kích ở vùng này tụi lính Pol Pot thế nào cũng đi qua. Chuẩn bị sẳn sàng. Lợi dụng lúc nổ súng, thấy tình hình thuận tiện là mình bỏ chạy ra bờ sông, lội qua bên kia ngay. Cứ chạy theo tao. Nhớ quàng theo lương khô trong bọc ni lông.
Phiên gác cuối đêm chậm chạp trôi qua trong mệt lã, chập chờn thức ngủ. Lai ngồi trong hố cá nhân nhầy nhụa sình, mí mắt nhấp nhem sụp nhướng, tai mơ hồ tiếng côn trùng và những hạt mưa len lẩy qua nhánh lá ngụy trang cắm trên nón cối. Cuối cùng Lai rơi vào cơn mơ nhập nhòa những vòng nước vầng lan và tiếng nước quẩy nhịp chèo khua. Con đò mẹ chèo tần tảo kiếm sống bên bến Thủ Thiêm lật chìm và bóng mẹ cuốn theo. Tay mẹ gầy trên dòng nước cuộn, câm sặc âm thanh, chới với chìm sâu… Lai giật mình tỉnh giấc. Dòng sông xa xa, lởn vởn lá rừng. Một đêm vừa qua, thấp thom tiếc rẻ. Đêm định mệnh sắp tới, hụt hẩng đợi chờ. Lai nhớ mẹ vô ngần.
Ngày thứ ba. Vạt nắng cuối ngày còn đọng nhấp nhô trên sông mà cánh rừng bờ Miên đã nhá nhem mặt người. Toán lính Pol Pot di chuyển qua vùng kích vào lúc chẳng ai dự tính. Bất ngờ ập đến cho cả hai phía. Lai chỉ kịp nhìn thấy lùm cây phía đường mòn chợt lay động, mặt người thấp thoáng, và những tia đạn đạo đan chéo nhau cùng một lúc.
Người tổ trưởng và ba trong số bốn tên lính Miên gục chết ngay sau loạt đạn đầu. Người bạn của Lai ném lựu đạn về phía tiếng rên la. Tiếng nổ chát chúa vang lên thanh toán trận chiến trong tích tắc. Khu rừng im lặng rợn người.
Người bạn lục soát xác lính Miên. Anh vội vã chạy ngược về phía Lai, vai ba lô, tay súng. - Lẹ lên. Chạy theo tao xuống bờ sông. Tụi đại đội nghe tiếng súng xuống tiếp ứng bây giờ. Người bạn hối hả nói rồi sửng sốt khi nghe Lai từ chối.
- Đ.M. Mầy có khùng không? Ở lại chỉ từ chết tới chết mà thôi. Chỉ cần lội qua sông. Trại tị nạn Liên Hiệp Quốc không xa đâu.
Đầu óc tỉnh táo lạ thường, Lai nói với người bạn đồng đội đang bối rối đứng nhìn. - Muốn tao sống thì ráng bắn cho chính xác.
Anh lấy dãi băng cứu thương quấn nhiều lớp thật chặt một phần bàn tay phải rồi cầm súng đứng nép sát thân cây như trong tư thế chiến đấu. Hai ngón tay ở ngoài lớp vải băng cong cong run rẩy. Lai nghiến răng nhắm mắt chờ tiếng đạn nổ. Im lặng. Có tiếng nấc nghẹn của người bạn cố kềm giữ xúc động.
- Đ.M. Bắn lẹ lên. Tụi nó sắp tới rồi.
Tiếng nổ chát chúa cùng lúc với cảm giác bàn tay bị nhấc lên đau xé, khẩu AK rớt thịch xuống đất. Lai ôm cánh tay buốt nhói ngồi dựa lưng vào gốc cây. Người bạn nhào tới ôm Lai, vừa khóc vừa luống cuống băng lại bàn tay mất hai ngón bê bết máu. Lai vỗ vai bạn rồi đẩy hắn ra.
- Mầy chạy đi. Phải tự tay tao băng bó mới được. Mày đã bị tụi lính Pol Pot bắt đi rồi… Chạy lẹ đi.
Người bạn mất hút vào bóng đêm. Lai nghiến răng chịu đau, ngồi băng lại vết thương của mình. Đêm ập xuống bủa vây. Anh nhắm mắt định thần, cố gắng giữ lòng trấn tỉnh nghĩ về người bạn giây phút này có lẽ đang lội qua sông. Anh khấp khởi mừng phía bờ sông vẫn vắng lặng. Đêm bao la rờn rợn tiếng rừng. Hơi thở mệt rã từng cơn kéo anh rớt chìm vào trạng thái chập chờn nửa thức nửa mê. Đêm nhẹ tênh. Lai thấy mình trở về nhà. Đám mây bềnh bồng trôi trắng lòng sông. Giọt mồ hôi lấp lánh trán mẹ. Tiếng đứa em cười...
Sau buổi chiều ba mẹ con ngồi khóc với nhau, u uẩn trong lòng được giãi bày, Lai sống yêu đời hơn. Anh càng mừng rỡ hay tin người bạn đã bình an trốn thoát đang sống trong trại tị nạn chờ định cư. Họ sống nghèo, đầu tắt mặt tối mà sum họp bên nhau, cho tới một ngày tưởng may mắn tình cờ nào hay hệ lụy trổ mầm.
Trong lúc tham quan hợp tác xã bán nông phẩm thâu hoạch cho thành phố, một cán bộ kinh tế đã chú ý tới người đàn bà xã viên tuy nói giọng Nam nhưng vẫn không giấu được gốc gác Quảng Nam của mình. Sau khi hỏi ý kiến con và được hứa hẹn mỗi tháng đôi lần về thăm nhà vào dịp cuối tuần, người đàn bà đồng ý về thành phố giữ con cho vợ chồng người thanh niên cán bộ. Chị mến ngay đứa bé trai vừa lên hai liếng thoắng hiếu động. Mẹ của cháu bé vẫn còn ở đại học, tính tình kín đáo tốt bụng và nhất là giọng quê Quảng Nam đầy gợi nhớ. Tuy có nhiều cảm tình với người mẹ trẻ, chị vẫn giữ ý không tâm sự gì ngoài tháng ngày sống ở Nông Sơn đưa đò trên bến Cà Tang của mình. Vợ chồng người cán bộ thì không hề mảy may nói tới quá khứ của họ. Mỗi lần nghĩ lại câu chuyện vào buổi tối trước ngày người vú nuôi thôi việc về quê, chị vẫn nhớ rõ ánh mắt không mấy thiện cảm của bà khi nói về người cha.
- Tui nuôi thằng cu Hiên từ hồi mới đầy tháng mà chưa hề thấy ổng ẳm thằng nhỏ lần nào. Rồi bà nhỏ giọng, mắt dòm chừng ra nhà trước.
- Chỉ là chuyện mua bán mà thôi. Ổng chịu lấy cô Quế để được làm cán bộ, còn cô Quế và gia đình khỏi bị tai tiếng, kiểm điểm. Nghe nói cha mẹ cổ là cán bộ gộc ngoài Quảng Nam. Khi hay tin con có bầu với bạn trai học cùng lớp thuộc gia đình ngụy quyền, họ đã cấp kì đưa con gái vào Sài Gòn tính là phá thai rồi ở luôn trong này học Đại học. Ngặt vì cô Quế có bệnh máu loãng, thai phá rất nguy hiểm nên họ phải đổi kế hoạch, gấp rút mua chồng cho con để kịp thời ém nhẹm mọi việc.
Những buổi sáng trong căn nhà quét dọn tươm tất, ngồi nhìn bé Hiên lẳm đẳm chơi đùa trong khoảnh sân nắng, lòng chị không nguôi nhớ về hai mươi năm trước.
Mỗi người có một cảnh đời riêng. Chị thở dài thầm nghĩ lúc bồng Hiên vào lòng mà nhớ tới bé Niên nằm đói sửa trong nôi ngày chị trốn nhà bắt đầu cuộc đời lưu lạc.
Thấm thoát mà đã hơn một năm từ ngày chị bắt đầu chăm sóc bé Hiên. Người mẹ cũng vừa tốt nghiệp đại học. Ngày Quế yêu cầu chị theo gia đình ra Hội An để tiếp tục chăm sóc con trai một đôi tháng đầu trong lúc họ chưa ổn định chuyện nhà, chị mừng quýnh nhận lời. Đã từ lâu chị vẫn mơ một ngày về lại Phố Cổ, thăm gia đình người anh họ để nói lời tạ lỗi. Chị mơ một lần về đứng bên bến đò Cà Tang thăm dòng nước cũ, thắp nguyện mẹ cha trên ghềnh Đá Bát chút vòng hương
khói muộn màng.
Người đàn bà ngần ngừ đứng trước cổng nhà cũ. Giàn bông giấy xơ xác phủ trên hai cánh cửa rỉ sét khép kín. Lòng chị run run xúc động xen lẫn mặc cảm phạm tội vẫn đeo đuổi ám ảnh từ ngày chị mở cánh cửa lần cuối bỏ nhà đi. Chỉ cần lòn tay qua cái ô tròn nhỏ, kéo chốt sắt lên, ẩy vai vào cánh cửa là chị trở về. Chị nhủ lòng mà tay cứ mãi do dự không làm được động tác cuối cùng ấy. Đang lúc bấn bíu với mối xúc động ngập lòng thì cánh cửa cót két mở. Một người đàn ông luống tuổi trong cánh áo bộ đội bạc màu bất thần xuất hiện. Cảm xúc nôn nóng trở về kéo tuột chị qua cổng, bước thẳng về phía giữa vườn. Tàng cây vú sửa già nua che kín cả khoảng sân gạch cũ vương vãi rác bẩn. Mái hiên nhà rêu phong nặng oằn lên dãy vách tường vôi vỡ, ám khói. Chị chùn chân ngơ ngác nhìn cảnh nhà hoang liêu.
- Ơ cái nhà chị kia!? Chị là ai, đi tìm người nào mà dáo dác thế?
Người đàn bà lên tiếng trả lời trong lúc mắt vẫn nhìn quanh cảnh cũ. Hình ảnh quá khứ lớp lớp kéo về như lục bình trôi trên chặng sông đời. Khu nhà trên là phòng vợ chồng người anh, phòng cháu Thục Nhi và bé Niên có chiếc nôi đặt bên cửa sổ. Căn nhà ngang nơi chị sống những ngày êm đềm mà sôi nổi của một thời con gái. Giếng khơi cuối vườn, chiếc gàu dây lanh canh thành giếng những lần tắm đêm ngượng ngùng bờ thân loáng bóng trăng khuya.
Hơn hai mươi năm, một nửa đời chị trầm luân.
Ngọn gió trưa thổi lơi qua vườn loang lổ bóng nắng. Người đàn bà đứng nhìn vào gian phòng cũ của mình qua cửa sổ mở toang. Ai đó sống ở đây có lẽ không về thường xuyên. Căn phòng trơ trọi chiếc giường gổ chiếu gối xếp ngay ngắn và cái bàn học trống trơn sau cửa sổ. Chị chợt có cảm giác gây gây khó chịu phả vào gáy không hiểu vì hơi gió nóng cuối hè hay cái âm giọng khó nghe khan khản đều đều đeo bám sau lưng như từ một quá khứ khác, rình rập âm hiểm. Cảnh nhà vợ chồng người anh họ từ sau ngày giải phóng trải ra trước mắt chị tang tóc phân ly. Người đàn bà bật khóc. Chị tháo chiếc khăn rằn trên đầu lau nước mắt, quay nhìn gã cán bộ đã tiếm đoạt cơ ngơi một đời gầy dựng của anh mình.
- Ông không cần phải đặt điều phân bua. Căn chòi của mẹ con tui ở bến đò Thủ Thiêm còn bị lấy huống chi cái cơ ngơi này. Tui chỉ muốn biết mấy đứa cháu côi cút của tui hiện giờ ở đâu. Người đàn bà ngưng bặt lúc gã cán bộ trố mắt nhìn sửng mái tóc buông xỏa lên khuôn mặt hằn vết khổ thời gian. Bến sông xưa chìm trong quá vãng tối tăm chợt hối hã cuộn dòng, thoắt hiện hình ảnh cô gái đưa đò trên bến Cà Tang ngập ngừng kí ức. Người đàn ông run giọng. - Có phải chị đấy không ?
Người đàn bà gật đầu. Chị cũng vừa nhận diện ra người thanh niên gần ba mươi năm trước đã bất ngờ tạt bước qua đời mình như một cơn bóng đè thất lạc nửa vời. Chị bàng hoàng. Khuôn mặt rụt rè khờ khạo trong buổi tiệc cưới râm rang khẩu hiệu, tập kết hiệp thương. Đêm bên chồng bất lực, cô gái nằm nghe tiếng sông trôi, tiếng thở dài con nước lửng. Sự gán ép thô bạo mưu toan tuy chẳng tì vết gì đến cô gái miền Nam tràn đầy sinh lực đã làm rớt giọt lệ oan khổ bị mang tiếng là gái có chồng tập kết.
Chị nhìn cặp môi dày thâm tái run run trên khuôn mặt gã cán bộ già còn xanh mét vết Trường sơn mà lòng nghẹn trào cơn giận khi nghĩ tới hoàn cảnh bi thương tan nát của gia đình người anh.
Người đàn ông thì mừng khấp khởi. Trí nhớ gạn lọc đưa ông trở về những ngày hạnh phúc ngắn ngủi trên đầu sông Thu Bồn. Giữa mớ hình ảnh hỗn độn của buổi tiễn đưa người tập kết xuống đò dọc về Hội An nổi bật lên bóng dáng cô gái đứng lại trên bến sông đã gieo vào lòng gã đàn ông chút hi vọng mong manh. Nhiều năm qua, sau mỗi cơn say hay những lần cải vã thô tục với người vợ ngày càng đanh đá, ông thường mơ màng về một cuộc trùng phùng có vợ hiền con ngoan để che dấu mặc cảm bất lực của mình. Vậy mà giờ đây khi gặp lại, người đàn ông sợ sệt tới đắng lòng. Ông sợ chút hi vọng cuối cùng rồi cũng chẳng cầm giữ được. Ông ấp úng.
- Thế mình có gì với nhau không sau ngày tôi ra Bắc?
Người đàn bà cất tiếng cười lớn, vặn hỏi lại.
- Có hay không, ông tự biết lấy, tại sao lại phải hỏi tui? Vậy ông được mấy mặt con với vợ ngoài Bắc? Trong này, tui lấy chồng, sống hạnh phúc, có con. Chồng tốt giống, tui mắn con. Có
thêm vài đứa là chuyện dễ dàng nếu cách mạng mấy ông không rình ám sát chồng tui. Hi vọng cuối cùng rã tan theo tiếng cười của người đàn bà xoáy động vào tim, đau nhức gấp bội lần tiếng chưởi rủa chanh chua của vợ. Người đàn ông ôm đầu ngồi bệt xuống sân gạch. Người đàn bà quấn lại chiếc khăn rằn lên đầu, ngồi xuống thềm hiên nhà. Khuôn vải miền Nam ôm giữ mái tóc dài, chở che mưa nắng như một thói quen không rời giúp lòng chị bình an trở lại. Chị dịu giọng.
- Cũng may. Dù sao anh với tui cũng là bà con làng nước. Ngày đó nếu mà có gì với nhau thiệt là muối mặt với họ hàng.
Ánh mắt của gã cán bộ khựng lại trên khuôn mặt người phụ nữ miền Nam đoan hậu lúc chạm phải tia mắt nhìn thẳng thắn của bà. Ông hất hàm về phía căn phòng trống. - Mộ anh chị ấy ở gần nhà mới ngoài cửa biển. Con gái út tên Nữ là giáo viên, nghỉ hè đang làm lồng đèn ở hợp tác xã ngoài phố. Thỉnh thoảng mới về đây ở lại qua đêm thôi. Ối giời, cô Nhi bên Mỹ cứ gởi tiền về nườm nượp, xây lăng đắp mộ chả thiếu thứ gì. Cậu Niên thì vượt biên bị bắt, sau đó được cách mạng khoan hồng cho đi lao động với thanh niên xung phong. Chắc cũng sắp về thôi.
Chị ngồi loay hoay nôn nóng nghĩ tới hai đứa cháu côi cút. Hình ảnh bé Niên nằm say ngủ trong nôi hai mươi mấy năm trước buổi sáng chị bỏ nhà đi từ trong trí nhớ hiện lên dằn vặt, rõ ràng.
- Về thăm Hội An lần này chị ở đâu?
Câu trả lời khiến người cán bộ ngạc nhiên đứng bật dậy, hỏi dồn.
- Thế à !? Chị trông con cho cô Quế cả hơn năm nay à!? Con trai cô ấy lên ba rồi à? Thế thì tốt thôi. Gia đình cô Quế mới về hôm qua hèn nào mấy ngày trước tôi đến nhà đồng chí chủ tịch huyện báo cáo công tác mà chẳng nghe nói gì sất.
Mãi tiếp tục câu chuyện họ vô tình không hay biết bà vợ của người cán bộ đang nén ghen tương anh ách trong lòng đứng rình lén nghe đối thoại giữa hai người. Bà ta còn ngạc nhiên hơn cả chồng về chuyện đứa con trai của Quế nhưng không bị sự xúc động làm mụ đi đầu óc tính toan của mình. Người vợ vừa chộp được cơ hội quí giá ngoài sức tưởng tượng để tâng công.
- Nhà chị định đi đâu thế!?
Cơn ghen vừa tìm được chổ trào.
- Đi đâu thì mặc xác bố bà. Đứng đây mà nghe vợ chồng cũ chúng mày ỉ eo à ! Người vợ lồng lên, rồi khuất mình sau cánh cửa đóng sầm. Người đàn bà cũng đứng dậy chào gã cán bộ.
- Thôi, tui cũng chào anh tui về.
Chị sửa lại chéo khăn, cười cợt.
- Ở đây rồi không khéo bà nhỏ dẩn công an khu vực vô bắt ghen bà lớn thì phiền lắm. Cánh cổng khép lại sau lưng. Người đàn bà đứng dưới vòm bông giấy lặng nhìn con phố liêu xiêu dãy mái nhà rêu đọng. Hơn hai mươi năm mà tưởng như mới hôm qua. Chị thở dài dõi mắt như thấy bóng mình hai mươi tuổi bước qua từng buổi phố trưa, dãy hiên nhà thấp xuống im lìm và những vạt nắng màu vàng nghệ nằm rớt lặng mặt đường. Phố vẫn cũ như ngày xưa và người về thì già nua, thất lạc từng bước muộn phiền.
Tiếng liếp cửa chống kẻo kẹt khiến người đàn bà giật mình trở về với thực tại. Cô cháu gái bước xuống hiên nhà, mau mắn hỏi chào.
- O Đà dậy sớm rứa ? Tại lạ chổ hay vì hai o cháu mình đêm qua nói chuyện nhà tới khuya bị quá giấc ngủ?
- Cả đời người bốn năm chục tuổi đầu thiếu chi chuyện để mà nhớ cháu. Đang lúc nhớ con, rồi nghĩ thương thằng cu Hiên cha con thất lạc không biết nhau thì bầy chim bay qua ồn quá. Thức dậy thắp nhang cho cha mẹ cháu rồi ra đây đứng. Sông nước làm o nhớ tới bến đò Cà Tang thời con gái.
- Đồng hồ báo thức của cháu đó O. Bầy chìm ăn cá sáng nào cũng rầm rĩ bay từ đầm sông ra biển. Riết rồi quen. Những đêm ở lại phố, sáng ra cháu lại thấy nhớ cái tiếng quang quác buồn buồn đó.
- Chiều qua lúc O vừa bước vô hợp tác xã, cháu cứ nghĩ là mẹ chiến sĩ miền-Nam-thành- đồng ra mua lồng đèn đem về Bến Tre bán. May mà bà bạn của mẹ cháu vẫn còn nhận ra - O thì nhận ra cháu ngay dù ngày rời Hội An cháu vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Hai chị em Nhi Nữ giống nhau như hai giọt nước.
Người đàn bà vuốt tóc đứa cháu gái côi cút, giọng khản lại vì xúc động. Hai mươi mấy năm dài dồn lại một ngày với quá nhiều chuyện thương cảm oái oăm diễn ra cùng một lúc làm O muốn ngột thở. Bất ngờ gặp lại người chồng cũ tập kết mà O không hề nghĩ tới suốt đời mình, trong lòng càng hận vì chính vợ chồng ông ta đã tiếm đoạt cơ ngơi và tiếp tay làm tan nát gia đình cháu. O định bụng đi nhanh về nhà để kịp chăm sóc cu Hiên rồi chiều ra hợp tác xã tìm thăm cháu. Bước vô ngỏ nhà cô Quế, chưa kịp ngạc nhiên khi thoáng thấy vợ ông ta đang hấp tấp đạp xe ra về thì đã thấy Quế bồng cháu Hiên đứng chờ, nét mặt đầy kích động âu lo. Mắt rưng rưng, Quế không nói lí do, chỉ đưa cho O một số tiền khá lớn rồi bảo phải ra Đà Nẳng ngay để chờ sáng mai về Sài Gòn sớm. Quế còn dặn dò không được để chồng cô ta thấy mặt. O khóc, dành bồng cu Hiên xin cho tắm rửa cháu một lần cuối trước khi khăn gói rời nhà. Cu Hiên vẫn ngây thơ nghịch nước trong lúc O cứ sụt sùi vì không còn dịp để chăm sóc nâng niu đứa bé kháu khỉnh dễ thương mà tự nhiên O vẫn thương với mối cảm tình đặc biệt mơ hồ từ hơn một năm qua. Cho đến khi gặp cháu ở hợp tác xã, rồi o cháu trò chuyện suốt đêm qua, hiểu ra O lại càng thương hoàn cảnh oan trái thương đau của cha con Niên.
Nữ cầm chặt tay o Đà nói qua hàng nước mắt.
- Có O ở lại giúp đi tìm anh Niên cháu mừng ghê.
Hình ảnh bé Niên đói sữa trong nôi buổi sáng O Đà bỏ nhà trốn đi hiện ra rõ ràng trong trí tưởng, người đàn bà lau nước mắt cho đứa cháu gái, ân cần khuyến khích. - O cháu mình sẽ tìm ra Niên. Anh em cháu sẽ gặp lại nhau. Cu Hiên sẽ gặp lại cha nó. Ông Trời đã xui khiến cho O được chăm sóc cu Hiên hơn một năm qua thì chẳng thể nào lại làm ngơ không cho cha con sum họp đoàn viên.
Nữ mỉm cười nhìn o Đà tin tưởng. Buổi sáng hôm đó hai o cháu khóc cười với nhau bên mộ người thân. Từ khu nghĩa trang nhìn xuống đầm sông, sương đã tan, mặt nước long lanh nhảy múa dưới ánh mặt trời đang lên. O Đà nghĩ tới chuyến trở về đong đầy định mệnh, xoay kín vòng thời gian suốt cuộc đời người. Những ngày sắp tới, chuyến đò dọc sẽ đưa O từ tận cuối dòng sông Thu ngược bến Cà Tang. O về thăm mộ phần cha mẹ, thăm lại bến đất quê hương và làm lành với những trách cứ vẫn nặng lòng mình bao năm qua… Nhìn sim dại hoang tím vùng cát trắng nghĩa trang, O Đà bâng khuâng tự hỏi có phải trên bến đò Cà Tang cũng có hoa sim. Hay là hoa đổ quyên? Có tiếng Nữ gọi O Đà quay lại cùng lúc với ánh chớp lóe lên.
- Hình chụp lấy liền đó O. Cháu sẽ gởi qua chị Nhi để xem chị có nhận ra O không? O Đà thở dài. Hình như tiếng chim tu hú kêu bầy trong đám mía còi dọc bến sông vẫn còn cô quạnh trong trí nhớ.
Phan Thái Yên
(từ Căn Nhà Sau Cửa Biển)
Từ Khi Trăng Là Nguyệt
Phan Thái Yên
Hiroshi đưa Nữ sang Tokyo thăm mẹ. Chuyến đi anh đã mong mỏi từ lâu. Họ rời Sài Gòn lúc nửa khuya. Chuyến bay thâu đêm đưa hai người xuống phi trường Narita lúc mặt trời vừa hừng lên sau lớp phố cao. Buổi sáng mùa Xuân trời trong xanh hứa hẹn một ngày vui. Âm thanh rầm rập từ đoàn tàu điện uốn vòng chừng như đang lướt lửng lơ trên nóc hàng anh đào đầy chớm nụ hồng khiến Nữ nao vui quên cả suốt đêm qua gần như không ngủ. Hiroshi kéo hành lý đến bên Nữ.
- Anh vừa nói chuyện với mẹ. Bà muốn ra đón em ngay ở bến tàu điện Toshima. Hiroshi lắc đầu nhìn Nữ làm ra vẽ ganh tức.
- Bà chỉ hỏi thăm em mà không thèm nhắc tới con trai một tiếng nào… Em tươi tắn như thế chắc là đã hết mệt sau chuyến bay.
Nữ gật đầu tươi cười.
- Ý nghĩ được đến xứ mặt trời mọc vào lúc mặt trời vừa mọc làm em vui quá. Hiroshi kéo tay Nữ chỉ về phía chân trời. Ngọn núi phủ tuyết trắng phau trồi lên đơn độc uy nghi trên nền trời xanh không một vẩn mây. Nữ khích động reo tên ngọn Phú Sĩ, một trong ba thánh sơn của xứ Phù Tang.
- Phải đó em. Fujisan! Vài ngày tới mình thăm núi, em sẽ có dịp chiêm ngưỡng Thái Dương Thần Nữ vào buổi sáng.
Hai chuyến tàu điện nối nhau dài hơn tiếng đồng hồ thả họ xuống ga Toshima. Khu phố cổ yên vắng, leng keng tiếng tàu điện chạy trên đường. Bầy chim đậu nhấp nhô như dãy nốt nhạc lắt lay trên hàng dây điện. Xứ lạ. Ngôi nhà lạ. Mẹ của Hiroshi nàng chưa gặp bao giờ. Nữ níu áo anh, rụt rè bước xuống lòng đường. Ký ức xa xưa vụt trở về, loáng thoáng bước chân bé nhỏ rón rén bước ra khỏi giấc ngủ trưa, liêu xiêu bóng nắng trải cong theo vách phố rêu phong. Có điều gì như quen thuộc lắm đang sẹ bước vào hồn.
Nữ kính cẩn cúi chào người đàn bà đang hiền hậu nhìn nàng sau mái tóc bạc muối tiêu cắt ngắn. Nếu Hiroshi không chào mẹ trước có lẽ Nữ không thể nào ngờ được. Bà đẹp quý phái trong chiếc áo dài Việt bằng gấm thêu xanh và khăn san tiệp màu.
- Chào cháu. Cháu đi đường có mệt lắm không?
Nữ như muốn qụy xuống vì kinh ngạc. Mẹ Hiroshi mặc áo dài Việt nam, nói tiếng Việt đặc sệt giọng Huế. Nữ cuống quít bật khóc, nhìn Hiroshi trách móc. Bà mẹ cười đôn hậu. - Tôi là Mitzuki. Cháu cứ gọi là dì Mitzuki, hay là dì Nguyệt cũng được. Không phải lỗi của Hiroshi mô. Tại dì biểu Taro phải giấu cho tới lúc cháu tới Tokyo. Taro lái xe đi con. Để hai dì cháu ngồi sau nói chuyện.
Nữ nhìn Hiroshi hăm he.
- Tên Taro của anh, em cũng chưa hề nghe anh nhắc tới bao giờ. Nhớ nghe! Em có lý do không cho anh biết ‘nickname’ của em rồi đó.
Mẹ Hiroshi hóm hỉnh.
- Giữa đàn bà với nhau, cháu cho dì biết được mà!? Mình nói bằng tiếng Việt, Taro không biết mô.
Nữ nhìn dì Mitzuki. Mối tình thân nở ra từ một quyến luyến không ngờ. Nữ vén chiếc váy dài, nghiêng người nói thầm vào tai dì Mitzuki.
- Ngày trước, ở nhà ai cũng gọi cháu là “Nữ chân voi”.
Bà thích thú cười nhìn đôi chân Nữ hé lộ dưới lằn vải.
- “Zou san” (Cô voi) này còn bé mà. Nhưng mà dì rất thích nhìn dáng đi đủng đỉnh của voi. Từ
tốn, quý phái.
Hiroshi sốt ruột nghe hai người đàn bà thì thầm cười nói, anh hỏi vọng xuống. - Mẹ đang nói xấu gì về con đó.
- Không đâu. Mẹ sắp kể cho Nữ nghe câu chuyện dân gian Momotaro, lai lịch về cái tên Taro của con đó thôi.
Nữ lắng nghe giọng kể chuyện lôi cuốn của dì Mitzuki về ‘thằng bé trái đào’ (momotaro). - Dì rất thích chuyện momotaro, nên khi có Hiroshi là dì đặt ngay biệt danh này cho con. Việt Nam có câu chuyện dân gian nào như momotaro không cháu?
- Dạ, chuyện Phù Đổng Thiên Vương cũng gần gần như vậy. Nhưng có lẽ vì ách đô hộ thống trị của Tàu quá nặng nề, lâu dài nên dân gian Việt đã mong mỏi nhiều hơn. Thằng bé trong chuyện Phù Đổng Thiên Vương chỉ trong giây lát vươn vai thành tướng giỏi, cởi ngựa sắt vung gươm đánh đuổi quân xâm lược Bắc phương ra khỏi bờ cõi… Còn tên Nguyệt của dì từ đâu mà có rứa?
- Cô này nôn nóng quá, không chờ được cho tới khi về nhà… Dì Mitzuki cười. Suốt đời bà Mitzuki làm việc, dạy học ở viện ngoại ngữ trường đại học Waseda nhưng thời gian mấy năm đầu thập niên bảy mươi vẫn luôn làm bà xúc động mỗi khi nhớ tới. Tin một cô gái Việt Nam là công nương của hoàng triều cũ đến Waseda theo học chương trình cao học về văn hóa và ngôn ngữ Nhật Bản khiến nhiều người bàn tán xôn xao, đặc biệt là những người có biết về mối quan hệ giữa truờng đại học với một hoàng thân triều Nguyễn sống lưu vong ở Tokyo từ những năm đầu thế kỷ hai mươi. Bà Mitzuki có duyên tương ngộ rồi thành bạn thân với cô gái có nét đẹp đài trang của một công chúa tuy đang sống đời dân dã. Cảm tình về một đất nước Việt Nam luôn gần gụi trong tâm tưởng đã giúp Mitzuki chú tâm nhiều trong lúc học tiếng Việt từ cô bạn Shiori của mình. Trong một lần tra cứu ý nghĩa về tên họ người Nhật và Việt Nam, Shiori đã trở thành tên gọi của nàng công chúa Quỳnh Thi. Mitzuki thì thương ngay cái tên Nguyệt, thương luôn câu hát Shiori đã hát cho nghe. Bà Mitzuki luôn nhớ tới cảm giác thích thú khi biết ra câu hát cũng từ người nhạc sĩ tài hoa viết bài Utsukushii mukashi (Diễm xưa - TCS).
Nữ xúc động sửng sờ nghe dì Mitzuki thì thầm câu hát. “Từ khi trăng là Nguyệt…”, tiếng “Nguyệt” từ môi bà nghe Huế quá, thương quá.
- Dì Nguyệt nhớ hoài câu nói của Shiori. Cô ấy nói khi mô dì Nguyệt thấu được ý nghĩa lời ca của bài hát này thì lúc đó dì mới thật sự giỏi tiếng Việt.
- Rứa dì đã hiểu hết bài Nguyệt ca chưa.
Dì Mitzuki lắc đầu. Bà thuộc nằm lòng cả ba mươi hai câu của bài hát, mà thấu hiểu thì chưa. Sau ba mươi năm bà vẫn giữ cho mình nửa câu ca “Từ khi trăng là Nguyệt…” và một nỗi buồn. Shiori trở về Việt Nam, lấy chồng là phi công bị tử trận. Mẹ và con nhỏ vượt biển lánh nạn Cọng sản, tàu chìm mất tích đã hơn phần tư thế kỷ. Dì Mitzuki thở dài… Mỗi chúng ta ai cũng chờ đợi, tìm kiếm về những mất mát trong đời và nỗi hoài mong. Một nửa câu thơ, một nửa đời, một nửa quê hương mất còn thất lạc.
Nữ bước qua khoảng sân có nhiều cây kiểng cắt tỉa công phu. Kiến trúc ngôi nhà quen thuộc gần gủi với nhà cổ Nhật ở Hội An làm Nữ có cảm giác như đứa con đi xa trở về. Dì Mitzuki trịnh trọng đốt trầm trên bàn thờ rồi thắp nhang trao cho con trai cúng lạy gia tiên. Nữ đứng khấn vái theo Hiroshi. Lung linh sau hương khói những ánh mắt thỏm sâu quá khứ nghiêm nghị nhìn nàng.
Bà Mitzuki ấp ủ nỗi vui từ lúc Hiroshi cho biết Nữ sẽ cùng con trai về thăm nhà. Bà hằng mong mỏi trông chờ. Đứa con trai duy nhất qua tuổi ba mươi, rồi bốn mươi vẫn chưa chịu lập gia đình. Công việc tận Việt Nam xa nhà từ mấy năm qua càng khiến bà lo lắng. Thế rồi Hiroshi gọi mẹ thường xuyên. Mẹ hiểu ra tâm tình của con qua giọng nói sôi nổi vui tươi mỗi khi Hiroshi nhắc tới Nữ. Bà muốn gặp người con gái đã mang tin yêu tới cho con mình. Người con gái Việt Nam bà vẫn mong chờ từ ngày chia tay với Shiori. Chờ được trãi lòng ra cho vơi nỗi niềm thân phận, bởi mỗi tấm hình trên bàn thờ là mỗi phận đời, là cội nguồn bà muốn có người nghe, kể lễ, khóc cùng.
Hiroshi chỉ vào chân dung một quân nhân mặc đại lể, uy nghi trường kiếm. - Bố anh nguyên là sĩ quan của Hải quân Hoàng gia Nhật thời đệ nhị thế chiến.
- Ông sống sót sau nhiều trận hải chiến với Mỹ ở Thái Bình Dương. Nhiều năm sau chiến tranh chúng tôi mới gặp nhau, rồi ông mất sớm lúc Taro chưa tròn tuổi.
Bà Mitzuki nhìn lên tấm hình lớn treo trên cùng, ở góc dưới khung hình là tấm hình nhỏ hơn, mờ nhạt đôi nam nữ đứng bên nhau.
- Đó là tấm hình duy nhất của ông bà Ngoại của dì.
Bà Mitzuki cố nén xúc động, nghiêm trang hỏi Nữ sau tiếng ho ấp úng.
- Nghe nói cháu đọc được chử Kanji. Cháu thử đọc hàng chử bên dưới tấm hình đi. Nữ vận dụng mớ vốn liếng chữ Nho học được từ người cậu. Nàng dụi mắt không tin¸ đọc đi đọc lại rồi quay nhìn dì Mitzuki ngờ ngợ.
- Nếu cháu không lầm thì đây là tấm hình chụp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với nhóm lưu sinh Việt Nam đầu tiên ở đại học Waseda vào thập niên đầu của thế kỷ 20.
Dì Mitzuki gật đầu.
- Người đứng giữa chính là hoàng thân Cường Để. Cháu hảy nhìn kỷ lại chân dung của nhóm sinh viên.
Nữ càng nhìn càng hồ nghi mắt mình. Nàng run giọng hỏi.
- Hình như một trong chín du học sinh cũng là người trong tấm hình nhỏ, là… Nước mắt lăn dài trên má dì Mitzuki, bà gật đầu.
- Người đứng cạnh hoàng thân là cụ Trần Đông Phong. Ông đã tự tìm cái chết dưới một cội thông trong chùa Tohoji vào độ tuổi đôi mươi với khí phách của một võ sĩ đạo vì xấu thẹn đã không giúp được gì cho bạn đồng môn, đất nước. Ông tuẩn tiết, không hề biết người bạn gái Nhật đã cưu mang máu huyết mình trong bào thai. Bà âm thầm nuôi mẹ của dì khôn lớn giữa bao dị nghị vây quanh. Bà ngoại sống còn qua bao gian khổ của mấy năm Thế chiến rồi qua đời lúc toàn dân nước Nhật còn đang lặt loài vực nhau đứng dậy qua đổ vỡ tang thương.
Môi nở nụ cười mà mắt còn chưa ráo lệ, bà Mitzuki nâng chéo áo lau nước mắt cho Nữ. - Giờ thì cháu biết vì răng dì Nguyệt mặc áo dài Việt Nam rất tự nhiên rồi hỉ ? Suốt bao nhiêu năm qua, ý nguyện của dì đi tìm thăm quê ngoại vẫn còn là giấc mơ chưa thành. Giờ thì sẽ dễ dàng hơn nhiều, phải không cháu?
Nữ quay nhìn Hiroshi trách móc.
- Anh thiệt!? Phải chi mà anh cho em biết chuyện.
Dì Mitzuki bước ra hiên nhà lung linh màu nắng tươi trên cành đào ươm nụ. - Không sao đâu cháu. An bài của số phận lúc này là niềm hạnh phúc lớn nhất của dì. Tới đây về thăm quê ngoại có con dâu dẫn đường thì còn chi bằng. Sáng mai mình sẽ đi Zoshigaya thăm mộ ông ngoại. Kiyomi chọn hoa, còn Hiroshi thì nhớ sửa soạn xô và gáo nước chứ đừng quên như lần trước.
Bà phá lên cười lúc thấy Nữ ngơ ngác nhìn Hiroshi.
- Kiyomi là tên Nhật của con đó!
Bà Mitzuki chỉ chợp mắt lúc đầu đêm rồi không ngủ lại được. Tiếng chim đàn quang quác bay về biển khiến bà tỉnh giấc, nằm suy nghĩ mãi về chuyến đi đã làm bà thất vọng. Vùng đất miền trung du Việt Nam tuy chưa đặt chân tới bao giờ song bà vẫn quen thuộc trong mỗi giấc mơ. Từ những năm mới lớn, chuyện kể về cái chết đầy tiết liệt khí phách của ông ngoại Trần Đông Phong là niềm tự hào giúp bà luôn mơ về một quê hương thần kỳ trong đó con người thuần lương, nghĩa khái sống chết hết lòng với nhau.
Thời thiếu nữ của bà là những năm dài Thế chiến thứ hai tan tác điêu linh, sau đó là dân của một nước Nhật thua trận, rồi làm vợ một cựu phi công Kamikaze thất chí sống trong mặc cảm của một phế binh đã không được chết theo phi cơ đâm vào tàu địch. Lòng hào hiệp của người Mỹ đã giúp đất nước bà vượt qua khốn khó, giữ được tự chủ, rồi chỉ phần tư thế kỷ sau sánh vai cùng các cường quốc hàng đầu trên thế giới.
Tham vọng bành trướng của Chủ nghĩa Cọng sãn và sự tranh giành Quốc Cọng lại gây cảnh chiến tranh điêu tàn, đất nước phân ly cho Triều Tiên, Việt Nam. Cọng sãn miền Bắc Việt Nam chủ trương bạo lực, dấy động cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” để thống nhất đất nước. Hằng triệu thanh niên bị quăng vào lò lửa của cuộc chiến tranh không cần thiết. Ảo tưởng thiên đường
xã hội chủ nghĩa và chuổi dài những sai lầm lãnh đạo càng đưa đất nước vào chậm lụt nghèo đói. Suốt thời gian đó Nam Hàn với sự bảo vệ của Mỹ đã mau chóng lột xác trở thành một quốc gia vững mạnh, cạnh tranh ngang sức với Nhật và các cường quốc khác trên nhiều lãnh vực công nghệ tiên tiến, cùng lúc vẫn giữ được tính độc lập tự chủ của đất nước. Bà Mitzuki thở dài nhớ lại lời cô con dâu đã nói thời gian thăm bà ở Tokyo. Thực tế “quê hương thần thoại” của bà còn tệ hơn điều Nữ muốn chuẩn bị cho bà.
Suốt mấy ngày ở Thanh Chương, làng quê cụ Trần Đông Phong, nhiều người tự nhận là bà con thân thích với ông Đồ Mường đã nườm nượp gọi là đến thăm cháu ngoại người Nhật của cụ Phong nhưng thật ra là để than thở, đặt điều nhờ Nữ thông dịch xin tiền. Không ngờ “bà già người Nhật lắm tiền không xin cũng uổng” nghe hiểu từng tiếng từng lời gian trá, nghe mà không tin vào tai mình. Tệ nhất là một phụ nữ trẻ đến ngả giá đòi tiền để cô ta dẫn đi tìm người đang sở hữu vài sáng tác thi phẩm của cụ Phong.
Chuyến đi khá vất vả đến một thôn hẻo lánh ở Đồng Văn. Căn nhà tranh nhỏ bé, bàn thờ ở gian giữa đơn sơ một chử Tâm màu điều viết trên khuôn giấy bồi cũ. Lời chào hỏi giữa cô gái dẫn đường và người chủ nhà khiến Nữ và bà mẹ chồng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Cô gái ngại ngùng liếc mắt về phía Nữ rồi bước nhanh xuống bếp pha trà theo lời sai bảo của ông ngoại. Cụ già nhìn theo cháu, lắc đầu.
- Mày mà làm cô giáo thì dạy dỗ ai đây. Giổ mẹ cả tháng không bén mảng về thắp một nén nhang.
Câu chuyện nở ra sau lúc Nữ giới thiệu bà Mitzuki với cụ chủ nhà. Cô gái kinh ngạc lấp ló ở cửa bếp lắng nghe bà già người Nhật nói tiếng Việt lưu loát với ông ngoại, có lẽ cô ta đang bấn lên vì chuyện đòi tiền trắng trợn hôm trước. Cụ già ngạc nhiên không kém, ông hớn hở biết ra người đàn bà ngoại quốc trước mặt là cháu ngoại của cụ Trần Đông Phong. Hai người anh em họ cuối cùng đã gặp nhau trong một hoàn cảnh không ngờ.
