" Chất Michelle - Michelle Obama full mobi pdf epub azw3 [Best Seller,] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chất Michelle - Michelle Obama full mobi pdf epub azw3 [Best Seller,] Ebooks Nhóm Zalo Chất Michelle Michelle Obama NXB Tổng hợp TP.HCM (2021) Từ khóa: Tiểu Sử, Hồi Ký BECOMING CHẤT MICHELLE QUYỂN HỒI KÝ CHÂN THÀNH, GIÀU CẢM XÚC VÀ TRÀN ĐẦY CẢM HỨNG TỪ CỰU ĐỆ NHẤT PHU NHÂN HOA KỲ Thuở nhỏ, thế giới của cô bé Michelle Robinson là vùng South Side ở Chicago, nơi cô và anh trai Craig chia nhau một gian phòng trong căn hộ ở tầng trên của cả gia đình và chơi đuổi bắt trong công viên, đó cũng là nơi cha mẹ của cô, ông Fraser và bà Marian Robinson, đã dạy cô tự tin thể hiện quan điểm thay vì e sợ. Nhưng dòng đời nhanh chóng cuốn cô bé Michelle đến những vùng đất xa hơn, từ những giảng đường ở Đại học Princeton, nơi lần đầu tiên Michelle trải nghiệm cảm giác là nữ sinh viên da đen duy nhất trong lớp, đến tòa nhà văn phòng lắp kính, nơi Michelle trở thành một luật sư luật doanh nghiệp giàu năng lực – và cũng là nơi vào một sáng mùa hè, chàng sinh viên luật có tên Barack Obama đã xuất hiện và đảo lộn tất cả những kế hoạch mà Michelle đã cẩn thận chuẩn bị cho mình. Trong quyển sách này, lần đầu tiên Michelle Obama đã mô tả những năm tháng đầu tiên của cuộc hôn nhân, khi bà cố gắng cân bằng giữa công việc và gia đình với sự nghiệp chính trị tiến triển quá nhanh chóng của mình. Độc giả sẽ được đưa vào những cuộc tranh luận xem Barack Obama có nên tranh cử chức tổng thống Mỹ hay không, thấy được vai trò của Michelle trong chiến dịch vận động tranh cử của chồng đồng thời thấy rằng bà là nhân vật thường xuyên phải gánh chịu nhiều chỉ trích. Với sự duyên dáng, hài hước và thẳng thắn hiếm thấy, Michelle Obama mang đến cho độc giả câu chuyện hậu trường sống động về bước nhảy làm nên lịch sử của gia đình bà, một bước nhảy đã đưa gia đình Obama vào tâm điểm của thế giới và trải qua tám năm đáng nhớ trong Nhà Trắng – quãng thời gian giúp bà hiểu hơn về quốc gia của mình và để quốc gia đó hiểu nhiều hơn về bà. Khi dũng cảm kể lại câu chuyện về cuộc đời mình một cách chân thành, Michelle khiến chúng ta đối diện với câu hỏi lớn của đời mình: Chúng ta là ai, và chúng ta muốn trở thành ai? “Trước tiên tôi phải thừa nhận rằng không có điều gì khiến tôi thích hơn là đọc một quyển sách hay. Khi đọc Becoming, tôi bất ngờ nhận ra tâp hồi ký của Michelle là một quyển sách thực sự đặc biệt. Tôi không chỉ yêu mến mà còn rất tự hào về Michelle. Quyển sách là những tâm sự, chia sẻ từ trái tim rất chân thực, hấp dẫn, lôi cuốn – và – đầy quyền năng” – Oprah Winfrey – (Người dẫn chương trình truyền hình đối thoại hàng đầu nước Mỹ, một trong những nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất thế giới theo bình chọn của Forbes) Trân trọng gửi đến tất cả những người đã giúp tôi trở thành tôi của ngày hôm nay: những người dưỡng nuôi tôi khôn lớn – Fraser, Marian, Craig và đại gia đình của tôi, những người phụ nữ đã luôn nâng đỡ, động viên tôi, những người bạn trung thành và tận tụy khiến tôi luôn cảm thấy ấm áp và tự hào. -------- Thương gửi tình yêu của đời tôi: Malia và Sasha, hai hạt đậu quý báu nhất và là lẽ sống của mẹ, và sau cùng, Barack, người luôn truyền cảm hứng cho em trong mọi hành trình cuộc đời. Cựu đệ nhất phu nhân Michell Obama tham gia một cuộc phỏng vấn về cuốn sách “Chất Michelle” với Oprah Winfrey và các biên tập viên của ấn Ả phẩm Hearst tại thành phố New York ngày 6 tháng 9 năm 2018. (ẢNH: Chuck Kennedy) LỜI TỰA Tháng 3, 2017 HỒI NHỎ, TÔI MƠ ƯỚC RẤT ĐƠN GIẢN. Tôi muốn có một chú chó. Tôi muốn một ngôi nhà có cầu thang – một ngôi nhà hai tầng dành cho một gia đình nhỏ. Vì một lẽ nào đó, tôi cứ muốn được ngồi trong một chiếc station wagon[1] bốn cửa chứ chẳng phải chiếc Buick[2] hai cửa mà cha tôi rất yêu thích và tự hào. Tôi từng nói với mọi người rằng sau này khi lớn lên, tôi sẽ làm bác sĩ nhi khoa. Vì sao ư? Vì tôi thích được ở quanh trẻ nhỏ, và cũng vì tôi nhanh chóng nhận ra rằng đó cũng là một câu trả lời làm vui lòng người lớn. Ái chà, trở thành bác sĩ! Lựa chọn vậy mới là lựa chọn chứ! Thuở đó, tôi thường thắt bím, thích sai bảo ông anh trai của mình và luôn cố gắng đạt được điểm A ở trường bằng mọi giá. Tôi giàu tham vọng, mặc dù tôi không rõ mình đang nhắm đến điều gì. Giờ thì tôi thấy câu “lớn lên con muốn làm gì?” là một trong những câu hỏi vô nghĩa nhất mà người lớn thường dùng để hỏi một đứa trẻ. Cứ như chỉ cần trưởng thành là xong. Cứ như chỉ cần trở thành ai đó hay cái gì đó rồi là xong. [1] Station Wagon: kiểu xe ô-tô phổ biến, có phần thân xe dài hơn các loại ô-tô thông thường để chở được nhiều đồ hơn. (Tất cả chú thích là của biên tập viên.) [2] Buick: một trong những thương hiệu xe ô-tô lâu đời nhất nước Mỹ. Cho tới lúc này, tôi từng là một luật sư. Tôi từng là phó chủ tịch một bệnh viện và giám đốc một tổ chức phi lợi nhuận chuyên giúp đỡ giới trẻ khởi nghiệp. Tôi từng là một sinh viên da đen thuộc tầng lớp lao động theo học ở một trường đại học uy tín chủ yếu dành cho người da trắng. Tôi từng là người phụ nữ duy nhất, lại còn là người phụ nữ Mỹ gốc Phi duy nhất, trong rất nhiều sự kiện mà tôi tham dự. Tôi từng là cô dâu, từng là một người mẹ trẻ bị căng thẳng quá mức, một đứa con gái buồn đau vì biến cố gia đình. Và gần đây hơn, tôi từng là Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ – một công việc không được chính thức xem là công việc, nhưng đã mang lại cho tôi một vị thế mà tôi chưa bao giờ có thể hình dung ra được. Công việc ấy thử thách tôi nhưng cũng khiến tôi cảm thấy mình bé mọn, nó nâng tôi lên nhưng cũng có lúc khiến tôi phải hạ mình, đôi khi tất cả những thứ ấy diễn ra cùng lúc. Giờ đây tôi mới đang bắt đầu hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra trong những năm tháng vừa qua – từ thời điểm năm 2006 khi lần đầu tiên chồng tôi bắt đầu nói về việc anh sẽ tranh cử tổng thống đến buổi sáng mùa đông giá rét năm 2017, lúc tôi bước vào chiếc limo cùng với Melania Trump để cùng đến dự lễ nhậm chức của chồng bà. Quả là một chặng đường dài. Khi là Đệ nhất Phu nhân, bạn sẽ được chứng kiến những đối cực của nước Mỹ. Tôi đã dự những buổi tổ chức quyên góp trong những tư dinh không khác gì viện bảo tàng nghệ thuật, nơi chủ nhân của nó sở hữu những bồn tắm nạm ngọc sáng loáng. Tôi đã đến thăm những gia đình mất tất cả trong cơn bão Katrina, chứng kiến họ vừa mừng vừa tủi khi may mắn còn giữ lại được chiếc tủ lạnh hay lò nướng chưa bị hỏng. Tôi đã gặp những kẻ lố lăng, rỗng tuếch và giả tạo. Tôi cũng đã gặp những thầy cô giáo, người thân của những quân nhân và rất nhiều người khác nữa – những người có nghị lực sâu sắc và mãnh liệt đến kinh ngạc. Và tôi đã gặp những đứa trẻ – rất nhiều đứa trẻ ở khắp nơi trên thế giới – khiến tôi bật cười và khiến lòng tôi ngập tràn hy vọng; những đứa trẻ phước thay đã quên đi cái danh vị tôi là ai ngay khi chúng tôi bắt đầu cùng vui chơi và lao động trong vườn. Kể từ thời điểm bất đắc dĩ phải bước vào một cuộc sống không còn tính riêng tư, tôi đã từng được tung hô như là người phụ nữ quyền lực nhất thế giới rồi lại bị đạp xuống thành một “mụ đàn bà da đen giận dữ”. Tôi đã rất muốn hỏi những kẻ phỉ báng ấy rằng phần nào xưng danh xưng kia là quan trọng nhất đối với họ – “mụ đàn bà” hay “da đen” hay “giận dữ”? Tôi đã phải tươi cười khi chụp hình với những kẻ đã dùng những tên gọi kinh tởm để nói về chồng tôi trên truyền hình quốc gia nhưng vẫn muốn có một tấm ảnh kỷ niệm đóng khung đặt trên lò sưởi nhà mình. Tôi còn nghe những thứ rất nhơ nhớp trên Internet đồn đoán đủ thứ về tôi, thậm chí họ còn thắc mắc tôi là đàn bà hay đàn ông. Có một nghị sĩ Mỹ đương nhiệm đã từng lấy mông tôi ra làm trò. Tôi đã từng tổn thương. Tôi đã từng tức giận. Nhưng thường thì tôi cố cười cho qua chuyện. Vẫn còn rất nhiều điều tôi còn chưa hiểu hết về nước Mỹ, về cuộc sống, và về những gì tương lai sẽ mang lại. Nhưng tôi thật sự hiểu về bản thân mình. Cha tôi, ông Fraser, đã dạy tôi phải lao động chăm chỉ, luôn tươi cười và giữ lời hứa. Mẹ tôi, bà Marian, dạy tôi biết nghĩ cho mình và hiểu giá trị lời nói của bản thân. Khoảng thời gian chúng tôi còn ở trong căn hộ chật chội ở South Side, Chicago, cha và mẹ đã cùng giúp tôi hiểu rõ giá trị trong câu chuyện của gia đình, câu chuyện của bản thân tôi, và câu chuyện lớn hơn của đất nước chúng tôi. Kể cả khi câu chuyện ấy không tốt đẹp cũng chẳng hoàn mỹ. Kể cả khi câu chuyện ấy trần trụi chứ không màu hồng như ta mong đợi. Chuyện đời ta là thứ mà ta có, là thứ của riêng ta, là cái gì đó mà ta sở hữu. Suốt tám năm, tôi sống trong Nhà Trắng, nơi có rất nhiều cầu thang – chưa kể vô số thang máy, một đường bowling, và một phòng chuyên trách hoa tươi. Tôi ngủ trên chiếc giường có tấm vải làm từ vải lanh Ý. Bữa ăn của vợ chồng tôi do một đội ngũ đầu bếp đẳng cấp thế giới chuẩn bị, được bày biện bởi bàn tay của những chuyên gia lão luyện – hơn cả các bậc thầy làm việc tại bất kỳ nhà hàng hay khách sạn năm sao nào. Những nhân viên mật vụ mặt lạnh như tiền, được trang bị đầy đủ tai nghe và súng ống, luôn túc trực ngoài cửa phòng, cố hết sức giữ khoảng cách với đời sống riêng tư của gia đình chúng tôi. Rồi chúng tôi cũng quen với cuộc sống đó – sự lộng lẫy xa lạ của ngôi nhà mới, và cả sự hiện diện thường trực, yên ắng của những người lạ mặt luôn ở xung quanh. Nhà Trắng là nơi hai cô con gái của chúng tôi chơi bóng cùng nhau khắp các dãy hành lang và trèo cây ở khu vực bãi cỏ phía Nam ở sau tòa nhà. Nhà Trắng là nơi Barack ngồi làm việc muộn về đêm, trầm ngâm trước những báo cáo và những bản thảo diễn văn