" Chế Độ Công Điền Công Thổ Trong Lịch Sử Khẩn Hoang Lập Ấp Ở Nam Kỳ Lục Tỉnh - Nguyễn Đình Đầu full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chế Độ Công Điền Công Thổ Trong Lịch Sử Khẩn Hoang Lập Ấp Ở Nam Kỳ Lục Tỉnh - Nguyễn Đình Đầu full prc pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo 16058 Mục lục Lời giới thiệu - Tủ sách góc nhìn sử Việt Quy cách biên tập Lời giới thiệu Mở đầu PHẦN I: LỊCH SỬ KHẨN HOANG LẬP ẤP VÀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT TẠI ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH 1. Người Việt đầu tiên tới khai hoang Đồng Nai - Gia Định (Giai đoạn 1594 - 1698) 2. Chính quyền được thành lập dần từ 1968 đến 1757 tại khắp Nam Kỳ 3. Cung cách khẩn hoang lập ấp và chế độ điền thổ dưới thời chúa Nguyễn PHẦN II: CHẾ ĐỘ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ ĐƯỢC CỦNG CỐ TẠI NAM KỲ LỤC TỈNH 1. Nhà nước tham gia khai hoang, tạo điều kiện phát sinh chế độ công điền công thổ (Giai đoạn 1800 - 1836) 2. Thiết lập chế độ công điền công thổ (Giai đoạn 1836 - 1850) 3. Củng cố công điền công thổ bằng đồn điền (Giai đoạn 1850 - 1860) 4. Phỏng tính tỷ lệ công điện công thổ ở Nam Kỳ trước khi bị Pháp thống trị Kết luận PHỤ LỤC 1. Chú thích về lính đồn điền 2. Chú thích về đồn điền cũ của An Nam tại Nam Kỳ Phụ lục 3. Ghi chú về dân số ở Rạch Giá và huyện Cà Mau do M. Benoist 4. Vấn đề ruộng đất 60 làng cũ ở Sài Gòn 5. Mẫu điền bạ Thư mục tham khảo Tủ sách Alpha di sản - Góc nhìn sử Việt Chú thích LỜI GIỚI THIỆU - TỦ SÁCH GÓC NHÌN SỬ VIỆT Bạn đọc thân mến! Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước. Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù đang có những tranh luận - tạo nên lịch sử đó. Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội. Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước. Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản. Xin trân trọng giới thiệu. Công ty Cổ phần Sách Alpha QUY CÁCH BIÊN TẬP Tủ sách “Góc nhìn sử Việt” ra đời, mục đích giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm hay, có giá trị, đồng thời góp phần bảo lưu gìn giữ những giá trị văn hóa của đất nước. Để thực hiện bộ sách này, chúng tôi tuân thủ một số quy cách sau: Bảo toàn văn phong, nội dung nguyên gốc, từ ngữ mang đậm văn hóa vùng miền trong tác phẩm (trừ khẩu âm). Biên tập đối chiếu trên bản gốc sưu tầm được và có ghi rõ tái bản trên bản năm nào. Chú thích từ ngữ cổ, từ Hán Việt. Tra cứu bổ sung thông tin: tiểu dẫn, tiểu sử, sự kiện, nhân vật, phụ lục (nếu cần thiết)... Sửa lỗi chính tả trong bản gốc. Giản lược gạch nối từ ghép, khôi phục từ Việt hóa tiếng nước ngoài khi có đủ tài liệu tra cứu tin cậy (trừ trường hợp từ ngữ đó đã dịch thành thuần Việt). Trường hợp thông tin lịch sử trong sách không khớp với thông tin trong chính sử, chúng tôi sẽ chú thích hoặc đăng phụ lục ở cuối sách. Một số hình ảnh trong sách gốc bị mờ, chất lượng kém… chúng tôi sẽ đăng bổ sung - thay thế các hình ảnh có nội dung tương tự, chất lượng tốt (nếu có). Mong đón nhận những ý kiến đóng góp của độc giả, hỗ trợ chúng tôi hoàn thiện tủ sách này. Alpha Books LỜI GIỚI THIỆU Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp. Văn minh Việt Nam cổ truyền là văn minh nông nghiệp. Vì thế, muốn tìm hiểu lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, trước hết cần nghiên cứu nông nghiệp và nông thôn, trong đó chế độ sở hữu ruộng đất là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Xuất phát từ nhận thức đó, trong mấy thập kỷ gần đây, các nhà nghiên cứu Việt Nam trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm đến chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này đã được xuất bản, nhiều luận văn khoa học đã được công bố trên các tạp chí. Bản thân tôi, từ khi bước vào con đường nghiên cứu lịch sử Việt Nam, tôi đã thích thú những đề tài về lịch sử phát triển nông nghiệp và chế độ sở hữu ruộng đất. Cuốn sách đầu tay của tôi là Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, xuất bản 1959. Sau đó, do sự cuốn hút của một số đề tài bức thiết khác, công việc nghiên cứu chế độ ruộng đất của tôi bị gián đoạn một thời gian và gần đây, tôi đã trở lại đề tài này trên cơ sở cùng với một số đồng nghiệp nghiên cứu địa bạ. Cho đến nay, trên lĩnh vực nghiên cứu lịch sử chế độ ruộng đất Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề cần đi sâu nghiên cứu và thảo luận, còn nhiều khoảng trống cần phải lấp đầy, trong đó có chế độ ruộng đất gắn liền với công việc khai phá miền đất phía Nam. Có nhiều lý do, một phần vì tư liệu, một phần vì quan niệm của người nghiên cứu. Quả thật, tư liệu chữ viết về lịch sử miền Nam nói chung và về chế độ ruộng đất nói riêng rất ít ỏi, nhất là trước khi kho tư liệu địa bạ của triều Nguyễn được khai thác. Nhưng còn phải kể thêm quan niệm né tránh các vấn đề phức tạp của lịch sử, tiêu biểu là mối quan hệ giữa lịch sử Đại Việt với lịch sử Champa và Phù Nam, Chân Lạp. Từ quan niệm này, lịch sử Việt Nam có lúc được trình bày chỉ có dòng lịch sử Văn Lang - Âu Lạc đến Việt Nam và phần nào quá trình khai phá vào phía Nam. Và quá trình này cũng chỉ được trình bày dưới góc độ quá trình khẩn hoang lập ấp của các lớp lưu dân người Việt, còn những mối quan hệ phức tạp giữa vương triều Đại Việt với vương triều Champa, Chân Lạp thì chưa được đề cập thỏa đáng. Rõ ràng cách nhận thức và trình bày lịch sử Việt Nam như vậy dẫn đến sự hiểu biết phiến diện về lịch sử miền Nam, gạt bỏ dòng lịch sử và văn hóa Sa Huỳnh - Champa, Óc Eo - Phù Nam ra khỏi lịch sử Việt Nam và từ đó, tạo ra một khoảng trống trong lịch sử miền Nam từ sau các nền văn hóa nguyên thủy cho đến trước khi vùng đất này được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Đã đến lúc cần trả lại cho lịch sử Việt Nam tất cả nội dung phong phú, đa dạng của cuộc sống của cộng đồng cư dân Việt Nam gồm nhiều tộc người đã từng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, trong đó có lúc yên bình, êm đẹp, nhưng có lúc sóng gió với những mâu thuẫn và xung đột lịch sử phức tạp. Trong suy nghĩ trên, tôi vui mừng đón nhận cuốn sách Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ Lục tỉnh của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu. * * * Tôi quen biết anh Nguyễn Đình Đầu trong các cuộc hội thảo khoa học ở Thành phố Hồ Chí Minh, rồi sau đó, trong hoạt động của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và trong nghiên cứu địa bạ. Bình thường anh là người trầm lặng, ít nói, nhưng lao động khoa học rất say mê, cần mẫn và cũng rất sôi nổi trong thảo luận khoa học. Anh Nguyễn Đình Đầu đã tham gia biên soạn bộ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh và dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu kho địa bạ triều Nguyễn. Kho địa bạ này trước đặt ở Huế rồi chuyển lên Đà Lạt, chuyển về Thành phố Hồ Chí Minh và lưu giữ ở đây cho đến cuối năm 1991, trước khi chuyển ra Hà Nội. Anh Nguyễn Đình Đầu là người đi đầu trong việc khai thác kho tư liệu cực kỳ phong phú này, theo thống kê của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, gồm 10.044 địa bạ các làng, trong đó có 484 địa bạ của Nam kỳ Lục tỉnh. Trong công cuộc nghiên cứu của mình, anh Nguyễn Đình Đầu đã sử dụng tổng hợp nhiều nguồn tư liệu: tư liệu trong thư tịch Hán Nôm, tư liệu điều tra khảo sát của người Pháp khi mới chiếm Nam kỳ, kết hợp với tư liệu của người nước ngoài, đặc biệt là tư liệu địa bạ. Tác giả tự đặt cho mình một mục đích rất khiêm nhường là “cung cấp thêm cho học giả một số tư liệu tuy không mới mẻ song dễ bị lãng quên” và qua đó, “đính chính một số nhận định lệch lạc hoặc thiếu quan điểm lịch sử” và “góp phần tìm hiểu chung về nguồn gốc, bản chất và định chế của công điền công thổ ở nước ta” (Mở đầu). Nhưng cuốn sách thực sự là một công trình nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về quá trình khẩn hoang lập ấp và chế độ công điền công thổ của Nam kỳ Lục tỉnh từ cuối thế kỷ XVI khi lưu dân người Việt bắt đầu vào khai phá, cho đến năm 1860 khi thực dân Pháp xâm chiếm vùng đất này. Cuốn sách không dày lắm, nhưng đứng về các nguồn tư liệu được khai thác và sử dụng cũng như các vấn đề được đặt ra và giải quyết thì vượt hẳn những công trình đã công bố từ trước đến nay về đề tài này. * * * Trước khi người Việt đến đây, đất Đồng Nai - Gia Định đã được nhiều lớp cư dân khai phá, từ những lớp cư dân nguyên thủy xa xưa đến những lớp cư dân Phù Nam, Chân Lạp. Tác giả không ngược về quá sâu trong quá khứ, mà chỉ nghiên cứu lịch sử khai phá vùng Đồng Nai - Gia Định từ những lớp di dân người Việt vào đây, có thể bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI. Những lớp lưu dân này đã đến Mô Xoài rồi lên Đồng Nai và lan dần đến đồng bằng sông Cửu Long. Họ là những người nông dân, chỉ có ý chí và sức lao động, đi tìm những miền đất mới để sinh sống, không xâm phạm cướp bóc của ai. Họ chung sống hòa bình với những lớp cư dân bản địa. Tiếp bước theo họ là một số địa chủ giàu có vùng Thuận Quảng và một số người Hoa cùng tham gia vào quá trình khai phá. Sự thật trên được chứng minh qua nhiều tư liệu, nhưng từ đó, trình bày lịch sử khai phá miền Nam chỉ bằng công cuộc khẩn hoang hòa bình của các lớp di dân thì lại phiến diện và không phù hợp với toàn bộ sự thật lịch sử. Anh Nguyễn Đình Đầu với thái độ khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, đã trình bày tiếp theo sau quá trình khẩn hoang của lưu dân là quá trình can thiệp của các chúa Nguyễn để thiết lập chính quyền và sắp đặt các đơn vị hành chính, từ phủ Gia Định nhị dinh năm 1698, tam dinh năm 1732 và đến năm 1757 thì bao quát toàn bộ châu thổ Đồng Nai, Cửu Long. Dĩ nhiên đây là một quá trình phức tạp với nhiều cuộc can thiệp của chúa Nguyễn kết hợp với những mâu thuẫn nội bộ của vương triều Chân Lạp và những xung đột của vương triều Xiêm. Những sự thật đó cần được nhìn nhận và phân tích một cách đúng đắn trên quan điểm lịch sử. Vấn đề tôi quan tâm nhất trong công trình nghiên cứu của tác giả là phân định tiến trình lịch sử của chế độ công điền công thổ ở Nam kỳ làm hai giai đoạn, lấy năm 1836 làm ranh giới. Năm 1836, lần đầu tiên triều Nguyễn tiến hành đo đạc ruộng đất Nam kỳ, lập địa bạ và thiết lập chế độ công điền công thổ. Theo tác giả, trước đó trong các thôn ấp do lưu dân khẩn hoang lập nên, chỉ có tư điền, không có công điền công thổ mà chỉ có một số bổn thôn điền thổ được coi như ruộng đất chung của làng và đối với nhà nước vẫn thuộc ngạch tư điền thổ, coi như của riêng của làng. Như vậy, có một thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI đến năm 1836, vùng Đồng Nai - Gia Định chỉ có chế độ tư hữu ruộng đất và nông thôn gồm những thôn ấp dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất này. Đấy là một kết cấu kinh tế - xã hội khác với các vùng khác và chính nó đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế của Đồng Nai - Gia Định. Tôi nghĩ rằng, đó là một luận điểm rất đáng lưu ý của tác giả. Nhưng triều Nguyễn, bằng việc đo đạc điền thổ, lập địa bạ năm 1836, đã thiết lập chế độ công điền công thổ trong các thôn ấp Nam kỳ. Trước đó, theo tác giả, chính sách khẩn hoang của Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã chuẩn bị và tạo điều kiện cho sự ra đời của công điền công thổ. Chủ trương của triều Nguyễn là gia tăng và củng cố chế độ công điền công thổ của các thôn ấp Nam kỳ bằng nhiều chính sách và biện pháp như mở rộng đồn điền và dinh điền, chuyển đồn điền thành công điền, chuyển một số ruộng đất như ruộng đất bổn thôn đồng canh, dân cư thổ, ruộng hoang… thành công điền công thổ và vận động một số địa chủ nhiều ruộng nộp một phần tư điền làm công điền. Từ đó, công điền công thổ trong các thôn ấp ở Nam kỳ có xu hướng tăng lên, làm cho kết cấu kinh tế - xã hội nông thôn thay đổi theo hướng không có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hóa. Theo tác giả, đấy là một chuyển hướng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Nam kỳ Lục tỉnh. Tôi nghĩ rằng, đó cũng là một đề xuất mới của tác giả cần được lưu ý. Như vậy là Đàng Trong đã có hai vùng với hai xu hướng phát triển khác nhau về chế độ sở hữu ruộng đất. Vùng Thuận Quảng với chính sách khẩn hoang lập làng thế kỷ XVI XVII, tất cả ruộng đất khai khẩn được đều coi là công điền công thổ của thôn ấp và từ năm 1669, chính quyền mới chấp nhận ruộng đất do các gia đình khai khẩn thêm được coi là tư điền dưới tên gọi là “bản bức tư điền”. Ở đây, công điền công thổ xuất hiện trước và ngự trị, từ năm 1669 mới có thêm tư điền thổ. Trái lại, ở Đồng Nai - Gia Định - Nam kỳ Lục tỉnh, chế độ tư hữu ruộng đất xuất hiện trước và tồn tại, từ năm 1836 chế độ công điền công thổ mới được chính thức thiết lập. Kết quả nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã đặt lại một số vấn đề buộc các nhà khoa học phải kiểm tra lại nhận thức cũ của mình. Trước đây, khi viết về chế độ ruộng đất ở Nam kỳ, nhiều người cho rằng chế độ công điền công thổ ở vùng này rất nhỏ bé và có xu hướng thu hẹp dần trước sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Người ta thường dẫn một số liệu điều tra của Yves Henry trong Kinh tế nông nghiệp ở Đông Dương (Économie agricole de l’Indochine) xuất bản năm 1932, cho biết công điền công thổ ở Nam kỳ chỉ có 3%, trong lúc ở Trung kỳ 25% và Bắc kỳ 21%. Nghiên cứu kho địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh (còn thiếu khoảng hơn 100 thôn ấp, địa bạ bị thất lạc), anh Nguyễn Đình Đầu cho chúng ta những số liệu mới về tình hình phân bố ruộng đất ở vùng này vào năm 1836. So với toàn bộ diện tích ruộng đất, tư điền thổ chiếm tỷ lệ 92,16%, loại ruộng đất trong địa bạ ghi là công điền công thổ chiếm tỷ lệ 3,50%. Nhưng theo quy định của triều Nguyễn thì loại ruộng đất bổn thôn đồng canh và dân cư thổ cũng được xếp vào công điền công thổ và do đó, tỷ lệ công điền công thổ lên đến 7,83%. Cho đến khi Pháp chiếm Nam kỳ, do các biện pháp gia tăng công điền công thổ của triều Nguyễn, tác giả phỏng tính tỷ lệ này có thể lên đến 25%. Đây là tỷ lệ phỏng tính có độ xác suất của nó mà bản thân tôi còn hoài nghi, nhưng xu hướng gia tăng của công điền công thổ dưới triều Nguyễn thì đã được tác giả chứng minh. Từ những kết quả nghiên cứu cụ thể trên cơ sở tổng hợp nhiều nguồn sử liệu, tác giả cho rằng công điền công thổ ở Nam kỳ Lục tỉnh không phải bắt nguồn từ sở hữu ruộng đất của công xã nông thôn, cũng không phải từ chế độ đồng sở hữu lưỡng tính của nhà nước và công xã như có người đã giải thích đối với công điền công thổ ở miền Bắc. Tác giả đưa ra một định nghĩa về công điền công thổ và phân tích nguồn gốc cùng với bản chất của nó. Theo tôi, chế độ công điền công thổ của làng xã đứng về nguồn gốc của hình thái sở hữu thì bắt nguồn từ sở hữu của công xã nông thôn rồi biến đổi dần qua các hình thái xã hội khác nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa là công điền công thổ của các làng xã chỉ gồm ruộng đất thuộc sở hữu công xã nông thôn thời xa xưa được bảo tồn lại. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau và trong từng khu vực khác nhau, công điền công thổ mang những đặc điểm rất đa dạng, có lúc tăng lúc giảm, có lúc tiêu vong, có lúc được tái lập bằng những biện pháp của cộng đồng làng xã hoặc sự can thiệp của nhà nước. Công trình nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu phản ánh con đường hình thành, phát triển và những đặc điểm của chế độ công điền công thổ vùng Đồng Nai - Gia Định rồi Nam kỳ Lục tỉnh từ thế kỷ XVI đến XIX. * * * Tôi đã đọc một cách hứng thú và đọc kỹ cuốn sách Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ Lục tỉnh của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu. Cái thu hút sự chú ý và hứng thú của tôi là tác giả, bằng những tư liệu cụ thể, đã dẫn dắt người đọc vào ba thế kỷ khẩn hoang lập ấp đầy gian truân và thành tựu của nhân dân Nam kỳ, nó luôn khêu gợi nhận thức của người đọc bằng những phát hiện và đề xuất mới mẻ về chế độ công điền công thổ ở vùng đất phía Nam này của tổ quốc. Đây đó có thể còn những luận điểm cần tranh luận, còn những con tính phải xem xét thêm, nhưng nói chung tôi đồng tình với cách trình bày và nhận định của tác giả. Không còn nghi ngờ gì nữa, cuốn sách sẽ góp phần bổ sung thêm hiểu biết về lịch sử miền Nam và đặt ra nhiều vấn đề mới thúc đẩy công việc nghiên cứu lịch sử chế độ ruộng đất ở Việt Nam qua nghiên cứu so sánh giữa các khu vực, nhất là với Nam kỳ Lục tỉnh. Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ Lục tỉnh của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu với các nhà sử học, các nhà nghiên cứu và tất cả bạn đọc. Đây là cuốn sách đầu tiên do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (thường viết tắt là Hội Sử học Việt Nam) xuất bản, mở đầu cho chương trình xuất bản những công trình lịch sử của Hội. Tôi cũng chân thành cám ơn anh Nguyễn Đình Đầu đã dành cho tôi vinh dự được đọc bản thảo cuốn sách trước khi xuất bản và viết lời giới thiệu này. Hà Nội, Hè 1992 PHAN HUY LÊ Giáo sư Sử học Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam MỞ ĐẦU Vấn đề công điền công thổ ở Nam Bộ chưa được nghiên cứu có hệ thống trong các sách khảo luận do người Việt hay người ngoại quốc viết về chế độ phong kiến, về xã thôn, về chế độ ruộng đất và cả về công điền công thổ ở Việt Nam, vấn đề này mới chỉ được lướt qua. Pháp chiếm Nam Bộ trước toàn quốc đến một phần tư thế kỷ (1859 - 1884), nên đã có những bài báo cáo hoặc tham luận về công điền công thổ ở đây trước. Song tất cả đều manh mún, phiến diện và hầu như có chung một ý đồ: tìm cách xóa bỏ hoặc thu hẹp tầm vóc của chế độ công điền công thổ cố hữu của Việt Nam ngõ hầu thiết lập và củng cố “quyền tư hữu tuyệt đối và bất khả xâm phạm”, một khái niệm mà Pháp hãnh diện mang tới khai hóa An Nam! Thực chất đây chỉ là mưu tính chiếm hữu và tập trung ruộng đất vào tay thực dân và địa chủ. Mãi đến năm 1932, một chuyên gia nông học là Yves Henry mới đưa ra những tỷ lệ về ruộng công tư ở cả ba miền Việt Nam trong cuốn Kinh tế Nông nghiệp Đông Dương do phủ Toàn quyền xuất bản[1]. Đây là kết quả của một cuộc điều tra tiến hành khoảng từ 1928 đến 1930, theo đó Trung kỳ có 25%, Bắc kỳ 21% và Nam kỳ 3% ruộng là công điền. Như vậy thì công điền ở Nam kỳ có rất ít, không đáng quan tâm! Vì thế, người ta chú ý đến vấn đề công điền ở Trung và Bắc kỳ hơn. Năm 1936, tiến sĩ Văn khoa Pierre Gourou viết một cuốn địa lý nhân văn do Trường Viễn Đông Bác Cổ phát hành với nhan đề Nông dân ở đồng bằng Bắc kỳ[2]. Tác giả đã dành một chương trình bày vấn đề và tình hình công điền ở vùng châu thổ sông Hồng. Trong mục khảo cứu phương thức khẩn hoang tại vùng bãi biển tân bồi ở Tiền Hải và Kim Sơn do Nguyễn Công Trứ chủ trương, Gourou cũng nói nhiều về công điền công thổ. Và tới năm 1939, lần đầu tiên, một tác phẩmchuyên đề Sở hữu xã thôn ở Bắc kỳ ra mắt với nội dung đặc khảo về công điền công thổ trong lịch sử Việt Nam và tồn tại đương thời ở xứ Bắc. Đây là luận án tiến sĩ luật khoa của Vũ Văn Hiền[3]. * * * Từ đó đến nay, nhiều tác phẩm giá trị nghiên cứu về chế độ công điền công thổ đã được công bố, phần lớn là trong khuôn khổ và do sự khuyến khích của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Nhiều bài tham luận sâu sắc cũng được trình bày trong các tập san Nghiên cứu Lịch sử và Nghiên cứu Kinh tế[4]. Những công trình đó đã vượt xa Henry, Gourou, Vũ Văn Hiền hay bao người khác, mặc dầu một số thống kê hoặc dữ kiện vẫn được trích dẫn vì giá trị khách quan của chúng. Các nhà nghiên cứu trước bị vượt qua, không phải chỉ những gì liên hệ đến quan điểm, mà còn ở những phát hiện mới của việc nghiên cứu lịch sử và đặc biệt là của các cuộc điều tra điền dã công phu. Những công trình đó là ánh sáng chiếu soi vào tình trạng u minh của chế độ sở hữu ruộng đất nói riêng, của chế độ gọi là “phong kiến” ở Việt Nam nói chung, mà ta cần tìm hiểu. Tuy nhiên, mỗi khi nói đến tình hình công điền công thổ ở Nam Bộ thì tác giả nào cũng chỉ đề cập một cách sơ sài, chứ không đi sâu và đầy đủ như khi phân tích cùng vấn đề ở Trung hay Bắc Bộ. Có lẽ vì thiếu tư liệu và vì quá xa hiện trường của đối tượng nghiên cứu. Cho nên, mục đích trước hết của bản tiểu luận này là hy vọng ít nhiều lấp vào chỗ trống đó: cung cấp thêm cho độc giả một số tư liệu tuy không mới mẻ nhưng dễ bị lãng quên. Do vì tư liệu sơ sài nên thường đi tới giản đơn hóa và đôi khi còn gây ấn tượng sai lầm. Như khi nói tới số lượng công điền ở Nam Bộ, người ta hay nhắc tới con số 3/100 của Y. Henry (đúng vào năm 1929) và trình bày như là tỷ lệ đó đã có từ trước khi bị Pháp xâm lăng[5]. Mục đích thứ hai của tập này cũng là để đính chính một số nhận định lệch lạc hoặc thiếu quan điểm lịch sử như vậy. Trong khi nghiên cứu sự phát sinh và phát triển của chế độ công điền công thổ ở Nam Bộ, chúng tôi thấy nổi lên một số điểm có thể góp phần tìm hiểu chung về nguồn gốc, bản chất và định chế của công điền công thổ ở nước ta. Đây là một trong những vấn đề lớn mà nhiều người còn đang bàn, chưa có kết luận dứt khoát. Trước kia, Henry chỉ đưa ra những số liệu khô khan, Gourou và Vũ Văn Hiền đã đi sâu về mặt xã hội của dữ liệu công điền, song vẫn quanh quẩn ở hiện tượng. Có người đã đặt vấn đề, nhưng không dám giải đáp vì tự nhận thiếu khả năng, như Gourou chẳng hạn[6]. Ngày nay, một số tác giả có xu hướng cho rằng “công điền là cái tồn tại của xã thôn từ thời công xã nguyên thủy”. Có lẽ điểm này đúng cho Bắc Bộ. Nhưng Nam Bộ là miền đất mới, xã thôn ở đây được thành lập trong giai đoạn xã hội đã biến chuyển không còn là thời công xã nguyên thủy nữa. Cho nên công điền ở Nam Bộ không thể xem là “cái tồn tại” đó được. Nếu giải thích nó vẫn tồn tại trong não trạng chứ không cụ thể trên luống cày, thì vấn đề đã trở thành khác. Vả lại, công điền được tạo thành là do nhiều, chứ không phải do một nguồn gốc duy nhất nào. Chúng ta sẽ liệt kê những nguồn gốc đó khi đã nghiên cứu toàn thể quá trình phát sinh và phát triển của công điền ở Nam Bộ. May mắn thay, chỉ ở Nam Bộ quá trình đó mới thu gọn trong một thời gian tương đối ngắn và gần ta, để ta có điều kiện nghiên cứu một cách tổng hợp. Trong sách này, chúng ta tìm hiểu chế độ công điền, nên chỉ dùng từ ngữ “công điền”, từ ngữ bao hàm một khái niệm đã được xác lập qua thực tại, truyền thống và luật lệ của Việt Nam. Công điền chỉ định một loại ruộng cụ thể, theo thiển ý, phải có ba yếu tố sau đây: 1. Ruộng được coi là sở hữu của quốc gia. 2. Ruộng được ghi ở địa bạ làng dưới danh hiệu “công điền”. 3. Ruộng quân cấp cho xã dân theo quy định của nhà nước. Công điền phải hội đủ ba yếu tố đó, mà yếu tố thứ hai là hiển nhiên nhất. Do đó, không nên dịch chữ “công điền” là “ruộng công” hay “ruộng làng”. Gọi là “ruộng công” thì có thể lẫn với quan điền, tịch điền, trang trại điền và các loại ruộng khác nhau của nhà nước không trao cho làng để chia cho xã dân cày cấy. Gọi là “ruộng làng” thì vừa sai ý nghĩa vừa lẫn với các loại ruộng thuộc trọn quyền sở hữu của làng như bổn thôn điền, tự điền, trợ sưu điền, hậu điền, tư văn điền, cô quả điền, v.v. Không nên lẫn công điền với quan điền, mặc dầu công và quan cùng có nghĩa “thuộc về nhà nước”, vìcông điền và quan điền là hai loại ruộng đất khác nhau, có quy chế khác nhau; nên cũng không thể dịch nghĩa hai loại ruộng đó ra cùng một chữ là ruộng công như một số tác giả đã nhầm[7]. Chế độ công điền chỉ có ở Việt Nam, bên Tây bên Tàu không có chế độ nào giống thế. Trước đây, người Pháp đã dịch chữ công điền ra terres communales, terres publiques, propriété communal, biens communaux, đều không sát nghĩa và cũng chẳng khác gì như ta dịch nôm là ruộng công hay ruộng làng. Do đó, một tác giả đã phải đặt nhan đề dài dòng cho bài khảo cứu: “Những loại ruộng đất gọi là công điền” (Les terrains dits “công điền”)[8]. Người Trung Hoa cũng không có danh từ nào để nói được trọn vẹn khái niệm công điền của ta, vì nước họ không có chế độ công điền trong suốt quá trình lịch sử sở hữu ruộng đất của họ. Lịch sử Trung Quốc chia làm nhiều giai đoạn: đời thái cổ nhà Hạ theo phép cống, nhà Ân và nhà Chu theo phép tỉnh điền, nhà Tần và nhà Hán để dân tự quyền chiếm hữu, nhà Tấn dùng phép chiếm điền, nhà Ngụy làm phép quân điền, nhà Đường đặt thêm phép hạn điền, nhà Tống ủng hộ trang điền rộng lớn, hại cho nông dân nghèo, nhà Minh lập thêm nhiều quan điền làm thiệt cho tư điền. Không thấy có vết tích nào của một chế độ giống như công điền của ta[9]. Do đó, ta nên dùng nguyên chữ công điền công thổ, không nên dịch, vì nó đã trở thành một từ ngữ riêng. * * * Tiểu luận về công điền công thổ này được nghiên cứu giới hạn trong không gian và thời gian nhất định. Chúng tôi chọn địa bàn Nam Bộ, tức Nam kỳ trước, thuộc thời gian khi đã phân chia thành Lục tỉnh. Đó là lý do của tiêu đề công điền công thổ ở Nam kỳ Lục tỉnh và biện minh tại sao không lấy tiêu đề “Ruộng đất công ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Nam kỳ là danh xưng có từ trước thời Pháp thuộc, cũng như Bắc kỳ, Kinh kỳ, Trực kỳ, Tả kỳ hay Hữu kỳ. Nam kỳ từng là một xứ thuộc đơn vị hành chính riêng, ban đầu gọi là Đồng Nai, Gia Định rồi Nam kỳ[10]. Đến đời Minh Mạng, Nam kỳ mới chia ra lục tỉnh, trước nữa thì còn là tam dinh, tứ trấn rồi ngũ trấn. Tuy sau này Pháp cắt thành hai mươi mấy tỉnh, nhưng dân chúng vẫn hoài niệm xưng mình là Nam kỳ Lục tỉnh (thí dụ: một tờ báo nổi tiếng mang tên Lục tỉnh tân văn). Công cuộc khẩn hoang lập ấp có lẽ đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI, qua thế kỷ XVII, XVIII rồi tới thời có danh xưng Lục tỉnh, khi đó mới thấy chế độ công điền được thiết lập và củng cố. Cho nên chúng ta sẽ tìm hiểu chế độ này từ lúc manh nha tới lúc thịnh đạt, tức từ lúc mới có Đồng Nai cho đến khi Pháp chiếm làm thuộc địa. Tình hình chế độ công điền công thổ ở Nam Bộ từ năm 1860 đến năm 1945 và từ năm 1945 đến năm 1975 cũng đáng nên nghiên cứu, để tiếp nối giai đoạn tìm hiểu nơi đây, nhưng xin dành cho một công trình khác. * * * Tiểu luận này chia làm hai phần: 1. Lịch sử khẩn hoang lập ấp và chế độ sở hữu ruộng đất tại Đồng Nai - Gia Định. 2. Nhà nước quân chủ thiết lập và củng cố công điền công thổ. Trong phần kết luận, chúng tôi sẽ liệt kê những nguồn gốc cụ thể đã tạo nên khối lượng công điền công thổ ở Nam kỳ. Từ đó, hy vọng sẽ tìm được bản chất công điền công thổ và định nghĩa chính xác thế nào là chế độ công điền công thổ. Vai trò của chế độ đặc thù này cũng được đề cập đến trong lúc nó còn mang tính tiến bộ “chia ruộng đất” cũng như khi thoái hóa ngăn cản sự chuyển biến của phương thức sản xuất. 1 Bản đồ I. Đại Nam nhất thống toàn đồ (trích phần Nam Bộ) Chú thích: - Tên sáu tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. - Tên các đạo: Quang Hóa, Đông Khấu, Trấn Di Đạo, Long Xuyên Đạo. - Tên đảo: Phú Quốc. - Tên cửa biển: Bồ Đề, Hào Cơ (Gành Hàu), Mỹ Thanh môn, Ba Thắc môn, Đại môn, Tiểu môn, Soài Rạp, Cần Giờ hải khấu. (Không phiên âm địa danh ngoài địa bàn Nam Bộ) 2 Bản đồ II. Bản đồ Van Langren, 1595 Chú thích: Người Tây phương gọi nước Đại Việt là Cauchenchina (Giao Chỉ gần Chi Na) và thủ đô Thăng Long là Cochinchina. Ngoài khơi phía đông có quần đảo Paracel (Quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam - BT). Phần ILỊCH SỬ KHẨN HOANG LẬP ẤP VÀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT TẠI ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH (Thời kỳ 1698 - 1800) Nam Bộ xưa là vùng đất hoang vu, lan tràn rừng rậm, hồ ao, bưng chằm, đầy rẫy muỗi mòng, rắn rết, hùm beo. Hồi đầu kỷ nguyên, một phần diện tích - tức miền Tây Nam Bộ sau này - thuộc nước Phù Nam; phần còn lại - tức miền Đông - thuộc nước Bà Lịa (hay Bà Lỵ), nước Chu Nại, tiểu quốc Mạ và tiểu quốc Xương Tinh (tức Stiêng). Sách Đại Nam nhất thống chí cũng như Gia Định thành thông chí nói rõ: Theo Đường thư thì “Nước Bà Lỵ ở phía Đông Nam nước Chiêm Thành, phía nam có nước Chu Nại, khoảng niên hiệu Vĩnh Huy (651-655) bị Chân Lạp chiếm. Bà Rịa có lẽ là nước Bà Lỵ (hay Bà Lịa), còn Chu Nại gần giống tiếng Đồng Nai, hoặc là đất Sài Gòn nay chăng”[11]. Nước Phù Nam đã có thời cường thịnh, nông nghiệp và thương mại phát triển, dấu vết rõ ràng còn ghi lại ở di chỉ Óc Eo gần núi Ba Thê (tỉnh An Giang). Nhưng đến thế kỷ thứ VI thì Phù Nam bị người Khơ Me chiếm và trở thành Thủy Chân Lạp. Còn Bà Lỵ và Xương Tinh cùng tiểu quốc Mạ, khi bị Chiêm Thành, lúc bị Cao Miên khống chế, song vẫn tồn tại yếu ớt làm trái độn giữa hai nước lớn Chiêm Thành và Chân Lạp mãi tới khi người Việt đến khai khẩn đất hoang. Nước Bà Lỵ (cũng đọc là Bà Lợi hay Bà Lịa) sau có lẽ là vùng Bà Rịa (Mô Xoài, Vũng Tàu). Thổ dân Bà Lỵ là người Ch’Ro, Rơ Glai và dân tộc Mạ hiện nay vẫn sinh sống hòa hợp với dân tộc Việt, dân tộc Xương Tinh (tức Stiêng) cũng thế. Trước khi người Việt Nam tới định cư định canh, miền Tây và một phần miền Đông lan tới khu vực sông Bến Nghé (tức sông Sài Gòn), có một số sóc Miên ở rải rác trên các giồng đất cao. Còn lưu vực sông Đồng Nai, một số tộc người thiểu số sinh sống trên đồi núi rừng rậm. Các dân tộc đó rất thưa thớt, tuy biết trồng lúa nhưng chưa thạo nghề trồng lúa nước. Họ hướng về săn bắt, chài lưới, hái lượm hơn canh tác, nên đồng bằng bát ngát suốt bao đời vẫn để hoang chưa người khai thác. Gò Vấp, Hóc Môn (lúc đầu gọi là đạo Quang Uy), Củ Chi, Trảng Bàng đạo (đạo Quang Hóa), có nhiều dân tộc thiểu số cư trú. Châu Đạt Quan, một thành viên sứ bộ Trung Quốc sang thăm kinh đô Angkor năm 1296, khi về nước đã viết sách Chân Lạp phong thổ ký[12]. Khi tới Vũng Tàu, tác giả ghi: “Từ thị trấn Chân Bồ…, chúng tôi đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa sông. Sông này có hàng chục ngả, nhưng ta chỉ có thể vào được cửa thứ tư, các ngả khác có nhiều bãi cát, thuyền lớn không đi được. Nhìn lên bờ chúng tôi thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào, thế nên các thủy thủ cho rằng rất khó mà tìm đúng cửa sông”[13]. Thị trấn Chân Bồ có lẽ là ngôi làng đánh cá tương đối trù phú ở chân núi Vũng Tàu. Từ núi Vũng Tàu tới mũi Cà Mau, bờ biển rất thấp và có tới “mười” cửa sông. Châu Đạt Quan đã lấy Chân Bồ, tức núi Vũng Tàu, làm điểm tựa để tính đường đi là rất đúng. Tính từ Chân Bồ đến cửa thứ tư, chúng ta có: 1. Cửa Cần Giờ đi vào sông Lòng Tàu. 2. Cửa Soài Rạp đi lên sông Đồng Nai hoặc vào sông Vàm Cỏ. 3. Cửa Tiểu là cửa đầu tiên của sông Cửu Long, có nhiều bãi cát. 4. Cửa Đại là cửa thuận lợi đi Mỹ Tho rồi lên Biển Hồ. Sau này (1776), Lê Quý Đôn viết Phủ biên tạp lục cũng nói gần như thế: “Đất Đồng Nai thuộc phủ Gia Định, từ các cửa biển Cần Giờ, Sài Lạp (Soài Rạp), Đại, Tiểu đi vào, toàn là những đám rừng hoang vu cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn nghìn dặm”.[14] 1 NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN TỚI KHAI HOANG ĐỒNG NAI - GIA ĐỊNH (Giai đoạn 1594 - 1698) Chính người nông dân Việt Nam, vừa cần cù vừa mạo hiểm, đã dùng bàn tay và khối óc của mình làm cho những miền đất hoang vu đó trở thành phì nhiêu phong phú. Họ đi trước, nhà nước đến sau. Nơi nào định canh định cư ổn định rồi, chính quyền mới tới đặt phủ huyện cai trị và thu thuế. Thật đúng miền Nam là mồ hôi, nước mắt và máu thịt của nhân dân Việt Nam. Miền Nam chính là Việt Nam vậy. a) Những đợt cư dân tới khai phá Mô Xoài rồi Đồng Nai Người Việt tới sinh sống và làm ăn trong đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long từ bao giờ? Đâu là vết tích? Chúng ta thử tìm giải đáp. Theo sử sách, trước hết, người Việt đến khai hoang Mô Xoài, tức nước Bà Lỵ hay Bà Rịa sau này, rồi đến Đồng Nai; đợt thứ hai mới tới Gia Định (Sài Gòn, Bến Nghé). Đúng như Trịnh Hoài Đức ghi: “Địa đầu Gia Định là Mô Xoài (hay Mỗi Xuy) và Đồng Nai (sau là Biên Hòa trấn) đã có lưu dân nước ta đến… khai khẩn ruộng đất”[15]. Nhưng “lưu dân” đến Mô Xoài rồi Đồng Nai từ bao giờ, chúng ta chưa tìm ra niên đại. Cách đây gần 15 năm (1975), chúng tôi đã bất ngờ đọc được một cuốn sách tại Thư viện Quốc gia II (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp), có lẽ thuộc loại hiếm và cổ nhất của cả Việt Nam, với nhan đề tiếng Pháp là Les voyages aventureux de Fernand Mendez Pinto (Những cuộc du hành mạo hiểm của Fernand Mendez Pinto) do Bernard Figuier dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Pháp và ấn hành tại Paris năm 1629. Trong nửa đầu thế kỷ XVI, nhà thám hiểm Fernand Mendez Pinto, người Bồ Đào Nha từng tham quan vùng Đông Nam Á nhiều lần; sau khi về nước, ông viết ký sự tả lại phong cảnh và người dân của nước “Cauchenchina” (Giao Chỉ gần Tần[16]). Phụ tá của Pinto là Faria cũng thăm vùng này năm 1535. Thời đó, nhân danh và địa danh chưa định rõ, nhưng đọc kỹ chi tiết thì đúng là tác giả đã gặp người Việt Nam tới sinh sống làm ăn tại miền duyên hải và trên bờ sông “Cambodia” (Campuchia, tức Mê Kông). Miền này nằm xa ở phía Nam con sông Tinacoreu mà người phương Tây đương thời gọi là Varella[17]. Một tư liệu khác mang tựa đề “Giáp Ngọ niên Bình Nam đồ. Đốc suất Đoan quận công tiến. Tự Đồng Hới chí Cao Miên giới” (Bản đồ dẹp yên miền Nam năm Giáp Ngọ. Đốc suất Đoan quận công vẽ dâng lên. Từ Đồng Hới tới biên giới Cao Miên). Trong cuốn Hồng Đức bản đồ do nhóm Bửu Cầm soạn dịch, ở trang 139 có viết: “Đoan quận công đây tức Nguyễn Hoàng”. Thiết tưởng không đúng[18]. Đoan quận công đây là tước của Bùi Thế Đạt, người được chúa Trịnh sai đi cùng Hoàng Ngũ Phúc vào lấy Đàng Trong năm Giáp Ngọ (1774). Đạt chưa hề đi quá Quảng Nam, nếu vẽ bản đồ “từ Đồng Hới đến biên giới Cao Miên” thì có lẽ đã sử dụng một bản đồ nào đó của các chúa Nguyễn vẽ từ trước, từ cuối thế kỷ XVII vì trong đó đã ghi “Nặc Thu thành” ở khoảng địa điểm Nam Vang. Đối với ta, đáng chú ý nhất trong bản đồ đó là câu ghi: “Đồng Nai xứ, Hà Tôm xã, thủy đắc nhị thập nhân” (Xứ Đồng Nai, xã Hà Tôm, lúc đầu có hai mươi người). Lúc đầu là bao giờ? Có phải từ thế kỷ XVI hay đầu thế kỷ XVII, còn cần nghiên cứu thêm. b) Hoàng hậu Sam Đát là con lưu dân hay con chúa Nguyễn? Năm 1618, biên niên sử Campuchia chép: “Prea Chey-chessda lên ngôi… Khi đó vua nước An Nam gả một người con gái cho nhà vua. Công chúa này rất đẹp, được nhà vua sủng ái và đưa lên ngôi hoàng hậu với tước hiệu Somdach-prea-peaccac-vodey-prea voreac-khsattey”[19]. Đây là sự kiện quan trọng, nó giúp cho người đồng hương của “Bà Chúa” được dễ dàng tới khai hoang trong vùng ảnh hưởng của Chân Lạp. Do đó nhiều sử gia đã ghi nhận biến cố này và truy tầm lý lịch của “hoàng hậu” xem đích thị là ai, mặc dầu lịch sử cũng như ngọc phả nhà Nguyễn không hề nói tới. Họ đã đưa ra giả thuyết đây là công nữ Ngọc Vạn hoặc Ngọc Khoa con chúa Sãi, tức Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), rồi đoán chắc là Ngọc Vạn![20]. Nhưng không hiểu tại sao chưa có giả thuyết nào cho rằng “hoàng hậu Sam Đát” chỉ là một cô gái rất đẹp con một “lưu dân” người Việt đã sống ở đồng bằng sông Cửu Long hay kinh đô Oudong của Chân Lạp. Người Việt nào khi xa quê hương mà chẳng nhận mình là con ông cháu cha? Huống chi một “hoàng hậu xinh đẹp” lại không nhận mình là “con dân” của vua chúa người Việt được sao? Đâu có quá đáng. Không phải tới lúc đó, “bà hoàng hậu” này “mới đem nhiều người Việt Nam đến, có người được giữ chức hệ trọng trong triều; bà lại lập một xưởng thợ và nhiều nhà buôn bán gần kinh đô”[21]. Có lẽ người Việt đã hiện diện nơi đây từ lâu rồi (trước cả năm 1618), đã làm ăn sinh sống và góp phần phát triển kinh tế của Chân Lạp từ kẻ chợ đến thôn quê. Cho nên không phải vì muốn tiểu thuyết hóa mà chính vì sự thật, chúng tôi ngả về giả thuyết bà hoàng chỉ là thôn nữ lưu dân, hơn giả thuyết con đẻ của chúa Nguyễn. Ít nhất, chưa đủ sử liệu chính xác để khẳng định hoàng hậu Sam Đát là con chúa Nguyễn. c) Đồn thu thuế của chúa Nguyễn hay cơ quan đại diện lưu dân ở Sài Gòn? Năm 1623 (có nơi tính là 1621), theo những người dịch và chú giải sử Khơ Me, thì một “sứ bộ Việt Nam đã đem nhiều tặng vật tới vua Chey-chessda để đảm bảo sự ủng hộ và tình hữu nghị của triều đình Huế, ngược lại phái bộ yêu cầu cho nông dân Việt Nam đến khai hoang trong những vùng thưa dân thuộc miền Đông Nam vương quốc và để có thể giúp đỡ công cuộc định cư đó về mặt tài chính, xin cho phép lập một đồn thâu thuế tại Prey-Kôr. Nhà vua ưng thuận”[22]. Prey-Kôr sau thành Sài Gòn. Khi đó người Việt đã khai hoang đại bộ phận suốt từ vùng Sài Gòn qua sông Đồng Nai và đất Bà Rịa ra tới giáp ranh Chiêm Thành. Đây là biến cố chính trị lớn ảnh hưởng lâu dài về sau, song không hiểu tại sao biên niên sử Việt Nam không hề nhắc tới? Một sự kiện tầm mức thế ấy, nhất định sử thần nhà Nguyễn không thể bỏ qua, nếu nó có thật. Hoặc giả, đây chỉ là một kế hoạch tự phát tự quản của bà hoàng Sam Đát cùng giới lưu dân người Việt lúc đó. Nghĩa là lưu dân xin lập một cơ quan tự trị và tương trợ có thu góp, chứ không phải một đồn thâu thuếcủa chính quyền chúa Nguyễn. Nghiên cứu kỹ lịch sử và cung cách khai hoang miền Nam của người lưu dân, ta dễ dàng chấp nhận giả thuyết này. Đây là phương pháp hữu hiệu và hòa bình lợi ích cho lưu dân người Việt, đồng thời hòa hợp với dân tộc Khơ Me, tốt hơn giải pháp quân sự mà các nhà nước quân chủ thường dùng để thực hiện bá quyền quốc gia. Công cuộc khai hoang lập ấp do chính người lưu dân tiến hành một cách tự phát và hòa bình, nhưng rồi cũng bị những biến cố quân sự tới làm xáo trộn, đặc biệt là hai vụ sau đây: d) Hai lần chúa Nguyễn cho quân can thiệp rồi rút ngay về Năm 1658, theo chính sử triều Nguyễn: “Năm Mậu Tuất, vua Cao Miên là Nặc Ông Chân phạm biên cảnh, Khâm mạng dinh Trấn Biên (tức Phú Yên), Phó tướng Yến Vũ Hầu (tức Nguyễn Phúc Yến), Tham mưu Minh Lộc Hầu và Tiên phong Cai đội Xuân Thắng Hầu đem 3.000 binh đi hai tuần đến thành Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) thu phục Nặc Ông Chân rồi phong làm Cao Miên quốc vương, giữ đạo phiên thần, không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương và khiến quan binh hộ tống về nước”[23]. Chúng tôi nhấn mạnh trên những chữ “không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương”. Phải chăng lời khuyến dụ này khẳng định sự có mặt của cộng đồng lưu dân Việt Nam đang sống tự trị tự quản rải rác khắp vùng Mô Xoài, Đồng Nai, Sài Gòn và lên tới cả Nam Vang lẫn Biển Hồ (trong bản đồ Bùi Thế Đạt chú là Hạc Hải). Nhưng theo biên niên sử Khơ Me thì cuộc hành quân này lại do chính một trong những phe đang tranh chấp ở nội bộ hoàng tộc Khơ Me yêu cầu: Triều đình nước Nam liền cử một đạo binh dưới quyền “Ông chiêng thu” (Ông Chiến thủ) đi đánh phe nhà vua. Ngay trận đầu, Ang Em, người hợp tác với nhà vua, bị giết, còn vua thì bị bắt sống, ít lâu rồi chết, thọ 40 tuổi, làm vua được 18 năm. Nhưng sau khi đã thắng phe nhà vua, ông tướng nước Nam lại muốn đánh bỏ luôn cả hai hoàng thân Cao Miên (So và Tan) cho tới lúc đó vẫn là thuộc bộ trung thành của ông. Ông tướng không thắng trong chiến dịch mới này và buộc phải rút quân khỏi lãnh thổ[24]. Song theo nguồn sử khác thì sau khi Nặc Ông Chân chết, chúa Nguyễn phong cho So, người đã tới cầu cứu mình, làm vua Chân Lạp[25]. Cho dù chi tiết có khác nhau, cuộc can thiệp quân sự này cũng hạn chế trong thời gian. Sau khi quân chúa Nguyễn rút về, lưu dân Việt Nam vẫn tiếp tục khai hoang sinh sống trên miền đất mới phì nhiêu. Năm 1674, theo sử gia Việt Nam, “năm Giáp Dần, tháng Hai, tên Nặc Đài người nước Cao Miên đuổi chúa nước ấy là Nặc Nộn. Chúa Phúc Tần sai tướng coi dinh Nha Trang là Dương Lâm hầu (tức Nguyễn Dương Lâm) đi đánh Nặc Đài. Nặc Đài bỏ chạy rồi chết, Nặc Thu ra hàng quan quân chúa Nguyễn. Tháng Sáu, tướng Dương Lâm hầu kéo quân về. Nặc Thu được lập lên làm quốc vương Cao Miên, còn Nặc Nộn làm phó vương, trú ở Sài Gòn”[26]. Còn biên niên sử Khơ Me thì đưa ra những chi tiết khác, song các nét chính về sự kiện và niên đại thì cũng thế. Như vậy, cuộc hành quân này nguyên nhân cũng là do tranh chấp nội bộ trong hoàng tộc Cao Miên và chỉ tiến hành chớp nhoáng, từ tháng Hai đến tháng Sáu, rồi rút về dinh Thái Khang, Nha Trang và lưu dân người Việt ở Sài Gòn vẫn tiếp tục làm ăn yên ổn, ngày càng thêm đông. e) Dấu vết lưu dân Việt Nam đã ở lan tràn trong đồng bằng sông Mê Kông và Mê Nam Dấu vết người lưu dân, lúc đó, đã có mặt từ châu thổ sông Mê Kông sang tới đồng bằng sông Mê Nam bên Xiêm, nay còn tìm thấy rõ ràng. Chỉ xin đơn cử hai tư liệu sau đây. Trong một thư viết năm 1665, giáo sĩ thừa sai Chevreuil kể lại rằng: Ông tới Colompé (tức Phnom-Penh, Nam Vang) vào cuối năm, ở đây đã thấy có 2 làng người Việt Nam ở bên kia sông “cộng số người được độ 500, mà kẻ theo đạo Thiên Chúa chỉ có 4 hay 5 chục mà thôi”. Số người Việt sống ở các nơi khác còn nhiều hơn, vì năm 1666 người Hoa và người Việt cùng tranh chấp ảnh hưởng ngay tại triều vua, nhà vua ngả về người Hoa, người Việt bị hại, phải kéo nhau về nước tới 7 hay 8 trăm người[27]. Giáo sĩ Chevreuil đã đi từ Ayuthia, kinh đô Xiêm, tới Colompé, chứ không phải thẳng từ Pháp nơi sinh quán của ông. Vì Ayuthia lúc đó là trung tâm lớn của các thừa sai ở Viễn Đông, nơi đây có chủng viện đào tạo giáo sĩ địa phương và là nơi dạy tiếng cho giáo sĩ ngoại quốc. Ayuthia nằm trên sông Mê Nam, ở phía bắc Bangkok, thủ đô Thái Lan hiện nay, trên một trăm cây số, đã được xây dựng từ năm 1350. Theo một bản đồ vẽ năm 1687, thì chung quanh thành vua nằm gọn trong một khúc vòng của sông Mê Nam, có những làng trại dành riêng cho dân Xiêm và các dân tộc ngoại quốc đến trú ngụ. Làng trại dành cho người Việt nằm ngay phía nam kinh đô, rất rộng, chung quanh có sông bao bọc, giao thông thuận lợi, tỏ ra làng Việt Nam được lập ra trước các làng ngoại quốc khác từ lâu. Chủng viện nói trên được đặt ngay trong làng Việt Nam. Đây là ngôi nhà ba tầng bằng gạch khá đồ sộ, dân Xiêm đã tưởng là một đồn lũy quân sự, được xây khoảng năm 1667. Những học sinh đầu tiên là người Việt Nam, Nhật, Hoa, Xiêm, Ma Ní. Trong số học sinh Việt Nam, nhiều người thông thạo cả tiếng Xiêm, vì sinh trưởng ngay tại chỗ và cha mẹ họ đã sang đây lập nghiệp không biết tự bao giờ[28]. Dựa vào các mốc thời gian vừa kể và bề thế thiết lập ngôi làng Việt Nam, ta có thể phỏng đoán, không quá sai sự thật, là dân Việt đã tới định cư sinh sống trong vùng sông Mê Nam từ đầu thế kỷ XVII hay cuối thế kỷ XVI rồi. 3 Bản đồ III. Bản đồ Loubère, 1687 Chú thích: Phía tây nam kinh đô Xiêm là một cù lao rộng trên 100 hécta dành cho người Cochinchinois (Giao Chỉ gần Chi Na, tức người Việt Nam). Một địa điểm khác nổi tiếng lâu đời mà người Việt đã đến định cư rất sớm là Chantabun (sử ta gọi là Chăn Buôn). Có lẽ đây là một thị trấn do chính người Việt xây dựng, nằm ở bờ biển phía đông vịnh Xiêm, nơi trung độ giữa mũi Cà Mau với cửa sông Mê Nam. Các nhà thám hiểm phương Tây thường nhắc tới bến cảng này trong ký sự vào thế kỷ XVII hay XVIII. Nơi đây dân Việt tập trung đông hơn ở Ayuthia. Đã có lần chủng viện nói trên chuyển tới đặt tại Chantabun. Thị trấn và bến cảng này ngày thêm phát triển. Tới năm 1883, lúc Pavie vào thăm còn thấy số dân Việt đông đến 4.000 người, họ làm nghề đánh cá, chở thuyền, canh nông khá thịnh vượng. Mỗi năm thu hoạch riêng phần hạt tiêu được 1.500 tấn. Người Hoa ở đây chỉ là thiểu số và thua kém người Việt[29]. Lưu dân Việt Nam tha phương cầu thực, ở đâu cũng vẫn giữ tình máu mủ, quần tụ tương trợ nhau, sống thành làng xã, đồng thời biết khéo đối xử hòa hợp với dân chúng địa phương, lại được lòng chính quyền tại chỗ. Triều đình Cao Miên cũng như triều đình Xiêm, trong nhiều trường hợp đã phải cậy nhờ đến cộng đồng người Việt lưu dân. Chẳng hạn để bảo vệ kinh đô Ayuthia, vua Xiêm đã trao một phần trách nhiệm cho làng Việt Nam về mặt thủy quân vì người Việt rất thạo thủy chiến[30]. Hơn nữa, lưu dân người Việt còn biết mềm mỏng và điều hòa, với những người đồng cảnh phải tìm nơi xa quê hương sinh sống như mình. Đáng chú ý hơn cả là đối với người Hoa, họ di tản tới miền này cũng khá đông. g) Nhóm người Hoa tới sau và được lưu dân Việt Nam chấp nhận Năm 1679, có nhóm người Hoa là Dương Ngạn Địch, nguyên tổng binh trấn thủ ở Long Môn, thuộc Quảng Châu (Trung Quốc) và Trần Thắng Tài, nguyên tổng binh trấn thủ các châu Cao Lôi Liêm (Trung Quốc), đem binh biền và gia quyến trên 3.000 người với hơn 50 chiến thuyền, nhập cửa biển Tư Dung và cửa Đà Nẵng gần kinh đô. Quan địa phương tâu lên: “Có bọn cựu thần nhà Minh thề cùng tận trung với nước… không chịu thần phục nhà Thanh, nên mới chạy sang nước ta xin làm thần dân. Khi ấy đương có việc chiến với Bắc Hà, mà đoàn quân này từ xa đến chưa biết thực hư thế nào, huống chi họ lại ăn mặc khác, nói tiếng khác, khó sử dụng được. Nhưng họ trong lúc thế cùng, nên phải chạy sang, khẩn khoản bày tỏ tấm lòng thành, thì cũng không nên cự tuyệt. Vả lại địa phương Giản Phố (đất Gia Định xưa), đất ruộng béo tốt kể đến ngàn dặm, triều đình chưa rảnh kinh lý, chi bằng ngày nay lợi dụng sức của họ, giao cho khai phá đất đai để ở, cũng là một việc mà được bao điều tiện lợi”. Chúa Nguyễn thuận theo giải pháp đó, ban cho những kẻ đứng đầu phẩm chức của triều đình, cho lệnh khao đãi và tiếp tế cả binh đoàn… để tỏ ý không phân biệt họ là người ngoại quốc. Nhận được lệnh trên, họ Dương và Trần cùng đến kinh tạ ơn, rồi phụng chỉ tiến hành. Dương Ngạn Địch đem binh lính ghe thuyền vào cửa Soài Rạp, cửa Tiểu và cửa Đại, ngược lên đồn trú vùng trù mật, thuận đường giao thông lập thành Mỹ Tho đại phố. Còn Trần Thắng Tài thì đem binh thuyền chạy vào cửa biển Cần Giờ rồi lên đồn trú ở Bàn Lăng xứ Đồng Nai, khai phá đất hoang, lập phố thương mại, tụ hội thành Nông Nại đại phố lôi cuốn khá đông người Nhật Bổn, Tây Dương, Đồ Bà đến buôn bán sầm uất[31]. Dựa vào dữ kiện do chính sự trình bày như trên, một số người nghiên cứu đã đánh giá quá cao “công trình khai hoang” của người “Minh Hương” ở Mỹ Tho và Đồng Nai. Sự thật trong các vùng này, nhất là Đồng Nai, người Việt lưu dân đã hiện diện từ lâu trước và đã vỡ vạc được khá nhiều đất hoang. Có chăng là, người Việt khi ấy đông hơn người Hoa, đã chấp nhận và nâng đỡ những kẻ gặp bước đường cùng để cùng chung sống làm ăn. Thực tế thì người Hoa khai hoang ít, mà chú trọng đến việc buôn bán nhiều. Trong suốt quá trình khẩn hoang lập ấp ở miền Nam, người Việt đã chung sống hòa đồng với người Rơ Glai, Ch’Ro ở Bà Rịa, người Mạ ở Đồng Nai, người Khơ Me ở rải rác trên các giồng đất cao và ngay cả người Hoa mới lưu vong tới; suốt quá trình lâu dài ấy chưa hề xảy ra điều gì đáng tiếc. Tóm lại, giai đoạn người lưu dân Việt Nam tự động và tự quản tới lập nghiệp tại đây, kể từ một số dấu vết còn để lại cho đến khi kinh lược sứ Nguyễn Hữu Cảnh vào lập chính quyền và chia đặt phủ huyện năm 1698, đã kéo dài có lẽ khoảng một thế kỷ. Như vậy đúng là dân đi trước, nhà nước theo sau, sau hàng thế kỷ. Cho nên đối với nông dân tại đây, ruộng nương cày cấy được không phải là do ơn vua lộc nước, mà do chính mồ hôi và nước mắt cần lao của mình làm nên. Đất đai khai phá đến đâu đều thuộc của người lưu dân tới đó. Chưa đặt công quyền nên chưa thể có công điền, công điền hiểu theo khái niệm đã xác định. Đây là một giai đoạn khai hoang êm thấm, hữu hiệu, có lẽ xưa nay và không đâu có kinh nghiệm tốt đẹp như vậy. Tiếc rằng chưa có công trình nào nghiên cứu sâu rộng giai đoạn lịch sử hiếm hoi này. Kết quả cụ thể của một thế kỷ khai hoang đó là: đất mở mang được trên ngàn dặm, dân số đã tăng lên bốn vạn hộ. 2 CHÍNH QUYỀN ĐƯỢC THÀNH LẬP DẦN TỪ 1698 ĐẾN 1757 TẠI KHẮP NAM KỲ Sau trên một trăm năm khai khẩn ruộng hoang do lưu dân thực hiện, chính quyền người Việt mới tới lập phủ huyện và đặt quan cai trị. Việc tổ chức công quyền này hầu như chỉ là chính thức hóa một sự kiện đã rồi, thu thập vào bản đồ Việt Nam những phần đất hoang đã được khẩn trị bởi sức lao động của chính nhân dân mình. a) Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đặt phủ Gia Định Khi ấy, quốc vương Cao Miên là Nặc Ông Thu bị một quan đại thần tên là Am Noren âm mưu lật đổ. Am Noren sang Đồng Nai, xin chúa Nguyễn giúp cho 20.000 quân về đánh Nặc Ông Thu. Đạo quân này chia làm hai cánh theo Tiền Giang và Hậu Giang đánh lên kinh đô. Thu bị bất ngờ, phải chạy về Gò Sặt (Pursat), triệu tập cấp tốc được trên 40.000 quân, mãnh liệt phản công lại Am Noren, Am Noren bị bắt và bị hành quyết, còn tàn quân thì chạy về Đồng Nai. Sử Việt Nam không nói tới sự kiện trên, mà chỉ viện lý do tình hình không ổn định ở Chân Lạp nên chúa Nguyễn Phúc Chu sai thống suất chưởng cơ Lê Thành hầu Nguyễn Hữu Kính đem quân vào kinh lý. Nguyễn Hữu Kính được toàn quyền về quân dân, thanh thế rất lớn, tới đâu cũng được kính nể. Người Miên cũng như người Việt chỉ gọi ông là Lễ Công hay Ông Chưởng. Người ta kiêng tên ông và gọi trại bằng tiếng “Cảnh”, đó là nửa chữ Kính, vì chữ Kính gồm hai phần: tả Kim, hữu Cảnh. Vừa tới nơi, Nguyễn Hữu Cảnh liền chia cắt lãnh thổ và lập ngay cơ quan cai trị: đặt xứ Đồng Nai thành huyện Phước Long, xứ Sài Gòn thành huyện Tân Bình, gồm cả hai huyện làm phủ Gia Định (tên Gia Định có từ đó và thủ phủ Gia Định cũng đặt tại Sài Gòn như huyện Tân Bình). Việc cai trị thì huyện Phước Long có dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình có dinh Phiên Trấn. “Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có hai ty Xá - Lại để làm việc, quân binh thì có các cơ, đội, thuyền, thủy binh, tinh binh và thuộc binh để hộ vệ”.[32] Gia Định lúc bấy giờ đã có “đất đai trên ngàn dặm, dân dư tứ vạn hộ”. Đấy thực là công của lưu dân cần cù suốt trăm năm mới tạo được bề thế đó. Nguyễn Hữu Cảnh đã “đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế điền và lập sổ bộ đinh bộ điền. Từ đó, con cháu người Tàu ở Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn thì lập xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch”.[33] Trong một thời gian ngắn, Nguyễn Hữu Cảnh đã thu xếp được từng ấy việc trọng đại, tạo thành một xã hội có tổ chức trật tự. Dẫu tuy Ông Chưởng không sáng lập ra Gia Định, nhưng đúng ông là người có tài kinh bang tế thế, đưa Gia Định từ tình trạng tự phát sang trình độ nền nếp, đáng cho nhân dân kính phục và biết ơn. Trong khi Gia Định được chỉnh đốn mọi mặt, thì Nặc Thu lo ngại, đắp lũy ở Bích Đôi (có lẽ là Lovêk), Nam Vang và Cầu Nam. Nặc Thu làm khổ dân và cướp bóc thương nhân, Nguyễn Hữu Cảnh cùng với Trần Thượng Xuyên đem quân vào nội địa Cao Miên. Tháng Ba năm sau, Bích Đôi và Nam Vang bị công phá, quân Chân Lạp bỏ chạy, Nặc Thu phải rút lui trước. Nguyễn Hữu Cảnh vào Bích Đôi vỗ an dân chúng. Tháng Tư, Nặc Thu đến xin hàng, Nguyễn Hữu Cảnh an ủi, cho về Bích Đôi chiêu tập dân chúng, rồi kéo quân về đóng ở đồn Cây Sao (tức cù lao Ông Chưởng hay Lễ Công Châu sau này), báo tin thắng trận về triều đình. Tháng Năm, ngày 16 (nơi khác nói là đúng Tết Đoan Ngọ), Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về tới Sầm Giang (Rạch Gầm) thì bị bệnh mất. Linh cữu đưa về quàn tại cù lao Phố (dinh Trấn Biên, tức gần thị xã Biên Hòa ngày nay), rồi chôn cất tại đó chứ không đưa về Quảng Bình ngay (ít lâu sau mới cải táng về quê nhà, vừa đây đã tìm thấy mộ chí). Sau khi ông chết, dân chúng lập đền thờ nhớ ơn tại đầu cồn Nam Vang, trong cù lao Ông Chưởng, cù lao Phố và tại đình Minh Hương (Chợ Lớn)[34]. b) Năm 1708, Mạc Cửu xin cho Hà Tiên được thuộc chúa Nguyễn Nguyên Mạc Cửu là người châu Lôi tỉnh Quảng Đông, trước làm chủ thuyền buôn, kinh doanh lớn, thường lui tới Lữ Tống, Chà Và, Chân Lạp. Khi thấy nhà Minh hết hy vọng phục hưng đất nước từ tay thống trị người Mãn Thanh, Mạc Cửu sang ở hẳn Chân Lạp, khoảng năm 1680 và được nhận làm quan tại triều. Song chính quyền Chân Lạp lúc đó thường chia rẽ cạnh tranh nhau và bị nước Xiêm can thiệp dòm ngó, nên Mạc Cửu xin tới lập nghiệp trên cửa biển Péam (tức Phương Thành) thuộc tỉnh Kham (ta gọi Màng Khảm). Nơi đây thường có người buôn bán ngoại quốc tụ họp và chung quanh đã có lưu dân lác đác tới khẩn hoang. Mạc Cửu mở một sòng bạc để lấy xâu, mở phố xá, xây thành trên bờ biển và chiêu tập thêm lưu dân tới ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột (Kampot), Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som) và Cà Mau để lập thành 7 xã thôn. Tương truyền rằng ở Phương Thành có tiên thường hiện ra trên sông, nên mới đặt tên là Hà Tiên[35]. Tuy nhiên bọn cướp biển và chính quyền Xiêm thường tới đốt phá và quấy nhiễu Hà Tiên, nên muốn được sinh tồn, Mạc Cửu xin thần thuộc chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh và ấn thụ để tiếp tục cai quản Hà Tiên. Từ đó, tức năm 1708, Hà Tiên thuộc bản đồ Việt Nam, tuy ruộng đất thì đã do lưu dân khẩn hoang từ lâu trước nữa[36]. c) Năm 1732, đặt châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ Năm 1732, chúa đặt châu Định Viễn và lập dinh Long Hồ (tại Cái Bè) cho châu Định Viễn thuộc vào. Còn Mỹ Tho thì vẫn thuộc về Gia Định như cũ, cho người Việt và người Hoa tiếp tục làm ruộng và buôn bán, chưa vội ràng buộc bằng pháp chế chặt chẽ và chỉ đặt các kho thâu thuế mà thôi. Bốn mươi năm sau, tức 1772, Mỹ Tho mới được đặt thành đạo Trường Đồn. d) Năm 1756 đặt Mỹ Tho vào châu Định Viễn Cuối năm 1753, Nguyễn Cư Trinh lập dinh trại gọi là Đồn Dinh (tức nay là chợ Điều Khiển), huấn luyện quân ngũ, trù tính lương thực, lập kế khai thác đất đai[37]. Năm 1756 chúa Nguyễn lại ủy Nguyễn Cư Trinh xem xét hình thế, đặt lũy, đóng binh, cấp điền sản cho quân dân, vạch rõ địa giới, cho lệ thuộc châu Định Viễn. e) Năm 1757, đặt đạo Đông Khẩu, Tân Châu và Châu Đốc Nguyễn Cư Trinh nghị tâu dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Xoi (Tầm Bao) (địa phận thôn Long Hồ, Vĩnh Long sau này). Lại đem xứ Sa Đéc (Phsar-dek) đặt làm đạo Đông Khẩu, cù lao Tiền Giang làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc (Mot-Kruk) ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc. Châu Đốc là nơi địa đầu, nên cho lấy thêm quân ở dinh Long Hồ tới đóng giữ. Như vậy, toàn thể đất đai liền một dải, suốt từ Bình Thuận đến Hà Tiên và Cà Mau, gồm cả châu thổ sông Đồng Nai lẫn sông Cửu Long. Việc đặt phủ huyện và cắt quan cai trị chỉ mất vừa 60 năm (1698-1757) là xong, nhưng cuộc khai hoang lập ấp thì đã tiến hành từ trên một trăm năm trước 1535?