Cụ già là cháu nội của người em chú bác với cụ Phong. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất, gia đình ông bị đấu tố là địa chủ phản động mất hết ruộng đất gia sản và bị đày đi lao động cải tạo trên vùng núi hẻo lánh. Ông sống nghèo, tuy chẳng thẹn với lòng nhưng buồn lòng nhìn con cháu lớn lên bị vẩn đục trong một xã hội đong đếm, xảo trá lọc lừa.
Bà Mitzuki nghĩ tới nét mặt khắc khổ của người đàn ông Việt Nam đã sống qua bao cảnh dâu biển đổi dời mà lòng vẫn giữ trọn một chử Tâm tinh khiết. Tiết tháo đó so với cái chết của ông ngoại có lẽ cũng can trường như nhau. Bà vui vui nghĩ tới Hiroshi đang bận rộn ở Đồng Văn sửa lại ngôi nhà của người em họ.
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Nữ ló đầu vào với ly nước trên tay.
- Mẹ chưa ngủ sao?
Nhìn mấy trang giấy cũ trên tay mẹ chồng, Nữ cười.
- Con tưởng mẹ đã thuộc lòng hết những bài thơ của cụ Phong rồi ?
- Thuộc nhưng mà chưa hiểu hết. Chắc mẹ phải nhờ cậu của con giải thích thêm, nhất là bài phú dài mấy trang rất khó hiểu.
Nữ dìu bà mẹ chồng ra đứng dưới mái hiên ngôi nhà khách nằm tách biệt hẳn khu nghĩ mát còn chong đèn thức khuya. Cây ngô đồng trước sân nhà đứng im lìm dưới trăng, hoa đỏ chìm sủng vào từng chùm bóng tối khe khẻ lay động. Lối đi lát gạch băng qua khu khách sạn trườn mình lên bầu trời đầy sao. Đêm nở ra, bung tràn vào biển đen vô tận mơ hồ.
Họ đứng bên nhau trên đỉnh cát hiu hiu gió. Bà Mitzuki nắm tay Nữ. Bà nhắm mắt lắng nghe, lòng mềm theo giọng kể trầm trầm thổn thức một thời thiếu nữ long đong trên vùng cửa biển điêu tàn. Những ngọn đèn như sao giăng vụt tắt. Khu nghĩ mát sang trọng chợt chìm lịm vào bóng đêm quá vãng, hiu hắt mơ hồ xóm nhà mái tranh úp lè tè trên triền cát xám đẫm mưa và từng cảnh đời lặng lẽ âu sầu. Cũng có một vùng cửa biển hoang tàn như thế trên đất Phù Tang vào những năm thế chiến thứ hai. Thời còn con gái của bà là những ngày dắt díu tản cư, những đêm hớt hải xốn lòng tiếng còi báo động kéo rền, chìm nghẹt trong gió biển. Cánh cổng torii xiêu đổ vào giấc mơ thiếu nữ, thấp thoáng người bạn trai cùng trường súng cao hơn đầu theo đồng đội nhấp nhô như sóng xa dần. Số phận anh, số phần em chìm theo điệu hát ru “Itsuki no
Komoriuta” buồn thảm.
Khi tôi chết chắc chẳng còn ai khóc.
Cô đơn sao tiếng rền rỉ ve sầu.
Nếu mộ phần không có ai đến viếng.
Nắm đất bên đường sẽ ấm lòng hơn
Bởi ai đó chẳng vô tình bước vội
Hoa dại dừng chân quyến luyến chút lòng
Có sao đâu dù chỉ nụ sơn trà
Không cần tưới bởi vì mưa sẽ đến (PTY phỏng dịch)
Mối tình đầu nở trên từng nỗi nhớ về nhau từ hai bờ biển Đông chia cách. Mùa Xuân năm bốn lăm qua nhanh như hoa đào tàn rơi trên mái chùa tera ở Toshima phong kín rêu xanh. Những trang thư hò hẹn từ chiến trường Đông Dương sục sôi máu lửa càng chất cao thêm lo lắng, nhớ nhung cho cô gái quê nhà. Người lính trẻ chưa qua tuổi hai mươi sớm ‘ngọa sa trường’ lúc đơn vị anh tiến chiếm tòa Khâm sứ ở kinh đô Huế đêm Nhật đảo chánh Pháp trên toàn Đông Dương. Lá thư tình cuối cùng anh viết cho người yêu không về kịp theo thi thể người lính tử thương nằm trong quan tài reikyuu câm nín ngàn đời. Tiếng tàu điện leng keng chạy qua Phong Đảo buổi chiều anh về huyệt mộ ở lại trong lòng cô gái lâu lắm, âm thanh buồn làm trở trăn biết bao lần đẫm lệ chiêm bao.
Thương cháu, bà ngoại thường dẫn Mitzuki đến thăm dì Ando để cháu có dịp thăm hỏi ông hoàng lưu vong về Việt Nam, vùng đất xa lạ nơi người yêu đã ngã xuống. Vị hoàng đế không ngai nhỏ thó, bình thản ngồi nhìn dì Ando cắm cúi pha trà xanh gyokuro cho chồng. Lần đầu tiên Mitzuki được biết về vùng đất nước xa xôi đã dính liền với thân phận mình qua giọng nói bằng tiếng Nhật nhỏ nhẹ của ngài.
Hoàng thân Cường Để cả tin vào chính sách Đại Đông Á của Nhật Bản, hi vọng họ có thể giúp giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp. Căn nhà nhỏ cuối phố Ogikubo nơi dì Ando và điện hạ của bà nương náu thưa dần đám chính khách ở bộ Ngoại giao muốn đưa hoàng thân Cường Để về nước dựng lên một nước Việt Nam độc lập, quân chủ lập hiến. Các ông tướng quân phiệt Nhật chỉ muốn tranh giành ảnh hưởng với thực dân Pháp ở Đông Dương và cầm chân Mỹ đang trên đà thắng trận ở Thái Bình Dương nên chẳng còn ai nhắc tới vị hoàng tử từng là minh chủ Việt Nam Quang Phục Hội từ những năm đầu thế kỷ hai mươi cam sống đời lưu vong để đấu tranh cho độc lập nước nhà.
Trăng lên cao. Ánh vàng trãi lung linh trên mặt biển lan miết vào cuối trời bàng bạc những đốm sáng từ hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Giữa vùng sáng huyền ảo cơ chừng hiện ra hoàng thành cổ kính có minh quân, hiền hậu, xa giá tung hô. Bà nhớ lại nỗi bồi hồi xúc động rồi sau đó là cảm giác thất vọng lúc ghé thăm hoàng cung triều Nguyễn trên đường theo con dâu ra Vinh tìm quê ngoại.
Họ tới Huế lúc trời vừa bắt nắng. Nữ dừng xe mời mẹ chồng vào một quán ăn gần cầu Tràng Tiền bên bờ hửu ngạn sông Hương. Dòng sông loang nắng, soi mấy nhịp cầu cong nối víu lửng lơ trong nước lặng lờ. Nữ chỉ về phía khu khách sạn lớn bên kia đường.
- Tòa nhà này trước năm bảy lăm là trường đại học. Trước đó, vào thời thực dân Pháp, khu Morin là nơi giải trí sinh hoạt dành riêng cho người Pháp. Tòa Khâm Sứ con nghe nói cũng ở gần khu vực này.
Mắt bà Mitzuki chợt nhòa rưng vướng bụi thời gian. Dòng người xe tấp nập trên đường chìm khuất lùi xa. Con đường vắt qua năm tháng, dài theo dòng kỷ niệm đời người hơn nửa trăm năm. Trang thư của người bạn trai đầu đời như còn run ấm trên tay. Thư anh viết về con đường nắng trưa rền rỉ tiếng ve kumazemi than sầu trong những tàng cây hoa đỏ dọc bờ sông. Bà cơ hồ anh như đang bước qua đây. Thời gian chẳng là chi, chẳng còn chi, tất cả đã dồn lại thành chút lệ nhòa đọng trên mi nhăn đọng dấu phôi pha.
Xe qua cầu Tràng Tiền.Nóc kỳ đài phần phật tiếng cờ bay nhuộm đỏ một khoảng trời xanh như muốn phủ chụp xuống Ngọ môn đăm chiêu mắt nhìn mây nước Vân Lâu. Nữ lái xe loanh quanh trong thành nội. Bà Mitzuki ngạc nhiên nhìn những con phố hẹp vì nhà cửa dựng xây chồm lấn
thiếu qui hoạch. Quán xá bán mua thì tất bật, bề bộn trên lề đường góc phố chẳng chút nền nếp. Bà thầm nghĩ may mà đi với Nữ chứ không thì khó biết đây là thành nội của kinh đô Huế ngày xưa.
Nữ dìu mẹ chồng bước qua cổng vào Đại Nội. Tiếng ồn ào tấp nập rớt lại bên ngoài. Hàng sứ đơm bông đứng khẳng khiu bên lối gạch lót mòn qua bao năm tháng thăng trầm. Bà Mitzuki tiếc rẽ nhìn nét kiến trúc đơn giản mà tinh tế của cung đình triều Nguyễn đã bị lớp sơn son thếp vàng rẻ tiền và lối trùng tu bôi bác, ăn chận, tầm phào làm giảm đi nhiều giá trị nguyên thủy của nó. Bà thích Phố cổ Hội An hơn. Nhà cửa, cầu đường vẫn còn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy. Đi giữa phố Hội An mà cứ tưởng đang bước về nhà ở phố cổ Toshima. Nhất là ngôi nhà của đứa con dâu. Bà nhìn mà lòng xúc động, biết ơn tâm huyết của người sống ở đó, một cô gái can trường, sống tử tế hết lòng suốt gần ba mươi năm qua để bảo vệ, giữ gìn vun xới căn nhà mẹ cha để lại.
Cơn chớp biển phù du sáng rền phía chân trời rồi tắt ngấm làm trăng biển khuya càng nhòa nhạt lung linh. Trời vào độ cuối hè. Chẳng bao lâu nữa lại tới mưa nguồn, rồi năm tận. Nữ chợt có cảm giác cát dưới chân trở mình, thầm lặng tiếng thở dài. Tiếng nấc nghẹn của mẹ chìm trong gió ruồng qua hàng phi lao buổi sáng cuối cùng chờ cha từ biển về miên viễn nghìn thu. Tiếng bầy cò mất ngủ hoảng hốt vỗ cánh bay trắng bờ sông Đế Võng lúc bé Nữ theo anh Niên lóc cóc đạp xe qua cầu Phước Trạch tới trường lúc sương sớm chưa tan. Tiếng nước sông Hoài lau lách trở mình theo nhịp triều dâng. Tiếng then cổng cài, thấp thoáng lưng áo vét của cha sau giấc ngủ trưa trở vào Tòa Tỉnh làm việc. Tiếng gàu lanh canh thành giếng đêm trăng. Tiếng thời gian. Tiếng quê hương uất hờn giọng buồn lịch sữ. Nữ muốn níu lại trở về, bé bỏng bình yên.
- Nếu mẹ Mitzuki có đủa thần thay đổi được lịch sử thì mẹ muốn quê ngoại của mình ra sao? Bà Mitzuki vổ về lên cánh tay Nữ đang víu chặc vai bà tự lúc nào.
- Mẹ vừa chiêm bao về người bạn công nương của mình và hoàng thân Cường Để. Nhân ảnh họ chập chờn trong cơn chớp biển khiến mẹ lạnh người. Mấy hôm trước ghé thăm Đại Nội, đứng trên sân chầu giữa ngọ, mẹ đã thầm ước ao về điều con vừa hỏi… Nhưng bánh xe lịch sữ đã lăn qua, đã nghiến hằn lên số phận của cả một dân tộc. Chiến thắng của một tà thuyết đã giết chết hàng triệu sinh linh hai miền Nam Bắc và xô đẩy đất nước vào hố thẳm của tàn lụi, vong bản.
Bà Mitzuki cài khuy tấm áo gió, cười xuýt xoa.
- Gió đêm mùa hè mà cũng lạnh ghê…Có lẽ mẹ đã thả lòng một phút viễn vông. Mẹ đang sống vui với giây phút này đây, có được gần hết những ước ao của mình. Còn con thì răng? Nữ dìu bà Mitzuki quay bước theo lối đi thoai thoải đèn soi. Nàng chỉ ước mong được sống vui bên mẹ cha, anh chị trong căn nhà xưa đầm ấm, được ăn bánh xèo mẹ đổ cho “cha con bây” trên gác lửng vào những ngày mưa. Ngọn lửa lịch sữ tanh máu của đất nước này đã thiêu hủy từng ước mơ nhỏ bé của mỗi phận người. Nàng biết phải sống hết sức mình, có chết cũng cam để gìn giữ cho được căn nhà xưa và hạnh phúc mình đang có.
Gìn vàng giữ ngọc cho hay.
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Thi hào Nguyễn Du)
Bà Mizuki ngâm câu thơ cổ, đắc ý nhìn Nữ.
- Thời còn ở Đại học Waseda, mẹ vẫn thích lớp dạy về thi ca Việt Nam, nhất là Truyện Kiều của Nguyển Du. Trên hẳn ý nghĩa thường tình giữa đôi tình nhân bịn rịn, nhắn nhủ trước lúc chia phôi, câu thơ có lẽ rất hợp với tình cảm của con. Suốt thời gian dài gần gấp đôi quãng đời chìm nổi của Thúy Kiều¸ con đã lấy cái tâm ra mà sống hết lòng với đời. Tâm đó đúng là cái tâm cụ Nguyễn Du đã tâm đắc “chử tâm kia mới bằng ba chủ tài”.
Nữ ngồi bên mẹ chồng dưới bóng cây ngô đồng. Khuya vàng lặng màu trăng dãi hiên nhà. Nữ bàng hoàng nhớ ra tháng năm sống gắn bó vui buồn với căn nhà sau cửa biển này còn dài hơn quảng đời thơ ấu nơi căn nhà xưa ở Phố. Nàng có hai căn nhà để ‘gìn vàng giữ ngọc’ và gầy dựng ước mơ.
Hai người đàn bà quay nhìn về Phố. Vầng sáng hừng lên từ góc trời quen.
Chiếc Áo Màu Rêu Xanh
Phan Thái Yên
Hồng vàng tợ bữa kia em có thấy
Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn theo
Bùi Giáng
Con tàu chầm chậm chạy ra phía cửa biển. Không gian mờ đục trong làn hơi nước che khuất chân trời. Gió bán đảo vần xoay, phần phật tiếng cờ. Trên đỉnh chiến hạm, ngọn radar uể oải từng vòng quay tiếc rẻ mấy ngày nghĩ bến rộn rã bóng sắc thành phố cuối năm.
Tiếng còi tan nhiệm sở vận chuyển vang lên từ lâu mà hắn vẫn đứng lơ đãng trên bong tàu nhìn quanh bờ vịnh. Làng Cùi dưới chân đèo Hải Vân dập vùi sau bờ cát xa, mong manh con sóng xô bờ mặn xát hồn người. Phật Ðài cao gần Ngã-Ba-Ði-Huế ẩn hiện sau hàng cây chắn gió đan thành vệt xanh thẫm trong bóng hoàng hôn. Phật ngồi quay lưng về biển có lẽ không thấy được những bóng đời u uất bên kia bờ vịnh im lìm. Bãi dương cuối thành phố ngăn tầm mắt nhìn lối về Thương Cảng. Con đường dọc bờ sông xanh dáng phượng rạng rỡ màu mây bàng bạc thu phân. Cũng hàng cây soi bóng nước đã trổ hoa rực đỏ tháng bãi trường rộn ràng ước hẹn. Bến nước Hà Thân trong xanh, bẽn lẽn chuyến đò ngang có bầy con gái học trò chúm chím môi hồng. Tiệm sách bên đường, quán cà phê góc phố. Say đắm mắt ai nhìn, cuống quít tà áo cuối tuần bước chân thiếu nữ. Thành phố tuổi nhỏ quây quần kỷ niệm. Nơi hắn đã lớn lên bỏ đi quay về, vô tình con sóng. Từ lâu hắn như đứa bé ham hố nhặt nhạnh từng viên sỏi màu lăn lóc trên đường lòng rộn ràng vui. Thằng bé nhìn chiếc lọ thủy tinh vơi dần từng hòn bi kỷ niệm sặc sỡ mà lòng thờ ơ chẳng biết. Chiều nay hắn chợt thấy tiếc rẻ như vừa đánh mất một điều gì thật quý báu. Viên cuội trắng thoáng màu rêu vừa lăn qua trí nhớ, lãng đãng tiếng buồn sóng vỗ.
Cô bạn cũ thời trung học lập gia đình hôm nay. Giờ này có lẽ thành phố đã lên đèn. Hắn nghĩ đến tiệc cưới đang bừng lên trong xiêm y dạ vũ. Có tiếng sóng thở dài bọt bèo bờ đá cũ. Ánh trăng tan tành trên mặt nước. Mái chèo quấy động con đò đêm lặng lẽ qua sông. Có cánh chim biển đơn côi bay chao ngang mũi tàu. Con sáo đã sang sông.
Buổi trưa, trước khi về lại chiến hạm, hắn nhờ người bạn lính mang quà cưới đến nhà. Ðốt thuốc chờ bạn trong một quán vắng bên sông, hắn bâng khuâng nghĩ về thời mới lớn đầy hoang vọng. Thời vừa biết yêu huyền hoặc niềm vui dại khờ tưởng mình được yêu.
Lòng không buồn lắm, hắn ngồi đó, già nua bãi hồn vương vãi nắng chiều. Chuyến phà qua sông chợt lênh đênh như nỗi hoang mang về một mối tình đầu. Nghi vấn choàng đến phiền hà. Nỗi hạnh phúc được yêu, choáng ngợp hóa thân, khiến hắn không có thì giờ hỏi han lòng mình. Chiếc áo len màu rêu gối đầu đêm cuối năm làm báo, váng vất tiếng hát du ca, thơm hương rất lạ. Hạnh phúc được mời rao chia đều cho lũ bạn năm bảy đứa trong gian phòng bê bết giấy mực. Bầy văn thi sĩ lớn ồn ào về mỗi nàng thơ của mình để rồi mê mệt ngủ vùi chẳng cần chi chút mơ mộng dỗ dành. Còn lại hắn chới với trong thảng thốt hạnh phúc. Chiếc áo len nồng ấm như vòng tay ôm, rạo rực giấc mơ lạ lùng cơn xúc động. Trong giấc mơ loáng thoáng buổi chiều tan học, ngập ngừng chuyến phà qua sông, và hàng phượng xanh rũ bóng sân trường. Chân sáo diễm. Môi hồng. Mắt đẹp thùy dương, trâm anh hoa trắng giáo đường. Má lúm đồng tiền ngát mùi cam quít. Tóc ngắn thanh xuân. Giọt lệ của đá. Mái tóc thề dài suông như mây, thẳng tắp hàng cây rợp mát đường Thống Nhất. Chân dung tình yêu mơ hồ trừu tượng với nhiều mắt môi dáng tóc và mộng mị là nền đã làm hắn tru trơ thui chột giữa những mối tình đầu.
Gần đây trong dịp chiến hạm vào nghĩ bến Nha Trang, hắn tình cờ gặp lại cô giáo dạy Pháp văn mấy năm đầu trung học. Trong lúc người dì họ xa đang lúng túng tìm lời giới thiệu với cô giáo đồng nghiệp về người đàn ông lạ mặt đường đột đến trường tìm thăm thì hắn đã thân mật
lên tiếng chào hỏi. Cô Kim chăm chú nhìn hắn hồi lâu rồi bật gọi tên hắn mừng rỡ. - Cái nón hải quân vàng chói quá làm cô cứ ngờ ngợ.
Hắn cười.
- Gần mười năm rồi, thưa cô. Vậy mà cô vẫn đẹp như xưa.
Ðôi mắt cô đẹp trong sáng. Vết sẹo nhỏ cuối chân mày như một nét duyên. Cô Kim tinh quái nhìn hai người, lắc đầu.
- Cô Ty coi chừng miệng mồm mấy ông lính này. Nhất là ông cháu của cô đó. Ai đời mới mười ba mười bốn tuổi chớ mấy mà sáng nào cũng ôm cặp ngồi bên đường chờ cô rồi lẽo đẽo đi theo tới trường.
Dì Ty liếc nhìn hắn, cười cợt, đuôi mắt dài kín đáo nét điểm trang.
- Chắc là mối tình đầu của cháu phải không?
- Tình đầu là để nhớ về để ray rứt... mà cháu thì ray rứt triền miên nên chẳng biết đâu mà nói. Tình cuối mới đáng kể phải không dì?
Rồi hắn nửa đùa nửa thật phân bua với cô giáo cũ.
- Em đang đi tìm tình cuối đó cô! Phải chi bà dì trẻ đẹp này có liên hệ bà con... xa thêm chút nữa là em nhào vô yêu liền. Còn về mối tình đầu thì... dạo đó hơn một nửa trường, hễ ai là đàn ông con trai thì cũng yêu cô ráo trọi. Em nhỏ con nhẹ kí đâu có dám. Mỗi sáng em ngồi trước nhà là để chờ thằng Chạy, cháu họ của cô ở dưới quê lên trọ học, cùng đi tới trường. Cũng nhờ cô tưởng... bở nên hai đứa mới được cô dẫn đi Kim Châu coi ciné.
Cô Kim điểm mặt hắn.
- Thôi bớt xạo đi cho cô nhờ. Cô Ty nhớ đề phòng ông cháu này cho kỹ nghe! Năm hắn học đệ tứ, cô Kim lập gia đình rồi theo chồng đổi vào Nha Trang. Bầy học trò con trai thất tình, cúp cua giờ Việt Văn thầy Ðồng kéo nhau đi ăn thịt bò khô cạnh rạp Lido. Hắn và thằng Chạy luôn luôn có chuyện thâm cung bí sử về cô Kim để được mời. Cả bọn nóng ruột ngồi chờ thằng Chạy nhẩn nha húp chén nước mắm cay, uống cạn chai xá xị rồi mới hắng giọng kể câu chuyện bí mật nhất về cô. Hắn ngồi gật gù xác nhận, thỉnh thoảng nêm chút mắm muối cho câu chuyện thêm đậm đà.
Phải mất hết mấy buổi sáng thằng Chạy mới thuyết phục được hắn. Thế mà buổi tối sau khi Me hắn cho phép đến ở lại học bài với thằng Chạy, hắn lại ngại ngần không muốn mạo hiểm làm chuyện tày trời. Nhất là lúc thằng Chạy thú thật với hắn những chuyện kể nhìn lén cô đều là chuyện phịa. Thằng Chạy phải năn nỉ mãi hắn mới xiu lòng. Hai đứa nín thở, mắt mở căng chờ đợi. Tiếng nước dội róc rách lẫn trong tiếng cô hát từng quãng ngắn bài La Plus Belle Pour Aller Danser mà hắn thường nghe Sylvie Vartan hát trong chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu làm thân thể hắn nhột nhạt tê cứng. Khe cửa hở bị che khuất một phần lớn vì tấm khăn tắm treo lơ lửng. Hai đứa xì xào tranh cãi. Thằng Chạy một mực miếng trắng hiếm hoi mờ mờ lay động đó là khoảng da thịt địa đàng chứ không phải màu trắng chiếc khăn. Hắn cũng muốn tin như vậy và cảm thấy như bị nghẹt thở. Cô Kim, tóc ước sủng, mỏng manh trong chiếc áo ngũ lụa ngắn, đôi chân trắng hồng thuôn dài bước qua nhà ngang sáng rực ánh đèn. Hai thằng bé mười bốn tuổi, nuốt ực nước miếng, ngồi nín thở nhìn theo.
Thất tình tập thể mãi cũng chán. Chán như thầy Ưng Ðồng vẽ cả thái dương hệ lên bảng để giải thích câu văn của Xuân Diệu. Chiều lên dần dần, tôi càng đi trời càng tối... Biển sóng Tiên Sa, Mỹ Khê lại trào dâng nổi vui hồn nhiên mới lớn. Chà là Phước Tường không kịp chín, xanh chát mà vui. Ðứng đó trên đỉnh ngọn núi thấp, nhìn biển Ðông sóng trào lòng xôn xao giấc mộng viễn du. Vòng quay xe đạp không hề thấm mệt đã đưa hắn và bạn bè qua đồi bãi xa Ngũ Hành, Cửa Ðại hoặc sâu trong vùng nước lặng Cự Ðề, Thủy Tú. Không hiểu vì sao, ngồi bên dòng sông lặng lờ hắn chợt cảm thấy buồn. Hắn nghĩ về tiếng cười của những người đàn bà son phấn và đám lính viễn chinh ngồi đứng bên đường lúc cả bọn đạp xe qua Liên Chiểu, Nam Ô. Du ca. Nhạc Trịnh. Làm báo. Mùa hè về nhà ở Huế. Bầy chị em tôn nữ trước trường Phan thanh Giản. Những mối tình mở ngỏ, chia xẻ với bạn bè cơn mưa đêm, cánh cửa khép mở lầu cao, nỗi nhớ. Thêm thắt vài chuyến thất tình có bạn bè ồn ào cưu mang giùm hờn oán. Có một mối tình để riêng. Vời vợi con dốc nghiêng lối về, giàn bông giấy đong đưa lửa hạ. Hắn lớn lên.
Cô giáo, học trò say sưa nói kể chuyện bạn cũ trường xưa quên cả thời gian. Cô Kim nhìn đồng hồ lúc tiếng chuông báo giờ tan chơi cũng vừa réo vang.
- Thôi để cô vào lớp kẻo học trò lại mừng hụt. Có dịp ghé lại thăm cô.
Hắn xúc động nhìn theo dáng cô giáo cũ khuất sau lớp học cuối dãy hành lang. Bóng khoảng đời mười năm vụt qua trong ý nghĩ về một thơ ấu đã qua, những mất mát tìm thấy, lớn lên già nua, lựa chọn bức bách, bên này bên kia... cho dù se lòng vẫn hoài hoài ở đó thiết tha như kỷ niệm.
Hắn ngỏ lời hẹn đón dì Ty sau giờ tan trường. Cô giáo trẻ e lệ, cắn môi, nhìn hắn gật nhẹ đầu. Dì Ty trau chuốt trong chiếc áo dài lụa thêu, dịu dàng bước chân đi về lớp học. Hắn mừng rỡ bắt gặp lại niềm thân thiết cũ. Hắn nghĩ tới ngôi nhà cổ kính trong Thành Nội, gần cửa Ðông Ba, sau Tết Mậu Thân. Cô sinh viên nhỏ nhắn thùy mị, tóc ngang vai đơn sơ, lặng lẽ dọn dẹp khoảng sân gạch có hòn non bộ trước sân nhà.
- Ðứa mô vô nhà rứa Ty? Tiếng người cha già mù lòa, ho sù sụ, vẳng ra từ nhà trên. - Dạ, cháu ngoại bác Thông Tằm ra Huế làm công tác xã hội tới thăm.
- Giỏi hè! Con Thu mạ mi có thường không? Ba Mạ mi hay thiệt, dọn vô lại Ðà Nẳng chưa được một năm thì ngoài ni bị tụi hắn vô phá tuơ hết. Người mà chôn sống người thì không còn chi mà nói nữa.
Hắn bước vào gian nhà trên kính cẩn chào người bà con trưởng thượng rồi lặng lẽ ra đứng hút thuốc ở đầu hiên nhà. Nhìn khuôn mặt xanh xao và đôi mắt quầng sâu của người dì họ trẻ chỉ lớn hơn vài tuổi, hắn muốn trò chuyện thân mật như những lần gặp trước nhưng sao quá ngại ngần. Cả một thành phố đổ vỡ tang thương, chết chóc nghẹn ngào. Chỉ mới hai ngày giúp đỡ dọn dẹp ở khu Tây Lộc mà cảnh đổ nát uất ức kinh hoàng đã làm hắn buồn muốn khóc. Ðường Mai thúc Loan hoang vắng xác xơ. Chợ Xép bên nhà tàn tạ vắng cảnh bán mua. Trong nắng chiều, cửa thành Ðông Ba đổ xuống thiểu não như một thân xác tật nguyền.
Ðã hơn bốn năm, khuôn mặt gầy xanh của dì Ty và câu nói buồn như tiếng thở dài vẫn đeo đuổi trong trí nhớ hắn. Người Huế ở đây đày đọa nhau đến chỗ cùng mạt. Dì muốn được đi thật xa, đi ra khỏi bóng cổ thành âm u đang đè nặng lên đời sống với lề thói khắt khe.
Buổi tối hôm đó, trong ánh sáng mờ ảo của quán café bên bờ biển, dì Ty đẹp thẹn thùng như cô gái mới lớn. Hai người ngồi nhắc lại buổi chiều mấy năm trước. Dì Ty gầy xanh khóc đến quầng thâm vì Huế-của-dì tang thương đã lặng lẽ nhìn từng sợi khói thuốc vấn vương mà nghe lòng mình cơ hồ tơ động. Nhìn theo bóng người thanh niên đang bước ra khỏi cửa thành, nàng đã ước ao chấp cánh bay cao.
Hắn dìu cô gái bước theo chân sóng. Ðêm huyền hoặc. Không gian thinh lặng. Bóng cổ thành xa xôi, hoang phế chìm sâu.
Có tiếng Phúc gọi vọng từ đài chỉ huy. Hắn bước về phía pháo tháp, mang chiếc ống liên hợp lên tai. Tiếng hát vọng mênh mông như một nỗi buồn...Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ...
- Thất tình hả!? Nếu có ý định tự tử thì cho tao biết sớm, tả hạm hay hữu hạm, để tao kịp kéo còi nhiệm sở vớt người.
- Dễ gì! Ðôi khi cũng nên buồn bã chút đỉnh để biết mình đang sống.
Phúc cười.
- Ðược lắm! Café sẽ thơm hơn, nhạc sẽ hay hơn, và nổi-nhớ-từ-dung sẽ dịu dàng hơn. - Vậy mà tao cứ tưởng mày ngồi đồng ở quán Lú để chờ ăn cháo. Em bé hát tệ quá. Tao thà ra Duyên Anh ngồi đếm lông tay, sướng hơn.
- Mẹ. Nghe nói mà phát thèm. Tao đổi cấp chạy về Sài Gòn cho mày nhớ tóc-thề-áo-tím, thất tình thật sự luôn...
Tiếng cười Phúc tan trong tiếng hát vắng xa...hồn ta gió cát phù du bay về... Ngọn đèn trên đỉnh Sơn Trà chớp tắt u hoài. Từng viên sỏi kỷ niệm trở mình lăn lóc trên con dốc thời gian rêu mốc.
Hắn cài vội tấm bảng tên bằng giấy bìa vừa làm xong lên ngực áo bạn trong lúc Tùng vuốt mái tóc bồng thúc giục.
- Lẹ lên, bả đang đi tới kìa.
Thằng Tùng sửa mấy sợi tóc rủ trước trán lần chót, tay ôm chồng sách dày, lấy dáng đi về phía đầu sân bóng rổ. Cô giáo dạy nữ công từ phía văn phòng đi chậm rãi dọc theo sân bóng đến lớp dạy ở cuối trường.
- Xin lỗi có phải cô tên là Trâm?
Cô giáo mới còn trẻ, đẹp quí phái trong chiếc khăn quàng lụa vàng màu nắng mới. Cô quay nhìn gã học trò lạ mặt, lắc đầu, tia mắt đọng lại trên tấm bảng tên Duy cài vội trên nắp túi áo. Trước sự im lặng nghiêm trang của cô giáo trẻ, thằng Tùng lúng túng ngoái nhìn đám bạn đang đứng chờ quanh cột bóng rổ rồi thu hết can đảm lôi ra tập truyện Vòng Tay Học Trò của NTH.
- Truyện hay lắm, em đem tới cho cô đọc.
Cô giáo bật cười, đưa tay lấy tấm bảng tên trên áo thằng Tùng cất vào sổ điểm. - Truyện ni cô đọc rồi. Em cất đi mà làm gối đầu giường. Nhớ lấy bảng tên thiệt ra mà đeo nếu không thầy Tâm Giám Thị bắt gặp phạt cấm túc thì đừng đổ hô cho cô nghe chưa. Cô quay lại nhóm học trò đang đứng bối rối.
- Nếu các em kiếm được cho bạn cái áo len cổ cao nữa thì sẽ giống Duy hơn. Thằng Tùng hoàn hồn, đứng ngẩn ngơ nhìn theo cô giáo bước khuất vào lớp học. Hắn trêu bạn.
- Ê Tùng, mày tỏ tình với cô sao tướng giống như khi bị kêu lên bảng không thuộc bài vậy. - Tại bả thơm tho làm tao quỷnh quá quên hết điều định nói. Mầy ở đó mà nói dốc. Hay lắm thì cỡ gà mắc mưa chớ không hơn gì tao đâu.
Bầy học trò con trai theo sau tiếng trống tan chơi trở về lớp học. Hắn làm mặt tỉnh mà trong bụng lo bấn khi thấy ông Tâm Biệt Ðộng Quân đi ngược chiều. Ông thầy giám thị cao-bồi dừng lại trước mặt hắn, đốt thuốc, nhẩn nha thở khói. Ông nhìn đôi guốc tam tài hắn đang mang, lắc đầu làm ra vẽ chán nản rồi bỏ đi không nói một lời, cố gắng dấu nụ cười nửa miệng. Có tiếng nói cười khúc khích của đám con gái ban A ngồi ở dãy bàn đầu cạnh cửa ra vào lúc hắn bước qua lớp học. Lòng quay quắt muốn quay nhìn một lần một giây đôi môi đang nở nụ hồng tươi tắn vậy mà hắn đành tiếc rẻ ngoảnh nhìn khoảng trời xanh trên nóc hàng phượng ngoài sân.
Thằng Tùng khều vai hắn.
- Người đẹp du ca đang nhìn theo mầy kìa.
Hắn nghĩ tới buổi hát chiều nay, tự nhủ lòng, cúi đầu bước nhanh vào lớp. Lớp học cuối năm uể oải giờ Triết học từ chương tẻ nhạt. Thằng Hoành vuốt tóc, ôm vở đứng dậy. Hắn vừa bị đuổi ra khỏi lớp vì tội làm ồn. Ông thầy giảng triết học mà gần như đọc nguyên văn từ quyển sách giáo khoa của một vị linh mục, tái bản hàng chục lần không thêm bớt, đã giúp hắn bày ra trò chơi mới để chọc thầy và giúp bạn bè qua cơn buồn ngủ. Mỗi lần thầy bắt đầu một đoạn giảng mới, thằng Hoành lật sách, lên giọng ê a đọc.
- Sách Trần văn Hiển Minh, chương thứ... đầu bài... trang... dòng...
Ông thầy không dấu được nét hằn học, quay lưng viết câu hỏi bài luận triết mới lên bảng. Nhanh như một chú sóc, thằng Tiến rón rén bước đến bên cửa sổ nhảy ra ngoài không một tiếng động. Xóm nhà lá cuối lớp thèm thuồng nhìn bạn thong dong đút vở túi quần, ra ngồi quán café.
Hắn cố gắng chống chọi cơn buồn ngủ. Giọng đọc ông thầy khô nứt, rời rạc về mớ triết học chủng viện, cứng ngắt và giáo điều, càng làm cho mắt hắn muốn ríu lại. Hắn tiếc rẻ nghĩ đến thầy Trần Thông dạy Việt Văn hai năm trước. Người học trò của Lê Tuyên khi giảng về Cung Oán Ngâm Khúc cho đám học trò mười lăm mười sáu đã thao thao bất tuyệt về sự thăng hoa của tình yêu trong ẩn ức xác thân và đợi chờ chiếc bóng. Bóng trăng đọng lầu tây sầu ướt giấc viễn mơ. Và đêm trong trùng điệp đêm nên mộng mị cũng xa vời. Hắn giỏng tai há miệng nuốt từng lời từng chữ lãng đãng cổ thi điển tích.
Ðầu dãy bàn cuối lớp vẫn trống trải bóng dáng cao lớn của Hi. Người anh cả đi Võ Bị của hắn tử trận tuần trước. Lũ trẻ chúng tôi sống lần lữa với tờ giấy hẹn nợ cuối cùng để rồi sẽ phó mặc cho số phận hay đối đầu với sự lựa chọn đanh đá. Chỉ vài tháng nữa nhiều đứa sẽ vào lính sớm chuyện chiến chinh, đứa tiếp tục chuyện học hành, đứa quay bước đi theo những hoài bão riêng.
Thôi hãy sống cho hết mùa cuối học trò. Làm tờ báo học trò cuối cùng. Hát những bài du ca cuối cùng. Uống với nhau những ly café cuối cùng. Trốn học với nhau thêm vài lần sau cuối. Chờ đợi nhau thêm vài lần cho trót chuyện thương yêu trên bến phà sớm mai, góc vắng sân trường, quán chè trong chợ.
Tan buổi học trưa, thằng Tùng kiếm hắn rủ rê.
- Chiều nay mày muốn cúp hai giờ sau tới nhà con Xinh ở cư xá Duy Tân với tao không? Nghĩ tới nụ cười tinh quái của cô chị, Phượng Sao Mai, hắn lắc đầu từ chối. - Mầy không nhớ lần bị con Phượng hù ông già về bất tử, làm bộ tử tế dẫn hai đứa ra trốn sau
chuồng gà sao? Ngày hôm sau gặp con nhỏ ở Hội Việt Mỹ tao chỉ muốn độn thổ. - Thôi đừng giấu tao nữa! Canh me người đẹp du ca thì nói đi. Khi nào thì đám da cu của tụi mày xong hát với hò ở bệnh viện?
Hắn ngồi lên yên sau chiếc Suzuki của Ðạt, nói lảng.
- Nhớ ghé trường khoảng tám giờ. Tối nay tụi mình ở lại làm báo, ráng quay ronéo cho xong để đóng tập. Hết tiền uống café rồi.
Căn phòng nhỏ gần cổng trường phía văn phòng bề bộn giấy in và dụng cụ làm báo. Một nhóm học trò con trai vừa kéo ra khỏi phòng, đứng chuyện trò dưới hàng hiên. Trời đã tối. Ðêm tháng chạp se lạnh. Ánh đèn dọc theo đường Nguyễn Hoàng loáng thoáng sương mù.
Có lẽ thằng Tùng lại không có tin vui để kể cho bạn bè về buổi hẹn với con Xinh lúc chiều. Nó đang lôi Vân Hương và mối tình đầu không-suy-tư của nó ra để giải thích về tâm lý con gái. Năm đệ tứ lúc thằng Tùng theo gia đình ra Ðà Nẳng thì cô bạn học láng giềng Vân Hương của nó không lâu sau đó cũng rời Quảng Ngãi ra Huế. Hai đứa nhà ở chung sân, chơi đùa với nhau từ nhỏ. Năm đệ ngũ, từ một lúc nào đó thằng Tùng không nhớ rõ, không nói không rằng hai đứa trở thành bồ bịch. Từ đó, không hiểu sao, nó thôi không ra đứng tắm giỡn mưa dưới máng xối đầu hiên nhà. Qua màn mưa, hai đứa thỉnh thoảng liếc nhìn nhau từ khung cửa sổ. Ðôi mắt con Hương đẹp long lanh. Nó cảm thấy xao xuyến lạ thường. Một buổi trưa thằng Tùng lén ra hè nhà lấm lét đọc truyện chép tay Bảy Ðêm Khoái Lạc bạn nó chuyền cho thì bất ngờ con Hương sà đến hỏi han. Thằng Tùng quýnh quáng giấu tập truyện sau lưng trong lúc con Hương tò mò gắng giành cho được. Lúng túng con Hương ngã chồng lên người. Ðôi môi mềm của con Hương chạm lên miệng nó. Thằng Tùng tê lên như bị điện giựt. Lúc nó tỉnh ra thì con Hương đã giật được tập truyện chạy biến vào nhà. Buổi tối hôm đó, thằng Tùng ráng ngồi học bài mà lòng chẳng yên. Nó sợ con Hương đưa tập truyện cho mẹ thì chỉ còn nước bỏ nhà mà đi. Ðang ngồi lo lắng thì khuôn mặt con Hương đột nhiên xuất hiện phía ngoài cửa sổ. Con bé với tay quăng tập truyện xuống mặt bàn rồi im lìm quay mặt bước đi.
Từng ngày qua, con Hương nhìn thằng Tùng như người không quen biết. Nó bước theo sau con bé đến trường về nhà như hình với bóng mà chẳng dám mở miệng nói lấy một lời. Nó sợ. Nó khổ sở. Phải chi con Hương quay lại, mắng nhiếc trách móc để nó có dịp đối thoại phân trần thì có lẽ lòng nó nhẹ nhàng hơn nhiều. Hai tuần lễ trôi qua, dài thê lương như một thế kỷ. Một buổi tối, lòng buồn, thằng Tùng đứng lặng lẽ bên hè nhà tìm ngóng bóng dáng Vân Hương. Con bé từ đâu đó bước khẽ đến trước mặt nó, không nói một lời, nhón chân hôn thoáng lên môi nó rồi ù té chạy vào nhà. Hắn sửng sờ đê mê, lòng phiêu diêu hạnh phúc...
Thằng Tùng hút một hơi thuốc dài, thở khói.
- Kinh nghiệm cho tao biết là khi một đứa con gái làm mặt tỉnh là lúc em đang nóng lòng chờ đợi để được ngã vào vòng tay của mình.
Thằng Ðồng châm chọc.
- Ngã vào vòng tay hay cúi xuống xách guốc Ðakao rượt mình chạy không kịp thở? Nói tóm lại, kết qủa cuộc hành quân chiều nay là phe địch vô sự tỉnh bơ, còn phe ta thì bị cho leo cây. Thằng Tùng ậm ừ chống chế lúc bầy con trai cười vang.
Hàng phượng trong sân trường rủ lá im lìm trong bóng đêm. Từ sau buổi sinh hoạt du ca ở bệnh viện về, lòng hắn vẫn bàng hoàng xao xuyến. Bầy trẻ em nạn nhân chiến tranh ngỡ ngàng, lỗi nhịp, vỗ tay theo tiếng hát của những người bạn mới. Hắn ngồi ôm vỗ về một bé trai khoảng bốn tuổi bị cụt cả hai chân vì miểng bom. Ðôi nạng gỗ nhỏ bé như món đồ chơi trái mùa nằm
buồn bã trên nền xi măng. Cô bạn học duyên dáng như một cánh sen trong chiếc áo len màu xanh rêu. Nàng ngồi lặng lẽ thắp sáng ngọn nến hồng cắm trên chiếc nạng. Nàng cúi xuống. Nụ cười nàng đụng lên khuôn mặt xanh xao của đứa bé vừa tìm được niềm vui họa hiếm. Ánh nến vờn lung linh trên môi hồng, lên vầng trán thanh xuân. Hắn chợt nghe mình cất cao lời hát. Những mái đầu cúi xuống. Từng đôi mắt nhắm lại để nhìn sâu hơn vào hồn. Cúi xuống cho tắt nụ cười, cho chút da thịt người trong tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang...
