"Chết Chịu - Louis Ferdinand Céline full mobi pdf epub azw3 [Cổ Điển] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chết Chịu - Louis Ferdinand Céline full mobi pdf epub azw3 [Cổ Điển] Ebooks Nhóm Zalo Chết chịu Tác giả: Louis-Ferdinand Céline Dịch giả: Dương Tường Phát hành: Nhã Nam Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn 06/2019 —★— ebook©vctvegroup Tặng Lucien Descaves Mặc đồ vào! Một cái quần! Thường quá ngắn, đôi khi lại quá dài. Rồi áo vét cổ tròn! Gi lê, sơ mi và mũ nồi nặng trịch Đôi giày trên biển Đi vòng quanh thế giới!... Bài hát trong tù Thế là lại vẫn độc trọi có chúng tôi thôi. Mọi chuyện này mới chậm chạp, nặng nề và buồn làm sao... Chẳng bao lâu, tôi sẽ già. Và cuối cùng sẽ chấm dứt. Có biết bao người đã đến phòng tôi. Họ nói đủ thứ chuyện. Họ chẳng nói gì nhiều với tôi. Họ đã đi khỏi. Họ trở nên già nua, tiều tụy và chậm chạp, mỗi người ở một góc trời. Hôm qua, bà gác cổng Bérenge chết vào hồi tám giờ. Một cơn bão lớn nổi lên từ đêm. Tít trên cao, nơi chúng tôi ở, ngôi nhà rung lên. Bà là người bạn tốt trung thành và hiền dịu. Ngày mai, người ta chôn bà ở phố Cây Liễu. Bà già ơi là già, già đến tận cùng cái già. Ngay từ lần đầu tiên thấy bà ho, tôi đã bảo: “Cần nhất là bà đừng có nằm!... Cứ ngồi ở trong giường!” Tôi đã ngờ ngợ. Và rồi thế đấy... Và rồi thây kệ. Tôi không phải bao giờ cũng hành nghề y, cái thứ chết tiệt ấy. Tôi sẽ viết cho họ rằng bà Bérenge đã chết, viết cho những người quen biết tôi, quen biết bà ta. Họ ở đâu nhỉ? Tôi những muốn cơn bão ầm ĩ hơn nữa, muốn các mái sập đổ, mùa xuân không trở lại, ngôi nhà của chúng tôi biến mất. Bà Bérenge, bà ấy biết mọi nỗi buồn đều đến trong những lá thư. Tôi không biết viết cho ai nữa... Tất cả những người đó đều đã xa... Họ đã thay đổi tâm hồn để phản bội thô bạo hơn, để dễ quên hơn, để luôn nói về chuyện khác... Bà già Bérenge, con chó mắt lác của bà, người ta sẽ bắt nó, người ta sẽ mang nó đi... Đã hai mươi năm nay, tất cả nỗi buồn của các bức thư dừng lại ở phòng bà. Nó hiện diện đó, trong mùi của cái chết vừa xảy đến, trong cái vị chua chua không tưởng tượng nổi... Nó vừa nở ra... Nó ở đó... Nó lảng vảng... Nó biết chúng tôi, chúng tôi giờ đã biết nó. Nó chẳng bao giờ đi nữa. Phải tắt lửa trong phòng bà. Tôi sẽ viết cho ai đây? Tôi chẳng còn ai. Không một ai nữa để dịu dàng đón nhận linh hồn tử tế của kẻ chết... để rồi sau đó có thể nói lời dịu dàng hơn về thế sự... Hãy can đảm gánh chịu một mình! Phút lâm chung, bà già gác cổng của tôi không thể nói gì được nữa. Bà ngạt thở, bà níu tay tôi... Người bưu tá vào. Hắn đã nhìn thấy bà chết. Một tiếng nấc nhỏ. Có thế thôi. Rất nhiều người đã đến chỗ bà trước kia để hỏi tôi. Họ đã đi xa, rất xa trong quên lãng, kiếm cho mình một linh hồn. Người bưu tá ngả mũ kê pi. Tôi đây, nhẽ ra tôi có thể nói ra hết nỗi uất hận của mình. Tôi biết. Tôi sẽ làm điều đó sau nếu họ không trở lại. Tôi thích kể chuyện dông dài hơn. Tôi sẽ kể những chuyện khiến họ phải trở lại từ bốn phương trời cốt để giết tôi. Bấy giờ sẽ kết thúc và tôi sẽ hài lòng. Tại bệnh viện nơi tôi làm việc, thuộc Quỹ từ thiện Linuty, người ta đã hàng nghìn lần tỏ ý khó chịu về những chuyện tôi kể... Ông anh họ Gustin Sabayot của tôi thì rất dứt khoát về điểm này: tôi nên thay đổi thể loại đi. Ông cũng là thầy thuốc, nhưng ở bờ bên kia sông Seine, ở Chapelle-Jonction. Hôm qua, tôi không kịp đến gặp ông. Tôi đã toan bàn với ông đích thị về chuyện bà Bérenge. Nhưng tôi quyết định quá muộn. Cái nghề của chúng tôi, công việc khám bệnh, thật là nhọc nhằn. Chiều đến, ông cũng mệt nhoài. Hầu hết những người đến khám bệnh đều hỏi những câu đến là mệt. Vội mấy cũng chả ăn thua, phải nhắc lại cho họ hàng hai chục lần mọi chi tiết của đơn thuốc. Họ thích khiến cho mình nói đến kiệt sức... Họ sẽ chẳng theo những lời khuyên tốt đẹp, tuyệt đối không. Nhưng họ sợ mình không nhọc công, muốn chắc chắn hơn họ nằng nặc đòi nào ống giác, nào chiếu chụp, nào lấy mẫu xét nghiệm... đòi mình sờ nắn họ từ trên xuống dưới... đo đủ thứ... Huyết áp rồi những con tườu gì nữa... Gustin làm ở Jonction, ông hành nghề đã ba mươi năm... Còn bệnh nhân của tôi, tôi đang nghĩ đến việc một sáng đẹp trời sẽ gửi họ tới La Villette, uống máu nóng. Việc đó sẽ khiến họ mệt nhoài ngay từ rạng đông... Tôi không biết mình phải làm gì để khiến họ chán ngấy. Rốt cuộc, ngày hôm kia, tôi quyết định đến gặp Gustin tại nhà ông. Từ nhà tôi đến chỗ ông, qua sông Seine, mất hai mươi phút. Thời tiết chẳng lấy gì làm đẹp. Mặc dầu vậy, tôi đã quyết. Tôi tự nhủ mình sẽ đi xe buýt. Tôi kết thúc nhanh buổi khám. Tôi chuồn theo hành lang để băng gạc. Một mụ phát hiện thấy tôi liền đeo riết. Mụ ta có cái giọng lè nhè giống tôi. Đó là do mệt mỏi. Ngoài ra còn khàn khàn nữa, đó là do rượu. Lúc này, mụ ta khóc thút thít, mụ ta muốn kéo tôi lại. “Lại đây, Bác sĩ, tôi van ông!... đứa con gái nhỏ của tôi, Alice của tôi!... Ngay phố Rancienne... cách đây vài bước thôi!...” Chẳng có gì buộc tôi phải đến đó. Về nguyên tắc, tôi đã xong buổi khám!... Mụ ta cứ khăng khăng... Chúng tôi đã ra ngoài phố... Tôi đã phát ngấy cái đám người ốm đau... Riêng ngày hôm nay, tôi đã phải vá víu cho ba chục kẻ phiền hà ấy... Tôi chịu hết nổi rồi... Mặc cho họ ho! Mặc cho họ khạc nhổ! Mặc cho họ long xương! Mặc cho họ quấy rầy lẫn nhau! Mặc cho họ bay lên đầy bụng cứt!... Tôi cóc cần!... Nhưng cái mụ khóc lóc ấy cứ túm lấy tôi, mụ nhằng nhẵng bíu cổ tôi, mụ phả nỗi tuyệt vọng của mụ vào tôi, nó sực mùi vang đỏ loại xoàng... Tôi không còn sức để chống lại. Mụ không rời tôi ra nữa. Khi nào tới phố Casses vừa dài vừa tối mò không có ngọn đèn nào, có lẽ tôi sẽ đá mụ ta quắn đít... tôi vẫn còn hèn nhát... Tôi co vòi... Và cái khúc bi thảm ấy lại bắt đầu. “Con gái bé bỏng của tôi!... Tôi van ông đấy, Bác sĩ... Alice bé bỏng của tôi!... Ông biết nó chứ?...” Phố Rancienne đâu có gần... Thế là tôi phải rẽ ngang rồi... Tôi biết con phố ấy. Qua xí nghiệp Dây cáp là đến. Tôi nghe mụ qua một cơn quáng mắt... “Chúng tôi chỉ có 82 phơ răng mỗi tuần mà phải nuôi hai đứa con!... Mà chồng tôi thì rất hung ác với tôi!... Thật xấu hổ, thưa Bác sĩ thân mến!...” Tất cả những cái đó là dối trá, tôi biết tỏng. Nghe hôi mùi thóc mục, mùi đờm dãi... Chúng tôi đến trước căn nhà. Tôi lên nhà. Cuối cùng tôi ngồi xuống... Con bé đeo kính. Tôi tới ngồi cạnh giường nó. Tuy nhiên, nó vẫn chơi với búp bê một lát. Đến lượt mình, tôi cũng làm nó vui. Tôi đây cũng khéo pha trò, khi tôi chú tâm làm thế... Con bé chưa đến nỗi nguy kịch... Nó thở khó nhọc... Hiển nhiên là sung huyết. Tôi làm cho nó cười ngặt nghẽo. Nó sặc. Tôi trấn an mẹ nó. Cái mụ thối thây ấy, trong khi tôi mắc kẹt trong căn hộ của mụ, mụ bèn lợi dụng nhờ tôi khám bệnh cho mụ luôn. Đó là vì những vết đấm đầy hai đùi mụ. Mụ vén váy lên, những vết lằn to tướng, cả những vết bỏng sâu. Đó là do hắn gí que cời lò vào. Đấy gã chồng thất nghiệp của mụ là thế. Tôi cho một lời khuyên... Tôi lấy một sợi dây bày trò đu đưa rất ngộ cho con búp bê xấu xí... Lên lên xuống xuống, đến tận quả đấm cửa... thế còn hơn là nói chuyện. Tôi xem mạch, có nhiều tiếng ran. Nhưng rốt cuộc, đâu đã đến nỗi thập tử nhất sinh... Tôi lại trấn an... Tôi nhắc lại hai lần vẫn những lời đó. Chính cái đó khiến người ta oải... Con bé lúc này đang cười, nó lại sặc. Tôi bắt buộc phải cắt ngang. Nó bị tím tái... Có lẽ hơi bị bạch hầu? Phải xem xem... Lấy máu xét nghiệm? Ngày mai?... Người cha trở về. Với số tiền 82 phơ răng thì chỉ có thể uống rượu táo ở nhà thôi, đừng có mơ đến vang đỏ. “Tôi uống bằng bát. Như thế lợi tiểu,” anh ta thông báo với tôi ngay lập tức. Anh ta tu ừng ực. Anh ta bày cho tôi... chúng tôi chúc mừng nhau là con bé không đến nỗi quá nguy kịch. Tôi thì chỉ mê mẩn con búp bê. Tôi quá mệt rồi không còn sức đâu để bận tâm đến người lớn và những tiên lượng. Người lớn đích thị là cứt! Từ giờ đến mai, tôi sẽ không khám cho một người lớn nào nữa. Người ta có bảo tôi không nghiêm túc, tôi cũng cóc cần. Tôi tiếp tục uống chúc sức khỏe. Cuộc khám bệnh của tôi là miễn phí, hoàn toàn ngoại phụ. Mẹ con bé kéo nèo tôi trở lại cặp đùi của mụ. Tôi cho một lời khuyên cuối cùng. Rồi tôi xuống cầu thang. Trên hè phố, kìa một con chó nhỏ tập tễnh. Nó cả quyết theo tôi. Chiều nay, tất cả đều níu bám lấy tôi. Con chó này là một con fox đen-trắng. Có vẻ như nó bị lạc. Cái cặp vợ chồng thất nghiệp trên gác kia thật bạc bẽo. Thậm chí họ không buồn tiễn tôi. Tôi dám chắc họ lại bắt đầu đánh nhau. Tôi nghe thấy họ la hét. Thì kệ cho hắn cắm ngập cái que cời lò vào lỗ đít mụ! Như thế mới cải tạo được mụ chết tiệt ấy! Cho chừa cái thói quấy rầy tôi! Bây giờ, tôi đi về phía tả ngạn... Tóm lại, hướng tới Colombes. Con chó con vẫn theo tôi. Sau Asnières là Jonction, rồi đến nhà người anh họ của tôi. Nhưng con chó con tập tễnh tợn. Nó trừng trừng nhìn tôi. Tôi ngán phải thấy nó lê lết thế. Xét cho cùng, tốt hơn là tôi nên về thôi. Chúng tôi quay về, qua cầu Bineux rồi men theo dãy nhà máy. Về tới nơi, bộ phận khám chữa bệnh miễn phí vẫn chưa đóng cửa hẳn. Tôi bảo bà Hortense: “Chúng ta sẽ cho chú cún con này ăn. Phải có ai đi kiếm tí thịt. Ngày mai, ngay giờ đầu, ta sẽ gọi dây nói... Hội ‘Bảo súc’ sẽ cho ô tô đến đón nó. Tối nay, ta phải nhốt nó.” Bấy giờ tôi mới yên tâm mà đi. Nhưng đó là một con chó quá nhút nhát. Nó đã ăn quá nhiều đòn đau. Đường phố vốn độc ác. Ngày hôm sau, cửa sổ vừa mở là nó nhảy phốc ra ngoài, không buồn đợi, nó sợ cả chúng tôi. Nó tưởng chúng tôi phạt nó. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó hoàn toàn mất lòng tin. Trường hợp ấy thật là kinh khủng. Gustin biết tôi rất rõ. Khi nào tỉnh táo, không uống rượu, ông là một cố vấn tuyệt vời. Ông là chuyên gia về phong cách trang nhã. Ý kiến của ông đáng tin cậy. Ông không mảy may đố kỵ. Ông chẳng đòi hỏi gì nhiều ở đời nữa. Ông có một chuyện tình buồn từ ngày xưa mà ông không muốn rời xa. Ông rất ít khi nhắc đến chuyện đó. Đó là một người đàn bà chẳng đứng đắn gì. Gustin là một tâm hồn cao thượng. Đến chết ông vẫn không thay đổi. Thi thoảng ông làm vài ly giải sầu... Cái khốn khổ của tôi là giấc ngủ. Giá thường xuyên ngủ tốt thì chắc tôi chẳng bao giờ viết dù chỉ một dòng. “Chú có thể... (đây là ý kiến của Gustin)... đôi khi... chú cũng nên kể những điều dễ chịu... Đâu phải trong cuộc đời bao giờ cũng toàn chuyện bẩn...” Nói vậy cũng đúng, theo một nghĩa nào đó. Trong trường hợp của tôi thì có chút thói tật, chút thiên vị. Bằng chứng là vào thời kỳ cả hai tai tôi ong ong, thậm chí còn dữ hơn bây giờ, lên cơn sốt suốt ngày, tôi lại ít buồn hơn bây giờ... Tôi mơ những giấc mơ rất đẹp. Ma-đam Vitruve, nữ thư ký của tôi, cũng nhận xét thế với tôi. Bà ta biết rõ những nỗi khổ của tôi. Khi người ta hào phóng đến thế, người ta tung hê những kho vàng của mình, người ta để mất hút chúng... Bấy giờ tôi bèn tự bảo: “Cái mụ Vitruve thối thây, chính mụ đã giấu nhẹm chúng đi đâu đó...” Những chuyện thực sự diệu kỳ... những mẩu huyền thoại... đích thị xuất thần. Từ giờ tôi sẽ chuyên tâm viết theo hướng đó... Để cho chắc chắn hơn, tôi lục bới đến tận đáy mớ giấy tờ của mình.... Tôi chẳng tìm lại được gì hết... tôi gọi dây nói cho Delumelle, người giao dịch bài cho tôi; tôi muốn biến hắn thành kẻ thù không đội trời chung... Tôi muốn hắn phải rên lên dưới những lời chửi rủa... Phải chửi cho hắn sợ!... Hắn mo phú! Hắn giàu sụ mà. Hắn trả lời là tôi hãy đi nghỉ đi... Cuối cùng, mụ Vitruve của tôi cũng tới. Tôi nghi ngờ bà ta. Tôi có những lý do rất nghiêm túc. Bà để những giai phẩm của tôi ở đâu? Tôi đột ngột tấn công thẳng thừng. Tôi có ít nhất hàng trăm lý do để nghi ngờ bà ta... Quỹ từ thiện Linuty ở ngay trước quả bóng bằng đồng hun ở Cửa Pereire. Bà ta đến đó trao lại tôi những bản thảo đánh máy, hầu như hằng ngày, sau khi tôi khám bệnh xong. Một tòa nhà nhỏ tạm thời, nay đã san bằng. Tôi chả khoái gì nơi đó. Giờ giấc quá chính quy. Linuty, người sáng lập ra nó, là một đại triệu phú, ông ta muốn mọi người được chữa bệnh và khỏe mạnh hơn mà không mất tiền. Các nhà từ thiện đến là rách việc. Tôi thì tôi ưng một cái bệnh xá nho nhỏ của thành phố hơn... Những vụ tiêm chủng lén lút... móc ngoặc bán giấy chứng nhận sức khỏe... Thậm chí còn có một nhà tắm công cộng... Tóm lại, một kiểu hưu trí. Cầu sao như vậy. Nhưng tôi không phải là Do Thái(1), kiều dân, cũng chẳng phải hội viên Hội Tam Điểm hay dân Normale(2), tôi không biết chứng tỏ giá trị của mình, tôi ngủ bậy tùm lum, tôi chẳng có danh tiếng tốt đẹp gì... Từ mười lăm năm nay, ở Quân khu(3), bọn cặn bã xấu xa nhất nhìn tôi, xem tôi xoay xở, chúng đã tha hồ tự do thoải mái, chúng khinh tôi như mẻ. May mà chưa bị tống khứ. Còn có văn chương bù đắp lại. Tôi không đến nỗi phải phàn nàn. Bà Vitruve đánh máy các tiểu thuyết của tôi. Bà ta gắn bó với tôi. “Này, tôi bảo bà, Mẹ già kia, đây là lần cuối cùng tôi rầy la chị đấy!... Nếu chị không tìm thấy cái truyện Huyền Thoại của tôi, thì có thể coi là phăng teo đấy, là tình bạn của chúng ta chấm dứt ở đây. Chẳng cộng tác tin cậy gì nữa. Hết xìn!... Treo mõm!... Nghỉ ăn luôn!...” Bà ta than vãn rối rít. Cái mụ Vitruve này thật gớm guốc về mọi mặt, cả diện mạo lẫn công việc. Đây quả thật là một nghĩa vụ. Tôi đèo bòng bà ta từ hồi ở Anh. Hậu quả của một lời thề. Đâu phải chúng tôi mới quen nhau từ hôm qua. Chính Angèle, con gái bà ở Luân Đôn đã bắt tôi thề phải luôn luôn giúp đỡ bà trong cuộc sống. Tôi đã lo toan cho bà, tôi có thể nói thế. Tôi đã giữ lời hứa. Đó là lời thề với Angèle. Đó là chuyện từ hồi còn đang chiến tranh. Với lại, tựu trung, bà ấy biết khối chuyện. Thôi được. Về nguyên tắc, bà ta không lắm lời, nhưng bà ta nhớ dai... Angèle, con gái bà: đó là một người chân chất. Thật khó tin là một người mẹ có thể trở nên xấu xa thế. Angèle đã chết thê thảm. Tôi sẽ kể tất cả nếu người ta ép tôi. Angèle có một em gái nữa, Sophie, cô nàng nhu nhược này định cư ở Luân Đôn. Và Mireille cô cháu gái thì ở đây, cô ta có tật xấu của mọi cô gái khác, một kẻ đểu giả, một sản phẩm tổng hợp. Khi tôi chuyển nhà từ Rancy đến Cửa Pereire, cả hai cô đã tháp tùng tôi. Rancy đã thay đổi, bức tường thành và pháo đài lồi đã hầu như không còn gì. Những mảng vỡ đen sì, nứt toác được nhổ khỏi nền đất mềm như những gốc răng sâu còn sót lại. Tất thảy sẽ tiêu cả vào đấy, thành phố tắc lẻm luôn những gờ lợi cũ của mình. Giờ đây chuyến xe buýt “P.Q. bis” lao như bão xuyên qua đống đổ nát. Chẳng bao lâu, khắp nơi sẽ chỉ toàn những nhà chọc trời màu đất nung bị xén cụt một nửa. Để rồi xem. Tôi và Vitruve thường cãi vã suốt về chuyện nghèo khổ. Bà ta bao giờ cũng nhận vơ là mình khổ hơn. Không thể thế. Nếu đếm nếp nhăn thì tất nhiên bà ta nhiều hơn tôi. Thật vô tận những nếp nhăn, những rãnh sâu mà năm tháng tốt đẹp đào trong thịt chúng ta, giờ phô ra như cái trán tường dơ dáy. “Chắc là Mireille đã thu dọn những trang viết của ông!” Tôi đi cùng bà ta, theo bà đến bến kè Minimes. Họ ở chung nhà trọ gọi là khách sạn Méridien, gần nhà máy sô cô la Bitronnelle. Phòng của họ bừa bộn không thể tưởng tượng nổi, giống như chỗ bán tháo đống đồ mua quỵt, đầy những đồ vặt vãnh, chủ yếu là quần áo lót, mau hỏng và rẻ mạt. Ma-đam Vitruve và cô cháu gái cả hai đều là dân “bán hoa”. Họ có ba cái ống thụt âm đạo với thiết bị đầy đủ và một chậu rửa đít bằng cao su. Tất cả để gọn giữa hai cái giường và một bình xịt lớn mà họ chẳng bao giờ biết sử dụng. Tôi không muốn nói xấu Vitruve quá đáng. Có thể bà ta đã chịu nhiều cam khổ trong đời hơn tôi. Chính điều đó luôn luôn khiến tôi tự kiềm chế. Bằng không chắc chắn tôi đã xạc cho bà như tát nước. Bà để chiếc Remington trong đáy lò sưởi, chiếc máy chữ mà bà vẫn chưa trả hết... là bà ta nói thế. Tôi trả công đánh máy cũng chả nhiều nhặn gì, phải thừa nhận là thế... sáu mươi lăm xu một trang, nhưng dù sao xong việc cũng được một món... nhất là với những cuốn dày. Nói về con mắt thì quả tôi chưa từng thấy ai lác hơn mụ Vitruve này. Lác đến độ nhìn mụ mà những đau lòng. Khi bài bạc, chơi tarot chẳng hạn, cái tật lác xệch lác xẹo ấy lại khiến mụ trông ra dáng. Mụ bán những đôi tất lụa cho các cô khách trẻ... bán chịu luôn cả tương lai hậu vận cho họ. Những lúc phân vân, nghĩ ngợi, ánh nhìn của mụ đằng sau đôi mục kỉnh trở nên phiêu du như mắt lũ tôm rồng. Từ khi giở trò bói toán, mụ đâm có ảnh hưởng trong khu vực. Mụ biết tất cả các ông chồng mọc sừng. Mụ chỉ cho tôi thấy họ qua cửa sổ, và thậm chí cả ba tên sát nhân nữa, “tôi có bằng chứng mà!” Ngoài ra, tôi còn cho mụ một cái máy cũ đo huyết áp mác Labry và dạy mụ cách xoa bóp trị chứng tĩnh mạch lưu. Điều đó giúp mụ tăng thu nhập. Tham vọng của mụ là làm những cú nạo thai hoặc thậm chí nhúng vào một cuộc cách mạng đẫm máu để cho khắp nơi người ta đều phải nhắc đến mụ, để tin tức lan truyền trên khắp các mặt báo. Khi thấy mụ lục bới các xó xỉnh cái đống hàng xén của mụ, tôi không sao tả xiết mình kinh tởm mụ biết nhường nào. Trên khắp thế giới, mỗi phút đều có đám căm nhông cán chết những con người tử tế... Cái mẹ Vitruve này tỏa ra một thứ mùi hăng hắc. Phần đông phụ nữ tóc hung đều thế. Tôi nghĩ là họ, những phụ nữ tóc hung ấy, có số phận của đám thú vật, nó thô tục, nó bi thảm, nó ngấm vào da thịt rồi. Tôi những muốn bắn bỏ mụ khi nghe thấy mụ huyên thuyên quá lớn giọng, nói về những kỷ niệm của mụ... Nóng máy như mụ thì khó mà kiếm cho đủ bạn tình. Trừ phi vớ được một gã say. Lại vào giữa lúc đêm đen nữa, còn thì mụ chả có cơ may nào! Về mặt này, tôi thấy thương cho mụ. Tôi thì tiến xa hơn nhiều trên con đường tình. Chuyện này mụ ta cũng không thấy là bất công. Đến ngày tận số... chắc tôi đã tích lũy gần đủ để trả nợ khoản chết... Tôi là kẻ thực lợi Thẩm Mỹ. Cái món mông đàn bà tôi đã tận hưởng những cặp tuyệt mỹ... những cặp phát sáng ngời ngời, tôi phải thú nhận thế. Tôi đã nếm mùi vị của Vô Tận. Mụ không dành dụm được gì, điều đó người ta có thể cảm nhận rõ khỏi phải hỏi chuyện. Muốn có cái ăn và ngoài ra, hưởng thụ tí ti, mụ phải lợi dụng sự bất ngờ hoặc mệt mỏi để bắt bí khách. Thật khác nào địa ngục. Trên nguyên tắc, sau bảy giờ, những người lao động nhỏ đều ai về nhà nấy. Đám phụ nữ rửa bát đĩa, còn cánh đàn ông thì vấn vít với sóng phát thanh. Bấy giờ Vitruve rời bỏ cuốn tiểu thuyết hay ho của tôi để săn đuổi miếng ăn hằng ngày. Từ đầu cầu thang này sang đầu cầu thang khác, mụ bắt khách trong đôi tất hơi sờn và bộ đồ lót chẳng sang trọng gì. Trước thời kỳ khủng hoảng, mụ còn có thể xoay xở được nhờ chế độ mua bán chịu và cái cách mụ làm cho khách kinh ngạc, nhưng bây giờ, cái thứ “hàng” y hệt như thế người ta biếu không cho những gã thua bạc bịp ở chợ phiên. Không còn những điều kiện tranh đua sòng phẳng. Tôi đã cố giải thích cho mụ rằng tất cả những cái đó đều tại bọn Nhật. Mụ không tin tôi... Tôi kết tội mụ thủ tiêu tác phẩm Huyền Thoại tuyệt vời của tôi, có khi vứt nó vào sọt rác cũng nên... - Đó là một kiệt tác! tôi nói thêm. Vậy chắc chắn ta sẽ tìm lại được nó! Mụ cười ngặt nghẽo... Chúng tôi cùng lục lọi trong cái đống chổi cùn rế rách của mụ. Cuối cùng, cô cháu gái cũng đến, rất trễ. Chao, cái hông cô ta! Đích thị một xì căng đan đặt trên bộ mông... Cái váy thì nhăn tít... Để nó giữ chắc được cái phiếu tính tiền. Một chiếc ác coóc đê ông rẻ quạt. Chẳng mất đi tí nào. Cánh thất nghiệp thật vô vọng, ngon mắt gợi dục thế mà chẳng có xu dính túi để mời em đi... Em này đưa thẳng về vòm đây. “Mông ra mông!”... Họ nói thẳng vào mặt cô như vậy. Đầu dãy hành lang, thằng cu con ngỏng lên suông tình chẳng xơ múi gì. Cái lứa choai choai nét thanh tú hơn bọn khác, nghĩ mình ngon lành, những tưởng sẽ được cuộc đời chiều chuộng. Mãi về sau này, xuống dốc, cô mới phải vật lộn... sau bao tai họa... Giờ thì cô hẵng vui chơi đã. Cô cũng không tìm thấy cái giai phẩm Huyền Thoại của tôi. Cô bất cần “Vua Krogold”. Chỉ có tôi là rầu lòng thôi. Trường đời của cô là “Petit panier”, cái vũ trường phía Cửa Brancion, cách ga xe lửa một quãng. Họ không rời mắt khỏi tôi bắt đầu nổi cáu. Trong ý nghĩ của họ tôi là kẻ “khốn cùng”. Không đáng tin cậy, rụt rè, trí thức và đủ các thói tật. Nhưng giờ đây, lạ thay, họ lại sợ tôi bỏ họ. Nếu trước đây tôi bỏ đi, tôi tự hỏi, không biết họ xoay xở ra sao. Tôi tin chắc bà dì đã từng nhiều lần nghĩ đến điều đó. Hễ tôi động nói đến chuyện đi xa đâu đó, họ xun xoe cười nịnh tôi đến ghê cả người... Cô nàng Mireille, ngoài bộ mông kỳ diệu, còn có đôi mắt mơ mộng, hớp hồn, nhưng cái mũi đơ đơ của cô quả là một sự trừng phạt. Lúc nào muốn sỉ nhục cô tí chút, tôi thường bảo: “Mireille này, nói nghiêm chỉnh nhé, mũi em đúng là mũi đàn ông!...” Cô cũng có tài kể những câu chuyện rất lý thú; y như một thủy thủ, cô thích làm thế. Cô đã bịa ra đủ thứ chuyện, mới đầu để mua vui cho tôi, sau rồi lại đâm ra hại tôi. Điểm yếu của tôi là thích nghe chuyện hay. Cô đã quá lạm dụng, thế thôi. Tôi đã dùng bạo lực để chấm dứt quan hệ giữa hai chúng tôi, nhưng quả là cô đáng ăn đòn, thậm chí nếu tôi có quá tay, giết chết cô thì cũng không oan. Rốt cuộc, cô cũng thừa nhận thế. Tôi thật sự rất rộng lượng... Tôi đã trừng phạt cô vì lý do chính đáng... Mọi người đều nói thế... Những người biết chuyện ... Tôi không hề có ý gièm Gustin Sabayot, tuy nhiên tôi có thể nhắc lại rằng ông chẳng hơi đâu mà vò đầu bứt tóc khổ sở để chẩn bệnh. Chuẩn định hướng của ông là trên mây cơ. Ra khỏi nhà mình, thoạt tiên ông ngước nhìn tít trên cao. “Ferdinand này, ông nói với tôi, hôm nay, chắc chắn toàn gặp ca thấp khớp thôi! Chú dám cuộc không?”... Ông đọc tất cả những cái đó trên bầu trời. Không bao giờ ông nhầm quá đáng vì ông thấu triệt thời tiết thiên nhiên và thời khí con người. - A! hết đợt mát mẻ này là đến tiết nóng nực đây! Nhớ đấy! Có thể kê sẵn calomel từ giờ! Bệnh vàng da đã rình rập trong không khí! Gió đã xoay chiều... Từ Bắc sang Tây! Từ Lạnh chuyển sang Mưa rào!... Trong mười lăm ngày liền, sẽ thuần là phế quản! Thậm chí chả bõ ra khỏi giường! Nếu đến phiên tôi phụ trách, tôi sẽ cứ nằm trong giường mà kê đơn!... Thật ra, Ferdinand ạ, khi họ đến phòng khám thì chỉ toàn tán chuyện phiếm!... Đối với những tay khám bệnh ăn tiền thì còn hiểu được... nhưng còn chúng ta đây?... lương ba cọc ba đồng?... Điều ấy có nghĩa lý gì?... Tôi có thể điều trị cho họ mà không cần nhìn thấy họ! Thậm chí ngay tại đây! Họ sẽ chẳng khó thở hơn hay đỡ đi! Họ cũng sẽ chẳng nôn mửa nhiều hơn, họ sẽ không đỡ vàng, không bớt đỏ, không đỡ tái, cũng chẳng đỡ đần độn đi tí nào... Đời là thế mà! Quan điểm của Gustin là thế và ông ta có lý. - Chú tưởng họ bệnh à?... Họ rên rẩm... họ ợ... họ loạng choạng... họ mọc mụn... Chú muốn đuổi hết khỏi phòng chờ của chú ư?... Ngay lập tức? kể cả những người ho sù sụ đến tắc thở?... Hãy mời họ một chầu xem phim!... hay một ly khai vị ở quán bên kia đường!... chú sẽ thấy trong phòng còn lại bao nhiêu mống... Sở dĩ họ đến chú là vì họ buồn chán. Vào hôm trước các cuộc hội hè, chú có thấy ma nào đâu... Hãy nhớ lấy lời tôi, cái đám khốn khổ ấy, cái họ thiếu là sự bận bịu công việc chứ không phải là sức khỏe.... Điều họ muốn là chú làm cho họ khuây khỏa, vui nhộn lên, háo hức với những cú nôn mửa của họ... những phát rắm của họ... những vặn mình răng rắc của họ... họ muốn chú phát hiện ở họ những tương quan... những cơn sốt... những tiếng ùng ục... những chứng bệnh mới!... Muốn chú căng mình ra... chú say mê... Chú đỗ đạt bằng cấp là cốt để làm những trò đó mà... Ôi! vui chơi với cái chết của mình trong khi chính mình tạo ra nó, đó quả là bản cách Con Người, Ferdinand ạ! Họ níu giữ lấy cái mớ lậu, giang mai của họ, tất tật các chứng lao phổi của họ. Họ cần chúng mà! Và cái bọng đái nhầy nhụa của họ, cái ruột già phừng phừng bốc lửa của họ, tất cả những cái đó đều không quan trọng! Nhưng nếu chú chịu khó một chút, nếu chú biết cách làm cho họ say mê, họ sẽ đợi chú để chết, đó là phần thưởng cho chú đấy! Họ sẽ bám riết chú đến cùng. Khi mưa trở lại xiên chếch giữa những ống khói nhà máy điện, ông thông báo tôi: “Ferdinand! đến thời điểm thần kinh tọa đây!... Nếu hôm nay không có mười ca thần kinh tọa, tôi xin trả lại mọi văn bằng cho trưởng khoa!” Nhưng khi mồ hóng tạt trở về trên những lò sô cô la Bitronnelle từ đằng Đông vốn là phía khô ráo nhất, ông chùi một vết nhọ trên mũi mà rằng: “Tôi xin chịu đóng ‘cọc’ lỗ trôn, chú nghe rõ chứ? nếu đêm nay bọn viêm màng phổi không thổ ra máu đông!... Chết tiệt!... Tôi sẽ lại bị đánh thức độ hai chục lần cho mà xem!...” Có những chiều ông hết sức thoải mái. Ông trèo lên chiếc thang đôi ngắn dựng trước cái tủ đồ sộ đựng thuốc mẫu. Và bắt đầu phát không, phát trực tiếp, không chút trịnh trọng. - Bà Đậu Xanh, tim bà thường đập rộn hả? ông hỏi người phụ nữ tiều tụy. - Thưa không ạ!... - Có ợ chua không?... Có bị tháo không?... - Có, một chút ạ... - Vậy hãy cho cái này vào chỗ ấy... khoảng hai lít nước... sẽ rất tốt cho bà!... Còn các khớp thì sao? Đau hả?... Không bị trĩ chứ? Đi ngoài thế nào? Khi ngồi trên xe đạp thì sao?... Đây, thuốc đạn Pepet để nhét vào hậu môn đấy!... Lại cả giun nữa à? Bà thấy tận mắt à?... Này đây hai mươi giọt thần dược... Uống trước lúc đi ngủ nhé!... Ông phô tất cả các ngăn thuốc của mình... Có thuốc cho mọi kiểu rối loạn, mọi tạng, mọi chứng tật... Người có bệnh là tham lam ghê gớm... Một khi bỏ tọt được vào mồm một cái của nợ gì đó là họ không đòi hỏi thêm gì nữa, hả hê đánh bài chuồn, chỉ sợ người ta gọi giật lại. Với cái “võ” ban tặng ấy, tôi đã thấy Gustin rút ngắn xuống tới mười phút những cuộc khám bệnh, mà nếu thực hiện cẩn thận thì phải kéo dài ít nhất là hai tiếng đồng hồ. Nhưng tôi chả cần học gì về cách rút gọn ấy. Tôi đã có ngón riêng của tôi. Điều tôi muốn trò chuyện với ông là về thiên truyện Huyền Thoại của tôi. Chúng tôi đã tìm thấy phần mở đầu ở dưới giường của Mireille. Tôi rất thất vọng khi đọc lại nó. Thời gian qua đi không hề làm cho bản tình ca của tôi thêm đẹp. Sau nhiều năm quên lãng, cái sản phẩm của tưởng tượng ấy chỉ còn là một lễ hội lỗi thời... Chung cuộc, với Gustin, bao giờ tôi cũng có thể chờ đợi một ý kiến phóng khoáng và chân thành. Tôi lập tức đặt ông vào không khí phù hợp. - Gustin này, tôi nói với ông, anh vốn không phải bao giờ cũng bết như hiện nay, mụ mị đi vì hoàn cảnh, vì công việc nghề nghiệp, vì khát thèm rượu, vì những quỵ lụy tệ hại nhất... Liệu anh có thể, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, hồi phục lại hồn thơ?... để cho con tim và củ lẳng của anh phập phồng theo tình tiết của một bản hùng ca, đành rằng có phần bi thảm nhưng cao thượng... lấp lánh!... Anh nghĩ mình có thể làm vậy không?... Gustin vẫn ngồi đó gà gật trên chiếc thang đôi nhỏ, trước cái tủ tường mở toang với những mẫu thuốc... Chẳng nói chẳng rằng... ông ta không muốn ngắt lời tôi... - Đó là truyện về chàng Gwendor-Tuấn-Tú, hoàng tử xứ Christianie, tôi thông báo... Đây, đoạn này... Gã trút hơi thở cuối cùng... cùng lúc tôi nói chuyện với anh đây... Máu trào ra từ hai mươi vết thương... Đạo quân của Gwendor vừa bị thảm bại... Đích thân vua Krogold giữa cuộc hỗn chiến đã phát hiện thấy Gwendor... và chém xẻ đôi người gã... Vua Krogold đâu phải kẻ vô tích sự... Ngài đã tự tay thi hành công lý... Gwendor đã phản bội... Thần Chết ập đến Gwendor và hoàn thành chức trách... Anh nghe thử một chút nhé... “Tiếng ầm vang huyết chiến yếu dần cùng với ánh ngày tàn... Xa xa, khuất dần những Vệ binh của vua Krogold.... Trong bóng tối, dâng lên những tiếng rên của cả đạo quân hấp hối mênh mông... Chiến thắng và chiến bại đều gửi hồn về chín suối... Tĩnh lặng lần lượt bóp nghẹt những tiếng kêu, rên mỗi lúc một yếu, mỗi lúc một thưa thớt... “Bị đè gí dưới đống xác loạn quân, Gwendor-Tuấn-Tú càng mất nhiều máu... Rạng sáng, thần Chết đã ở trước mặt. - Ngươi đã hiểu chưa, Gwendor? - Ta hiểu rồi hỡi thần Chết! Ta đã hiểu ngay từ đầu ngày hôm nay... Ta đã cảm thấy trong tim ta, cả trong cánh tay ta, trong mắt của các bạn ta, thậm chí trong cả bước chân con chiến mã của ta, một thứ bùa mê buồn bã và chậm rãi tương tự như giấc ngủ... Sao chiếu mệnh của ta tắt ngấm giữa đôi tay lạnh giá của ngươi rồi... Tất cả bắt đầu lẩn trốn ta rồi! Ôi thần Chết! Ta rất hối hận! Hổ nhục vô cùng!... Ngươi hãy nhìn những cái xác khốn khổ này!... Cả thiên thu yên lặng cũng không thể làm dịu nông nỗi này!... - Thế gian này làm gì có sự dịu dàng, Gwendor! chỉ có huyền thoại thôi! Tất cả các vương quốc đều kết thúc trong mơ!... - Ôi thần Chết, hãy cho ta chút ít thời gian... một hay hai ngày! Ta muốn tìm ra kẻ nào đã phản ta... - Tất thảy đều phản bội Gwendor... Đam mê không thuộc về ai cả, đặc biệt tình yêu chỉ là đóa hoa đời trong khu vườn của tuổi thanh xuân. Và rất nhẹ nhàng thần Chết đem hoàng tử đi... Chàng không chống cự nữa... Người chàng không còn chút trọng lượng nào... Rồi một giấc mơ đẹp tràn ngập hồn chàng... Giấc mơ thường đến với chàng hồi thơ bé, khi còn nằm trong chiếc nôi da thú trong phòng thái tử, bên cạnh bà nhũ mẫu người xứ Moravia, trong lâu đài của vua René...” Gustin buông thõng tay giữa hai đầu gối. - Thế nào, anh thấy có hay không? tôi hỏi ông. Ông có vẻ hoài nghi. Ông không muốn hồi xuân quá mức. Ông cưỡng lại. Ông muốn tôi giải thích lại tất cả một lần nữa... nguyên nhân tại sao?... Và theo cách như thế nào?... Thật chẳng dễ gì... Mỏng manh như cánh bướm. Chỉ chút xíu sơ sẩy là tan tành và ô uế. Mà được cái gì cơ chứ? Tôi không gặng thêm. Muốn cho tác phẩm Huyền Thoại của tôi được gắn kết mạch lạc, lẽ ra tôi có thể khai thác những con người tinh tế... quen với chuyện tình cảm... thấu hiểu muôn vàn sắc thái cung bậc tình yêu... Song tôi thích xoay xở một mình. Những con người tinh tế thường lại là những kẻ bất lực. Phải lấy roi quất họ, chuyện đó không tha được. Dù sao tôi cũng cứ xin tả cái lâu đài của vua Krogold. “... Một quái vật khổng lồ giữa rừng sâu, một khối kếch sù sừng sững đẽo bằng đá... đầy những ổ nhớp nháp, lô xô những diềm đầu cột và góc chìa... rồi những tháp phòng ngự... Nhìn từ xa, từ phía bờ biển đằng kia... những ngọn cây cao nhất khu rừng nhấp nhô như sóng ập vào đến tận vách ngoài tường thành... “Người cảnh giới trợn tròn mắt vì sợ bị treo cổ... Trên cao... Tít trên cao... Trên đỉnh Morehande, đỉnh Tháp Kho Bạc, lá cờ phần phật trong gió lốc... Cờ mang biểu huy của nhà vua. Một con rắn bị chặt đầu, cổ trào máu! Tai họa cho những tên phản bội! Gwendor trút hơi thở cuối cùng!...” Gustin hết chịu nổi. Ông gà gật... Thậm chí ngủ thật sự. Tôi quay ra đóng tủ thuốc của ông lại. Tôi bảo ông: “Đi nào! Đi dạo chơi bên bờ sông Seine!... Như thế sẽ tốt cho anh...” Ông thì lại thích ngồi yên đấy... Cuối cùng, vì tôi gặng mãi, ông đành phải nghe theo. Tôi đề nghị đến một quán cà phê nhỏ ở mé bên kia Đảo Chó... Tại đó, mặc dù uống cà phê ông vẫn ngủ lại. Quả thật vào quãng bốn giờ, ở những quán như vậy thật dễ chịu, đó là thời điểm mơ màng... Có ba bông hoa giả trong chiếc bình thiếc. Bờ kè vắng tanh. Cả đến lão già say ở quầy bar cũng chấp nhận sự thật là bà chủ quán chẳng buồn nghe mình nữa. Tôi để cho Gustin yên. Chiếc xe moóc sắp tới chắc chắn sẽ đánh thức ông dậy. Con mèo đã rời khỏi mụ già để đến mài vuốt. Bằng vào cái cách Gustin ngửa bàn tay trong khi ngủ, có thể dễ dàng đoán định tương lai của ông. Toàn bộ thân phận một con người hiện rõ trong bàn tay ông. Ở Gustin, nổi rõ nhất là đường đời, còn ở tôi, thì là đường may rủi và đường định mệnh. Đường đời của tôi không thọ lắm... Tôi tự hỏi đến khi nào thì mình đi? Có một cái rãnh nhỏ ở gốc ngón tay cái của tôi... Liệu có phải một tiểu động mạch có thể sẽ vỡ trong não? Ở nếp cuộn trung tâm của não?... Hay trong cái nếp gấp nhỏ của não thất “thứ ba”?... Chúng tôi thường xem xét cái chỗ ấy cùng với Metitpois khi khám nghiệm tử thi ở nhà xác... Một cơn vật chút xíu thôi... Một