trong Phòng Hiệp ước, cũng là nơi Sunny, một trong hai chú chó của nhà chúng tôi, đôi khi vẫn làm bậy trên thảm. Tôi thường đứng ở Ban công Truman quan sát du khách tạo dáng bằng gậy selfie, có người nghía mắt qua rào sắt, đoán xem điều gì đang diễn ra bên trong. Do cửa sổ phòng buộc phải đóng kín vì lý do an ninh, nên có những ngày tôi cảm thấy ngột ngạt đến nỗi tôi phải lên tiếng gắt gỏng để có được một chút không khí trong lành. Có những lần khác tôi lại cảm thấy sửng sốt trước vẻ đẹp của hoa mộc lan tây trắng rộ nở trong vườn, trước cái chộn rộn thường nhật của hoạt động công vụ hay vẻ oai nghiêm của một buổi nghênh tiếp theo nghi thức quân đội. Cũng có những tháng ngày tôi cảm thấy căm ghét chính trị. Và cũng có những khoảnh khắc khi vẻ đẹp của nước Mỹ và con người Mỹ choáng ngợp tới mức tôi chẳng thể nào thốt nổi thành lời. Và rồi tất cả kết thúc. Ngay cả khi nhìn thấy ngày này đang đến, ngay cả vào những tuần cuối cùng ăm ắp những lời chia tay xúc động, thì cái ngày cuối cùng ấy vẫn rất đỗi mơ hồ. Một bàn tay đặt lên quyển Kinh thánh; một lời thề được lặp lại. Đồ đạc của vị tổng thống này được khuân ra ngoài trong lúc đồ đạc của vị tổng thống kia được khuân vào trong. Những tủ quần áo được dọn sạch sẽ và chất đầy trở lại chỉ trong vỏn vẹn vài giờ đồng hồ. Tương tự, có những mái đầu mới sẽ kê lên gối mới – những khí chất mới, những mộng ước mới. Và khi mọi thứ đã xong, khi ta bước ra khỏi cánh cổng của địa điểm trứ danh nhất thế giới lần cuối, ta phải một lần nữa tìm lại chính bản thân mình. Vậy thì cho phép tôi được bắt đầu tại đây, bằng một việc nhỏ vừa xảy ra không lâu. Khi đó tôi đang ở bên trong ngôi nhà gạch đỏ mà gia đình vừa chuyển vào. Ngôi nhà mới này tọa lạc chỉ cách nơi ở cũ của chúng tôi chừng vài cây số, trên một con phố yên tĩnh. Chúng tôi vẫn còn đang thích nghi với nơi ở mới này. Đồ đạc trong phòng khách được sắp xếp giống cách bài trí ở Nhà Trắng. Chúng tôi có những món kỷ vật được đặt khắp nhà để nhắc nhở rằng tất cả những sự việc ấy đã từng xảy ra và có thật – những tấm ảnh chụp gia đình sum vầy ở Trại David, những chiếc ấm làm bằng tay của các bạn sinh viên thổ dân da đỏ trao tặng, một quyển sách do đích thân Nelson Mandela ký tặng. Chỉ lạ là đêm đó cả nhà đều đi vắng. Barack đang đi xa. Sasha đi chơi với bạn. Malia thì đang sống và làm việc ở New York, hoàn thành gap year*[3]) trước khi bước vào đại học. Chỉ có tôi, hai chú chó và một ngôi nhà trống vắng, tĩnh lặng – điều hoàn toàn xa lạ với tôi trong suốt tám năm qua. Lúc đó tôi bỗng thấy đói. Tôi đi từ phòng ngủ xuống cầu thang vào nhà bếp, lẽo đẽo theo sau là hai chú chó. Tôi mở tủ lạnh. Tôi thấy một ổ bánh mì. Tôi lấy ra hai khoanh và cho vào lò nướng. Tôi mở tủ bếp để lấy một chiếc đĩa. Nói ra thì nghe lạ lùng, nhưng việc lấy một chiếc đĩa từ kệ bếp mà không có ai khác cứ khăng khăng để họ làm thay cho, rồi tự đứng bên lò nướng chờ bánh mì nóng giòn khiến tôi có cảm giác mình đã trở về gần với cuộc sống mà trước kia tôi đã từng có. Mà cũng có thể đây là cuộc sống mới của tôi chăng? Cuối cùng thì tôi không chỉ làm bánh mì, mà là làm bánh mì phô mai. Tôi cho hai lát bánh có kẹp miếng phô mai béo ngậy ở giữa vào lò vi sóng. Rồi tôi cầm đĩa bánh ra sân sau. Tôi không cần phải báo với ai mình đang đi đâu. Tôi cứ đi thôi. Tôi mặc quần ngắn, đi chân không. Cái lạnh cắt da của mùa đông cuối cùng cũng tan. Mấy bỏng hoa nghệ tây bắt đầu nhú lên khỏi mặt đất dọc theo bờ tường sau nhà. Không khí thoảng hương xuân. Tôi ngồi trên bậc thềm ở hàng hiên, cảm nhận hơi ấm của mặt trời ban ngày hãy còn đọng lại ở phiến đá dưới chân. Có tiếng chó sủa đâu đó từ xa, hai chú chó nhà tôi nghiêng đầu lắng nghe, thoáng chút bối rối. Tôi chợt nhận ra đó là âm thanh chói tai lạ lùng đối với chúng, bởi lẽ trước đây trong Nhà Trắng chúng tôi không hề có ai làm hàng xóm, chứ nói gì đến “chó hàng xóm”. Đối với chúng, mọi thứ đều mới mẻ. Trong lúc hai chú chó lao đi khám phá quanh sân, tôi ngồi trong bóng tối ăn bánh mì, cảm thấy thật dễ chịu khi được ở một mình. Tôi không bận tâm đến nhóm cận vệ có vũ trang đang ngồi cách tôi chưa đầy một trăm thước tại một chốt chỉ huy mới được xây dựng ngay bên trong ga-ra, cũng không mấy bận tâm đến một thực tế là vào thời điểm hiện tại tôi vẫn chưa thể ra đường mà không có các cận vệ đi theo. Tôi không nghĩ về vị tổng thống mới, và tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì về vị tiền nhiệm của ông ta. Tôi chỉ nghĩ đến việc chút nữa tôi sẽ vào nhà, rửa đĩa, sau đó về lại phòng ngủ, có thể mở một cánh cửa sổ để đón khí xuân – thật tuyệt vời làm sao. Tôi cũng nghĩ sự tĩnh lặng đang mang lại cho tôi cơ hội thật sự để ngẫm nghĩ về những chuyện đã qua. Khi còn là Đệ nhất Phu nhân, sau khi một tuần bận rộn kết thúc, tôi sẽ cần ai đó nhắc cho tôi nhớ cả tuần đó tôi đã làm gì. Nhưng thời gian nay đã khác xưa. Ngày hai cô con gái của tôi vào Nhà Trắng, chúng mang theo mấy bộ đồ chơi búp bê Polly Pocket, một chiếc mền có tên Blankie, và một chú cọp nhồi bông tên Tiger. Giờ đây hai đứa đã vào tuổi vị thành niên, trở thành những cô gái trẻ trung có kế hoạch và có tiếng nói của riêng mình. Sau khi rời Nhà Trắng, chồng tôi đang tự điều chỉnh để thích nghi với cuộc sống mới. Còn tôi, tôi đang ở nơi mới mẻ này, với rất nhiều điều muốn nói. 3] Gap Year: một năm tạm dừng việc học tâp để trải nghiệm cuộc sốn, thường là sau khi tốt nghiệp trung học và trước khi vào đại học, đây là thời gian để các bạn trẻ nghỉ ngơi, tham gia vào các khoá đào tạo kỹ năng hoạt động xã hội, làm tình nguyện viên, đi làm, đi du lịch… TÔI 1 Thuở bé tôi dành rất nhiều thời gian lắng nghe âm thanh của sự nỗ lực. Đó là tiếng nhạc dở tệ, “nghiệp dư”, vọng lên xuyên qua lớp ván sàn phòng ngủ của tôi – tiếng tinh tinh tinh của đám học trò của bà Robbie ở tầng dưới, khi chúng ngồi trước cây dương cầm đánh những tiếng đàn lọt chọt một cách chậm rãi và vụng về. Gia đình tôi sống ở khu South Shore của thành phố Chicago, trong một căn bungalow[4] ốp gạch. Căn nhà này của vợ chồng bà Robbie và ông Terry. Cha mẹ tôi thuê tầng trên, còn ông bà Robbie và Terry sống ở tầng trệt. Robbie là cô của mẹ tôi và bà luôn đối xử hào phóng với mẹ tôi suốt nhiều năm qua, nhưng đối với tôi thì bà Robbie khá đáng sợ. Bà nghiêm nghị, là chỉ huy dàn hợp xướng của một nhà thờ trong vùng, đồng thời là giáo viên dạy dương cầm ở khu chúng tôi sinh sống. Bà mang những đôi giày cao gót tinh tế và cổ lúc nào cũng lủng lẳng cặp kính lão. Bà có nụ cười tinh quái nhưng không dễ đón nhận những lời mỉa mai theo cách mẹ tôi hay làm. Thỉnh thoảng tôi lại nghe bà càm ràm học viên của mình vì không chăm chỉ luyện đàn, hoặc than phiền với cha mẹ chúng vì đã đưa con tới học trễ. “Chúc ngủ ngon!”, bà sẽ nói câu này giữa ban ngày ban mặt, cùng với sự cau có như khi người ta nói “ôi trời ơi!”