-1698) và còn cần cù tiếp tục hoài. Ta cần lưu ý mấy thời điểm đó, ngõ hầu đánh giá đúng sự kiện lịch sử phát triển của dân tộc ta. Để chỉ toàn thể miền Nam, người ta đã lấy tên Gia Định, địa đầu của cả xứ để gọi chung. Trước hết là “Gia Định Nhị Dinh”, rồi “Gia Định Tứ Trấn”, “Gia Định Thành”, “Gia Định Ngũ Trấn” và “Gia Định Lục Tỉnh” hay “Nam Kỳ Lục Tỉnh”. Còn kiến trí duyên cách các phủ, huyện, đạo, châu, dinh, trấn, tỉnh, trong lòng xứ Gia Định thì cũng mỗi lúc một khác, khác từ tên gọi đến cách phân chia. Thí dụ Mỹ Tho nguyên xưa là đất Cù Úc. Năm 1679 Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho tới dựng nhà cửa, nhóm dân kinh thượng, kết lập xóm làng, khai khẩn ruộng vườn, lại chia ra làm trang trại, đều theo bản nghiệp làm ăn nộp thuế. Tuy nhiên, trước đó chắc đã có người lưu dân Việt tới rồi, nên chúa Nguyễn mới cho nhóm Ngạn Địch nhập vào. Song lúc đầu chưa lập phủ huyện, mà chỉ lập ra kho thu thuế. (Cả Gia Định có 9 trường biệt nạp để thâu thuế là: Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Quản Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Canh và Tân Thịnh). Nhưng mãi đến năm 1772 Mỹ Tho mới được lập thành đạo Trường Đồn có chức Cai cơ, Thơ ký quản trị. Năm 1776 thuộc quyền Tây Sơn. Năm 1778, Nguyễn Ánh lấy lại. Năm 1779 đổi làm dinh Trường Đồn có chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục cai quản. Năm 1781, cải là dinh Trấn Định. Năm 1808 đổi dinh Trấn Định ra trấn Định Tường. Năm 1832 mới gọi là tỉnh Định Tường, một trong 6 tỉnh của Nam kỳ Lục tỉnh[38]. Vấn đề kiến trí duyên cách của tỉnh phủ huyện trong Gia Định, chắc hẳn cũng như các cuộc hành quân bình định, đều có mối quan hệ với việc khẩn hoang lập ấp. Không phải bỗng dưng hay tùy tiện mà kiến trí sắp xếp hoặc đổi thay nền nếp cai trị của một địa phương. Nếu nghiên cứu kỹ, ta sẽ thấy lý do gì đưa tới sự việc kiến trí duyên cách. Chẳng hạn, chỉ bao giờ trên một địa bàn có số dân, số ấp, số ruộng cấy cày tới mức nào đó (tất nhiên theo sự nhận định đương thời) thì mới được lập thành đơn vị hành chính. Nếu dân tộc khác nhau, còn xôi đậu, thì chỉ lập châu hay đạo. Khi dân Kinh chiếm ưu thế, lúc đó mới thành phủ huyện chính quy. Chính sách hành chính bấy giờ là: dựa vào tình hình cụ thể, khi nào nội dung chín muồi mới thay đổi hình thức. Mà nội dung chính ở đây theo thiển ý là mức độ khẩn hoang lập ấp. Từ khi đặt chủ quyền trên toàn miền Nam cho tới đầu đời Gia Long, lịch sử đã ghi một lần kiến trí toàn thể xứ Gia Định như sau: “Tháng Mười mùa đông năm Kỷ Hợi đời Thế Tổ Cao Hoàng đế năm thứ 2 (1779) họa địa đồ (có đóng dấu son để làm căn cứ), chia cắt địa giới 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ cho liên lạc nhau. Lại lấy địa bạ 3 dinh tọa lạc xứ Mỹ Tho đặt làm dinh Trường Đồn, đặt lỵ sở ở giồng Cai Yến”[39]. Cuộc kiến trí trên đây cũng thực hiện sau khi có biến cố lớn: Nước Xiêm trở lại thế mạnh, tới cướp phá Hà Tiên, chiếm đóng Cao Miên, uy hiếp Gia Định. Vốn trước đây, Xiêm vẫn muốn dòm ngó đất đai và khống chế triều đình Cao Miên. Nhưng trong nửa đầu thế kỷ XVIII, Xiêm bị Miên xâm phạm làm cho yếu thế. Trong khi đó, ảnh hưởng và thế lực của Việt Nam ngày càng lan rộng. Lưu dân khai hoang thêm nhiều ruộng đất, triều đình Nguyễn thì đặt quan bảo hộ cả ở kinh đô Cao Miên. Khi vua mới của Xiêm thuộc dòng ngoại tộc là Trịnh Quốc Anh hồi phục lại cường lực, rồi đem quân đi chinh phạt Hà Tiên và Cao Miên, lấy cớ Mạc Thiên Tứ cho hai người con của cựu hoàng Xiêm tá túc và Nặc Tôn (quốc vương Cao Miên lúc đó) không chịu triều cống Xiêm như trước. Hà Tiên cũng như Cao Miên lúc đó, thất thủ nặng nề. Thiên Tứ phải chạy về Trấn Giang (Cần Thơ) đình trú. Còn Nặc Tôn thì phải lẩn trốn vào rừng. Xiêm đặt Nặc Nộn lên thay. Chúa Nguyễn liền sai thống suất Nguyễn Cửu Đàm (con Nguyễn Cửu Vân) làm chức Điều khiển đem quân đánh vua Xiêm. Tháng Sáu năm Nhâm Thìn (1772), Cửu Đàm tiến quân theo đường Tiền Giang, cùng với Cai bộ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên lãnh binh sĩ đạo Đông Khẩu do đường biển tiến đến Kiên Giang, Lưu thủ Tống Phước Hiệp do đường Hậu Giang tiến giữ Châu Đốc để tiếp ứng cho hai cánh quân trên. Khoa Thuyên đem 3.000 quân và 50 thuyền đánh quân Xiêm, không được, phải lui về Kiên Giang, rồi đem quân tiến thẳng lên Nam Vang, phá được quân Xiêm, vua Xiêm và Nặc Nộn đều bỏ chạy. Quân ta thu phục các thành Nam Vang, La Bích, rồi để Nặc Tôn trở về làm vua. Cửu Đàm thu quân về dinh Điều Khiển ở Bến Nghé, đoạn cho đắp lũy đất Tân Hòa kéo dài 15 dặm bao quanh đồn dinh, chắn ngang đường bộ để phòng thủ[40]. Xem thế thì biết, công cuộc khẩn hoang lập ấp ở cơ sở do lưu dân tự phát tiến hành cũng có gắn bó với những vụ hành quân để bảo vệ biên giới và giữ gìn an ninh trật tự. Lại nữa, sau mỗi lần hành quân lại thấy những vụ kiến trí đơn vị hành chính và xây dựng thành lũy, đồn bảo, tất cả đều nhằm mục đích củng cố chủ quyền. Từ Mô Xoài qua Đồng Nai đến toàn xứ Gia Định, phải đi theo một quá trình lâu dài và nhiều lúc quanh co. Từ một xã không quá “nhị thập nhân” đến một phủ “dư tứ vạn hộ” rồi tới “ngũ trấn” và “lục tỉnh”, lịch sử đã ghi lại nhiều trang vàng son sáng chói, nhưng ít khi ta nghĩ tới phần cơ bản của lịch sử, phần làm nên lịch sử của người lưu dân nâu sồng và kiên nhẫn khai hoang lập ấp ở Nam kỳ. 3CUNG CÁCH KHẨN HOANG LẬP ẤP VÀ CHẾ ĐỘ ĐIỀN THỔ DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN Với hai đoạn trên, chúng ta đã lướt qua thời điểm xuất hiện của lưu dân và lịch sử thiết lập chính quyền ở phần đất mới mở mang của miền Nam nước Việt. Trong giai đoạn này, chúng ta sẽ tìm hiểu cách thức làm ruộng và lập ấp của lưu dân thích ứng với thổ nghi địa phương thế nào, rồi tìm hiểu về cung cách áp đặt chính quyền trên lớp người khai hoang mới đó, sau cùng và từ đó, chúng ta sẽ tìm hiểu chế độ sở hữu ruộng đất lúc khai nguyên của phần lãnh thổ này. a) Làm ruộng thích ứng với khí hậu và thổ nhưỡng Xứ Gia Định là nơi mưa nắng hai mùa, không có đủ xuân hạ thu đông như ngoài Trung và Bắc. Ruộng đất ở đây cũng khác, nên người lưu dân tha phương đã phải làm ăn thích ứng thế nào cho có lợi. Đúng như Trịnh Hoài Đức nhận xét: “Đất Gia Định gần biển… khí hậu Gia Định thường ấm, tháng Ba mới bắt đầu mưa, mùa hạ chính là mùa mưa. Mùa thu thì mưa dầm thấm, mỗi lúc mưa to chẳng khác nghiêng vò mà đổ nước xuống, nhưng chỉ mưa trong một hai giờ rồi tạnh nắng, một đôi khi mưa lâm ly một hai ngày, nhưng không có khi nào mưa cả tuần cả tháng. Tuy bốn mùa có mưa, duy tiết đông chí mới có hơi lạnh. Khí hậu không thường nên bốn mùa nhiều hoa đua nở thơm tho. Thật đúng là “bốn mùa đều nóng như mùa hạ, một trận mưa trở thành mùa đông” hay là ở đây suốt năm chỉ là mùa xuân tươi đẹp”[41]. Còn đất đai Gia Định thì mênh mông, lúc đầu còn hoang vu đầy thú dữ, côn trùng và cỏ lác, nhưng khi đã khai khẩn thì trở thành đồng lúa phì nhiêu. Lê Quý Đôn ghi lại: “Đất Đồng Nai thuộc phủ Gia Định, từ các cửa biển như cửa Cần Giờ, cửa Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại đi vào, toàn là những đám rừng hoang vu cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn nghìn dặm”[42]. Cũng như Trịnh Hoài Đức nhận xét: “Địa phương Đồng Nai nguyên xưa có nhiều ao chằm, rừng rú”[43]. Khi người lưu dân Việt Nam chưa tới khai khẩn, dân cư ở đây rất thưa thớt. Người Miên thường chỉ ở trên các giồng đất cao, người Mạ, người Ch’ro, người Rơ Glai cũng chỉ ở trong rừng và trên núi cao. Ao chằm, bưng trấp đầy cỏ lác, có lẽ từ khai thiên lập địa chưa từng có bàn tay lao động làm cho trở thành giá trị. Lưu dân tới, chỉ khai thác những vùng đất thấp đó, vốn thích hợp với việc trồng lúa nước cổ truyền “ruộng lạc với nước thủy triều lên xuống”, nên dễ dung hòa với dân địa phương. Suốt trên trăm năm của lịch sử khai hoang tự phát đó, không thấy ghi lại một lần nào có sự tranh chấp ruộng đất giữa thổ dân và lưu dân, có lẽ cũng vì nhờ sự mặc nhiên phân chia địa bàn sản xuất vậy. Trong việc khai thác cũng như định thuế, người ta thường chia làm hai loại sơn điền và thảo điền. Tuynhiên, không nên hiểu theo nghĩa đen là ruộng núi và ruộng cỏ, mà chỉ là ruộng cao và ruộng thấp mà thôi. Sơn điền và thảo điền đều ở trong đồng bằng như nhau và thường khi lại xen kẽ với nhau. Buổi đầu khai thác trong vùng Mô Xoài và Đồng Nai, đất tương đối cao, danh xưng sơn điền còn đúng phần nào, vì “sơn điền ban đầu khai khẩn thì đốn chặt cây cối, đợi cho khô đốt làm phân tro, khi mưa trồng lúa, không cần cày bừa, dùng lực ít mà được bội lợi. Trong ba bốn năm thì đổi làm chỗ khác… Lại có chỗ ruộng thấp mà nghiệp chủ trưng làm sơn điền lâu thành thục, thì cày bừa cũng như thảo điền”[44]. Cách khai thác sơn điền thuần túy này về sau không còn nữa, nhưng chữ sơn điền vẫn còn dùng để chỉ những mảnh ruộng tương đối cao ít thấm nước và ít cỏ mọc hơn ở ruộng thảo điền. Thảo điền là “ruộng, lùng, lát, bùn lầy, lúc nắng khô nứt nẻ như mu rùa, có hong hố sâu lớn; đợi có nước mưa đầy đủ dầm thấm, nhiên hậu mới hạ canh, mà trâu cày phải lựa con nào có sức mạnh, móng chưn cao mới kéo cày được, nếu không vậy, thì ngã ngập trong bùn lầy, không đứng dậy nổi. Ruộng cày trâu ở Phiên An, Biên Hòa, một hộc lúa giống thu hoạch được 100 hộc, duy ở trấn Vĩnh Thanh toàn là ruộng bùn sâu không dùng trâu cày được, phải đợi lúc hạ thu giao thời có nước mưa đầy rẫy, cắt bỏ lùng lát, cào cỏ đắp vào bờ, rồi chỏi đất cấy mạ lúa xuống. Ruộng đất béo tốt nên 1 hộc lúa giống thu hoạch được 300 hộc. Ở trấn Định Tường, chỉ huyện Kiến Đăng có ruộng ngập nước, công lợi cũng bằng ruộng ở Vĩnh Thanh, còn nữa thì là ruộng cày trâu, nhưng hoa lợi cũng bội thâu, thứ hai là Phiên An, thứ ba là Biên Hòa. Ruộng ở huyện Long Xuyên và Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tự ruộng Vĩnh Thanh, mà địa lợi chưa khẩn hết”[45]. Tựu trung, chân ruộng ở miền Nam chia rõ rệt thành hai vùng: ruộng miền Đông thì cày trâu, mà tốt nhất là ruộng Định Tường (Mỹ Tho), thứ nhì là ruộng Phiên An (Gia Định), thứ ba ruộng Biên Hòa. Còn ruộng ở miền Tây, thêm vùng Kiến Đăng (tức Cai Lậy), thì toàn là ruộng sâu đầy bùn phù sa, khỏi phải cày bừa, chỉ cần làm sạch cỏ rồi cấy mạ xuống là xong. Lại thu hoạch được gấp ba lần ruộng ở miền Đông. Có lẽ ngay từ thời đó, nông dân đã có sáng kiến sạ lúa trên các loại ruộng này, không phải gieo mạ và cấy như thông thường. Rồi chỉ đợi lúa chín là ra gặt. Thế nên mới có câu “làm chơi ăn thật”. Trên các loại ruộng sâu này, việc khai hoang không quá vất vả và kỳ công. Mỗi nông dân chăm chỉ làm hằng năm phá hoang thêm được hai hay ba mẫu là thường. Ngay vụ đầu cũng đã có ăn, còn từ năm thứ ba thì đất thuần thục sẽ cho năng suất cao. Thuở mới khai hoang, nông dân thường chỉ gieo trồng mỗi năm một vụ, song cũng tùy theo chân ruộng cao thấp mà làm sớm hay muộn. Phàm ruộng ở chỗ thấp, được nước mưa thấm trước, gọi là ruộng sớm, còn chỗ cao ráo là ruộng muộn. Ruộng sớm thì tháng Tư gieo mạ, tháng Sáu cấy, tháng Mười gặt. Còn ruộng muộn thì tháng Năm gieo mạ, tháng Bảy cấy, tháng Hai gặt. Tuy nhiên ở mỗi trấn hay tùy theo loại giống, mà sớm hay muộn cũng chỉ xê xích chút ít thôi. Nói chung, trên mỗi thửa ruộng chỉ làm được mỗi năm một vụ. Người lưu dân đầu tiên còn biết chọn lựa và tìm ra những thứ lúa giống thích hợp với thổ nghi tại chỗ, như có thứ lúa chịu được nước lợ, có thứ lại mọc được nhanh tùy theo mức nước lên xuống… Như lúa tẻ “có tên riêng, nào là lúa tàu, lúa móng tay, lúa móng chim, lúa mô cải, lúa cà đông, lúa cà nhe, lúa tráng nhất, lúa chàng co; tên gọi khác nhau và có sớm muộn, dẻo và không dẻo khác nhau, nhưng thứ thơm ngon đệ nhất là giống lúa tàu, thứ nhì là giống lúa cà nhe”. Còn các loại nếp thì “có nếp hương, nếp sáp, lại có thứ nếp đen, có tên nữa là nếp than, sắc tím, nước cốt đen, dùng nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín, khi còn nóng rưới mỡ heo, lá hành và muối trắng, đánh trộn cho đều, thì vị rất ngọt và giòn”[46]. Ngoài việc gieo trồng lúa gạo là chính, nông dân miền Nam còn trồng được mía làm đường, dâu nuôi tằm, cau trầu, các loại bầu bí, cà, cải, dưa, khoai, đậu, vừng… “Nói tóm lại, các thứ đậu, dưa, khoai, chỉ dùng để điểm tâm mà thôi, chưa từng phơi khô mài bột dành làm thức ăn khi đói. Bởi vì người Gia Định mỗi ngày ăn ba bữa đều là cơm, cháo cũng ít ăn, huống chi là các thứ khác, vì cớ lúa gạo dư nhiều, mà không năm nào bị mất mùa cả”[47]. b) Lưu dân lập ấp và tục lệ xã thôn Trước khi Nguyễn Hữu Cảnh kiến trí xứ Đồng Nai thành Gia Định phủ và chia cắt đất đai dân số thành huyện, có lẽ cả trăm năm trước đã có “Hà Tôm xã” rồi. Đó là xã của 20 người lưu dân tự lập nên, chưa ăn nhập vào phủ huyện nào của Việt Nam. Trong khi tha phương cầu thực, lưu dân không thể sinh sống và khẩn hoang lẻ loi, mà phải đoàn kết tương trợ. Có lẽ họ đi thành từng nhóm năm bảy người, tới đâu thuận tiện dễ làm ăn, gần sông nước, kề đường giao thông, thì dựng lều lập ấp. Buổi đầu chưa có luật lệ, đất đai thừa thãi, muốn cày cấy và lập thôn xóm đâu cũng được, miễn có sự đồng ý của dân địa phương, nếu khu vực đó dân địa phương chưa nhận chủ quyền. Ta có thể phỏng đoán có nhiều cách thành lập ấp mới: có khi là mấy người rủ nhau đi khai hoang một vùng đất, gieo cấy xong thì trở về; đến mùa lúa chín mới tới gặt hái; nếu thấy đất dễ thuần và mùa tốt, thì cùng nhau đến định cư tại chỗ rồi đặt thôn xóm. Có khi mấy nông hộ cùng làng chia nhau khai hoang những khoảnh đất chưa ai cấy cày ngay giáp cận đó; khi thành điền thổ tốt thì tách ra khỏi làng cũ để lập một thôn mới. Cũng có khi khai hoang lập ấp mới chỉ do một phú nông xướng xuất, một nông dân có vốn trữ đủ thóc ăn và điền khí, rủ hoặc mướn thêm mấy lực điền khỏe mạnh, chồng chất tất cả lên vài chiếc thuyền rồi đi thẳng tới vùng đất khai hoang đã thăm dò trước, đến nơi chỉ cần làm vài cái chòi tạm trú và gieo trồng, xong rồi cũng về nơi cũ; tới mùa gặt, nếu thấy lúa tốt thì kéo nhau tới lập ấp mới, nếu thấy không đủ ăn thì “đá chòi” rồi đi nơi khác. Việc lập ấp mới chắc còn nhiều cách khác nữa, tuy nhiên cách thứ ba vừa kể chỉ có nhiều từ khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý miền Nam. Trước đó, xã thôn của lưu dân còn hoàn toàn tự lập tự trị, người cùng thôn tất phải đoàn kết, tương trợ nhau và có lẽ cũng rất bình đẳng và khi lập ấp mới cũng đều sàn sàn như nhau. Còn từ khi Nguyễn Hữu Cảnh đã “đặt ra phường ấp xã thôn, chia cắt địa phận”, nghĩa là việc khai hoang lập ấp có tổ chức hơn và nhất là từ khi chính quyền “cho chiêu mộ những người dân có vật lực từ các xứ Quảng Nam, phủ Điện Bàn, phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thiên cư vào ở đất Đồng Nai thuộc phủ Gia Định”[48], thì trong xã thôn mới chia ra kẻ giàu người nghèo và thôn này phát đạt hơn thôn khác. Nhờ có ruộng đất phì nhiêu, nhiều phú hộ di cư đã trở thành bá hộ hay thiên hộ để khống chế được từng thôn hay từng tổng. Như Lê Quý Đôn ghi: “Những người di cư mới (từ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn) ra sức chặt phát cây cối, cắt cỏ rậm và mở mang đất đai thành những vùng đất bằng phẳng, thổ địa phì nhiêu. Nhà Nguyễn lại cho dân được tự tiện chiếm đất mở vườn trồng cây và xây dựng nhà cửa. Lại cho họ thu nhận những con trai con gái người dân tộc thiểu số trên đầu nguồn xuống, để mua làm đầy tớ đứa ở. Nhờ vậy mà Gia Định có rất nhiều lúa thóc. Những người giàu có ở các địa phương, nơi thì có bốn năm mươi nhà, nơi thì có hai ba mươi nhà, mỗi nhà có hạng đầy tớ làm ruộng hoặc đến năm sáu mươi người. Mỗi gia đình có thể nuôi hơn ba bốn trăm con bò, cày bừa, trồng trọt, cấy dắm, gặt hái, bận rộn suốt ngày, không lúc nào nghỉ ngơi”[49]. Nhờ những người này mà công cuộc khẩn hoang lập ấp được thêm nhanh chóng, song cũng chính họ đã gây ra nạn cường hào ác bá trong làng xã và xã hội miền Nam. Xã thôn miền Nam cũng tổ chức theo quy cách và truyền thống chung của Việt Nam. Đây là một cơ cấu xã hội rất mạnh, trong đó mỗi người dân có chỗ đứng và hầu như bắt buộc phải đứng trong đó. Mỗi người dân chính thức phải có làng rồi mới có nước, nếu không sẽ thành người lưu dân vô sở cứ. Nơi đây chúng ta không bàn về sự hay dở của xã thôn thời đó, nhưng chỉ ghi nhận rằng khi chính quyền được tổ chức ở miền Nam, thì toàn thể lưu dân cũ nhất loạt phải tuân phục pháp chế mới là “đặt ra phường ấp xã thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh thuế điền và lập sổ bộ đinh bộ điền”. Pháp chế đưa lưu dân vào tổ chức chính thức, thừa nhận quyền lợi mỗi người được “chiếm đất” nhưng cũng đặt bổn phận phải đóng “thuế đinh thuế điền”. Đối với xã thôn, pháp chế bắt thực thi hai điều kiện cơ bản nhất là: lập bộ điền để ghi tả rõ địa bàn của làng và từng mảnh ruộng của mỗi ai, lập bộ đinh để ghi rõ số dân đinh và ghi tên tuổi cùng nghề nghiệp mỗi người. Tại miền Nam, xã thôn chẳng những đã có tác dụng tốt trong việc khai hoang và phát triển, mà còn có tác dụng trong việc hòa giải dân tộc, chủ yếu là đối với cộng đồng người Hoa. Người Hoa mỗi khi tới đâu, theo thói quen, thường lập thành những bang khép kín như những “quốc gia trong một quốc gia” ở nước đến trú ngụ. Song khi Nguyễn Hữu Cảnh đưa lưu dân Việt Nam vào khuôn khổ chung, thì đồng thời cũng đặt cộng đồng người Hoa vào khung cảnh xã thôn của ta: “Từ đó con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch”[50]. Ta biết rằng ở bên Trung Quốc chỉ có lý chứ không có xã và lý được tổ chức khác