nứt vỡ nhỏ bằng đầu kim trong mảng não xám... Mà đủ cho hồn chui qua cùng với cả phénol và tất tật. Chao ôi, rốt cuộc có thể là một khối u trực tràng... Tôi thà vỡ tiểu động mạch còn hơn... Xin chúc sức khỏe!... Cùng với Metitpois, một bậc thầy đích thực, chúng tôi đã qua nhiều ngày Chủ nhật cặm cụi lục lọi những đường rãnh đó... để tìm hiểu các cách người ta chết... Điều đó làm cho ông lão ấy say mê... Ông muốn biết chắc. Riêng phần mình, ông hết lòng ao ước rằng cả hai tâm thất đều ngập tràn đầy đặn khi đồng hồ của ông điểm giờ tận số... Lòng ông chất chứa danh dự!... “Hãy nhớ lấy điều này Ferdinand, những cái chết tuyệt vời nhất là những cái chết thộp trúng mạng của chúng ta ở những mô nhạy cảm nhất...” Metitpois ăn nói cầu kỳ, tỉa tót, tinh tế như những người vào thời Charcot(4). Việc khảo sát nếp cuộn trung tâm não, “não thất thứ ba” và hạt nhân xám đã chẳng giúp gì nhiều cho ông... Cuối cùng, ông chết vì bệnh tim trong những điều kiện chẳng hay ho gì... một cú đau thắt ngực vùng cận tim, một cơn kéo dài hai mươi phút. Ông đã cầm cự tốt một trăm hai mươi giây với tất cả những kỷ niệm hoài cổ của mình, những quyết tâm, gương sáng của César... nhưng trong mười tám phút ông đã rống lên như một con chồn... Rứt bỏ cơ hoành, tất cả ruột sống của ông ra... Cả ngàn vạn lưỡi dao cạo mở cứa vào động mạch chủ... Ông cố mửa chúng ra trước mặt chúng tôi... Tôi không nói quá đâu. Ông trườn vào phòng khách... Tự đấm đến vỡ ngực... Gầm lên lăn lộn trong tấm thảm... Mặc dù đã được tiêm moóc phin giảm đau... Kêu váng cả mấy tầng gác cho đến tận trước cửa nhà... Ông tắt thở bên dưới chiếc dương cầm. Khi những tiểu động mạch cơ tim vỡ từng cái một, thật là cả cây đàn hạc dị thường... Khốn thay, chẳng ai bị đau thắt ngực vùng cận tim như thế mà qua khỏi được. Dẫu có thừa thông tuệ và thiên tài. Phải ngừng suy tư thôi, sắp đến giờ điều trị các bệnh nhân da liễu rồi. Việc này diễn ra tại bệnh xá Pourneuve ở bờ bên kia sông Garenne. Cả hai chúng tôi cùng làm việc ở đó. Đúng như tôi đã tiên liệu, một chiếc tàu kéo đã rú còi. Đến lúc phải đi rồi. Xét về tổ chức, bệnh xá hoa liễu thật tài tình. Những bệnh nhân lậu và giang mai trong lúc đợi tiêm làm quen với nhau. Thoạt đầu còn ngượng nghịu, sau dần trở nên thích thú. Mùa đông, trời vừa tối là họ vội vàng đi gặp nhau ở đầu phố, gần lò sát sinh. Loại bệnh nhân này bao giờ cũng rất hối hả, họ sợ sẽ không cương cứng trở lại với người nhà được nữa. Mẹ Vitruve nhà ta khi đến gặp tôi đã phát hiện ra điều ấy... Bọn trai trẻ chíp hôi lần đầu mắc bệnh lậu, chúng ủ rũ, chuyện đó làm chúng buồn nẫu. Mẹ ấy đến đợi ở chỗ cửa ra... Mẹ ấy đánh bài tình cảm với chúng... ân cần đến mủi lòng... “Đau rát lắm hả chú em?... Chị biết nó như thế nào... Chị đây đã từng chữa trị nhiều trường hợp như vậy... Chị biết một loại thuốc lá kỳ diệu... về nhà chị, chị sẽ sắc cho em một nước...” Vài ba tách cà phê kem nữa là thằng bé nghe răm rắp. Có lần vào buổi tối, xảy ra một vụ xì căng đan: một gã châu Phi nứng như ngựa dái giở trò lắp đít một thằng nhỏ làm công cho hiệu bánh ngọt ở ngay bờ tường gần chòi gác. Lão gác cổng đã quen nhìn trộm những cảnh như vậy, thoạt đầu lão lắng nghe tất cả, những tiếng thì thầm, rên rỉ thút thít, rồi chuyển sang gào rú... Thằng nhỏ quằn quại giãy giụa, phải bốn người mới kìm giữ được... Thế mà nó vẫn vùng ra được, chạy vào phòng người gác tìm sự che chở. Lão bèn đóng chặt cửa lại. “Nó đã tự sát! Thật đấy!” bình luận chuyện này, Vitruve cả quyết thế. “Chính mắt tôi nhìn thấy lão gác qua cửa chớp! Cả hai đều đạt cực khoái mà! Thằng lớn thằng bé đều cùng một giuộc cả!...” Mụ không tin chuyện tình cảm. Mụ cứ hạ bộ mà xét và xét thế là chính xác. Đến bệnh xá Pourneuve, phải đi xe buýt. “Chú hãy còn những năm phút!” Gustin bảo tôi. Ông chẳng vội gì. Chúng tôi ngồi đúng ở trạm trú xe ngay trước dốc lên cầu. Chính ở kè sông này, tại số nhà 18, cha mẹ tôi đã làm ăn lụn bại vào mùa đông năm 1892, giờ đã thành chuyện ngày xưa. Cha mẹ tôi có một cửa hàng “Thời trang, hoa và lông chim”. Tất cả hàng mẫu thời trang chỉ có ba cái mũ trong một tủ kính duy nhất, theo như người ta thường kể với tôi. Năm ấy, mặt sông Seine đóng băng. Tôi sinh vào tháng Năm. Chính tôi là mùa xuân. Định mệnh hay không cũng vậy thôi, người ta thấy ớn cái nỗi cứ phải già đi, phải thấy mọi thứ thay đổi trong cuộc sống quanh mình - nhà cửa, các con số, xe điện, kiểu tóc. Áo váy ngắn, mũ xẻ rãnh, bánh mì khô, tàu thủy chạy bánh xe, tương lai thuộc về hàng không, cũng thế cả thôi! Chỉ tổ làm ta hao phí thiện cảm. Tôi chẳng muốn thay đổi nữa. Tôi có khối điều đáng phàn nàn đấy, nhưng tôi đã gắn bó cả đời với chúng rồi, tôi đáng ngán thật đấy, nhưng sông Seine thối mục bao nhiêu thì tôi tự tôn thờ mình chừng nấy. Kẻ nào thay đổi cây đèn đường khoằm khoằm ở góc nhà số 12 ắt sẽ làm tôi buồn phiền lắm. Đã đành con người là nhất thời, nhưng chúng ta thời-hóa chừng nấy đã quá đủ rồi. Này đây đám xuồng máy... Giờ đây mỗi chiếc đều có một trái tim. Nó đập ầm ầm hết cỡ, cáu kỉnh trong âm vang tối đen của những vòm cuốn. Đủ rồi. Tôi rã rời. Tôi không kêu ca phàn nàn nữa. Nhưng thôi tôi không nên lo âu thêm làm gì. Nếu thế sự cuốn ta đi theo, dù nó có tồi tệ đến đâu, ta cũng sẽ chết vì thơ. Theo một nghĩa nào đó, như vậy cũng tiện, về những cám dỗ và quyến rũ nhỏ nhoi, Gustin cũng đồng ý với tôi, có điều ông tìm quên lãng trong hơi men. Tốt thôi... Trong bộ ria kiểu Gaule của ông, bao giờ cũng sót lại tí bia rượu và tiếc nuối... Ở bệnh xá hoa liễu, chúng tôi thường tuần tự đánh dấu bằng những nét sổ thẳng trên một tờ giấy lớn... Thế là đủ. Một vạch đỏ: Novars... Xanh: Thủy ngân!... Và cứ thế! Phần còn lại cứ theo thông lệ... đâu vào đấy... Chỉ còn việc tiêm thuốc vào mông, vào khoeo tay bệnh nhân.... Chọc hoài như thuốn vào bơ vậy... Xanh!... Cánh tay!... Vàng!... Mông!... Đỏ!... Cả hai mông!... Thủ thuật mở đít! Mông, lại mông nữa! Bismuth! Khốn kiếp! Xanh lơ!... “Ven” hở! Thối nát! Kéo quần lên!... Nút gạc!... Một nhịp đều đặn không suy giảm. Hết loạt này đến loạt khác... Những sợi nối tiếp không dứt... Chim mềm oặt! Nhũn nhùn! Nhỏ giọt tòng tỏng! Ri rỉ! Mưng mủ! Vải hồ bột cứng như các tông! Lậu! bước đi khuềnh khoàng! Nữ hoàng thế giới! Đít là ngai vàng! Sưởi nóng cả mùa hè cũng như mùa đông!... Bọn khốn khổ ấy lúc tỉnh táo cũng cảnh giác! Nhưng rồi lại bắt đầu truyền cho nhau hàng ngàn mánh để hành lạc dữ hơn! Nhiều hơn!... Miễn sao Julienne không hay biết gì... Không quay về nữa... Nói dối chúng tôi! Rú lên vui sướng... Niệu đạo đầy, kim! Chim nứt đôi! Miệng ngậm cu! Thẳng tiến cái hĩm! Đây là “hồ sơ bệnh án số 34”, cái gã công chức nhỏ thó đeo kính đen nhút nhát mà tinh ranh, cứ sáu tháng một lần, hắn đến khu Cour d’Amsterdam tự chuốc lấy bệnh lậu một cách có chủ định để chuộc tội bằng cái củ lẳng... hắn đái những lưỡi dao cạo của hắn vào những ả đần độn phát hiện trên mục rao vặt... Đó là cách cầu nguyện của hắn, hắn nói thế... “Số 34” là một con vi trùng khổng lồ! hắn viết thế trong toa lét của chúng tôi!: “Ta là nỗi kinh hoàng của những cái hĩm... Ta đã đụ chị gái ta... Ta đã mười hai lần hứa hôn!” Đó là một khách hàng rất đúng giờ, trầm lặng, không khó tính và bao giờ cũng sung sướng được trở lại. Đó là cần câu cơm của chúng tôi, dù sao cũng đỡ vất vả hơn là làm phu đường sắt. Khi tới bệnh xá Pourneuve, Gustin bảo tôi thế này: “Ferdinand này, lúc nãy... khi tôi đang ngủ lơ mơ, có phải... mà đừng có chối nhé... chú đã xem chỉ tay tôi, phải không?... Vậy thì chú đã thấy những gì?” Tôi thừa biết điều gì làm ông lo ngại, đó là lá gan của ông, từ lâu rồi, cái bờ vành nhạy cảm, rồi những cơn ác mộng gớm ghiếc nữa... Chính ông gây bệnh xơ gan cho mình... Buổi sáng, tôi thường nghe thấy ông nôn mửa ở bồn rửa... Tôi đã trấn an ông, khiến ông lo thì ích gì. Đằng nào cũng đã bệnh rồi. Cái chính là ông phải giữ được việc làm. Ở bệnh viện Jonction, ông đã kiếm được một chỗ làm trong Phòng Làm Phúc gần như ngay sau khi tốt nghiệp. Đó là nhờ một vụ phá thai - rành là thế - cho cô bồ của một vị cố vấn của thành phố hồi ấy, một người rất bảo thủ... Gustin, bấy giờ nghèo xác xơ, vừa mới chân ướt chân ráo đến ở cạnh nhà vị đó. Công việc tiến hành suôn sẻ, hồi ấy ông còn chưa run tay. Lần tiếp theo là vợ ngài thị trưởng. Lại là một thành công!... Để tỏ lòng tri ân, người ta phong cho ông là thầy thuốc của người nghèo. Thoạt đầu, trong chức năng của mình, ông rất được lòng mọi người. Thế rồi đến một lúc nào đó, người ta không ưa ông nữa... Họ bắt đầu ngán cái mặt và cung cách của ông. Họ không ngửi được ông nữa. Thế là họ giở đủ mọi cách, thi nhau làm tình làm tội ông. Họ giễu cợt ông, kết tội ông đủ thứ, nào là dây dưa vào những phi vụ bẩn thỉu, nào là nhầm liều lượng, nào là không phân biệt được các loại độc dược... Nào là miệng hôi quá... Nào là đi giày cài khuy... Khi họ đã hành ông chán chê đến nỗi ông xấu hổ không dám ra khỏi nhà, khi họ đã năm lần bảy lượt đe tống khứ ông đi gọn ghẽ như đánh một phát rắm, họ lại thay đổi cách nhìn, họ lại bắt đầu miễn thứ cho ông chẳng vì lý do gì mới, mà chỉ bởi cứ rẻ rúng ông mãi thì cũng mệt... Tất cả những dơ bẩn, ghen ghét, bực tức của cả một quận đã in dấu trên mặt ông. Ông đã nếm đủ cái hằn học cay độc của đám bồi bút ở chính bệnh viện này. Cái cảm giác đắng nghét khi tỉnh dậy sau một cơn say của 14.000 người nghiện rượu trong quận, những đờm nhớt, tắc bí khốn khổ của 6.422 “ca” bệnh lậu mà ông không sao trị nổi, những trỗi dậy đột ngột của buồng trứng ở 4.376 phụ nữ đã mãn kinh, những lo sợ căn vặn của 2.266 người bị cao huyết áp, sự khinh bỉ không thể dung hòa của 722 “ca” đau đầu do mật, mặc cảm bị hành hạ của 47 người có sán, cộng với 352 bà mẹ của những đứa trẻ có giun, và cả bầy lộn nhộn, đông đảo những kẻ thống dâm đủ mọi tật. Bọn mắc chứng eczema, albumin, tiểu đường, hôi miệng, run rẩy tay chân, viêm âm đạo, bọn vô dụng, bọn “quá mức”, bọn “chưa đủ”, bọn táo bón, bọn đĩ đực ăn năn hối lỗi, tất tật cái đống bùn nhơ, cái thế giới đang chuyển hóa thành lũ sát nhân ấy đã ập tới mặt ông, ào ào trước đôi mục kỉnh của ông từ ba mươi năm nay, sáng trưa chiều tối. Tại bệnh viện Jonction, ông ở rất cực, ngay trên phòng điện quang. Căn hộ ba gian của ông tại đó là một kiến trúc bằng đá đẽo không có vách ngăn như bây giờ. Muốn chống chọi lại cuộc đời, phải có những con đê cao hơn ở Panama gấp mười lần và những cửa cống nhỏ vô hình. Ông đã ở đó từ cuộc triển lãm, cuộc Đại Triển Lãm, từ những ngày tươi đẹp của Argenteuil. Bây giờ thì đã có những building lớn khắp bốn chung quanh bệnh viện. Thi thoảng, Gustin vẫn còn tìm cách tiêu khiển tí ti... Ông đưa một em xinh xinh lên phòng, nhưng chỉ năm thì mười họa thôi. Hễ nảy sinh tình cảm thì nỗi buồn lớn của ông lại trở lại. Sau lần gặp gỡ thứ ba... Ông thích uống rượu hơn... Bên kia đường, có một quán rượu: mặt tiền màu xanh lam, Chủ nhật có nhạc công chơi banjo, nhậu khoai tây rán thật tiện, cô hầu gái ở đây làm món này không ai bằng. Rượu làm cháy ruột Gustin, tôi thì thậm chí chẳng dám thử từ khi bị chứng ù tai suốt ngày suốt đêm. Nó làm tôi mệt đừ, mặt mũi phờ phạc như bị dịch hạch. Đôi lần, Gustin xem mạch cho tôi. Ông không nói cho tôi biết ông nghĩ thế nào. Đó là nơi duy nhất chúng tôi kín miệng. Phải nói rằng tôi cũng có điều phiền muộn. Ông biết trường hợp của tôi, ông cố động viên tôi: “Nào Ferdinand, đọc cho tôi nghe đi, tôi lắng nghe cái của nợ của chú đây! nhưng đừng có đọc nhanh quá! Đừng có khoa tay. Như thế mệt chú mà tôi thì đâm chóng mặt...” “Sau trận đánh, đức vua Krogold, các hiệp sĩ của ngài, đám thị đồng, đức tổng giám mục anh trai ngài, giáo đoàn của trại, toàn thể triều đình đến gieo mình dưới lều bạt giữa nơi đóng quân ngoài trời. Vành trăng lưỡi liềm bằng vàng nặng trịch, tặng vật của vua Thổ, chẳng tìm thấy đâu vào lúc nghỉ... Nó tô điểm cho ngai vua. Viên đại úy chịu trách nhiệm bảo quản nó đã bị đánh thừa sống thiếu chết. Đức vua nằm xuống, định ngủ... Những vết thương vẫn còn làm ngài đau. Ngài không ngủ được. Giấc ngủ không chịu đến... Ngài rủa những kẻ ngáy to. Ngài trở dậy. Ngài bước qua bọn họ, giẫm lên những bàn tay, đi ra... Ngoài trời lạnh đến nỗi toàn thân ngài cứng đơ. Ngài tập tễnh nhưng cứ bước tiếp. Đoàn xe dài dặc bao quanh trại. Bọn lính gác ngủ gục. Krogold đi dọc theo hào phòng thủ... Ngài lẩm bẩm một mình, vấp loạng choạng, kịp lấy lại thăng bằng. Có cái gì lấp lánh dưới đáy hào, một lưỡi dao lớn rung rung... Một người dưới đó ôm cái vật lấp lánh nọ trong tay. Krogold nhào tới, quật ngã người này, trói hắn lại, đó là một tên lính, ngài đâm vào cổ hắn bằng lưỡi dao ngắn của chính mình như chọc tiết lợn. ‘Ộc! Ộc!’ tiếng phát ra từ cái lỗ nơi cổ họng tên kẻ trộm. Hắn buông tất cả. Thế là hết. Đức vua cúi xuống, nhặt vành trăng lưỡi liềm của vua Thổ lên. Ngài leo trở lên bờ hào. Ngài ngủ luôn tại đó trong màn sương... Tên trộm đã bị trừng trị đích đáng.” Vào quãng thời gian ấy, xảy ra khủng hoảng, suýt nữa tôi bị văng khỏi bệnh xá. Lại vì những chuyện ngồi lê đôi mách. Chính Lucie Keriben, chủ một tiệm bán mũ thời trang ở đại lộ Moncontour, đã cảnh báo cho tôi biết. Rất nhiều người đến chỗ mụ. Buôn dưa lê không dứt. Mụ kể lại cho tôi nghe những chuyện thật ác khẩu. Độc địa đến mức ấy thì chỉ có thể là con ranh Mireille... Tôi đã không lầm... Cố nhiên đó hoàn toàn là vu khống. Nó nói là tôi tổ chức giao hoan với các khách hàng nữ trong khu phố. Toàn chuyện gớm ghiếc... Lucie Keriben mở cờ trong bụng thấy tôi dính chuyện tai tiếng... Mụ ghen tức mà. Thế là tôi bèn nấp trong hẻm cụt Viviane chờ Mireille về nhà, nó tất phải qua đó. Tôi chưa kiếm được đủ tiền để chuyển hẳn sang viết văn chuyên nghiệp... Tôi có thể lại rơi vào cảnh bần hàn cơ cực. Tôi cảm thấy chẳng dễ chịu chút nào. Tôi trông thấy Mireille đi tới... nó qua trước mặt. Tôi cho nó một cú song phi vào mông, khiến nó bắn khỏi vỉa hè. Nó hiểu ngay tôi muốn gì, nhưng chẳng nói chẳng rằng. Nó đợi gặp dì nó trước đã. Con khốn không muốn thú nhận. Không một lời. Cái cách phao tin đồn nhảm như vậy, mục đích là làm cho tôi lo sợ... Thế nên ngày hôm sau tôi vội vàng làm cho họ thỏa mãn. Thô bạo chả ích gì. Nhất là với Mireille, làm thế chỉ tổ khiến nó hiểm ác hơn. Nó đang muốn lấy chồng mà. Lấy tôi hay bất kỳ ai cũng được. Nó chán ngấy xí nghiệp với nhà máy rồi. Mới mười sáu tuổi, nó đã làm thuê ở bảy nhà máy trong vùng ngoại ô phía Tây rồi. “Đủ rồi” nó tuyên bố. Ở xưởng bánh kẹo Anh “Happy Suce”, nó đã bắt gặp lão giám đốc đang vạch quần cho một thợ học việc thổi kèn. Chao! hay hớm gì cái nhà máy! Trong sáu tháng liền, nó đã quẳng tất cả chuột chết vào nồi nấu kẹo hạnh. Ở xí nghiệp Saint- Ouen, một nữ đốc công đã cặp với nó, mụ ta quần nó trong toa lét. Họ đã cùng nhau bỏ việc. Tư bản và những quy luật của nó, những thứ ấy Mireille hiểu... Từ hồi còn chưa có kinh nguyệt. Ở trại trẻ mồ côi ở Marty-sur-Oise, có thủ dâm, có không khí trong lành và có những diễn từ hay đẹp. Mireille đã phát triển tốt. Vào ngày Nghĩa binh(5) hằng năm, Mireille làm vinh dự cho hội bảo trợ, chính nó phất cao hình Lénine trên đầu một ngọn sào, suốt từ Courtine đến nghĩa trang Père-Lachaise. Bọn cớm sững sờ khi thấy nó ngổ ngáo đến thế! Với đôi chân hớp hồn, nó khiến cả phố rống lên hát “Quốc tế ca”! Bọn láu cá vặt ở tiệm nhảy Mireille thường lui tới đâu biết mình có trong tay cái gì. Ở tuổi vị thành niên, nó đã biết gờm bọn “tệ nạn”(6). Một hồi nó bám theo Robert, Gégène và Gaston. Nhưng bọn này tính những chuyện thật sự tai họa. Nó ắt làm chúng đi tong. Với Vitruve và cháu gái mụ, tôi phải đề phòng họ có thể gây ra rất lắm chuyện, nhất là Vitruve, mụ biết quá nhiều về tôi để có thể, một ngày nào đó, không từ việc sử dụng điều đó chống lại tôi. Tôi dùng tiền để giảm thiểu nguy cơ đó, nhưng con ranh muốn nhiều hơn, nó muốn tất cả. Nếu tôi giở “chiêu” dịu dàng âu yếm, thì sẽ rất đáng