Hắn bước chậm rãi về phía bóng tối cuối dãy hành lang. Có tiếng ai gọi hắn, cấp bách. - Người đẹp du ca tới kìa!
Bầy con trai đứng yên như tượng đất dưới mái hiên trường. Nàng lách mình qua cổng khép hờ. Hắn bước vội ra khỏi bóng tối đi về phía nàng. Họ đứng trước mặt nhau. Chiếc áo len màu rêu trên tay nàng, trên tay hắn. Cô gái nhìn hắn, môi cắn nụ cười lặng lẽ, bước đi. Chiếc áo màu rêu chạm ấm lên môi như một nụ hôn. Hắn sửng sờ trông vời theo tà áo trắng vương vấn lòng đêm.
Phan thái Yên
9/2001
Màu Hải Đảo
Phan Thái Yên
Hai người đàn bà ngồi bên nhau trên đồi cát. Cháu bé trai chừng hai tuổi nằm vắt lên đùi họ ngủ say. Buổi sáng cuối mùa xuân im lìm những vệt gió quyện theo hàng phi lao xao xác tiếng thở dài. Mặt trời sè sẹ trồi lên khỏi cụm cù lao Chàm nằm áng ngoài cửa biển lúc nào không hay. Vầng sáng màu hồng non trong một lúc tưởng không ngơi pha tỏa vào vùng xanh vọng mơ hồ của mây trời, từ từ co lại rồi rúc vào nhau tượng thành khối màu da cam tròn vạnh chói rực trên lằn xanh thẳm của cây rừng dọc theo nóc đảo im lìm dáng núi. Giữa tầm mắt sửng nhìn là mênh mông mượt mà của mặt biển xanh lặng lờ không một bóng thuyền.
Tiếng ngáy nhẹ của đứa bé khiến Nữ sực tỉnh. Những ngón tay nàng vuốt khẻ khàng lên bàn chân mủm mỉm xinh xắn. Nàng xúc động vổ về thân vóc nhỏ nhoi của cháu đang cuộn mình ngủ say cho tới khi ngập ngừng chạm thấy bàn tay người mẹ trên lồng ngực trẻ thơ. Mắt không rời vùng chân trời tỏa rạng ánh dương, Nữ lạc giọng trong quắt quay tiếc rẻ.
- Suốt hai năm, cháu luôn ở trong tầm mắt O mỗi lần nhìn ra đảo, rứa mà… Phải chi chị cho em biết tin cháu sớm hơn.
Vùng chân trời chợt thoáng mưa rơi, chập chùng loang xa giữa cơ hồ lệ rớt. Nàng nhớ tới tiếng cháu khóc gọi mẹ chiều qua, lần đầu tiên sợ sệt đứng bên mồ cha và trong góc căn nhà xa lạ lung linh ngọn đèn treo trên bàn thờ với hình ảnh của những người cháu chưa hề gặp bao giờ.
- Chị Nương… Em sẽ theo thuyền ra đảo thăm cháu mỗi tuần cho tới khi nào chị và cháu ra đi. Nữ nghe tiếng mình lặp lại câu nói trong đầu như một nỗi buồn. Cho tới khi nào? Khi Nữ không còn tìm ra người thân trên hòn đảo ngoài kia. Khi cháu và mẹ đã vượt thoát, đã
tìm thấy tương lai. Khi đó Nữ sẽ buồn sẽ vui, sẽ hi vọng và cô đơn. Khi chỉ còn Nữ một mình quay về lại căn nhà sau cửa biển.
- Chị thiệt ác. Cả hai năm trời mà chị chờ cho tới ngày sắp đi mới bồng cháu về chỉ để chào từ giã.
Người mẹ cầm chặt tay Nữ lắng nghe lời trách móc.
- Không phải mô em. Nhiều khi ra vô giữa hòn Lao và Phố, mỗi lần đò qua cửa biển là lòng chị ray rứt mãi. Chị cứ nhủ lòng chờ cho tới khi anh Niên về. Rồi anh Niên về…Chừ thì đã trễ. Nếu không có việc tính toán đưa cháu ra đi, có lẽ chị sẽ chẳng bao giờ có đủ can đảm bước qua triền dốc cát bồng cháu về thăm cha.
Mắt còn đọng biển xa, Nương lặng nghe tiếng khóc rưng rức của Nữ lòng miên man nghĩ tới hình ảnh cô gái đơn độc trên con thuyền vào lại đất liền. Một mình em xuống lên dốc cát này. Một mình em vào ra căn nhà trống vắng dưới kia. Một mình em với khói nhang và bãi mộ chí âu sầu sim dại. Một mình em suốt cả đời người.
- Hay là O Nữ cùng đi với cháu? Tới được bến bờ rồi hai chị em mình cùng lo cho cháu. Anh Niên, ông bà nội chắc sẽ yên lòng dưới mộ sâu.
Câu trả lời lẫn trong tiếng khóc đêm nào cũng trên đồi cát này lúc Tuân cấp bách hỏi nàng trở về trong trí nhớ rồi ngập ngừng thổn thức đầu môi. Nàng đã nhiều lần tự hỏi chỉ để rồi biết mình chẳng thể nào ra đi. Câu trả lời hình như sẳn đó, chẳng cần biện bạch mà mãi đau lòng nỗi dằn vặt không nguôi. Bãi nghĩa trang vừa có thêm một nấm mồ. Căn nhà bỏ hoang tro tàn hương lạnh. Và đâu đó trong trùng điệp đêm bơ phờ nỗi nhớ về Tuân xa vắng phương nào, trăn trở tiếng chèo khua trên trên dòng sông man mác điệu hò châu thổ.
Nương xúc động nhìn Nữ. Nàng lắng nghe nỗi lòng cô gái mà sao như lời tự trầm của chính mình giữa cơn mơ sảng. Nàng vừa nhận ra sự khác biệt mà gần gủi của mỗi phận người. Nấm mồ mẹ trên đảo. Mộ cha cải táng từ một hố chôn tập thể ở Bãi Dâu về nằm bên cánh đồng muối trắng
chói chang phía ngoài vùng làng biển Lại Hà lối ra Mỹ Chánh đã nhiều năm Nương không thể về thăm. Tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi mà đầy bất trắc với Niên dài theo nỗi lo lắng đợi chờ vô vọng đã kết cuộc bằng bước chân nàng ngơ ngác bồng con tìm thăm mộ chồng. Ngày con ra đời cũng là ngày hi vọng nảy mầm. Nguồn sửa mẹ nuôi con đắp đổi thêm nghị lực cho mẹ sống, vui vầy qua từng ngày nhìn con biết đi biết nói. Vì tuơng lai của con, Nương chấp nhận ra đi như nàng đã an phận chấp nhận sống cuộc đời vất vã trên hòn đảo xa lạ từ sau đêm chạy giặc, mất mẹ kinh hoàng. Còn lại nỗi lo cho tháng ngày sắp tới. Một đời mẹ con nàng lênh đênh hay tấp giạt bến bờ nào? Số phần trãi ra đó im lìm mà khốc liệt, dọc dài theo kí ức qua thấu từng ngày sống khổ. Số phần cưu mang nỗi hạnh phúc khắc nghiệt như con thuyền vừa tìm ra bến phải chìm trôi sau cơn bão biển.
Kí ức Nương về Huế loáng thoáng những ngày mưa dầm và câu chuyện Mạ kể hoài về con gái mình riết rồi tạc thành kỷ niệm có khi thấy cả từng đốm nắng trên lối đi từ Ga về dốc Nam Giao. Rõ ràng nhất là hình ảnh Mạ quảy gánh, một đầu là son nồi, đầu quang tê là bé Nương đầu cạo trọc để lại chỏm vá, ngơ ngác xuống Ga sau chuyến tàu từ Mỷ Chánh vô Huế. Con đường dọc theo dòng sông im mát bóng cây. Mạ đang chần chừ đứng nghỉ mệt bên cây cầu trắng thì thấy cha vội vàng đạp xe xuống con dốc sạc lỡ lởm chởm nắng. Cha bồng con gái đặt ngồi lên yên xe. Ông đội cảnh sát dắt xe, thỉnh thoảng đứng lại chờ Mạ lỏng chỏng quang gánh theo sau.
Tuổi thơ của Nương lẳm đẳm đàng sau hàng rào chè tàu dày kín trước căn nhà nhỏ trên lưng chừng dốc Nam Giao. Mạ đã quen vất vã gánh gồng trên ruộng muối ngoài quê nên vẫn luôn tay dọn dẹp, trồng tưới quanh nhà. Tay ẳm con Mạ leo dốc lên chùa Báo Quốc gánh nước uống. Buổi tối dỗ con ngủ, Mạ ngó cha ru câu hò mới.
Giếng Hàm Long đã trong lại ngọt.
Em thương anh rày có Bụt chứng tri. (Ca dao)
Không có em nên Nương lớn chậm để chờ. Lúng liếng đầu tóc bum-bê, bé Nương theo mẹ lên Giếng Cấm. Lần đầu tiên nhìn xuống chân con dốc xa thấp thoáng dòng sông, Nương sợ hải víu áo Mạ. Con ôn đội cảnh sát mà răng dát gan rứa hè !? Mạ cười, cầm tay con gái nói chơi. Dốc Nam Giao chẳng còn cao khi có mạ dắt đưa. Rồi con gái rảy tay mạ trèo lên quãng dốc một mình. Trên tê là ngôi trường nhỏ trong sân chùa nằm dưới bóng mát của những tàng cây đa, cây bồ đề cổ thụ lá chắn xanh rì. Con đường lần đầu tiên tới trường là con dốc quen hàng ngày và những bậc tam cấp nghiêng nghiêng vạt nắng lối lên chùa, rứa mà buổi sáng hôm đó Nương đã níu chặc tay Mạ dùng dằng chẳng bước. Giếng khơi sân chùa và hình ảnh gần gủi của Mạ nghiêng mình bên thành giếng lanh canh tiếng gàu giúp Nương yên tâm rụt khỏi tay Mạ bước vô lớp học đầu đời. Tiếng ê a của bầy trò nhỏ xen lẫn trong tiếng kinh nhật tụng trầm đều nghe thật êm đềm như tiếng chuông chùa ngân vọng bốn bề vào mỗi buổi sáng.
Con đường qua dốc Nam Giao ngày càng chộn rộn hơn với từng đoàn công-voa chở lính Mỹ, lính quốc gia quần áo trận rằn ri nườm nượp chạy ra khỏi thành phố. Cha đi làm về trễ, ông dắt xe đạp dựng trên hiên nhà rồi quay nhìn con đường lót đầy ổ gà.
- Đường sá chi mà lổ hê lổ hủng, đạp xe tránh muốn bứt gân.
Ông lấy cái bánh cam trong túi áo đưa cho con gái đang đứng chờ Mạ sai vặt bên khoảnh đất trồng rau trước nhà.
- Con Nương, mi học bài thuộc chưa hè…? Tình hình ngoài quê chộn rộn lắm đa nghe. Nghe nói ngoài Quảng Điền đương đánh nhau lớn lắm. Mạ mi coi mà…
Mạ hốt rau bỏ vô rổ đứng lên.
- Biết coi chi chừ? Còn mấy đám ruộng muối nằm đó, ai muốn khiêng đi mô thì khiêng. Lo cho ôn tề. Mấy tháng ni chuyển ra đồn cảnh sát Đông Ba, ôn đi sớm về trễ mệt ghê. Cha bước vô nhà.
- Tui là cảnh sát áo trắng, toàn là bắt xe đạp không đèn với nhát con nít trèo vườn bông chớ có làm chi mô mà lo. Nói rứa chớ trúng vô mấy ngày tiểu thương chợ Đông Ba bãi thị biểu tình chống chính phủ trong Sài Gòn đàn áp Phật giáo thì cũng mệt đứt hơi vì chạy tới chạy lui. Cha bật cười lớn…Đã rứa mà còn bị mấy mụ háy với nguýt vì làm tay sai cho chính phủ Nguyễn văn Thiệu.
Có một dạo con đường qua dốc Nam Giao tuy vắng hẳn xe nhà binh nhưng càng đông đúc rộn rịp hơn vì có ngày hầu như cả thành phố Huế, nhất là sinh viên, học sinh, cùng giới tiểu thương các chợ tụ tập về chùa Từ Đàm nghe thuyết pháp và hoan hô đả đảo rân trời. Bàn thờ Phật từ trong nhà mang ra giữa lộ bày dọc theo khắp các ngã đường. Trên trục lộ chính dọc theo đường Nguyễn Huệ, từ Tòa Đại Biểu qua Nam Giao, dày kín bàn thờ hương khói. Từng đoàn công-voa nhà binh dè dặt lăn bánh hoặc có khi phải quay về lại Phủ Bài. Những người lính Mỹ trần trục lông lá, áo giáp không cài vì cái nắng oi ả mùa hè nhiệt đới, sau một hồi lâu ngồi ngơ ngác nhìn quanh đã bỏ xe nằm ngồi lăn lóc dưới bóng mát hàng cây ven đường. Những lon trái cây, thỏi kẹo cao su quăng ra đã hấp dẫn lủ trẻ hơn nhiều so với chuối chín héo lấy trộm từ mấy cái bàn thờ nhang tàn ngoài đường ngoài sá.
Cùng với hằng ngàn gia đình khác ở thành phố Huế, cuộc đời Nương với Mạ vụt lăn xuống vực thương đau máu lệ sau một đêm Tết kinh hoàng. Cha bận trực gác không về kịp. Mạ dẫn Nương hốt hoảng theo đoàn người lánh nạn chạy về chùa Từ Đàm. Nhiều gia đình đã đến đầy chùa, nằm ngồi kín cả sân trước chánh điện lan ra tận ngoài cổng tam quan. Trong đám đông không thiếu những bộ mặt nghiêm trọng, băng đỏ cài tay, ra vào vội vã. Họ là thanh niên sinh viên quyết tử, những người trong chiến đoàn Nguyễn Đại Thức bỏ thành phố ra bưng vài năm trước nay trở về mở cuộc giết chóc săn lùng. Theo đám người chậm chân, Mạ ôm con ngồi dưới bóng cây bồ đề trước cổng tam quan nhốn nháo đợi chờ trong tiếng đạn bom vọng bốn bề. Mây lành không có trên đầu, đoàn người rời chùa Từ Đàm. Họ chạy về hướng Bến Ngự rồi tẻ qua nhà thờ Phú Cam hoặc Dòng Chúa Cứu Thế.
Mùa Xuân ở Huế năm đó âu sầu vầng mây tang thương bay qua Phú Vân Lâu ủ rũ cờ đỏ cờ vàng thay nhau vấy máu người. Tiếng quân ca ngợi ngọn cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước. Tiếng gọi thanh niên đồng lòng cùng đi hi sinh tiếc gì xuơng máu. Tiếng hô xung phong vang lên, máu người chung tổ quốc đổ xuống. Và thiếu chi hàng trăm thây nguời vô tội ngã xuống trong cơn cuồng sát của đám người từ rừng rú trở về. Họ say sưa men chiến thắng như lớp váng chua che đậy mặc-cảm-ta-đây của một thứ thanh niên Huế quẩn quanh, sa đà với giấc mơ cách mạng lãng mạng ảo tưởng khờ khạo. Ồn ào gã kiều-phong, lệnh-hồ-đại-ca trong quán cà phê bên hông chợ Đông Ba hay quán vắng dưới chân Đập Đá năm nào giờ là sát thủ với chiêu thức tàn độc mà Kim Dung khó bề chống đở .
Một vai cầu gục mặt cho Tràng Tiền lẻ nhịp đứt đoạn chia lìa. Những người đàn bà mặc áo tang chờ trắng bến đò Thừa Phủ, khăn sô che nước mắt Nội Thành. Tiếng khóc Huế ai oán giọng Chầu Văn kể lể rền rã theo tiếng mái dầm khua chèo con đò đưa xác trôi qua Thiên Mụ, Nguyệt Biều.
Mạ cùng chung số phận với những người đàn bà tội nghiệp đó. Chồng mất tích không về, Mạ dẫn con đi tìm khắp Huế. Tây Lộc, Gia Hội, Giạ Lê, Nam Hòa, Phú Thứ…Cuối cùng là Bãi Dâu, nơi Mạ với Nương nhìn ra xác cha trong một mồ chôn tập thể. Nước mắt đã cạn qua những ngày tìm bới. Mạ quấn chặt khăn tang, bỏ Huế, dẩn con đưa xác chồng về quê. Trên cánh đồng muối trắng Mạ vất vả gồng gánh nuôi con. Nương học trường xa nên cũng phải đi sớm về tối nhọc nhằn. Mẹ con an ủi gặp nhau vào những cuối ngày. Họ bên nhau chân bước dọc theo bờ ruộng khô nẻ về nhà. Trong hiu hắt ráng chiều bầy cò trắng là đà bay trên mặt ruộng váng vất muối đọng.
Chiến trận năm bảy hai, sau những ngày tản cư sống qua cuối tầng địa ngục dọc suốt đại lộ kinh hoàng, hai mạ con lại gồng gánh dắt díu nhau về lại vùng đất khổ. Cánh đồng muối coi cạn lòng mà chung tình. Mặt ruộng nứt khô suốt một mùa hè đỏ lửa vẫn nằm chờ để cùng tay người vất vả gạn hột muối khô.
Ngôi trường nhỏ ở Vân Trình hết lớp. Nương phải đi học trường xa hơn,tận ngoài Mỹ Chánh để tiếp tục trung học. Thi rớt, giấc mơ vô Huế học làm cô giáo không thành. Nương bỏ học xin dạy một lớp nhỏ ở trong thôn và giúp mạ ngoài đồng muối.
Trận chiến cuối cùng mùa Xuân bảy lăm. Nương dẫn Mạ theo ghe tản cư xuống phá Tam Giang. Giữa cảnh lính dân hổn loạn, xô đẩy nhau xuống ghe xuống đò tìm mọi cách tháo chạy ra khỏi vùng bom đạn, hai mạ con Nương lên được ghe cá một người quen. Đoàn ghe chạy qua Cửa Thuận hướng về phía Đà Nẳng nhưng cuối cùng chủ ghe đã quyết định cập vào cù lao Chàm.
Chưa kịp hoàn hồn vì không quen với sóng gió trên biển và cảnh sống xa lạ trên đảo, Nương đã phải chứng kiến cảnh tượng chưa hề thấy trong đời. Chỉ trong vài ngày, hàng trăm ghe thuyền lớn nhỏ có cả tàu sắt của Hải Quân từ Huế, Đà Nẳng, Hội An nườm nượp kéo vào thả neo trong bãi nước kín gió của hòn đảo nhỏ. Hàng ngàn con người, lính dân hổn độn lên đảo kiếm tìm thức ăn nước uống, cướp giựt, bán mua. Tình huống đầy căng thẳng nghi kỵ tưởng chỉ cần một mồi lửa nhỏ là khối thuốc súng bị ép chứa sẽ nổ bùng lên thiêu rụi tất cả. Mạ lo cho con thân gái giữa đám binh đao khó lường. Mạ tìm được cho Nương nơi ngủ nhờ ở nhà của một người đàn bà góa chồng sống một mình trên đảo còn Mạ vẫn ở lại ghe giữ chổ.
Đêm cuối tháng Ba khóc ròng định mệnh đã biến hòn đảo nhỏ thành nơi Mạ nằm xuống yên nghĩ một đời cơ cực và đưa đẩy cuộc đời Nương vào ngả rẽ không ngờ. Trận đấu súng giữa hai toán lính cướp ghe đã giết chết Mạ nằm bất lực giữa hai lằn đạn. Tất tả vội vàng như khi đến, đoàn ghe tàu kéo neo bỏ chạy về phương Nam, trả lại hòn đảo nhỏ sự thanh vắng cố hữu và để lại Nương bơ vơ bên thi thể Mạ đọng cứng máu me. Dân trên đảo giúp chôn cất người đàn bà vắn số trong nghĩa trang nhỏ ở cuối bãi Làng. Người góa phụ tốt bụng cho Nương tá túc với bà trong căn nhà đơn chiếc nơi bà đã sống đơn độc nhiều năm qua từ sau ngày người chồng ngư dân chết mất xác trong một cơn bảo biển.
Hòn đảo nhỏ được giải phóng. Những chuyến ghe chở chính quyền cách mạng từ trong Hội An, Điện Ngọc ra đảo tham dự mít-ting, hoan hô đả đảo thưa dần vì cán bộ còn phải bận rộn nhiều việc trong đất liền. Họ để lại một ủy ban nhân dân cách mạng và cái loa phóng thanh treo trên cây ngô đồng trong sân uỷ ban nghe tiếng mất tiếng còn vì gió đảo ruồng quanh. Đàn ông đi biển, nhiều người lãng tai điếc nặng vì nghề lặn mò trai bắt tôm, nghểnh ngảng bước qua bãi Làng lúc trời chưa muốn sáng đã bị vực dậy bởi tiếng nói the thé đanh đá của người nữ xướng ngôn viên hay giọng hát cao, láy đuổi lạ tai nghe như tiếng Tàu phát ra từ loa phóng thanh. Họ lầm lủi đi, mất ngủ từng bước chân trên cát xám, không để ý chi tới lá cờ giải phóng xanh vàng đã được thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng phất phới bay trên nóc ngọn ngô đồng. Không xa khu nhà uỷ ban ra vào bận rộn, ngôi trường một lớp cho trẻ con trên đảo còn trống hoác gió lùa vì giáo viên đã bỏ về đất liền từ tuần lễ cuối tháng Ba.
Buổi sáng sau đêm họp dân trên đảo đuợc cử làm giáo viên, Nương ra ngồi bên mồ mẹ suy nghĩ lao lung. Gió biển ban mai thổi luồn qua khe núi não ruột thở dài. Viền xanh đất liền trải vệt mơ hồ về phương quê chìm khuất sau khói sương lãng đãng bờ xa. Trong xao xác biển triều, bịn rịn giữa hai bờ mắt nhắm là độn cát làng quê trắng lịm màu muối trải lòng đêm nguyệt bạch. Vùng đất khổ quê hương suốt một thời thiếu nữ không có chổ mộng mơ. Chỉ mạ với con và mâm cơm nghèo ngày kỵ cha bên bờ ruộng muối sau Tết mỗi năm. Hình ảnh người đàn bà suốt đời đơn độc gánh gồng trên đồng ruộng muối khiến Nương càng phân vân lúc tự hỏi lòng có còn chi để trở về. Nàng nghĩ tới người đàn bà nhân hậu đã cho nàng nương náu. Tiếng dì Nơi kể chuyện đời mình thao thức tao võng đưa dưới hiên nhà đêm đảo vắng.
- Thôi thì con ở lại đây với dì. Mẹ con mình với nhau. Được như rứa cũng là phước phần của dì. Ba mươi năm trước dì theo chồng tới đảo. Vợ chồng hiếm muộn, từ ngày ổng mất xác ngoài biển đã hơn mười năm. Nhiều khi dì nghĩ là sẽ khăn gói về lại quê trong Ái Nghĩa rứa rồi mà cứ lui cui một mình đan vỏng sống qua ngày cho tới chừ.
Rứa là Nương ở lại nơi Mạ nằm xuống. Ghềnh đảo cheo leo những cây ngô đồng bông đỏ hồng ươm độ xuân hè rồi lá rụng trơ cành khẳng khiu chờ mưa bão tháng Mười. Thời gian nhỏ từng giọt nước gánh từ giếng cổ Chàm rớt theo mỗi bước chân qua sân chùa Hải Tạng rêu phong ngấm hết nỗi niềm xuống lớp cát khát khô lối về xóm nhỏ. Nhiều khi đứng ngoái nhìn vệt nắng nghiêng trên những bậc tam cấp vừa bước qua Nương bàng hoàng quên cả gánh nước trên vai. Kí ức choàng về gần gụi trong vài bước chân. Dáng Mạ bên giếng Cấm sân chùa Báo Quốc đổ dài qua năm tháng phủ bóng lên nấm mồ hiu quạnh đảo xa.
Hàng ngày ngoài buổi dạy bận rộn với bầy trò nhỏ, Nương theo dì Nơi vất vả đan lưới chài, đan võng ngô đồng, rồi họp hành hợp tác xã, cân đo tiêu chuẩn chỉ tiêu. Cuộc sống tất tả mà chìm lịm trong nhịp phách của sóng của gió và giông bảo ngoài kia phủ chụp vây quanh. Thảng hoặc dưới hiên nhà mong manh vệt nắng qua hay buổi trưa soi mình xuống lòng giếng sâu lắng nghe tiếng
bước chân trên đá mòn. Thảng hoặc ngày mưa bến thuyền nhấp nhô chân sóng hay đêm trên bãi Hương thẩn thơ màu trăng hoài cổ Nương chợt như lắng nghe được hơi thở rong rêu của thời gian uể oải trở mình.
Có lẽ cuộc đời cũa Nương đã lặng lẽ trôi theo sự nối kết của những thảng hoặc buồn hiu như thế nếu không có Niên choàng đến với nàng. Cơn lũ hạnh phúc chới với ngập sặc rồi rạt xa khô khốc bãi triều, còn lại chơ vơ trên cát lớp vỏ sò ốc lóng lánh rỗng lòng.
Trong một lần theo dì Nơi lên núi chặt cây ngô đồng về để ngâm nước rồi đánh sợi đan võng, Nương bị té trặc chân rướm máu. Lúc hai dì cháu đang xuýt xoa thì một thanh niên tình cờ xuất hiện. Anh ta xé áo băng bó vết thương rồi giúp chặt gánh cả một thân ngô đồng lớn về nhà. Nhìn theo người thanh niên ít nói chào bước ra khỏi nhà, dì Nơi nghi hoặc thấp giọng.
- Người ni chắc không phải ở trên đảo mô. Chắc là tới ở chờ tàu vượt biên.
Nương nhìn theo tự trách không kịp nói lời cảm ơn. Không lâu sau đó, vào một buổi trưa Nương lên chùa gánh nước uống. Vừa tới giếng cổ Nương đã thấy một nhóm bạn chài thanh niên đang ồn ào đùa giỡn múc nước xối rửa mấy rổ sò ốc.
- Giếng chùa chỉ để lấy nước uống mà làm rứa sẽ bị sư ra đuổi không cho mô nghe. Nương vừa lên tiếng trách cứ thì chợt thấy người thanh niên trong số bạn chài. Anh ta lúng túng đứng lên xin lỗi trong lúc một người trong nhóm bạn chài vẫn gân cổ đùa bỡn. - Ê Niên! Mi rửa vú nàng, lồn tiên mà không chịu xin phép trước bị cô giáo la là đúng rồi. Coi chừng phải chổng mông lên để cô giáo đánh đòn thì mới đáng đời.
Bầy thanh niên đang cười vang kéo nhau xuống ghe cho kịp bửa nhậu ngày nghĩ bến. Nương vừa ngượng vừa phật lòng nhìn theo hấm hứ.
- Đồ vô duyên! Sò ốc thì nói là sò ốc, còn bày đặt… Ngon lành chi mấy thứ nớ mà ai cũng sa đà.
Lần sau Nương đi chặt ngô đồng một mình. Mùa hè hải đảo, biển với trời dịu vời nối vào nhau trong một màu xanh bất tận. Ngô đồng giữa mùa hoa đỏ lựng tàng cây chênh vênh trên ghềnh đá. Nương men theo lối đá đi về nơi bị tai nạn lần trước, lòng chợt thẹn thùng bắt gặp cảm giác nôn nao muốn được gặp gỡ hẹn hò. Tim Nương đập mạnh như muốn mở toang lồng ngực, bước chân nàng ríu lại khi thấy người thanh niên đang đứng chờ bên gốc ngô đồng tự bao giờ. Hai người đứng hồi lâu không nói. Họ cùng đứng nhìn về phía đất liền, miên man một vệt dài xanh thăm thẳm chân trời.
Người thanh niên nhìn cây rựa trên tay mình.
- Tui định bụng tìm chặt một cây ngô đồng mang đến nhà cô để xin lổi về lời nói chơi “vô duyên” của người bạn tôi ở giếng cổ nhưng không biết cây nào có thể dùng đan võng được nên đứng chờ.
Nương mắc cở liếc nhìn người thanh niên cao dong dỏng.
- Ngô đồng mọc tràn lan trên đảo. Làm răng biết mà đứng đây chờ? Lỡ không tới đây thì chờ tới khi mô?
- Cho tới trăm năm. Người thanh niên cười ranh mảnh trả lời. Tui tên là Niên. Còn cô tên là Giáo phải không. Tui nghe người trên đảo ai cũng gọi cô là cô Giáo!?
Ngại ngần qua, Nương lấy trong túi ra mảnh vải áo đã giặt sạch.
- Thôi đừng già miệng nữa. Tên người ta là Nương. Cảm ơn hôm trước anh đã giúp băng chân. Niên từ chối, trao mảnh vải lại cho cô gái.
- Thôi Nương cất đi để lau mồ hôi hay nước mắt cũng được.
Nương chẳng vừa, lắc đầu làm ra vẽ không tin tưởng.
- Một trăm năm nước mắt mồ hôi của người ta thì miếng vải áo chút chun ni làm răng mà lau cho đủ!?
Người thanh niên làm bộ không nghe câu nói chanh chua của Nương. Anh ngẩng nhìn khung trời xanh thẳm, mặt làm ra vẽ đăm chiêu.
- Nương Nương…Tên hay thiệt là hay. Đêm qua nằm mộng thấy Nương Nương. Má đỏ au lên đẹp lạ thường… (Hàn Mặc Tử)
Lòng Nương lâng lâng niềm vui tuyệt vời. Cảm giác ngất ngây lạ lùng chảy rần châu thân cô
gái. Nương nhìn khuôn mặt vừa rám hồng chưa quen với nắng biển của Niên lòng dâng trào nỗi hạnh phúc đằm thắm nồng nàn.
- Nạn nhân của Niên đó! Cô gái chỉ tay về phía một cây ngô đồng thân tròn đang độ trưởng thành. Đao phủ thủ ra tay đi thì vừa… Dì Nơi dặn phải tìm cây không già không non và thẳng thì khi chặt ra ngâm nước sẽ dể xé sợi, đan võng mới tốt.
Niên cởi chiếc áo trây-di cũ, quấn ngang lưng rồi bắt đầu pháng chặt. Nương đứng ngây nhìn tấm lưng trần lực lưởng vừa đượm mồ hôi của người thanh niên. Giọng Niên vui vẽ ngâm nga từng câu ca dao nhịp nhàng vang theo từng nhát rựa.
Cây ngô đồng không trồng mà mọc
Rể ngô đồng rể dọc rể ngang
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân (Ca dao)
Họ đã gặp nhau như thế lần đầu. Rồi hẹn hò thương yêu và trao hết cho nhau. Đêm Bãi Hương chân sóng chở che rạo rực thân trần. Ngày cheo leo ghềnh đá, tàng lọng ngô đồng rợp mát đôi nhân tình đổi trao lời nguyện ước trăm năm. Họ ngụp lặn trong hạnh phúc choáng ngợp giữa biển giữa trời giữa hồng hoang nguyệt tận. Hoa lá ngô đồng bay, tàn rụng theo mùa theo định mệnh đắng cay. Ngày Niên sủng nước mắt cỏng xác cha về lại đất liền sau cơn bảo biển tháng Mười, Nương chẳng ngờ là lần hai người khóc với nhau. Giữa tháng ngày thai nghén, Nương không ngờ trang thư ngắn Niên gởi từ một trại giam người vượt biên nhờ người bạn chài mang ra đảo là những dòng di chúc của một đời người. Dòng thư tràn đầy hi vọng gởi về người yêu đã giúp Nương sống qua dèm pha dị nghị. Hẩm hiu hôm sớm với dì Nơi, Nương sinh con ra đời và phấn đấu làm mẹ chờ ngày vợ chồng cha con đoàn tụ.
Niên trở về ngơ ngác hồn ma bóng dại rồi chết. Những chiều bồng con đứng trên ghềnh đảo nhìn về phía cửa biển xa mờ nước mắt Nương lại tuôn tràn như ngàn hoa ngô đồng ràn rụa rơi. Tiềng khóc trẻ thơ cắt đứt dòng suy nghĩ miên man của người mẹ. Nương sực tỉnh nhìn xuống đầm sông. Thuyền cá đêm khơi về đậu chật bến sông, bóng người lên xuống cân đo tấp nập. Nữ nâng bổng cháu cho ngồi lên vai khiến thằng bé thích quá cười lên sằng sặc. - Thôi mình xuống bến là vừa rồi đó chị Nương. Tàu chợ sắp ra tới rồi. Chị nhớ cất thật kỉ địa chỉ của chị Nhi nghe. Cách tốt nhất là học thuộc lòng nó… Em đã bắt đầu nghĩ tới lần ra đảo thăm cháu rồi đây. Nửa muốn không gặp cháu, mà không gặp thì tiếc thì nhớ. Nữ nói luôn miệng để ngăn nước mắt khỏi chảy ra thế mà lệ vẫn thành dòng trên má. Lúc nàng bước ngược lên dốc cát thuyền cũng vừa tách bến. Nhìn dáng hai mẹ con chị Nương trong lòng thuyền đầy người mà sao quá lẻ loi. Như thuyền ra cửa biển, chầm chậm cuộc chia ly. Phan Thái Yên
(từ Căn Nhà Sau Cửa Biển)
Người Đàn Bà Trong Phố Cổ
Phan Thái Yên
1.Chuyến bay từ Bắc Kinh đến trễ hơn lịch trình. Phi cảng Đà Nẵng nóng bức chật chội càng ngột ngạt hơn vì đám hành khách của vài chuyến bay bị dồn lại đang nôn nóng chờ nhận hành lý. Khách từ Sài Gòn ra đa số là Việt Kiều về thăm gia đình. Đám người tha hương, ăn mặc sang trọng có khi kệch cởm, hăm hở ồn ào đẩy từng xe hành lý chất cao như núi về phía cửa kiểm soát. Người thanh niên với túi hành lý trên vai đứng kiên nhẫn ở góc phòng đợi, mắt lơ đãng nhìn quanh. Hàng cây kiểng mới trồng bên ngoài phi cảng lá to xanh bóng như những chiếc quạt sắp thành tầng đều đặn. Màu lá xanh làm dịu đi phần nào ánh nắng gay gắt buổi trưa mùa hè Đông Nam Á. Đám thân nhân bên ngoài đứng ngồi hổn độn, ngóng nhìn chờ đợi. Bóng họ dưới hàng hiên tối sẫm lại vì nền nắng trưa chói chang.
Ánh mắt người thanh niên quay về dừng lại trên hai đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứng cách chàng không xa đang tò mò nhìn nhau. Chàng mỉm cười nhìn cô bé nguýt dài quay lưng trong lúc cậu bé đứng nhịp chân, hai tay thọc sâu trong túi quần jean kênh kiệu. Cô bé kiêu sa trong chiếc áo dài màu vàng thổ rất thời trang, cổ đeo kiềng, đầu đội chiếc nón cối Đông Dương kiểu cách cùng màu với áo. Cậu bé thì ngổ ngáo trong chiếc nón Texas rộng vành, chân đi boot cao cổ bằng da cá sấu. Chàng thanh niên bước đến gần vẫy tay chào hai đứa bé. Câu hỏi thăm bằng tiếng Việt chỉ được trả lời bằng hai đôi mắt mở chăm trong im lặng. Cô bé liếng thoắng khi người thanh niên hỏi chuyện bằng tiếng Pháp trong lúc đôi boot Texas chỉ im lìm xê dịch tới lui trên nền xi măng. Cậu bé chờ đợi được hỏi bằng ngôn ngữ quen thuộc mà cậu đã học nói từ lúc mới sinh để đắc chí nhìn con bé khó ưa, đôi mắt nâu ấm ức sau vành nón cối. Phấn động với vai trò mới người thanh niên quên hẳn đám đông ồn ào chung quanh vui vẽ nhìn hai đứa bé bắt đầu cuộc đối thoại qua sự phiên dịch của mình. Những câu nói chê bai nhau về cái nón đang đội trên đầu khiến chàng không cầm được tiếng cười.
Hai đứa bé thân mật vẫy chào người bạn lớn mới quen rồi chạy về phía cha mẹ đang đứng chờ. Người thanh niên đến nhận hành lý của mình rồi theo đoàn hành khách đi về phía cửa kiểm soát. Chàng ngỡ ngàng bước qua hàng rào người đang ồn ào chồm kiếm thân nhân hoặc đón mời khách doanh thương của hãng xưởng trong khu vực. Những tấm bảng cầm tay đủ cở viết bằng tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Hàn la liệt tên người chen lẫn tên công ty nhảy múa rối mắt.
Đứng tách rời khỏi đám đông là một cô gái vóc dáng mảnh mai, tay ngần ngại cầm tấm bìa giấy với hàng chử in tên người thanh niên và trường đại học anh đang theo học ở Hoa Kỳ. Chàng suýt bật cười khi thấy tên mình bằng tiếng Hoa được cẩn thận chú thích bên dưới hàng tên viết theo lối Mỹ. Ánh mắt cô gái vẫn chăm chú nhìn về phía hành khách, không thấy người thanh niên đang chậm bước về phía nàng. Đôi mắt nâu to không cân đối với khuôn mặt xương gầy thanh tú. Sự không cân đối vướng vất nỗi mong manh quyến luyến nào đó khó cầm lòng cho một ngoái nhìn.
Cô gái bối rối bắt tay người thanh niên rồi trã lời lưu loát bằng tiếng Anh.
- Xin lỗi ông. Tôi đã không nhìn thấy ông đến. Tôi đang lo ông không thể về kịp chuyến bay này.
- Vâng, có lúc tôi đã nghĩ vậy. Phải chờ ở phi trường Bắc Kinh hơn hai tiếng đồng hồ, sốt ruột quá. Cô là...
- Sông Hương, nhân viên trường Đại học Đà Nẵng.
Người thanh niên buột miệng hỏi.
- Sông Hương chứ không phải Hương Giang sao?
Cô gái ngạc nhiên, mở lớn đôi mắt sâu lắng như hồ.
- Ông biết tiếng Việt?
Người thanh niên gật đầu.
- Bố Mẹ tôi là người Huế. Có lẽ cô cũng là người Huế?
- Mẹ tôi có thời học ở Huế. Gia đình tôi ở Hội An, cách đây khoảng ba mươi cây số. Cô gái đỏ mặt xấu hổ.
- Vậy mà nãy giờ tôi bắt anh phải nghe mớ Anh Ngữ què của mình.
- Cô quá khiêm nhường. Hai tháng vừa qua ở Bắc Kinh tôi chưa hề gặp người Hoa bản xứ nào nói tiếng Anh giỏi như cô. Xin cô cũng rộng lượng cho mớ tiếng Việt nghèo nàn của tôi. Cô gái hướng dẫn người thanh niên ra xe, miệng vẫn phân trần chuyện không nhận ra chàng sớm hơn. Người thanh niên bỡn cợt.
- Sông Hương nói thật đi mà. Tôi đến từ Bắc Kinh. Chắc cô mãi tìm một người Mỹ gốc Hoa ăn mặc lịch sự sang trọng nên không thấy anh chàng Việt Kiều ba lô này chứ gì? Cô gái chẳng vừa.
- Thấy người rồi thì phải nói là tài tử Hồng Kông mới đúng.
- Cô quá lời. Tôi chỉ mong cuối năm này bảo vệ được luận án, bắt đầu sự nghiệp để khỏi báo cha mẹ là mừng lắm rồi.
Dọc theo con đường từ phi trường vào thành phố thẳng tắp hàng cây mới trồng. Trên đường tấp nập người đi, xe đạp xe gắn máy xao xác ngược xuôi. Hình ảnh khá quen thuộc sau mấy tháng sống ở Bắc Kinh sao lòng người thanh niên vẫn ngập tràn nỗi bồi hồi xao xuyến. Đi vào lòng quê hương chưa một lần gặp mặt mà chàng ngỡ như đang từ một mộng mị nào đó trở về. Phải chăng giọt nước mắt nhớ nhà của Mẹ và hình ảnh quê hương lãng mạng trau chuốt trang trải trong nhiều truyện viết của Bố đã là vốn liếng tinh thần giúp chàng có được cảm giác quay về. Phố biển. Chuyến phà qua sông. Con dốc hẹn hò. Cha mẹ đã lớn lên, yêu nhau trong thành phố này. Họ đã bỏ đi mà vẫn quay quắt nhớ về sau hơn nửa đời người xa xứ.
- Đường về trường có qua con dốc nào không Sông Hương ?
- Có mà không. Chính phủ đã san bằng dốc Cầu Vồng để làm đường mới.
Sông Hương quay nhìn người thanh niên, nụ cười nở trên đôi mắt thuyền nâu. - Em chợt có cảm tưởng như anh đã từng sống ở thành phố này.
- Đó là điều tôi vẫn hằng ao ước. Bố Mẹ tôi lớn lên ở đây.
Xe chạy qua khu phố đông đúc rồi rẽ theo con đường ôm dọc bờ sông. Hàng cây ven bờ nở bông đỏ rực.
- Bông phượng đó anh. Hồi nhỏ ở Hội An, mùa hè em thích theo ghe qua Cẩm Nam thơ thẩn dọc theo bờ sông hái phượng với bạn. Cuống hoa chua chua nhai rất vui miệng. Nhìn những cành phượng đầy hoa thắm nghiêng mình la đà soi bóng trên mặt sông, người thanh niên nôn nao nghĩ đến xấp hình cũ Mẹ vẫn ấp ủ giữ gìn. Cô học trò tóc ngang vai, áo dài trắng, đi thơ thẩn với bạn bè đâu đó bên khoảng sông này. Những gốc phượng già theo năm tháng vẫn đơm bông cho thắm từng mùa hạ đỏ. Giòng nước chở chuyên xác hoa tàn úa vẫn lặng lờ trôi như một ước nguyền. Mẹ cha trong cuộc đá vàng đã cùng nhau ôm ấp giấc mơ đời, dắt díu nhau qua từng nỗi truân chuyên ở cuối trời xa quay quắt thời gian.