xa với xã thôn người Việt. Người Hoa được ghép vào xã, một cơ cấu đặc thù của ta, rồi sống theo pháp chế của chính quyền người Việt, chỉ sang đến đời thứ hai là trở thành dân Việt. Nhiều người Minh Hương (như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định hay Phan Thanh Giản) đã được học hành, thi cử, làm quan tại triều mà không hề có phân biệt đối xử. Mỗi xã thôn Việt Nam cũng có một ngôi đình làng để làm nơi thờ thần và nhóm họp việc chung. Xem ra thôn ấp trong Nam có vẻ rất dân chủ và tập trung sinh hoạt cả vào dịp Tết Nguyên Đán: Tế xã, “kỳ tế phải trước lựa ngày tốt, đến buổi chiều, lớn nhỏ đều nhóm tại đình,… sự tế có chủ ý, đều gọi là Cầu an. Ngoài hương lệ, chỗ ngồi có nghi tiết thứ tự để nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng có người học thức… giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có phong tục tốt. Đồng thời trong ngày ấy, xét sổ sách trong làng, coi một năm ấy thâu nạp thuế khóa diêu dịch, lúa tiền dư thiếu thế nào, nông điền được mất thế nào, giữa hội đồng trình bày tính toán, cùng bầu cử người chức sự coi làm việc làng cũng bàn giao trong ngày ấy”[51]. c) Xuất hiện bổn thôn điền và bổn thôn thổ Theo luật lệ cổ truyền Việt Nam, hễ ai đem công sức vốn liếng để khai hoang, khi thành ruộng, người ấy sẽ được đăng bộ như tư điền của riêng mình. Cho nên lưu dân hoặc di dân tới xứ Gia Định “đều ra sức làm ruộng để tạo thành sản nghiệp riêng”. Buổi đầu, suốt thời gian hai thế kỷ (1600-1800), xứ Gia Định còn thưa dân nhiều đất, nên nhà nước khuyến khích việc khai hoang: ai ở đâu, muốn vỡ đất chỗ nào, chiếm hữu nhiều hay ít, tự ý muốn đóng thuế bao nhiêu thì khai báo bấy nhiêu, nhà nước không hạn chế, không đo đạc hay khám xét. Pháp chế đối với Gia Định còn lỏng lẻo, chứ không như luật lệ của chúa Nguyễn với Đàng Trong hay chúa Trịnh với Đàng Ngoài. Sử gia chuyên về Gia Định đã nói tới thời gian đó rằng: “Địa phương Nông Nại nguyên xưa có nhiều ao chằm, rừng rú, khi đầu thiết lập ba dinh, mộ dân đến ở, có đất ở hạt Phiên Trấn mà kiến trưng làm đất ở hạt Trấn Biên, hoặc có đất ở hạt Trấn Biên mà kiến trưng làm đất của Phiên Trấn, như vậy cũng tùy theo dân nguyện không có ràng buộc chi cả, cốt yếu khiến dân mở đất khẩn hoang cho thành điền, lập làm thôn xã mà thôi. Lại hoặc có đất hiện còn bùn cỏ mà trưng làm sơn điền, hoặc đất gò đống mà trưng làm thảo điền cũng có phần nhiều, đến như sào mẫu khoảnh sở tùy theo miệng khai rồi biên vào bộ chứ không hạ thước đo khám, phân bố đẳng hạng tốt xấu, còn thuế lệ nhiều ít và cái hộc lớn nhỏ cũng tùy theo lệ sở thuộc phỏng theo đó mà làm không có đồng nhau một mực. Đến đây (tức khi Nguyễn Hữu Cảnh tới kinh lý) mới tham chước mà làm cho có mực quân bình, nhưng so với các dinh trấn về phía Bắc thì pháp chế ở Gia Định khoan hồng và thuế cũng nhẹ hơn”[52]. Với môi trường địa lý thuận lợi cùng với pháp chế lỏng lẻo đó, công cuộc khai hoang đã tiến hành nhanh chóng khỏi cần tới vốn đầu tư của nhà nước. Nhưng đồng thời lại có hậu quả là tư nhân được chiếm hữu ruộng đất triệt để và lần hồi ruộng đất tập trung trong tay một thiểu số người giàu, tạo cho xã hội miền Nam rõ ràng có tình trạng tiền tư bản chủ nghĩa, mà chúng ta sẽ nói tới trong đoạn sau. Cho nên, theo cách khai hoang và pháp chế dành cho miền đất mới, Nông Nại tam dinh rồi Gia Định ngũ trấn thời đó chỉ có hầu hết là tư điền tư thổ. Công điền công thổ chưa thấy xuất hiện, không để lại một vết tích nào trong lịch sử. Tuy nhiên, làng xã đã thành lập, thành lập từ trước khi có kiến trí của chính quyền, tất làng xã phải có công nho công quỹ để chi tiêu vào các việc lợi ích chung. Mà công nho công quỹ, dưới thời nông nghiệp thì phổ thông nhất là ruộng đất, vì ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản hơn cả, bền vững hơn cả. Trong khi miền Nam chưa có công điền, chưa thể bấu xén vào công điền, tất thị làng xã phải chung tiền mua lấy một số tư điền, hoặc nhận hiến điền của một xã dân hảo tâm, hoặc chung sức nhau khai hoang lấy một thửa ruộng, để làm ruộng chung của làng gọi là bổn thôn điền hay bổn thôn thổ. Bổn thôn điền và bổn thôn thổ là đặc trưng của xã thôn miền Nam. Bổn thôn điền thổ ở miền Nam đã xuất hiện trước khi có công điền công thổ, xuất hiện gần đồng thời khi thành lập làng. Bổn thôn điền của làng nào thì hoàn toàn thuộc quyền làng ấy, được sử dụng theo tục lệ của làng. Bổn thôn điền là ruộng chung của làng, nhưng đối với nhà nước thì nó lại là của riêng làng. Về mặt thuế lệ và quy định mua bán, bổn thôn điền theo ngạch tư điền chứ không phải công điền. Như khi nhà nước cấm mua bán công điền hay quy định không bồi thường trong trường hợp lấy công điền làm việc lợi ích quốc gia, thì bổn thôn điền không nằm trong khuôn khổ đó. Ở Bắc kỳ trước kia cũng có loại ruộng tương tự gọi là tư dân điền[53]. Nhưng bổn thôn điền thì có trước công điền, để lo việc chi tiêu của xã thôn, đặc biệt khi mới thành lập, còn tư dân điền thì có sau công điền (tiếc rằng một số tác giả, vì thông qua tư liệu của các nhà nghiên cứu nước ngoài không hiểu thấu đáo tình hình bổn thôn điền của miền Nam, đã cho là bổn thôn điền xuất hiện trên toàn quốc và vào bất cứ thời nào). d) Xã hội tiền tư bản chủ nghĩa ở Gia Định đã thúc đẩy việc tư nhân chiếm hữu ruộng đất, không để chỗ cho công điền công thổ xuất hiện Dấu hiệu của sự hình thành chủ nghĩa tư bản là tình hình sản xuất hàng hóa đã tới mức cao. Từ khi Gia Định được khai hoang, người ta đã sản xuất dư thừa lúa gạo để đem bán đi các nơi, kể cả nước ngoài, chứ không còn trồng lúa để tự cung tự cấp như các miền khác của đất nước. Lê Quý Đôn đã ghi kỹ: “Hằng năm cứ đến tháng Một tháng Chạp, người ta thường xay giã lúa thành gạo đem đi bán lấy tiền tiêu dùng vào những lễ tiết chạp. Còn từ cuối tháng Giêng trở đi, họ không còn thì giờ rảnh rỗi để xay giã lúa thóc. Những lúc bình thường, người ta chuyên chở gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, trừu đoạn của người Tàu, đem về may mặc, nên quần áo của họ toàn là hàng tươi tốt đẹp đẽ, ít khi họ dùng những áo quần bằng vải trắng thường”[54]. Người Gia Định đem thóc lúa đi bán, mà người ngoài tới Gia Định mua cũng nhiều. Truyện kể sau đây rất rõ ràng: “Người thôn Chính Hòa thuộc châu Nam Bố Chánh tên là Đồng Châm có nói ngày trước anh ta đi buôn ở phủ Gia Định hơn mười chuyến. Thường thường thì cứ tháng Chín, tháng Mười, anh ta ra đi và đến tháng Tư, tháng Năm mới về. Nếu gặp gió thuận, thì thuyền đi không quá mười ngày đêm có thể đến Gia Định được. Mỗi lần đi Gia Định, anh ta thường qua cửa biển Nhựt Lệ trình quan trấn thủ, vào đến cửa Eo (Thuận An) lại phải trình quan tào vận, nhận lãnh giấy tờ xuất dương. Đến đầu địa giới xứ Gia Định là xứ Vũng Tàu, nơi hải đảo có dân cư. Tới đây, người ta thu xếp buồm thuyền để đậu lại nghỉ ngơi và để hỏi thăm nơi được mùa, nơi mất mùa như thế nào. Sau khi biết chắc địa phương nào được mùa lúa thóc, người buôn mới cho thuyền vào nơi ấy. Nếu cho thuyền đi lên phía trên, thì người ta sẽ vào cửa Cần Giờ. Nếu cho thuyền đi vào khoảng giữa, thì người ta sẽ vào cửa Lạp Hải (Soài Rạp). Nếu cho thuyền đi vào miền dưới, thì người ta vào cửa Đại hoặc cửa Tiểu. (Lê Quý Đôn ghi rất chính xác tuy chưa đích thân đi vào miền Nam. Xin coi bản đồ). Đến nơi, người ta đã trông thấy thuyền buồm, thuyền mành đậu xúm xít kề nhau, tấp nập. Hai bên mua bán thóc gạo đã thương lượng với nhau và bàn định giá cả lúa thóc xong rồi, bấy giờ người bán sai các trẻ nhỏ hay đứa ở làm công việc khiêng gánh lúa thóc và vận chuyển xuống thuyền người mua. Còn đồng tiền xưa thì một tiền (tức 60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Cứ lường theo bát được gạt bằng miệng mà dân gian địa phương thường dùng thì ba bát ấy ngang với 30 bát của nhà nước. Một quan tiền đong được 300 bát đồng của nhà nước (tức bát định chuẩn). Giá rẻ như vậy, các nơi khác chưa từng có”.[55] Các thị trấn, các trung tâm buôn bán lớn mọc lên, cũng là dấu hiệu của một phương thức sản xuất đang chuyển mình. Chỉ trong thời gian ngắn, nhiều trung tâm thương mại giao dịch quốc tế đã thành hình, đáng kể hơn cả là: Đô hội Gia Định, chợ Sài Gòn, Nông Nại đại phố, chợ Mỹ Tho, phố Hà Tiên… Gia Định và sông Bến Nghé: “Hai huyện Bình Dương, Tân Long (tức nội thành Sài Gòn nay) dân cư trù mật, chợ phố liền lạc, nhà tường nhà ngói liên tiếp nhau. Nhiều người thạo nói tiếng Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Tây Dương, Tiêm La. Tàu ghe ở hải dương đến buôn bán qua lại, cột buồm liên lạc, hàng hóa đủ cả trăm thức, xưng làm đại đô hội ở Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. Quen nghề thương mại, nhiều người ở nơi chợ búa, có thuyền ở, gọi là dân giang hồ, có lữ khách tụ hiệp gọi là dân tứ chánh.[56]” Còn sông Tân Bình thì chảy ngay “trước thành Gia Định, tục danh sông Bến Nghé (sông Sài Gòn nay),… những tàu buôn và ghe thuyền lớn nhỏ của bản quốc và ngoại quốc liên tiếp đến đậu, trông thấy trụ buồm liên lạc”[57]. Trên bờ có chợ Bến Thành, phố chợ nhà cửa trù mật, ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ có thao diễn thủy binh, nơi bến đò ngang đón chở khách buôn ngoài biển lên bờ. Đầu phía bắc là ngòi Sa Ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thức hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền”[58]. Chợ Sài Gòn tức Chợ Lớn sau này: “Cách phía nam trấn (Gia Định) 12 dặm, đường hai bên tả hữu quan lộ, ấy là đường phố lớn thẳng suốt ba đường giáp đến bến sông, bề ngang một con đường giữa và một con đường dọc theo sông. Các con đường ấy xuyên giáp nhau hình như chữ điền, phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lộn, dài ba dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm đoạn, đồ sứ, giấy bút, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột v.v. Những hóa vật ở nam bắc theo đường sông đường biển chở đến không thiếu món nào. Đầu phía bắc đường phố lớn có miếu Quan Thánh và ba hội quán Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, chia đứng hai bên tả hữu, phía tây đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có Chương Châu hội quán. Gặp ngày Tết, đêm trăng, tam nguyên, sóc vọng, thì treo đèn đặt án tranh đua kỹ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm vóc, như hội quỳnh dao, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, ấy là một thị phố lớn và đô hội náo nhiệt… Phía đông đường lớn giữa phố có chợ Bình An đủ sản vật quý báu ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán”[59]. Dấu vết những kiến trúc văn hóa trên đây vẫn tồn tại đến ngày nay. Nông Nại đại phố: “Ở đầu phía tây cù lao Đại Phố (nay thuộc thành phố Biên Hòa), lúc đầu khai thác (1679), Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc tới 5 dặm, chia vạch làm 3 đường phố. Đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu neo, có những xà lan liên tiếp nhau, ấy là một chỗ đại đô hội, những nhà buôn bán to lớn duy ở đây là nhiều hơn”[60]. Cù lao Phố nay không còn sầm uất như xưa. 4 Bản đồ IV. An Nam đại quốc họa đồ của Taberd, 1838 Chú thích: Theo nghiên cứu địa danh lịch sử thì bản đồ này vẽ trước năm 1832. Trích phần phủ Gia Định. Phố chợ Mỹ Tho: “Khoảng năm Kỷ Tỵ (1679), chúa Nguyễn cho viên quan xá sai tên là Văn Trinh đưa nhóm Dương Ngạn Địch cả binh biền và ghe thuyền đến đóng dinh trại ở Mỹ Tho, rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh và người Thượng kết thành chòm xóm… Phía nam trụ sở là chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc, làm thành một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo[61].” Chợ trấn Hà Tiên: “Ở phía đông ngó xuống bến hồ, nơi bến có làm trại cá, phía bắc công khố có miếu hội đồng, phía bắc miếu có xưởng sửa thuyền, chia khu ngang dọc lấy đường lớn làm giới hạn, phía tả miếu Quan Thánh là phố Điếu Kiều, đầu bến có gác cầu ván thông ra biển giáp đảo Đại Kim, phía đông phố Điếu Kiều là phố Chợ Cũ, phía đông phố Chợ Cũ là phố chợ Tổ Sư, những di tích ấy đều do Mặc Cửu kinh dinh thuở trước, đường lối tiếp giáp, phố xá liên lạc, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đô hội ở nơi góc biển vậy”[62]. Ngoài ra, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều chợ buôn bán nổi tiếng khác như chợ Lương Phú(trấn Định Tường) chuyên bán thóc gạo và bánh tráng “dày, lớn, thơm, giòn mà giá lại rẻ”. Chợ Hưng Lợi ở phía nam sông Bảo Định (kinh Vũng Gù) phố xá nối tiếp nhau, hướng ra sông lớn, kẻ qua lại thường đậu thuyền ở đây, đợi con nước lên rồi theo dòng nước đi xuống đông hay là lên tây, cho nên trên sông có nhiều ghe nhỏ nông sản, kể cả bán “thịt heo luộc chín có phương pháp ăn rất ngon ngọt”. Chợ Long Hồ lập từ năm 1732 “phố xá liên lạc, hàng hóa đủ cả trăm món, dài đến năm dặm, ghe thuyền đậu sát bến, các nơi đình quán đàn ca náo nhiệt, ấy là thị phố lớn trong trấn”. Chợ Sa Đéc nằm “dọc theo bờ sông, nhà cửa hai bên tương đối liên tiếp 5 dặm. Dưới sông có những bè tre gác làm phòng ốc đầu sát với nhau, hoặc bán hàng lụa, khí dụng ở nam bắc chở đến, hoặc bán dầu rái, than, mây, tre v.v., trên bờ và dưới sông trăm thức hàng hóa tốt đẹp, trông khá vui vẻ, thật là thắng địa phồn hoa vậy”[63]. Như vậy đủ thấy thương nghiệp của xứ Gia Định thật là thịnh đạt. Phố thị nơi nào cũng đầy ắp đủ mặt hàng. Người ta bán ra hàng hóa thổ sản và mua vào các hàng nhập khẩu. Thử làm một bản liệt kê các mặt hàng thổ sản như sau: Gia Định sản xuất “thóc nhứt cau nhì, dân các địa phương không hái cau, để cho trái cau tự già rũ ở trên cây, sau đó chỉ lượm nhặt hạt cau đem đi bán cho các khách buôn người Tàu”[64]. Đường phèn, đường phổi, đường cát (huyện Phước Chánh, trấn Biên Hòa) mỗi năm bán cho thuyền buôn nước ngoài trên 600.000 cân, không kể mật và đường đen dùng trong xứ. Sắt thép để làm mọi dụng cụ, được khai thác ở huyện Long Thành, trấn Biên Hòa. Đá ong Biên Hòa trong nhiều mỏ, “người thợ đào ra, nhân khi đất còn ướt mềm, tùy theo sự cần dùng thước tấc rộng dày thế nào, thì chặt ra thành khối, để giãi ra giữa gió và mặt trời, thì đất ấy cứng rắn, búa đẽo cũng không vô, dùng xây cất tường, sân, hè, cừ xông và phần mộ”.Muối trắng sản xuất ở huyện Phước An (Long Đất nay), Biên Hòa; muối màu hơi hồng vì nước hơi đỏ và vàng, sản xuất ở Ba Thắc (gần Bạc Liêu nay), trấn Vĩnh Thanh, đem bán nhiều nhất sang Cao Miên. Lãnh, là, vải, lụa nơi nào cũng có làm, song ở huyện Phước An (Bà Rịa), Biên Hòa là “lãnh đen mềm láng tốt đẹp nhất trong nước”. Hạt tiêu, hạt sen, ngà voi, sừng tê, đậu khấu, sa nhân, gạc nai, tô mộc, sáp ong, tổ yến, hải sâm, đồi mồi, huyền phách, vây cá, bóng cá, thịt voi, gân nai, da tê, da ngựa núi, da rái cá, da nai, da trâu, da rắn, lông chim trả, cánh ngỗng biển, quạt lông, diêm tiêu, v.v. cùng nhiều loại cây cỏ hoặc trồng, hoặc thu nhặt trong rừng, các loại tôm, cá, cau, sò và hải sản khác, các loại cây trồng làm thuốc, làm đồ gia vị không kể hết được. “Còn như kỳ nam, trầm hương, nhục quế, ốc hương, mặc ngư và ô mộc thì ở các hạt chở đến, còn những vật ở đây và các hạt đều có cũng vận tải đến tấp nập, bởi Gia Định là chỗ đô hội thương thuyền của các nước, cho nên trăm món hàng hóa phải tụ hội ở đây”[65]. Việc thương mại của Gia Định càng thuận lợi vì ở thời giao thông vận tải chủ yếu bằng đường thủy, mà đây lại là nơi sông rạch chằng chịt như mạng nhện và có sẵn cây tốt để làm tàu thuyền. “Phủ hạt Gia Định sản xuất rất nhiều gỗ tốt. Tra xét sổ sách của cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên kê biên hai xứ là nguồn Đồng Môn cùng phủ Quang Hóa thuộc huyện Phước Long có các thứ gỗ sao, trắc, dầu, giáng hương, gụ. Và nguồn Ba Can thuộc huyện Tân Bình có nhiều gỗ trắc cùng gỗ giáng hương”[66]. Đã có gỗ tốt, thợ đóng thuyền lại có tiếng giỏi; người ngoài xứ, ngoài nước thường đến thuê chữa và đóng thuyền mới. Như làng Lý Hòa thuộc châu Nam Bố Chánh (Quảng Bình) có phong tục “rất quen thích việc buôn bán. Những lúc bình thường, dân làng vào thành Gia Định thuê thợ đóng hàng trăm chiếc thuyền buôn lớn, mỗi chiếc thuyền trị giá hơn 1.000 quan tiền đồng, rồi họ đem thuyền về làng chuyên chở buôn bán”[67]. Gia Định là đất mới, song nhờ nông nghiệp phát triển và thương nghiệp phồn thịnh, nên sớm có phân công công nghiệp. Một số thợ thủ công đã thành chuyên nghiệp và tách khỏi nông nghiệp, tuy vẫn còn giữ tính cách gia đình, chưa chuyển hẳn sang sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đa số mặt hàng thủ công đáp ứng nhu cầu trong xứ ngày càng cao, vì nhân dân làm ăn khá giả, nhưng một số hàng đã được xuất khẩu và được nước ngoài ưa thích như nữ trang bằng vàng bạc, vật dụng bằng đồi mồi, đóng thuyền, làm cột buồm bằng gỗ quý… Chúng ta chưa đủ dữ kiện để biết thêm về sản lượng hàng hóa và tỷ lệ số dân làm công nghiệp, nhưng với 62 ty cục thợ làm việc cho chính quyền chứng tỏ rằng số thợ thủ công chuyên nghiệp lúc đó đã chiếm một phần đáng kể. Sau đây là 62 ty cục thợ ở Gia Định hồi năm 1791: Chính Dinh (thủ phủ Gia Định): ty thợ mộc, ty thợ làm nhà, ty thợ chạm bạc giỏi ở Nội viện, ty thợ thừng chão, ty thợ tiện nội, ty thợ cưa, ty thợ bạc nội, ty thợ bạc ở cơ Tả trung, ty thợ bạc ở cơ Hữu trung, ty thợ đúc, ty thợ may nội, ty thợ thêu nội, ty thợ sơn nội, ty thợ sơn, ty thợ nhuộm nội, ty thợ dệt hoa, ty thợ vẽ, ty thợ lọng nội, ty thợ the, ty thợ giày nội, ty thợ thếp vàng ở Nội viện, ty thợ làm mực bằng muội đèn thuộc Nhà đồ. Dinh Vĩnh Trấn: ty thợ mộc, đội xẻ ván nhất, đội xẻ ván nhì, ty thợ rèn, ty thợ sơn, ty thợ nhuộm. Dinh Phiên Trấn: ty thợ súng, ty thợ làm dây thép, dây đồng và kim, ty thợ đúc, ty thợ đúc mới, ty thợ sơn, ty thợ nhuộm, ty thợ giày ngoại, ty thợ tiện, ty thợ đắp tượng, ty thợ thiếc, ty thợ lược, ty thợ mài, ty thợ đồ ngựa, ty thợ bút, ty thợ gương, ty thợ khắc chữ, ty thợ mành, ty thợ đồi mồi, ty thợ lồng đèn, ty thợ ngói mộc, ty thợ chén bát, ty thợ lò gạch, ty thợ lò vôi, ty thợ lò chum, hai ty thợ giấy màu, ty thợ giấy. Dinh