ngờ. Mình sẽ đưa cô ả vào Rừng(7), tôi tự nhủ. Cô ả hậm hực với mình, có nghĩa là vẫn quan tâm đến mình. Mình đã có kế hoạch, đến Rừng, mình sẽ kể cho cô ả nghe một câu chuyện đẹp đẽ, mình sẽ phỉnh nịnh sự phù phiếm của cô ả. “Hãy xin phép dì em, tôi bảo cô ả... Em sẽ về trước lúc nửa đêm... Đợi anh ở tiệm cà phê Byzance!” Thế là cả hai chúng tôi ra khỏi nhà. Từ cửa ô Dauphine trở đi, cô ả đã cảm thấy hài lòng hơn. Cô ả rất thích những khu phố đẹp. Ở khách sạn Méridien, nỗi kinh hoàng của cô ả là lũ rệp. Khi nào kiếm được một gã điển trai và phải cởi áo ra, cô ả rất xấu hổ về những nốt mẩn trên người. Tất cả đều biết đó là những chỗ rộp do rệp cắn... Tất cả đều biết những chất lỏng và những chất tẩy uế thường dùng... Ước mơ của Mireille là một căn phòng không có rệp... Nếu bây giờ cô ả chuồn, mụ dì ắt sẽ nhờ người lôi cổ về bằng được. Mụ trông cậy vào ả để kiếm ăn, nhưng tôi biết còn có một tên ma cô cũng manh tâm như vậy, thằng cha Bébert ở Val-de-Grâce. Chung cuộc, hắn đã sa vào “tuyết(8)”. Hắn thường đọc báo Voyage. Khi đến gần Thác Nước, tôi bắt đầu dốc bầu tâm sự. “Anh biết có một cha nhân viên bưu điện chịu đòn em hết sẩy...” Cô ả lúc này thích mê vì có dịp để điệu đàng và thổ lộ. Cô ả kể với tôi mọi chuyện. Nhưng đến khu Catelan thì cô ả không dám tiến lên nữa, bóng tối làm ả sợ. Cô ả tưởng tôi kéo cô vào Rừng để trị tội. Cô ả thọc tay vào tận đáy túi tôi để xem tôi có mang theo súng không. Tôi chẳng mang cái gì cả. Cô ả nắn của quý của tôi. Vì ô tô qua lại nhiều, tôi đề nghị vào trong Đảo để chuyện trò cho thoải mái hơn. Cô ả đúng là gái đĩ, mãi chưa đã và sự nguy hiểm làm ả say mê. Bọn trẻ chèo thuyền ven hồ lúng túng, mắc vào những cành cây, chửi thề, ngã lộn nhào, phá hỏng những chiếc đèn xếp nhỏ xinh. - Anh có nghe thấy lũ vịt sặc sụa trong vũng nước đái không? - Mireille! tôi nói khi chúng tôi đã yên vị. Anh biết tỏng là em nói dối thành thần... em bất chấp sự thật. - Em à, cô ả đáp, nếu em nhắc lại dù chỉ một phần tư những gì em nghe thấy!... - Thôi được! tôi ngắt lời... Anh rất khoan dung với em và thậm chí rất yếu đuối nữa. Đó không phải vì thân thể em... cũng không phải vì gương mặt với cái mũi của em... Mà chính cái đầu óc tưởng tượng của em đã giữ anh lại với em... Anh là tên hiếu kỳ mà! Em thì chỉ kể cho anh rặt điều dơ dáy... Còn anh sẽ cho em biết một huyền thoại đẹp... Nếu em muốn, ta sẽ hợp đồng?... chia đôi nhé? em sẽ vớ bẫm!... Nói đến tiền là cô ả thích mê... Tôi kể cho cô ả nghe đầu đuôi sự việc. Tôi cam đoan với cô ả là sẽ có các nàng công chúa ở khắp nơi và cơ man nhung lụa chính hiệu... những đồ thêu hai lớp... lông thú và đồ trang sức ê hề... vượt sức tưởng tượng. Chúng tôi đã nhất trí hoàn toàn về mọi sự, về trang trí và thậm chí cả trang phục. Và rồi cuối cùng, khi câu chuyện của chúng tôi bắt đầu: “Chúng tôi đến Bredonnes vùng Vendée... Đó là thời điểm khởi cuộc đua tài... “Thành phố chuẩn bị đón khách... Đây những chàng trai diêm dúa... Đây những đô vật trần như nhộng... bọn làm hề rong... Chiếc xe của họ đi qua... rẽ đám đông... này những chiếc bánh kếp đang rán xèo xèo... Một tốp ba chàng hiệp sĩ mặc áo giáp nạm bạc... tất cả đến từ rất xa, từ miền Nam... miền Bắc... lao vào những thách thức can trường... “Đây Thibaud-Độc-Ác, gã du ca, gã lần theo con đường mòn kéo thuyền tới cửa ngõ thành phố từ lúc tinh mơ. Gã mệt phờ... Gã đến Bredonnes kiếm chỗ nương thân và ẩn náu... Gã đến truy tìm Joad, tên con trai xảo trá của quan biện lý để nhắc nhở hắn về câu chuyện xấu xa - vụ ám sát một cung thủ ở Paris gần cầu Pont au Change, hồi họ còn là sinh viên... “Thibaud đến gần... Ở bến phà Sainte-Geneviève, gã dứt khoát không chịu trả tiền phà.... Gã quại nhau với người lái phà... Các tay cung chạy đến... quật ngã rồi kéo gã đi... Này đây gã bị trói gô, quần áo rách tả tơi, sùi bọt mép, người ta lôi gã đến trước ông biện lý. Gã giãy giụa, gầm lên với ông ta câu chuyện xấu xa ấy...” Mireille khoái cái giọng điệu này. Cô ả muốn nghe nữa. Đã lâu lắm, chúng tôi không cảm thông với nhau đến thế. Cuối cùng, cũng đến lúc phải ra về. Trên những lối đi vườn Bagatelle, chỉ còn mấy cặp nán lại. Mireille hoàn toàn nguôi dịu. Cô ả muốn chúng ta bắt quả tang họ. Chúng tôi bỏ dở câu chuyện Huyền Thoại đẹp của tôi để quay sang tranh luận như điên về vấn đề: phải chăng điều mong muốn lớn nhất của phụ nữ là ăn ở với nhau?... Chẳng hạn, liệu Mireille có muốn lẹo các bạn gái mình tí ti không?... ngó ngoáy lỗ trôn nhau, nếu cần?... nhất là những cô nàng bé nhỏ mảnh mai, những con nai đích thực?... Mireille thì nở nang... hông lực sĩ... mông ác chiến... - Còn cái khoản chim đểu(9) nữa chứ! cô ả nhắc tôi. Nhưng chính vì thế mà người ta nhìn tụi này! Ghé sát mắt mà nhìn khi bọn này hú hí! Để xem bọn nó có mọc ra một con cu không!... Cho bọn nó xé nát nhau! Cho bọn nó giằng giật nhau tơi bời kỳ trận! Và tóe máu vung vãi khắp bốn chung quanh! Cho bọn nó xổ ra tất cả những thứ thối tha!... Cô em Mireille của tôi hiểu tuốt! Cô ả tận hưởng tối đa tiết mục của tôi... Độp một cái, tôi cảnh cáo cô ả: “về Rancy, nếu em nhắc lại chuyện này... tôi sẽ tọng giày của chính em vào miệng em đó!...” Và tôi túm lấy cô ả bên dưới ngọn đèn đường.... Cô ả đã tỏ vẻ đắc thắng ra mặt. Tôi cảm thấy cô ả sắp lu loa khắp nơi khắp chốn rằng tôi cư xử như một con ma cà rồng!... Ở ngay trong rừng Boulogne! Thế là tôi nổi giận đến ngạt thở.... Nghĩ mà điên, một lần nữa tôi lại cù lần! Tôi tát cô ả một cái nảy đom đóm mắt... Cô ả cười gằn. Cô ả thách thức tôi. Từ các lùm cây rậm rạp, từ các khóm cây nhỏ, từ khắp chỗ, người ta đổ xô ra xem chúng tôi, tốp hai, tốp bốn, thậm chí từng đoàn từng lũ. Đàn ông tất cả đều nắm củ ngỏng trong tay, đàn bà váy tốc lên cả đằng trước lẫn đằng sau. Có những ả táo tợn, có những ả buông tuồng, cũng có những ả thận trọng hơn... “Làm tới đi, Ferdinand!” tất cả động viên tôi. Tiếng ầm ĩ vang lên từ các lùm cây. “Nện cho con nhỏ tơi bời đi! Cho nó lòi kèn ra!” Nghe họ khích, tôi càng trở nên thô bạo. Mireille bắt đầu vừa chạy vừa kêu the thé. Tôi bèn đuổi theo, mệt long cả xương. Tôi đá mấy cú trời giáng vào mông ả. Nghe bịch bịch. Bọn trác táng bên Ranelagh(10)- vẫn còn tới hàng mấy trăm - đổ xô tới trước, tụ tập từng nhóm củ ngẳng, nhốn nha nhốn nháo tít đằng sau. Tràn ngập các bãi cỏ, hàng nghìn người trên lối đi lớn. Từ trong tận cùng đêm, không ngừng có những người khác đổ đến... Tất cả áo váy đều tả tơi... vú vê thỗn thện, tướp mướp... những cậu chíp hôi không cả quần lót... Họ xô nhau ngã ngửa, giẫm lên nhau, tung hê nhau lên trời... có những người còn lủng lẳng trên cây... bên những chiếc ghế tan tành... Một mụ già, một mụ người Anh trong chiếc xe hơi nhỏ thò đầu ra, vươn đến long cổ, thậm chí cản trở cả tôi... Tôi chưa bao giờ thấy đôi mắt nào sung sướng như thế... “Hoan hô! Hơ-ra! Híp híp hơ-ra! Chàng trai tuyệt vời!” mụ sốt sắng gào lên... “Hơ-ra! Đánh vỡ cái bè he nó ra! Tung nó lên tận trời sao! Đánh cho nó phọt cái vĩnh cửu ra! Khoa học Thiên Chúa giáo muôn năm!” Tôi càng hối hả hơn. Tôi chạy nhanh hơn chiếc xe của mụ. Tôi dốc hết mình vào nhiệm vụ, mồ hôi ròng ròng! Vừa lao lên tấn công, tôi vừa nghĩ đến chỗ làm của mình... Chắc chắn tôi sẽ mất việc thôi. Nghĩ vậy mà tôi lạnh cả người: “Mireille! Hãy rủ lòng thương! Anh tôn thờ em mà! Em có chờ anh không nào, đồ rác rưởi? Liệu em có tin anh không?” Đến Khải Hoàn Môn, tất cả đám đông vào cuộc quay cuồng. Cả bầy cả lũ đuổi theo Mireille. Đã có đầy người chết khắp chỗ. Những kẻ khác giằng xé dương vật nhau. Mụ già người Anh giơ thẳng tay vác chiếc ô tô trên đầu! Hơ-ra! Hơ-ra! Mụ vấp vào xe buýt làm nó đổ nhào. Dòng xe cộ bị chặn bởi ba hàng Vệ binh Cơ động bồng súng chào. Thế là chúng tôi được tôn vinh. Váy của Mireille bay lên. Mụ già người Anh chồm tới cô, cào cấu đôi bầu vú, máu tóe ra, phọt ra lênh láng, đỏ lòm. Đám người gục ngã, tất cả nhung nhúc, ngột ngạt. Thật là một cuộc đại cuồng nộ. Ngọn lửa dưới Khải Hoàn Môn dâng lên, dâng lên nữa, đứt ra từng khúc, xuyên qua các vì sao, tóe loe trong bầu trời... Khắp nơi sực mùi giăm bông hun khói... Này đây Mireille, cuối cùng cô ả đến nói vào tai tôi. “Ferdinand, cưng của em ơi, em yêu anh!... Em thừa nhận, anh đầy những ý tưởng hay!” Những ngọn lửa trút như mưa xuống chúng tôi, mỗi đứa nhặt lấy một khúc to tướng... nhét vào cửa quần, kêu xèo xèo, xoáy lộn. Đám phụ nữ quàng lên mình từng bó hoa lửa... Chúng tôi ngủ thiếp đi người nọ trong người kia. Hai mươi lăm ngàn cảnh sát đã dọn sạch quảng trường Hòa Hợp. Chúng tôi hết chịu nổi, không ở trong nhau được nữa rồi. Quá ư nóng bỏng. Đó là địa ngục. Mẹ tôi và Vitruve, ở phòng bên, hai người lo lắng, họ đi đi lại lại trong phòng chờ cho cơn sốt của tôi dứt. Một chiếc xe cứu thương đã đưa tôi về nhà. Tôi gục ngã, nằm sóng sượt trên một tấm lưới sắt đậy miệng cống ở đại lộ Mac-Mahon. Mấy cha cảnh sát đi xe đạp đã trông thấy tôi. Dù sốt hay không, tai tôi vẫn ù, cả hai bên, đến nỗi tôi hầu như không nghe thấy gì nữa. Tôi bị thế từ hồi chiến tranh. Chứng điên dại đã đuổi riết theo tôi... suốt trong hai mươi hai năm, chí ít là thế. Thật gọn. Nó đã thử hàng vạn tiếng động, một sự huyên náo mênh mông bát ngát, song tôi đã mê sảng nhanh hơn nó, tôi đã đụ nó, chạm đích trước nó. Thế đấy! Tôi lảm nhảm, tôi chài nó, tôi buộc nó phải quên tôi đi. Địch thủ lớn của tôi là âm nhạc, nó bị kẹt, hư hoại đi tận đáy tai tôi... Nó không ngừng rủa sả... Nó làm tôi choáng với những tiếng trôm bôn, nó trì tục ngày và đêm. Tôi hứng chịu tất cả mọi âm thanh trong thiên nhiên, từ tiếng sáo đến tiếng thác Niagara... Đi đâu tiếng trống và tiếng trôm bôn ầm ầm như đất lở cũng theo tôi... Tôi đánh triangle hàng tuần liền... Thổi kèn clairon, tôi chẳng ngán ai. Tôi còn sở hữu cả một chuồng chim hoàn chỉnh với ba ngàn năm trăm hai mươi bảy con không lúc nào chịu im tiếng... Chính tôi là những đại phong cầm của Vũ Trụ... Tôi đã cung cấp tất thảy, thịt người, tinh thần, hơi thở... Thường khi tôi có vẻ kiệt sức. Những ý tưởng va vấp loạng choạng, nằm ườn ra. Tôi chẳng tạo thuận lợi gì cho chúng. Tôi làm vở opera hồng thủy. Lúc hạ màn là chuyến tàu nửa đêm vào ga... Vòm kính bên trên vỡ tan tành và sập xuống... hơi nước thoát ra bằng hai mươi bốn lỗ van... những dây xích nối toa bắn tung lên cao... Trong các toa mở toang, ba trăm nhạc công say bét nhè chơi đồng loạt một cú cả bốn mươi lăm khuông nhạc, xé tan không khí... Từ hai mươi hai năm nay, tối nào nó cũng định cuốn tôi đi... đúng vào lúc nửa đêm... Nhưng tôi đây, tôi cũng biết tự vệ chứ... với mười hai bản giao hưởng thuần túy cymbale, hai con thác họa mi... cả một bầy hải cẩu quay nhỏ lửa... Đó là công việc cho kẻ sống độc thân... Hẳn thế rồi. Đó là đời sống thứ hai của tôi. Chuyện riêng của tôi. Tôi nhắc đến chuyện này là để giải thích sự cố ở rừng Boulogne khi tôi bị lên cơn. Tôi thường gây rất nhiều tiếng động khi tôi nói chuyện. Tôi nói to. Người ta làm hiệu cho tôi nói khẽ hơn. Tôi hơi nhỏ dãi tí chút, cái đó là tất yếu thôi... Phải rất cố gắng tôi mới có thể lưu tâm đến bạn bè. Đầu óc tôi bận bịu, tôi dễ dàng để mất hút bạn bè. Tôi lo lắng. Đôi khi tôi nôn mửa ngoài phố. Thế là tất cả ngừng lại. Gần như tĩnh lặng. Nhưng rồi các bức tường lại lắc lư và xe cộ lại đi giật lùi. Tôi run lên cùng với cả Trái đất. Tôi chẳng nói gì... Cuộc sống lại bắt đầu. Khi nào tôi gặp Thượng đế trên thiên đường, tôi sẽ hét thủng lỗ tai Ngài ra, ngăn trong ấy, chiêu này tôi đã học được rồi. Tôi muốn xem xem Ngài có thích nó không? Tôi là sếp của cái nhà ga ma quỷ này. Ngày nào tôi không còn nữa, để xem tàu có trật bánh hay không. Ông Bizonde, người làm đai đeo cho bệnh nhân sa ruột, mà tôi làm giúp “tí việc”, hẳn sẽ thấy tôi xanh xao hơn bao giờ hết. Rồi ông sẽ đành phải chấp nhận thôi. Nằm trong buồng mình, tôi nghĩ đến tất cả những điều đó trong khi mẹ tôi và Vitruve đi đi lại lại bên cạnh. Cửa địa ngục trong lỗ tai là một nguyên tử bé tí chẳng đáng kể. Nếu ta dịch nó đi một phần tư sợi lông... nhích nó đi dù chỉ một micron... dòm qua đó... là toi luôn! là xong phim! vĩnh viễn sa địa ngục đấy! Ngươi sẵn sàng rồi chứ? Chưa à? Liệu các ngươi có đủ tầm không? Chết đâu có miễn phí! Phải nộp Mụ Tử Thần một khăn liệm đẹp có thêu các tích truyện. Hơi thở cuối cùng đòi hỏi cao đấy. Cuốn phim tối hậu mà! Đâu phải mọi người đều biết thế! Phải làm cật lực bằng mọi giá! Tôi sắp có thể rồi... Tôi sẽ lần cuối cùng nghe thấy tim tôi ẽo ọt thịch! một cái... rồi kịch!... nó sẽ lảo đảo tiếp sau động mạch chủ... như một cái cán chổi cũ... Thế là chấm dứt. Người ta sẽ mổ nó ra để biết nguyên nhân... Trên cái bàn dốc thoai thoải... Họ sẽ không thấy tác phẩm Huyền Thoại tuyệt vời của tôi, cả âm nhạc của tôi nữa... Mụ Tử Thần Mặt Trắng Bệch ắt đã lấy đi tất cả... Ấy đấy, thưa bà, tôi sẽ nói với mụ, bà là người đầu tiên có con mắt tinh đời!... Ngay cả trong lúc tôi mê man bất tỉnh, cô ả Mireille vẫn không ngừng ám ảnh tâm trí tôi. Tôi dám chắc cô ả đã đi lu loa buôn chuyện khắp nơi rồi. “Chao! Ở bệnh viện Jonction hẳn người ta đang xì xào... Cái cha Ferdinand đã đến nước hết chịu nổi rồi! Cha ấy vào rừng Boulogne cho bọn nó lắp đít!... (bao giờ họ chả nói thặng lên). Lại còn kéo theo cả Mireille nữa chứ!... Cha ấy đưa tất cả bọn con gái vào con đường trụy lạc!... Rồi người ta sẽ kiện lên tòa thị chính cho mà xem!... Bôi nhọ cả công việc của mình! Rõ là một tên hiếp dâm và chống phá chính quyền!...” Như thế đấy! Nằm trên giường hình dung ra những lời đôi mách nhảm nhí đó mà tôi sôi tiết lên, tôi vã mồ hôi khắp người như một con cóc... Tôi ngạt thở... tôi quằn quại... Tôi lại còn lồng lộn... Tôi tung hết chăn ra... Tôi lại thấy mình khỏe như vâm. Vậy mà đúng là bọn dâm thần ấy đã đuổi theo chúng tôi mà!... Khắp người tôi sực mùi khét lẹt! Một cái bóng to tướng che lấp tầm nhìn của tôi... Đó là cái mũ của Léonce... Một cái mũ chiến đấu... vành rộng như đường đua... Chắc hắn đã dập tắt lửa... Đó là Poitrat Léonce! Tôi chắc chắn thế! Xưa nay hắn vẫn theo dõi tôi mà... Hắn truy lùng tôi! Hắn qua nhiều thời gian ở Sở Cảnh sát hơn mức cần thiết... Sau 6 giờ chiều... Hắn ở địa bàn này, không quản khó nhọc, hoạt động trong đám học việc, dốc lòng tham gia các vụ phá thai... Hắn không ưa tôi... Tôi làm hắn khó chịu... Hắn muốn thịt tôi... Hắn thú thật vậy... Ở bệnh viện, hắn là kế toán... Hắn cũng đeo một chiếc cà vạt thắt hai nơ bồng. Chiếc mũ của hắn bít một mé giấc ngủ của tôi... Hình như cơn sốt lại lên... Tôi sắp nổ tung... Hắn thật ranh ma, cái tên Léonce ấy, hắn rất xôm trò tại các cuộc hội họp... Trong các buổi họp công đoàn có tính chất hù dọa, hắn có thể gào thét cả hai tiếng đồng hồ liền. Không ai dẹp được miệng hắn... Hễ ai thay đổi một chữ trong kiến nghị của hắn là hắn nổi điên lên. Hắn quát to hơn cả viên đại tá. Hắn có thân hình hộ pháp, về khoa đấu hót, hắn chẳng ngán ai, súng của hắn lúc cửng rắn bằng cả ba mươi sáu bắp thịt. Thép nguyên chất. Vậy đó. Hắn là thư ký Công đoàn Gạch-Ngói Vanves La Révolte. Thư ký được bầu hẳn hoi. Bạn bè hãnh diện vì Léonce, kẻ ăn không ngồi rồi hung bạo. Đó là tên ma cô lao động mỹ miều nhất. Thế mà hắn vẫn chưa hài lòng, hắn ghen tức với tôi, với bản thân tôi, với những ý tưởng của tôi, những kho tàng trí tuệ của tôi, phong thái của tôi, cái cách người ta gọi tôi là “Bác sĩ”. Hắn cứ ngồi đó, bên cạnh, cùng đám phụ nữ, chờ... Chờ tôi quyết định? Chờ đến chung cục tôi cuốn gói?... Đừng hòng!... Dù chỉ để làm hắn tức tối... Tôi sẽ nằm lì dưới đất!... thành Phép Mầu!... Thậm chí tôi sẽ hôn hắn cho hắn chết... Vì lây nhiễm! Tầng trên xôn xao âm thanh... Những tiếng động khác nhau... đó là nghệ sĩ piano đang dạy học... Không, anh ta đang tập... Anh ta có vẻ lo lắng... chắc chỉ có một mình anh ta... Đô!... đô!... đô!... Không tốt lắm!... Si!... si!... si!... Cố tí nữa... Mi! mi... Rê! Rồi sẽ ổn thôi!... Và một hợp âm rải bằng tay