Xe dừng lại trước một khách sạn. Lúc người thanh niên nhận phòng thu xếp hành lý xong trở ra, cô gái vẫn đứng chờ trước sân khách sạn. Cô quay mặt dấu vẽ ngượng ngùng khi chợt nhận ra mình vừa trong một khoảnh khắc đã lén nhìn người thanh niên dáng dấp lịch sự trong trang phục làm việc. Cô chỉ tay về phía cuối đường.
- Trường cách đây không xa, chỉ vài phút đi bộ.
Người thanh niên khoác chiếc xách đựng máy vi tính lên vai.
- Bắc Kinh họ cho tôi nối máy lên mạng khá dễ dàng, không biết ở đây thì sao? - Trường đã họp tới họp lui mấy lần vì chuyện này. Sau đó trường ở Mỷ đã can thiệp nên anh tha hồ mà lên mạng.
Cô gái nhìn đồng hồ.
- Sông Hương mới gọi về trường. Ông Khoa Trưởng đang chờ anh. Chiều thứ Sáu nên ai cũng
nóng lòng về sớm.
Hai người bước dọc theo bờ sông. Gió sông rười rượi thổi đôi tà áo màu thiên thanh cuống quít trong nắng chiều. Dãy nhà mới xây cho hãng xưởng ngoại quốc thuê mướn nằm cao ngạo trên thành lũy xưa. Mấy khẩu thần công từ hơn hai thế kỷ trước nằm quên lãng bên khóm cây lấm tấm hoa vàng. Cả một thời thơ trẻ của cha mẹ trầm tích từ nhiều buổi tối thủ thỉ bên Me hoặc học lịch sữ với Bố đang hiện rõ ra trước mắt người thanh niên. Màu vàng vương đế của vùng trời Đông Á đã bị sạm đen vì khói tàu chạy bằng than đá đến từ trời Âu. Người quân tử thấm làu văn hóa nghìn xưa, phong kín trong lẽ nghĩa nhân, tu thân tề gia trị quốc đã bị hà hiếp bởi giá trị mới còn phôi thai mờ ảo trong hơi nước của cuộc cách mạng kỷ nghệ phương Tây. Kẻ sĩ mà không bảo vệ được nhà, không giữ được nước nên biết bao người đã tuẫn tiết cho tròn gánh trượng phu.
- Tòa nhà nầy trước đây có phải là Trung Tâm Văn Hoá Pháp không cô?
Sông Hương lắc đầu tỏ vẽ không biết.
- Bố tôi hay nhắc về chuyện sau lớp học ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp vẫn thường với bạn ra chơi đánh đu quanh mấy khẩu thần công để chờ lớp Anh Văn ở Hội Việt Mỹ phía bên kia đường. Bố nói khoảng hai thế kỷ trước Nguyễn Tri Phương lập đồn ngăn tàu Pháp mà thất bại nên sau đó đã tuẫn tiết theo thành.
- Anh biết nhiều quá. Em lớn lên ở trong nước mà không rành mấy về lịch sử nước nhà. - Có lẽ ở đây chỉ chú trọng dạy cho học sinh về những phần lịch sử có lợi cho chủ thuyết của họ. Lịch sử, sau khi bị bóp méo, chỉ là phương tiện để biện minh cho cuộc đấu tranh giai cấp bạo động và vô luân. Lịch sử như thế không còn là sự thật mà chỉ là lối lý luận hồ đồ. Cô gái ngoái nhìn về phía sau, hỏi lãng sang chuyện khác.
- Em sẽ học tiếp với anh về chuyện ông Nguyễn Tri Phương trong dịp khác. Bây giờ nói cho em biết về lịch trình làm việc tuần tới của anh đi.
- Tôi đang ở giai đoạn cuối của luận án khảo cứu về vấn đề người Hoa ở Đông Nam Á. Tôi rất mừng được xa giãng đường thư viện vài tháng. Được đi lại thăm viếng học hỏi qua sự gặp gỡ giao dịch giữa con người với nhau là điều rất phấn khởi.
- Anh ở lại Việt Nam lâu không?
- Chỉ được một tháng thôi cô, hai tuần sau đó ở Tân Gia Ba. Ba vùng khảo cứu chính ở Việt Nam là Hội An, Chợ Lớn Sài Gòn và vùng Bạc Liêu, Hà Tiên.
Sông Hương nhìn người thanh niên nói như reo.
- Vậy là tiện lắm rồi! Ngày mai cuối tuần em về thăm nhà. Má em dạy ở trường trung học. Má biết nhiều người Trung Hoa ở phố cổ Hội An lắm.
- Bố tôi thường nhắc về Hội An. Ngày trước ông là Sĩ Quan Hải Quân đồn trú phía cửa biển. - Em có lần nghe bạn bè nói, rủ nhau đi ra tận doi biển Thuận Tình tìm xem mà không thấy dấu tích gì về căn cứ đó nữa.
- Bố nói về Việt Nam nếu không có thời gian đi thăm hết các nơi thì nên tìm cách thăm cho được Hội An. Bố vẫn gọi Hội An là Thị Trấn Miền Đông.
- Miền Đông...?
- Tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ ý Bố muốn nghĩ đến Hội An như một nước Việt Nam thu nhỏ, phía Đông Châu Á.
Trường Đại Học Đà Nẵng tọa lạc trên khu đất lớn không xa bờ sông. Con đường trước trường im bóng cây vắng vẽ. Vài người phu xích lô uể oải đạp xe không khách về phía phố chợ, bóng họ rã rời ngã dài trên đường. Bên trong trường những dãy nhà cổ kính xây theo kiến trúc Châu Âu nằm im lìm ngái ngủ dưới bóng mát mấy hàng cây xum xuê lá. Trên cổng trường dưới lớp vôi dày lờ mờ tấm bảng đá khắc mấy chử Lycée Blaise Pascal.
Chỉ một vài giờ ngắn ngủi mà chàng đã cảm thấy gần gủi với thành phố này. Vết tích kỷ niệm của Bố Mẹ, gia đình qua từng câu chuyện kể tưởng đã ngủ quên trong trí nhớ như tiếng còi lãng đãng sa mù. Chàng náo nức sờ mó, nhìn ngắm, hít thở từng dấu vết điển tích trên mỗi bước chân tìm về. Bà Nội từng dạy kèm cho đám học trò nhỏ của ngôi trường Tây. Ngã tư cuối góc trường từng là chiến địa giữa học trò trường Ta trường Tây ngày Bố còn ở trung học. Trò chơi chiến tranh vô hại của mấy cậu học trò mới lớn chỉ đủ làm quấy rầy buổi tối tưởng đã yên lặng của bác cảnh
sát vô tình đạp xe qua.
Sông Hương dựng xe gắn máy trước văn phòng làm việc của người thanh niên. Chiếc mạng che bụi cùng màu với áo dài thiên thanh làm đôi mắt đẹp và huyền bí hơn bội phần. - Thầy Khoa Trưởng rất tốt bụng, hy vọng anh đạt được hết những điều yêu cầu. - Vâng, ông ta hứa sẽ hết lòng giúp tôi trong việc khảo cứu. Ông là giáo sư Hoa Văn và Khoa Học Chính Trị nên tôi rất mừng.
Cô gái nhìn ra khu công viên nhỏ trước văn phòng, cười chúm chím.
- Văn phòng của anh ở chổ rất trung tâm. May đang giữa mùa hè chứ không thì anh không thể nào tập trung tư tưởng để làm việc được...
- Sao vậy?
- Công viên đàng kia là nơi lui tới của sinh viên nữ giữa giờ học. Bận ngắm người đẹp thì giờ đâu nữa mà làm việc.
- Trễ rồi. Từ lúc ở phi trường, đôi mắt Sông Hương đã chiếm hết một nửa hồn rồi. - Còn nửa kia...?
- Nửa kia cũng dại khờ theo nên chỉ còn một cách là...cô phải hướng dẫn tôi đi thăm phố đêm Đà Nẵng và chọn quán ăn tối nay.
Sông Hương dấu vẽ thẹn thùng, chào theo kiểu nhà binh.
- Xin vâng lệnh ông chủ.
Người thanh niên khóa cửa văn phòng, bước theo cô gái ra đường. Sông Hương đeo chiếc mạng lên mặt, nổ máy xe. Đôi mắt đẹp long lanh.
- Anh có đủ can đảm ngồi xe gắn máy không? Sông Hương đưa anh về.
- Cám ơn cô. Tôi muốn được đi bộ dọc theo bờ sông...
Người thanh niên chưa chịu buông tha.
- ...để nghĩ về đôi mắt của Sông Hương và tìm cách khỏi bị té chìm trong đó. 2.
Quãng đường Đà Nẵng đi Hội An chỉ hơn ba mươi cây số mà chiếc xe đò cũ kỷ chạy chuyến đầu ngày phải mất hơn một tiếng đồng hồ mới tới. Cô gái trấn tỉnh sự thẹn thùng, khép nép bước bên người thanh niên cao lớn đi vào phố nhà thân thuộc của mình. Buổi sáng mùa hè cuối tuần vẫn còn quá sớm cho khu phố cổ đang ngái ngủ. Bên dưới hiên phố mái lợp ngói âm dương, lác đác quán hàng ăn bắt đầu dọn mở. Mùi thức ăn thơm lừng bay trong gió sớm. Trên đường rãi rác khách du lịch Tây Phương đang rảo bước về phía cuối phố.
- Những người khách này đi ra Cửa Đại tắm biển sớm đó anh.
- Cửa Đại cách đây bao xa Sông Hương?
- Chừng năm cây số. Mùa hè em và Má thỉnh thoảng đạp xe ra biển thật sớm, không tắm, chỉ ngồi bâng quơ một lúc rồi về.
Nhà Sông Hương ở cuối khu phố không xa trường trung học. Ngôi nhà vườn cổ kính nép mình kín đáo sau tường gạch bao quanh. Cổng nhà có mái che lợp ngói kiểu cách, giàn bông giấy đỏ rực phủ hờ trên cánh cửa đóng im lìm. Trong sân xum xuê hàng cây ăn trái trồng đã lâu năm. Ngoại trừ lối mòn từ cổng vào tới hiên nhà khoe màu gạch đỏ, lớp gạch quanh sân cũ kỷ màu xanh xám rêu phong. Mùi hương trầm từ trong nhà tỏa ra thơm ngát lẫn trong tiếng tụng kinh nho nhỏ trầm đều. Chú chó đen bỏ chổ nằm ở đầu thềm, cạnh chiếc ghế xích đu màu xanh biển, sủa ăng ẵng quẩy đuôi cuống quít mừng chủ.
Cô gái ngồi xuống ôm chú chó con vào lòng, vuốt ve lớp lông đen bóng trên lưng. - Mực bắt tay chào ông chủ của chị đi. Má đi ăn đám giổ trong Điện Bàn tháng trước xin con Mực về. Em xin đem đi Đà Nẵng mà Ngoại không cho.
Con Mực ngẩng đầu nhìn người thanh niên, chân trước quơ ngập ngừng. Chàng đưa tay cầm chân con Mực, tay kia xoa lên chiếc đầu nhỏ nhắn.
- Cái thân mi đó, ăn chưa no lo chưa tới. Đem con Mực theo bỏ quên bữa đói bữa no, giỏi lắm thì được vài tuần rồi cũng trả về cho Ngoại.
Bà lão vóc người nhỏ nhắn trong khổ áo dài lam, tóc bạc màu muối từ trong nhà bước ra hiền từ nhìn cháu.
- Con về chuyến xe đầu hay sao mà sớm quá vậy? Đi sớm rứa cho mát cũng được. - Dạ. Đây là ông chủ của con ở trường về Hội An có việc cần.
Người thanh niên cúi đầu kính cẩn chào bà Ngoại của cô gái.
- Sông Hương nói quá lời. Cháu chỉ làm khảo cứu ở trường một thời gian ngắn, cần nhờ cô Hương giúp đở về việc đi lại giấy tờ.
- Mời cậu vào nhà chơi. Con Hương rót nước mời anh rồi đem áo quần dơ xuống nhà dưới chút nữa Ngoại giặt cho.
Sông Hương mắc cở nhìn người thanh niên, rùn vai làm mặt xấu.
- Trợn mắt trợn mũi gì?! Ngoại biết tụi bây quá mà!
Cô gái theo bà Ngoại đi khuất vào nhà sau. Người thanh niên đứng tần ngần nhìn quanh gian phòng khách nghi ngút khói hương. Giữa nhà là bộ ghế trường kỷ và tủ chè làm bằng gổ cây sơn chi màu nâu đen lên nước bóng ngời. Trướng liễng hơn trăm năm cũ phóng thảo bằng nét bút điêu luyện từ một triều vua Nguyễn được treo dọc theo những thân cột tròn mun dấu thời gian. Công đức của tiền nhân mà tên tuổi còn ghi tạc trên mấy tấm bài vị đỏ lung linh ánh nến đã được tán dương bằng những câu thơ đối chỉnh tuyệt. Địa linh nhân kiệt. Vùng đất của Ngũ Phụng Tề Phi. Chàng ngước nhìn tấm hoành phi sơn son thếp vàng treo bề thế trên trần thượng giữa gian nhà. Người tiên trưởng của giòng họ là một trong nhữmg con phụng hơn trăm năm trước đã sải cánh trên vùng đất oai linh có núi có sông xứ Quãng.
Cô gái ló đầu khỏi tấm rèm trúc, mời người thanh niên xuống nhà sau uống trà. Chàng tò mò dừng chân trước bàn thờ nhỏ ở hông nhà. Bên cạnh tấm hình đen trắng của một người đàn ông nét mặt khắc khổ khoảng ngoài ba mươi là hình một cậu bé chừng mười tuổi tươi cười rạng rỡ. Bấc giác người thanh niên đốt một nén hương cắm vào bát đã đầy ngập chân nhang.
- Mời anh uống trà. Má em đang bận nấu thức ăn sáng dưới bếp.
Chàng đưa tay đón tách trà nóng thơm ngát hương sen, mắt ngước nhìn tấm hình chân dung cô gái rọi lớn treo ở góc nhà.
- Nhà Sông Hương gần trường quá chắc các anh chàng Hội An không thích lắm đâu. - Sao vậy anh?
- Thì sắp hàng đi theo người đẹp vừa được mấy bước thì nàng đã khuất bóng, cửa đóng then cài tức lắm chứ.
Cô gái mắc cở cúi đầu bước nhanh xuống bếp.
- Anh này thật...xạo quá trời!
Khoảng sân nối nhà sau với bếp lót gạch cao, trên có mái che. Cạnh nhà bếp là giếng nước, xi măng tráng tròn quanh. Bà Ngoại cô gái đang giặt áo quần bên bờ giếng. Dáng bà ngồi nhỏ thó cần cù dưới bóng mấy tàng lá chuối cong dài xanh mướt.
Người thanh niên cất tiếng chào người thiếu phụ đứng tuổi đang bận rộn với nồi thức ăn trên bếp. Bà tươi cười, đôi mắt to dưới đôi mày cong thanh thoát. Bà mẹ chào người thanh niên rồi quay qua trách con gái.
- Sao con không mời anh ngồi ở nhà trên, xuống bếp làm chi cho khói?
- Dạ không sao đâu cô. Cháu muốn đứng ngoài này cho mát.
Nhìn chàng luống cuống xách gàu nước chỉ còn lại một nửa lúc kéo lên khỏi giếng, Sông Hương được dịp cười chế diễu.
- Má ra coi ông Việt Kiều múc nước giếng nè Má!
Bà Ngoại ngồi móm mém cười chờ người thanh niên giúp múc nước giếng đổ vào thau giặt. Đôi mắt bà trong sáng so với tuổi đời chồng chất trên mái tóc bạc trắng thời gian. Đứng nhìn ba người đàn bà tươi cười bên nhau, lòng người thanh niên dâng lên nỗi xúc động diệu kỳ. Ba thế hệ. Ba đôi mắt đẹp. Bao nỗi truân chuyên trãi dài giữa mấy chặng tuổi đời cách biệt? Đôi mắt người đàn bà Việt Nam. Mắt Mẹ tha hương rưng rưng nỗi nhớ nhà. Đôi mắt thuyền xưa lung linh bến nước buổi chiều qua sông bối rối lụa là. Ánh mắt ngọc lan trong vườn khuya thơm bóng trăng vàng. Chàng nghĩ đến ánh mắt chất chứa sắc màu kỷ niệm trong truyện viết của Bố. Đôi mắt có ánh nhìn cong như cánh lá. Những đôi mắt sâu lắng âm thầm, sống can đảm với phận đời mình. Chàng muốn được lắng nghe, tìm biết nỗi vui hay niềm cay đắng tiềm tàng đâu đó sau ánh mắt
đẹp, bình thản tuyệt vời.
Trong bữa ăn sáng bà Mẹ hỏi nhiều về cha mẹ và chuyện học của người thanh niên. Bà chăm chú nghe chàng kể chuyện Bố Mẹ những năm tháng đầu vất vả ở xứ người. - Tên ba mẹ cháu nghe quen nhưng chắc chỉ là trùng tên. Hai người có lẽ không học ở Huế? - Bố Mẹ cháu gốc người Huế nhưng thời trung học ở Đà Nẵng. Mẹ cháu sau đó về lại Đà Nẵng đi dạy. Bố cháu học ở Sài Gòn, năm sau cùng trước khi đi lính có ra Huế học. Ông tốt nghiệp trường Hải Quân Mỹ rồi về nước sông hồ mấy năm. Đơn vị cuối của Bố ở cửa biển gần đây. Bà Ngoại vuốt tóc cô cháu gái, trầm ngâm.
- Mới đó mà đã hơn ba mươi năm. Hồi đó mỗi lần vô Duy Xuyên chở lụa, đi đò trên sông Thu Bồn gặp tàu tuần chạy ngược chiều là Ngoại sợ muốn chết. Tàu bè gì mà phóng như bay, sóng gió nỗi lên làm chiếc đò máy cứ hụp lên hụp xuống muốn chìm.
Người mẹ im lặng loay hoay dọn dẹp thức ăn thừa trên bàn.
- Sông Hương, con bưng mâm chén bát ra giếng rửa cho xong rồi đi chợ với má. Bà nhìn người thanh niên dò hỏi.
- Anh muốn đi thăm phố sáng nay hay ghé chùa Tàu trước.
Cô gái nhanh nhảu.
- Để chiều nay con dẫn ảnh đi thăm phố. Đi với Má ai cũng biết, chào trả mệt lắm. - Hội An có năm bang hội người Hoa, hội Phúc Kiến lớn nhất. Hy vọng họ có đủ tài liệu cho anh thu thập.
- Dạ, cháu xin theo cô đi gặp hội người Phúc Kiến trước. Giấy bút, máy chụp hình, máy ghi âm, mọi thứ đã sẵn sàng.
- Nếu anh cần gặp các nhóm người Hoa khác tôi sẽ giới thiệu giúp. Mời anh cứ tự nhiên ở lại nhà, khi nào xong việc thì ra lại Đà Nẵng chứ đi về hàng ngày tốn thời giờ và bất tiện lắm. Người thanh niên lưỡng lự hồi lâu rồi gật đầu cám ơn. Chàng sánh bước cùng Sông Hương và bà Mẹ qua khoảng sân lấm tấm nắng mai. Đầu thềm con Mực nằm lơ đãng trong tiếng mõ trầm đều của bà Ngoại từ trong nhà vẵng ra. Lời kinh nghe như điệu buồn xa vắng. Hai người đàn bà đứng lại dưới cổng nhà theo lời yêu cầu của người thanh niên. Qua ống kính màu, hình ảnh của một cơ ngơi Đông Phương cổ xưa và con người trắc trở trong cảnh sinh ly quay bước đẹp mà buồn diệu vợi. Dù sao mái cổng chào khép hờ và sắc thắm của những chùm hoa có dáng hình của trái tim cho dù rạn vỡ đã như một ước hẹn trở về.
Người đàn bà vấn tóc cao qúy phái trong chiếc áo dài lụa màu mở gà. Sông Hương hồn nhiên đi bên mẹ. Nàng đẹp rạng rỡ như ánh nắng mai. Nhiều người trẻ tuổi đi ngược chiều trên đường kính cẩn cúi đầu chào cô giáo của họ. Sông Hương quay nhìn người thanh niên cười chúm chím. - Học trò của Má hết đó. Anh thấy Má em chào trả mệt chưa.
- Học trò tôi có người đã bốn mươi. Tỏ lòng kính nể người trên kẻ trước là điều nên làm. Văn hóa mình hay ở chổ đó.
Đường phố trở nên tấp nập hơn. Khách du lịch tò mò thăm viếng đi lại trên đường. Cây thiên tuế lâu đời, có lẽ đã hơn trăm năm, dày kín những bè lá mọc tua tủa như bàn tay xòe khổng lồ. Tàng cây chiếm khoảng trời rộng che mát ngôi nhà cổ bề thế được dùng làm quán ăn và tiệm bán hàng lưu niệm cho du khách. Trong nhà khách ăn người mua kẻ bán chật ních. Người thanh niên hấp tấp theo hai mẹ con đi băng qua bên kia đường. Người đàn bà phân bua.
- Tôi có thói quen đi tránh ngôi nhà đó từ gần hai mươi năm nay. Bà Ngoại con Hương thì từ luôn cả con đường, không hề đặt chân đến. Ngôi nhà trước đây là từ đường chính của giòng họ Ngoại.
Cô gái ngoái nhìn đài hoa thiên tuế hiếm hoi trắng nõn trên tàng lá xanh.
- Bây giờ có lẽ anh đã hiểu vì sao gian phòng khách ở nhà la liệt bàn thờ không có chổ đi rồi chứ gì.
Người anh độc nhất của bà Ngoại, đứa con trai một của dòng họ, theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Từ thời con gái Ngoại đã ngược xuôi trên mấy dòng Ô Lâu, Thu Bồn buôn lụa. Cô gái Duy Xuyên phải lòng ông sĩ quan Bảo An Đoàn trẻ tuổi. Đất Quãng sông núi bao la Điện Bàn, Chợ Được, Hà Lam, Thăng Bình, Quế Sơn...và biết bao vùng chiến trận phải đi qua. Đoàn quân đến rồi
đi. Bướm đậu rồi bay. Người đàn bà một mình nuôi con và lo toan việc nhang khói ngôi từ đường cho ấm lòng tiên tổ. Mẹ tần tảo để con ăn học nên người. Mẹ nở mày nở mặt ngày mẹ gả con gái lấy chồng. Đám cưới xôn xao, cô dâu chú rể, nhà trai nhà gái xúng xính lọng tàn. Mẹ vui nhìn con có tình yêu và có cả lễ nghì ngày xưa mẹ thiếu. Sau năm bảy lăm, Mẹ tuy lo lắng cho con cháu nhưng trong bụng cũng mừng. Người anh độc nhất của mình đã sống sót sau cuộc chiến tranh tàn khốc trở về. Từ nay ngôi từ đường sẽ có người trưởng nam lo việc hương khói. Niềm vui sum họp không được bao lâu, gia đình đã có chuyện khó xử. Bà chị dâu, cô nông dân đảng viên nghèo đói lạc hậu của thời cải cách ruộng đất, tham lam muốn giành cả ngôi nhà tộc làm của riêng. Hai mươi năm trước cô đã dẫn đầu hò hét những đêm đấu tố địa chủ dưới ánh đuốc loang máu vùng Nghệ Tĩnh thì giờ đây sá gì cái lư nhang bài vị, tấm liễng ngoằn ngoèo hàng chử Nho vô ích của mấy tên phong kiến đã chết tiệt thời nào. Người anh nghe lời vợ và mấy đứa con thô lỗ thiếu văn hóa. Họ dọn bàn thờ từ đường xuống nhà sau, nơi mà một góc nhà đã biến thành chổ nuôi heo, để lấy nhà trước cho thuê. Mẹ quá tức giận đã từ chối nghĩa ruột thịt với người anh duy nhất. Bà thỉnh nơi thờ tự gia tiên về ở với con gái và người rể có hiếu đạo. Gần hai mươi năm nay Mẹ lại làm thêm bổn phận trưởng nam như Mẹ đã làm tròn mấy mươi năm trước đó, từ thuở còn son.
Người đàn bà cười nhẹ, nói như tự trách.
- Không hiểu sao tôi lại kể chuyện nhà không vui cho anh nghe như vậy.
Sông Hương dí dỏm.
- Tại Mẹ băng qua đường gấp quá nên phải kể câu chuyện dài đến hai mươi năm để giải thích. - Chuyện gì cũng có nguồn cơn của nó con à. Ngần ngại một chuyến đi, lỡ một chuyến đò qua sông, một phút dại khờ... cái nguồn tưởng nhỏ nhoi mà có khi cơn tiếc nuối ân hận theo đuổi mình đến suốt đời.
Chùa Tàu tấp nập khách du lịch. Cổng tam quan mái che cong vút với hình tượng long phụng chạm trổ công phu. Ba người len lỏi qua sân vườn chùa công phu hai hàng sứ kiểng lâu năm rồi đi theo ông vải giữ chùa vào nhà sau.
Lúc ông Bang Trưởng cùng người thanh niên đứng dậy tiễn hai mẹ con ra cửa, Sông Hương quay lại hỏi chàng.
- Anh có cần Sông Hương ra dẫn anh về ăn trưa không?
Người thanh niên lắc đầu.
- Cám ơn cô. Tôi định làm việc đến chiều, buổi trưa hoặc khi nào đói thì quanh quẩn trong phố ăn vội chút gì đó cho đở tốn thời giờ.
Hai mẹ con đi lẩn trong đám đông khách du lịch về phía chợ. Người thanh niên quay vào ngồi đối diện với ông Bang Trưởng người Hoa trên chiếc trường kỷ chạm trổ công phu. Chồng sách cổ đặt trịnh trọng trên áng thư. Ông già người Hoa mừng rỡ ra mặt vì hiếm khi được nói chuyện văn hóa lịch sữ của dân tộc mình bằng tiếng mẹ đẻ. Hai người khách chủ vong niên, kẻ nói người nghe, chuyện trò tâm đắc. Người thanh niên từ chối lời mời, ngồi lại một mình trong thư phòng, làm việc qua trưa. Chàng chăm chú ghi chép làm việc quên cả thời gian.
Mặt trời đã xế bóng lúc người thanh niên rời ngôi chùa đi thơ thẩn thăm phố rồi thả bước về phía bến sông. Cồn cát màu mở giữa sông xanh tươi từng đám ruộng bắp khoe mình trong nắng chiều. Bao thế hệ con người đã cần mẫn cơ cực hàng năm, hàng ngàn năm trên vùng đất nhỏ nhoi. Từng mùa lũ, mưa trên nguồn đã giận dữ trôi xuôi về vùng đất cách biển không xa. Cơn lũ đi về biển rộng để lại đổ nát cho người và lớp phù sa mới nuôi lớn mầm hi vọng sống còn. Vùng đất nhỏ, nơi giao lưu giữa nước nguồn và nước biển Đông đã chứng kiến sức sống của con người và mối hận mất nước của cả dân tộc Hời. Những ngôi tháp Chàm đổ nát ở Trà-Kiệu, Mỷ-Sơn, chỉ còn là di tích của nền văn hóa Sa Huỳnh một thời vang bóng. Con người của nền văn hóa Đông Sơn thuộc lưu vực sông Hồng, với sức sống mãnh liệt đã giành được độc lập từ phương Bắc và gầy dựng cho mình một xã tắc riêng. Giấc mộng mở mang bờ cõi không dừng ở đất Thuận Hóa cho dù thân-quế-huyền-trân phải chịu cảnh máng mường.
Xứ Đàng Trong, tên gọi vùng đất mới sao nghe quá xa xôi. Âm thanh lửng lơ buồn như tiếng chim quốc kêu thương cho thân gái dặm trường và nỗi sầu cố quốc. Đàng Trong. Đàng Ngoài. Phải chăng vì chuyện phân tranh giữa hai ông Chúa, vì Phố Hiến Đàng Ngoài tấp nập tàu thuyền
thương khách phương xa nên ông Chúa Đàng Trong đã mở rộng cửa biển cho phép kẻ Tây Dương vào dựng phố mới Hội An?
Dù sao thì đất mới đã chìu đãi người xa trọng hậu. Đám người Tàu, người Nhật, bị bạc đãi ở bản quốc hay phải tha phương cầu thực đã chọn Hội An làm quê hương mới. Khoảng sông rộng Thu Bồn không xa biển lớn đón mời thương khách từ trời Tây đến đã biến Hội An thành thương cảng lớn nhất của Xứ Đàng Trong vào thế kỷ thứ mười sáu. Món quà văn hóa lưu truyền giữa những nhóm người khác nhau qua hàng thế kỷ đã xây dựng Phố Hội An với những nét kiến trúc Đông Tây đặc thù mà hài hòa. Khu phố cổ êm đềm mà tinh tế như con người đang sống quây quần trong đó.
Nhìn những chiếc thuyền đánh cá từ biển về, người thanh niên nghĩ đến cuộc sống hải hồ của Bố thời trai trẻ. Phải chăng bóng đoàn tàu hùng dũng trên giòng sông êm ả đã khiến lòng cô gái ven bờ cuộn sóng? Phải chăng dáng con tàu từ biển về đã làm rộn ràng hồn người trong phố? Chàng nghĩ đến ánh mắt xa vời của Bố khi ông quẩn quanh trong khu vườn nhỏ sau nhà rồi chợt hiểu ra người cha trầm lặng của mình.
- Anh đứng ngắm mây nước ở đây mà nảy giờ Sông Hương đạp xe đi kiếm muốn chết. Cô gái dựng xe đạp. Đôi má nàng hồng lên vì nắng.
- Chút xíu nữa là em gọi về trường báo cáo anh bị mất tích rồi đó.
- Không mất tích nhưng rất đói bụng.
- Buổi trưa anh không ăn gì sao?
Người thanh niên chỉ tập giấy dày cộm trên tay lắc đầu.
- Tôi làm việc qua trưa. Mừng quá! Tài liệu nhiều nhưng sách được giữ cẩn thận nên rất dễ đọc. Ngày mai tôi sẽ trở lại khoảng vài giờ nữa là xong.
Cô gái lúng túng ôm hờ lưng người thanh niên lúc chàng lấy thăng bằng đạp xe. - Anh đói bụng, về nhà tha hồ ăn. Má nấu cao lầu, mì Quảng. Ngoại làm hến xúc bánh tráng. Ngon lắm!
- Còn Sông Hương thì nấu gì?
- Sông Hương phụ anh ăn cho hết mấy món Ngoại với Má nấu, sau đó dẫn anh đi ăn chè Cồn. - Vậy là cô muốn dấu tài nấu ăn của mình rồi.
- Anh chỉ đúng một nửa thôi. Em dấu tài nấu, còn tài ăn có muốn dấu cũng không được. Dù sao thì tuần tới về Đà Nẵng thế nào em cũng trổ tài nấu mì gói cho anh biết. Tiếng Sông Hương cười hồn nhiên khiến người thanh niên cảm thấy vui lây. Nỗi vui dịu dàng đằm thắm như làn khói ấm vươn lên từ một thân tình nào đó chưa tên mà xao xuyến hồn người. - Sông Hương chỉ cho anh con đường xa nhất để về nhà đi.
Cô gái cười trêu chọc.
- Em có nhiều câu hỏi để hỏi câu hỏi của anh trước khi trả lời. Đường nào? Nhà nào? Từ đó sẽ có thêm câu hỏi chẳng hạn như thế nào là xa? Rồi vì nói đến xa nên chúng ta đụng chạm đến gần. Khi nào thì gần, lúc nào thì xa? Xa theo nghĩa xa mấy cây số hay là chia xa, xa xôi, xa nhau, xa vời vợi. Còn gần là gần thế nào? Gần gủi, gần trong gang tấc, gần kề, gần sát hay là gần thiệt gần, gần đến nỗi hòa nhập nhau, hai trở thành một, một mà hai. Đó là chưa nói đến xa thì nhớ, nhớ vì thương, thương ai, nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai. Mà nếu không nhớ tức là đã quên, quên ai, ai quên, quên nhớ, nhớ quên. Quên thì mất, mất còn, còn mất, mất ai, ai mất...
Cô gái thao thao bất tuyệt. Người thanh niên bối rối không hiểu kịp những âm từ gần nhau tuôn như nước. Chàng cười lớn ngăn lời cô gái.
- Thôi, tôi xin chịu thua. Cô biết vốn liếng tiếng Việt của tôi nghèo đến mức nào rồi. Cô muốn dấu không chịu chỉ đường thì thôi đành vậy.
Cô gái chưa chịu buông tha.
- Đường là đạo. Đạo thì phải thiền, phải ngộ. Sông Hương không thể chỉ cho anh được. Em có thể chỉ giúp cho anh chùa để tu nhưng ngại chỉ trăng anh lại chỉ thấy bàn tay chỉ trăng nên thôi anh phải tự kiếm chùa lấy. Tội nghiệp một điều là anh phải biết đường lên chùa nên đường và đạo vẫn là một vấn nạn lớn cho anh.
- Thôi, thôi! Xin Sông Hương tha cho anh đi.
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Sáng nay Má ngạc nhiên khi thấy em lục sách lịch sử cũ đọc chăm chú. Má quở chắc chiều nay trời sẽ mưa. Ngồi đọc chuyện ông Nguyễn Tri Phương, em chợt nghĩ là phải tìm cách trả miếng anh về cái tội làm em xấu hổ vì dốt lịch sữ nước nhà. - Cô mà dốt thì ai thông minh?
Sông Hương bước xuống xe đạp, mở cổng nhà, quay nhìn người thanh niên. Trong bóng chiều, đôi mắt ngước nhìn chan chứa khoang trời xanh thẳm.
- Về câu hỏi của anh lúc nảy. Sáng mai Sông Hương sẽ dẫn anh ra biển. Con đường từ biển về lúc nào cũng xa.
- Xa vời vợi hay là chia xa?
Cô gái duyên dáng háy người thanh niên. Đuôi mắt dài như lá.
3.
Người thanh niên chăm chú đọc lại bài viết trên máy vi tính. Vừa lòng với công trình làm việc suốt buổi tối của mình, chàng đứng dậy làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt. Trời đã vào khuya. Bên ngoài cửa sổ, một thứ ánh sáng huyền hoặc vàng như lụa trải mịn màng lên khu vườn đêm. Chàng mở cửa bước ra ngoài. Bầu trời không mây cao thẳm. Chàng chưa hề thấy vầng trăng nào sáng như trăng đêm nay. Ánh trăng vàng lóng lánh ướt trên từng bóng lá đang say ngủ im lìm. Chàng bước chậm trong vườn khuya lắng nghe tiếng đêm quanh mình. Từ phía trước nhà, tiếng nhạc thật nhẹ nương theo gió thoảng dặt dìu vọng lại. Giọng hát liêu trai lãng đãng mơ hồ quyện lướt trong hương đêm đằm thắm mùi hoa bưởi.
Dưới bóng trăng chênh chếch đầu thềm, người mẹ ngồi lặng lẽ nghe nhạc từ chiếc máy cassette nhỏ. Bà ngồi nhìn trăng. Chiếc ghế xích đu khẽ lay động làm ánh trăng hồ như long lanh trong đôi mắt mở lớn. Chàng chợt hiểu vì sao Bố đã viết được những giòng văn sinh động khi diển tả đôi mắt đẹp người xưa trong vườn khuya của mùa trăng nào cổ điển .
- Có lẽ cô vẫn thường thức khuya?
- Người già ít ngũ, nhất là vào những đêm trăng sáng.
Người đàn bà nhích người chừa chổ trên chiếc ghế xích đu rộng.
- Cháu ngồi xuống đây đi. Thềm nhà con Mực quẩy phá suốt ngày dơ lắm.
- Bài hát cô đang nghe hay quá. Hầu như người lớn cùng thời Bố Mẹ cháu ai cũng thích nghe nhạc TCS.
- Chúng tôi lớn lên trong chiến tranh. Tình ca TCS hát lên được tình tự chia xa đổ vỡ của quê hương và những thất thóat ngóng trông của tình yêu bằng tất cả sự trau chuốt có thể có được của ngôn từ nên dễ lắng sâu vào hồn người.
- Và sau đó đã trở thành máu thịt của mình...
Người đàn bà gật đầu mỉm cười.
- Cháu ngộ rồi đó. Tôi cũng định nói vậy.
- Cháu chưa hiểu lắm đâu, chỉ nhớ lời Bố mà nói ra.
- Tôi cũng nghĩ như ba cháu. Khi hình ảnh âm vọng trong nhạc là kỷ niệm của chính mình thì sự cảm thông sẽ đến đậm sâu.
Giọng người đàn bà nghe xa vắng như một lời tự trầm. Đã hơn ba mươi năm mà hình ảnh hai người đạp xe qua cầu, hàng cây long não buổi chiều qua phố, vạt áo bay luống cuống mắt ai nhìn trên chuyến đò ngang vẫn lãng đãng trên từng giòng nhạc mỗi khi nghe. Mỗi bài hát như khung cửa sổ khép hờ của căn nhà kỷ niệm, chắt chiu cất giữ từng nỗi nhớ. Nghe lại bài hát cũ như nghe bước chân mình trở về mái nhà xưa, mở rộng cửa, thu xếp hong phơi lại mớ tàn y còn vướng vất hơi hám yêu thưong ngày cũ.
- Có lẽ vì vậy mà tôi vẫn thích nghe hoài những bài hát cũ.
- Cháu nghe cô nhắc hai người. Người kia là...
- Người bạn trai đầu đời.
Người tập cho tôi uống cà phê nghe nhạc rồi bỏ Huế mà đi. Tôi ở lại, cắt tóc ngắn, đạp xe qua cầu đi học một mình. Qua phố một mình. Những sáng tinh sương mùa đông Huế, tôi mặc hoài chiếc áo len cao cổ màu tím than người ấy khen đẹp. Ngày nhận thư từ phương xa, tôi mừng quýnh đọc giòng chữ thương quen. Vậy mà tôi đã ngần ngại một chuyến đi. Mẹ tôi ngồi không
nói. Ánh mắt xa xôi trãi dài theo phần đời hai mươi năm của mẹ. Một mình lặn lội nuôi con mà vẫn ôm ủ trong lòng nỗi vọng tưởng mong manh về người đàn ông đành đoạn. Hình ảnh buồn bã đó đã làm chùng bước chân mình.
- Có phải vì... người trong tấm ảnh?
Người đàn bà lắc đầu.
- Chúng tôi gặp nhau sau này. Cha của chị em Sông Hương ngày trước dạy cùng trường. Mẹ mừng ngày con lấy chồng, sống đời lứa đôi đằm thắm. Tình nghĩa vợ chồng cao quý đã giúp gia đình sống còn những năm đầu sau ngày đất nước đổi chủ. Sông Hương ra đời vào năm đói kém nhất của thời kỳ đó. Hai năm sau thì Sông Hương có em. Sinh kế khó khăn mà gia đình ai cũng mừng, nhất là cha của Sông Hương. Ông đã có người nối dõi tông đường. Nhìn con lớn lên trong xã hội đong chia vụn vặt ráo cạn tính người, vợ chồng chỉ biết nhìn nhau buồn khổ mà không biết làm sao hơn. Vì tương lai con, đứa con nối dõi tông đường, cha mẹ đã lén lau khô nước mắt tươi cười vẫy tay lúc cha con đứng trên chiếc tàu đò từ từ rời bến chợ để đi Cù Lao Ré. Con tàu vượt biên ra đi từ hòn đảo nhỏ đó đã không tìm đến được bến bờ tự do. Số phận của mấy chục con người đã quá mong manh như con tàu nhỏ nhoi dập vùi trong cuồng nộ đại dương. Tội nghiệp Sông Hương, tuổi thơ của con là những ngày buồn. Những sớm chiều hai mẹ con ra bờ biển Đông ngồi lặng lẽ chờ đợi một mầu nhiệm không bao giờ đến. Con đường từ biển về lúc nào cũng quá xa xôi. Tóc Ngoại bạc hơn trong chiếc áo dài lam khổ hạnh. Lời kinh Ngoại buồn hơn trong làn hương khói lắt lay tấm hình con hình cháu. Thời gian âm thầm trôi. Hai người mẹ và cô gái nhỏ sống lặng lẽ trong ngôi từ đường không có trưởng nam để nối dõi tông đường. Cửa Đại ngày càng đông người ra đi được nay trở về thảnh thơi tắm gội. Biển sớm với con sóng ân cần an ủi bước chân nhỏ cô đơn đã không còn nơi để chia sớt chổ ngồi cho một nỗi sầu. Có lần nhìn đám người xa về nô đùa trên bãi, Sông Hương nói với Mẹ. Nếu Ba và Em đi được có lẽ bây giờ cũng đang tắm biển với họ. Câu nói chất chứa chút hờn nghi len lấn nỗi buồn chạm mặt. Con đường từ biển về càng xa hơn buổi chiều hôm đó. Có còn không giấc mơ đời về người lính Bảo An đã bỏ Ngoại đi từ lâu lắm. Từ thuở đầu đời con gái âu sầu trên bến lụa Duy Xuyên. Những người đàn ông đã đi xa khỏi đời mình sao Mẹ vẫn mãi dằn vặt về nỗi ngại ngần một lần đi thời thiếu nữ. Họ đã bõ đi và để Mẹ lại một mình. Trách móc chi số phận. Hãy làm lành với nỗi buồn của mình để được sống vui với kỷ niệm đằm thắm. Sông Hương lớn khôn, chăm ngoan, hồn nhiên với bè bạn. Bãi biển Cửa Đại tràn ngập tiếng Sông Hương cười đùa với sóng. Trăng sáng đầu thềm Mẹ ngồi lắng nghe từng bài hát cũ lòng thật bình yên. Cây trứng cá trước nhà, già nua, rủ lá ngũ im lìm trong bát ngát hương đêm. Trăng xưa, vợ chồng ngồi đong đưa trên chiếc ghế xích đu, chị em Sông Hương leo trèo cười đùa trên cây trứng cá không bao giờ kịp ra trái chín. Giòng nhạc đưa người đàn bà có khi về trên một dòng sông, chân bước qua bóng cổ thành mát rượi, có khi là đôi bước chân vui buổi chiều qua phố lòng rộn ràng say. Và như thế ba người đàn bà sống những ngày bình yên trong thành phố cổ, trong ngôi từ đường mà những đứa con trai đã bỏ đi xa. Người thanh niên ngồi im sửng, lặng nhìn đôi mắt ngấn lệ. Bà mẹ đứng dậy, vuốt tóc người thanh niên rồi mỉm cười hôn nhẹ lên trán chàng.