. Có vẻ không có mấy người có thể đáp ứng các tiêu chuẩn của bà Robbie. Tuy nhiên, âm thanh cho thấy có người nào đó đang nỗ lực đã trở thành nhạc nền trong cuộc sống của chúng tôi. Tiếng đàn tinh tinh vang lên vào những buổi trưa, rồi tiếng đàn tinh tinh vang lên vào những buổi chiều. Những quý bà trong dàn đồng ca nhà thờ thỉnh thoảng sẽ đến tập thánh ca, gân cổ thể hiện lòng mộ đạo xuyên qua bốn vách tường nhà chúng tôi. Theo quy tắc của bà Robbie, bọn trẻ học dương cầm chỉ được phép tập mỗi lần một bài nhạc. Từ phòng mình, tôi lắng nghe nỗ lực của bọn trẻ, từng nốt ngập ngừng, để có được cái gật đầu của bà. Chúng sẽ tập từ những bài cơ bản như Hot Cross Buns rồi tiến dần đến Brahms’s Lullaby, nhưng phải sau rất nhiều lần cố gắng. Tiếng nhạc đó chẳng đến nỗi khó chịu, chỉ có ẳ điều nó cứ dai dẳng. Nó len lỏi lên chiếc cầu thang ngăn không gian sống của chúng tôi với không gian của vợ chồng bà Robbie. Nó lãng đãng chui qua các ô cửa sổ mùa hè đang mở toang, đồng hành với những suy nghĩ của tôi khi tôi đang chơi búp bê Barbie hoặc xếp gạch xây vương quốc đồ chơi nhỏ bé của mình. “Khoảng lặng” duy nhất chính là khi cha tôi tan ca làm sớm ở nhà máy xử lý nước thành phố, về nhà và mở tivi xem trận đấu của đội bóng chày Cubs, vặn âm thanh lên thật to đủ để át hết tiếng nhạc. Bấy giờ là cuối những năm 60 tại vùng South Side, Chicago. Đội Cubs chơi không tệ, nhưng cũng không xuất sắc. Những lúc đó cha tôi thường ngồi xuống chiếc ghế tựa, còn tôi sẽ ngồi trong lòng cha và nghe ông kể đội Cubs đang bị sụt giảm phong độ vào cuối mùa giải ra sao, hay tại sao Billy Williams, siêu sao bóng chày sống ngay bên Đại lộ Constance gần nhà chúng tôi, lại có cú phát bóng ngọt như vậy từ vị trí phát bóng bên trái. Bên ngoài sân bóng, nước Mỹ đang ở giữa một cuộc chuyển mình quy mô lớn và khó lường. Anh em nhà Kennedy đã chết. Martin Luther King Jr. bị ám sát khi đang đứng diễn thuyết trên ban công tại Memphis, kéo theo một làn sóng bạo loạn trên khắp nước Mỹ, gồm cả Chicago. Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1968 trở thành sự kiện đẫm máu khi cảnh sát mang gậy gộc và hơi cay truy bắt những người phản đối chiến tranh Việt Nam ở công viên Grant, chỉ cách nơi chúng tôi sống khoảng mười bốn cây số vẻ phía bắc. Trong lúc đó, các gia đình da trắng đang ồ ạt rời khỏi thành phố, đến với vùng ngoại ô hấp dẫn với lời hứa hẹn về những ngôi trường tốt hơn, không gian rộng rãi hơn, và hẳn là nhiều người da trắng hơn nữa. Tôi không thật sự có ấn tượng gì với tất cả những điều kể trên. Tôi chỉ là một đứa trẻ, một bé gái còn chơi búp bê Barbie và các khối đồ chơi xếp hình, có cha mẹ và ông anh trai hàng đêm ngủ cách mình chưa đầy một thước. Gia đình là thế giới của tôi, là trung tâm của mọi sự. Mẹ dạy tôi đọc từ sớm, dắt tôi