Trấn Biên: ty thợ bạc, ty thợ đúc, ty thợ nhuộm, ty trường sắt, nghề trường sắt, xã trường sắt, phường thợ sắt, ty thợ sắt[68]. Như chúng ta vừa lướt qua, chỉ trong thời gian khai thác ngắn, Gia Định có những phú nông với ruộng đất mênh mông nuôi năm bảy chục đầy tớ, năm bảy trăm con trâu, những vụ mua bán lúa gạo rộng lớn, những phố chợ đầy ắp trăm thứ hàng giao dịch với cả nước ngoài, những ty, đội, phường thợ thủ công chuyên nghiệp đã có thể tính tới hàng ngàn người, riêng “một đơn đặt hàng” làm 100 chiếc thuyền buôn lớn mỗi chiếc giá trên 1.000 quan (mỗi vuông gạo giá 1 quan đủ ăn cả tháng)…; chỉ lướt qua chúng ta cũng thấy Gia Định lúc đó đã có một nền kinh tế phát triển nhất nước. Đó là một nền kinh tế mang dấu hiệu của một phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa. Cho nên, trong tình hình kinh tế như vậy, không thể có chỗ đứng cho chế độ công điền công thổ. Vì chế độ công điền công thổ là đặc trưng của xã hội Việt Nam, có chủ đích “công bằng xã hội và bình quân chủ nghĩa”, nghĩa là cố chia cho mỗi người một khẩu phần ruộng, dù nhỏ đến đâu, để giữ chân người nông dân ở lại với lũy tre xanh, trong khi Gia Định lại đang phát triển theo đà của quy luật kinh tế hàng hóa. Chế độ công điền sẽ hạn chế sức bành trướng của phú nông, đồng thời lại không giải phóng một số lao động cần thiết cho vận tải, thương nghiệp và công nghiệp đang phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế Gia Định đến một thời điểm nào đó không còn tự phát và theo một pháp chế lỏng lẻo nữa, nó sẽ bị ngăn chặn để trở về với hệ thống kinh tế tiểu nông truyền thống, trong đó chế độ công điền công thổ sẽ xuất hiện. 5 Bản đồ V. Nam Bộ thời phủ Gia Định * * * 6 Bản đồ VI. Nam Bộ thời Lục tỉnh, 1836 7 Bản đồ VII. Nam Bộ thời Pháp thuộc 8 Bản đồ VIII. Nam Bộ trước ngày giải phóng 1975 9 Bản đồ IX. Nam Bộ hiện nay Chú thích: Ngày 2/12/1991, tỉnh Hậu Giang chia ra: - Tỉnh Cần Thơ với tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ. - Tỉnh Sóc Trăng với tỉnh lỵ là thị xã Sóc Trăng. Tỉnh Cửu Long chia ra: - Tỉnh Vĩnh Long với thị xã Vĩnh Long. - Tỉnh Trà Vinh với thị xã Trà Vinh. Ngày 6/11/1996, Quốc hội quyết định: - Tỉnh Sông Bé chia lại như cũ: Tỉnh Bình Dương với thị xã Thủ Dầu Một. Tỉnh Bình Phước với thị trấn Đồng Xoài. - Tỉnh Minh Hải chia lại như cũ: Tỉnh Bạc Liêu với thị xã Bạc Liêu. Tỉnh Cà Mau với thị xã Cà Mau. Phần IICHẾ ĐỘ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ ĐƯỢC CỦNG CỐ TẠI NAM KỲ LỤC TỈNH (Thời kỳ 1800 - 1860) Kể từ năm 1800 về trước, Gia Định thuộc quyền chúa Nguyễn với xứ Đàng Trong. Từ năm 1800 cho tới khi Pháp xâm lăng, Gia Định là phần đất Việt Nam dưới quyền cai trị của nhà Nguyễn. Trong thời kỳ trước, Gia Định đã phát triển thả nổi với một pháp chế lỏng lẻo; có thể nói đây là phương thức tự do kinh doanh. Việc tư nhân chiếm hữu mọi thứ tài sản, kể cả mua nô lệ, là điều phong tục và luật pháp Việt Nam vốn ngăn cấm[69], đã được tháo khoán không bị hạn chế. Do đó chế độ công điền công thổ không có điều kiện xuất hiện. Còn thời kỳ sau, thời kỳ nhà Nguyễn cai trị theo chính sách quân chủ tập trung, thì Gia Định đã bị gò dần vào khuôn khổ chung của cả nước. Kinh tế và xã hội Gia Định không còn được tự phát, mà phải trở lại với mẫu mực làm ăn và sinh sống theo tôn ty trật tự, theo đạo lý Nho giáo. Vì thế, tới thời kỳ này, chế độ công điền công thổ mới hội đủ yếu tố để phát sinh và phát triển ở Gia Định cũ. Để tiện nghiên cứu, chúng tôi tạm chia phần này làm ba giai đoạn: Giai đoạn I từ năm 1800 đến năm 1836 là giai đoạn chuẩn bị hình thành chế độ công điền công thổ. Giai đoạn II từ năm 1836 đến năm 1850 là giai đoạn đặt để chế độ công điền công thổ. Giai đoạn III từ năm 1850 đến năm 1860 là giai đoạn củng cố mạnh mẽ chế độ công điền công thổ ở Nam kỳ Lục tỉnh. 1 NHÀ NƯỚC THAM GIA KHAI HOANG, TẠO ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH CHẾ ĐỘ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ (Giai đoạn 1800 - 1836) Trước đây, nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc khai hoang và canh tác mà chỉ khuyến khích hoặc ủng hộ cho dân chúng lập nghiệp dựng làng. Nhưng từ khi Nguyễn Ánh chọn Gia Định làm đất “hưng quốc”, thì đồn trại mở thêm nhiều, lính tráng tập trung đông đảo, nên phải lập ra các đồn điền để lấy thóc gạo nuôi quân. Suốt triều Gia Long và đầu triều Minh Mạng vẫn tiếp tục phương thức “đồn điền nuôi quân” đó. Tới khi Minh Mạng quyết định đặt chế độ công điền công thổ thì nhà nước đã có sẵn số ruộng đất của đồn điền giải tán mà chia cho các làng làm công điền công thổ để quân cấp cho xã dân theo định lệ chung của toàn quốc. Nguồn gốc công điền công thổ ở miền Nam không phải chỉ duy nhất lấy từ ruộng đất cũ của đồn điền, mà còn từ nhiều nguồn khác sẽ được đề cập sau. Tuy nhiên, tại miền Nam thì nguồn gốc từ đồn điền là quan trọng hơn cả. Những diễn biến lịch sử sau đây chứng minh điều ấy. a) Nhà nước lập nhiều đồn điền và tiếp tục khuyến khích khai hoang “Bắt đầu đặt đồn điền”, đó là sự kiện mà sử chính biên đã ghi từ cuối năm 1790. Năm ấy Nguyễn Ánh đã lấy lại được xứ Gia Định, song cũng là năm “gạo cao dân đói, tha nửa số thóc thị nạp (để nuôi quân) cho dân bốn dinh, lại phát thóc gạo bán và cho vay. Hai dinh Trấn Định và Vĩnh Trấn mỗi dinh bán cho dân 5.600 hộc thóc, đạo Long Xuyên cho vay 500 hộc thóc, phủ Ba Thắc bán 300 phương gạo. Duy ở Phú Quốc đói lắm, phát chẩn cho 500 hộc thóc”[70]. Cuối năm ấy Nguyễn Ánh bàn với văn quan rằng: “Đạo trị nước, trước hết phải cho dân đủ ăn. Nếu thóc nhiều của thừa thì việc gì chẳng nên? Bốn dinh Gia Định đất đai rất rộng. Trước kia việc quân chưa xong, đói kém xảy ra luôn, đến nỗi ruộng vườn bỏ hoang, dân chưa ra sức việc nông, của nước lương quân còn thiếu. Đồn điền là phép hay đời xưa, nay muốn cử hành mà chưa nắm được chỗ cốt yếu”. Sau khi có sự góp ý và điều trần quy thức, liền “lệnh cho các đội Túc trực và các vệ thuyền dinh Trung quân ra vỡ ruộng ở Vàm Cỏ, đặt tên là trại Đồn Điền, cấp cho trâu bò, điền khí và thóc ngô đậu giống. Đến ngày thu hoạch đem hết về kho (tức kho Trừ Tích, sau đổi làm kho Đồn Điền). Lấy Cai cơ hiệu Tiền dực là Nguyễn Bình trông coi việc ấy”[71]. Ngoài việc lấy quân làm đồn điền, nhà nước còn lấy thêm cả thường dân: “Lại sai văn võ các nha mộ dân lập đội đồn điền, mỗi năm 1 người nạp 6 hộc lúa. Dân có ai mộ được 10 người trở lên, cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng”[72]. Năm 1791, lập đồn điền ở đạo Long Xuyên, Ba Thắc và Trà Vinh. “Ra lệnh cho các hạng dân và người Đường (tức Hoa kiều) cũ mới ở đạo Long Xuyên, ai muốn làm đồn điền mà đồ làm ruộng không đủ thì nhà nước cho vay, mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 8 hộc, thuế thân xem như quân hạng giao dịch đều miễn. Kẻ nào không muốn làm đồn điền thì bắt phải thụ dịch tòng chinh, để răn kẻ chơi bời lười biếng. Những người Phiên (tức Miên) và người Đường ở hai phủ Ba Thắc và Trà Vinh cũng cho khẩn đất làm đồn điền, mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 15 hộc (sau giảm cho 5 hộc)”[73]. Nhà nước lập nhiều đồn điền mà đất hoang còn nhiều, nên việc tư nhân chiếm hữu vẫn còn dễ dàng như khi nhà nước “ra lệnh cho dân các dinh lãnh trưng ruộng đất bỏ hoang, ba năm bắt đầu thu thuế, ai xin trưng thì hạn 20 ngày là thôi, ngoài hạn ấy cấp cho quan quân cày cấy, không được tranh nữa”[74]. Nhà nước còn ra lệnh cho một số đơn vị quân đội làm sản xuất lương thực để tự túc: “Sai Tán lý dinh Tiền quân cũ là Chiêu, sai Cai cơ quản Tiền chi là Nguyễn Văn Lợi, sai Cai cơ quản Hậu chi là Nguyễn Văn Tánh chọn đất ở Bà Rịa và Đồng Môn (ở Long Thành thuộc tỉnh Đồng Nai, khoảng giữa đường Thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu ngày nay) nơi nào có thể mở đồn điền được thì lường chia quân sở bộ mà cày cấy, làm lấy mà ăn”[75]. Năm 1793, đạo Kiên Giang cũng đã lập đồn điền rồi. Sử có ghi: “Miễn thóc sưu đồn điền năm nay cho dân Phiên (tức Miên) ở đạo Kiên Giang”[76]. Năm 1802, chia cấp ruộng hoang cho dân nghèo. Đây là một hình thức mới, nhà nước giúp vốn cho dân nghèo khai hoang, chứ trước kia thì chỉ nhà giàu mới có của ăn của để khai hoang chiếm hữu ruộng đất. “Sắc các dinh ở Gia Định cấp ruộng hoang cho dân nghèo. Gia Định đất đai màu mỡ, thóc gạo chan chứa mà nhân dân phần nhiều hay làm mạt nghệ (tức buôn bán), nên ruộng đất có chỗ bỏ hoang. Vua bèn dụ các đình thần chăm đi khuyên bảo. Người nào không có điền sản thì đem ruộng hoang cấp cho và cho vay thóc giống, đợi thu hoạch xong sẽ y số trả lại nhà nước”[77]. Năm 1803, ra sắc lệnh bỏ ruộng hoang thì có tội. Trước chỉ khuyên bảo, nay là bắt buộc. Nhà nước “sai lưu trấn thần chiêu tập cùng dân, cấp cho thóc của nhà nước để cho đi khẩn trị. Lại sai các đình thần chia nhau đi đôn đốc, xem chất đất nên trồng gì thì trồng thức ấy. Có ruộng bỏ hoang không cày thì có tội”[78]. Năm 1807, ra lệnh dùng tù phạm để khai hoang. Đây là lệnh chung cho toàn quốc, song tác dụng nhiều nhất ở miền Nam, nơi còn nhiều đất hoang. “Tù tội lưu đi tới chỗ bị đày, quan địa phương cấp cho ruộng đất hoang và thóc giống, trâu bò cùng đồ làm ruộng, khiến cày cấy ở đó; số thóc giống hạn một năm thì thu lại; trâu cày và đồ làm ruộng cứ ba năm chiếu giá thu tiền; hàng tháng cấp gạo lương, hằng năm cấp quần áo; trong một năm không phạm tội gì khác thì tha xiềng chân; ba năm thành sản nghiệp thì bỏ cả bài sắt. Nếu vợ con tình nguyện theo đi và vợ con cùng bị lưu, thì tới chỗ đày bỏ ngay xiềng xích, chỉ để cái bài sắt; vợ con không bị lưu thì không phải mang xiềng xích và bài sắt; cấp gạo lương và quần áo, cho bản thân người phạm tội thì hạn hai năm, cho vợ con thì hạn một năm”[79]. Ngoài cái đạo lý lấy lao động để cải tạo tội nhân, đây còn là một phương pháp hữu hiệu để khai hoang thêm ruộng đất và mở mang những nơi hẻo lánh gần biên cương. Năm 1817, khai hoang thêm miền Châu Đốc: “Vua nghĩ rằng xứ Châu Đốc đất tốt mà người ít, có nghe quan an phủ Chân Lạp là Diệp Hội (người Tàu làm quan bên Chân Lạp) là người mẫn cán, xử việc gì dân cũng bằng lòng. Liền cho Diệp làm Cai phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập người ta, người Miên và người Tàu vào đó cho đông, hễ có biết nghề trồng cây, nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gồm, nghề rèn, cho tùy nghề nghiệp mà làm. Người nào thiếu vốn thời nhà nước cho vay”[80]. Năm sau, có lẽ thấy người Việt không đủ sức khai hoang, nên lại ra chỉ thị khuyến khích người dân tộc khác đến cho đông: “Phía sau đồn có nhiều đất hoang, khiến quan trấn Vĩnh Thanh chiêu tập người Tàu, người Chân Lạp, người Đồ Bà cho ở đó, lập phố, lập chợ, khai khẩn ruộng hoang, cấm dân ta không được quấy rối”[81]. Năm 1822, “đổi danh hiệu đồn điền 4 phủ ở Gia Định cho theo ngạch lính”[82]. Lúc này đã thống kê được 117 sở đồn điền với 20 cơ gồm 9.603 lính đồn điền. Năm 1830, “Châu Đốc mới lập được 41 xã, thôn, phường; dân đinh chỉ được hơn 800 người, địa lợi chưa khai khẩn hết”[83]. Như vậy bình quân mỗi xã chỉ có 20 dân đinh đăng tịch và đất đai còn rất rộng. Năm 1835, “đặt ra quân đồn điền ở Hà Tiên, cấp cho trâu bò cày bừa, khiến vừa cày ruộng, vừa tập võ”[84]. Cùng năm, “định thuế đinh điền ở phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long. Phàm trang, sách nào lớn gọi là xã, nhỏ gọi là thôn, đặt ra phủ huyện lỵ sở”[85]. b) Đào thêm sông để tiện giao thông và khai hoang Một thời gian khá dài không thấy sử ghi thêm nhiều thành tích về đồn điền và khẩn hoang ruộng đất mới, có lẽ vì các miền gần sông rạch đã trồng trọt gần hết, mà các vùng xa thì thiếu đường đi lại, lúc này, hầu như nhà nước chú trọng đến việc đào thêm sông rạch. Đầu năm 1817, Gia Long xem bản đồ Châu Đốc rồi bàn với thị thần rằng: “Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng, đi buôn đều lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”[86]. Năm 1817, đào sông Thoại Hà: “Vét sông Tam Khê, sông cách trấn lỵ Vĩnh Thanh 214 dặm… Vua thấy đất ấy gần Chân Lạp, mênh mông lầy rậm, đường sông đi qua Kiên Giang bị bùn cỏ úng tắc, thuyền bè không đi được, bèn sai Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại (viết là Thụy) sửa sang đường sông, điều động 1.500 người để vét, nhà nước cấp cho tiền gạo, khiến nhân lối cũ mà đào sâu rộng thêm. Hơn một tháng sông vét xong (ngang hơn 10 trượng - 42,40m, sâu 18 thước - 7,63m). Vua khen công của Thụy, đặt tên sông là Thụy Hà (dân Nam đọc Thoại Hà). Ở phía đông sông có núi Lạp Sơn (tức núi Sập) cũng đặt tên là Thụy Sơn, cấm không được chặt cây cối”[87]. Năm 1819, đào sông An Thông: “Sai Phó tổng trấn là Huỳnh Công Lý lấy dân Phiên An hơn 10.000 người, cấp cho tiền gạo mà sai làm việc. Khi công việc xong cho tên là sông An Thông. Sông ở phía tây nam trấn, trước có sông từ kinh Thông, qua Sài Gòn đến Lao Giang, xa xôi, nhỏ hẹp, quanh co, nông cạn. Đến nay đổi đường cũ, đào kinh mới, từ kinh Thông thẳng đến sông Mã Trường (Ruột Ngựa) dài hơn 9 dặm (gần 7km), ngang 7 trượng 5 thước (31,53m), sâu 9 thước (3,91m)”[88]. Sông An Thông chính một phần của vàm Bến Nghé kể từ vịnh Bà Thuông (Thông) vô Chợ Lớn, “thuyền bè đi lại ngày đêm nối nhau, bèn thành chỗ bến sông đô hội, người ta đều khen là tiện lợi”. Cũng năm đó, đào sông Bảo Định (tức kinh Vũng Gù, sau Pháp gọi là Arroyo de la Poste - kinh Trạm - vì đường chạy trạm xưa qua đây). “Đào cho Vũng Gù (nay gọi sông Vàm Cỏ) ở Định Tường thông với sông Mỹ Tho (tức sông Tiền). Sai Trấn thủ Nguyễn Văn Phong lấy hơn 9.000 dân làm việc, hàng tháng cấp cho tiền gạo đầy đủ. Vài tháng xong công việc, cho tên là sông Bảo Định. Cửa sông nối vào sông Hưng Hòa (tức sông Vũng Gù hay Vàm Cỏ) cách phía đông bắc trấn thành 47 dặm. Năm trước sông nhỏ Vũng Gù chảy đến quán Gai, sông nhỏ Mỹ Tho chảy đến chợ Phú Lương, quãng giữa hai sông ruộng đất nam bắc nối liền… Đến nay mới nhân lối cũ đào sông rộng thêm, hoặc khai kênh mới cho liền nhau, dài chừng 14 dặm (14.684km), ngang 7 trượng 5 thước (31,53m), sâu 9 thước (3,91m). Từ đấy dòng sông thông cả, người người đều được tiện lợi”[89]. Sông này đến nay vẫn còn là đường giao thông thủy thuận lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long để chuyên chở lúa gạo và sản vật khác qua lại giữa miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Năm 1819, đào kinh Vĩnh Tế: “Vét đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên… Vua bảo thành thần Gia Định, đo từ phía tây đồn Châu Đốc qua cửa Ca Âm - Cây Bàng, đến sông cũ hơn 200 dặm, tính công đào đất và lượng sức người. Sai trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại và Chưởng cơ Phan Văn Tuyên đốc suất dân phu 5.000 người và binh dân đồn Oai Viễn 500 người, Đồng Phù (quan Chân Lạp) quản suất dân Chân Lạp 5.000 người, đến tháng 12 khởi công đào. Dân người Việt cùng với binh đồn Oai Viễn thì mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền 1 phương gạo; dân Chân Lạp cũng mỗi tháng cấp cho mỗi người 4 quan 5 tiền 1 phương gạo”[90]. Đời Gia Long quyết định đào, Minh Mạng thực hiện. Công việc quá lớn lao, mỗi khi đến mùa cấy cày hay gặt hái phải trả dân phu về đồng ruộng, nên kéo dài 3 năm mới xong. Đường sông hết sức thuận lợi, hai bên bờ làng mạc mọc lên để khai hoang ruộng đất các vùng lân cận. Trên đây chỉ giới thiệu những kinh lớn đào trong thời gian này, mà không nói tới những kinh đào từ trước như kinh Ruột Ngựa hay những kinh nhỏ như Trà Cú… Các kinh đào ăn thông nhau hợp lý với hàng trăm sông ngòi vàm rạch tạo thành một mạng lưới dày trải khắp Nam Bộ. Nhờ đó, giao thông thuận lợi, thuyền bè không phải ra biển mà đi được khắp vùng nội địa. Thủy triều ở miền Nam mỗi ngày lên xuống hai lần và ảnh hưởng tới gần Nam Vang, nên thuyền bè cứ lợi dụng con nước mà đi rất đỡ tốn công. Nhờ đó, nông nghiệp cũng phát triển rộng khắp: kinh mương vừa đi sâu vào đồng ruộng hẻo lánh vừa là hệ thống thủy lợi cho việc trồng lúa nước. c) Gia Long đối với chế độ công điền công thổ Nói chung, Gia Long sau khi lên ngôi nắm quyền cai trị, vẫn duy trì chế độ công điền ở những nơi đã có, còn đối với miền Nam chưa có chế độ ấy thì cũng để vậy, chứ không lập thêm cho cùng một chế độ sở hữu ruộng đất thống nhất cả nước. Năm 1803, định lệ cấm mua bán công điền công thổ. “Theo lệ cũ thì công điền công thổ do dân quân cấp, đem bán riêng là có tội, do đó nhân dân đều được lợi cả. Từ loạn Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất công. Vua muốn chữa cái tệ ấy, bèn sắc định rằng phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền. Nếu nhân có việc mà cho người mướn để chi dùng việc công trong xã thôn thì chỉ hạn cho ba năm, quá hạn thì xử tội nặng. Người nào tố cáo đúng thực thì thưởng cho ruộng nhất đẳng một mẫu, cày cấy ba năm, hết hạn trả về dân”[91]. Định lệ trên hình như là truyền thống của Việt Nam từ đời Lê và có lẽ các đời trước nữa, cũng như nhiều vua sau Gia Long thường ra những luật lệ tương tự. Năm 1804, định lệ quân cấp công điền công thổ. “Vua cho rằng phép quân điền buổi quốc sơ đã có định chế, từ loạn Tây Sơn, đồ bản sổ sách đều mất bỏ, quan danh không chính, quân hiệu không minh, những bọn hào hữu tự ý lấn cướp, dân gian phần nhiều có cái nạn không đều. Bèn sai đình thần tham khảo phép cũ, bàn định việc chia cấp theo thứ bậc khác nhau: 1) Khẩu phần thì trên nhất phẩm được 18 phần; chánh nhất phẩm 15 phần, tòng nhất phẩm 14 phần rưỡi; chánh nhị phẩm 14 phần, tòng nhị phẩm 13 phần rưỡi; chánh tam phẩm 13 phần, tòng tam phẩm 12 phần rưỡi; chánh tứ phẩm 12 phần, tòng tứ phẩm 11 phần rưỡi; chánh ngũ phẩm 11 phần, tòng ngũ phẩm 10 phần rưỡi; chánh lục phẩm 10 phần, tòng lục phẩm 9 phần rưỡi; chánh tòng thất phẩm đều 9 phần; chánh tòng bát phẩm đều 8 phần rưỡi; chánh tòng cửu phẩm và vị nhập lưu (chưa vào chính ngạch) đều 8 phần;… con cháu tập ấm 7 phần rưỡi; binh lệ thuộc, thợ ở đồ gia 7 phần; các hạng dân thực nạp 6 phần rưỡi; các hạng dân đinh và lão tật 