- Có người biết về tôi nhiều hơn Sông Hương rồi đó. Thôi cháu sửa soạn đi ngũ để sáng mai Sông Hương đưa ra biển.
Người thanh niên ngồi lại thật lâu dưới mái hiên nhà. Trong đêm, anh ngồi lắng nghe từng câu hát lãng đãng sương khói trần gian. Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về... 4.
Người thanh niên đứng tựa thành cầu bâng khuâng nhìn xuống dòng sông. Thời gian trôi nhanh đến không ngờ. Suốt buổi tối đi lang thang dọc theo bờ sông, chàng buồn bã nghĩ đến ngày mai phải rời xa thành phố này. Chiều hôm trước lúc Sông Hương chào để về Hội An nghỉ cuối tuần với Mẹ và Ngoại, chàng định theo về nhưng vì công việc bề bộn nên ngại ngần, bây giờ lại vơ vẩn ngóng trông. Chàng quay bước về khách sạn. Lúc đi ngang qua văn phòng, người làm việc ở quầy đêm gọi anh lại.
- Cô gái vẫn đến đây hàng ngày...
- Vâng, Sông Hương làm việc ở trường Đại Học...
- Cô tìm đến nói có việc cần muốn chờ ông. Người quen nên tôi đã mời lên phòng. Người thanh niên nói vội lời cám ơn, hấp tấp đi về phòng. Sông Hương thẹn thùa mở cửa đón chàng. Đôi mắt nàng long lanh đẹp lạ thường dưới mái tóc còn ướt hương tắm gội. - Lần đầu tiên em chạy xe gắn máy đường xa ban đêm, sợ quá.
- Tôi đang buồn lo không biết làm gì cho hết đêm. Lang thang dọc theo bờ sông suốt buổi tối, trách mình sao không cùng về với Sông Hương để thăm Cô và Ngoại trước khi đi. - Ăn tối xong, ngồi với Má trước hiên nhà, em chợt ôm Má khóc như mưa. Má khóc với em mà mắt Má vui. Má nói, trời chưa tối lắm đâu con. Rồi Má đùa, tôi biết thế nào rồi cũng tới ngày Sông Hương bỏ Má mà đi.
Người thanh niên xúc động đứng lặng nhìn giọt lệ rưng vui trong mắt Sông Hương. - Ngoại gởi anh chai dầu khuynh diệp. Thư này của Má.
- Còn Sông Hương cho tôi cái gì?
- Em đem cả Sông Hương về cho anh đây.
- Tôi chỉ dám xin mang theo đôi mắt thôi. Nhờ em ấp ủ giúp dòng Sông Hương cho tới khi tôi trở về.
Người thanh niên mở phong thư dán kín người mẹ gởi. Trong thư vỏn vẹn tấm ảnh nhỏ rất cũ. Tấm ảnh quen thuộc chàng đã thấy nhiều lần trong album gia đình. Tấm ảnh Bố thuở còn là sinh viên trước khi vào lính. Chàng nghĩ đến mẹ mình, nghĩ đến người đàn bà ở lại trong phố cổ. Những người đã bỏ đi xa hay quay về. Mỗi người đều long đong chật vật trên từng nỗi hội ngộ chia xa để cuối cùng bằng lòng với hạnh phúc cầm giữ được. Rồi quen đi. Ngay cả những cơn sầu. Có lẽ người mẹ đang quay quắt vì tấm ảnh kỷ niệm ba mươi năm ôm giữ đã không còn. Có lẽ bà đã cầm lòng không nói rõ hơn về người bạn đầu đời với chàng vì biết nói ra sẽ không giữ được giòng lệ rơi. Người thanh niên cảm thấy mắt mình cay.
- Má viết thơ từ giã buồn lắm sao anh?
- Không đâu, má chỉ dặn đừng làm Sông Hương khóc đêm nay.
Người thanh niên mở xách hành lý. Chàng bỏ tấm ảnh nhỏ vào cuối quyển truyện Bố viết. - Của Má. Để Má đọc cho đỡ buồn.
Cô gái nhìn tựa đề quyển sách và tên người viết tò mò hỏi. Người thanh niên lắc đầu cười. - Sông Hương nhắn với Má rằng tôi nhờ Má trã lời giùm câu hỏi của em.
- Em vừa nhớ ra là anh chưa hề hỏi tên Má.
Người thanh niên ân cần cầm tay cô gái.
- Anh đã biết tên Má từ lâu. Người Đàn Bà Trong Phố Cổ.
Nhiều Khi Muốn Quay Về
Phan Thái Yên
Còn không một bận quay về
Vườn xưa ngó bóng trăng thề vàng gieo
Bùi Giáng
1. Dùng dằng với múi giờ vừa quen đã vội rời xa, người đàn ông thức giấc vào lúc nửa khuya về sáng đêm đầu tiên trở lại nhà. Mắt biếng lười khép mở, nhấp nhem khung cửa nhờ nhờ màn tuyết lặng lẽ phủ trắng vùng thao thức sâu quá canh tàn. Bâng khuâng trong cảm giác hụt hẫng chơi vơi giữa ra-đi-trở-về, người đàn ông thấy mình như con thuyền say giấc mộng trùng khơi, rạt rào con sóng thời gian, lẫn khuất hiện tiền, bạc đầu bờ lau quá khứ. Nằm nghe thân xác mềm theo trí tưởng, chừng muốn nhão ra cho thấm vấy đến tận cùng chốn nơi, đẩm bóng thời gian, lơ lửng trước sau. Ði qua thành phố mà tự thuở thanh xuân vẫn ước mong được đến một lần, sao nghe lòng bồi hồi nghĩ về ngày tháng cũ học trò mộng ươm từ sách vở.
Chuyến tàu điện tốc hành London - Paris băng mình vội vã cuốn theo buổi chiều đầu mùa xuân vương bụi tuyết. Vợ chồng hân hoan nhìn người thanh niên chửng chạc trước mặt. Anh ngồi im lặng phóng tầm mắt nhìn về phía chân trời xa. Họ chợt nhận ra sự trưởng thành của đứa con đi học xa nhà từ gần một năm nay. Họ cười qua mắt nhìn nhau, có lẽ vì nỗi vui từ ý nghĩ vừa thoáng qua đầu. Thằng Bờm của họ. Ðứa con của tháng ngày sau cải tạo long đong, bố mẹ sống lén lút giữa Sài Gòn với tuổi tên vay mượn. Ðứa bé vừa hơn một tuổi trong trại tị nạn, trên hòn đảo hoang lạ xứ người, bây giờ là một thanh niên tài năng đầy triển vọng, đang tưng bừng sống giấc mộng thanh xuân đời mình.
Con tàu trẻ trung lao mình về phía trước, quăng vụt về sau những ngôi nhà cổ kính rãi rác trên cánh đồng vừa tỉnh giấc đông miên, im lìm cây cỏ. Từng mái ngói vướng bụi thời gian ngã màu nâu xám, loáng khuất trong màu xanh non vừa choàng áo mới lên dải bình nguyên đang vươn vai phủi từng mảng tuyết muộn e dè trốn ánh mặt trời.
Người đàn ông ngẩng nhìn khoang trời xanh không một vẩn mây. Con tàu như ngừng lại. Êm đềm. Ông không muốn nhìn xuống để khỏi lạc mất giây phút lắng đọng, mong manh nỗi hạnh phúc nhẹ ngát tơ trời. Những giòng sông, những tình thân, tiếng gió trời, lời ru bên vườn, chiến tranh, hòa bình, cải tạo, thuyền nhân, cuộc sống lưu dân, con tàu, sân ga, ở lại, chia lìa. Tất cả dìu níu vào nhau trong ngờ ngợ chiêm bao, không chiều, không nơi, chẳng trước chẳng sau. Thảng thốt. Chìm sâu.
Người bạn lính cũ, an nhiên sống qua nửa tuổi đời với vợ con trong khu phố ngoại ô London. Tình bằng hữu rộ dậy, vượt thoát vài ngày thăm ngắn ngủi, bởi tiếp dài theo bao năm rượu uống một mình. Câu chuyện thâu đêm nối lại mối lòng chợt rung động hoa niên. Gợi lại những mãnh đời long đong, riêng rẽ mà quen thuộc bởi cùng tang thương trên giòng định mệnh chung của đất nước bất hạnh. Ðịa danh những con sông giòng kinh họ đã đi qua, quanh co trói buộc một thời trai trẻ. Có gì khác nhau về những cơn say, giọt rượu uống vào, giòng máu đổ ra trên giòng kinh nước đục Tháp Mười hay con nước rã rời lục binh trôi Vàm Cỏ ? Hay những cơn sốt rét kinh niên cho vật vã thêm giòng tháng ngày tù đày khốn khó, chốn núi rừng xa, ngoài Bắc trong Nam. Và như thế, sau ba ngày, ba mươi năm sau, hai người bạn chia tay, thân tình nở hoa thắm trong lòng...
Nhìn khuôn mặt ngạc nhiên của mẹ vì mùi nồng khai lúc họ vừa bước xuống đường hầm metro, người con cười lớn. Welcome to Paris, Mom!...Rồi đở lời. Thật ra thì tất cả những gì ba mẹ đọc từ sách truyện vẫn còn đó. Kinh Thành Ánh Sáng. Ðền đài, cung điện, tháp cao... Ngoại trừ
những sạp bán sách cũ ở khu Monmartre vẫn chưa mở cửa vì thời tiết còn qúa lạnh. Họ về đến nhà người bạn ở ngoại ô Paris lúc trời đã sập tối. Bạn cũ gặp lại nhau sau hơn ba mươi năm xa cách, ngờ ngợ mái tóc phai bạc thời gian. Chỉ một thoáng thôi để mắt còn kịp rộn nỗi vui náo nức. Ký ức dồn về trong mắt nhìn nhau. Hình ảnh hai gã học trò Ðà Nẳng vào Sài Gòn trọ học, trên chiếc xe cà tàng, cong lưng đạp từ cầu Trương Minh Giảng đến trường tận trường Khoa Học. Ðêm khuya lắc mà câu chuyện vẫn chưa tàn. Hai cảnh đời như đôi chiếc thuyền nan trên giòng thác ghềnh khốn khó. Ðứa đi cải tạo miệt núi rừng Phước Long. Thằng bị lùa đi học tập lao động ở miền Trung, tiếp theo là những năm tháng tù vì vượt biên thất bại. Hai người mẹ cùng khóc con mình vắn số trong khi chồng thì vẫn biệt tăm trong cảnh giam cầm. Hai ngôi mộ giờ đây nằm lại bên phố vịnh quê hương bơ vơ cát trắng. Từ bao năm rồi mà bố mẹ vẫn nào nguôi thương nhớ về đứa con yêu nằm gối đầu hướng núi Phước Tường, yên nghĩ ngàn thu... Ðâu đây trong gió trời bùi ngùi kỷ niệm thoảng vọng chuổi cười của bầy trai gái đạp xe về phố. Những chùm chà là xanh chát ngắt vội từ ngọn núi nhỏ rung rinh theo từng vòng bánh quay. Có đôi trò nhỏ vô tư sánh nhịp đạp vòng xe, cùng lăn đời nhau vào cuộc trăm năm. Họ có ngờ đâu khu nghĩa trang đìu hiu hoang cát trắng bên đường sẽ là nơi chôn cất một phần đời của họ.
Người bạn châm thêm rượu vào hai chiếc ly vơi.
- Uống đi mày... Năm bảy hai, ở Võ Bị ra, tao về TQLC đánh nhau ở Hải Lăng được mấy tháng thì nghe tin bạn bè nói mầy đi Giang Ðoàn bị tử trận đâu đó dưới Vùng Bốn. Năm ngoái, nhận được tin mầy liên lạc tao mới hay chứ mấy chục năm nay cứ đinh ninh mầy đã xanh cỏ rồi.
- Chỉ xém chết thôi. Cũng may. Viên đạn vào sâu thêm tí nữa thì đã phủi chân leo bàn thờ ngồi rồi. Sau mấy lần hai-mươi-chín-ngày tái khám, tao xin đổi về Giang Ðoàn ở Hội An. Cưới vợ. Bốn tháng sau thì tan hàng...
Người bạn mở cửa bước ra ngoài. Họ đứng trong bóng tối dưới hiên nhà.
- Chuyện đời chẳng biết đâu mà lường. Những năm trong cải tạo, có lúc quá buồn chán, tao đã nghĩ thà ngày trước bị chết ở mặt trận còn hơn phải lây lất sống trong cảnh chết của đói mòn đày ải... Bây giờ thì nhìn con cái khôn lớn, thành tài, làm cha mẹ lòng cũng an ủi phần nào. Chỉ còn nỗi buồn nhớ quê hương, gia đình, đứa con bỏ lại.
Hai người lính già vẫn đứng lặng yên trong nửa khuya về sáng. Khu xóm say ngủ im lìm. Ngọn đèn chong cuối đường cúi đầu, hiu hắt bóng hàng cây đổ dài theo lối gạch nằm trải mình chờ sáng...
Em về bủa rộng hoang liêu
Buồn sông bóng mạ bên chiều nhớ nhung
Bùi Giáng
2.
Tiếng khóc nấc nghẹn của chị Thuyền từ bên kia điện thoại khiến người đàn ông sửng sờ, không tin điều vừa nghe là thật. Có lẽ nào...? Ðứa cháu nội duy nhất chưa đầy hai tuổi đời của chị vừa đột ngột từ trần đêm qua. Ðêm trước ngày chị đã thu xếp công việc, nghỉ ở nhà để chờ gặp lại những người bạn nhỏ thời trung học từ xa xôi đến tìm thăm.
Vợ chồng người đàn ông theo hẹn, đến Bruxelles tìm thăm gia đình người bạn cũ cùng lớp thời Phan Châu Trinh, Ðà Nẳng. Họ dự định cùng rời nhà vào sáng sớm cho kịp hẹn với chị Thuyền ở Troy, thành phố gia đình chị lưu cư gần hai mươi năm nay từ ngày đến Pháp. Cơn bảo tuyết muộn màng rơi từ sau nửa đêm đem mùa đông trở về phủ lên con phố dốc cổ kính ngoại ô Bruxelles. Tưởng chỉ gọi điện thoại để phân trần chuyện trể hẹn vì bảo tuyết, nào ngờ tai họa ập đến choáng váng không ngờ. Họ bàng hoàng nhìn nhau lúc người bạn lúng túng ngỏ lời chia buồn và không dám vướng bận chị lúc tang gia bối rối. Những gặp gở không thành thường bắt đầu bằng tiếng khóc. Dự định ấp ủ từ lâu chợt tàn rũ theo cơn đau thương choàng đến tâm hồn chị Thuyền run lạnh heo may.
Người đàn ông đứng lặng nhìn khoảng trời tuyết sa. Bên ngoài bệ cửa sổ, ngơ ngác mấy nhành uất-kim-hương vừa ươm nụ run rẩy vươn mình khỏi lớp giá băng. Nụ hoa ngại ngần tước ra những vết hồng loang trên tuyết trắng. Tuyết vẫn rơi, phủ trắng dãy mái ngói rêu xưa gảy góc và quãng phố lát gạch mòn dấu thời gian. Nỗi lòng nôn nao chờ gặp người chị thuở mười ba chợt rụng xanh theo cơn tiếc nuối. Ðịnh mệnh sao quá nghiệt ngã với chị. Tiếng khóc tang thương từ
bên kia điện thoại, từ một cõi đau. Ông bàng hoàng nghĩ đến những tình cờ oan khiên của cuộc đời... Bốn mươi năm. Cái chết của đứa cháu nội đong thêm âu sầu cho người chị đã lắm cơ cầu. Người đàn ông nghĩ đến mất mát cũ trong đời chị . Ngôi mộ ấp ủ tình sâu trên đồi xưa chôn cất theo phần đời chị Thuyền buổi Huế thanh xuân, xôn xao giảng đường, náo nức hương duyên . Ngôi mộ được vun xén đắp bồi trong kỷ niệm nhưng lẩn khuất, điêu tàn, trên bãi đồi chói chang, héo khô sim dại, chẳng ngõ ngách tìm ra để quay quắt lối chân chị trở về tìm viếng, lệ ứa theo từng bước không đành.
Biết bao giờ Thuyền trở lại đồi xưa? Người bạn gái của chị thuở học trò đã có lần nhắn hỏi trong một bài viết. Hay Thuyền đã chẳng hề ra đi ? Có phải ngôi mộ liệm cất tình xưa vẫn cát bụi im lìm trên lưng đồi mùa hạ Huế nắng chang đó sao?...
Họ thương nhau. Người thanh niên Huế đi học rồi dạy học ở những ngôi trường trên cùng một phía của con đường xanh bóng cây long não và giòng sông hiền hòa con nước chảy về xuôi. Ðời anh êm đềm bóng mát cổ thành, thân thuộc khúc phố nhỏ nhoi và con đường quen chẳng mấy dài hơn sáu vài cầu phủ phê đôi bờ buổi sáng đến trường, chiều cuối tuần qua phố. Bà mẹ Huế cưới vợ cho con, tìm dâu cho mình. Chị Thuyền mất người yêu. Huế đem tới cho chị Thuyền tình yêu rồi lại lấy lui. Ngày chị Thuyền bỏ Huế mà đi, nước mắt chị rơi nhòa giòng sông, rớt ngược vào tim rồi ở đó dột nát mái đời.
Rồi chị lấy chồng, làm mẹ. Rồi phận nước đẩy đưa, tình nghĩa đổi thay. Cuộc trăm năm dài chưa đủ một nửa đời người đã đứt gánh giửa đàng. Trên vùng đất lưu cư, chị Thuyền tần tảo làm mẹ, làm cha, nuôi dạy con cái nên người. Chị dựng vợ, gả chồng cho con, trọn vẹn những cuộc tình duyên có trầu cau. Tuy bận rộn, lòng chị Thuyền vẫn chắt chiu từng kỷ niệm yêu thương ngày cũ. Cuộc sống thiếu hạnh phúc mà nhiều tai ương và cuối cùng là cái chết của người yêu thuở đầu đời vẫn khiến chị âu sầu mỗi khi nghĩ về. Hạnh phúc lứa đôi của các con và sự ra đời của đứa cháu nội kháu khỉnh đã giúp chị Thuyền nguôi ngoai mà sống vui trong cảnh gia đình êm ấm. Cho đến đêm qua...
Trên đường trở lại Paris, người đàn ông miên man nghĩ về tiếng cười ngọt xớt của chị Thuyền trong khu vườn cây trái sau nhà. Bốn mươi năm trước. Hình như là hàng cây mảng cầu vừa lớn. Cũng có thể là những cây chanh. Ông mường tượng từng chùm hoa trắng thoảng hương xưa. Mười năm sau. Một buổi chiều theo tàu về trốn bảo trong thành phố vịnh biển quê hương. Ngồi chờ mưa tạnh trong quán Chiều Tím cạnh ngôi nhà cũ, gã lính giang hồ bâng quơ nhìn vườn cây sum suê lá. Có lẽ chị Thuyền đang ở một nơi xa nào khác. Còn lại hình ảnh đôi mắt dáng thuyền cười xanh như lá.
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Tuệ Sỹ
3.
Buổi chiều không nắng, gió lồng lộng lạnh căm. Từ ngọn tháp cao nhìn xuống, giòng sông Seine lặng lờ nước nhuốm màu mây tím thẩm. Giòng sông hình như bất động rồi nhỏ nhoi theo nỗi thất vọng xa dài. Có lẽ chuổi xám trắng dằng dặc của lâu đài, thành quách, đền thờ, đã làm giòng sông nhỏ lại, khúc khuỷu bến bờ. May mà còn có những chiếc cầu nối nhịp qua sông. Nhìn chiếc xà-lan chậm chạp níu dần khoảng cách rồi trong phút chốc mất hút dưới bóng cầu, ông cảm thấy nhẹ lòng và thầm tự trách mình vô lý. Mỗi con tàu đều cần thiết một giòng sông để được lênh đênh và bến hẹn trở về. Lòng ông chùng theo nỗi nhớ về những giòng sông lưu lạc quê nhà. Giòng sông trôi, đẩy nhịp hư vô cuốn trả cơn mơ bất tận kiếp người về lại với cảnh đời dâu biển. Giòng sông trở mình thấm đẫm phù sa, ôm đồm từng nỗi niềm riêng của đá sỏi nghìn xưa mơ hoài một buổi hóa thân. Giấc mơ của đá. Nỗi buồn của từng giọt lệ, từng giọt mồ hôi, rã đọng muối khô vì ngọn gió lịch sữ lắm khi tai chướng lọc lừa.
Từ một chiều hương thị còn vàng thơm bọc áo, đứng trên cầu Bến Ngự tần ngần hỏi Mẹ ngả sông mô thì ra tới biển. Ông đã nổi trôi chìm đắm trên giòng sông đời mình, trôi xa khỏi vịnh biển êm đềm, lênh đênh trên khắp cùng sông biển quê hương mà lòng thì mãi nhớ về giòng sông nhỏ bình yên dáng Mẹ. Quê hương đau nắng hạ cũng buồn... Xốn xang lòng ông hình ảnh con tàu chập chùng đêm trên vùng biển phía ngoài phá Tam Giang loáng ánh trăng khuya. Con tàu đi dọc
hết biển quê hương để rồi phân vân bước chân gã lính giang hồ qua đôi lần sông sau trước. Những chiều rượu uống ngà ngà say trên bến Ninh Kiều, nhìn bầy lục bình trôi trên giòng sông bát ngát, lòng chợt thấm thía hai tiếng Trường Giang. Ðêm Ðồng Tháp mù tăm, con kinh dài hơn đêm, hiu hắt ngọn đèn trên bến An Long làm bồn chồn chuyến đò qua Chợ Mới, qua bến Long Xuyên, qua bắc Năng Gù cho lòng lính thú cũng nôn nao ngày phố lớn Sài Gòn.
Ba mươi năm. Giòng nước sông Thu Bồn một cuối tháng Ba đã đẩy đời người vào cuộc truân chuyên, trôi tuốt khơi xa qua bên kia biển. Thôi rồi đêm trăng Thuận Tình mờ mờ cát vàng Xuyên Thọ. Vùng đầm sông nối biển, trộn nước nguồn Ô Lâu-Trường Giang-Thu Bồn-Ðế Võng với nước biển Ðông là dấu mốc oan khiên mặn xát hồn lưu xứ. Người lính trẻ đứng trên chiến thuyền ngoái nhìn doanh trại bốc cháy mà lòng tơi bời mối chung cuộc nhục vinh. Anh lo lắng nghĩ đến người vợ thai nghén đang trông chờ tin chồng từng giây phút ở Ðà Nẳng. Ðôi vợ chồng người bạn sĩ quan vừa cưới nhau xong hai ngày trước ở Hội An. Cô giáo trẻ lạy tạ mẹ cha trong ngày cưới để kịp theo chồng. Cuộc tùng phu định mệnh dài suốt kiếp lưu vong. Ba chị em nhà họ Sử, quán Phương, thường ngày xinh như mộng, quên cả làm duyên, ngơ ngác tội nghiệp ngồi quấn vào nhau trên bong tàu gươm súng rộn ràng. Phận người mở ra, khác biệt mà tương quan trong cấp bách sửng sờ, khóc khô nước mắt và tương lai vô định mịt mờ.
Ba mươi năm. Bước chân lưu vong đã đi hết biển năm châu nhưng đại dương xô sóng trong hồn vẫn mịt mờ bất tận lối về. Người vẫn mãi trên đường đi, canh cánh bên lòng một quê xưa vàng son và đôi tay không mỏi bồng bế cháu con cho tương lai, cho tự hào, dù sống kiếp lưu dân. Có người từ trong nước, muốn tin mình là người tử tế, đã lên tiếng rủ rê về một làng xưa, có chùm khế ngọt đong đưa đêm trăng tỏ để lem thèm đoàn lưu dân họ những tưởng đã đi hết biển. Tội nghiệp con thú hang sâu xiềng xích chưa lìa, chân quen bước quẩn quanh, mắt còn nhấp nhem vì chút ánh sáng từ cửa động đã lên tiếng thương hại bước chân đồng loại ra đi, hú gọi quay về. Tội nghiệp giấc mơ nhỏ nhoi, ngắn ngủn, héo rũ khi ánh dương lên. Tội nghiệp người đánh cá phải đành bỏ lại đêm rộng trời cao và gió trăng phía ngoài cửa biển, im lìm mệt mỏi quày qủa về lại bến sông cho kịp phiên chợ xép mỗi ngày lên, trên chiếc thuyền buồm vá nát rách bươm. Tội nghiệp người đàn bà đôi vú héo hon, vội vã cho kịp thêm một ngày gồng gánh nước sông. Vợ chồng gặp nhau trên quãng đường đê. Cả hai đều thiếu ngủ, chào nhau bằng tiếng ho khan. Những giấc mơ đã không còn.
oOo
Người đàn ông ngồi dậy, định bụng làm vài động tác vươn vai cho tỉnh người nhưng rồi chỉ lặng lẽ bước ra khỏi phòng ngủ. Ý nghĩ về buổi chiều trên tháp Eiffel gió lộng và một giòng sông đã trôi đi khiến ông bồi hồi đứng lại, nhắm mắt hồi lâu...Sương mù theo buổi chiều sa xuống mặt nước sông Seine khuất lấp mù tăm. Ngọn tháp như bị bứng gốc, lơ lững trong gió xám lồng lộng thổi quanh. Thành phố bên dưới vừa lên đèn, qua màn sương, mơ hồ một cõi khác xa vời...
Mùi café thơm lừng làm ông tỉnh táo. Vợ chồng vừa trở về cõi riêng thân thuộc của mình. Khu vườn sau nhà tuyết đọng tinh khôi. Người đàn ông âu yếm quàng vai vợ, ly café bốc khói trên tay. Buổi sáng ở Bruxelles, tuyết cũng rơi nhiều như sáng nay.
Biết bao giờ Thuyền trở lại đồi xưa?
Về Với Cơn Mưa
Phan Thái Yên
Trời mưa ướt bụi ướt bờ
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em
(Ca dao) Mùa hè ở Phố Đôi (Twin Cities) năm nay mưa nhiều. Mưa về gần như mỗi ngày, dai dẳng khác thường. Mưa từ chiều rả rích vào đêm, thức dậy cùng buổi sáng ướt tiếng chim hót trong tàng cây bồ đào trước nhà. Đêm chờ ngủ, tôi nằm nghe gió thổi mưa lên khung cửa kính khép hờ. Tiếng mưa rơi đều, bời bời nhịp đập vọng về từ những đêm mưa mùa cũ. Xa tắp. Mơ hồ. Âm thanh vỗ về hoài niệm nghe như tiếng gọi thân tình vọng tự một miền xa. Mưa bay theo gió rơi vào hồn người nỗi xao xác nhớ nhà. Nhà xa xôi tận bên kia biển mà người thì vẫn kiếp lục bình trôi dọc thời gian. Thế nhưng tưởng nhớ mang kỷ niệm lại gần. Mấy mươi năm dài về lại trong gang tấc. Mới như ngày hôm qua. Như tiếng dế đêm qua còn rộn góc vườn trăng lóng lánh giọt mưa vừa ngớt, hồi hộp bàn chân bước trẻ thơ. Mới như bây giờ giữa cơn mơ mòng thèm hít thở hơi mưa bay bay chiều phố biển quê nhà.
Đôi mắt hồn chong hắt hiu ngó về quê mẹ rồi chợt bồn chồn mối chiêm nghiệm về những chọn lựa trong đời. Chọn lựa nào cũng để lại mối đau như cơn mưa rớt hoài không tạnh trong lòng. Dòng mưa bay qua năm tháng, nơi chốn, kỷ niệm, tuổi xuân. Mưa rơi nhòa hệ lụy, biển dâu, phai nát đá vàng. Hạt mưa quyện bay theo cung bậc miên man của dòng sinh chuyển đất trời, lay thức giấc cô miên trong mỗi tâm hồn đang chùng đợi buổi sáng giao mùa.
Mơ màng theo giòng mưa bay, tôi bắt gặp mình thơ dại phân vân giữa cơn mưa đầu nguồn trí nhớ. Thời gian có lẽ vào khoảng tháng Mười, năm năm ba. Sao lại tháng Mười ? Tôi không còn nhớ. Có lẽ những năm sau đó, thường nghe cha mẹ hay người lớn than phiền về những ngày tháng Mười mưa bão nhiều. Tội nghiệp tháng Mười không kịp vui, tháng Mười “chưa cười đã tối”, tháng Mười “ông tha bà không tha”. Tội nghiệp đứa bé vừa mấy tuổi đầu đã nếm cảnh tấn thối, sinh ly...
Trời đã sẩm tối mà bến xe Vĩnh Điện vẫn còn nhộn nhịp. Đèn măng-sông trong quán trọ thắp sáng trưng. Thằng bé chưa đầy năm tuổi, ngồi im lặng bên đứa em gái lên hai, mắt hấp háy nhìn ly sửa trắng ngà trên bàn. Ngoài trời mưa tuôn tầm tả. Lấp lánh qua ánh đèn, từng sợi mưa cắm nghiêng xéo xuống mặt đất sình lội, rác rưởi. Người cha râu tóc phong trần trong chiếc áo nhà binh bốn túi rộng thùng thình. Ông ngồi quên ăn chăm chú nhìn người mẹ đút cơm cho bé gái. Thỉnh thoảng ông quay qua, mỉm cười xoa đầu đứa con trai vẫn ngồi nhìn ra màn mưa xối xả bên ngoài. Mưa trút xuống đời như nỗi lo lắng cho tương lai gia đình đang xốn xang trong lòng ông. Luồn lỏi vén khéo lắm người cha mới đưa được gia đình ra khỏi vùng kháng chiến. Gia sản gom không đầy chiếc ba-lô trên vai, họ dắt díu nhau rời Bồng Sơn tìm đường hồi cư về Huế. Ra tới Quảng Ngãi, gia đình phải chờ đợi nhiều ngày, cuối cùng mới được cấp giấy về vùng Quốc Gia.
Mưa bắt đầu từ buổi trưa, khi cả nhà leo quá giang chiếc xe nhà binh ở Quảng Ngãi. Tấm vãi bạt đậy thùng xe cột lỏng lẻo, buông phất phơ như ống tay áo của một phế binh. Trong một lúc lâu, thằng bé thích thú ngồi lắc lư theo nhịp dằn của chiếc xe nhà binh cũ kỷ, mắt ngóng chờ từng đợt nước văng tung tóe lúc xe chạy qua ổ gà ngập nước. Lúc xe dừng lại ở bến xe Vĩnh Điện, người cha phải bồng thằng bé đã ngủ say vùi vào quán trọ. Ánh sáng chan hòa và cảnh rộn rịp trong quán khiến đứa bé tỉnh ngủ, ngơ ngác nhìn quanh. Rồi nhìn mưa.
Lắng nghe cha mẹ bàn định chuyến đi ngày mai về Ngoại, thằng bé lờ mờ không hiểu nhưng lòng cảm thấy buồn buồn. Mẹ nhắc đến gia đình đứa bạn duy nhất của nó đã hồi cư về Đà Nẳng một tháng trước đây. Huế. Đà Nẳng. Hai nơi có lẽ rất xa nhau. Nghe nói là phải qua đèo. Thằng
bé tụt xuống ghế, ra đứng bên hiên quán nhìn mưa.
Hắn suy nghĩ cả hồi lâu vẫn không thể nhớ ra một cơn mưa lớn và dai dẳng như thế ở Bồng Sơn. Có thể là hắn bận chơi đùa với bạn nên không để ý tới chuyện mưa nắng, chia lìa. Có thể vì hai đứa sẽ không bao giờ gặp nhau nữa nên trời mới mưa lớn thế này. Hồi trước, hai đứa lúc nào cũng cặp kè với nhau nên bờ sông Lại ngờ ngợ cát trắng lúc nào cũng nắng ấm. Và trời thì rất xanh, như bóng dừa. Đôi bàn chân nhỏ lúc thúc chạy dọc theo bờ sông, giởn đùa với nước. “É ơi É, qua nhà ông Mỹ Hẻ chơi É!” ...Thằng bé nghĩ đến tiếng rủ gọi của bạn mà tiếc ngẩn ngơ những lần hai đứa qua nhà ông già hàng xóm chờ được ăn rẻo kẹo đậu phụng. Hắn chợt biết sẽ không còn dịp hai đứa ngồi sụp nép vào nhau bên vệ đường, thích thú lẫn sợ sệt nhìn bầy voi từ An Lão xuống, đủng đỉnh đi qua khu phố nghèo mái tranh đường đất, vòi vươn cao ngang đọt dừa. Thằng bé đứng nhìn mưa, nhớ bạn lòng buồn quá đổi.
Thế mà sáng hôm sau qua đèo Hải Vân, được đứng giữa lưng trời, khích động nhìn mây nước phủ mờ dưới chân, lòng trẻ thơ đã vội quên đi nỗi buồn…
Hai năm ở Huế trôi qua với hình ảnh ngôi nhà có nhiều bậc cấp của Ngoại ở gần chợ Bến Ngự và những chiếc dù khác màu treo lủng lẳng dưới hàng hiên vào những ngày mưa. Có rất nhiều ngày mưa ở Huế. Thằng bé tiếc rẻ nhìn những tái thị vàng thơm nằm tả tơi trên mặt đất trong sân nhà hàng xóm ở hông chợ lối xuống bến sông. Vào một ngày tạnh ráo hiếm hoi giữa mùa mưa lũ, thằng bé được ông Ngoại cho cầm dù theo ông đi coi nước lụt. Nhìn giòng nước đục cuồn cuộn từ ngả Phú Cam trôi về như muốn đâm sầm vào cầu Bến Ngự, đứa bé sợ hải nắm chặt lấy tay Ngoại quên cả sự e dè thường ngày. Thân cầu Kho Rèn, Nam Giao nhìn từ xa như chìm thấp hẳn xuống, chới với trên mặt nước đang hồi thịnh nộ. Bờ sông ngắn và dốc thường ngày với những bến giặt có nhiều bậc cấp giờ đây đã chìm trong nước. Thằng bé thích thú theo ông Ngoại lội qua khoảng đường lắp xắp nước trước cổng vườn Viễn Đệ. Đôi chân đứa bé chìm ngập lên tới háng trong cặp bốt nhà binh màu cứt ngựa của người cậu. Chiếc dù vàng bung rộng chụp xuống thân hình bé nhỏ. Nhìn từ xa, trông như Ngoại của hắn đang dẫn một chiếc nấm biết đi.
Lúc hai ông cháu về lại nhà, Ngoại lấy cán dù chỉ vào vết lằn chạy dọc theo bậc cấp cao nhất, ngấp nghé nền hiên. Chưa thấm chi với trận năm Thìn. Ngoại treo chiếc dù sủng nước lên mái hiên, bước vào nhà. Đứa cháu ngoại đứng ngơ ngác nhìn theo. Lần này Ngoại không chêm tiếng Tây, nhưng năm Thìn là gì thì phải hỏi ba mẹ. Đứa bé lắc đầu, ngồi xuống thềm hiên, nằm ngửa người rảy rảy đôi bốt ra khỏi chân.
Vài ngày sau, người cha dẫn con đi hớt tóc ở tiệm của một ông già phía bên kia cầu Bến Ngự . Năm Thìn là năm con Rồng. Rồng phun nước nên năm Thìn thường hay lụt lội dữ lắm. Người cha giải thích. Đứa con ậm ừ chẳng hiểu gì thêm, chân lúp xúp chạy theo cha cho kịp lần hớt tóc tiệm đầu tiên trong đời. Tiệm là gian nhà tranh nhỏ bên đường dọc theo bờ sông giửa cầu Nam Giao và Bến Ngự. Bên trong lỏng chỏng chiếc bàn nhỏ có hộc đựng dao kéo, tấm kính soi mặt lớn treo trên vách đã ngã màu. Lơ lửng treo từ giữa nóc tiệm là tấm ván mỏng cắt theo dạng một chiếc quạt nan thật lớn có dây kéo. Khách chờ ngồi trên băng ghế nhỏ đặt dọc theo vách hông có nhiệm vụ kép dây để chiếc quạt lui tới phe phẩy vào những ngày hè đứng gió. Ngồi trên chiếc ghế đẩu cao trước bàn, thằng bé để ý thấy khoảng sông nước trong tấm kính trở nên vàng vọt, chìm xa. Đứa bé xoay người nhìn chiếc ghe chài trên sông rồi lạ lẫm nhìn hình ảnh chiếc lưng của người quăng lưới gù lệch đi trong tấm kính. Thợ hớt tóc là một ông già nhỏ bé, hói đầu, chuyện trò luôn miệng. - Rứa mi là cháu ngoại của ông Thông Tằm đó hỉ ?!...
- Cái ôn ni hay thiệt. Làm răng mà ôn nôm được con gái lớn của ông Thông Tằm giỏi rứa ? Người cha ừ ào cho qua chuyện, tay lơ đãng kéo sợi dây làm chiếc quạt đong đưa phả gió mát rượi.
- Thằng cháu ngoại ni cũng giỏi ghê nghe. Tao tưởng mi nói giọng nẩu chớ. Té ra mi nói tiếng Huế mình.
- Chẳng có chi lạ. Cho dù ở đâu, con cái thường hay nói theo giọng quê của cha mẹ. Người cha phân bua, trong lúc thằng bé chợt sặc lên cười, không biết vì tiếng “nẩu” ông già rất-Huế cố ý giả giọng hay vì sự nhột nhạt lúc ông dùng cái bót lông mềm thoa nước lạnh ngắt lên gáy lên cổ.
Hơn mười năm sau, khi gia đình tôi từ Đà Nẳng trở lại Huế thì ông bà Ngoại đã theo người cậu, em kế mẹ, vào sống ở Sài Gòn từ vài năm trước. Ở lại Đà Nẵng trọ học, tôi thích thú nôn nao từng chuyến xe đi về qua ngọn Hải Vân vào những dịp nghỉ hè tết lễ. Cảm giác lâng lâng khi nhìn mây nước quyện nhau từ chốn lưng trời chẳng hề suy biến trong tôi. Mãi mãi đậm nét trong ngăn phần kỷ niệm, hình ảnh đứa bé năm tuổi, rồi bảy tuổi, thích thú lạ kỳ với cảm giác đang đứng trên mây nhìn xuống mặt biển mờ sương khói. Những cụm mây vương vấn sương mai, theo gió bay là đà trên mặt đường rồi nhẹ nhàng vờn níu bước chân khách viễn du. Những năm về sau, đôi khi đứng trên đỉnh đèo mưa rơi nhìn về phía vừa đi qua, bối rối phân vân, tôi quay bước rồi mà vẫn tự hỏi lòng. Đi đến hay đi về, phần còn lại của cuộc hành trình vẫn là con đường đi xuống. Hạnh phúc có phải đang náu mình đâu đó dưới truông mây xa? Sỏi đá lăn mình về lũng sâu, thả ước mơ theo cánh gió lướt trên mặt nước, thất lạc kiếm tìm. Dù sao, từ những ngày bước chân vào đời, tôi đã có lần từ đỉnh núi đó bâng khuâng nhìn về hai phía, thấy bay đi những cơn mưa.