đến thư viện công, ngồi cùng khi tôi đánh vần từng chữ trên trang sách. Mỗi ngày cha tôi đi làm trong bộ đồng phục màu xanh dương của công chức thành phố, nhưng về đêm ông lại dạy chúng tôi biết đến tình yêu nhạc jazz và nghệ thuật. Hồi còn trẻ, cha tôi từng theo học Viện Nghệ thuật Chicago, ông cũng từng vẽ và điêu khắc vào thời trung học. Ông còn là một vận động viên bơi lội và võ sĩ quyền Anh sáng giá ở trường, và đến khi trưởng thành, ông là cổ động viên của mọi môn thể thao phát sóng trên truyền hình, từ giải golf chuyên nghiệp đến giải khúc côn cầu trên băng quốc gia. Ông thích nhìn những con người mạnh mẽ trở nên vượt trội. Khi anh trai tôi, Craig, hứng thú với môn bóng rổ, cha đã đặt các đồng xu trên bậu cửa phòng bếp để anh ấy phải nhảy lên thì mới lấy được. Mọi thứ cần thiết đều nằm trong bán kính năm dãy nhà – ông bà và các anh chị em họ, nhà thờ ở góc đường nơi chúng tôi không phải là học sinh chuyên cần của lớp giáo lý Chủ nhật, cây xăng nơi đôi khi mẹ nhờ tôi đến mua giúp một gói Newports, cửa hàng rượu kiêm nơi bán bánh mì Wonder, kẹo que và sữa. Vào những đêm hè oi bức, anh Craig và tôi ngủ thiếp đi giữa tiếng reo hò của các trận bóng mềm thuộc giải đấu người lớn đang diễn ra tại công viên gần nhà, cũng là nơi mà vào ban ngày chúng tôi thường leo trèo ở khu trò chơi vận động hoặc chơi đuổi bắt với những đứa trẻ khác. Anh Craig lớn hơn tôi chưa tới hai tuổi. Anh có đôi mắt hiền và tinh thần lạc quan của cha, còn tính cách thì cứng rắn như mẹ. Hai anh em tôi luôn thân thiết với nhau, một phần nhờ tình yêu thương bất di bất dịch và có phần không thể lý giải được mà anh ấy dành cho tôi từ lúc tôi mới lọt lòng. Chúng tôi có một bức ảnh gia đình trắng đen chụp từ hồi xưa, bốn người chúng tôi ngồi trên trường kỷ, mẹ mỉm cười bế tôi ngồi trong lòng, gương mặt cha trông nghiêm nghị và tự hào, còn anh Craig thì ngồi trong lòng cha. Chúng tôi ăn mặc chỉn chu để dự thánh lễ hay tiệc cưới gì đó. Lúc đó tôi khoảng tám tháng tuổi, má phúng phính, mặt ngầu, mặc cái quần tã với chiếc đầm trắng ủi tinh tươm, trông như sắp trượt ra khỏi vòng tay của mẹ, mắt nhìn chằm chằm như thể muốn nuốt luôn chiếc máy ảnh. Cạnh tôi là anh Craig, lịch lãm trong chiếc áo vest thắt nơ con, dáng vẻ nghiêm chỉnh. Lúc ấy anh mới hai tuổi nhưng đã thể hiện được sự thận trọng cùng trách nhiệm của người làm anh – anh đưa tay nắm lấy cổ tay mập mạp của tôi với vẻ che chở. Vào thời điểm chụp bức ảnh đó, gia đình tôi sống đối diện dãy nhà của ông bà nội ở Parkway Gardens, một dự án nhà đất với những khu căn hộ theo phong cách tân thời có giá cả phải chăng ở South Side. Công trình được thi công vào những năm 1950 và thiết kế như chung cư, nhằm giảm tình trạng thiếu nhà ở cho các gia đình người da đen thuộc tầng lớp lao động giai đoạn hậu Chiến tranh thế giới thứ hai. Về sau, khu nhà này dần xuống cấp bởi sự nghèo nàn và các băng đảng bạo lực bủa vây, khiến nó trở thành một trong những nơi sinh sống nguy hiểm ở thành phố Chicago. Tuy nhiên, rất lâu trước khi chuyện này diễn ra, khi tôi mới chập chững biết đi, cha mẹ tôi – vốn quen biết nhau từ thuở thiếu niên và kết hôn ở độ tuổi đôi mươi – đã nhận lời chuyển xuống phía nam vài cây số