5 phần rưỡi; các hạng lão nhiêu, cố, cùng 4 phần rưỡi; các hạng tiểu nhiêu, nhiêu tật, đốc phế 4 phần; con mồ côi, đàn bà góa 3 phần… 2) Lão nhiêu và quả phụ 70 tuổi trở lên, thì chiếu khẩu phần cấp thêm cho một phần. Con trai mồ côi đã thành đinh và con gái mồ côi đã lấy chồng thì ruộng trả về làng. 3) Từ trên nhất phẩm đến tòng tam phẩm mà hưu trí thì ngôi thứ và khẩu phần đều y theo nguyên phẩm… 4) Quan hay dân chết thì được để ruộng khẩu phần trong ba năm làm ruộng “túc tang” (nghĩa là để giúp đỡ nhà có tang)… 5) Số ruộng: cứ hạn 3 năm thì chia cấp ruộng một lần, chiểu theo bậc ruộng xấu tốt chia cho đều…”[92]. Phép quân cấp công điền là một định chế có từ lâu đời ở nước ta, thường chỉ khác nhau về tỷ lệ khẩu phần mà thôi. Nhân đây ta cũng nên hiểu rằng việc quân cấp này chỉ thực hiện từng làng, nghĩa là làng nào có bao nhiêu công điền công thổ thì chia hết cho dân làng ấy, chứ không phải cộng hết công điền công thổ cả nước lại rồi chia cho mỗi người. Cũng có một số biệt lệ là công điền tọa lạc ở sở tại mà người ở làng khác lại được chia. Riêng ở Nam Bộ hầu như không có trường hợp này. Hai định lệ quan trọng trên đây về công điền công thổ tuy ban hành cho toàn quốc, nhưng không có tác dụng ở Gia Định ngũ trấn, vì tại đây chưa có công điền công thổ. Nhận định như thế ắt có người cho là vô lý: làng không có ruộng công thì lấy gì chi tiêu việc chung, suốt 5 trấn không có ruộng công thì lấy gì nuôi lính? Xin thưa là làng vẫn có bổn thôn điền, bổn thôn thổ, 5 trấn vẫn có đồn điền để nuôi quân. Nhưng bổn thôn điền là của riêng toàn quyền sở hữu từng làng, còn đồn điền thì trực tiếp thuộc quốc khố. Người ta gọi đó là ruộng làng hay ruộng công theo ý nghĩa rộng, chứ bản chất không phải là công điền công thổ. Vì công điền công thổ chỉ là loại ruộng đất được coi như sở hữu quốc gia song giao cho xã thôn để quân cấp cho xã dân. Cho nên hai định lệ đó không hề chi phối bổn thôn điền, bổn thôn thổ, đồn điền, quan điền, quan trại hay bất cứ loại ruộng đất nào ngoài công điền công thổ. Nhưng tại sao Gia Long không thiết lập chế độ công điền công thổ ở Gia Định ngũ trấn? Đó là câu hỏi cần đặt ra và cũng cần giải đáp. Cần đặt ra để chứng tỏ ta có lưu tâm đến mối quan hệ giữa chính sách và thực tế, nghĩa là giữa xu hướng của chính quyền, mà đây là nhà vua đối với chế độ chiếm hữu ruộng đất. Cần giải đáp để thấy rõ quá trình diễn biến của chế độ công điền công thổ ở miền Nam. Xứ Gia Định không có chế độ công điền công thổ vì những lý do kinh tế và xã hội như đã trình bày ở mấy đoạn trên: trong tình hình kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa tự phát thì những định chế “quốc hữu hóa”, “tập sản hóa” hay “công hữu hóa” thật khó có chỗ đứng. Nếu không áp đặt thì chế độ công điền công thổ không thể có được. Mà Gia Long thì lại không chủ trương chế độ công điền công thổ, ít nhất tại miền Nam. Không phải Gia Long không muốn phát triển miền Nam, nhưng phát triển theo đường lối “thả lỏng” cùng với các công việc tự do khẩn hoang lập ấp, lấy công nho làm đồn điền và đào kinh. Gia Long không chủ trương chế độ công điền quân cấp: hình như ông không muốn chống lại những xu hướng “bình quân hóa”. Sự kiện năm 1816 sau đây chứng minh điều đó: “Từ Quảng Trị vào Nam đến Bình Hòa (sau là Khánh Hòa) gạo đắt. Sai các địa phương cho dân vay thóc, cứ so số thóc của điền hộ thu vào bao nhiêu thì cho vay bằng một nửa. Dinh thần Quảng Trị tâu nói: Triều đình thương dân đói mà cứu sống là điều rất may. Nhưng cho vay mà căn cứ vào ruộng làm hạng thì kẻ không có ruộng không được nhờ ơn. Vua nói: Dân không đều nhau đã lâu rồi, sao có thể nhất nhất đều nhau được! Duy cho vay nhiều thì gạo rẻ, kẻ không ruộng cũng do đó mà được nhờ ơn”[93]. Lúc ấy, Gia Long quyết định như vậy kể là hợp lý, lý của kinh tế học tiền tư bản chủ nghĩa. Gia Long cũng không muốn đặt thêm các dịch vụ công ích vì cho là khó có người tốt để làm công ích. Năm 1816, “Phạm Đăng Hưng xin đặt kho ở xã (xã thương) để phòng chẩn cấp năm mất mùa. Vua nói: Trẫm trù tính đã kỹ rồi, phương pháp đặt xã thương làm được thực khó, kẻ giữ kho không được người tốt thì sẽ hại cho dân. Không bằng cẩn thận rộng chứa thuế chính cung, gặp khi đói kém thì phát chẩn và cho vay, đó cũng là chước hay vậy”[94]. Đối với chế độ quân cấp công điền công thổ, Gia Long tỏ thái độ rõ ràng: “Đời xưa chia ruộng và định sản nghiệp, việc ấy xem ra như hay. Nhưng nghĩ bọn du thủ du thực, dẫu trao ruộng cho ắt, cũng không chịu siêng năng làm việc, rồi cũng chuyển bán cho người khác. Nay muốn ngăn cấm việc kiêm tính mà lấy ra để chia đều, chỉ thêm nhiễu dân mà thôi. Trẫm nghĩ kỹ, rốt cuộc cũng không làm được”[95]. Như vậy là Gia Long không ngăn cấm việc “kiêm tính” ruộng đất đang lan tràn đặc biệt ở miền Nam, vì Gia Long coi sự chênh lệch là tự nhiên, “dân không đều đã lâu rồi”, nên không chủ trương hạn điền và quân điền, tức không chủ trương gia tăng chế độ quân cấp công điền công thổ vậy. Bởi đó, ta không thấy có dấu tích của chế độ công điền công thổ ở Gia Định trong suốt thời gian 22 năm Nguyễn Ánh làm chúa và hiện diện nơi đây, rồi suốt 18 năm làm vua cả nước dưới hiệu Gia Long. Phải chăng đây là một phần của chính sách kinh tế “tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh” mà Gia Long muốn đem thực thi? Có lẽ, vấn đề ấy cũng đáng nghiên cứu, song không thuộc đối tượng tìm hiểu của tập sách nầy. Tuy nhiên, dưới thời Gia Long, Gia Định đã có thêm nhiều đồn điền, quan điền, quan trại và điều kiện thuận lợi cho việc khẩn hoang rộng lớn. Đấy là những yếu tố cần thiết để có thể thực hiện chế độ công điền công thổ ở Nam kỳ Lục tỉnh về sau. 2 THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ (Giai đoạn 1836 - 1850) Gia Long chết, Minh Mạng kế vị làm vua từ năm 1819 đến năm 1840. Khi mới lên ngôi, Minh Mạng tiếp tục chính sách cai trị của Gia Long đối với Gia Định: Về hành chính, Gia Định từ năm 1808 đã được nâng lên làm Gia Định thành, tương đương như Bắc thành, để cai quản chung cả vùng. Ngay năm 1820, Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn với quyền hành rất lớn. Lê Văn Duyệt vốn là võ tướng, tác phong và cách cai trị rất nghiêm khắc. Ngoài nước thì quân Xiêm ngại Duyệt nên không dám xâm phạm Cao Miên, trong nước thì bọn “yêng hùng tứ chiếng”, “trộm cướp tay chơi” sợ Duyệt nên ít dám ho he. Tuy nhiên đây là một chính sách cai trị có tính tản quyền và phần nào “địa phương tự trị”. Năm 1832, Lê Văn Duyệt chết. Chỉ vài tháng sau, Minh Mạng chấm dứt chế độ tản quyền, ra lệnh: “Từ Quảng Nam đến Gia Định mỗi hạt đặt chức, đốc phủ, bố, án và lãnh binh. Còn nguyên trước đặt các chức Tổng trấn, Các tào và Trấn thủ, Tham hiệp đều bãi[96]. Gia Định chia thành sáu tỉnh. Song vừa được mấy tháng, Lê Văn Khôi đã nổi lên chiếm thành Gia Định và nhiều nơi khác, dân nghèo theo rất đông. Năm 1835, quân triều đình mới lấy lại được thành, hồi đó còn gọi là thành Phiên An. Sau những biến cố đó, Minh Mạng đem áp dụng chế độ công điền công thổ vào Nam kỳ. Không hiểu vì tình hình bắt buộc hay do xu hướng tinh thần mà Minh Mạng làm vậy. Hoặc vì cả hai lý do. Chúng ta biết rằng Gia Long thực tế, còn Minh Mạng lý thuyết hơn. Minh Mạng thiên về chính sách bình quân, muốn trở lại một xã hội nông nghiệp thuần túy, ghét dân mạt nghiệp (người buôn bán), không muốn cho Nam kỳ một mình theo con đường tự phát mở mang. Nếu để Nam kỳ theo riêng một chế độ, mạnh được yếu thua, Nam kỳ sẽ đầy rẫy dân nghèo và trộm cướp, rồi loạn lớn. Phải chăng bởi tình hình đó, do lập luận đó, Minh Mạng đã làm ngược lại Gia Long, tức là đem áp đặt triệt để chế độ công điền công thổ vào Nam kỳ, coi đó vừa là giải pháp kinh tế, xã hội vừa là giải pháp chính trị để “yên dân”? a) Đạc điền và lập chế độ công điền công thổ Trước khi cử đoàn kinh lý, Minh Mạng tuyên bố lý do: “Nhân dân sáu tỉnh Nam kỳ từ lâu được nhờ ơn huệ sâu dày của các thánh (tức các chúa Nguyễn)… Vài mươi năm gần đây vì những người được chuyên quyền trọng trấn như Huỳnh Công Lý và Lê Văn Duyệt chỉ biết tham lam quê kệch để mưu việc riêng, quen thói kiêu căng mà xúc phạm người trên. Việc cai trị và phép tắc làm quan ngày một bỏ mất, phong tục nhân dân và lề thói nhân sĩ dần dần kiêu căng xa xỉ. Tệ hại dồn chứa, lâu ngày quen nếp, gây tai họa đến dân đen. Giặc Xiêm dòm được kẽ hở kéo đến xâm lấn, làm cho tai vạ lan rộng biên thùy… Nay phái kinh lược sứ đi đến sáu tỉnh thay trẫm kinh lý một phen”[97]. Đoàn kinh lược có nhiều nhiệm vụ, song việc đạc điền lập địa bạ là quan trọng hơn cả. Vì từ trước đến nay, các làng ở Nam kỳ chưa có địa bạ, việc đo đạc ruộng đất chưa hề làm. Ai muốn làm ruộng đâu cũng được, chiếm hữu tự do, khai thuế đại khái, không có sổ sách ghi chép cẩn thận, những kẻ cường hào ác bá xâm chiếm hết đất đai. Lần hồi, xảy ra nhiều vụ kiện tụng tranh chấp ruộng đất liên miên, không biết căn cứ vào đâu mà phân xử. Do đó, trong chỉ thị cho đoàn kinh lược trước khi lên đường có nói rõ: “Phàm tất cả mọi việc quân dân, hễ điều hại nên bỏ, điều lợi nên làm, thì chuẩn cho lần lượt tâu lên mà làm. Mà việc ranh giới ruộng đất lại càng trọng yếu. Xưa nay ruộng đất đều có ghi rõ mẫu, sào, thước, tấc, đó là phép thường, không thay đổi. Các tỉnh trong khắp nước đều như thế cả, há có lý nào sáu tỉnh Nam kỳ lại khác, riêng theo nếp cũ hay sao? Trong sổ ruộng ít thấy ghi rõ mẫu, sào và hạng bậc đẳng điền, mà cứ tính là một dây, một thửa, có đến 8, 9 phần 10. Như vậy không những hầu như quê mùa, không phải là quy chế thống nhất, mà ranh giới không rõ ràng, lại dễ sinh ra mối tệ. Nếu xảy ra án kiện tranh giành thì đông tây tứ chi lờ mờ, không lấy đâu chứng cứ; quan lại giảo quyệt, cường hào điêu toa càng dễ xoay xỏa, lấy gì mà xử án dứt khoát và dập tắt tranh giành? Thực có nhiều điều bất tiện. Trước giờ còn cứ rập theo, chưa kịp đề ra việc này. Nay sự biến đã yên, việc này phải nên kinh lý làm trước”[98]. Phái đoàn kinh lược “đạc điền” Nam kỳ năm 1836 rất quan trọng, cầm đầu phái đoàn là những trọng thần có uy tín nhất triều đình lúc đó: “Binh bộ Thượng thư Cơ mật đại thần Trương Đăng Quế và Lại bộ Thượng thư Trần Kim Bảng sung làm kinh lược đại sứ; thự Lễ bộ hữu Thị lang Tôn Thất Bạch và thự Thông chính sứ Nguyễn Đắc Trí sung làm phó sứ; nhằm giờ lành ngày 18 (tháng Hai), mang cờ và bài, đem theo các viên dịch tùy biện, dò đường thủy đi”. Thuyền đi 6 ngày thì đến Gia Định. Vừa tới Cần Giờ đã có sẵn 200 biền binh dưới quyền, một quản cơ và 4 suất đội “đến nghênh tiếp, làm thuộc hạ để sai phái”. Trần Kim Bảng đến Gia Định bỗng ngã bệnh (tới tháng Tư chết), Trấn tây Tướng quân Trương Minh Giảng thay làm Kinh lược đại sứ. Đoàn kinh lược phân công như sau: Phó sứ Tôn Thất Bạch và Nguyễn Đắc Trí đi Biên Hòa, Định Tường để khám đạc. Trương Đăng Quế ở lại Gia Định năm ba ngày xếp đặt việc chung rồi cũng lên đường đi Vĩnh Long, An Giang. Như vậy là một nửa phụ trách miền Đông và một nửa phụ trách miền Tây. Trương Đăng Quế tâu ngay về triều: “Hạt nầy, sau nạn binh lửa, dân mới được yên ổn sum họp. Về việc tuyển lính, những kẻ ngu lười, yên thói cũ, lúc mới thì hoang mang sợ hãi đến khi được các phủ huyện theo lời dụ, dẫn bảo, bấy giờ mới hơi yên ổn. Quan tỉnh hiện đương gọi và tuyển lính. Duy về việc đạc ruộng, nhân dân sở tại ít người biết toán pháp, không khỏi một phen phải tốn công chỉ bảo cho nhiều người tập quen để sẽ lần lượt tiến hành. Thần đã sai giáo thụ (học quan ở phủ), huấn đạo (học quan ở huyện) hiệp với các viên phủ huyện cùng làm, ngõ hầu mới mong xong sớm được”. Minh Mạng phê bảo: “Đừng để lời phao đồn làm mê hoặc!”. Việc duyệt tuyển và đạc điền toàn bộ sáu tỉnh Nam kỳ có gây hoang mang lúc đầu và xáo trộn sinh hoạt, dù cho đoàn kinh lược đã vào làm việc sau Tết chưa phải ngày mùa. Như trong tờ tâu của quan tỉnh Gia Định gởi về có nói: “Năm ngoái, thuê mướn dân phu ở tỉnh hạt và Vĩnh Long, Định Tường để san bằng thân thành Phiên An cũ, lấp các hào rãnh; đến nay công việc mới được quá nửa. Bây giờ có việc tuyển lính và đạc ruộng, dân các tỉnh gián hoặc có người phải đăng lính, có người phải nêu nhận ruộng đất, vậy xin hãy tạm thả cho họ về; chờ khi vãn việc sẽ tiếp tục làm. Vua y cho”. Vì theo quy định lúc bấy giờ, mỗi kỳ duyệt tuyển, nghĩa là duyệt dân tuyển lính, thì toàn thể dân đinh do thôn trưởng hướng dẫn phải kéo nhau đến trường duyệt tuyển ở tỉnh để quan khâm sai từ kinh tới và quan tỉnh điểm danh, xem sức khỏe và tầm vóc của mỗi người để định đoạt cả việc tuyển quân lẫn mức thuế. Còn việc khám ruộng và đạc điền thì tất cả lại phải kéo nhau tới hiện trường. Việc đo khám và định hạng ruộng đất cũng làm công khai như việc duyệt tuyển vậy. Bao giờ cũng phải có mặt của kinh phái, tỉnh phủ huyện, tổng xã và đương sự. Mọi sự khiếu nại có thể đưa ra ngay tại hiện trường. Sự thỏa thuận chung là cần thiết. Nhân xin nói qua về nội dung của sổ địa bạ. Địa bạ khác nào như tấm địa đồ của làng. Theo đó ghi từng thửa ruộng, mảnh đất, với diện tích bao nhiêu mẫu sào thước tấc, tọa lạc tại đâu, giáp giới tứ chi thế nào, thuộc quyền sở hữu của ai, vì đâu mà có, trồng loại cây gì, làm nhà, để mồ mả hay hoang phế. Ruộng lúa thì thuộc đẳng điền nào và nếu công điền công thổ thì phải ghi riêng. Theo nguyên tắc, làng nào cũng phải có địa bạ, vì ngay khi xin lập làng mới đã phải có địa bạ kèm theo. Rồi khi tính thuế, người ta sẽ căn cứ vào địa bạ để làm ra điền bạ. Trong điền bạ còn phải ghi rõ cả số lúa, số tiền thuế tính riêng từng thửa ruộng đất rồi cộng chung cho cả làng. Nhưng ở Nam kỳ vì pháp luật còn lỏng lẻo nên các loại sổ đinh điền chưa được phân minh. Phái đoàn kinh lược năm 1836 thực hiện lần đầu ở Nam kỳ những sổ bạ đó theo đúng quy cách chung của toàn quốc. (Một số người nghiên cứu nước ngoài như Luro, Pierre Pasquier… hiểu nhầm là chỉ có Nam kỳ được đạc điền nghiêm túc, còn Bắc và Trung kỳ thì không!). Đồng thời các đạc điền quan cũng dùng những thước đã được định chuẩn mệnh danh là quan điền xích để đo khám ruộng đất và lập địa bạ. Trước đó, Nam kỳ còn dùng những thứ thước theo thỏa thuận từng địa phương, có khi chỉ giữa một số người với nhau (xin xem bài Góp phần nghiên cứu vấn đề đo đong cân đếm của Việt Nam xưa trong tập san Nghiên cứu Kinh tế số 5 và 6, 1978, của tác giả tập này. Chúng tôi đã đề nghị một số biểu đong đo cân chuyển đổi ra hệ mét. Tất cả những chú giải chuyển đổi trong bài này về thước, hộc, cân…, chúng tôi đều dùng những biểu đó). Các nhân viên tùy biện của đoàn kinh lược lần này gồm đa số là đạc điền quan, những người biết đo đạc, tính toán, định phương hướng, vẽ địa đồ. Họ cũng là những người đã quen việc lập sổ địa bạ theo cung cách chung của cả nước. Trong địa bạ của mỗi làng hầu như bao giờ cũng có những mục riêng dành cho công điền công thổ. Vậy trước tình trạng lộn xộn trong việc chiếm hữu ruộng đất ở Nam kỳ mà có lẽ triều đình đã nắm được phần nào, các đạc điền quan phải biết giải quyết và đối phó từng trường hợp tranh chấp hoặc rắc rối. Riêng đối với công điền công thổ, thì tính sao? Có nên theo tục lệ truyền thống của cả nước và xã thôn, mà định đoạt hay bỏ hẳn mục công điền công thổ trong các sổ địa bạ của khắp lục tỉnh Nam kỳ? Chắc hẳn trước khi phái bộ lên đường, triều đình đã hội bàn, tìm ra phương hướng rồi chỉ thị cho đạc điền quan cách giải quyết đối với mục công điền công thổ. Chúng ta chưa tìm thấy tư liệu về sự quyết định thiết lập chế độ công điền công thổ ở Nam kỳ qua những cuộc tranh biện ở triều đình hay chỉ thị áp dụng nói trên, nhưng qua những bản trần tấu và thành tích kinh lý trình bày sau đây, chúng ta có thể khẳng định rằng chế độ công điền công thổ đã được thiết lập tại Nam kỳ nhân cuộc kinh lý năm 1836. Trở lại với cuộc kinh lý này, mới ở Nam kỳ được 2 tháng, Trương Đăng Quế đã tâu báo về kinh: “Lính mới tuyển ở Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường đã gần đủ số. Còn việc đạc ruộng đã làm thử ở chỗ gần, thấy dân tình cũng có một vài người không vui, nhưng phần đông đều muốn đo đạc. Vì Nam kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm ruộng đất xã khác, mà người xã sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy và ở. Có nơi ruộng có một thửa, tô thuế nguyên trưng không quá 3-4 hộc, nay đã chia làm 6-7 thửa bán cho người khác, mà các người mua ấy đều phải nộp thóc gấp bội cho chủ nguyên trưng thu riêng, lại còn nhiều nỗi sách nhiễu không kể xiết! Nay khám đạc lại thì mọi người cứ chiếm phần mình cày cấy, nộp thuế, không bị cường hào ức hiếp. Ngoài ra, đất bỏ không có ra sức khai khẩn cày cấy thì dân thường cũng được chia lợi. Cho nên người thích muốn đạc ruộng thì nhiều… Thế thì việc đạc ruộng cũng là điều người muốn làm chứ không phải là làm đau khổ dân”[99]. Như vậy, về mặt dư luận, tình hình thuận lợi hơn trước, nhưng về kỹ thuật, sứ bộ còn gặp khó khăn vì số đạc điền quan kinh phái ít mà người địa phương thì chưa quen việc đo tính và lập địa bạ. Vả lại, số xã thôn phường ấp ở các tỉnh khi đó đã lên tới gần 1.740 đơn vị, đây là một khối lượng công việc rất lớn. Ngoài ra, có những thửa ruộng trước chỉ đóng thuế ba bốn hộc thóc, nhưng tới lúc hạ thước đo thì đi nửa ngày mới hết chỗ cày cấy. Đo được những thửa ruộng như vậy rất vất vả. Nên tờ tấu trình nói thêm: “Duy từ quan lại ở tỉnh đến các tổng lý, không một ai am tường về địa phận đông tây, về phân số mẫu sào và những cách nêu ruộng, ghi nhận, tính, đo! Bọn thần đã chỉ bảo hai ba lần cho đến khi họ thông thuộc được, kể cũng rất gian khổ. Trong các số ruộng đem đạc có chỗ nguyên trưng là ruộng, nay đã thành vườn tược, nhà ở; có chỗ có cày cấy thực mà không có sổ; có chỗ ở xã khác mà ghi vào bản xã; có chỗ nguyên trưng là một thửa mà nay chia làm mấy chục thửa, chuyển bán cho người ta rồi; có chỗ trước gọi là một thửa, mà dài rộng quanh co đi đến nửa ngày đường mới hết chỗ cày cấy thực. Sự tình dường ấy không phải kể một nơi mà đủ cả được. Cho nên có đo đạc, tất phải