“Mỗi người Huế có một mùa mưa riêng trong trí nhớ đã thành kỷ niệm...” (Trần Kiêm Đoàn). Còn hắn, đi đi về về với Huế, với Đà Nẳng, cậu trai tơ chợt thấy mình lớn lên, chợt tất bật vụng về, trong ni thương ra, ngoài nớ nhớ vô. Giòng thương nhớ, giòng mưa, bay qua Hoàng Thành, qua dòng sông An Cựu nắng đục mưa trong. Mưa vần vũ trên đỉnh Hải Vân, níu thêm mây xám lưng đèo, rồi đổ hết luyến lưu xuống bến Hà Thân làm ướt áo bầy nữ sinh qua chuyến phà lối về An Hải. Hắn vội vàng quảy thêm nỗi nhớ đổ vào mưa, đầm đìa một mùa riêng từ lúc hạt mưa còn tươi, lóng lánh trên từng sợi tóc mai e ấp má hồng non mười bốn. Cậu học trò nửa-Huế-nửa Quảng bỡ ngỡ theo bầy bạn mới quen từ Bến Ngự đạp xe qua Kim Long. Cơn mưa mùa hè bất ngờ đổ xuống bến Vạn Xuân. Bầy học trò ồn ào bỏ bến nước, té chạy vào ngôi từ đường kín đáo trầm tư trong khu vườn xanh mướt thanh trà. Nép mình bên gốc phượng, hắn điếng người không dám thở mạnh, nhìn mưa sa mù trên dòng Hương bất chợt lênh đênh. Con bé Đồng Khánh mà hắn ớn nhất vì cái tính chua ngoa, không chạy theo bầy, có lẽ đang đứng núp mưa cạnh hắn. Gần lắm. Từ cuối tia mắt nhìn xuống, lụa đẫm mưa hồng ôm bờ chân thuôn mịn màng tôn nữ. Mưa vẫn rơi. Không gian rạt rào luân vũ, thấm đượm vào thân thể giòng cảm giác ngần say của cơn sốt lạ nóng bừng da thịt. Trong thảng thốt hắn nghiêng người theo nhịp tim đang đập nhanh hồi xúc động, chạm vào cánh tay trần mát rượi mưa sa. Đôi mắt mở lớn vướng sau nhành tóc ướt buông rèm theo bờ mi thanh xuân. Hạt mưa đọng trên môi, lưởng lự lăn dài xuống cằm, xuống cánh áo lụa đẫm mượt vóc tràm thơm. Hắn hoảng hồn quay mặt, bước đâm sầm xuống bến sông. Những giọt mưa mát mặt và nước dòng Hương quyện ấm dưới chân giúp hắn choàng tỉnh chỉ để cảm thấy ngượng ngùng mà tự trách mình sao vụng về quá đỗi. Té ra con chằng ni đẹp dể sợ. Trong bụng hắn muốn gan góc quay lại dòm cho bưa, nhưng cuối cùng rồi cũng chỉ dám một thoáng nhìn. Cậu học trò bổng muốn làm thi sĩ, hắn mường tượng bóng lụa hồng bên bờ nước lẫn chìm trong tàng phượng rũ lá, mênh mông màu hoa đỏ lưng trời vừa ngớt hột… Em về rải mộng ngày mưa. Vóc tràm thơm dáng xuân vừa khơi phương. Tóc mai níu nụ môi hường. Vắn dài sợi nhớ sợi thương mượt mà. Ngần tay hứng giọt mù sa. Đôi bờ chân duỗi ngọc ngà lụa phô. Nhớ nguồn sông dục sóng xô. Mây nghiêng lời núi chiều phôi pha trời…(Phan Thái Yên)
Mùa hè ở Huế oi ả trôi qua. Nên vẫn mãi ướt át trong lòng cơn mưa đầu mùa mới lớn. Còn thơm trong trí nhớ đôi môi xinh tôn nữ láu táu ăn hàng trong quán bánh bèo dưới chân núi Ngự Bình. Và vẫn giòn tan tiếng cười bầy con gái Đồng Khánh giởn đùa trên bến nước xanh bóng tre. Lối mòn xuống bến gần Tòa Viện Trưởng hắn rành như đếm nhưng chẳng dám mon men nên Cầu Ga vẫn cụt ngủn cho dù hắn và lủ bạn liên minh Quốc-Học Hàm-Nghi đã vòng xe đạp không biết bao lần. Cuối cùng, tên gan lì nhất trong bọn đã hiên ngang dựng chiếc xe đạp bên thành cầu, khum tay cất tiếng gọi tên con bé nó “chiếu tướng” từ lâu. Em thơ, em mộng cái l. em tộng bộng...! Bến nước hiền ngoan bổng dậy ba đào. Bầy con trai tan tác đạp xe, cao chạy xa bay khỏi vùng âm thanh chanh chua eo óc. Ngồi nghĩ mệt dưới chân bậc cấp lối lên chùa Báo Quốc, hắn nghĩ tới chút nhụy bánh bèo dính phía trên khóe môi đứa con gái, như một nét son duyên... Đạp xe thả dốc Nam Giao, gió mát lộng và cái miệng duyên dáng dể thương của con bé đỏ au trong trí tưởng hắn. Lúc chiếc xe đạp hết đà lừ đừ lăn từng vòng bánh qua cầu rồi quẹo về phía đầu đường Nguyễn Huệ, hắn cũng vừa dứt khoát là con bé chẳng cần thêm thắt nút ruồi son làm chi cho
rườm rà. Cái miệng đó đẹp nhất trong đám và đã ăn hàng quá mạng rồi...
Ngày vào lại Đà Nẳng, đứng trên đỉnh đèo Hải Vân giăng mắc mây trôi, hắn nhớ những ngày hè qua mà lòng thì nao nao nghĩ tới bạn bè trường lớp và trời thu mưa sắp đến trong thành phố. Sự luân chuyển của mùa theo thời gian trôi xuôi cùng thinh sắc ảnh hình khiến nơi chốn dồn đọng trong nỗi nhớ, im lìm mà bền chặc như những tảng màu lạnh của một bức tranh tỉnh vật . Hình ảnh cánh phượng hồng lả tả rơi trên dòng Hương và những trái phượng già rụng nằm vương vãi trên đường dọc bờ sông Hàn như nét chấm phá ở hai đầu của một quãng đời. Thời gian trôi, những đứa con trai con gái lớn lên và kỷ niệm chuổi ngày thơ sẽ nối dài thêm ước vọng.
Người đứng nhìn đọt núi vói trời rồi vọng theo ngàn mây trôi mà mãi hoài kiếm tìm cho mình giấc mộng trùng khơi. Tự nghìn năm xưa, người đi về biển xanh, người ở lại đầu non, nên người vẫn mãi phân ly, ngoái vọng, đợi chờ, dắt díu, ra đi. Trên đá cũ lũy đồn cheo leo quan ải, từ hàng trăm năm trước có lẽ gió núi vẫn thổi chạnh lòng người lính thú Đàng Trong. Người hiu hắt nỗi lòng trấn thủ lưu đồn, đợi chờ một tin nhạn, một bóng quần thoa từ tuốt luốt ngoài tê xa xôi truông phá. Bởi thương anh em cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang... nên người vẫn chiều chiều mây phủ Hải Vân, súng rền Non Nước bâng khuâng dạ người... Trăm năm sau, chiều nay cũng có những người lính áo trận bạc màu, đóng đồn trên ải quan xưa lộng gió, theo xe từ đỉnh núi xuôi về hai phía chân đèo.
Những giấc mơ vẫn lặn lội trên đường. Cơn mơ nào nối liền cách trở cheo leo như những toa tàu nối vào nhau bền bỉ, chừng mực. Con tàu thấp thoáng băng mình qua cánh rừng xa, mỏng manh làn khói xám bị gió xé rã rời. Thế thôi, dù có lắng tai cũng chẳng nghe được chút âm vọng nào ngoài nhịp đập tim mình và tiếng gió trời. Con tàu vẫn lăn mình về phía trước, lúc chênh vênh bên triền vực, khi tối tăm dằng dặc qua mấy dặm hầm sâu, để làm chuyện nối liền. Con tàu ra đi, quay về, níu kéo thời gian, nối lại những quãng đời có mưa rơi ở hai đầu nỗi nhớ. Tàu ra Huế, tàu vô Đà Nẳng. Nam Ô. Liên Chiểu. Cầu Hai. Nước Ngọt. Ga lớn. Ga xép. Sân ga. Vẫn tiếng máy tàu xình xịch, vẫn khói tàu phun cao hào sảng rộn ràng và con người gặp gỡ chia lìa, ân cần lưu luyến.
Rất nhiều năm sau, vào những ngày mưa trên Tiền Giang hay bên giòng kinh cuối vùng đất nước, gã lính sông biển giang hồ vẫn thường bâng khuâng nhớ về mùa mưa thời mới lớn với từng cơn bão rớt qua phố vịnh quê nhà. Gió khơi xa về vần vũ thét gào làm cánh rừng dương quanh bờ vịnh run rẩy rạp mình. Gió cuồng lay tả tơi những quầng mây thấp trôi nhanh trên nóc hàng phượng dọc bờ sông. Vùng nước bình yên cuối dòng sướt mướt mưa nguồn chợt cuồn cuộn sóng trào như đại dương cuồng nộ ngoài kia.
Dưới trần mây xám sũng nước, bầy học trò con trai tơi nón đạp xe đi coi nước lụt. Trên khoảng đường dọc bờ sông Hàn từ Bến Mía về phía cổ viện Chàm, có lẽ hình ảnh sinh động duy nhất là dáng bầy học trò gò lưng trong gió ngược. Những chiếc áo mưa trùm đầu, gió bọc căng phồng, nối đuôi nhau như đoàn người lưng gù lặng lẽ hành hương mặc cho dòng nước lũ giận dữ tuôn trào. Đỉnh tháp chuông nhà thờ Con Gà thoắt biến thoắt hiện trong nền mây hung hãn, trông như một cánh buồm trên đại dương giông bão.
Bầy học trò hăng hái đạp xe qua đoạn đường trũng từ ngã ba Chợ Mới đến gần cầu Trịnh Minh Thế. Một phần vòng xe ngập nước theo đà quay chẻ tuông tung tóe làm sũng ướt từng trận cười vô tư. Cả bọn tụ tập trước cổng nhà cô giáo dạy Pháp Văn, chờ được dịp đẩy chiếc xuồng nhỏ từ sân ra đến bờ đường cao để cô giáo khỏi ướt chân. Trường Phan Châu Trinh của hắn đã tạm đóng cửa mấy hôm để làm nơi tạm trú cho nạn nhân lũ lụt từ những quận lỵ vùng núi Quảng Nam miệt Tiên Phước, Quế Sơn. Cô ra vào lo lắng, dõi mắt nhìn về phía cây cầu đang oằn mình chịu đựng sức nước từ núi rừng cao đổ xuống. Giữa làn nước đục cuồn cuộn sóng trào và trần mây sa thấp xỉn, chiếc cầu sắt đen trông mỏng manh đến tội nghiệp. Xác những mái tranh nghèo, bụi chuối tàng lá còn xanh, bị bứng gốc khỏi mảnh đất quê, trôi nổi rã rời trên dòng nước lũ.
Bầy học trò quay xe, đạp dọc theo bờ sông xuôi về lại phố. Những chiếc lưng dầm mưa cúi rạp trên thành xe, nương theo đường gió rít điên cuồng trong tàng cây bạc hà lúc qua Trẹm. Dải đất bồi cuối thành phố giờ đây như hải đảo sóng cuộn quanh bờ. Bầy học trò len lỏi theo con đường cát mòn ngấm mưa dầm qua xóm Thanh Bồ rồi đứng túm lại sửng sờ trước khu rừng dương ủ ê
gảy đổ, nằm rạp mình bi thương dưới gió bảo cuồng quay. Mây đen cuồn cuộn phủ kín vùng trời vịnh biển, chỉ chừa khoảng lộ sáng phía chân trời tiếp giáp với đại dương. Từng đợt sóng bạc đầu đổ ầm ầm, hung hãn tung trào lên bãi giờ chỉ còn là liếp cát chắn quá mong manh trước cơn thịnh nộ của biển .
Trên đường trở về nhà, đạp xe qua ngã Cầu Vồng, cậu học trò một mình thả dốc về phía Ga. Hắn tần ngần vòng xe trước con hẻm ướt mưa. Tim đập rộn ràng khi hắn nhìn thấy bóng dáng mái tóc dài thấp thoáng sau khung cửa màu xanh. Mái hiên nhà cô học trò e ấp dưới giàn bông giấy đang chờ mùa hoa tới, vầng lá xanh rì đầm đìa giọt trời theo cơn bảo rớt qua thành phố. Hắn đạp xe đi, mắt còn ngoái chờ một tia ngẩng nhìn và lòng thì vẫn nhủ thầm.
Lúc đạp xe qua ngã ba Cây Quăng, đứng nhìn cống nước cuồn cuộn chảy, hắn mường tượng tới lúc mái tóc ngẩng nhìn lên. Hắn ngần ngừ tiếc rẻ không còn đứng đó vì lúc này cô học trò có lẽ chỉ còn nhìn thấy mưa trôi giạt bên ngoài khung kính.
Dạ Khúc
Phan Thái Yên
Bức tranh duy nhất treo trong phòng khách là tấm hình đám cưới rọi lớn, trịnh trọng trong khung gỗ chạm hồi văn màu nâu. Cô dâu, chú rể, xênh xoang trong áo dài khăn đóng. Màu xanh đậm phu quân trang quyện vào tà vạc giai nhân rực rỡ sắc vàng hoàng hậu. Chỉ hai người trong tấm hình và những nét dọc ngang của tòa nhà trong nền ảnh thì mờ nhạt. Có lẽ tấm hình được chụp vào khoảnh khắc họ quay lại vì tiếng gọi của ai đó, lúc đang nôn nả bước lên những bậc cấp lối vào khách sạn.
Không như hầu hết những tấm hình tân hôn ước lệ thường treo trong nhà vợ chồng mới cưới, chẳng ai nhìn vào ống kính hay đăm đăm nhìn nhau, hi vọng có được một tấm hình ăn ảnh. Chú rể trẻ trung với khuôn mặt thanh gầy quay về phía trước trong lúc đường mắt thì rẽ nhìn xuống mặt đất, nơi gót hài cô dâu vừa bước qua hồ như còn thoáng vàng vạt gấm quyện chân. Một tay xách chiếc rương hành lý nhỏ, tay kia là hộp trang điểm của cô dâu, chàng thanh niên tươi cười rạng rỡ. Cạnh tân lang, cô dâu đang trong dáng e ấp quay nhìn một đôi người nào đó trong đám đông gia đình bè bạn vừa gọi tên cô chúc tụng. Đôi tà áo chéo quyện vào nhau lung linh như ngọn lửa gấm vàng lay động. Cánh tay nàng vươn thon thả trong găng voan trắng vẫy chào tạm biệt , tay áo che hờ lên một phần khuôn mặt khiến người xem ảnh khó hình dung được nàng đang mỉm cười hay rưng lệ hân hoan.
Cô dâu chú rể trong bức hình là vợ chồng bác Xương-Xuân ở Vaureal, khu ngoại ô xa Paris cả giờ tàu điện. Ngôi nhà nhỏ hai tầng màu xanh của họ xinh xắn như một chuồng chim câu với ba cô con gái ríu rít líu lo vào mỗi buổi sáng chuẩn bị đến trường. Chỉ cái tivi lớn quá khổ và chiếc tủ dàn bày hệ thống dĩa hát, âm thanh, đã chiếm một góc lớn của gian phòng khách bài trí đơn giản bình thường. Góc kia là một ghế nệm da dài và cái bàn nhỏ với chiếc máy vi tính rối bời dây nhợ. Chiếc cửa kính lùa trông ra khoảnh sân nhỏ, giang sơn của con Kiki nằm chực chờ cửa mở là phóng chạy ngay vào nhà. Trời vừa qua tết Dương lịch, hai bụi hoa nở vàng ối dưới hiên nhà, cánh nhỏ như hoa mai.
Hầu như mỗi tối bác Xuân đều hát karaoke. Bà hát khá hay với giọng thổ, thâm thấp khàn khàn. Mặc dầu cha mẹ tôi không hát karaoke, tôi biết hầu hết những bài hát đó trên nhiều băng nhạc mà họ vẫn thường lắng nghe. Bác Xuân hát mỗi ngày, bà nói, nếu không bác sẽ quên lời. Do vậy mỗi lần quên vài chữ đâu đó hay vấp váp nhịp lời của bài hát, tôi lại nghe bác lẩm bẩm một mình là cần phải tập thêm nhiều. Phước, con gái bác Xuân, nói với tôi mẹ nàng vui hơn khi có người mới nghe bà hát. Bác Xuân vừa nghỉ hưu vì lý do sức khỏe sau nhiều năm làm việc ở phòng ăn của trường trung học trong phố Vaureal. Ban ngày khi ba cô con gái ở trường và chồng ở sở làm, bác Xuân hát một mình ở nhà. Vào những ngày không la cà ở Paris, sự hiện diện biếng lười của tôi ở nhà dù sao cũng đã giúp bác Xuân nghĩ bác có được một thính giả trung thành. Thỉnh thoảng tôi ngưng viết, ngồi lắng nghe rồi góp chuyện với bác Xuân bằng mớ tiếng Việt đáng bị đánh đòn của mình về bản nhạc bà vừa hát xong. Dù bác Xuân có vẽ vui và linh hoạt hẳn lên mỗi khi bà hát, tôi lại cảm thấy buồn buồn khi nghe những lời ca quen thuộc. Tôi nghĩ tới mẹ cũng nghe bài hát này lúc bà im lặng làm việc, mắt nhìn ra khu vườn hoa lá xanh tươi, góc Đông Phương của cha mẹ trên vùng đất kiều cư tận vùng Bắc Mỹ. Tôi bâng khuâng nghĩ tới biết bao nhiêu gia đình trong biết bao nhiêu quốc gia trên thế giới, cùng một bài ca đã hát đã nghe... [i]Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên. Như dòng sông nước cuộn xa nguồn... Như người đi cách mặt xa lòng...[/i](Nam Lộc)
Thỉnh thoảng bác Xuân nài nỉ chồng hát chung với mình. Họa hiếm hơn, một đôi khi, họ ôm nhau nhảy theo tiếng nhạc. Nhưng thường thì bác Xương ngồi trước máy vi tính tìm tòi những
trang cụ quân đội bán đấu giá trên liên mạng. Ông cặm cụi suốt buổi tối sưu tìm huy hiệu, nón lính, quân phục, huân chương... Một buổi chiều tôi ở nhà lúc người phát bưu phẩm gõ cửa. Mặc dầu đã biết những thứ gì bên trong, bác Xương vẫn nôn nao háo hức lúc mở thùng bưu kiện. Ông trân trọng kéo ra chiếc áo trận bộ binh bốn túi thời những năm sáu mươi bảy mươi, loại áo ngụy trang đặc biệt cho chiến tranh rừng rậm. Tôi đã quen thuộc với hình ảnh người lính quân đội Miền Nam trong phim ảnh tài liệu về chiến tranh Việt Nam, với những tấm áo trận hằn xanh những bệt rằn ri đậm nhạt. Bác Xương nâng chiếc áo lính ngang tầm mắt, gật gù vừa lòng với sự xác thật của nó. Mấy cái áo này đã từng được tụi “mũ xanh” mặc lúc đánh đấm, ông trầm trồ. Tôi nhìn chiếc áo khá rộng cho tầm kích của bác Xương, lòng thầm lo ông sẽ thất vọng khi mặc thử vào người. Nhưng không, bác Xương chỉ trải chiếc áo ngay ngắn lên bàn rồi bước lại tủ kéo ra một cái thùng khá lớn. Khi mang chiếc áo trận biệt kích đến cho ông, tôi thấy trong thùng đã xếp một chồng cao những áo lính màu xanh tương tự và nhiều phù hiệu quân đội, nón beret, huy chương, dây biểu chương đỏ vàng rực rỡ. Quỳ xuống bên cạnh những món quân trang cũ kỹ, tôi chợt có cảm tưởng như đang nhìn xuống một chiến địa hoang tàn, biến thể, nhỏ nhoi, nhưng chứa đựng hằng hà vô số những người lính tử thương. Lòng mộ chí trống hoang, thi hài chỉ còn lại mảnh chiến y từng bọc thây họ trước sự rã tan khai quật cuối cùng.
Bác Xương ngồi im lặng thu xếp vuốt ve mớ kỷ vật sưu tập rồi chợt thở dài khoác lên vai tấm áo lính rộng thùng thình, bước ra ngoài.
Buổi chiều sa xuống khu ngoại ô trải những vệt nắng muộn lên khoảnh sân sau nhà. Tiếng người trong công viên nhỏ bên kia đường lãng đãng gần xa, chen trong giọng kể trầm đều của người lính già, nghe như tiếng thoảng vọng hắt hiu của đoàn quân thấm mệt trở về từ bãi chiến trường xa. Không gian hiện tiền chợt mất hút rồi cuồng xoay trong dải núi rừng thẩm xanh, bơ phờ hỗn mang bãi bờ sóng dậy, thấp thoáng bóng quân đi. Tiếng hát khàn đục từ trong phòng khách vọng ra lúc bác Xương ngửa cổ uống cạn ly rượu trong bóng tối hiên nhà. [i]Chiều trên Phá Tam Giang, anh chợt nhớ em, nhớ bất tận... Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn. Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng của chiến tranh mà em không biết rõ...[/i](Tô Thùy Yên)
Bác Xương bảo tôi giống cha tôi như khuôn đúc lúc hai người lần cuối gặp nhau. Gần bốn mươi năm trước. Và cho đến chỉ vài tháng trước đây, ông vẫn nghĩ cha tôi đã chết trong chiến tranh hoặc sau đó trong trại cải tạo hay trên đường vượt biển. Số phần chung cho lớp người như cha tôi hay bác Xương vẫn thường xảy ra như vậy. Bạn bè cùng một thuở lớn lên. Rồi chiến tranh. Tuy mỗi người một ngả, nhưng cả quê hương vẫn chỉ là bãi chiến trường, oan khiên gươm súng vô tình. Chỉ cần không biết tin về nhau, có khi chỉ trong vài tháng, là đã có người nằm xuống. Huống chi nhiều năm... Người còn sống đành lòng với những đoán chừng thất thoát. Những cái chết không tên. Những bóng ma thất thểu bước qua chiến hào trận cũ hằng khuya rợn vầng trăng lặn. Hồn oan cất tiếng than van mà chẳng ai nghe được ngôn ngữ kẻ đã chết về mối lòng thương quê nhớ mẹ, bầu bạn gia đình.
Lần cuối từ biệt nhau, bác Xương và cha tôi khoảng cỡ tuổi tôi, có lẽ còn trẻ hơn đôi chút. Bác Xương trở thành một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến. Cha tôi, học hành đàng hoàng hơn - theo lời bác Xương - tốt nghiệp trường Hải Quân ở Mỹ, trở về nước đi khắp cùng sông biển miền Nam.
Lần đầu tiên gặp Bác Xương chờ đón tôi ở ga tàu điện từ Luân Đôn qua. Ông thoạt nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt sững sờ mà rạng tỏa niềm vui. Tôi có cảm giác như ông đang nhìn một người từ cõi chết sống lại trở về. Bác Xương ân cần hỏi han về chuyến đi rồi chuyện sưu khảo học hành của tôi trong thời gian một năm ở Châu Âu đã giúp tôi trút bỏ được sự e dè lo ngại phút đầu. Trong suốt quãng đường về nhà, tôi ngồi lắng nghe chuyện đời hai người bạn cũ mà lòng thì trào vui lẫn với bâng khuâng.
Giọng kể chuyện trầm đều của bác Xương, người mà không quá vài giờ trước đó chỉ là một kẻ xa lạ trên đường phố Paris, khiến tôi nhớ tới hình ảnh người cha trầm lặng quẩn quanh bên ngõ sau vườn nhà với nỗi ân hận mơ hồ. Tôi lắng nghe những chuyện chưa hề biết về cha mình rồi chợt mường tượng, hiểu ra. Ba mươi, bốn mươi năm là thời gian rất dài cho một đời người để tâm hồn có thể được yên ổn trong quên lãng. Tình cảm nào đã giúp bác Xương, giúp cha tôi, giữ mãi được sự tươi tắn của kỷ niệm thời son trẻ trong lòng ? Như mới hôm qua. Những giọt mồ hôi
đượm trên mặt hai gã sinh viên nghèo chở nhau trên chiếc xe đạp cũ qua nhiều dãy phố xa đến trường như vẫn tươi ròng thấm mặn đầu môi. Những giọt cà-phê quánh đặc vẫn biếng lười chưa kịp tan vào lớp sữa đọng đáy cốc, quyện thơm vào lời buồn thánh (TCS), lơ đãng buổi chiều Duy Tân lá rắc cơn mưa. Những giọt máu vẫn còn tươi từ vết thương chưa liền miệng, xót đau dấu đạn trên thân thể lớp tuổi trẻ góp máu mình vào chinh chiến điêu linh. Những giọt mưa nguồn vẫn rớt dài vào đêm tù thao thức trở lăn, bồi hồi vuốt mặt. Và cuộc tình vẫn một đời rộ xanh qua bao cuộc đá vàng cho thắm đượm nghĩa trăm năm.
Tuy mỗi người phải cheo leo khốn khó trên chiếc thuyền đời riêng, họ đã có chung một thác ghềnh vận nước để chèo lái can qua. Bác Xương và cha tôi đã có cùng một quê-hương-đã-mất để tiếc rẻ và để nhớ nghĩ về nhau trong suốt quãng đời dài. Một Quê-Cha tôi chỉ học hỏi qua sách vở với những phân tích lịch sử vô tình ở trường học. Đâu rồi dòng lệ mẹ tôi, nước mắt bác Xuân, khóc cho đứa con đầu lòng vắn số trong khi chồng vẫn biệt tăm trong cải tạo tù đày. Làm sao tôi có thể thấu hiểu được nỗi xót xa về cánh gió trời bùi ngùi kỷ niệm thoảng vọng chuỗi cười của đôi học trò nhỏ vô tư cùng sánh nhịp đạp vòng xe, chẳng ngờ khu nghĩa trang đìu hiu hoang cát trắng bên lối núi Phước Tường sẽ là nơi chôn cất đứa con đầu đời của họ sau này...
Quê-Hương. Một quê-nhà-thương-vọng tôi chỉ biết qua nỗi buồn của cha của mẹ. Tôi ngồi quây quần trò chuyện với chị em Phước dưới mái hiên nhà nhìn ra khoảng sân đã phủ bóng tối. Tiếng hát vợ chồng bác Xương-Xuân vọng ra, ví đuổi nhau trầm bổng đong đưa... [i]Giờ này có thể trời đang mưa. Em đi nép hàng hiên sướt mướt...Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh...Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường, trên mịt mùng nghi hoặc. Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào... [/i](Tô Thùy Yên)
Chúng tôi chợt ngưng nói rồi phá ra cười khi nhận ra bốn người đã chuyện trò bằng cả ba thứ tiếng Việt Anh Pháp đề huề. Phước hỏi tôi bằng tiếng Anh với thổ giọng Pháp duyên dáng về phá Tam Giang. Tôi loay hoay giải thích chuyện “Dãy phố buồn thiu” với mớ tiếng Việt nghèo nàn của mình nhưng rồi đành thất vọng trở về với ngôn ngữ quen thuộc từ ngày mới chập chững biết đi... Quê hương chúng ta đó, dải đất tang thương hoang phế bên vùng đầm phá mênh mang trời nước dậy sóng biển Đông.
Tôi nghĩ đến ánh mắt xa xôi của cha và hình ảnh chiếc chiến đĩnh chập chùng vùng biển tháng Chạp loáng ánh trăng khuya phía ngoài phá Tam Giang.
Ba cô gái ngồi im lìm trong bóng đêm... Có dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Thục Nữ
Phan Thái Yên
Nữ tỉnh giấc chiêm bao. Tiếng chim xao xác bay về biển nghe buồn như giấc mơ rớt lại còn thổn thức cơn hạnh phúc bơ vơ. Nữ biếng lười nằm nán lại với nàng, với người đàn bà trong mơ nằm chờ đợi người tình trên đồi cát đẫm sương. Trong với víu của cảm giác, góc xiêng quen thuộc của tia nắng đầu ngày chiếu qua vách nhà mang đến cho nàng chút ấm áp trở về, nỗi vui được bao quanh bởi bao điều thân thuộc, kỷ niệm thiết tha. Cạnh đó, tất cả chỉ là cuộc sống trôi qua, bấp bênh phiền hà…
Nữ bỏ dạy về lại nhà. Nàng cố gắng không để ý tới sự bủn xỉn, nhỏ nhen, cân đo đong đếm của những con người phải thường trực mưu cầu trong một xã hội bao cấp chụp giựt. Chỉ tội nghiệp cho họ. Nhưng nàng không thể chịu đựng sự kiêu hãnh bán khai trâng tráo của nhóm người thiếu khả năng văn hóa lại có trách nhiệm dạy dỗ giáo dục thế hệ tương lai – những đứa bé đến trường với khăn vải đỏ quàng lên đôi vai gầy guộc thiếu ăn. Những buổi hội họp kiểm thảo trễ nải chẳng liên quan chi tới việc dạy học. Nhóm giáo viên ngồi quanh trên sân gạch trước nhà để tiết kiệm dầu thắp. Nữ ngồi lơ đãng nghe ý kiến, phê bình, thi đua, khẩu hiệu lả tả chìm trong tiếng kinh tụng trầm đều của bà quả phụ chủ nhà hay có khi nàng im lìm lay đùa với bóng mình trên sân vào những đêm trăng. Có lần Nữ bị kiểm điểm với lí do thiếu tinh thần tập thể vì ngồi họp trên chiếc đòn gổ chứ không ngồi chò hỏ trên sân như các giáo viên khác. Nữ bật cười nhìn anh giáo viên quen duy nhất trong nhóm, cùng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm ở Hội An năm trước. Tuyên khổ sở, nhấp nhỏm trong dáng ngồi kiểu nước lụt, hai bắp vế ép sát bụng, cánh tay gác lên đầu gối đong đưa. Bóng người gảy đổ lên sân gạch như bầy khỉ ốm ngồi quanh. Nàng lấy câu chuyện đùa của một người bà con đem ra phát biểu ở buổi họp.
- Vào thời thực dân đế quốc, địa chủ bắt tá điền ngồi chò hỏ vào những bửa ăn để họ ăn ít mà mau no cho bớt tốn gạo. Ngày này đất nước đã thống nhất, chính sách cải cách ruộng đất của Cách Mạng đã diệt sạch hết bọn điền chủ bóc lột, bản thân tôi cảm thấy được giải phóng khi ngồi ghế, đồng thời sung sướng khi bụng mình không bị chính hai cái bắp vế kẹp lại.
Tổ giáo viên ngơ ngác nhìn nhau, chỉ có Tuyên mỉm cười nhìn nàng, lắc đầu chào thua. Lần sau cùng Nữ bị kiểm điểm đã đưa đến việc nàng xin nghĩ dạy sau một niên khóa ở Thăng Bình. Sau khi xin mà không được hiệu trưởng chấp thuận, Nữ đã nhờ Tuyên dạy thế rồi tự ý bỏ lớp cả tuần theo bà bạn của mẹ vào Sài Gòn nhận quà chị Nhi gởi về từ Mỹ. Chủ trì buổi họp là một cán bộ giáo dục trên huyện về. Anh ta nhìn Nữ chăm chú nhưng nàng tỏ vẽ như không hay biết anh ta là bạn học cũ của anh mình. Nàng ngẩng mặt nhìn lên phía trên tấm cờ đỏ loáng thoáng hàng chữ đề cao lao động học tập. Trên khoảng vách trần ố vàng loang lỗ, con thằn lằn bám tường, dáng cong như chữ S ngần ngừ chưa biết tiến thoái về đâu. Nhóm giáo viên trường ngồi đưa mắt nhìn nhau lúc người hiệu trưởng gay gắt phê bình Nữ và đọc đề nghị kỷ luật. Nữ bình thản ngồi nghe tiếng lời ganh tị, nhỏ nhen, phê bình tố tụng mỗi giáo viên lần lượt vang lên như một dĩa hát cũ, mũi kim cùn đùi rời rạc xoay trên những rãnh mòn âm thanh ù lì bất biến. Mớ chữ tàn dư Mỹ Ngụy, ôm chân đế quốc, trí thức tiểu tư sãn, khắc phục, sửa sai…lặp lại tới lui như một bài vè dở tệ. Bài hát quen của đám nhạc công tồi nín lại lúc Tuyên chợt đứng lên. Người thanh niên rụt rè thường ngày vắng mặt trong phòng họp hôm đó. Nữ cảm kích lắng nghe Tuyên phân trần cho nàng rồi xúc động nhận ra tấm lòng người thanh niên đang phơi trãi. Người cán bộ chủ trì dài dòng lên tiếng. Bài hát cũ được lặp lại với cường điệu cao, nhưng lời đúc kết buổi họp đã khiến hầu như mọi người trong phòng họp không ít ngạc nhiên. - Khả năng dạy tốt của đồng chí Nữ được đánh giá cao. Phòng giáo dục huyện sẽ đề nghị phân công trường lớp thích hợp cho đồng chí vào niên khóa tới. Trong thời gian hè, đồng chí Nữ sẽ
được bố trí cơ hội phấn đấu trong các lớp bồi dưỡng đạo đức cách mạng ở Hội An. Giáo viên lục tục bước ra khỏi phòng họp. Người cán bộ tươi cười ra hiệu cho Nữ ngồi lại. - Cô Nữ có nhận ra tôi không?
Nữ gật đầu lúc người cán bộ kéo ghế ngồi gần.
- Mấy năm trước, lúc gần thi phổ thông tôi có theo Niên ra nhà cô ở Xuyên Thọ một lần. Chuyện lúc nãy cô không phải lo lắng gì. Tôi sẽ bố trí cô về trường sở gần Hội An, thích hợp với môn dạy của cô hơn.
Cô gái định mở lời nhưng rồi im lặng không nói.
- Anh Niên cô bây giờ đang ở đâu? Người cán bộ nháy mắt cười. Mỹ, Tây, hay Úc? Nữ đắn đo hồi lâu rồi vắn tắt kể chuyện nhà, chuyện anh Niên vượt biên bị bắt, mất liên lạc sau khi bị gởi đi lao động cho một đoàn thanh niên xung phong đâu đó trong rừng núi Nam Lào. Người thanh niên nhìn đăm đắm vào đôi mắt cô gái khiến nàng rụt rè lãng nhìn ra phía cửa lớp vương bụi nắng.
- À ra là vậy. Niên là người bạn vui tánh thời trung học. Anh ta thân mật vỗ vỗ lên tay Nữ. Tôi sẽ nhờ vài người bạn trên tỉnh đoàn tìm giúp. Khi nào có tin, tôi tìm cô ở đâu để cho biết đây? Nữ vui mừng với hi vọng mới về anh Niên.
- Phố Hội chỉ ngang dọc vài đường như lòng bàn tay, ông cán bộ chỉ cần đi một vòng là tìm ra ngay. Nhất là những nơi treo nhiều đèn lồng.
Những ngày sót lại của niên học đếm được trên tay. Nữ đến lớp lòng nao buồn về ngôi trường đầu tiên trong đời đi dạy. Nàng thương cho đám học trò nhỏ khi nghĩ tới khả năng của những giáo viên Nữ có dịp tiếp xúc và biết khá nhiều về họ. Tuyên lắng nghe, lắc đầu cười buồn.
- Tuyên chỉ mong làm hết khả năng bổn phận của mình để an lòng và được an thân. Có phải mình đã tham lam khi muốn cả hai? Giữ cho được đôi bàn tay sạch, thiệt là quá khó giữa thời buổi này. Sống với thú biết làm sao đây?
Nữ khẻ đập lên vai bạn, nói đùa.
- Không sao! Thỉnh thoảng tay có vấy chút máu heo con bị bệnh, thọc huyết sớm để khỏi bị mất thịt lại có tiết canh cho tổ thì không sao.
Mắt Tuyên nhìn buồn hơn.
- Tuyên vẫn băn khoăn mãi trong lòng từ hôm đó. Biết Nữ không vui lòng. Cả mình cũng vậy. Chẳng qua là mong được an thân với họ. Niên học tới không có Nữ ở đây, sinh hoạt chắc khó khăn hơn.
Cô gái nhìn theo Tuyên cúi đầu bước chậm qua sân gạch. Buổi chiều thả nghiêng bóng hàng cau gầy guộc lên mặt đất. Dáng Tuyên đứng rất buồn dưới chiếc cổng chào sơn đỏ vụng về hàng chử tổ giáo viên quyết tâm dạy tốt.
Bên bờ giếng bà Giáo Thông ngồi rửa khoai lang để xắt phơi khô. Bầy gà con sau một hồi xúm quẩn quanh bà tìm không ra cái ăn thất vọng líu ríu bỏ đi theo tiếng kêu tục tục rất kham của gà mẹ. Bà Giáo ngày thường vốn ít nói nay càng đăm chiêu hơn. Bà đưa cho Nữ củ khoai Chợ Được vàng ửng vừa gọt sạch.
- Cô cắn thử một miếng đi. Ngọt ngay à. Khoai này xắt lát, phơi vài nắng, nhai trong miệng ngọt tươm như mật. Con Thăng-Bình tui hồi đó, mấy buổi tối trời lạnh, con bé ngồi học bài đâu không thấy mà chỉ một hồi là rổ khoai khô đã lưng một nửa.
Bà Giáo Thông ngưng tay, nhìn về phía nhà trên, chép miệng thở dài.
- Sang năm lại thêm một con Hà Nam Ninh khăn gói vô nữa chắc tui giao luôn cái nhà cho họ, bỏ đi khuất cho đở gai con mắt. Cô coi, cả cơ ngơi ông nhà tui vất vã suốt đời họ cũng cướp mất chỉ để lại cho cái chái bếp.
Nữ thoa thoa lên lưng gầy người mẹ. Hai người đàn bà ngồi bên nhau yên lặng. - Giờ này bên đó là buổi sáng phải không cô giáo?
- Dạ, chắc năm sáu giờ sáng.
- Tui chờ giấy báo về đi lãnh quà con Bình gởi. Trông sao tụi nó gởi kèm thiệt nhiều hình về coi cho đở nhớ. Thiệt khó mà hình dung cái xứ sở đó. Lái xe sáu bảy chục cây số mỗi sáng đi làm, chiều lái về. Còn xa hơn từ đây chạy tuốt ra Huế. Chắc hai vợ chồng nó phải lui cui dậy từ hồi hai
ba giờ sáng mới cụ bị cho kịp mà đi làm. Chợ búa nghe nói cũng phải đi cả giờ mới tới. Hai ba tuần đi chợ một lần thì lấy gì mà ăn trong nhà…
Bà mẹ thương con cháu, giọt nước mắt lăn xuống buổi chiều rất chậm.
Những ngày đầu về lại nhà Nữ ra vào bâng khuâng nhớ ngôi trường nghèo, nhớ khoảng sân gạch đọng rêu mảnh mai bóng hàng cau, và mùi nhang khói quyện trong tiếng kinh tụng trầm đều mỗi đầu đêm. Nữ đứng tựa cửa bếp nhìn bầy gà con bà Giáo Thông tặng nàng giờ đây thiếu mẹ chạy lẩn quẩn chiêm chiếp quanh lu nước. Nàng xúc động nhớ lại hình ảnh bà Giáo te te xách giỏ gà đi trước, Nữ phụ Tuyên cắm cúi đẩy chiếc xe đạp mượn thồ cái rương lớn của nàng theo sau. Bóng hai người đứng trên bến đò Bình Triều xa dần theo từng tay vẫy.
Nữ trở về với cuộc sống quen, quanh cạnh người thân thuộc ở hợp tác xã làm đèn lồng và lớp dạy tiếng Anh cho trẻ em trong phố. Chuyến đò dọc trở ra cửa biển vào mỗi cuối ngày. Nữ ngồi yên lặng giữa đám người tất tả, lắng nghe tóc mình váng vất bay trong gió. Nàng nhắm mắt mường tượng đoàn tàu của anh Dõng, anh Tuân chẻ sóng lao mình trên dòng sông nước cuộn. Mường tượng bước chân cơ khổ mẹ cha bơ phờ bờ dốc cát vàng loang nắng. Xem hoài không chán hình ảnh gia đình chị Nhi hạnh phúc tươi vui trong những tấm hình màu rực rỡ. Nữ thuộc nằm lòng những tờ thư anh chị gởi hết nhớ thương về em gái. Chị nhắn sẽ tiếp tục gởi nhiều quà về để nhờ cậu dì xuống xây lăng mộ, trang trãi việc tìm kiếm anh Niên và giúp cô em gái côi cút khỏi phải lo chuyện áo cơm.
Người cán bộ bạn học của Niên đã vài lần ghé hợp tác xã với vài tin tức mơ hồ. Mới đây anh ta còn mở lời mời Nữ đi thăm chơi Đà Nẳng. Nữ đã khéo lời thoái thác, nàng có cảm tưởng anh ta chỉ lấy cớ để có dịp gần gủi chuyện trò lợi dụng. Ý nghĩ khiến Nữ lo lắng nhưng việc kiếm tìm tông tích của anh đã hơn hai năm biệt tăm quan trọng hơn nhiều. Nữ vẫn chưa tiết lộ với người cán bộ quyết định không trở lại trường vào niên khóa tới của mình. Sự giao thiệp với người đàn ông này không hiểu sao càng khiến nàng băn khoăn và thương nhớ Tuân hơn. Không biết giờ này anh đang ở đâu. Phải chi anh Niên thành công trong chuyến vượt biên hay vẫn bình an ở nhà thì có lẽ giờ này Tuân và nàng đang bên nhau, cho dù cùng nhau lận đận ở một nơi nào đó.
Một buổi chiều sau buổi làm ở hợp tác xã, Nữ đang đứng ở bến đò chờ ghe thì một thằng bé đến gần rụt rè trao cho nàng hộp giấy nhỏ.
- Của chú kia nhờ em đưa cho cô.
Cậu bé chỉ vấp vúng được câu nói ngắn rồi vùng chạy biến. Trong hộp là vài cassette nhạc cũ và trang thư ngắn. Nữ nhìn tên người viết, mắt ngời vui. Suốt chuyến đò dọc, nàng nâng niu cái hộp giấy trên tay như một bảo vật.
Cơm nước xong mà trời chỉ mới vừa sập tối. Người chi mà ác. Còn cả một đêm dài. Nữ chợt thẹn thùng rạo rực với ý nghĩ của mình lúc nhìn bầu trời mùa hè vào đêm thấp thoáng sao xa. Trong bóng tối của giàn mướp sai lá, Nữ cởi bỏ quần áo nhẹ nhàng rưới từng gáo nước lên thân trần. Cảm giác mát lạnh, chậm mà rạt rào trôi xuống chan hòa rồi tan thấm vào nỗi sung sướng không ngờ. Tiếng nhạc vọng nhẹ từ chiếc máy cassette đặt cạnh liếp cửa bếp xao xuyến mơ hồ. Những bài hát Nữ chưa hề nghe qua, ray rứt bồi hồi tiếng tình nhân thầm thì vương vấn từng bước chân tìm kiếm quay về… Ta đi ngóng trông em, trong bóng đêm dài tan. Ngàn tơ vàng chìm lắng, mơ dáng ai về, trong ánh trăng vàng… Ta thiếp đi vì đêm tàn rồi. Bên khúc sông lạnh riêng mình ngồi. Ôm cánh hoa đọng ngát hương môi. Xa vắng cho lòng nhớ xa xôi…(Đợi chờ - Phạm Đình Chương). Tiếng hát ma mị trổi cao mà khắc khoải theo tiếng tây ban cầm bứt rứt chập chùng. Màn đêm mở huyệt sâu. Mộng đầu xin dài lâu. Một vì sao lạ rơi, nghe hồn tê tái trên dòng hương khói bay… Giấc mơ xưa khăn phủ vành sô. Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau. Chết bên nhau thật là hồn nhiên!... (Dạ khúc cho tình nhân – Lê Uyên Phương).
Nữ thức ngủ chập chờn chờ đợi. Rồi đêm cũng cạn dần theo nửa khuya về sáng. Cô gái đi về phía rặng phi lao trên đỉnh dốc cát. Người đàn ông đã chờ ở đó từ lâu. Ngồi bên nhau trong bóng tối hoang vắng vây quanh, họ thầm thì kể chuyện vui buồn, thành công, thất bại đến với đời mình suốt một năm xa cách.