trái!... Rồi tay phải phấn chấn trở lại... Si thăng!... Chúa ơi! Từ cửa sổ phòng tôi, có thể nhìn thấy Paris... Phía dưới, thành phố trải dài... rồi bắt đầu đi lên... về phía chúng tôi... về phía Montmartre... Những mái nhà chen chúc, cái nọ xô cái kia, nhọn hoắt, gây thương tích, rỉ máu dọc theo ánh sáng, những phố xanh, phố đỏ, phố vàng... Dưới nữa là sông Seine, sương mù nhờ nhờ, một con tàu kéo đi qua... cất tiếng kêu mệt mỏi... Xa hơn nữa là những quả đồi... Mọi vật tụ lại... Đêm tối sắp sửa ụp xuống chúng ta... Có phải bà già gác cổng đang đập thình thình vào vách? Tình cảnh tôi ắt phải bi đát lắm mới khiến bà ấy lên tận đây... Bà quá già để leo chừng nấy tầng gác, bà mẹ Bérenge ấy... Bà ấy ở đâu chui ra?... Rất nhẹ nhàng bà đi xuyên qua phòng ngủ của tôi... Chân không chạm đất. Bà thậm chí chẳng buồn nhìn phải nhìn trái... Bà ra lối cửa sổ bước vào khoảng trống... Kìa bà ra đi trong đêm đen tít phía trên các ngôi nhà... Bà đi về nơi kia... Rê!... pha!... sol thăng!... mi!... Mẹ kiếp! Anh ta hẳn sẽ chẳng bao giờ ngừng! Đây chắc là thằng học trò của anh ta bắt vào... Khi cơn sốt lan khắp người, sự sống trở nên nhẽo nhèo như da bụng một gã chủ quán rượu... Ta chìm sâu vào những khúc ruột cuồn cuộn như sóng dồi. Tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi dai dẳng... Mẹ kể cuộc đời mình với bà Vitruve... Mẹ nhắc đi nhắc lại để bà ấy hiểu mẹ đã nuôi tôi khó khăn như thế nào... Phá gia chi tử!... Vô lo!... Lười nhác!... Chả giống bố tí nào... Bố thì xiết bao chu đáo... xiết bao cần mẫn... xiết bao đức độ... mà lại quá ư xấu số... ông ấy mất vào mùa đông năm ngoái... Phải... Mẹ không kể với bà ta ông ấy đã đập vỡ bao nhiêu cái đĩa trên đầu mẹ... Không! Rê, đô, mi! rê giáng!... Đứa học trò lại hì hụi tập... Nó chạy những nốt móc kép như lên dốc... Nó loạng quạng vướng vào những ngón tay ông thầy... Nó trượt... Nó không thoát nổi nữa... móng tay đầy những dấu thăng... “Giữ nhịp!” tôi quát tướng lên. Mẹ tôi cũng không kể ông bố Auguste của tôi đã túm tóc mẹ lôi xềnh xệch vào buồng sau cửa hàng như thế nào. Một gian buồng quá chật hẹp cho những cuộc cãi lộn... Về mọi chuyện đó, mẹ không hé miệng... Chúng tôi vốn nòi thơ mộng mà... Có điều chúng tôi sống chật chội nhưng cực kỳ yêu thương nhau... Ấy đấy, mẹ kể như vậy. Bố yêu tôi rất mực, bố hết sức nhạy cảm với mọi thứ đến nỗi... hạnh kiểm... đáng lo ngại của tôi... những thiên hướng nguy hiểm của tôi... những thói tật gớm ghiếc của tôi đã làm ông chết sớm... vì phiền muộn, cố nhiên... những cái đó tác động đến tim ông!... Phụt một cái! Đấy, cái cách người ta kể lể chuyện cũ là thế... cũng phần nào có lý đấy, nhưng đầy những dối trá bẩn thỉu ghê tởm... Cả hai mụ già mải nhồi cho nhau những chuyện nhảm nhí, say sưa đến mức át cả tiếng piano... Tha hồ cho tôi nôn mửa. Gì chứ về cái khoản buôn dưa lê thì Vitruve cũng chả kém ai... Bà ta thống kê những hy sinh của mình... con bé Mireille là cả cuộc đời bà ta!... Tôi không nghe được hết... Tôi phải vào toa lét để ói... Kiểu này chắc chắn là sốt rét rồi... Tôi đã tha nó về từ Congo... Tôi quả đã “thăng tiến” mọi bề... Khi tôi trở lại giường nằm, mẹ tôi đang kể đến đoạn đính hôn... ở Colombes... Dạo ấy Auguste đi xe đạp... Bà kia đâu chịu kém... trơ tráo khoe rằng thì là... bà ta đã tận tâm tận lực để bảo vệ thanh danh của tôi... ở Linuty như thế nào... Ối! Ối! Ối! Tôi bèn nhổm dậy... Tôi hết chịu nổi rồi... Tôi không động đậy nữa... chỉ nghiêng người về mé bên kia giường để mửa... Nếu rơi vào trạng thái mê sảng, tôi thà đắm vào những truyện của chính mình... Tôi thấy Thibaud gã du ca... Gã bao giờ cũng cần tiền... Gã sắp giết cha của Joad... vậy là sẽ bớt đi một ông bố trên đời... Tôi thấy những cuộc thi đấu ngoạn mục đang diễn ra trên trần nhà... Tôi thấy những kỵ binh cầm giáo đâm thủng bụng nhau... Tôi thấy chính đức vua Krogold... từ phương Bắc tới... Ngài được mời đến Bredonnes cùng với cả triều đình... Tôi thấy con gái ngài, công chúa Wanda tóc vàng, rực rỡ... Tôi những muốn xóc lọ nhưng người tôi đẫm mồ hôi... Joad là người tình căng thẳng... Đời là thế mà...! Tôi phải quay trở lại thôi... Đột nhiên, tôi nôn ra đến cả mật xanh mật vàng... Tôi cố gầm lên... Các mụ già nhà tôi dù sao cũng nghe thấy... Họ chạy đến, họ vỗ về tôi. Tôi đuổi họ ra lần nữa... Ở ngoài hành lang, họ lại tiếp tục lảm nhảm. Sau khi mạt sát tôi tệ hại, giờ họ xuống “tông” đôi chút... Họ thấy tôi cũng có những mặt tốt... Rất nhiều chuyện họ phải nhờ cậy vào tôi... Đột nhiên họ trở lại biết điều... Vừa nãy họ đã hơi bốc quá... Chính tôi mới là người làm ra tiền... Mẹ tôi làm ở chỗ ông Bizonde, người làm đai đeo cho bệnh nhân sa ruột, chả kiếm được bao nhiêu... làm sao đủ ăn... ở tuổi mẹ mà còn phải nai lưng nuôi miệng thì thật cực. Và chính nhờ tôi khéo léo móc ngoặc với bọn cớm nên dì cháu bà Vitruve mới yên thân... Bỗng nhiên họ sinh nghi, họ vòng vo né tránh... “Nó thô lỗ... đãng trí!... Nhưng thẳng thắn tốt bụng...” Họ phải thừa nhận điều đó. Cố nhiên rồi. Còn tiền nhà tiền ăn đấy, ai trả?... Chớ nên quá lời. Họ vội vàng trấn an nhau. Mẹ tôi không phải dân thợ... Mẹ luôn tự nhắc mình thế, như thể tụng kinh... Mẹ là tiểu thương... Gia đình tôi đã sầy vảy trong cái nghiệp buôn bán nhỏ... Chúng tôi đâu phải là dân thợ thuyền say bét nhè và nợ như chúa Chổm... Ô! không. Tuyệt đối không!... Đừng nên lẫn lộn!... Ba cuộc đời, đời tôi, đời mẹ và nhất là đời bố tôi, đã hòa tan trong những hy sinh... người ta thậm chí không biết chúng đã thành cái gì nữa... Chúng tôi đã trả hết mọi khoản nợ nần... Giờ đây, mẹ tôi lại tự hành mình điêu đứng để tìm lại những cuộc đời ấy... Mẹ buộc phải tưởng tượng thôi... Những cuộc đời của chúng tôi, chúng đã mất tăm... quá khứ của chúng tôi cũng vậy... Hễ có được một khoảnh khắc nhỏ nào là mẹ ráng hết sức mình... dựng lại các sự việc... để rồi tất yếu chúng lại sụp đổ tan tành!... Chỉ cần tôi húng hắng ho là mẹ nổi giận lôi đình bởi vì ngực bố tôi vạm vỡ, phổi lành mạnh thế cơ mà... Tôi chẳng muốn thấy bà nữa, bà làm tôi ớn đến chết! Bà muốn tôi sảng loạn luôn cùng với bà... Xin đủ! Rồi tôi đến làm một điều gì tai hại mất thôi! Tôi muốn sảng loạn theo cách của mình... Đô! mi! la! đứa học trò đã về rồi... Anh chàng nghệ sĩ đang thư giãn... Anh ta chơi một bài “hát ru”... Tôi những muốn Émilie lên vào lúc này... Chiều chiều cô đến dọn dẹp cho tôi... Cô ít lời, hầu như chẳng nói gì... Đến nỗi có lúc tôi quên bẵng sự hiện diện của cô! Kìa cô đã đến!... Cô muốn tôi uống tí rhum... Ở căn hộ bên cạnh, những gã say la hét... - Ferdinand sốt cao, cô biết đấy!... Tôi lo lắm! mẹ tôi nhắc đi nhắc lại hoài. - Cậu ấy rất tốt với các bệnh nhân! đến lượt Vitruve lu loa. Lúc đó tôi nóng quá, lết ra cửa sổ. Xuyên qua vịnh Étoile, con tàu đẹp của tôi lướt trong bóng tối... chất đầy vải... Nó lao thẳng tới khách sạn Hôtel-Dieu. Cả thành phố đứng trên boong, bình lặng... Tôi nhận ra tất cả những người chết... Thậm chí tôi biết cả người cầm lái... Tôi là bạn mày tao chi tớ với anh ta... Thầy giáo dạy đàn hiểu ý... anh ta khẽ chơi giai điệu mà chúng tôi cần... “Black Joe”... Cho những chuyến du hành trên biển... Để bắt kịp thời gian... thuận buồm xuôi gió... dễ bề nói dối... Nếu tôi mở cửa sổ, sẽ lạnh đột ngột... Mai, tôi sẽ đi giết ông Bizonde, người làm đai đeo cho bệnh nhân sa ruột...người đã thành nguồn sống của chúng tôi... giết tại cửa hàng của ông... Tôi muốn ông đi du lịch một chuyến... Ông chẳng ra khỏi nhà bao giờ... Con tàu của tôi bị tổn thất và tròng trành trên Công viên Monceau... Nó đi chậm hơn đêm hôm trước... Nó sắp sửa đâm sầm vào các pho Tượng... Này đây hai bóng ma đang xuống rạp hát Comédie Française... Ba đợt sóng khổng lồ cuốn đi những vòm Rivoli... Còi rú lên đập vào những ô kính cửa sổ phòng tôi... Tôi đẩy cửa lớn... Gió thốc vào... Mẹ tôi chạy tới, trố mắt... Mẹ cằn nhằn tôi... bao giờ cũng xấu thói như thế!... Mụ Vitruve cũng lao đến!... tới tấp những lời răn dạy... Tôi vùng lên... Xà-lù họ... Con tàu đẹp của tôi đâm ra ì ạch. Mấy mụ giống cái này làm hỏng cả cõi vô tận... Nó chệch hướng rồi, thật nhục nhã!... Dù sao nó cũng nghiêng về mạn trái... Không một con tàu nào mỹ lệ hơn thế... Tim tôi chao theo nó... Đáng ra hai mụ phải đuổi lũ chuột đang phá hỏng thừng chão dây dợ!... Nó ắt chẳng bao giờ giương buồm được với những dây siết căng đến thế!... Đáng lẽ phải nới lỏng ra... Thả ba cuộn trước khi tới “La Samaritaine(11)”! Tôi gào lên loan báo với cả bàn dân thiên hạ... Thế rồi căn phòng tôi sắp chìm!... Tôi đã trả tiền mua nó! Trả hết! không thiếu một xu! Bằng cái cuộc đời chó đẻ khốn kiếp của tôi!... Tôi ị đùn trong bộ đồ pyjama! Ướt sũng... Tệ hại ghê gớm! Tôi sẽ bĩnh ra trên quảng trường Bastille. “Ôi! giá bố anh có ở đây!”... Tôi nghe thấy những tiếng đó... Tôi nổi đóa! Lại là bà ấy! Tôi quay lại. Tôi gọi bố tôi là đồ thối tha!... Tôi gầm lên đến vỡ phổi!... “Trong cả vũ trụ, từ Dufayel đến Capricorne, không có kẻ nào bỉ ổi hơn!...” Thoạt đầu là sững sờ thực sự! Mẹ tôi ngây ra! Bà đờ đẫn hồi lâu... Rồi bà trấn tĩnh lại. Bà rủa tôi thậm tệ. Tôi không biết chui vào đâu. Bà khóc sướt mướt. Bà đau đớn lăn lộn trên thảm. Bà nhổm dậy quỳ gối. Bà đứng lên. Bà dùng ô tấn công tôi. Bà choảng tôi mấy cú thật mạnh vào giữa mặt. Cán ô gãy trong tay bà. Bà òa lên nức nở. Vitruve lao vào giữa hai chúng tôi. “Bà ấy không muốn nhìn mặt tôi nữa!...” Mẹ tôi coi tôi thế đấy! Mẹ khóc rung cả phòng... Tất cả những gì bố tôi để lại cho mẹ tôi là ký ức về ông và hàng tấn phiền phức. Kỷ niệm luôn ám ảnh mẹ! Ông chết càng lâu, mẹ càng yêu ông! Như một con chó cái không dứt nổi... Nhưng tôi không chịu! Dù chết, tôi cũng vẫn phản đối! Tôi nhắc lại với mẹ rằng ông thâm hiểm, đạo đức giả, thô bạo và hèn nhát mọi bề! Bà lại vùng lên chiến đấu, sẵn sàng chết vì Auguste của bà. Tôi sẽ nện bà đây. Cục cứt!... Vì đâu mà tôi mắc chứng sốt rét này cơ chứ. Bà chửi tôi, bà nổi xung, bà chẳng đếm xỉa gì đến tình trạng của tôi lúc này. Trong cơn cuồng nộ, tôi bèn cúi xuống tốc váy bà lên. Tôi trông thấy bắp chân bà gầy như cái que, chẳng có tí thịt nào, chiếc tất nhăn nhúm, hôi rình!... Tôi đã thấy thế bao lâu nay rồi... Tôi ói một bãi vào đó... - Ferdinand, mày điên rồi! bà lùi lại... giật thót người! Bà bỏ chạy! Mày điên rồi! bà lại la lớn trong cầu thang. Tôi vấp và ngã sóng soài. Tôi nghe thấy tiếng chân bà tập tễnh xuống tận dưới chân cầu thang. Cửa sổ vẫn mở toang... Tôi nghĩ đến Auguste cha tôi, ông cũng yêu những con tàu... Xét cho cùng, ông cũng là một nghệ sĩ... Ông đã không gặp may. Thi thoảng ông vẫn vẽ những cơn bão trên tấm bảng đá đen của tôi. Cô giúp việc vẫn đứng bên cạnh giường... Tôi bảo cô: “Cô cứ mặc nguyên quần áo nằm đây... Chúng ta đang du ngoạn... Tàu của tôi đã bị tắt hết đèn ở ga Lyon... Tôi sẽ đưa biên lai cho thuyền trưởng để anh ta trở lại bến ke Arago khi người ta dựng các máy chém... Bến ke Ban Mai...” Émilie cười ngất... Cô không hiểu những xảo ngôn... “Mai nhé, cô nói... Mai nhé!...” Cô đi gặp bạn trai của mình. Ấy thế là tôi thật sự một mình!... Thế là tôi thấy hàng ngàn hàng ngàn chiếc xuồng nhỏ trở lại trên bờ bên trái... Bên trong mỗi chiếc có một xác chết nhỏ bé teo tóp lại dưới cánh buồm... và sự tích của nó... những dối trá nho nhỏ của nó để bắt gió ... Tôi có thể nói về thế kỷ trước, tôi đã thấy nó kết thúc... Nó đã ra đi trên con đường qua Orly... Choisy-le-Roi... Rungis, nơi bà cô tổ Armide, người cao niên nhất trong gia tộc chúng tôi, đã sống. Bà kể nhiều chuyện mà không còn ai nhớ nữa. Chúng tôi thường chọn một ngày Chủ nhật vào mùa thu, trước kỳ giá rét khắc nghiệt, để đến thăm bà và chỉ trở lại vào mùa xuân để ngạc nhiên thấy bà vẫn còn sống. Những kỷ niệm cũ thật dai dẳng... nhưng cũng thật mỏng manh, dễ vỡ... Tôi vẫn cứ đinh ninh rằng chúng tôi đáp “tàu- điện-xe-ngựa” ở trước ga Châtelet... Cùng với các anh em họ, chúng tôi leo lên ngồi ghế băng ở tầng trên. Cha tôi ở lại nhà. Đám anh em họ tôi nói đùa rằng bọn tôi sẽ không thấy bà cô Armide ở Rungis nữa, rằng lủi thủi một mình trong sinh đường, không có lấy một cô hầu, chắc chắn bà đã bị ám sát, mà do tình hình lũ lụt, chúng tôi không được thông báo kịp thời... Cứ thế cỗ xe lọc cọc suốt dọc đường gập ghềnh qua những rẻo sông đến tận Choisy. Kéo dài nhiều giờ. Tôi có dịp thở không khí thoáng đãng. Lúc về chúng tôi hẳn sẽ đi tàu thôi. Tới bến cuối rồi, phải nhanh chân thôi! Bước qua những vỉa hè to gộc, mẹ tôi nắm cánh tay tôi kéo đi cho kịp bà... Chúng tôi còn gặp những người bà con khác cũng đến thăm bà cô già. Mẹ tôi rất vướng víu với cái búi tó, cái mạng che mặt, cái mũ rơm cùng những kẹp tóc của bà... Khi tấm mạng che mặt bị ướt, mẹ cáu kỉnh đưa vào miệng nhai. Các đại lộ dẫn đến nhà bà cô già đầy hạt dẻ mà tôi không nhặt được vì không rảnh rang lấy một phút... Xa đường cái là những rặng cây, những cánh đồng, những bờ đắp, những mô đất, rồi đến vùng nông thôn... xa hơn nữa là những xứ sở chưa biết... Trung Hoa... Và rồi chẳng gì nữa. Người ta vội vã muốn mau tới đích đến nỗi tôi đái cả ra quần... vả chăng suốt thời niên thiếu, tôi luôn bị thúc hối đến nỗi cho đến tận khi đi quân dịch, đít tôi vẫn dính cứt. Tới những nếp nhà đầu tiên, chúng tôi đã ướt như chuột lột. Đó là một ngôi làng dễ thương, giờ đây tôi thấy rành là thế; với những góc nhỏ êm đềm, những ngõ nhỏ quanh co, rêu phong, rất chi là ngoạn mục. Đến trước cổng giậu sắt nhà bà là chấm dứt cười đùa. Cánh cổng rít ken két. Bà cô đã từng bán “hàng may sẵn” ở hiệu Carreau du Temple gần năm mươi năm... Tất cả tiền tiết kiệm của bà đổ cả vào ngôi sinh đường ở Rungis. Bà ở một gian cuối, bà thường ngồi lì trong chiếc ghế bành trước lò sưởi. Đợi mọi người đến thăm. Bà thường đóng cửa chớp cho khỏi chói mắt. Sinh đường của bà theo kiểu Thụy Sĩ, niềm mơ ước của thời đó. Phía trước, đàn cá như bị ninh trong một cái bể hôi thối. Chúng tôi bước tiếp một quãng nữa, tới thềm nhà. Chúng tôi dấn sâu vào bóng tối. Chạm phải một cái gì mềm mềm. “Lại gần đây, đừng sợ, Ferdinand bé bỏng của bà!...” Nghĩa là bà bảo tôi hôn hít vuốt ve bà đấy. Tôi chả sao thoát được. Khóe miệng bà vừa lạnh vừa ram ráp, rồi lại âm ấm, với một cái vị dễ sợ. Chúng tôi thắp nến lên. Đám họ hàng xúm lại tán chuyện gẫu. Thấy tôi hôn bà cô tổ, họ phấn khích lên. Tuy nhiên, chỉ một cái hôn ấy đã khiến tôi buồn nôn... với lại, còn do đã phải đi quá nhanh. Nhưng khi bà bắt đầu nói, tất cả bắt buộc phải im lặng. Họ không biết trả lời ra sao. Bà toàn hội thoại ở thì quá khứ thức giả định. Đó là những lối thức đã lỗi thời. Làm cho tất cả đớ họng. Đã đến lúc để bà biến đi thôi. Cái lò sưởi đằng sau bà, chẳng ai đốt bao giờ! “Cần có thêm bộ thông hơi mới đốt được...” Kỳ thực là vì bà tiết kiệm. Trước khi chia tay, bà cô Armide đãi bánh ngọt. Những miếng bích quy khô giòn từ một chiếc hộp đậy rất kín, một năm chỉ mở ra hai lần. Dĩ nhiên mọi người đều từ chối... Họ đâu còn là con nít... Bánh quy bơ là dành cho tôi!... Tôi khoái trí nhảy cẫng lên... Thấy vậy, mẹ véo tôi một cái... Tôi vội chạy ra vườn, luôn luôn nghịch ngợm, nhổ hết vào đàn cá... Trong bóng tối, đằng sau bà cô tổ, đằng sau chiếc ghế bành của bà, có tất cả những gì đã kết thúc, có ông nội Leopold của tôi, người đã đi Ấn Độ không bao giờ trở về, có Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, có ông de Bergerac, Felix Fauré và Lustucru(12) và thì quá khứ thức giả định. Thế đấy. Trước lúc ra về, tôi để cho bà cô tổ hôn một lần nữa... Rồi hối hả lên đường, đi nhanh qua khu vườn. Trước cửa nhà thờ, chia tay với những ông anh họ về Juvisy. Họ phả ra đủ các thứ mùi khi hôn tôi, hơi từ giữa đám lông và tấm che ngực tỏa ra khen khét. Mẹ tôi càng thêm cà nhắc sau một tiếng đồng hồ ngồi tê bại chân. Trên đường về qua trước nghĩa trang Thiais, chúng tôi tạt vào một lúc. Tại đây, còn có hai người trong gia tộc chúng tôi yên nghỉ ở cuối một lối đi. Chúng tôi chỉ ngó