kê cứu, nên không tránh khỏi kéo dài”[100]. Minh Mạng được tin báo, rất mừng, liền thưởng thăng cấp và tiền bạc cho cả phái bộ lẫn quan lại địa phương, đồng thời chỉ thị cho gửi thêm đạc điền quan vào Nam kỳ phụ giúp việc kinh lý. Phái bộ kinh lý làm việc khẩn trương và cũng rất nghiêm túc, như khi “có tên nhũng lại ở tỉnh Định Tường là Tống Hữu Tài nhân đưa quy thức đạc điền, sách nhiễu lấy tiền của dân. Việc phát giác, bọn Giảng liền đem chém để làm gương răn”[101]. Cho nên phái bộ kinh lý chỉ mất đúng năm tháng (18 tháng Hai đến 18 tháng Bảy) đã hoàn thành công tác đạc điền cho khắp Nam kỳ Lục tỉnh, một công tác hết sức phức tạp và vĩ đại, một công tác mà chính thực dân Pháp sau này phải thán phục. Họ cho rằng chỉ có những nước có trình độ văn minh cao mới thực hiện được công trình đạc điền kinh lý chính xác như vậy, và các địa bạ năm 1836 đó vẫn có giá trị pháp lý và làm căn cứ cho các công cuộc kinh lý trắc địa sau nầy. b) Công điền công thổ trong địa bạ năm 1836 Sau khi hoàn tất việc kinh lý, Trương Đăng Quế, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đắc Trí đi đường trạm về kinh phục mệnh, còn Trương Minh Giảng lại về thành Trấn Tây (tức Nam Vang). “Trước hết, họ đệ trình bản sách ghi rõ mục ruộng đất: Trước ruộng đất nộp thuế là linh 20.197 sở, 13 dây, 8 khoảnh và hơn 3.464 mẫu. Nay đạc thành các hạng ruộng đất là hơn 630.075 mẫu. Lại nguyên ruộng trước có linh 65 sở, nay khám ra thành 1.017 khẩu ao cá”[102]. Tiếc rằng chúng ta chưa tìm được “bản sách ghi số mục ruộng đất” hơn 630.075 mẫu đó. Bản kết toán kinh lý còn có 7 điều khoản liên quan đến công điền công thổ trong “14 điều khoản châm chước bàn định nên làm để tâu lên”. Sự kiện này chứng tỏ đoàn kinh lược đã dụng ý thiết lập chế độ công điền công thổ tại đây. Nhưng muốn tìm hiểu thêm chế độ công điền công thổ, ta cũng nên biết tới quan niệm của người xưa về cách cư trú, chiếm hữu ruộng đất của xã thôn cũng như cách sử dụng và khai hoang ruộng đất, nên chúng tôi trích lại toàn văn cả 14 điều khoản và chỉ nhấn mạnh những điều liên quan đến công điền công thổ: “1. – Trước trong sổ nộp thuế là ruộng, nay khám đạc là thổ; trước trong sổ nộp thuế là thổ, nay khám đạc là ruộng; trước là hoang vu, nay hiện đã thực sự cày cấy, đều theo sự thực, khai vào các hạng. Gián hoặc trước trong sổ là ruộng thực, nay khám ra toàn trồng dâu, mía và cau, cũng có một hai phần tách ra, thì cũng theo thực sự, khai vào các hạng thổ đánh thuế. 2. – Các hạng ruộng đất nộp thuế trước, gián hoặc có chỗ xây dựng miếu mạo, đền chùa và nơi để mồ mả, thì tách ra, liệt vào hạng riêng; còn thì căn cứ vào số thực canh, chiếu đạc biên vào sổ. 3. – Những đất dân cư, chỗ nào là đất hoang và gò đống, trong sổ không ghi người nào trước đã nộp thuế thì liệt làm hạng đất dân cư (dân cư thổ), miễn thuế; nếu có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng đất công. 4. – Trong sổ trước là thực trưng, nay khám ra còn một hai chỗ hoang vu thì căn cứ vào ruộng thực canh, đã đạc thành mẫu thành sào, trước bạ: còn thì liệt vào hạng lưu hoang, đều do quan địa phương sức dân khai khẩn cày cấy thành ruộng, cho làm hạng công điền, bắt nộp thuế. 5. – Các hạng ruộng đất của các xã thôn trước đã nộp thuế, có lệ thuế trong điền bạ ở thôn này, mà ruộng đất tọa lạc ở thôn khác và điền bạ theo tỉnh này mà ruộng đất lại tọa lạc ở tỉnh khác, nay cho trả về sổ địa bạ của tỉnh và thôn mà ruộng đất đã tọa lạc ở đó. 6. – Ruộng đất thực canh, trong sổ khai là cả thôn ấy cùng cày cấy (bổn thôn đồng canh) thì cho là hạng ruộng đất công. Gián hoặc có những chủ ruộng trốn đi hoặc chết, mà không có con cái, thì giao cho dân sở tại nhận cày cấy, nộp thuế theo hạng ruộng đất công. 7. – Ở ngoài phụ quách thành Phiên An cũ (thành Quy), trừ ra những nơi đặt làm thành mới Gia Định (thành Phụng) và những chỗ liệu để làm quan xá, quân trại, thủy trường, còn thì đạc được hơn 440 mẫu, cho dân phụ cận lập sổ địa bạ, nộp thuế theo hạng công thổ. 8. – Một thửa đất thành cũ Định Tường, trước đạc được hơn 40 mẫu, cho dân sở tại khai khẩn cày cấy, nộp thuế theo hạng công điền. 9. – Ở Gia Định có ba thửa ruộng bỏ hoang, trước cấp cho đội An Lương khai khẩn cày cấy đã thành ruộng, nay đạc được 14 mẫu linh, cho dân nhận lãnh canh tác, nộp thuế theo hạng ruộng công. 10. – Ở Hà Tiên có ba thửa quan điền, trước không phải nộp thuế, cấp cho cơ Hà Tiên cày cấy; nay đạc thành ruộng được 75 mẫu linh, vẫn để cho lính cơ, nộp thuế theo hạng quan điền. 11. – Ở Định Tường, trước kia Tôn Thất Chương để lại hai thửa ruộng cỏ, từ trước vẫn có người tá canh, nửa vời, các điền hộ chuyền tay nhau bán đi; nay khám ra là 50 thửa, mà dấu tích tá canh hãy còn rõ ràng thì có 6 thửa đạc được 398 mẫu linh, vẫn giao cho chủ trước. Còn 44 thửa đạc thành 359 mẫu linh, thì cho dân nhận lãnh nộp thuế, liệt vào hạng ruộng công. 12. – Nhân dân xã nào đã trốn tránh tan tác, địa phận của họ không ai đứng nhận đo đạc thì sức cho tổng trưởng sở tại gọi những xã thôn bên cạnh nhóm lại tiếp nhận, khám đạc, rồi căn cứ vào số ruộng đất, lập thành sổ địa bạ, cho người tá canh nộp thuế, đợi khi dân ấy về, lại cho nhận ruộng cày cấy và cư trú. 13. – Thôn xã nào trước không có địa phận, lại không có ruộng đất nộp thuế ở đâu, duy có mua được một hai thửa ruộng đất ở thôn khác để ngụ cư mà hiện có sổ dân và ngạch lính, thì cho tách lấy chỗ ruộng đất đã mua ấy làm địa phận, xây dựng địa bạ. Gián hoặc có một hai xã thôn, trước không có địa phận, cũng không có ruộng đất đã mua và đóng thuế, mà chỉ ở nhờ ruộng đất người xã khác, hiện nay đã thành làng xóm, thì cũng cho xắn lấy số ruộng đã ở nhờ nơi đó làm địa phận mình. Nếu thôn xã nào ở tản mác, không thành thôn xóm, thì do quan địa phương xét xem trong hạt, những nơi rừng rú gò đống bỏ hoang mà có thể cày cấy, cư trú được thì cho họ lập ấp, làm sổ địa bạ, để họ được yên cư. 14. – Các hạng ruộng đất, trước ở trong sổ, gián hoặc có chỗ trước bạ hai lần hoặc có chỗ bỏ hoang mà không rõ tọa lạc nơi đâu, nay xét ra quả thật là đúng thì đều cho miễn trừ”. Những điều khoản trên đây rất súc tích và cụ thể, nếu nghiên cứu kỹ, có thể hiểu được những khái niệm của người xưa về địa phận xã thôn, an cư lạc nghiệp, lập ấp mới, sổ địa bạ, đồn điền, quan điền và đặc biệt nơi đây là nguồn gốc của công điền công thổ ở Nam kỳ Lục tỉnh. Tới nay, hầu như tư liệu này chưa được khai thác đúng mức. Sau khi đọc xong bản tấu trình các điều khoản trên, Minh Mạng nói với Nội các: “Lục tỉnh Nam kỳ, bấy nay những xứ sở bờ mốc ruộng đất đều lộn xộn. Nay kinh lược đại thần thân đi xem xét tại chỗ, bàn kỹ từng khoản, đều được ổn thỏa hợp lý, chuẩn cho thi hành những lời đã bàn… Vậy truyền chỉ cho đốc, phủ, bố, án ở các tỉnh chuyển sức cho các phủ huyện chiếu theo những xã thôn thuộc hạt phải lấy sổ ruộng mới đạc làm chuẩn đích, lập rõ giới hạn, hoặc dùng nêu gỗ, hoặc chôn mốc đá, ghi dấu rõ ràng, để trong chỗ làng mạc cứ theo đấy, cùng sống yên ổn”[103]. Cuộc kinh lý năm 1836 đã giải quyết nhiều việc như duyệt dân tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chính, cắt đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định lệ thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp,… nhưng kết quả đáng kể hơn cả chính là việc lập địa bạ làm cho “bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản”[104]. Triều đình Huế hãnh diện và hài lòng về chuyến kinh lý này, nên Trương Minh Giảng được thăng chức Đông các Đại học sĩ, Trấn Tây tướng quân lãnh Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên); Trương Đăng Quế được thăng Hiệp biện Đại học sĩ lãnh Thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần; Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đắc Trí cùng các tùy viên khác cũng được thăng chức hoặc khen thưởng (như vậy Trương Minh Giảng được thăng tới chánh nhất phẩm đứng đầu bá quan đương thời, còn Trương Đăng Quế được thăng tới tòng nhất phẩm). Quan lại và lý dịch địa phương cũng được khen thưởng nhiều ít tùy công lao. Ngoài ra, triều đình còn định lệ thưởng phạt cho quan lại và lý dịch tùy theo mức độ khai hoang hoặc để hoang nhàn ruộng đất. Địa bạ năm 1836 đã thiết lập chế độ công điền công thổ ở Nam kỳ, làm cho “kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản”. Nhưng cái “tư sản” của người nghèo còn quá nhỏ, nên nhà nước quân chủ đương thời đã tìm biện pháp nới rộng thêm phạm vi công điền công thổ ngõ hầu đem quân cấp cho dân nghèo. TÓM LƯỢC NGHIÊN CỨU ĐỊA BẠ NAM KỲ LỤC TỈNH A. – TƯ ĐIỀN TƯ THỔ Qua nghiên cứu địa bạ Lục tỉnh - vùng đất mới được khẩn hoang lập ấp - ta thấy số ruộng tư điền chiếm tới hơn 9 phần 10 tổng số ruộng thực canh. Xét lịch sử phát sinh và phát triển, có lẽ tư điền đây không phải là một quyền sở hữu tuyệt đối, mà chỉ là một quyền sử dụng tư nhân trên một sở ruộng do chính đương sự đã khẩn hoang. Luro viết về thủ tục lập làng mới và sở hữu tư nhân, trên ruộng đất ở Nam Bộ xưa, khá sắc bén: “… Thế là một làng mới được thành lập, đất đai được chia cho các gia đình trong cộng đồng xã thôn. Mỗi gia đình chiếm những phần đất mà mình có khả năng khai thác; cũng từ đó quyền sở hữu tư nhân của các nông dân này được thiết lập. (Sự thật không phải ai xí phần đâu là có quyền sở hữu đó, mà chỉ sở hữu trên ruộng đất đã thực canh và chính quyền đã đo đạc rồi ghi vào địa bạ hay điền bạ để đánh thuế - NĐĐ). Để đổi lấy thuế trả cho sự trị an mà sở hữu chủ được hưởng. Nhà nước bảo đảm cho cá nhân được quyền sử dụng một mảnh đất vô giá trị, mà khởi đầu chẳng có lợi ích gì khác ngoài lợi ích tự nhiên không mất tiền mua, gắn liền với đất đai vốn tự nó không sản sinh ra được mùa màng. Cái mảng lợi ích tự nhiên không lợi ích gì cho ai đó từ nguyên thủy không có giá trị, song với nỗ lực lao động và trí tuệ của con người, mảnh đất ngày càng có giá trị nhờ hoa màu ngày càng tăng do sự canh tác, vì thế mảnh đất ấy có thể trao đổi, mua đi bán lại. Vậy thì cái giá trị chỉ do cá nhân con người tạo nên bằng lao động và cố gắng của mình; cái giá trị trao đổi ấy trước đây không hề có, nay phải thuộc về chính người tạo ra nó, chứ không thể ai khác được!”[105]. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Luro chưa khẳng định quyền sở hữu tuyệt đối về ruộng đất sau khi người nông dân thêm cho nó một giá trị nhờ lao động sáng tạo. Có lẽ, người nông dân có quyền sử dụng cá thể, còn quyền sở hữu tối thượng vẫn thuộc về nhà nước - tức nhà vua. Trong sổ địa bạ, hai chữ tư điền hay tư thổ không được nhắc lại trong mọi trường hợp. Thường chỉ ghi là: Một sở ruộng (thảo điền hay sơn điền) hoặc một sở đất (trồng gì hay để ở) rộng bao nhiêu mẫu sào thước tấc - đông tây nam bắc giáp giới những đâu - do người bổn thôn tên họ gì phân canh hay do người thôn nào khác, tên gì phụ canh. Những sở ruộng đất có tên người phân canh hay phụ canh là tư điền tư thổ vậy. Mấy dòng này có giá trị như một bằng khoán chứng nhận sở hữu chủ. Sở hữu chủ phải chịu thuế theo loại hạng tư điền tư thổ. Mỗi làng chỉ có một sổ địa bạ, nên một số nhà nghiên cứu hoặc cai trị thực dân (như Ariès) đã cho là nhà nước Việt Nam xưa không lưu ý tới quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất, mà chỉ thừa nhận sở hữu chủ tập thể (possesseur collectif) tức làng xã mà thôi[106]. Sự thật thì địa bạ vừa ghi nhận sở hữu chủ của từng mảnh ruộng đất, vừa ghi nhận toàn bộ địa phận của xã thôn gồm cả gò đồi sông rạch và rừng cây. Như vậy, làng là sở hữu chủ tập thể của toàn địa phận, còn sở hữu chủ cá thể chỉ có quyền trên sở ruộng đất có vị trí và đo đạc nhất định. Ngoài diện tích của tư điền tư thổ, địa bạ cũng ghi rõ diện tích của các loại hạng công điền công thổ hay quan điền quan thổ, v.v. mà không bao giờ ghi rõ tổng diện tích của địa phận cả làng (vì không đặt thước đo hết địa phận, nhiều nơi vẫn còn ghi đại khái một hay nhiều sở khoảnh rừng hoang hoặc gò nổng). B. – CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ Theo sưu tập địa bạ Lục tỉnh, số lượng ruộng đất nhiều thứ hai sau tư điền tư thổ là công điền công thổ. Như đã nói trên, đây là một loại hạng ruộng đất có định chế riêng, không nên dịch ra là “ruộng làng” hay “ruộng công”, vì có nhiều loại hạng ruộng đất khác nhau của làng hay của công mà vẫn không gọi chính xác là công điền công thổ. Do chưa nghiên cứu trực tiếp qua địa bạ, không nắm được định chế đặc biệt của mỗi loại ruộng đất, một số nhà nghiên cứu nước ngoài cũng gây ngộ nhận khi dịch đó là “ruộng đất làng xã” (terrains communaux). Đáng lẽ phải có công trình riêng nghiên cứu về định chế công điền công thổ chung của cả nước, vì đây là vấn đề rất quan trọng, song thiếu số liệu chính xác, nên đến nay vẫn chưa được thực hiện. Sau đây, ta chỉ xem xét tình hình định chế công điền công thổ rút từ sưu tập địa bạ Lục tỉnh. Tại Nam kỳ Lục tỉnh xưa, có 5 loại ruộng đất thuộc hạng công điền công thổ là: 1. Ruộng đất mà địa bạ ghi rõ là hạng công điền công thổ (có nhiều ở huyện Tân Hòa tỉnh Gia Định, nay là Gò Công tỉnh Tiền Giang, và ở 4 huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long là Vĩnh Bình, Vĩnh Trị, Trà Vinh, Tuân Ngãi nay nằm trong phạm vi tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh). 2. “Những ruộng đất thực canh, ở trong sổ ghi là bản xã hay bản thôn đồng canh (BXĐC - BTĐC) thì cho là hạng công điền công thổ” (trích điều 6 tờ tấu của Trương Đăng Quế). Tỉnh huyện nào cũng có loại ruộng đất này, nhưng tỷ lệ nhiều hơn cả là ở tỉnh Hà Tiên (hầu hết ruộng đất Hà Tiên đều do “bản xã hay bản thôn đồng canh và ít nhất là ở tỉnh Định Tường (số ruộng “bổn thôn đồng canh” chỉ có độ 2/1.000). 3. “Những nơi dân chúng ở, chỗ nào là đất hoang gò đống, trong sổ không ghi người nào trước đã nộp thuế, thì liệt vào hạng dân cư thổ, miễn thuế; nếu có chủ khai nhận thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng công thổ”. (Trích điều 3 tờ tấu của Trương Đăng Quế). Như vậy, dân cư thổ chia làm hai thứ: a) Nếu ghi là “bổn thôn đồng cư” thì miễn thuế. b) Nếu có người đứng tên khai nhận ở, thì phải “nộp thuế theo hạng công thổ”. Ở 4. “Ở ngoài phụ quách thành Phiên An cũ, trừ ra những nơi đặt thành Gia Định mới (thành Phụng) và những chỗ liệu để làm quan xá, quân trại, thủy trưởng, còn thì đạc được hơn 440 mẫu, cho dân phu cần lập sổ địa bạ, nộp thuế theo hạng công thổ”. “Ở tỉnh Gia Định có 3 thửa ruộng bỏ hoang, trước cấp cho đội An Lương khai khẩn cày cấy đã thành ruộng, nay đạc được 14 mẫu linh, cho dân nhận lãnh canh, nộp thuế theo hạng công điền”. “Một thửa đất thành cũ Định Tường, trước đạc được hơn 40 mẫu, cho dân sở tại cày cấy, nộp thuế theo hạng công điền”, “Ở Định Tường, trước kia Tôn Thất Chương để lại 2 thửa thảo điền, từ trước vẫn cho người tá canh, nửa vời, các điền hộ chuyền tay nhau bán đi; nay khám ra là 50 thửa, mà dấu tích tá canh hãy còn rõ ràng, thì có 6 thửa đạc được 398 mẫu linh thì cho dân nhận lãnh nộp thuế, liệt vào hạng công điền” (đều trích từ tờ tấu của Trương Đăng Quế). Cộng chung các khoản trên đây là 440 mẫu công thổ và 801 mẫu công điền, tức linh 1.241 mẫu công điền công thổ. 5. “Những chủ ruộng trốn đi hoặc chết mà không có con cái, thì giao cho dân sở tại cày cấy, nộp thuế theo hạng công điền công thổ”. “Trong sổ trước khai là thực trưng, nay khám ra còn một hai chỗ hoang vu, thì căn cứ vào ruộng thực canh, đo đạc thành mẫu sào rồi trước bạ; còn thì liệt vào hạng lưu hoang, đều do quan địa phương sức dân khai khẩn cày cấy thành ruộng, cho làm hạng công điền, bắt nộp thuế” (đều trích từ tờ tấu của Trương Đăng Quế). Trên đây là hai trường hợp, trường hợp thứ ba là lấy tư điền tư thổ của người bị án chuyển vào sổ công điền công thổ, thí dụ trong địa bạ xã Bình Hòa huyện Bình Dương tỉnh Gia Định (nay là một phần quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) có ghi: “Một sở ruộng rộng 1 mẫu 9 sào 3 thước, nguyên Lê Văn Duyệt tạo mãi, phụng án xử giao hồi bản xã vi công điền”. Lại “một sở đất rộng 3 mẫu 7 sào 3 thước, nguyên Lê Văn Duyệt tạo mãi, phụng án xử, giao hồi bản xã vi công thổ”. Trường hợp thứ tư là thỉnh thoảng trong địa bạ ghi tên người “tặng nhượng cho xã thôn một số ruộng đất làm công điền công thổ”. Trường hợp này không nhiều. Để có một khái niệm rõ ràng về cơ cấu sở hữu ruộng đất đương thời, ta nên biết rằng: ngoài tư điền tư thổ và công điền công thổ, còn có mấy loại ruộng đất khác như sau: C. – BỔN THÔN ĐIỀN, BỔN THÔN THỔ Là loại ruộng đất riêng của làng, mà nguồn gốc là do làng lấy công quỹ ra mua hoặc có người tặng nhượng, nói là để giúp việc chi tiêu trong làng (nếu không, sẽ thành công điền công thổ). Khi cần, làng có thể đem bán hay cầm cố loại ruộng này, chứ không như đối với loại công điền công thổ. Cho nên tên gọi “ruộng đất làng xã” (terrains communaux) có thể áp dụng cho bổn thôn điền bổn thôn thổ, mà không thể dùng để gọi công điền công thổ. Tốt hơn hết, không nên dịch mà cứ dùng nguyên văn những tên gọi theo định chế xưa. Đầu thời thuộc địa và chính quyền thực dân không tôn trọng các định chế sở hữu điền thổ, nên đã lẫn lộn bổn thôn điền bổn thôn thổ với công điền công thổ. Thực tế qua sưu tập địa bạ Nam kỳ, bổn thôn điền bổn thôn thổ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ không đáng kể so với công điền công thổ (không tới 150 mẫu). D. – RUỘNG ĐẤT MIỄN THUẾ Được ghi rõ trong sổ địa bạ gồm bốn loại chính sau đây: - Dân cư thổ “nguyên là đất hoang và gò đống” để cho “bản thôn đồng cư” thì miễn thuế. Dân cư thổ có khi được đo đạc kỹ, ghi bằng mẫu sào thước tấc (hơn 9.800 mẫu), đôi khi chỉ ghi đại khái là một hay mấy “khoảnh”. - Mộ địa hay thổ mộ là những nơi để mồ mả, thường không đo đạc, chỉ ghi là mấy khoảnh. - Thần từ, Phật tự thổ là những nơi xây dựng miếu mạo đền chùa, thường được đo kỹ và ghi diện tích đầy đủ (có khoảng trên 76 mẫu). - Tự điền là ruộng dành cho con cháu công thần lo việc cúng giỗ. Cả Lục tỉnh xưa, có hai trường hợp đáng kể hơn cả là: Ruộng Châu """