Đêm chở che và nỗi nhớ ngất trời nên ngôn từ rớt lặng không hay. Còn lại những nụ hôn dài đến tận cùng hơi thở và vòng tay trườn quấn vào nhau cho nhục cảm lên khơi. Cô gái nằm rướn
người trên cát, thân sóng dập dồn. Những vì sao nhấp nhô trên trần vai rắn chắc của Tuân phủ lên khuôn mặt nàng rực hồng cơn hạnh phúc trào dâng. Anh thì thầm những lời làm mắt cô gái ríu lại. Tinh sương ngày chưa kịp lên đã vội buông màn đêm nguyệt tận. Đêm chật ních không gian, choàng kín đôi thân trai gái ghì xiết nhau trong chiếc kén đam mê chẳng một thoát âm. Đêm mơn man vạt cỏ bồng e ấp nguyên xuân, bãi bờ thân xác mơn man lồng lộng triều dâng. Bao mường tượng nhớ nhung của một thời thiếu nữ yêu người quẩy níu sâu ngập vào nhau, cuống quít tràn đầy. Môi căng trào âm thanh thuở hồng hoang. Mắt nhắm. Gió thì thào tiếng phi lao. Tiếng thời gian.
Sương tan... Người đàn bà trở mình trên ân cần trao thân. Bóng người đàn ông chèo đò qua đầm sông xa vời vợi. Đồi cát lan dần theo hoang liêu, quạnh quẻ bờ phi lao. Cơ hồ tiếng gọi từ một nơi rất xa nghe như tiếng gió mùa thổi lộng nỗi hoài mong. Như tiếng thời gian đi mất, chìm xa, bãng lãng bóng con tàu trôi trên dòng sông dậy thì vọng hao tiếng sóng.
Người đàn bà trở về nhà, thẹn thùng bước chân qua giấc mơ và nỗi hạnh phúc của sóng lang thang, xa xôi mà vẫn mãi rạt rào. Hạnh phúc rướn dài qua năm tháng đời người, qua từng bước mộng du ấm ướt vào những sớm mai. Niềm hạnh phúc mong manh như cảm giác khẽ khàng của cát trôi dài dưới lòng chân đã lay nàng thức dậy. Gió nồng nàn hương muối. Tiếng chim bay lưng trời. Bầy ghe cá đêm khơi trở về. Tiếng người lao xao bến sông. Buổi sáng nở ra thật thà như thân cá bạc còn quẩy mình trong thúng.
Thục Nữ vịn tay lên mạn thuyền thô nhám nghĩ về những con cá bị mắc câu vướng lưới ngoài khơi xa giữa đêm trắng lòng ngư phủ. Nàng nghĩ về bầy cá nhỏ quanh quẩn đầm sông mà tội nghiệp cho hạnh phúc lang thang tưởng vọng của mình.
Phan Thái Yên
(từ Căn nhà sau cửa biển)
Ðêm Sáng Màu Trăng
Phan Thái Yên
Thân tặng anh N., thầy T.
Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõi
Cuối chân trời hình bóng một chân mây
Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại
Giữa hư vô em giữ nhé chừng này
Bùi Giáng.
Trời vào đêm sáng màu trăng. Mặt hồ trải lụa ngà, lóng lánh muôn vàn con sóng nhỏ tìm bờ chập chờn lau trắng. Khóm thục qùy vàng sẩm dưới trăng, rũ mình ngủ vùi bên lối cỏ phủ đầy lá phong rơi xào xạc tiếng chân. Người đàn ông luống tuổi đứng đốt lá khô cuối vườn. Ông chăm chú dõi mắt theo từng bước chân đứa cháu gái nhỏ đang tìm hái hoa dại bên lối mòn dẫn xuống bờ hồ. Người đàn ông cào gom thêm lá vào đống lá khô đang ngún cháy để giữ lửa rồi vội vàng đi về phía đứa bé. Hai ông cháu dắt nhau về lại vườn nhà.
- Lần sau cháu phải nhớ lời Ngoại không được đi xa khỏi vườn. Cháu xuống gần bờ hồ quá, lỡ trượt chân té xuống nước nguy hiểm lắm.
Tay ôm choàng mấy nhánh hoa qùy vừa hái, đứa bé gái im lặng đứng chờ người đàn ông chuyền nước vào hai chiếc lọ thủy tinh từ ống nước cao su được kéo ra gần đống lửa. Cô bé lo lắng nhìn ngôi nhà nhỏ không đèn, nằm lùi sâu về phía bờ hồ, ẩn mình im lìm dưới bóng một cội phong già.
- Sao Má chở ông Rock về trể quá há Ngoại ?
Hai ông cháu ngồi lại bên chiếc bàn giữa vườn. Người đàn ông đẩy dĩa bánh Trung Thu về phía đứa cháu gái.
- Cháu đừng lo, Má sắp về rồi. Ông-nhà-văn hai hôm nay nằm bệnh viện cử ăn, chắc đói lắm. Má phải đi chợ Việt Nam mua thực phẩm nên trể một chút đó thôi.
Cô bé chăm chú thả từng nhánh qùy vàng vào hai chiếc bình. Đứa bé ngồi, hai tay chống cằm, đăm chiêu nhìn những cánh hoa ngái ngủ cúi đầu.
- Khi nào ông Rock về, Ngoại cho con đem bánh qua cho ông Rock ăn khỏi đói nha Ngoại ! Người đàn ông hớp ngụm cà-phê nguội ngắt còn sót trong ly, gật đầu nhìn cháu, mỉm cười bâng quơ.
- Chờ đợi bao giờ cũng làm thời gian trôi qua rất chậm. Có khi chẳng hề trôi. Đứa bé gái lơ đãng gật đầu. Ôâng Ngoại lại vừa nói một mình những điều cô bé không hiểu được.
Người đàn ông vuốt tóc cháu, đứng dậy lặng nhìn khung trời đêm ngát lạnh màu trăng rồi bước về phía đống lửa đang lụn tàn. Ông gom lá khơi bùng ngọn lửa màu vàng cam chập chờn tỏa sáng khắp khoảnh vườn. Ánh lửa rọi hắt bóng người đàn ông gảy đổ lắt lay lên vách nhà hàng xóm làm tăng thêm vẽ tiêu điều của ngôi nhà tăm tối không người. Bên kia bờ hồ mông lung trăng nước giao hòa, khu rừng sồi đỏ ối thu phân giờ đây chỉ là vệt chân trời huyền hoặc khói sương.
Ông bâng khuâng thở dài, mường tượng về vùng đất quê hương ở cuối một dòng sông bên kia bờ đại dương quá xa. Gió mặn từ vịnh biển hoang mang đi về trên nóc cánh rừng dương liễu rủ rượi ôm choàng dải đất bồi cuối thành phố. Từ nơi đó ông đã lớn lên, đã vun xới yêu thương, để rồi thất thoát chia lìa trong cùng tận đớn đau giữa mùa gặt ác. Hơn hai mươi năm trôi qua. Hình ảnh người vợ, cô bạn học chung trường, vẫn hằn sâu nét nhớ trong tâm trí ông, mỗi ngày, mỗi canh khuya bất giác trở trăn. Cánh rừng dương yên vắng một thuở hẹn hò, trong đêm định mệnh
oan khổ, đã là nơi người vợ hiền của ông nằm xuống nghìn thu.
Trên chiếc tàu đánh cá mong manh thả neo trong đêm vắng chờ ghe nhỏ chở đoàn người tìm đường vượt biển, lòng ông rúng động rụng rời khi nghe từng tràng súng nổ vọng từ phía rừng dương. Nhìn khuôn mặt khóc ngất kinh hoàng tột độ của con gái thiếu bóng mẹ trong đám người hốt hoảng bơ phờ, ông nghe như đất trời sụp đổ quanh mình. Nhìn con, nhìn những ánh mắt cầu khẩn bám víu nơi ông niềm hy vọng cuối cùng, ông đành gạt lệ, trấn tĩnh, đổi hướng tàu ra đi. Những năm những tháng âm thầm kiếp lưu dân trôi qua, chất chồng lên tuổi đời đang ngã bóng, tưởng quá dài, thế mà kỷ niệm của một thời lớn lên, của nửa phần đời trước, vẫn tươi tắn trong ông mỗi khi nghĩ về.
Khu xóm đạo Thanh Bồ với những con đường cát xám ngấm mưa thu. Bầy con trai tinh nghịch vịn vai nhau đạp xe hàng đôi trong lối hẹp làm cô học trò phải vội vàng dừng xe nép tránh bên vệ đường. Ánh mắt nhìn thoáng chút phiền hà trên khuôn mặt hiền e ấp từng sợi tóc mai ướt mưa như một trách cứ không lời. Bầy con trai thôi cười đùa, thoáng ngoái nhìn cô hàng xóm trong chiếc áo mưa màu thiên thanh rồi đua nhau đạp xe về ngôi trường bên trong thành phố. Lũ bạn rủ rê nhau chọn lối đi xa theo con-đường-có-bông-có-hoa qua Trẹm, dọc theo bờ sông xanh bóng phượng, rộn rã tiếng cười. Cả bọn hối hã vòng xe leo con dốc nhỏ ngang hông Bưu Điện cho kịp giờ vào học. Bác cai với xâu chìa khóa lớn trên tay nấn ná đứng chờ cậu học trò chậm chân líu ríu dắt xe vào cổng sau của trường. Bầy học trò thoáng thấy dáng thầy Tổng Giám Thị cao khều từ phía cuối hành lang, vội vàng lẻn chạy qua sân trường, đứng nối vào hàng vừa tới phiên đang lục tục đi vào lớp.
Rồi mùa mưa đến với từng cơn bão rớt qua thành phố. Gió khơi xa về vần vũ thét gào làm cánh rừng dương quanh bờ vịnh run rẩy rạp mình để gió lướt đi. Gió mặc tình cuồng quay, xé tả tơi những đám mây thấp trôi nhanh trên nóc hàng phượng dọc bờ sông. Trái phượng già rụng vương vãi trên mặt đường như gươm đao lăn lóc từ một chiến trường quên lãng. Vùng nước bình yên cuối giòng sướt mướt mưa nguồn chợt dâng trào sóng cuộn như đại dương cuồng nộ ngoài kia. Nước nguồn. Giọt núi rừng truyền kiếp cưu mang chợt một ngày nhớ biển kéo nhau về đồng bằng, hiếp đáp dòng sông bình yên, êm ấm đôi bờ. Xối xả mưa nguồn thành cuồng lưu hồ đồ cuốn phăng tất cả những gì con người đã gầy dựng, làm gảy gục những thân cầu, đắm chìm những con đò, cách trở đôi bờ, tiêu tán giấc mơ đời...
Bên dưới trần mây xám sũng nước, lũ học trò con trai đạp xe lúc ngược khi xuôi trong gió lộng, dọc theo sông Hàn cuồn cuộn tai ương. Trên khoảng đường dọc theo bờ đá từ bến đò Hà Thân, Bến Mía đi về phía cổ viện Chàm, có lẽ hình ảnh sinh động duy nhất là dáng bầy học trò gò lưng đạp xe trong gió ngược. Những chiếc áo mưa trùm đầu, gió bọc căng phồng, nối đuôi nhau như đoàn người lưng gù lặng lẽ hành hương, mặc cho giòng nước lũ giận dữ tuôn trào. Đỉnh tháp chuông nhà thờ Con Gà thoắt biến thoắt hiện, bên trên đường mây khúc khuỷu nhấp nhô bởi nóc dảy nhà phố cao thấp không đều, trông như một cánh buồm trên đại dương giông bão.
Bầy học trò thích thú đạp xe qua đoạn đường trũng từ ngã ba Chợ Mới đến gần cầu Trịnh Minh Thế. Một phần vòng xe ngập nước theo đà quay chẻ tuông tung tóe làm sũng ướt những tràng cười vô tư. Cả bọn tụ tập trước cổng nhà cô giáo dạy Pháp Văn, chờ được dịp đẩy chiếc xuồng nhỏ từ sân ra đến bờ đường cao để cô giáo khỏi ướt chân. Trường học đã tạm đóng cửa mấy hôm để làm nơi tạm trú cho nạn nhân lũ lụt từ những quận lỵ vùng núi miệt Tiên Phước, Quế Sơn, thế mà côâ giáo ở nhà không yên. Cô ra vào lo lắng, dõi mắt nhìn về phía cây cầu đang oằn mình chịu đựng sức nước từ núi rừng cao đổ xuống. Giữa làn nước đục cuồn cuộn sóng trào và trần mây sa xuống thấp xỉn, chiếc cầu sắt đen trông mỏng manh đến tội nghiệp. Xác những mái tranh nghèo, bụi chuối tàng lá còn xanh, bị bứng gốc khỏi mảnh đất quê, trôi nổi rã rời trên giòng nước lũ. Có vài mái tranh từ miệt quê xa đó đã chui lòn qua gầm cầu, tiếp tục trôi nhanh về cửa biển. Dáng con gà trống đứng trên nóc tranh rũ ướt lẻ loi, chẳng còn nét cao ngạo như mới sáng hôm nào cất tiếng gáy gọi thức bình minh. Vài chú trâu gắng gượng để khỏi bị kéo chìm xuống làn nước hung hãn, thả trôi theo giòng nước chờ đợi cơ may quá lâu chưa đến.
Bầy học trò quay ngược đoàn xe, gò lưng đạp dọc theo bờ sông, xuýt xoa cổ võ cho chú trâu kiên gan trong cuộc đua với vận mạng chính mình.
Dải đất bồi cuối thành phố giờ đây như hải đảo sóng cuộn quanh bờ. Gió vẫn rít trên tàng cây bạc hà lúc qua Trẹm. Xa xa đoàn xe lửa bền bỉ, chừng mực, thấp thoáng băng mình sau cánh rừng dương rạp gió không để lại một ngoái vọng, câm nín như hình ảnh trong một cơn mơ. Có lẽ tiếng còi tàu đã bị gió xé rã rời, rơi hẩng tan tành đâu đó trước khi với đến tai người. Còn những sợi khói tàu thì đã quá mong manh chìm lẫn trong màu mây đen đúa và bất trắc.
Lũ trẻ nhỏ theo đàn ông trai tráng trong xóm tụ tập dưới bãi sát chân sóng đang tìm cách kéo vớt trâu bò vào bờ. Dồn hết chút tâm lực còn sót lại, con bò chập choạng bước ra khỏi giòng nước khổ nạn, ngước đôi mắt lạc thần nhìn đám người lố nhố bao quanh, rồi đổ nhào tấm thân mệt nhoài xuống nền cát ướt như gã lực sĩ chạy việt dã vừa đến đích trong một cuộc đua quá sức.
Đứa con trai chạy về phía cuối bãi. Hắn vừa thoáng thấy cô bé hàng xóm đang với tay cố gắng vớt chú gà đứng ủ rũ, kiệt lực, trên một thân chuối bập bềnh. Lúc ôm được chú gà, lội vào bờ, hắn chợt như rụng rời khi ngước nhìn vào đôi mắt nâu to thăm thẳm đang nói hết những hàm ơn. Từng sợi tóc mai ướt mưa vắn dài trên bờ má xuân xanh, hiền hậu. Đứa con trai ôm chú gà run rẩy vì lạnh, riu ríu bước chân theo cô bé hàng xóm về nhà. Trong chiếc thùng giấy lớn có ngọn đèn dầu khêu cao bấc, chú gà trở nên khô ráo và linh hoạt hẳn lên. Cô gái vui mừng nhìn con gà thoát nạn đang hối hả mổ gạo văng tung tóe. Nôn nao trộm nhìn những sợi tóc mai bay bay mơn trớn đôi má hồng lên trong ánh lửa, đứa con trai quên hẳn cơn bão ngoài kia.
Còn lại cơn bão tình yêu thổi suốt qua hồn trai tơ, qua cuộc đời chung, qua cuộc bể dâu oan nghiệt đã sớm kéo chia đôi lứa. Mùa đông năm đó và biết bao mùa sau trong đời, con đường có bông-có-hoa đến trường là con đường hắn bước theo một dáng nhỏ dịu hiền hay vụng về bước bên nhau, bẽn lẽn mắt nhìn, vấn vương tà áo em bay quằn quại buổi chiều tan lớp. Cánh rừng dương hò hẹn, mơn man tơ động bờ lau và cuộc trao thân rạo rực trăng vàng. Gã lính sông hồ những đêm chập chùng cuối biển hay từ một dòng sông rất xa, lòng vẫn mãi nhớ về ánh hải đăng chớp tắt như cánh tay vẫy gọi bên bờ vịnh quê hương. Hắn dừng lại. Trở về. Từng sợi tóc mai dài vắn nối kết nhau đằm thắm trăm năm đã níu trói bước chân hắn lãng du. Dải đất bồi cuối thành phố có thêm một mái ấm gia đình, bé thơ rộn ràng cười nói.
Cuộc sống đang êm đềm thì tai ương tràn tới, oan khiên hơn lũ lụt từ nguồn xa năm nào. Bầy người từ núi rừng tràn xuống đồng bằng, hung hãn cơn hồng thủy đục ngầu giáo điều, lệ luật, vắng mặt tính người. Họ hả hê kéo sập những giá trị nhân sinh được vun xới từ lâu đời khiến xã hội đảo điên, gia đình tan nát, thầy trò bằng hữu cạn lẽ nghĩa nhân. Tất cả chỉ còn là đong lường đo đếm.
Những đêm tù mòn mõi non cao, trằn trọc cho dài thêm cơn mưa nguồn không ngớt hột, hắn vẫn thường nghĩ về ngọn đèn tỏa hơi ấm hồi sinh cho chú gà nhỏ buổi chiều bão rớt thuở đầu tình. Sợi tóc mai ấp ủ thơ ngây cho mắt em đăm đắm tự tình là ngọn đèn tình yêu sáng hoài trong hồn anh bão lộng. Tay mân mê chiếc tô nhựa, hắn chợt muốn dang tay ôm ghì hình ảnh thương yêu của con gái đang vội vã bước-chân-vừa-lên-ba nhỏ nhoi để kịp trao cho bố cái bát ăn cơm ở đầu lối cát. Mắt con ngây thơ chưa hiểu chuyện đời mà mắt mẹ thì rưng buồn lời hẹn chờ chung thủy. Hai đôi mắt tình yêu đẹp tuyệt trần buổi sáng cuối một mùa xuân đã xa xôi. Đôi mắt đã giữ hắn ấm lòng, mớm sức cho hắn từng ngày tù tội. Là ánh đèn chong rực sáng chân trời tự do phía ngoài vịnh biển...
Tiếng reo vui của đứa cháu nhỏ khiến người đàn ông sực tỉnh cơn mê. Đứa bé gái ôm lọ hoa đon đả đi về phía ngôi nhà hàng xóm vừa lên đèn.
- Ngoại ơi, Má chở ông Rock về rồi.
Ông vui mừng nhìn thấy người bạn lớn của mình có vẽ đã hồi phục bình thường. Năm trước đây, trong buổi trình diễn của một nhạc sĩ lão thành từ miền Nam lên, ông ngồi lặng người xúc động khi người điều khiển chương trình giới thiệu nhà văn sắp ra nói chuyện. Đó là lần đầu tiên ông có dịp gặp gỡ người lính viết văn nổi tiếng miền Nam những năm cuối cuộc chiến. Ông đã đọc nhiều lần, như mới đọc lần đầu, những tác phẩm được viết từ tim, từ cơn giận xé lòng hay sự chán chường bộc trực của người lính trên chiến trường tồi tệ. Chân anh bước qua vùng quê hương điêu tàn chập chùng truông phá, nơi anh sinh ra rồi mẹ cha gồng gánh bỏ đi, xa lắc mơ hồ kỷ niệm. Mắt anh mở trừng nhìn những người lính đồng đội chết anh dũng bên cổ
thành, trong cánh rừng cao su khét mùi thuốc súng hay tử thi người lính bên kia màkhi còn sống đã là những âm binh xanh xao thiếu máu trong thâm u của cánh rừng mật khu dày đặc thiếu sinh khí. Ông cảm thấy thật gần gũi, bởi vọng động đâu đó một phần kỷ niệm chính mình qua những trang viết man mác địa danh, tên đường, hàng cây, bờ sông, bãi biển, ngôi trường xưa, thầy cô của một thời mới lớn trong thành phố quê hương gió nồng hương muối.
Cách đây không lâu, tình cờ ông-nhà-văn dọn về ngôi nhà nhỏ cạnh gia đình ông. Đứa cháu ngoại liếng thoắng hỏi tên ông hàng xóm lúc khệ nệ ôm giúp một quyển sách dày vào nhà. Ông Rock cần một nơi yên tĩnh gần sông nước để viết và hai ông cháu thì có thêm người hàng xóm vui tính trong khu phố bờ hồ chỉ toàn là người bản xứ.
Đứng nhìn xách áo quần đơn chiếc bên đống thùng sách ngổn ngang giữa phòng khách, ông Rock nói như phân bua với chính mình.
- Tôi là người bạn tốt nhưng làm chồng thì quá tệ. Tệ chứ không bạc. Tôi sống hết lòng với bạn nên bằng hữu dù năm mươi năm cũ vẫn thân tình. Phải chi tôi làm được cả hai... Có lẽ đó là món nợ tiền kiếp tôi phải trả.
Người đàn ông giúp bạn sắp sách vào kệ mà lòng bùi ngùi nghĩ tới người vợ thân yêu đã vĩnh viễn nằm xuống bên cánh rừng dương quê nhà trong đêm định mệnh chia lìa. Rồi quen đi... Niềm cô đơn sống mãi trong ông như một thứ hạnh phúc đắng cay không thể thiếu.
Người đàn ông bưng đĩa bánh Trung Thu, đẩy cửa bước vào gian phòng tràn ngập ánh đèn. Đứa bé gái đứng nép bên mẹ, tay vin hờ lên bình hoa thục qùy e dè đặt nơi góc bàn. - Ông-nhà-văn đã khỏe hẳn chưa? Cháu tôi thấy ông Rock về, mừng quýnh, quên cả bánh để dành cho ông.
Ông Rock xoa đầu đứa bé gái.
- Chỉ là “đau lòng” thôi. Những lần trước chỉ vài viên thuốc là khỏi. Lần này bác sĩ hành quá... Cảm ơn cháu đã để dành bánh cho ông. Ăn bánh Trung Thu, uống trà ngắm trăng thì tuyệt quá. Người mẹ trẻ lúi húi nấu nước pha trà. Tiếng nước reo lẫn tiếng chuyện trò nổ dòn trong căn phòng ấm cúng. Hai ông già bỏ lững câu chuyện lúc người mẹ dừng tay cắt bánh, trìu mến nhìn đứa bé đang đọc vanh vách một truyện tưởng tượng từ quyển sách hình màu sặc sỡ. - Đã tới giờ ngủ rồi. Con chào Ngoại, ông Rock để mẹ dẫn về nhà. Bố đi làm về nếu thấy con vẫn chưa đi ngủ, mắng cho, mẹ không can đâu.
Cô bé chào hai ông già rồi phụng phịu theo mẹ ra cửa. Hai mẹ con dừng lại bên chiếc bàn giữa vườn. Người mẹ đở bình hoa, cúi xuống hôn con, rồi bồng đứa bé gái vào nhà. Thềm sau ngôi nhà nhỏ ngập lá phong khô loang loáng ánh trăng. Ông Rock tay cầm khay trà dĩa bánh, đứng chờ bạn quét lá rụng trên mặt bộ bàn ghế ở cuối hiên. Mùi lá khô cháy bay quyện nồng nàn không gian đêm tỉnh mịch.
Hai người lính già ngồi im lìm dưới trăng. Mặt hồ lấp lánh lao đao những đường trăng mường tượng hình hài con sóng. Một lúc nào đó, mắt họ có lẽ cùng dừng lại trên vùng chân trời bên kia bờ hồ, gọi mời kỷ niệm. Đêm trăng và những cánh rừng dương thân thiết ôm choàng phố biển. Tiếng sáo liêu trai vi vút vờn trăng Mỷ Thị, rưng lòng thiếu nữ phút yêu đầu. Bóng dương cuối bãi Thanh Bồ buông mành hò hẹn, se sắt bờ lau. Thành phố một thuở lớn lên, thắm thiết thân tình, chứa chan kỷ niệm. Chiếc nôi êm đềm nghĩa tình bầu bạn, thầy trò, tình đầu, tình cuối, đã giúp ru người qua bao thống khổ đọa đày. Chút trăng nhỏ bằng kẻ tay luồn lách lọt vào ngục tối một đêm trăng đã đủ sinh khí linh động ướp hồn xanh lại, chắp cánh bay khỏi lao tù, hớp hơi mớm sức chống chọi với khổ nạn điêu linh. Từ đó những bài thơ được viết ra trên năm đầu ngón tay rồi nhớ lấy nằm lòng. Từ đó những bài thơ được khắc lên ngục đá bằng chiếc muỗng kim khí nhỏ nhoi. Từ đó tự do phơi phới trong châu thân xiềng xích, trong tận cùng suy tưởng, chẳng một kiên giam nào có thể tiếm đoạt. Từ đó người ra đi, hồn không thiếu cô đơn và những câu chuyện cần được kể ra để giữ hơi lửa ấm cho mùa đông dài.
Trăng lên cao. Mặt hồ trải ánh hoang đường lan xa đến ngút ngàn. Vệt chân trời chìm xuống mất tăm trong rờn rợn thinh không. Kỷ niệm trở về bồi hồi câu chuyện kể làm xao xuyến tâm hồn hai người lính già ít ngủ. Kỷ niệm trở về kéo dài cơn khó ngủ làm nghẹn ngào người đàn bà đã hai hơn hai mươi năm vẫn nhớ đêm mất mẹ kinh hoàng. Bóng người đàn bà đứng bên bờ nước,
dưới bóng trăng khuya, cũng buồn như giọt nước mắt lặng lẽ. Người đàn ông đứng dậy chào bạn rồi đi về phía bờ hồ. Bóng hai cha con đứng buồn như nhau. Ông Rock bâng khuâng thở dài nghĩ đến đêm trăng trong mỗi hồn người. Tất cả đã bắt đầu từ một đêm trăng, điều còn lại chỉ là định mệnh...
Ngoài kia, đêm đất trời vẫn sáng một giòng trăng.
Phan thái Yên
Mưa Tren Phố Suối Snoqualmie
Phan Thái Yên
Ở Seattle trời cũng mưa nhiều như Huế. Không xa đó, vùng phố suối Snoqualmie lại càng quá hiếm hoi những ngày ráo tạnh. Với Mệ Ngâu thì hình như lúc nào trời cũng mưa, ngay cả lúc mặt trời soi bóng. Mệ vẫn thường nghĩ vậy mỗi lần đứng nhìn giòng thác đổ. Hơi nước trắng lịm phả vụt lên trời làn sương mưa làm lóng lánh ngủ sắc vầng nắng mai bừng lên trên đầu ngọn suối.
Mệ Ngâu tới công viên bên suối hầu như vào mỗi buổi sáng. Mệ ngồi nhìn tảng nước sa sầm xuống vực đá rồi quẩy tung lên thoắt hiện mưa giăng, sương sương mờ mờ làn cung vũ. Mắt mệ dầm trong mưa, nhớ về những chuyện xa lắc xa lơ đời mình cũng dầm trong mưa, thắm thiết ân cần. Có lần mệ Ngâu buột miệng nói với người giữ công viên ý nghĩ chợt đến trong đầu, rồi bật nhớ ra cười.
- Cũng may ôn là người Việt, chớ không thì ốt dột chết. Ngồi đây mà cứ tưởng như đương ngồi bên bờ Phá.
Người làm vườn, trạc tuổi con trai lớn của mệ, đang tỉa dọn cây cảnh gần ghế đá nơi mệ đang ngồi, cũng cười theo.
- Cụ nói đúng đó. Trời ở Phá Tam Giang nhìn lúc nào cũng như đang mưa nhưng kỳ vỹ bao la hơn. Lớn lên, quen với Bắc Mỹ Thuận, Ninh Kiều, cháu đã ngây người đứng nhìn Phá Tam Giang lần đầu tiên hành quân ra Huế sau tết Mậu Thân.
Họ quen nhau như thế từ sau câu chuyện tình cờ.
Định mệnh của người lính già đã gắn liền với vùng cuối nước Tam Giang từ một thuở chinh chiến hào hùng chẳng sợ nề chi truông phá. Cô gái Lại Ân làng Sình mang theo trong lòng hình ảnh hoa mai bay trắng như mưa xuân rơi trên sông Bồ, theo về quê chồng làm quen với dòng sông Hậu lớn ròng con nước lục bình trôi. Người lính tù đày không chết nhưng vợ thì qua đời trước ngày gia đình dắt dìu nhau tìm cảnh sống tự do. Đã từ nhiều năm, con cái trưởng thành sống cuộc đời riêng, còn ông vẫn hàng ngày vùi giấu nỗi buồn đơn độc với công việc bên cỏ cây hoa lá. Hình ảnh bà cụ người Huế đã ngoài tám mươi, lúc nào cũng trịnh trọng áo dài nhung khăn san tiệp màu, hàng ngày tìm tới thiên nhiên nghĩ nhớ về đời mình với lòng thanh thản giúp ông tìm ra được niềm vui trong cuộc sống.
Mỗi sáng ông giúp người con dâu của mệ hay đứa cháu nội đón đưa mệ Ngâu từ bãi đậu xe. Thỉnh thoảng mệ lại gói ghém cho ông những món ăn rất Huế, rất Sình mà đã từ lâu lắm ông chưa hề có dịp nếm tới. Dưới bóng cội tùng sum suê vòm lá đan dày, mệ Ngâu ngồi nhìn mưa kể chuyện. Người lính già tìm việc làm quanh quẩn bên mệ lắng nghe, thỉnh thoảng góp chuyện chia sớt buồn vui. Có những chuyện mệ Ngâu đã kể nhiều lần mà mắt mệ vẫn rộn tươi mỗi lần nói tới. Còn người lính gìa thì vẫn háo hức muốn nghe, như nghe lần đầu những câu chuyện cũ không đầu không đuôi về một nơi mà số phần đời ông đã sa xuống rồi thăng hoa thành tình nghĩa phu thê. Ngàn mưa trắng lịm chẳng hề ngơi trên phá. Tiếng mái dầm khoắng nước cuối sông lao chao bầy sen ngó phơn phớt màu cánh phấn như muốn quấn vói nhành mai chao nghiêng bên bờ nước. Áo lụa tím thon thả bờ vai, e ấp bóng tre la ngà ai về giữa ngọ. Nồi cá nục cay thơm hương gạo mới để môi em cũng mọng đỏ xuýt xoa. Ảnh hình kỷ niệm trân quý một thời son trẻ đã trở về cho riêng ông giữ lấy mà vui.
Chuyện đời o Ngâu, chuyện nhà mạ Ngâu, cũng được trang trọng lắng nghe rồi ân cần xếp vén giữ gìn. Chẳng chỉ là chuyện đời của một người vợ, người mẹ, mà là biết bao bà mẹ Việt Nam suốt đời mình luôn cố gắng ôm giữ gia đình trong gắn bó yêu thương, đừng để trôi chao trong gió nghiệt.
Ôn Cửu cũng một thời nho sinh lều chỏng mà tài mọn chẳng qua được cái nhất trường. Ôn ở lại Huế, chạy huợ trong Nội vài năm, cũng mòm mèm được cái chức cửu phẩm. Gặp thời Nho mạt, ôn đi học thêm chút tiếng Tây, rồi thất chí về quê ở làng Mỹ Xuyên, lấy vợ, mở trường dạy học. Ôn dạy chử Nho, lẫn Quốc ngữ, trộn thêm ít tiếng Tây cho con nít trong làng. Bà Cửu chẳng hề thấy chồng làm ra đồng nào từ cái việc bán chữ nghĩa ngoài những biếu xén vào những ngày lễ tết và thỉnh thoảng hò sai vài cậu học trò lớn xác chẻ củi gánh nước cho đở tay chân. Gian hàng xén ngoài chợ Mỹ Xuyên cũng đũ giúp bà nuôi chồng, quán xuyến trong ngoài, để mỗi năm vài lần bà Cữu nở mày nở mặt với chị em trong làng thấy chồng ngồi chiếu trên với quan viên trong các dịp đình đám.
Vợ chồng Ôn Cửu hiếm hoi. Bà chỉ sinh được cho ông một mụn con gái. Con Ngâu. Ôn vẫn chắc lưởi lắc đầu mỗi khi nghe vợ cao giọng gọi con. Cái tên chữ Tập Khánh, ôn đắc chí giữ trong bụng cho tới ngày con ra đời, dù trai hay gái, đã bị bà Cữu lắc đầu quầy quậy từ chối không thương tiếc. Tính ôn dễ dãi nên đã để mụ lấn lướt, đặt cho con gái cái tên chẳng chút trâm anh. Ôn nghĩ vậy và cảm thấy như tay chân vẫn còn run lẩy bẩy nhớ tới dòng thác người liễn lọng rợp trời và tiếng trăm họ chiêu hô lần thiên tử xa giá tới Đàn Nam Giao làm lễ tế trời... Ôn thở ra, ngụm miếng trà bông ngâu, trà thơm chi lạ.
Mới mười một mười hai, Ngâu đã theo mạ ra chợ buôn bán mỗi ngày. Con gái, con lứa khôn có chi hơn là học buôn học bán. Mạ đã nói rứa và Ngâu thì cảm thấy vui vẻ nơi chợ búa đông người hơn là quanh quẩn trong nhà với tiếng đọc bài ê a của bầy học trò ngái ngủ. Có khi Ngâu thầm nghĩ O đã biết hết chữ cũa cha dạy cho học trò. Năm nào cũng vậy, nghe hoài O gần như thuộc nằm lòng những bài đánh vần quốc ngữ, những câu tiếng Pháp đếm số tính ngày hay bài chữ Nho trầm đều như kinh tụng...gia nhà quốc nước tiền trước hậu sau ngưu trâu mã ngựa...
Ngày tháng níu nhau theo từng cơn mưa chờ xuân trên đôi tay trần lóng lánh măng tơ, kéo Ngâu bước vào lứa tuổi dậy thì hây hây sen ngó. Nàng trỗi thành cô gái dỏng cao, duyên dáng và giỏi giang có tiếng ở chợ Mỹ Xuyên. O Ngâu xin mạ dọn riêng một sạp bán hàng tươi. O nuôi gà bán trứng, O đi đò qua tuốt Bàu Mây, Cồn Én, dọc sông Ô Lâu hái mua bông sen, bông phượng tây, trái cây về bán vào các ngày rằm vía.
Ngâu sống bận rộn hồn nhiên với mạ, với chị em bạn hàng trong phố chợ, không để ý chi tới tình hình chiến tranh phức tạp đang diễn ra chung quanh. Việt Minh ngoài Mỹ Chánh, Ưu Điềm thỉnh thoảng đi từng toán trong đêm tối về làng, gom dân tuyên truyền học tập, kêu gọi đóng góp. Học trò lớn của Ôn Cửu có đứa bỏ làng vô rú theo Việt Minh, có đứa khăn gói vô Huế tìm chổ an thân. Lính Tây phía ngoài độn biển miệt Thanh Hương, Đại Lược, hoặc những làng xa tiếp cận Phá Tam Giang, bắt đầu mở những cuộc hành quân đi tuần đi rỏn qua làng. Nhìn những tên lính lê-dương đen như cột nhà cháy, mắt trắng dã láo lơ dòm ngó, dân làng Mỹ Xuyên linh cảm lo âu cho tháng ngày bất trắc trước mặt.
Mớ tiếng tây tiếng u của Ôn Cửu rứa mà đã giúp dân làng một đôi lần. Ôn xí lô xí la với tên sĩ quan chỉ huy hồi lâu, hắn nhìn quanh lưỡng lự rồi khoát tay cho toán lính di chuyển ra khỏi làng. Mụ Cửu mừng xóm làng thoát nạn nhưng vẫn chưa hết lo cho chồng. Mụ níu áo ôn kéo vô nhà.
- Ôn ơi, ôn gan ruột cái kiểu nớ có ngày tui đứng tim mà chết quá. Súng đạn bao quanh, tụi hắn lên cò lắc cắc rứa mà ôn cứ đứng đó xí lô xí la. Tiếng của người ta, nói trật, họ bắn một cái đùng rồi mẹ con tui ở với ai.
- Mụ đừng lo chuyện tầm vách. Dạo ở trên Huế tui từng nói tiếng Tây tróc tróc với tụi hắn. Mình nói đúng họ phải nghe. Tui nói trong làng chừ chỉ còn toàn người già con nít, mấy ôn muốn kiếm Việt Minh thì vô trong rú chớ ngoài ni khôn có mô.
Dân làng Mỹ Xuyên thoát được lần Tây ruồng biết ơn ôn Cửu, khen ôn nói tiếng Phú Lang Sa như gió, nhưng Việt Minh lại nghi ôn làm điềm chỉ cho đồn Tây ngoài Thanh Hương. Một đêm cuối tháng Mười, đất trời sủng trong mưa dầm, ánh đuốc trên tay thằng học trò bạc tình với chữ nghĩa, chập chờn những sợi mưa chém nghiêng qua khuôn mặt lầm lì. Hắn đứng im dưới mưa nhìn đồng chí của hắn trói thúc ké ông thầy già, lôi xềnh xệch qua khoảng sân lầy lội. Ánh đuốc vói theo lay lắt rọi những giọt mưa bay trĩu qua đôi vai già nua rồi nhả xuống mặt đất đọng đêm thâu. Gã học trò kéo ngược hai mẹ con mụ Cửu đang khóc vật vã dưới mái hiên, không
cho họ chạy theo ôn giáo, miệng quát tháo.
- Làm Việt Gian, tay sai cho thực dân thì phải đền tội. Bộ hai người cũng muốn theo đồng lõa hay răng đây !?
Quăng cây đuốc lụn bấc xuống sân tắt ngúm, hắn bước đi trong bóng tối dày đặc. Chỉ còn lại tiếng khóc của hai người đàn bà nhỏ nhoi chìm lịm trong tiếng gió mưa tràn lan qua mái ngói, qua cánh cửa nhà chưa khép. Bước chân hắn dợm đứng lại, lưởng lự trong giây lát, rồi quày quả bước. Thằng học trò chăn trâu vừa nhớ tới cảm giác rần rật thèm muốn những khi hắn vừa bửa củi vừa nhìn lén cô con gái của thầy ngồi gội đầu dưới mái hiên, từng sợi nước bò trên gò ngực tròn căng sau lớp yếm lụa mỏng ướp mùi hương chanh chùm kết.
Ôn Cửu bị bắt đi biệt tích. Mạ và O Ngâu khóc ròng rã những ngày sau đó. Mụ Cửu đi coi bói, xin xăm, tìm kiếm khắp nơi vẫn không ra tung tích. Gã học trò lầm lì theo Việt Minh thì sau đó nghe đồn đã bị Tây bắn chết trong một trận càn.
Sau hơn một năm mỏi công tìm kiếm, mụ Cửu đành quyết định lập mộ để tang cho chồng, lấy ngày ôn Cửu bị bắt làm ngày tử. Mẹ con vẫn hàng ngày bận rộn lo toan buôn bán nhưng cuộc sống buồn hơn. Ngôi nhà trở nên quá rộng khi đêm về. O Ngâu nhớ cha hay chêm tiếng Tây khi kể chuyện những ngày sống trong Dinh, chuyện hội hè người đông như kiến dịp thiên tử đi thuyền rồng qua sông Hương về Đàn “xanh cu tô” (Đàn Nam Giao) làm lể tế trời. O nhớ tiếng roi mây ôn Cửu đánh gió nghe vun vút, tiếng học trò ngái ngủ đọc bài nghe như tiếng kinh rời rạc.
Việc bán buôn bận rộn đã giúp mẹ con mụ Cửu nguôi ngoai dần theo thời gian. O Ngâu mười tám tươi tắn lồng lộng, mỏi mắt bầy trai phố chợ ngong ngóng ngó theo. Không nói ra nhưng mụ Cửu vẫn thầm chờ ngày mãn tang để tìm lo gả chồng cho con gái.
Chiến tranh Việt Pháp ngày càng ác liệt. Lính Tây đi tàu tuần ngược sông Ô Lâu để kiểm soát ngăn chận Việt Minh từ Mỹ Chánh Quãng Trị lọt về nên ruồng bố cũng diễn ra thường hơn. Chợ búa vắng hoang những ngày Tây đi ruồng. Đàn bà con gái tản mạn trốn ra Bàu Mây, Cồn Én, hay những nơi kín đáo trong làng. O Ngâu vẫn thường là người nhanh chân nhất. Cho đến một hôm, mãi bận rộn chuyện nhà khi nghe tiếng báo động ngó ra thì bóng bầy lính đã thấp thoáng sau bụi tre la ngà đầu ngõ. Nằm dưới gầm giường của mạ, o bặm môi điếng lên vì sợ, mắt căng nhìn từng bước giày đinh của tên lính lê dương xoáy nghiến trên nền gạch. Quá quen thuộc với việc bố ráp hàng ngày, chỉ vài phú sau gã lính đã lôi o Ngâu xềnh xệch ra giữa nhà. Hắn giựt tung hàng nút áo trong tiếng cười man rợ. O Ngâu nghiến răng, cắn nước mắt, quẩy đạp bàn tay thô bạo của gã lính người Âu đang cơn thú vật. Hình ảnh người cha đứng trong lớp học với bầy trẻ nhỏ ê a tiếng Pháp chợt vụt qua trí nhớ của Ngâu gần như cùng một sát na với âm thanh sắc gọn vọt ra từ lồng ngực thanh tân làm gã lính lảo đảo đứng lên. “Ma lát ! Ma lát !”. Hắn kinh hoàng đứng nhìn vùng máu đỏ ối giữa thân người con gái rồi lẩm bẩm câu chưởi thề, tiếc rẻ bỏ đi.
Ngâu bò quay trở vô gầm giường, nằm cắn răng mà khóc cho tới khi mạ lật đật từ chợ chạy về. Mụ Cửu ôm con, kinh hoàng khóc ngất.
- Không răng mô mạ. Hắn chưa làm chi được con hết.