qua mộ họ gọi là rồi chuồn thẳng như lũ trộm, sắp đến kỳ lễ các thánh, đêm xuống nhanh. Qua ngã ba Belle-Épine thì chúng tôi bắt kịp Clotilde, Gustave và Gaston. Mẹ tôi mỏi chân tụt lại đằng sau, va vấp lung tung. Thậm chí mẹ còn bị sái chân khi định cõng tôi ở ngay trước ba ri e chắn tàu. Trong đêm tối, chúng tôi chỉ mong sao tới được cái bình bào chế to tướng của hiệu tân dược. Đó là Phố-lớn, dấu hiệu cho thấy chúng tôi đã được cứu sống... Trên nền sáng gắt của đèn khí ga, vẳng ra tiếng nhạc từ những quán rượu, qua những cánh cửa chao đảo. Chúng tôi cảm thấy không an toàn và vội vã sang hè bên kia: mẹ tôi vốn sợ những gã say rượu. Bên trong nhà ga giống như cái hộp, phòng chờ đầy khói, một cái đèn dầu treo lủng lẳng từ trên trần. Hành khách xúm đông xúm đỏ quanh một cái lò nhỏ, ho hắng, khét lẹt, xèo xèo trong nhiệt lượng của mình. Này đây đoàn tàu ầm ầm nổi sấm như muốn xé tung tất cả. Hành khách nhốn nháo, chuyển động, lao tới các cửa toa như cơn lốc. Hai mẹ con tôi là những người cuối cùng lên tàu. Tôi cứ hí hoáy vặn quả đấm cửa, phải ăn một cái tát mới chịu thôi. Đến Ivry, chúng tôi phải xuống; nhân chuyến đi, chúng tôi ghé qua bà Héronde, thợ mạng vá đăng ten. Bà sửa chữa tất cả những đồ thêu ren của cửa hàng chúng tôi, nhất là những đồ cũ cực kỳ mỏng manh, rất khó nhuộm. Bà ở một căn nhà gỗ đơn sơ trên phố Palisses, giữa cánh đồng, gần cuối Ivry. Đó là một căn nhà gỗ. Nhân chuyến dã ngoại, chúng tôi đến để giục bà. Bà không bao giờ xong đúng hạn. Các khách hàng nữ dạo ấy rất dữ dằn, hay kêu ca, bây giờ chả ai dám thế. Tôi đã thấy mẹ tôi hầu như tối nào cũng khóc dở mếu dở vì bà thợ ren của chúng tôi không trả hàng kịp. Nếu bà khách của chúng tôi giận dỗi vì tấm ren Valenciennes rách của mình, bà sẽ tẩy chay cửa hàng cả một năm. Dải đồng bằng bên ngoài Ivry còn nguy hiểm hơn cả con đường dẫn đến nhà bà cô tổ Armide. Không so sánh được. Đôi khi gặp phải bọn lưu manh. Chúng gọi chọc mẹ tôi. Nếu tôi quay đầu lại là ăn một cái bợp tai. Khi nào bùn nhão và dính đến nỗi làm tuột cả giày dép là không còn xa nữa. Căn nhà hai mái của bà Héronde ngự trên một khu đất hoang. Con chó đã phát hiện ra chúng tôi. Nó sủa inh ỏi hết cỡ. Chúng tôi đã nhìn thấy cửa sổ . Lần nào đến thăm cũng khiến bà thợ ren của chúng tôi bất ngờ, bà sững sờ khi thấy chúng tôi. Mẹ tôi trách móc bà hết lời, trút vợi nỗi niềm. Cuối cùng, cả hai bà òa khóc. Tôi chỉ còn biết nhìn ra ngoài mà đợi... nhìn ra xa tít... dải đồng bằng tối om chạy dài đến tận kè sông Seine, giữa dãy nhà phân lô. Bà thợ mạng ren của chúng tôi làm việc dưới ánh đèn dầu hỏa. Khói đến mù mắt. Mẹ tôi luôn cằn nhằn bà, nhắc bà rốt cuộc phải cho đặt khí đốt đi. “Cái đó thật sự là cần thiết đấy!” lúc ra về, mẹ còn căn dặn. Mạng những dải ken giữa nhỏ xíu, những “mạng nhện”, rành là một công việc phá hại võng mạc. Mẹ nhắc nhở bà không phải chỉ vì lợi ích của mình mà còn vì tình bạn với bà. Tôi đến căn nhà gỗ của bà Héronde toàn vào ban đêm. “Đến tháng Chín, họ sẽ đặt cho tôi!” lần nào bà cũng cả quyết thế. Toàn là nói dối, cốt để mẹ tôi khỏi thúc bách thêm... Bất kể những nhược điểm ấy, mẹ tôi rất quý bà. Điều mẹ kinh tởm là ăn cắp. Bà Héronde thì lương thiện không ai bằng. Không bao giờ lấy của ai một xu. Vậy mà mặc dù bà nghèo rớt mồng tơi, chúng tôi vẫn giao cho bà biết bao của báu! Những bộ áo lễ với đăng ten Venise thuộc loại chỉ còn lưu giữ trong các bảo tàng! Sau này, khi nhắc lại chuyện ấy trong không khí thân mật gia đình, mẹ tôi vẫn còn cảm kích, rưng rưng nước mắt. “Người phụ nữ này đích thật là một bà tiên! mẹ công nhận. Đáng tiếc là bà ấy không giữ lời! Chả bao giờ bà ấy trả hàng cho mình đúng giờ!...” Bà tiên chết trước khi người ta kịp đặt khí đốt cho căn nhà nhỏ của bà. Bà chết vì mệt mỏi, bệnh cúm mang bà đi, và chắc hẳn cũng vì buồn do có một đức ông chồng quá hiếu sắc suốt ngày chạy theo gái... Bà chết trong khi ở cữ... Tôi còn nhớ rõ đám tang của bà ở Petit Ivry. Chỉ có ba chúng tôi, cha mẹ tôi, ông chồng thậm chí không thèm bận tâm! Đó là một người đẹp trai, bà làm được đồng nào ông ta uống sạch. Cả năm ngồi lì quầy bar ở góc phố Gaillon. Trong vòng ít nhất là mười năm sau đó, mỗi khi đi qua, vẫn thấy ông ta ngồi đấy. Rồi ông ta biến đâu mất tăm. Ra khỏi nhà bà Héronde, vẫn chưa hết công chuyện. Đến Austerlitz, chúng tôi lại cắm cổ để bắt một chuyến xe buýt tới tận Bastille. Xưởng của gia đình Wurzem ở mạn ấy, gần rạp Xiếc Mùa Đông, cả nhà là thợ đóng đồ gỗ, người Alsace. Tất cả những đồ gỗ nhỏ của nhà chúng tôi, những cái bàn hình hạt đậu, những cái bàn chân quỳ, đều do Wurzem làm giả cổ. Từ hai mươi năm nay, ông ta chỉ làm những thứ ấy cho bà tôi và rồi sau đó cho những người khác. Nghề gỗ dát chả bao giờ bền, đó là một tranh cãi muôn thuở. Wurzem cũng là một nghệ sĩ, một tay thợ vô song. Cả nhà, vợ chồng ông, bà dì, một cậu em vợ, hai cô em họ và bốn đứa trẻ con, sống trong đám phoi bào. Cả ông nữa cũng chẳng bao giờ đúng hẹn. Thói xấu của ông là ham câu cá. Nhiều khi ông qua cả một tuần bên bờ kênh đào Saint-Martin thay vì thực hiện những đơn đặt hàng. Mẹ tôi nổi giận đỏ mặt tía tai. Ông ta đáp lại xấc xược, sau đó mới xin lỗi. Cả nhà ông ta òa khóc, những chín người bù lu bù loa, còn chúng tôi chỉ có hai. Họ là những cái “thúng thủng”. Cứ liên tục không trả hàng đúng kỳ hạn, họ đâm phải trốn chạy, ẩn náu trong một “chiến khu” ở phố Caulaincourt. Cái lều của họ ở tít dưới đáy một khoảng trũng lầy lội, muốn vào phải bước trên những tấm ván. Từ xa đã phải gọi ầm lên, rồi hướng theo chiếc đèn lồng mà đi tới. Điều luôn cám dỗ tôi trong nhà họ là muốn hất tung cái âu hồ dán lúc nào cũng ngật ngưỡng trên bếp lò. Một hôm, tôi đã quyết định làm thế. Cha tôi, khi biết chuyện, đã lập tức cảnh báo mẹ tôi rằng một ngày kia, tôi sẽ bóp cổ mẹ, đó là thiên hướng của tôi. Ông đã nhìn thấy hết. Điều dễ chịu với cánh nhà Wurzem là họ không hờn giận lâu. Sau những lần trách mắng kịch liệt nhất, chỉ cần chúng tôi trả họ chút ít là họ lại vui vẻ ca hát ngay. Đối với họ, chẳng có gì là bi thảm, những người thợ không biết lo xa ấy! Không cẩn trọng như chúng tôi! Mẹ tôi thường lợi dụng những vụ việc ấy làm thí dụ để răn dạy tôi. Tôi thì lại thấy họ rất hay. Tôi ngủ trong đám phoi bào của họ. Mẹ phải lay tôi suốt đến tận lúc ra đến đại lộ để nhảy lên chuyến xe đò “Chợ Rượu”. Tôi thấy bên trong xe thật tuyệt vì con mắt pha lê to tướng làm ánh sáng lung linh khắp các dãy ghế. Thật huyền ảo. Đàn ngựa phóng nhanh trên phố Martyrs, mọi người dạt ra tránh đường cho xe qua(13). Vậy mà khi chúng tôi về tới cửa hàng vẫn rất trễ. Bà tôi ca cẩm trong góc, ông bố Auguste của tôi kéo sụp chiếc mũ cát két xuống. Ông lồng lộn đi đi lại lại như con sư tử trên một cầu tàu. Mẹ tôi ngồi ủ rũ trên chiếc ghế đẩu. Mẹ đã sai lầm, không việc gì mẹ phải phân trần. Tất cả những gì chúng tôi đã làm trên đường không làm vừa lòng ai, cả bà cũng như bố. Cuối cùng, chúng tôi đóng cửa hàng... Chúng tôi chào “tạm biệt” nhau rất lịch sự. Ba chúng tôi về nhà đi ngủ. Từ đây về nhà, lại một cuốc xe khốn khổ nữa. Nhà chúng tôi ở mé bên kia khu “Bon Marché”. Bố tôi không phải là người dễ tính. Một khi ra khỏi văn phòng làm việc, ông toàn đội cát két, loại mũ lính thủy ấy. Xưa nay, ông vẫn chỉ mơ làm thuyền trưởng tàu viễn dương, giấc mơ khiến ông trở nên chua cay. Nhà chúng tôi ở phố Babylone, trông sang trụ sở Hội Truyền Giáo. Các cha cố luôn mồm hát, cả ban đêm cũng luân phiên nhau lặp lại bài tụng ca. Chúng tôi không nhìn thấy họ vì bức tường chắn ngay cửa sổ căn hộ chúng tôi, làm cho khoảng đó hơi tối. Bố tôi làm ở Công ty Bảo hiểm Hỏa hoạn Coccinelle, ông chả kiếm được bao nhiêu. Để đi qua vườn Tuileries, nhiều khi ông phải cõng tôi. Dạo ấy, cảnh sát nào cũng bụng to. Họ thường nấp dưới những cột đèn. Sông Seine thường khiến trẻ con ngỡ ngàng, nào là những phản quang rung rinh trước gió, nào là cả một vực sâu chuyển động và gầm gừ dưới chân. Đến ngã tư, rẽ vào phố Vaneau, đi chút nữa là tới nhà chúng tôi. Mỗi lần thắp cây đèn treo là cả một màn kịch. Mẹ tôi không biết làm thế nào. Còn bố Auguste của tôi thì mầy mò, văng tục, chửi thề, lần nào cũng làm long “đui” đèn và măng sông. Bố tôi là một người to béo, tóc vàng rơm, hay nổi giận đùng đùng vì những chuyện không đâu, có cái mũi chẳng khác nào một đứa bé tròn xoe như trên một bộ ria đồ sộ. Khi lên cơn thịnh nộ, mắt ông long sòng sọc, dữ tợn. Ông chỉ nhớ đến những chuyện trái ý bực mình, mà những điều như thế thì ông có hàng trăm. Ở công ty bảo hiểm, lương tháng của ông là một trăm mười phơ răng. Vì muốn gia nhập hải quân, ông đã phục vụ bảy năm liền trong pháo binh. Ông những muốn thành người có thế lực, sung túc và được kính nể. Ở công ty Coccinelle, người ta coi ông như mẻ. Lòng tự ái, rồi sự đơn điệu, hành hạ ông. Ông chỉ có cho riêng mình một cái bằng tú tài, bộ ria và những ngại ngùng đắn đo. Thêm tôi ra đời, gia đình dấn sâu vào cảnh cơ hàn. Chúng tôi vẫn chưa ăn gì. Mẹ lục sục nồi xoong. Mẹ đã thay váy ngắn cho khỏi dây bẩn khi làm bếp. Mẹ khóc vì Auguste của mẹ đã không đánh giá đúng những ý đồ tốt của mẹ cũng như những khó khăn trong buôn bán... Ngồi ở góc bàn phủ vải dầu, bố tôi cũng đang nghiền ngẫm nỗi bất hạnh của mình. Thi thoảng, ông làm ra vẻ không kìm nén được nữa... Tuy nhiên, mẹ vẫn ráng trấn an ông. Nhưng đúng lúc mẹ kéo chiếc đèn treo vàng óng xuống thì ông thực sự nổi trận lôi đình. “Clémence! Kìa! Trời đất! Mình định đốt nhà đấy à! Tôi đã dặn mình bao nhiêu lần là phải đỡ bằng cả hai tay cơ mà!” Ông la lên những lời gớm ghiếc, tưởng đến nổ lưỡi vì phẫn nộ. Trong cơn thịnh nộ, ông đỏ mặt tía tai, toàn thân trương phình lên, mắt long sòng sọc như mắt rồng. Trông thật khủng khiếp. Mẹ con tôi sợ mất vía. Thế rồi ông đập vỡ một cái đĩa và cả nhà đi ngủ... “Quay mặt vào tường! ranh con! Đừng có quay lại!” Tôi chả thèm... Tôi biết thừa đi rồi... Tôi xấu hổ... Đấy, đôi chân của mẹ tôi, bên nhỏ bên to... Mẹ vẫn tập tễnh từ phòng này sang phòng khác... Ông kiếm cớ gây sự với mẹ... Mẹ một mực rửa cho xong bát đĩa... Mẹ khẽ hát cho không khí bớt căng... Qua những lỗ thủng trên mái Nắng lọt xuống nhà tôi... Auguste bố tôi đọc cuốn Tổ quốc. Ông ngồi bên chiếc giường cũi của tôi. Mẹ đến hôn bố. Cơn bão tan đi... Ông đứng dậy đến bên cửa sổ. Giả vờ dõi tìm một cái gì đó ở cuối sân. Đánh một phát rắm thật to. Thế là thư giãn. Mẹ cũng đánh một phát rắm nhỏ ra ý đồng cảm rồi ranh mãnh lỉnh vào trong bếp. Về sau, bố mẹ tôi đóng cửa... cửa phòng riêng của họ... Tôi ngủ ngoài phòng ăn. Bài thánh ca của các nhà truyền giáo bay vượt trên những bức tường... Và trong khắp phố Babylone, chỉ còn một con ngựa đi bước một... Cộp! Cộp! chiếc xe ngựa trễ tràng ấy ... Để nuôi tôi khôn lớn, bố tôi đã phải kiếm thêm nhiều việc phụ. Lempreinte, sếp của ông, sỉ nhục ông đủ điều. Tôi biết cái ông Lempreinte ấy, đó là một người tóc đỏ đã phai bệch, với lưa thưa mấy sợi vàng óng tạm gọi là râu. Bố tôi là người có phong cách, vẻ thanh lịch nơi ông tự nhiên như bẩm sinh. Cái nét trời cho ấy khiến Lempreinte tức tối. Ông ta trả thù suốt trong ba mươi năm. Hầu như bức thư nào, ông cũng bắt bố tôi thảo đi thảo lại. Hồi tôi còn bé tí, gửi nhà vú nuôi ở Puteaux, bố mẹ thường lên thăm tôi vào Chủ nhật. Ở đấy rất thoáng đãng. Bố mẹ tôi bao giờ cũng trả tiền trước, không nợ một xu. Ngay cả trong những kỳ thất cơ lỡ vận nhất. Mãi đến hồi ở Courbevoie, vì lo nghĩ nhiều và phải nhịn ăn nhịn tiêu nhiều bề, mẹ tôi mới bắt đầu ho. Không sao dứt được nữa. Phải nhờ có xirô ốc sên và phương pháp Raspail(14) mới qua khỏi. Ông Lempreinte ngờ bố tôi tạo cho mình một phong cách riêng là nhằm những tham vọng khác thường. Từ vườn nhà vú nuôi của tôi ở Puteaux, có thể nhìn thấy cả Paris. Mỗi khi bố tôi lên thăm tôi, gió thổi rối bù bộ ria của ông. Đó là hồi ức đầu tiên của tôi. Sau khi cửa hàng thời trang ở Courbevoie vỡ nợ, bố mẹ tôi phải làm việc gấp đôi, nai lưng ra kiếm miếng. Mẹ bán hàng ở cửa hiệu của bà ngoại, bố thì làm thêm giờ ở công ty Coccinelle vào mọi dịp có thể. Có điều ông càng tỏ ra phong độ bao nhiêu, Lempreinte càng thấy ông bỉ ổi bấy nhiêu. Để tránh hiềm khích, ông lao vào vẽ thuốc nước. Ông thường vẽ vào ban đêm, sau bữa tối. Tôi đã được bố mẹ đưa về Paris. Tôi thường thấy ông vẽ rất khuya, những bức đen trắng hoặc có màu, phần lớn là vẽ tàu, những con tàu lớn trên đại dương, những con tàu ba cột buồm trước gió lớn. Cái đó thuộc sở trường của ông. Về sau, ông còn vẽ những kỷ niệm khi ở pháo binh, những cảnh cấp tốc đưa khẩu đội vào vị trí, rồi cả những vị giáo sĩ nữa... Theo yêu cầu của khách hàng mà... Họ thích những chiếc áo màu rực rỡ... Và cuối cùng là các vũ nữ với những cặp đùi phổng phao... Vào giờ ăn trưa, mẹ mang những bức chọn lọc đến chào hàng những đầu mối bán lại cho các galerie... Mẹ làm tất cả để nuôi tôi sống, lẽ ra mẹ đừng nên sinh ra tôi. Ở cửa hiệu của bà tôi, phố Montorgueil, sau kỳ phá sản, thỉnh thoảng mẹ khạc ra máu trong khi bày hàng vào buổi sáng. Mẹ giấu kín những chiếc khăn tay. Bà tôi chợt đến... “Clémence, lau mắt đi!... Khóc lóc thì giải quyết được gì!...” Muốn đến thật sớm, chúng tôi phải dậy từ tinh mơ, đi qua vườn Tuileries, sau khi đã dọn dẹp trong nhà, bố tôi lật nệm. Ban ngày chả có gì hay ho. Thật hiếm khi tôi không khóc nhằng nhẵng suốt buổi chiều, ở cửa hàng, tôi nhận được những cái tát nhiều hơn những nụ cười. Tôi nói xin lỗi về bất cứ cái gì, tôi xin lỗi về đủ mọi thứ. Phải đề phòng tình trạng ăn cắp và vỡ đồ, những hàng tạp nhạp thường mỏng mảnh dễ hỏng. Tôi đã làm hỏng hàng tấn đồ rởm mà không hề cố tình. Đồ giả cổ càng làm tôi ngán, tuy nhiên đó là cái mang lại miếng ăn hằng ngày cho chúng tôi. Thật cám cảnh, những cái bã của thời gian... hôi thối, xấu xí. Chúng tôi cố bán lấy được, dù khách hàng có muốn hay không. Bằng cách làm cho họ mệt mỏi mất sáng suốt... nhận chìm họ dưới dòng thác lời tán nhảm... những lợi ích khó tin... phóng đại không thương tiếc... Phải làm cho họ nghe bùi tai... mất khả năng suy xét... Họ ra khỏi cửa, choáng ngợp, với chiếc tách Louis XIII trong túi, chiếc quạt trổ hình cô gái chăn cừu và chú mèo bọc trong giấy lụa. Chao, tôi phát ớn đám người lớn đi rước những của nợ ấy về nhà mình... Trong giờ làm việc, bà ngoại Caroline nấp sau “Đứa con hư trở về”, một tấm thảm thêu to đùng. Bà rất tinh nhạy để phát hiện những kẻ hay tắt mắt. Đám khách hàng nữ đến là xấu thói, càng giàu càng hay ăn cắp. Một tấm Chantilly nhỏ dễ dàng tọt vào trong một cái bao tay thiện nghệ như một hơi thở. Cửa hiệu chúng tôi không tràn trề ánh sáng... Vào mùa đông thì cực kỳ vướng víu vì những dải diềm... dải nhung, lông thú, tán lọng, quấn ba vòng quanh ngực các quý bà... Và từ những bờ vai phất phới những khăn quàng lông đủ các loại, dập dềnh sóng mút xơ lin tha thướt... Những cánh chim mang sầu mênh mông... Quý bà vênh vang, gạt những đống đồ tầm tầm, cười khúc khích, quay trở lại... làm tung tóe... lúc nào cũng mổ lia lịa, quàng quạc... kiếm chuyện cãi vã cho sướng miệng. Chúng tôi giương mắt tìm chọn khắp cửa hiệu xem có cái gì khả dĩ làm quý bà ưng ý. Bà ngoại không ngừng đi lùng sục... kiếm “hàng ế” tại các cuộc bán tháo... Bà mang về đủ thứ, tranh sơn dầu, đá thạch anh tím, hàng đống chân đài nến, hàng súc vải tuyn thêu, ngọc hòn, bình bánh thánh, thú nhồi rơm, áo giáp, dù che, những đồ mạ vàng gớm ghiếc của Nhật Bản, bồn nước phun, những thứ linh tinh không tên, những của nợ chẳng ai biết gọi là gì nữa. Quý bà tí tởn trong cái kho báu mảnh vỡ ấy. Đống hàng tụ lại như cũ sau khi quý bà đi qua. Chúng bị lật tung, kêu xủng xoẻng, xoáy lộn. Quý bà sục vào cho biết thôi. Trời mưa nên quý bà ghé vô trú. Xem chán chê, quý bà tếch với một lời hứa suông. Thế là phải sấp sấp ngửa ngửa gom lại cả mớ cho gọn. Quỳ gối, xoài người, moi móc gầm bàn gầm ghế gầm tủ. Nếu còn cả... khăn tay... sợi thủy tinh... đồ cổ... mới thở phào nhẹ nhõm. Mẹ tôi khuỵu xuống, xoa bọng chân bị chuột rút vì đi bộ quá nhiều, mệt đến mất cả tiếng. Thế rồi, đúng trước giờ đóng cửa, từ trong bóng tối xuất hiện vị khách xấu hổ. Ông ta nhẹ nhàng lẻn vào, thì thầm giải thích rằng ông ta muốn bán một vật nhỏ, kỷ niệm gia đình, giở tờ giấy báo gói ra. Cửa hiệu chúng tôi thấy món đồ chẳng đáng giá là bao, hẹn sáng mai sẽ trả tiền sau khi rửa sạch nó ở bồn nhà bếp. Ông ta rút lui, lí nhí chào “tạm biệt”. Chuyến xe tuyến Panthéon-Courcelles lao nhanh qua sát sạt cửa hiệu. Bố tôi từ văn phòng trở về, nhìn đồng hồ từng giây. Ông nơm nớp. Phải nhanh lên thôi. Ông đặt chiếc mũ cứng xuống, với tay lấy chiếc cát két trên mắc. Chúng tôi còn phải ăn xong bát mì rồi đi giao hàng. Chúng tôi tắt đèn trong cửa hiệu. Mẹ không phải là tay bếp cừ, nhưng cứ làm phứa một món nhôm nhoam gì đó. Nếu không phải “canh trứng” thì ắt là “macaroni”. Tàn bạo. Sau món mì, chúng tôi ngồi yên một lúc, suy ngẫm vì lợi ích của dạ dày. Mẹ cố tìm cách làm chúng tôi nhãng đi, pha loãng sự ngượng nghịu. Nếu tôi lặng thinh không đáp, mẹ vẫn ngọt ngào gặng thêm... “Con biết đấy, mẹ đã cho cả bơ vào!” Đằng sau bức bình phong thêu, là ánh sáng khí đốt. Bát đĩa chìm trong bóng tối. Mẹ kiên cường lấy thêm mì vào đĩa mình để kích thích chúng tôi... Phải tợp cả một ngụm vang đỏ mới nuốt trôi, khỏi phải ói ra. Cái khoảnh chúng tôi ngồi ăn còn là chỗ giặt giũ và xếp những đồ phế thải... Có hàng chồng hàng đống... Những thứ không hàn vá được nữa, không bán cho ai được, không phô ra được, những thứ gớm guốc nhất. Từ cửa sổ nhỏ thông gió, những mảnh vải thõng xuống chấm cả vào đĩa xúp. Không hiểu sao vẫn còn sót lại một cái lò than tổ bố với cái nắp đậy to tướng chiếm hẳn một nửa không gian. Cuối cùng, chúng tôi lật đĩa để thưởng thức chút mứt quả. Giống như cảnh trí một bảo tàng lưu giữ sự dơ bẩn. Từ sau khi đi khỏi Courbevoie, bà ngoại và bố tôi không nói với nhau nữa. Mẹ thì luôn miệng liến láu để hai người khỏi ném bất cứ vật gì vào đầu nhau. Sau khi nuốt trôi món mì và nếm náp tí mứt, chúng tôi lên đường. Chúng tôi gói món hàng bán được trong một tấm vải bố to tướng. Hầu như bao giờ cũng là một món đồ gỗ bày phòng khách, một thứ vặt vãnh, đôi khi là một bàn phấn. Bố tôi đeo nó lên vai và chúng tôi đi về phía quảng trường Concorde. Từ quãng những đài phun nước Fontaines Gicleuses trở đi, tôi bắt đầu thấy hơi sợ ông. Lên đến đại lộ Champs-Élysées là đêm tối mênh mông. Bố tôi thoăn thoắt như kẻ trộm. Tôi phải vất vả lắm mới theo kịp. Cứ như là ông muốn cho tôi rớt vậy. Tôi những muốn ông trò chuyện với tôi, nhưng ông chỉ lầm bầm chửi rủa những người nảo người nào không biết. Tới quảng trường Ngôi Sao, ông đã mồ hôi đầm đìa. Chúng tôi dừng lại một lúc. Đến trước chung cư của vị khách, phải tìm “lối cửa sau”. Khi giao hàng ở Auteuil, bố tôi hòa nhã hơn. Ít rút đồng hồ ra coi giờ hơn. Tôi trèo lên thành cầu, bố giải thích cho tôi nghe về những chiếc tàu kéo... những đèn hiệu màu xanh... những hiệu còi giữa các đoàn tàu với nhau... “Chẳng mấy chốc nó sẽ tới ‘Point du jour’!” Chúng tôi thán phục con tàu rách ì ạch và chúc nó thượng lộ bình an... Vào những buổi tối giao hàng ở khu Ternes bố tôi trở nên bẳn tính khủng khiếp, nhất là khi khách hàng là nữ... Ông chúa ghét họ. Ngay từ lúc xuất phát, ông đã cáu sẵn rồi. Tôi còn nhớ cái lần chúng tôi đến phố Demours. Trước cửa nhà thờ, ông đã cho tôi một cái bạt tai, một cú đá điên khùng để thúc tôi lao nhanh qua đường. Lúc tới nhà bà khách, tôi hết nhịn nổi, bật khóc. “Thằng ranh con, ông mắng tôi, rồi tao sẽ cho mày có cớ để mà khóc...” Cõng chiếc bàn trà nhỏ trên lưng, ông leo cầu thang đằng sau tôi. Chúng tôi bấm chuông nhầm cửa. Tất cả các bà các cô ngó ra xem có chuyện gì... Tôi khóc rống lên như một con bê.... Tôi cố tình làm thế... Tôi muốn ông điên tiết! Một quả xì căng đan! Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm đúng cái nút chuông cần bấm. Cô hầu phòng mở cửa đón chúng tôi. Cô tỏ vẻ thương cảm đối với tôi. Bà chủ tới trong tiếng sột soạt áo váy. “Ôi chao, thằng bé hư đốn! xấu tính! Nó làm cha nó nổi đóa!” Bố tôi không còn biết chui vào đâu. Giá rúc được vào một cái ngăn kéo, ông cũng rúc. Bà khách hàng muốn an ủi tôi. Bà rót cho bố tôi một ly cô nhắc. Bà bảo thế này: “Anh bạn ạ, anh hãy đánh bóng cái bàn nhỏ này đi! Tôi e nước mưa sẽ làm nó bị ố...” Cô giúp việc đưa cho ông một chiếc giẻ và ông bắt tay vào việc. Bà khách hàng gạ cho tôi ăn kẹo. Tôi theo bà vào phòng. Cô hầu phòng cũng vào theo. Bấy giờ bà khách bèn nằm ngửa ra giữa mớ đăng ten, rồi đột nhiên tốc chiếc áo choàng tắm lên, phô hết cả đùi vế to bự, cả phao câu và gò mu lông lá, cái mụ man rợ! Mụ đưa mấy ngón tay ngó ngoáy vào bên trong... “Này chú bé xinh xỉnh xinh xinh!... Đến đây nào cưng!... Đến mút cái bên trong này này!...” Mụ mời mọc tôi bằng một giọng thật dịu dàng... thật âu yếm... như chưa từng có ai nói với tôi như thế. Mụ banh nó ra, nó chảy nước. Ả hầu phòng cười ngặt nghẽo. Chính điều đó đã ngăn tôi lại. Tôi ù té vào trong bếp. Tôi thôi không khóc nữa. Bố tôi được một khoản tiền “boa”. Ông không dám bỏ vào túi mà cứ nhìn nó hoài. Ả hầu phòng vẫn còn cười. “Anh không muốn nhận à?” ả nói với bố tôi. Ông nhảy chồm xuống cầu thang, quên cả tôi. Tôi chạy theo ông trên phố. Tôi gọi ông suốt dọc đại lộ: “Bố! Bố ơi!” Đến quảng trường Ternes, tôi mới bắt kịp ông. Chúng tôi ngồi nghỉ. Trời rét. Chả mấy khi ông hôn tôi. Ông siết chặt tay tôi. “Phải, con trai bé bỏng ạ!... Phải, con trai bé bỏng ạ!...” ông cứ nhắc đi nhắc lại như thế một mình... mắt đăm đăm nhìn ra phía trước... Xét cho cùng, ông là người tình cảm. Tôi cũng là người tình cảm. Cuộc đời không phải là chuyện tình cảm. Chúng tôi về thẳng phố Babylone. Bố tôi chả tin những trò của trí tưởng tượng. Ông thường nói chuyện một mình trong những góc kín. Ông không muốn bị cuốn đi... Trong lòng ông, chắc là sôi sục lắm... Ông sinh ở Le Havre. Ông biết mọi điều về những con tàu biển. Một cái tên luôn luôn trở lại với ông là thuyền trưởng Dirouane chỉ huy tàu “Thành Troy”. Ông đã thấy nó xuất phát, rời vũng Barre. Nó không bao giờ trở lại. Nó đã mất tăm, cả người lẫn của, ngoài khơi Florida. “Một hải thuyền ba cột buồm đẹp tuyệt trần!” Một con tàu khác, tàu “Gondriolan” của Na Uy, bị quá tải đã đâm sầm vào cửa cống... Ông kể là do tay lái dở. Đã hai mươi năm rồi mà nhắc lại, ông vẫn còn thất kinh... vẫn còn phẫn nộ... Thế rồi ông lại rút vào trong góc... Lại ngẫm ngợi sự đời. Em trai ông, chú Antoine, thì khác. Chú đã anh dũng thô bạo dập tắt mọi nhiệt huyết giang hồ. Chú cũng sinh ra ở rất gần Cột tín hiệu lớn... Khi ông nội tôi mất - ông là giáo sư khoa tu từ - chú vội vàng vào cục “Cân Đo”, một chỗ làm thật sự ổn định. Để hoàn toàn chắc ăn, chú lại lấy luôn một nàng ở cục “Thống kê”. Nhưng rồi những thèm muốn miền viễn xứ lại trở về giày vò chú... Gió vẫn nổi trong da thịt chú, chú chưa cảm thấy bị chôn vùi, chú không ngừng co hẹp lại. Cùng với vợ, chú thường đến thăm chúng tôi vào ngày Tết dương lịch. Họ dè sẻn, bóp mồm bóp miệng, nhịn ăn, nhịn tiêu, chẳng trò chuyện với ai, đến nỗi hôm họ ngoẻo, dân phố chẳng ai còn nhớ họ nữa. Ai cũng ngạc nhiên. Họ chết âm thầm, chú Antoine vì ung thư, còn cô Blanche thì do nhịn ăn. Người ta tìm thấy cô ở Buttes-Chaumont. Đó là nơi họ thường đến vào những kỳ nghỉ. Dù sao đi nữa, để tự sát, họ đã mất tới bốn mươi năm luôn luôn bên nhau. Em gái cha tôi, cô Hélène, thì không như thế. Cô thả cho buồm cô căng gió. Cô đã nếm trải đủ mùi ở nước Nga. Tại Saint Petersburg, cô đã làm điếm. Một thời kỳ, cô đã có đủ thứ, xe ngựa sang trọng, ba xe trượt, cả một ngôi làng riêng mang tên cô. Cô đã đến thăm chúng tôi hai lần liền ở Bérésinas, diện ngất, lộng lẫy như một bà hoàng và ngời ngời hạnh phúc. Cô đã kết thúc bi thảm dưới những viên đạn của một sĩ quan. Cô tôi không có chút ý chí nào. Toàn nhục dục, khát khao, âm nhạc thôi. Chỉ nghĩ đến cô là bố tôi đã lộn mửa. Khi nghe tin cô chết, mẹ tôi kết luận: “Đó quả là một kết thúc khủng khiếp! Nhưng là kết thúc của một người đàn bà ích kỷ!” Tôi còn có chú Arthur, cũng chả là bậc mô phạm gì! Chú cũng có thừa nhục dục. Bố tôi có cảm tình với chú ấy, theo một sở thích nào đó. Chú sống như một gã di gan thực sự, bên lề xã hội, trong một căn gác xép, cặp với một cô người hầu. Cô này làm ở một tiệm ăn trước cửa trường Quân sự. Phải thừa nhận rằng chính nhờ thế mà chú được ăn uống tốt. Chú Arthur là tay ăn chơi, quần nhung kẻ, giày mũi nhọn, râu dê, tẩu thuốc thon dài. Chú chẳng ngán gì cả. Lao hết mình vào công cuộc “chinh phục”. Cứ đến kỳ hạn trả tiền nhà là chú ngã bệnh nặng. Nằm liệt giường bảy, tám ngày ở nhà một trong những bạn gái. Khi chúng tôi đến thăm chú vào ngày Chủ nhật, không phải lúc nào chú cũng cư xử đứng đắn, nhất là đối với mẹ tôi. Chú hơi nhả nhớt với mẹ. Điều đó làm bố tôi tức điên. Ra khỏi cửa, bố thề với thiên địa quỷ thần sẽ không bao giờ quay trở lại đó nữa. “Cái thằng Arthur này thật là...! Cung cách của nó mới bỉ ổi làm sao!” Tuy vậy, chúng tôi vẫn trở lại. Chú vẽ những con tàu trên tấm gỗ lớn, bên dưới cửa sổ mái, những chiếc du thuyền lướt giữa bọt sóng với đàn hải âu bay liệng xung quanh là phong cách của chú... Thỉnh thoảng chú “cày” cho một cuốn vựng tập, nhưng chú nợ như chúa Chổm đến nỗi mất hết nhuệ khí. Chú chỉ vui khi chẳng làm gì. Từ phía bên cạnh trại kỵ binh vọng lại tiếng kèn trôm pét. Chú Arthur thuộc lòng các bài đó. Cứ đến điệp khúc, chú lại bắt vào. Chú bịa thêm nhiều lời tục tĩu. Mẹ tôi, cô bạn gái người hầu của chú cứ là “ối chao, khiếp!...” Bố tôi cũng bực vì nỗi chú chẳng đếm xỉa gì đến cái tuổi ngây thơ của tôi. Nhưng người ngẩn ngơ nhất trong gia đình chắc chắn là chú Rodolphe, chú hoàn toàn mất trí. Khi có ai nói với chú, chú khẽ cười. Chú tự hỏi tự trả lời. Cứ thế hàng tiếng đồng hồ. Chú chỉ muốn sống ngoài trời thôi. Chẳng bao giờ chịu làm cho một cửa hàng hoặc một văn phòng nào, dù là chân gác cửa, dù là làm đêm. Đến bữa, chú thích ăn ở ngoài trời, trên một chiếc ghế băng. Chú nghi ngại không gian trong nhà. Cùng bất đắc dĩ, khi thật sự quá đói, chú mới mò đến nhà chúng tôi. Chú thường xuất hiện vào buổi tối. Là bởi chú chịu quá nhiều thất bại. “Cửu vạn”, công việc thất thường của chú ở các ga xe lửa, là một nghề cần sức chịu đựng dẻo dai. Chú đã làm việc này hơn hai mươi năm. Chú có tay trong ở tàu tốc hành “Đô thị”. Chú đã chạy như thỏ sau những cỗ xe ngựa thuê và những kiện hành lý suốt một thời gian dài đến mức tối đa có thể. Chú thường say xỉn vào dịp thiên hạ đi nghỉ trở về. Làm công việc của chú rất mau đói, và luôn luôn khát. Các tay xà ích rất khoái chú. Ở bàn ăn, chú đến là ngộ. Chú đứng dậy với ly rượu trong tay, cụng ly chúc sức khỏe mọi người, cất giọng hát... Chú ngừng lại giữa chừng... Chú vô cớ cười sằng sặc chẳng ăn nhập vào đâu, chú nhỏ dãi đầy khăn ăn... Người ta dìu chú về nhà. Chú vẫn cười ngặt nghẽo. Chú ở phố Lepic, khu nhà “Rendez-vous du Puy-de-Dôme”, một căn buồng nhìn ra sân. Đồ lề tư trang của chú lỏng chỏng trên sàn, không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Vào dịp Hội chợ Triển lãm, chú đóng vai “Người Hát Rong”. Chú làm nhiệm vụ chèo kéo khách cho tiệm “Vieux Paris” trên kè sông Seine, trước những hang động bằng các tông. Trang phục chú là những mảnh chắp vá đủ màu. “Xin mời vào mục sở thị thời Trung cổ...” Chú tự sưởi ấm bằng cách la hét và giậm chân. Buổi tối, khi chú đến ăn tối trong bộ đồ vũ hội carnaval, mẹ tôi dành riêng cho chú một “bình ủ ấm”. Chân chú bao giờ cũng bị lạnh. Đã vậy còn làm phức tạp thêm cơ sự, chú cặp với một gái giang hồ, cô Rosine, cũng làm cò mồi ở cửa bên kia trong một hang động bằng các tông sơn. Tội nghiệp, cô ta lao phổi, dạo ấy đã ho ra máu. Không kéo dài được đến ba tháng. Cô chết ngay trong phòng chú ở “Rendez-vous”. Chú không muốn người ta mang cô đi. Chú khóa chặt cửa phòng. Tối về, chú nằm bên cạnh. Do bốc mùi, người ta mới biết. Bấy giờ chú đâm nổi khùng. Chú không hiểu rằng vạn vật đều chết. Phải dùng vũ lực mới đưa được cô đi chôn. Chú muốn đích thân mang cô trong một cái “sọt” đến tận nghĩa trang Pantin. Cuối cùng, chú lại trở về vị trí đứng canh trước L’Esplanade. Mẹ tôi rất bất bình. “Ăn mặc như thằng hề! trời thì rét căm căm thế này! thật là một tội ác!” Điều làm mẹ lo lắng nhất là chú không chịu mặc áo ba đờ xuy. Chú có một cái cũ của bố tôi. Mẹ sai tôi ra xem sao, tôi chưa đến tuổi nên có thể qua cửa quay mà không phải trả tiền. Chú ở đó, đằng sau giậu sắt, trong trang phục người hát rong. Chú Rodolphe của tôi lại trở nên tươi hơn hớn. “Chào! chú nói. Chào, con trai bé bỏng của ta!... Con trông thấy Rosine của ta chứ?...” Chú chỉ về phía xa hơn dòng sông Seine, cả một dải đồng bằng... một chấm nhỏ trong sương mù... “Con nhìn thấy Rosine chứ?” Tôi nói “Vâng”. Tôi không cãi lại chú. Với bố mẹ tôi, tôi nói là chú không sao. Rodolphe con người hoàn toàn sống nhờ tinh thần! Cuối năm 1913, chú đi theo một gánh xiếc. Chúng tôi không biết rồi chú ra sao. Chúng tôi không bao giờ gặp lại chú nữa. Chúng tôi rời bỏ phố Babylone để mở lại cửa hàng ở ngõ(15) Bérésinas nối Sở Giao dịch Chứng khoán với khu đại lộ, thử vận may một lần nữa. Chúng tôi ở luôn bên trên cửa hàng, ba phòng trên gác nối liền nhau bằng một cầu thang trôn ốc. Mẹ tôi tập tễnh lên lên xuống xuống suốt. Cộp! Cạch! Cộp! Cạch! Mẹ bám vào tay vịn cầu thang. Bố tôi nghe thấy thế là co quắp lại. Bình thuờng ông vốn đã quàu quạu vì thời gian dài vô tận. Suốt ngày ông giở đồng hồ ra xem giờ. Nay lại thêm mẹ tôi với những bước chân ấy, hơi một tí là đủ làm ông nổi đóa. Trên cùng, căn phòng cuối của chúng tôi nhìn ra mái lợp kính của ngõ Bérésinas, tức là nhìn ra ngoài trời, cửa sổ có chấn song sắt để ngăn trộm và mèo. Đó là phòng ngủ của tôi, đó cũng là nơi bố tôi có thể lên ngồi vẽ những lúc giao hàng trở về. Ông hí hoáy với những bức tranh màu nước và khi nào xong, ông thường làm bộ đi xuống để bắt quả tang tôi đang thủ dâm. Ông rình trong cầu thang, nhưng tôi lẹ hơn ông. Ông chỉ bắt được tôi mỗi một lần. Tuy nhiên ông vẫn kiếm ra cớ để cho tôi ăn đòn. Giữa chúng tôi là một trận đấu. Chung cuộc, tôi vẫn xin lỗi ông vì đã hỗn xược... Chỉ là diễn thôi, vì thực ra đâu phải thế. Ông lục vấn tôi, rồi chính ông lại thay tôi trả lời. Đánh đòn tôi xong, ông còn ngồi rất lâu sau song sắt, ngắm trăng sao, ngắm bầu khí quyển, ngắm đêm cao vời vợi trước mặt chúng tôi. Đó là khoang chỉ huy của ông. Tôi biết, ông đang chỉ huy con tàu Đại Tây Dương. Hễ mẹ tôi làm ngắt quãng, gọi ông xuống nhà, là ông lại bắt đầu càu nhàu. Hai người đụng nhau trong đêm tối, trong đoạn cầu thang hẹp giữa tầng hai và tầng ba. Mẹ hứng một cái bạt tai và một bồ mắng nhiếc. Tằng! tằng! tằng! Tằng! tằng! tằng! Khóc sụt sịt dưới loạt đạn liên thanh ấy, mẹ trở xuống tầng hầm với mớ hàng tầm tầm của mình. “Đừng có quấy rầy tôi! Thiên địa quỷ thần! Tôi đã làm gì để phải chịu thế này?...” Câu hỏi gầm lên làm rung chuyển cả nhà. Ông đi vào cuối gian bếp chật hẹp, tự rót cho mình một ly vang đỏ. Không ai dám ho he một tiếng nào nữa. Thế là ông được yên thân. Ban ngày, tôi có bà ngoại, bà dạy tôi đọc chút ít. Bản thân bà cũng không biết nhiều lắm, bà học rất muộn, khi đã có mấy con. Tôi không thể nói là bà dịu dàng hay âu yếm, nhưng bà không nói nhiều, thế đã tuyệt lắm rồi; hơn nữa, bà không bao giờ tát tôi!... Bà thậm ghét bố tôi. Bà không chịu nổi bố tôi với những bộ dạng ra cái điều học thức, cao đạo, những cơn khùng ngu ngốc cùng cả mớ những ì xèo kêu rêu của kẻ phẫn chí. Bà thấy con gái mình cũng thật dại mới đi lấy một thằng cha vét đĩa lương tháng bảy mươi phơ răng như vậy trong ngành bảo hiểm. Còn về thằng nhóc là tôi đây, bà chưa xác định nên nghĩ thế nào về nó, bà đang còn quan sát. Bà là một phụ nữ cá tính. Ở ngõ Bérésinas, bà đã không ngừng hỗ trợ chúng tôi chừng nào còn có thể với những gì còn lại từ vốn liếng