Bà mẹ lau nước mắt, nhìn Ngâu dò hỏi, rồi chợt hiểu ra khi con gái vói tay lấy cái ống nhổ trầu nằm lăn lóc ở chân giường. O Ngâu ôm mạ mắc cở.
- Con nằm trốn dưới giường mạ, biết đường mô hắn cũng tìm ra, con sợ quá đổ đại nước trầu lên người. Khi hắn kéo con ra, con liều la tiếng Tây với hắn, rứa mà hắn tởm bỏ đi. Mụ Cửu lại ôm con, thăn thỉ khóc. Ngâu bấu lấy vai mạ, giọng o cũng nhão nước mắt. - Con không chịu để cho hắn làm chi mô mạ ơi. Hắn mà làm được chi, con cắn lưởi chết liền. Bà mẹ đở con lên giường. Bà pha nước ấm lau rửa cho con từng phân vuông da thịt nỏn nường. Vết son con gái giữa vùng thân thể non hây hàm tiếu. Mụ Cửu vuốt tóc con gái, yên bụng nói đùa. - Mạ mi ! O lo mà lấy dôn đi cho rồi.
Nhìn mạ thắp nhang khấn vái bên bàn thờ cha, Ngâu chợt thấy lòng bình tĩnh lạ thường. O bước ra đầu hiên nhà đứng nhìn trời chiều đang chuyển mưa. Từng cụm mây trĩu hơi nước ngập ngừng bay. Gió thổi ruồng qua rặng la ngà xao xác bầy lá tre khô rắc vàng phai xuống ngỏ. Ngâu tự nhũ đừng quên hứng nước mưa để sáng mai gội đầu lúc nàng với tay ngắt trái chanh bên bờ giếng.
Mùa Đông năm Ngâu mười chín tuổi, gió bấc thổi chạnh lòng con gái, làm se cau đôi mày nguyệt lộng thanh tuyền, và co ro dáng người đi trong năm cùng tháng tận. Mỗi sớm mai gió lạnh rợn rờn da thịt từ phía sông Ô Lâu thổi se sắt qua những dãy sạp hàng đã thức giấc từ lâu trước phiên chợ sớm. Hai mạ con mệ Cửu quang gánh rời nhà khi trời còn ướt đẫm sương đêm. O Ngâu mau mắn giúp mạ bày sạp hàng xén rồi bương bả về sạp bánh mứt của mình ở đầu chợ. Ngâu chăm chú làm việc, tay thoăn thoắt bày biện những bịch mứt đủ màu lên chiếc sạp gổ dài nhiều tầng. Chiếc áo len đan màu hoa cà khít khao theo tà áo dài ôm dáng người dong dỏng và khuôn mặt thanh tân với cặp môi cắn chỉ mọng hồng làm Ngâu có nét duyên dáng của một cô gái trong Huế hơn là một thôn nữ bên bờ Ô Giang. O Ngâu vui vẽ nhìn số mứt bánh còn lại cho hai ngày chợ cuối năm. Mới mấy ngày trước đây O đã lo lắng trách mình răng mà thày lay nghe lời mụ buôn hàng sĩ lấy nhiều quá sợ bán không kịp thì lổ hết vốn. Nghe con gái thăn thỉ, thở ra thở vô, mạ đã an ủi.
- Khôn răng mô, ra ngoài Tết cũng còn bán lải rải cho người cúng Đưa Ông Bà, cúng Rằm tháng Giêng. Mạ cười… Cùng lắm, bán không hết, còn chút mô thì hai mạ con mình ăn trừ cơm. Ngâu lấy rổ trứng gà O gánh theo rạng sáng nay đặt lên chổ trống ở góc sạp. Bầy gà so chịu trống đẻ nhiều không ngạ, tha hồ mà bán. Ngâu thầm nghĩ, cười một mình. Chợ Mỹ Xuyên những ngày giáp Tết rộn ràng người mua kẻ bán. Sau rặng cây tràm, mặt trời lên lấp lửng vừa đủ hun ấm sương mai đọng thành những giọt nước lóng lánh ở cuối mỗi sợi lá xanh dài đong đưa. Mới nửa buổi chợ mà sạp mứt kẹo của Ngâu đã vơi đi khá nhiều. Người nhà của dì Tứ bán bánh tét, bánh tày cạnh Ngâu cũng đã gánh thêm ra cho đủ bán đến trưa khi chợ vãng.
- Ngâu, có người đương đứng lén coi mặt mi đó tề! Tau thấy hắn lảng vảng từ ngày hôm qua mà quên nói cho mi biết.
Ngâu giật mình nhìn theo ánh mắt dì Tứ về phía góc chợ nơi hai người đàn ông trẻ tuổi, một cao một thấp, đang đứng đó tự lúc nào. O thẹn thùa quay mặt khi tia nhìn nàng chạm vào ánh mắt người thanh niên dáng người cao ráo đang chăm chắm nhìn nàng. Phải rồi, O có thoáng bắt gặp ánh mắt nhìn này đôi lần ngày hôm qua, nhưng chợ búa đông đảo tấp nập, O lại bận buôn bán không để ý tới. Ngâu giấu ý nghĩ mình.
- Dì thì khi mô cũng noái tào lao. Chợ Mỹ Xuyên ni cả trăm, cả ngàn người qua lại, hơi sức mô mà để ý tới.
- Hắn đương chấm điểm mi thiệt mà. Đó! Đó! Mi dòm cho coi. Thằng ni con cái nhà ai mà tướng tá, ăn mặc coi bộ không phải trai làng. Hay là con cháu ai trong Huế về ăn Tết ? - Tui không dòm mô. Người chi mà …mà cứ chằm hăm dòm người khác, không biết dị. - Chết cha mi rồi Ngâu ơi ! Hắn đương đi tới đó!
Ngâu cúi đầu, tay lính quýnh sắp sửa những bịch mứt đã yên vị nằm thẳng hàng trên sạp trong lúc tai lắng nghe không sót đối thoại giữa dì Tứ và hai người thanh niên. - Hai chú mua vài đòn bánh tét về ăn Tết hỉ. Bánh mới vớt, còn nóng ngon lắm. Có tiếng cười nhẹ của thanh niên thấp người.
- Dạ, O lấy cho tui hai đòn. Còn ôn bạn tui đây thì đương tìm trứng mua về làm bánh ga-tô cưới vợ.
Người thanh niên kia lên tiếng phân trần.
- Vợ thì chưa biết chổ mô mà tìm, không biết mua trứng về để lâu quá có bị chi không O? - Không răng mô. Trứng tươi để dành được lâu lắm. Chú rứa là tìm ra trúng chổ rồi. O bán mứt ni cũng có bán trứng nữa đó.
Tiếng cười mời của dì Tứ càng làm Ngâu quýnh quáng e thẹn hơn.
- Trứng ni bán ra răng đây O ?
Ngâu chớp mắt nhìn lên. Hai ánh mắt bối rối nhìn nhau chỉ trong một tích tắc mà Ngâu tưởng có cảm giác tê dại lạ lùng chi lạ khắp châu thân.
- Dạ, còn hơn chục trứng gà con so. Eng mua hết tui bán rẻ cho.
Người thanh niên nhìn rổ trứng, đôi mắt cười hiền mà ranh mãnh.
- Trứng đẹp lắm, nhưng mà làm răng tui biết được là trứng con so ?
- Dạ, trứng ni gà so ở nhà đẻ chớ không phải là trứng mua của bạn hàng.
Người thanh niên mua hết rổ trứng thêm vài ký mức sen đắt tiền. Anh ta đứng chăm chú nhìn Ngâu ngượng ngập gói hàng, đếm tiền, mà miệng thì cứ tủm tỉm cười làm Ngâu càng thẹn thùng. Lúc nhận gói hàng từ tay Ngâu, người thanh niên bất ngờ ghé sát người nói nhỏ “O đẹp lắm mà răng người O chua quá !? “. Ngâu sửng sờ, xấu hổ đến rụng rời, chỉ muốn được biến mất khỏi mặt đất để không còn ai nhìn thấy. Dì Tứ nhìn thấy nét buồn bực chợt hiện trên mặt Ngâu, dì thôi cười nghiêm tiếng hỏi.
- Hắn nói chi mà mặt mi ỉu xìu như bánh tráng nhúng nước rứa ?
Ngâu im lặng lắc đầu, O thẩn thờ suốt thời gian còn lại của buổi chợ. Trên đường về nhà, thấy vẽ mặt đăm chiêu buồn buồn của Ngâu, mệ Cửu gặn hỏi con mấy lần, nàng cũng chỉ lắc đầu không trả lời.
Suốt buổi chiều hôm đó, Ngâu cặm cụi nướng chùm kết pha chanh, kỳ cọ tắm gội, mạ phải nhắc O mới nhớ chưa nấu cơm tối. Sáng hôm sau, Ngâu lại tắm rữa rất lâu khiến mệ Cửu phải đi lượm trứng gà giúp con gái, rồi thúc giục mãi Ngâu mới chịu sẳn sàng quang gánh ra chợ.
Phiên chợ ngày cuối năm vội vã những người đi sắm Tết muộn để kịp về cúng Rước Ông Bà và đón Giao Thừa. Ngâu nhìn sạp hàng trống trơn mà trong bụng thì nôn nao lo sợ, nửa trông gặp lại người thanh niên, nửa muốn hắn đi mô thì đi biệt luôn đừng bao giờ quay trở lại mà nói năng ba trợn với nàng. Mặt trời vừa ló khỏi nóc rặng tràm thì cũng vừa lúc Ngâu thoắt nhìn thấy anh chàng xuất hiện. Ngâu lúng túng lấy rổ trứng giấu trong thúng đặt lên sạp gổ. Lần này người thanh niên chỉ đi một mình. Anh ta lại tới hỏi mua trứng, rồi cắc cớ vặn vẹo.
- Hôm qua trứng con so, bộ bửa ni trứng cũng còn so hay răng hè?
Nhớ lại câu nói sỗ sàng của người thanh niên ngày hôm qua, Ngâu quên cả mắc cở, dấm dẳn trả lời.
- Gà của tui là gà con so chẳng lẽ lại đẻ ra trứng con rạ. Eng muốn mua thì tui bán, không thì thôi.
Người thanh niên lật đật phân trần.
- Tui ra đây là để mua trứng của O mà. Rồi anh cười… Mặt O khi giận đẹp hơn khi vui gấp mấy lần.
Lúc nhận gói trứng, anh ta lại ghé người nói nhỏ “O chua quá làm tui thèm muốn chảy nước miếng !”… O Ngâu háy anh chàng một cái dài thượt mà miệng thì mím chi. Mặt Ngâu hồng lên vì mắc cở, vì cảm giác nhẹ hẫng trút bỏ được nỗi lo lắng xấu hổ ấm ức trong lòng suốt đêm qua. Có chút tình cảm không tên mơ hồ nhen nhúm từ một lúc mô đó O chưa biết được. Hình như từ buổi chiều qua, khi Ngâu dội nước chùm kết pha chanh không chỉ lên mái tóc mượt dài mà lên khắp châu thân. Từng sợi nước rịn ràng bò loang lên phiến thân thể căng mọng xuân thì. O vừa biết mình có một xác thân để được vuốt ve trìu mến.
Đêm giao thừa Ngâu chợt biết mình vui. Hai mạ con lăng xăng nhang khói. Ngồi nhìn ánh nến vàng lung linh cháy, O nhớ tới hình ảnh quan viên hai họ, cô dâu chú rể chúc bái trong một đám cưới nào đó mà O đã chứng kiến từ lâu lắm ở mô đó. Ngâu nằm rúc vô người mạ, hỏi mơ màng. - Người con thơm không mạ ?
Mạ vuốt tóc con mượt thoảng hương ngâu.
- Cái con ni, hôm qua tới chừ mi như người ở mô mô. Bông Ngâu không thơm thì còn chi thơm nữa hè ?
- Còn cái tên Tập Khánh cha đặt có nghĩa chi rứa mạ ?
- Cha mi chữ nghĩa cả bồ làm răng mạ biết được. Chắc là cái chi đó đẹp rực rỡ mà cao kỳ lắm. Đêm rớt sâu vào giờ khắc tàn lụn của năm. Bếp lửa hồng bập bùng soi nồi bánh tét vừa chín tới, mùi lá chuối ủ hương nếp mới ngạt ngào. Ngâu ôm mạ mơ màng chờ giao thừa rồi ngủ khi mô không hay trong thấp thoáng mơ say rộn rã mùa xuân đang tới.
Mùa xuân ở Phong Điền năm đó đẹp vô ngần, rộn rã như lòng O Ngâu sắp sửa lấy chồng. Rằm tháng Giêng trăng sáng quá làm O không ngủ được. O đi vô đi ra dưới hiên khuya, O lục đục nấu chùm kết gội đầu, trăng chảy trên tóc mướt, trăng ướt nhột nhạt lên da thịt thơm ngần. Trời còn tinh mơ trên bến sông, cả một triều sương trắng lan mịn mờ mặt nước. Người trên bến đứng chờ
mãi cũng chỉ ngóng được tiếng mái dầm ấp úng quẩy nước lảng đảng khi gần khi xa. Chờ tới thắt cả ruột bầy ghe từ bên tê sông Ô Lâu mới lần rải hiện ra trong màn sương trắng đục. Một chiếc, hai chiếc, rồi cả đoàn, mũi nốt khẳm nặng những thúng lớn chất đầy rau cải, bông cúng, và những buồng chuối chín vàng.
- Con Ngâu mô rồi hè? Xuống mà quảy chuối của mi lên tề !
- O Ngâu chui vô bụi ngồi nhớ dôn rồi.
Nhóm bạn hàng cười túa lên lúc Ngâu mắc cở bặm môi bước xuống nốt. Mà rứa thiệt. Gần nửa tháng ni Ngâu đương sống trong giấc mơ con gái đẹp tuyệt trần, như từ hồi sớm tới chừ O vẫn tư lự nhìn làn sương trắng trên mặt sông mà nhớ tới người ta.
Sáng mồng Ba Tết mạ khăn áo đi thăm bà con trong làng, chưa hết một tuần nhang đã thấy mạ xăng xái bước về nhà. Mạ thắp đèn bàn thờ, khấn vái, đứng ngồi không yên. Mạ nhai trầu chưa kịp đỏ đã nhổ têm miếng khác. Mạ lục đục lấy trong rương chiếc kiềng chạm. Cầm vàng trên tay, mạ ngồi ngó mông lung khoảng sân nắng la đà bóng tre trước sân nhà một hồi lâu rồi nhổ trầu kêu con gái.
- Chiều ni có người tới coi mắt con đó. Nhớ mà sửa soạn ăn bận cho đàng hoàng. Mược cái áo màu vàng để đeo kiềng vô cho hợp nghe khôn.
O Ngâu thoạt nghe mạ nói mà sửng sờ tim đập như muốn rớt ra ngoài. Ngâu bẽn lẽn cầm chiếc kiềng vàng, rụt rè hỏi ai rứa mạ.
- Nghe noái cậu nớ là cháu ôn Thất Trì. Mạ qua nhà dì Tứ mừng tuổi, mới bước vô tới trửa cươi đã thấy dì lật đật đi ra để qua nhà mình. Dì noái bà Thất Trì mới tới thăm, nhờ dì hỏi mạ để chiều ni qua thăm nhà xin coi mắt con Ngâu cho thằng cháu. Mạ chịu rồi, dì Tứ chừ chắc đương đi qua bên xóm côi cho họ hay rồi.
Ngâu bước ra sân nhà sau, rải lúa cho bầy gà, trong lòng O rộn rã nỗi xốn xang thiệt lạ lùng làm choáng ngợp nóng bừng đôi má. Mạ bước theo, cười vọng ra.
- Hai dì cháu mi biết cậu nớ là ai rồi còn làm bộ hỏi tau. Dì Tứ noái hắn tên Trình, cha mạ ở Bao Vinh nhưng mần việc chi đó cho nhà nước ở gần Phá. Bà Thất Trì khoe với dì Tứ cậu Trình chử nghĩa còn nhiều hơn cả ôn mi nữa, đậu tới bằng ri-me rồi đó.
O Ngâu nhớ tới dáng người thanh niên cao ráo, ăn mặc kiểu thành phố, quanh quẩn ở góc chợ chờ chực nhìn nàng suốt ba ngày cuối năm. O không biết mình đương tự hỏi lòng hay phân vân hỏi mạ.
- Trong Huế thiếu chi đàn bà con gái, họ tới coi mắt con làm chi mạ?
Mệ Cửu nhìn Ngâu tưởng như thấy lại mình hơn hai mươi năm trước. O Thỉ, cô gái làng Vân Trình qua Mỹ Xuyên buôn dầu tràm. Ông giáo làng đạo mạo trong áo the khăn đóng đứng nhìn O suốt mấy buổi sáng liền trên bến sông rồi nhờ người mai mối. Rứa là O Thỉ qua sông về làm dâu Mỹ Xuyên từ đó, nuôi chồng, nuôi con, bận bịu buồn vui…
Duyên nợ hết Ngâu ơi. Con gái lớn thì lấy chồng. Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu… nhưng mạ biết con mạ sẽ về nơi gạo trắng nước trong. Ngâu khóc.
- Lỡ mai mốt đây con lấy chồng xa tuốt Bao Vinh, theo chồng xuống Phá Tam Giang, rồi mạ ở với ai?
Mệ Cửu la át con mà giọng nhão ướt, vỗ về.
- Xa gần chi rồi cũng phải qua một con sông. Vân Trình, Phước Tích, Bao Vinh, Mỹ Chánh, Sịa, Sình…xa gần chi rồi cũng phải theo chồng. Mi lo cho cái thân mi đi tề. Mà răng, có ưng khôn? Ưng thì tau gả, khôn thì cứ ở đó mà lỡ lứa lỡ thì, khôn ai vô đó mà lo cho được mô. - Dạ ưng. Ngâu lau nước mắt, cười với mạ.
O chưa hay biết chi cuộc đời trước mặt, chỉ biết mình đang vui. Ngâu mở lòng hứng lấy hạnh phúc trào tới như mưa xuân trổ hoa trên cánh đồng Mỹ Xuyên loáng nước. Tháng Ba, ngày Ngâu về nhà chồng mưa nghiêng nhòa bến sông, nước mắt vu quy nhớ mẹ cũng như mưa đẫm nhòa má hồng O sắp qua rồi một thời con gái.
Những ngày chưa-kịp-làm-dâu ở xóm Bao Vinh ngỡ ngàng qua mau. Người cha chồng gốc gác ở Phò Trạch, chất phác cục mịch như hòn đất suốt ngày bận rộn với công việc ở trại mộc dựng dọc theo sông. Miệng ôn lúc nào cũng bập phà điếu thuốc rê mụ Cửu Ới gắt nồng. Mạ chồng của Ngâu
đã qua đời vài năm trước, cũng may cả ba người chị chồng hiền lành tuy có gia đình vẫn ở kề cận cha. Ba đứa học trò ưng ý nhứt của ôn Thợ Vĩnh đều được gã con gái cho và làm ăn chia ở trại mộc đóng ghe với ôn.
Ngâu lạ mắt với khu xóm Bao Vinh đất thấp lè tè như ngang với mặt nước sông. Mỗi lần chiếc đò khẳm khách đi Kế Môn, Đại Lược chạy ngang O có cảm giác nước từ phía bên Hàng Bè chồm sang như muốn phủ chụp lấy con đường lót gạch đỏ mòn trủng quanh co giữa hai dãy nhà san sát dòm nhau.
Ngày vợ chồng xuống đò dọc theo sông Bồ về Phá, Ngâu cảm động ôm một giỏ đầy áo quần mà ba người chị chồng đã giành nhau mua ở chợ Đông Ba cho O. Người chị cả thân tình dặn dò cô em dâu mới.
- Em ráng lo cho cậu Đấy (đái) miếng ăn miếng uống. Mấy năm ni cậu uống quán ăn chợ, bông lông ba la, người ốm như cây tre. Cậu nớ cưng O lắm đó, ráng mà giữ nhau. Cả nhà theo tiễn ra tận bến sông. Người chị út nói nhỏ vô tai Ngâu “Cóc mở miệng” khi ôn Thợ Vĩnh nói với con dâu.
- Trà ngâu con đem về thơm lắm, nhớ nhắn ra Mỹ Xuyên mua thêm cho ba. Vợ chồng bây ráng mà đẻ bầy cho ôn nội mau có cháu bồng.
Ngâu chợt khóc khi bước xuống đò. O nhớ mạ khi thấy bóng mình lung linh, trong veo bến nước Bao Vinh.
Cuối mùa Xuân mà nhiều cây mai trắng dọc theo sông Bồ còn giữ bông trên cành. Dòng hoa ẩn hiện nhấp nhô theo triền nước, màu trắng lướt thướt theo nhau như dải lụa huyền ảo trong nền xanh của cây lá đất trời.
Nhớ tới lời dặn dò của người chị chồng, Ngâu chợt nhìn Trình cười thú vị.
- Hồi sáng đứng nghe chị Thuyên dặn dò tui mới biết tên kêu ở nhà của người ta. Ai có tật thì giật mình một cái đụi đi.
Trình lắc đầu cười.
- Cái mụ nớ thiệt. Năm sáu năm trước có mạ làm chứng, mụ đã thề độc không khi mô nhắc tới cái tên nớ ra nữa. Lỡ đái mế có một lần hồi còn nhỏ xíu mà cái tên quái ác cứ theo mình mấy chục năm ni… Mà chị Thuyên dặn chi rứa?
- Dặn ráng nuôi eng cho mập lên, chớ chừ giống cây tăm tre quá.
- O có nhớ là người O chua lắm không? Chảy nước miếng theo O hoài, tui quên ăn quên uống, người ốm o gầy mòn, thì O sẽ bị mang tiếng lắm đó nghe.
Ngâu lườm chồng. Lòng O rộn rã hạnh phúc như dòng sông tinh khôi trước mặt. Tổ ấm của đôi vợ chồng son là ngôi nhà nhỏ nằm kín đáo sau dãy rào trồng chè tàu vừa được tỉa xén gọn gàng. Mái ngói âm dương phủ rêu phong dưới bóng mát tàng cây ngô đồng xanh lá. Tuy đã mãn mùa Xuân mà trên cành vẫn còn vài chùm hoa phơn phớt nhạt như khói hồng lắt lay theo gió từ phá Tam Giang thổi lên.
Từ gần tháng nay O Ngâu bận rộn luôn tay, dọn quét sửa sang lại cái “ổ chuột của ôn Trình”. Mấy vồn rau lang ở khoảng sân nhỏ sau nhà vừa đâm những tược lá màu tím, ngo ngoe dài vui mắt. Từ hiên nhà O Ngâu có thể đứng nhón thấy một phần Phá phía khơi xa ẩn hiện sau rặng cây bên kia đường. Trời với nước quyện vào nhau, chìm lắng một màu xanh thẳm tưởng như bất tận nếu không có dải bờ ngút mắt như vệt chân trời chia cắt đầm nước với biển Đông. Khu xóm nhỏ nằm bên con đường nối hai cửa sông Bồ và Ô Lâu, chừng hơn giờ xe đạp từ nhà về Ngã Ba Sình nơi Trình làm việc về tiếp liệu cho một đơn vị quân nhu Pháp. Khoảng đường đủ xa để anh không về nhà vào mỗi buổi trưa.
Những ngày hạnh phúc êm đềm trôi như lòng O Ngâu rộn ràng theo từng tiếng cười vui của chồng vào mỗi buổi chiều trở về nhà. Tiếng chiếc xe đạp dựng hấp tấp đụng vào cánh cửa sổ hiên ngoài là âm thanh dịu êm như tiếng chuông gọi trở về vẫn thánh thót gõ nhịp lòng O.
Một buổi trưa, Ngâu vo gạo xong vừa bắc lên bếp thì nghe tiếng xe đạp của chồng. Trình dựng xe, hối hả đóng hết cửa nẻo, xuống bếp tìm vợ. Anh ngồi bên vợ thì thầm, chỉ thấy O Ngâu lắc đầu quầy quậy.
- Không được mô…trời sáng trưng, dị òm.
Trình yên lặng ôm vợ dìu về phía buồng ngủ. Trong gối chăn bao bọc, mắt nhắm nghiền mê đuối cho đêm bất chợt phủ vây. Cảm giác chạm lên từng phân li da thịt như nở ra theo từng cơn sóng dập dồn, rị kéo đôi bờ chân thuông dang xa vật vã cuống vùi. Ngâu như chìm lịm trong tiếng thét gào của sóng của gió của nước từ đầm phá ngoài kia thổi luồng qua buồng the, qua những ngón tay bấu chặt, môi trào tên gọi… Im vắng chợt rụng về theo cơn bão lặng. Ngâu khỏa thân nằm cuộn mình trong chăn chiếu, mơ màng lắng nghe đóa hoa hạnh phúc mãn khai rụng cuốn rịn ràng rơi trôi theo dòng thân xác. Âm ba réo vọng của sóng nước trào dâng ngoài phá chừ cũng im lắng, để lại vang vang trong nàng sau đôi mắt nhắm giọng nói dập dồn hơn hơi thở như đỡ nâng Ngâu thành một người mới cho thẹn thùng trở giấc. Mạ mi bưa chưa!? Mạ Ngâu mi bưa chưa !? … Ngâu chợt nghe mình bẽn lẽn lặp lại câu nói của chồng lúc O bước dưới tàng cây ngô đồng trong sân nhà nhìn theo Trình. Dáng chồng đạp xe dọc theo phá Tam Giang trong gió ngược về phía cửa sông Bồ, thấy thương chi lạ… Người chi mà không biết trẻn, chưa chi hết đã kêu người ta Mạ Ngâu.
Mạ Ngâu thương chồng, eng răng tui rứa, nên câu hỏi của chồng mãi hoài vẫn chưa được trả lời cho hương lửa càng thắm thiết mặn nồng suốt mười năm ở Phá và biết bao năm sau đó bên tê đèo Hải Vân.
Một buổi chiều cuối mùa hè, gió Lào thổi rần rật qua dãi đất một thuở Hóa Châu xưa làm rát mặt người. Cơn gió nóng như lửa tràn lướt qua mặt phá im lìm soi bóng khoang trời không một bóng mây chìm. Mạ Ngâu bụng đã lùm lùm đứa con đầu lòng theo chồng đi dạo dọc theo bờ phá hóng chút hơi nước mát từ biển. Sự xuất hiện đột ngột của gã lính Tây say khướt đang bước quàng xiêng theo bờ nước khiến Mạ Ngâu hoảng sợ trong giây phút. Có chồng cầm tay trấn tỉnh, Mạ Ngâu nhìn tên lính viễn chinh và nhận ra nét mặt thú dử mà nàng vẫn nhớ như in những lần nằm chộ giữa đêm. Mạ Ngâu bương bã đi mau nhưng rồi bổng nhiên quay lại nói với chồng.
- Eng ôm thằng Tây ni lại cho tui đập hắn một trận.
Nhìn ánh mắt vợ, Trình chẳng cần hỏi han vội đi tìm bẻ một nhánh cây đưa cho vợ rồi ôm vật gã lính say mèm nằm sấp trên cát. Mạ Ngâu đập túi bụi tên lê-dương rồi bỏ chạy tới dựa lưng vào một cây dương đứng thở dốc. Trình dìu vợ ngồi xuống bên mình, cười hỏi.
- Mạ Ngâu mi đập mà hắn say như chết rứa thì có ăn thua chi mô?
- Răng không ăn thua. Đập cho hắn tởn không dám vác mặc lên Mỹ Xuyên phá phách nữa, cho đàn bà con gái trên nớ nhờ.
Mạ Ngâu kể cho chồng nghe chuyện rủi mà may thoát khỏi tai họa một đời mấy năm trước đó. - Chừ thì tui yên bụng rồi, hết phải nằm thấy cái bản mặt dơ dáy của hắn.
Vợ chồng yên lặng ngồi bên nhau nhìn hoàng hôn buông trên mặt nước đang chuyển sang màu tím lặng pha hồng. Đêm xuống mau thả chiếc khăn choàng đen lên mặt phá bất chợt mênh mông. Họ trở về nhà, chân bước cũng nhẹ như lòng.
Cuối năm đó Ngâu về nhà mạ đẻ con so. Mệ Cửu khoe khắp chợ thằng cháu ngoại đầu của mình. Cả nhà trong Bao Vinh tíu tít ra Mỹ Xuyên thăm cháu. Đôi bàn tay to lớn thô tháp của ôn Thợ Vĩnh chuẩn xác khéo léo với cưa đục bao nhiêu thì càng vụng về lúc bồng ẳm thằng cháu đích tôn bấy nhiêu. Ôn cha trẻ Trình thì mỗi cuối tuần đều đếm từng giờ từng phút để tìm cách ra làng thăm vợ con.
Ngôi nhà bên phá rộn ràng với tiếng khóc trẻ thơ. Lại càng rộn ràng hơn những năm sau đó. Mạ Ngâu đẻ sai như bầy gà của mạ thời con gái, ba năm hai đứa ra đời đều đặn vuông tròn. Mỗi lần tết lễ, giổ chạp về làng, nếu Mạ Ngâu không bụng mang dạ chửa thì cũng ẳm con mới sinh, theo sau là bầy con xinh lẳm đẳm chạy theo mạ. Cái nồi nấu bánh tét thời chỉ hai mẹ con hôm sớm trở nên quá nhỏ cho bầy cháu ăn như giặc, đêm giao thừa Mệ Cửu nấu bánh ngoài sân trong cái thùng tôn lớn, lửa cháy bập bùng nổ lách tách chia huyên náo với bầy trẻ nhỏ lao xao nói cười. Những lần cả nhà ngược sông Bồ lên Bao Vinh thăm nội, không nghe ôn Thợ Vĩnh nhắc chi tới lần nhắn con dâu ráng đẻ bầy cho ôn ẳm. Ôn bồng đứa cháu nhỏ nhất, gọi mua kẹo kéo cho cả bầy cháu nội ngoại, nhiều quá đếm không xuể.
- Tụi bây ở mô ra mà loi choi như giòi ôn đếm không ngạ, bồng muốn lọi cả tay. Mười năm theo chồng về Phá Tam Giang. Hình ảnh o thôn nữ dịu dàng bên dòng sông Ô Lâu
ngày nào đã son sắt dãi dầu thành Mạ Ngâu tần tảo nuôi con, lo cho chồng hôm sớm. Những rợn sáng tinh mơ, rời nhà lúc trời còn đêm, tất tả ra bãi phá chờ cho kịp ghe lưới về, mua bán sang tay kiếm chút lời và rổ cá cho nhiều miệng ăn trong nhà. Nồi cá nục chuối thơm cay ăn mau cho kịp hít hà hay khạp mắm thu luôn sẳn đó cho bầy con háu đói. Những vồn lang xanh mướt khoảng vườn sau nhà vẫn mùa theo mùa tốt củ . Bầy gà vẫn đẻ sai trứng, không còn cần thiết cho cha mạ mua mớm duyên nhau mà cho cha-con-bây lạ miệng. Mười năm. Mạ Ngâu đã nhiều lần ngược Ô Lâu về thăm mẹ già nhưng có một lần Mạ Ngâu khóc suốt chuyến đò làm bầy con ngơ ngác khóc theo và ôn Trình mắt cũng đỏ hoe. Vợ chồng thỉnh bàn thờ cha mạ về nhà, không có con trai thôi thì lấy rể làm trưởng nam cũng thuận chiều hương khói. Vài năm sau, không lâu sau ngày ôn Thợ Vĩnh và ba người con rể bỏ gần một tháng Giêng chèo chống cây gổ xuôi sông Bồ về Phá giúp con trai sửa sang ngôi nhà đã trở nên quá nhỏ cho bầy cháu lớn như thổi, ôn nội cũng qua đời. Những đêm rằm trăng soi tỏ mặt phá, trầm nhang nghi ngút trên bàn thờ có thêm hương linh bài vị mới trang trọng như một từ đường. Mạ Ngâu trồng một hàng bông ngâu trước nhà để vong linh ôn có về uống trà mà ngửi cho thơm. Mười năm, mấy lần tản cư chạy giặc tránh bom. Chồng mắc việc công không về kịp. Vả lại Mạ Ngâu cũng không muốn chồng rủi gặp chuyện hiểm nguy. Nhớ lỏm bỏm lời cha lúc sinh tiền, Mạ Ngâu nói chử.
- Ôn mi cứ an tâm mà lo chuyện thiên hạ sự. Ở nhà mấy mẹ con tui xoay trở được. Ôn về xớ rớ Việt Minh thấy được càng mệt thêm.
Như thời còn con gái, Mạ Ngâu luôn quán xuyến, thúc hối hàng xóm, rồi lẹ làng tản cư sớm hơn ai hết.
- Lo mà chạy cho rồi. Ngồi đó mà phân biệt máy bay Tây với máy bay Mỹ. Chiếc mô cũng ở ngoài biển bay vô, chờ thấy hắn rà rà trên phá thì chạy vô hầm cũng không kịp chớ đừng nói chuyện chạy về Sình hay Bao Mỹ.
Đặt hai con nhỏ ngồi vô hai thúng lót sẳn áo quần, niền thúng tòn teng son chảo, Mạ Ngâu rảo chân gánh đi, miệng không ngớt dặn dò vỗ về các con lớn đang hớt hải chạy theo, vai đứa nào cũng quấn quanh cái ruột tượng dồn gạo cơm mắm muối.
- Nhớ cầm tay nhau, chạy theo sát mạ để khỏi bị lạc. Xuống tới chợ Sình, cha ra đón, mua kẹo kéo tha hồ mà ăn.
Trình thấp thỏm chờ vợ ở cửa sông Bồ, ôn mừng như tìm được vàng khi thấy bầy mạ con dẫn đoàn người tản cư mệt nhọc gánh gồng đi dọc theo bờ phá . Cha lấy nước sông lau sạch mặt mày lem luốc của bầy con. Lúc ôn ân cần vuốt tay lên má vợ chùi những giọt mồ hôi đọng ướt bờ tóc mai, mặt Mạ Ngâu ửng hồng lên không biết vì mắc cở hay vì ánh nắng mặt trời.
- Ôn ni… dị òm. Con đứng cười tề.
Ôn Trình quay nhìn bầy con đương đứng chăm chăm dòm cha mạ.
- Đứa mô cười hở mười cái răng.
Bầy trẻ con được ngồi quán ăn cơm chợ, mút kẹo kéo, mừng quên hết mệt bắt đầu cười nói bi bô.
Chiến trận qua đi. Những chiếc phi cơ thả bom của Tây của Mỹ bay biến dạng ra biển, trả êm đềm lại cho bầu trời xanh của phá. Đoàn người hồi cư lại gánh gồng trở về nhà, chôn cất, sửa sang, bương chải, sống còn.
Mạ Ngâu vẫn sống cho con cho chồng. Từng ngày, từng buổi sáng tinh mơ sè sẹ mở đóng liếp cửa sợ chồng con thức giấc, ra phá bán mua. Có thể gã lính Tây bị mạ đập bên bờ phá đã theo đoàn quân viễn chinh rút về nước một sớm mơi mô đó lúc chân mạ còn đứng dầm trong nước Tam Giang giữa tiết tiểu hàn chờ ghe cá từ biển về. Biết ra, mạ mừng vì con gái mình đương lớn. Có thể đất nước bị ký kết chia đôi một buổi trưa mô đó khi mạ đương ngồi xắt khoai phơi khô cho những ngày thiếu hụt. Biết ra, mạ nhớ hèn chi lâu ni không còn thấy mấy ôn Việt Minh về. Mạ bâng khuâng không biết bây chừ họ đói no ấm lạnh ra răng ngoài nớ.
Ôn Trình vẫn công việc cũ bận rộn hàng ngày, chẳng có chi khác ngoài cái danh xưng, lương tiền vẫn ba cọc ba đồng.
Cụ Diệm về chấp chánh, rồi trưng cầu dân ý, “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”. Hai ôn, ôn mô mặt mày
cũng phúc hậu. Ôn vua lại có bà hoàng hậu nghe nói nhan sắc khuynh thành nên ngày đi bầu xanh đỏ chi Mạ Ngâu cũng bỏ vô bì.
Ôn Trình được đồng hóa vào quân đội cọng hòa, cho mang lon Thượng Sĩ. Ngày đầu ôn mặc bộ đồ lính mới mang lon về nhà, cả bầy con bu lại hảnh diện trầm trồ. Bửa cơm trưa hôm đó, ngoài canh rau, mắm ruột cá thu, Mạ Ngâu đãi ôn Thượng Sĩ và bầy con dĩa trứng đổ chả to gần bằng cái mâm. Mờ sáng hôm sau, lúc đứng chờ ghe cá về, bạn hàng trong lúc chuyện trò, có người hỏi bông đùa.
- Mụ Ngâu bửa ni là bà đội rồi, còn dầm nước với chị em tui nữa làm chi?
Mạ Ngâu cười.
- Phải dầm để kiếm mắm về nuôi cha con ôn đội chớ biết làm răng chừ.
Chừng một năm sau, ôn Đội Trình có lệnh thuyên chuyển vô Đà Nẳng. Từ trên đỉnh đèo Hải Vân sương phủ nhìn xuống, Vịnh Hàn trong nước tiếp mây thấy càng hùng vĩ hơn Phá Tam Giang. Lòng Mạ Ngâu chợt nguôi ngoai nỗi buồn xa quê một cách lạ lùng. Trước thiên nhiên bao la mà đằm thắm, tay chồng trên vai và bầy con quấn quít bên mình, Mạ Ngâu vui lòng với hạnh phúc đang có và yên tâm với tương lai trước mặt. Ngôi nhà có khoảnh vườn nhỏ gần bải biển Thanh Bình là cơ ngơi mới vợ chồng lại nối tay nhau gầy dựng. Hàng bông ngâu bứng từ nhà cũ bén rễ đưa hương, những đọt lang mau mắn trổ vòi bò tím vồn đất mới cho bầy gà từ Tam Giang còn lạ cảnh hốt hoảng lạc tìm nhau. Ở đây, những ghe chài cá đầy lòng khoang cũng từ khơi xa trở về lúc ngày chưa rợn sáng nên với Mạ Ngâu việc còn lại là gắng tìm ra mối bán mua. Chẳng bao lâu những bạn hàng xuề xòa người Quảng từ các chợ quanh đó nhiều người trở thành thân quen với Mạ Ngâu. Các con ở tuổi đi học, trường lớn bạn bè đông nên chúng mau quên ngôi trường làng nhỏ bé bên Phá Tam Giang.
Ôn đội Trình vẫn giữ tật thỉnh thoảng hấp tấp ghé nhà vào những buổi trưa trên chiếc xe mô bi-lét cũ. Mạ Ngâu mi bưa chưa !?... Rứa là mỗi năm Mạ Ngâu lại bận bịu hơn trong chuyện sinh nở nuôi con.
Trong những năm này, chiến tranh lại bắt đầu tái diễn, rồi ngày càng trở nên ác liệt hơn. Tây đi, Mỹ tới, thanh niên miền Bắc thì Cọng Sãn quăng vô lò lửa chiến tranh, sanh Bắc tử Nam, miền Nam thì động viên đôn quân cố gắng giữ lấy cuộc sống tự do nơi thành thị. Mạ Ngâu sinh đứa con thứ mười hai được hơn một năm thì tai họa ập tới với gia đình như hàng trăm ngàn gia đình khác ở Huế và trên khắp cùng đất nước. Vào những ngày giáp Tết Mậu Thân, ôn Trình vừa lên lon Thiếu Úy không lâu trước đó, nhân dịp đi công tác ở Huế đã xin nghĩ phép, ở lại thăm bà con và viếng mộ cha. Trong thời gian ngắn ngủi Cọng Sản chiếm đóng thành phố Huế, ông thiếu úy già đã bị bắt từ nhà người chị ở Bao Vinh và bị chôn sống tập thể cùng hàng trăm người khác tại Bãi Dâu. Ngày Mạ Ngâu tìm ra xác chồng, bà khóc cạn nước mắt. Đưa xác về quê chồng ở Phò Trạch chôn cất xong Mạ Ngâu nuốt nước mắt, xốc lại khăn tang áo chế về nhà. Mạ Ngâu nhuộm răng ăn trầu, áo vải tang thô lặn lội thân cò tần tảo nuôi con. Người con trai lớn bỏ học đi lính, ra trường sĩ quan xin ra phục vụ ở Sư Đoàn I, đóng quân gần vùng hai quê nội ngoại. Các cô em gái kế, kẻ làm ngân hàng người là cô giáo, cũng lần lượt lấy chồng lính. Ngày trước chỉ một người cha là sĩ quan, nay rể con trong nhà “năm thằng, trên trời dưới nước chi cũng có”.
Cuối năm bảy tư, Mạ Ngâu cưới vợ cho con trai lớn. Mạ khấp khởi mừng thầm sắp tới ngày có cháu nội ẳm bồng thì cuộc biển dâu trào tới như hồng thủy cuốn phăng đi tất cả mọi ước mơ dự tính. Ngày cuối tháng Ba năm bảy lăm, thành phố Đà Nẳng giữa buổi sáng mùa xuân se lạnh bị nung chín trong kinh hoàng tột độ. Cả nhà ngồi quanh Mạ trên chiếc duyên đỉnh của người con rể Hải Quân di tản vào Sài Gòn. Bãi Mỹ Khê xa vời những vệt xám dọc theo bờ cát vương vãi nắng chiều. Hàng dương ủ rũ cúi đầu chắn hướng nhìn về phố. Thành phố Mạ ắp đầy kỷ niệm hạnh phúc bên chồng, bận bịu lo toan để bầy con sống những ngày tuổi thơ êm đềm. Lòng Mạ là bãi sương giăng. Sương lan qua vịnh biển Thanh Bình, qua đỉnh Hải Vân, rồi sa thành nước mắt đẫm ướt khung trời Phá Tam Giang. Sương lan bời bời giòng nước ngược Ô Lâu, bơ vơ mộ chồng, điêu tàn quê cũ.
Đoàn tàu đi về phương Nam, phân vân bờ bãi. Từng tỉnh lỵ miền Trung lần lượt thất thủ như những con bài buồn bã quỵ vào nhau cho kịp hết một mùa xuân u uất.
"""