và số hàng cũ của bà. Chúng tôi chỉ để một tủ kính sáng đèn, tủ kính duy nhất mà chúng tôi có đủ hàng để bày... Một mớ hàng mỹ nghệ linh tinh, bạc bẽo, cũ kỹ bệu rệch, trông vào đó thì có mà “treo niêu”... Đành cầm cự bằng cách bóp mồm bóp miệng, toàn ăn mì và cuối tháng lại mang hoa tai của mẹ tôi đến hiệu cầm đồ... Đến bữa có chút cháo cầm hơi đã là may mắn rồi. Có được chút thu nhập là nhờ sửa chữa đồ. Chúng tôi nhận với bất kỳ giá nào, rẻ hơn bất kỳ nơi nào. Giao trả hàng vào mọi giờ giấc. Chỉ cần lời được bốn mươi xu, chúng tôi sẵn sàng phi đến tận công viên Saint-Maur, hai chiều đi-về. “Đối với những người dũng cảm thì không bao giờ là muộn cả,” mẹ tôi nhận xét với giọng vui đùa. Điểm mạnh của mẹ là tinh thần lạc quan. Tuy nhiên, muộn đến mức như bà Héronde thì thật quá quắt. Mỗi lần chờ đợi bà là cả một bi kịch, cả lũ chúng tôi thiếu nước chết đói. Bố tôi ở sở về từ năm giờ, lo đến run người, tay không rời chiếc đồng hồ. “Clémence, tôi đã nhắc đi nhắc lại với mình hàng trăm lần... Nếu bà ta để bị mất trộm thì chúng ta sẽ ra sao đây? Cái tay chồng bà ấy cái gì cũng đem bán tuốt!... Y suốt ngày ở nhà thổ, tôi biết mà!... Rõ ràng là thế!...” Ông leo lên tầng bốn. Trên đó, ông vẫn không thôi gầm gào. Rồi lại xuống cửa hàng. Nhà chúng tôi thật giống cái phong cầm. Tăng âm từ trên xuống dưới. Tôi đến tận phố Pyramides rình ngóng bà Héronde. Nếu không thấy bà đến với cái bọc to hơn người bà, tôi phóng về, chưng hửng. Tôi còn phải chạy ra đó lần nữa. Cuối cùng, khi đã tuyệt vọng, yên trí là bà đã mất tăm, thì tôi lại vớ được bà ở phố Thérèse, hổn hển giữa đám đông cuồn cuộn như sóng, còng lưng dưới bọc đồ. Tôi lôi bà về đến ngõ Bérésinas. Vào đến cửa hàng, bà đổ gục xuống. Mẹ tôi tạ ơn trời. Bố tôi không muốn thấy cảnh đó. Ông trở lên căn gác xép của mình, mỗi bước lại nhìn đồng hồ, tô điểm lại toàn bộ nỗi ám ảnh của mình. Ông chuẩn bị cho nỗi kinh hoàng khác, cơn “Đại hồng thủy” chẳng bao lâu nữa sẽ tới... Ông tập dượt ... Chúng tôi bị một vố ở nhà Pinaise. Mẹ con tôi hối hả đến trình bộ đăng ten chọn lọc, quà mừng cho một đám cưới. Nhà họ là một thứ cung điện, ngay trước cầu Solférino. Tôi còn nhớ những gì đập vào mắt tôi đầu tiên... Đó là những chiếc bình to cao đến nỗi có thể trốn vào bên trong được. Bày la liệt, chỗ nào cũng thấy. Những người này giàu nứt đố đổ vách. Người ta đưa chúng tôi lên phòng khách. Bà Pinaise mỹ miều cùng ông chồng đang ở đó... Họ chờ chúng tôi. Họ tiếp chúng tôi một cách nhã nhặn. Mẹ tôi lập tức bày các thứ ra trước mặt họ... trên tấm thảm. Mẹ quỳ gối... như thế tiện hơn. Mẹ nói đến khản giọng, mẹ ra sức trình bày. Họ nấn ná kéo dài, họ chưa thể quyết định được, họ điệu bộ, õng ẹo. Bà Pinaise ngả người thoải mái trên đi văng trong chiếc áo choàng tắm đầy dải băng. Ông chồng dắt tôi ra phía sau, thân ái vỗ nhẹ mấy cái, sờ soạng tôi tí chút... Mẹ tôi vẫn ngồi dưới sàn, ráng hết sức, bới tìm, vung những món hàng lên... đến nỗi xổ cả búi tóc, mặt nhễ nhại mồ hôi, trông mà phát khiếp. Mẹ thở không ra hơi! Mẹ cuống lên, tay kéo bít tất, búi tóc lủng liểng xõa cả xuống mắt. Bà Pinaise xáp lại bên tôi. Cả hai vợ chồng thích thú mân mó tôi. Mẹ tôi vẫn nói. Lời rao hàng của mẹ lúc này chẳng ích gì. Tôi sắp xuất ra quần... Một ánh chớp, tôi thấy mụ Pinaise... mụ đã thó một chiếc khăn tay... giấu nhẹm vào trong ngực. “Xin chúc mừng bà. Bà có cậu con trai thật là dễ thương...” Họ đóng kịch thế thôi, họ chẳng muốn gì nữa hết. Chúng tôi mau chóng gói ghém lại. Mẹ tôi đổ mồ hôi hột, mặc dù vậy vẫn tươi cười. Mẹ không muốn làm mếch lòng ai. “Thôi để lần khác vậy!... mẹ lễ phép cáo lỗi. Tôi rất tiếc đã không làm ông bà thích!...” Ra khỏi cửa, trên phố, mẹ thì thào hỏi tôi có thấy mụ ta nhét chiếc khăn tay vào coóc xê không. Tôi đáp không. “Bố con sẽ phát ốm mất! Chiếc khăn tay ấy là hàng ký gửi! ‘Một chiếc Valencienne thêu lộng!’ Nó là của nhà Grégués, không phải của chúng ta! Nhưng con nghĩ xem! Nếu mẹ lấy lại thì chúng ta mất đi một khách hàng!... Không chỉ mình mụ ta mà cả lũ bạn mụ ta nữa!... Sẽ là một vụ bê bối!...” “Clémence, tóc mình xổ tung kìa! Xõa cả vào mắt! Tội nghiệp, mình xanh rớt! Và phờ phạc nũa! Mình cứ chạy đôn chạy đáo thế này khéo chết mất!...” Đó là nhũng lời đầu tiên bố tôi thốt ra khi mẹ con tôi về tới nhà. Để không rời mắt khỏi chiếc đồng hồ quả quýt, ông treo nó trong bếp bên trên thùng mì sợi. Ông lại nhìn mẹ. “Clémence, mặt mình tái nhợt, thật đấy!” Chiếc đồng hồ là để chúng tôi dứt điểm... với những món trứng, bột, thịt nhừ... với cả sự mệt mỏi và tương lai. Ông phát ngấy rồi. “Để em nấu cái gì ăn,” mẹ đề xuất vậy. Bố không muốn mẹ đụng đến cái gì... Càng không muốn thấy mẹ hí hoáy với chai lọ. “Tay mình dây bẩn kìa. Mình mệt bã ra rồi!” Mẹ dọn bữa. Đánh rớt một cái đĩa. Bố nổi cáu, lao tới đỡ hộ. Nhà chúng tôi quá chật, đâu đâu cũng có thể va vấp, không có chỗ cho một người khùng như ông. Cái bàn chao đảo, những chiếc ghế bắt đầu nhảy valse. Cảnh hỗn loạn gớm ghiếc. Bố mẹ tôi chồ vào nhau. Lồm cồm đứng dậy đầy vết bầm tím. Chúng tôi quay về với món tỏi tây trộn dầu. Đây là thời điểm tâm sự... “Rốt cuộc, mình chả bán được gì, phải không?... Vất vả như thế mà công toi?... Tội nghiệp cưng!...” Bố tôi thở dài thườn thượt. Ông thương hại mẹ. Ông nhìn thấy tương lai mù mịt, chúng tôi sẽ không bao giờ thoát khỏi khốn cùng. Bấy giờ mẹ bèn tông tốc phun ra hết... chuyện chiếc khăn tay bị mất cắp... trong hoàn cảnh như thế nào... “Làm sao? Bố tôi không hiểu. Thế mà mình không hô hoán lên là có kẻ trộm? mình để kệ chúng đánh xoáy như thế? Mồ hôi nước mắt của chúng ta?!” Bố nổi cơn lôi đình đến nỗi như muốn nổ tung ra... Chiếc vét tông bựt chỉ tanh tách khắp chỗ... “Thật thảm khốc!” ông gào lên. Dù vậy mẹ vẫn rền rĩ mấy lời xin lỗi... Ông không buồn nghe. Lúc này ông vớ lấy con dao, cắm phập vào giữa đĩa thức ăn, đáy đĩa vỡ toác, nước xuýt mì tràn ra lênh láng. “Không! không! tôi hết chịu nổi rồi!” Ông chạy quanh, lồng lộn, lấy chiếc tủ bát đĩa nhỏ kiểu Henri III. Lay như lay cây mận đầy quả chín. Bát đĩa rơi rào rào. Bà Méhon, thợ may coóc xê ở cửa hàng đối diện với chúng tôi, lại gần cửa sổ để cười cho thỏa thích. Đó là kẻ thù không mệt mỏi, bà ta ghét chúng tôi từ lâu. Nhà Perouquière bán sách cách chúng tôi hai cửa hàng thì mở toang cửa sổ, họ chả việc gì phải ngại ngùng. Họ chống khuỷu tay lên cửa kính quan sát... Mẹ tôi sắp ăn đòn là cái chắc. Riêng phần tôi, tôi chẳng ưa ai hơn ai. Xét về to mồm la hét và ngu đần thì tôi thấy họ y hệt nhau... Mẹ đánh nhẹ đòn hơn, nhưng thường xuyên hơn. Thế tôi thích người ta giết ai hơn? Tôi nghĩ, đó vẫn là bố tôi. Họ không muốn để tôi thấy. “Lên phòng mày đi, ôn con!... Đi nằm đi! Cầu kinh đi!...” Ông gầm rống, ông xông tới, ông bùng nổ, ông oanh tạc gian bếp. Không còn gì treo trên những chiếc đinh nữa.... Tất cả nồi niêu xoong chảo thành bom... bùm... cắc... xoảng... Mẹ tôi quỳ gối xin trời dung tha... Bằng một cú song phi, ông hất tung cái bàn... đè lên mẹ. “Chạy đi, Ferdinand!” mẹ còn kịp kêu lên với tôi. Tôi nhảy chồm lên. Chạy qua một thác thủy tinh và mảnh vụn... Ông đập cây dương cầm, vật thế chấp của một bà khách... Ông không còn biết gì nữa. Ông nện gót, bàn phím vỡ tung... Giờ đến lượt mẹ tôi hứng đòn... Từ phòng mình, tôi nghe thấy mẹ rú lên... “Auguste! Auguste! Em xin mình!...” rồi những tiếng hức nghẹn. Tôi xuống một đoạn để xem ra sao... Ông lôi mẹ xềnh xệch dọc thành cầu thang. Mẹ níu lại. Bám chặt lấy cổ ông. Nhờ thế mà thoát... Chính ông đã gỡ ra... đẩy mẹ ngã ngửa... Mẹ lộn phộc... lăn lông lốc trên bậc cầu thang... nghe bình bịch... Mẹ lồm cồm bò dậy dưới chân cầu thang... Còn bố tôi thì bỏ đi luôn. Ông chuồn theo lối cửa hàng... Tếch ra ngoài. Mẹ đứng được dậy... trở lên gian bếp. Tóc bết máu. Mẹ gội đầu ở bồn rửa bát... Mẹ khóc... Mẹ nghẹn ngào... Mẹ quét dọn lại tất cả những mảnh vỡ... Những lần như thế, ông về rất muộn... Tất cả lại trở nên lặng tờ... Bà ngoại hiểu rõ rằng tôi cần được vui chơi, rằng cứ ru rú trong cửa hàng là không lành mạnh. Nghe hoài ông bố điên khùng của tôi rống lên những điều ngu ngốc, bà đến đau tim mất. Bà đã mua một con chó nhỏ để tôi có thể giải trí một chút trong khi chờ đợi khách hàng. Tôi muốn đối với nó như bố tôi đối với tôi. Những lúc có mình tôi với nó, tôi cho nó những cú đá thật hiểm. Nó chui vào gầm bàn rên ư ử. Nó nằm bẹp xin tha tội. Nó làm y hệt tôi. Đánh nó chẳng làm tôi thích thú gì, thà hôn nó còn hơn. Cuối cùng, tôi quay ra vuốt ve nó. Thế là nó cửng lên. Nó theo chúng tôi đi khắp nơi, kể cả đi xem phim ở rạp Robert Houdin(16) vào thứ Năm, buổi ban ngày. Khoản này cũng do bà ngoại đãi. Chúng tôi ở lì xem ba suất liền. Giá đồng loạt, một phơ răng cho tất cả các hạng, phim câm hoàn toàn, không lời thoại, không nhạc, không chữ, chỉ có tiếng ro ro của máy chiếu. Người ta xem đi xem lại, người ta có thể mệt đủ mọi thứ, trừ ngủ và mơ màng, sắp chiếu lại Du hành lên Mặt trăng(17)... Phim này đến giờ tôi vẫn còn thuộc lòng ... Mùa hè nhiều khi chỉ có hai chúng tôi, bà ngoại Caroline và tôi, trong phòng lớn trên lầu một. Cuối cùng, chị soát vé ra hiệu cho chúng tôi ra khỏi rạp. Chính tôi đánh thức bà ngoại và con chó. Sau đó, chúng tôi hối hả lách qua đám đông và phố phường tấp nập. Lần nào cũng về muộn. Tới nhà, thở không ra hơi. “Cháu thích cái ấy chứ?” bà ngoại Caroline hỏi tôi. Tôi không trả lời, tôi không thích những câu hỏi kín kín hở hở. “Cái thằng bé này tính khí không cởi mở,” những người hàng xóm cho là như vậy. Trên đường về, đến góc ngõ Bérésinas của chúng tôi, bà ngoại còn mua cho tôi một số họa báo Những truyện phiêu lưu kỳ thú ở sạp của bà bán báo có cái lò than nhỏ sưởi chân. Thậm chí bà còn giúp tôi bằng cách giấu nó vào trong người, dưới ba lần váy lót. Bố tôi không muốn tôi đọc những thứ vô bổ như vậy. Ông cho rằng những thứ ấy làm chệch hướng, không chuẩn bị cho ta bước vào đời, rằng tôi nên học vỡ lòng những điều nghiêm túc. Tôi sắp lên bảy, chẳng bao lâu sẽ đi học, không nên để người ta làm tôi lạc đường... Những đứa trẻ khác ở các cửa hiệu cũng sẽ đến trường. Giờ không còn là lúc chơi đùa. Ông thường giảng giải cho tôi như vậy về sự nghiêm túc trong cuộc đời mỗi lần đi giao hàng trở về. Dù sao, những cái bạt tai vẫn là chưa đủ. Đoán trước rằng tôi hẳn sẽ trở thành phường trộm cắp, bố tôi luôn miệng la như cái kèn đồng. Một buổi chiều, tôi đã cùng Tom làm nhẵn cả một lọ đường. Quả ấy cả nhà không bao giờ quên. Lại thêm cái tội đít quần bao giờ cũng bẩn, còn viện cớ lúc nào cũng sấp sấp ngửa ngửa không có thì giờ để chùi... Tắm rửa cũng chẳng bao giờ sạch, lúc nào cũng phải cảnh giác một cái tát có thể tới... để tránh cho nhanh... Tôi để cửa cầu tiêu mở để nghe ngóng xem có ai đến... Tôi ị như một con chim giữa hai cơn dông... Tôi nhảy chồm lên gác, mọi người không tìm thấy tôi... Tôi cứ để đít dính cứt nhiều tuần lễ. Tôi biết mình có mùi nên tránh gần mọi người. “Nó bẩn bằng cả một đàn lợn ba mươi sáu con! Chẳng có một tí tự trọng nào! Nó sẽ chẳng bao giờ kiếm sống nổi! Chủ nào rồi cũng sẽ đuổi nó thôi!”... bố tôi nhìn tương lai của tôi mù mịt như thế. “Người nó thối hoắc!... Rồi mình vẫn phải nuôi báo cô nó thôi!...” Bố tôi nhìn xa và ảm đạm. Ông nhấn mạnh bằng tiếng La tinh “Sana... Corpore sano”(18). Mẹ chẳng biết trả lời ra sao ... Trong ngõ, cách nhà chúng tôi một quãng, có một gia đình làm nghề đóng sách. Con cái họ không bao giờ ra khỏi nhà. Bà mẹ là một nữ nam tước mang họ de Caravals. Bà tuyệt đối không muốn con mình học những tiếng tục tĩu. Quanh năm suốt tháng, chúng chỉ chơi với nhau đằng sau những ô kính cửa sổ, độc một trò nhét mũi vào mồm và cả hai tay cùng lúc. Da chúng xanh như tàu lá. Mỗi năm một lần, bà de Caravals đi nghỉ một mình, thăm bà con ở vùng Périgord. Bà kể với tất cả mọi người rằng họ ra ga đón bà bằng cỗ xe “break” do bốn con ngựa “được giải đua” kéo. Rồi họ cùng đi qua những vùng lãnh địa trải dài bất tận. Trên đường vào lâu đài, những người nông dân đổ ra quỳ gối khi xe chạy qua... là bà kể như thế. Có một năm, bà mang theo cả hai đứa trẻ. Đến mùa đông, bà trở về một mình, muộn hơn thường lệ nhiều. Bà mặc đồ đại tang. Mạng che kín không thấy mặt. Bà không hề giải thích gì hết, mà lên thẳng lầu đi nằm. Không nói chuyện với ai nữa. Đối với những đứa trẻ không ra đến ngoài bao giờ, cuộc dịch chuyển là quá mạnh. Khí trời bao la đã giết chúng!... Một thảm họa như vậy khiến mọi người phải suy nghĩ. Từ phố Thérèse đến quảng trường Gaillon, người ta chỉ còn nói đến ôxy mà thôi... Suốt hơn một tháng trời ... Còn chúng tôi thì luôn có cơ hội về nông thôn. Bác Édouard, anh trai mẹ tôi, không yêu cầu gì hơn là làm chúng tôi vui thích. Bác thường đề xuất những chuyến đi chơi dã ngoại. Bố tôi không bao giờ nhận lời. Ông luôn tìm cớ để thoái thác. Ông không muốn nợ ai cái gì, đó là nguyên tắc của ông. Bác Édouard là người hiện đại, bác rất thành công trong cơ khí. Trước hết, bác rất khéo, đôi tay của bác có thể làm mọi thứ mình muốn. Bác không phải là người tiêu xài hoang phí, bác ắt không muốn lôi kéo chúng tôi, nhưng dù sao một cuộc đi chơi như vậy tất cũng khá tốn kém. “Một trăm phơ răng, mẹ tôi nói, chừng nấy ra khỏi thành phố là tan chảy ngay như nước đá!” Dù sao câu chuyện buồn của gia đình de Caravals cũng làm cả ngõ Bérésinas xúc động sâu sắc đến nỗi phải lo có biện pháp. Đột nhiên người ta phát hiện ra rằng da mọi người đều “tai tái”. Người ta truyền cho nhau những lời khuyên từ cửa hàng này sang cửa hiệu nọ. Người ta chỉ còn nghĩ đến vi trùng và tai họa nhiễm độc. Bọn trẻ con cảm thấy sự săn sóc ân cần của gia đình. Chúng phải uống dầu cá thu tăng cường, gấp bội, hàng chai, hàng thùng. Thật ra, cái đó chẳng có ích gì lắm... Nó khiến chúng nôn ọe. Càng uống chúng càng xanh xao, đứng không vững, ăn không thấy ngon. Phải thú nhận rằng ngõ Bérésinas là chốn tù đọng hôi thối không thể tưởng tượng nổi. Đây là nơi được tạo ra cho người ta chết từ từ nhưng chắc chắn, giữa cứt đái của người và của chó, những bãi khạc nhổ và khí ga rò. Độ nhiễm độc còn hơn bên trong nhà tù. Bên dưới mái kính, ánh mặt trời rỉ vào chút xíu, không bằng một ngọn nến. Tất cả mọi người bắt đầu thấy ngột ngạt. Ngõ Bérésinas đã ý thức được nguy cơ chết ngạt!... Người ta giờ chỉ nói đến nông thôn, miền núi, thung lũng và những kỳ quan thiên nhiên... Vào một Chủ nhật, bác Édouard lại xin tình nguyện đưa chúng tôi đi chơi đến tận Fontainebleau. Cuối cùng, bố tôi đành chịu thuyết phục. Bố chuẩn bị quần áo và lương thực cho chúng tôi. Chiếc xe hơi ba bánh đầu tiên của bác Édouard là một chiếc ô tô một xi lanh, trùng trục như cỗ đại bác dã chiến với ba chỗ ngồi ở đằng trước. Hôm Chủ nhật ấy, chúng tôi dậy sớm hơn thường lệ. Tôi được rửa đít thật sạch. Chúng tôi đến điểm hẹn ở phố Gaillon chờ một tiếng đồng hồ xe mới tới. Việc xuất phát không phải đơn giản. Phải mất ít nhất sáu người mới đẩy được nó từ cầu Bineau. Các bình xăng đã đổ đầy. Ống chế hòa khí phọt tứ tung. Tay lái thì trật trà trật trưỡng... Có những tiếng nổ dễ sợ. Họ đã thử khắc phục bằng tay quay, bằng dây cua roa. Ba người, rồi sáu người bắt tay vào hì hục... Cuối cùng, một tiếng nổ lớn... Động cơ bắt đầu quay. Lửa còn bùng lên hai lần nữa... nhưng được nhanh chóng dập tắt. Bác tôi nói: “Mời quý bà lên! Tôi nghĩ bây giờ máy nóng rồi! Ta có thể lên đường!...” Phải dũng cảm lắm mới dám ở yên trên xe. Đám đông xúm lại xung quanh. Bà ngoại Caroline, mẹ tôi và tôi ngồi kẹt cứng, bó chặt trên chiếc ghế ngắn, lèn như nêm giữa những quần áo và dụng cụ lỉnh kỉnh đến nỗi chỉ còn lưỡi tôi là có thể thè ra được. Tuy nhiên, trước khi khởi hành, tôi cũng ăn một cái bợp tai để đừng có tưởng mình muốn làm gì thì làm. Chiếc ô tô ba bánh thoạt đầu chồm lên rồi lại nằm im... Nó rùng mình hai, ba cú nữa... Những tiếng răng rắc rùng rợn và những tiếng phì phì... Đám đông lùi lại, khiếp sợ. Chúng tôi đã tưởng thế là đi """