để đến sống cùng ông bà Terry và Robbie trong một khu nhà tử tế hơn. Trên Đại lộ Euclid, hai hộ gia đình chúng tôi cùng sống dưới một mái nhà không lớn lắm. Theo cấu trúc thì không gian ở tầng trên có lẽ đã được thiết kế như căn hộ riêng biệt chỉ dành cho một hoặc hai người, nhưng cả gia đình bốn người chúng tôi đã xoay xở được. Cha mẹ tôi ngủ trong phòng ngủ duy nhất, còn anh Craig và tôi chia nhau một khu rộng hơn mà tôi nghĩ vốn là phòng khách. Sau đó, khi chúng tôi lớn hơn, ông ngoại tôi – Purnell Shields, một thợ mộc dù không lành nghề cho lắm nhưng lại rất yêu nghề – mang về một tấm ván rẻ tiền và dựng lên một vách ngăn tạm để chia căn phòng lớn thành hai gian riêng, ông gắn cửa lùa bằng nhựa cho mỗi gian và chừa một không gian chung nho nhỏ trước cửa để chúng tôi cất đồ chơi và sách vở của mình. Tôi yêu căn phòng của mình. Nó chỉ rộng vừa đủ cho một chiếc giường đôi và bàn học cỡ hẹp. Tôi để toàn bộ thú nhồi bông trên giường, cẩn thận sắp xếp chúng quanh đầu nằm mỗi đêm như một nghi thức dễ chịu. Ở bên kia vách, phòng của anh Craig được sắp xếp gần như đối xứng với phòng tôi, với chiếc giường ngủ kê sát vách ngăn, song song với giường của tôi. Vách ngăn mỏng đến mức anh em tôi có thể trò chuyện với nhau khi nằm trên giường của mình và thường ném quả bóng bằng vớ cuộn tròn qua lại giữa khe hở khoảng hai tấc của vách ngăn và trần nhà. Trong khi đó, bà Robbie khiến không gian sống của mình trông như lăng tẩm. Bàn ghế trong nhà bà được bọc trong màng nhựa bảo vệ khiến chúng trông thật lạnh lẽo và cứ dính vào cẳng chân tôi mỗi khi tôi đủ can đảm ngồi lên. Kệ tủ của bà chưng đầy những bức tượng nhỏ bằng sứ mà chúng tôi không được phép động vào. Tôi thường đưa tay lại gần một bộ tượng chó xù dễ thương bằng thủy tinh – chó mẹ có dáng vẻ hiền lành cùng ba chú chó con nhỏ xíu – rỏi rụt tay lại vì sợ cơn lôi đình của bà Robbie. Những ngày không có lớp dạy đàn thì tầng trệt lặng như tờ. tivi không bao giờ được mở, radio cũng chẳng bật bao giờ. Thậm chí tôi cũng không chắc là hai ông bà có thường trò chuyện với nhau không. Tên đầy đủ của chồng bà Robbie là William Victor Terry, nhưng vì lý do nào đó mà chúng tôi chỉ gọi ông bằng họ Terry, ông Terry giống như cái bóng lặng lẽ, một người đàn ông có cung cách thanh lịch mặc com-lê chỉnh tề vào mọi ngày trong tuần và gần như chẳng bao giờ hé môi. Tôi thường nghĩ nhà trên và nhà dưới tựa như hai thế giới khác nhau với hai bầu không khí hoàn toàn đối lập. Trên lầu, chúng tôi ồn ào và không hề cảm thấy hổ thẹn vì chuyện đó. Craig và tôi chơi ném bóng và rượt đuổi nhau vòng vòng trong nhà. Chúng tôi xịt nước đánh bóng gỗ lên sàn hành lang để có thể trượt xa và nhanh hơn khi mang vớ, và chúng tôi vẫn thường xuyên đâm sầm vào tường. Chúng tôi có những trận đấu quyền Anh giữa anh trai và em gái trong bếp, dùng hai bộ găng mà cha đã tặng vào dịp Giáng sinh cùng với những hướng dẫn riêng cho từng đứa để làm sao tung một cú jab[5] ra hồn. Về đêm, gia đình chúng tôi cùng chơi board game[6], kể chuyện bông đùa với nhau và nghe đĩa nhạc của nhóm The Jackson 5. Khi chịu hết nổi thì bà Robbie nhà duới sẽ dứt khoát tắt rồi bật, rồi lại tắt rồi bật công tắc điện ở cầu thang chung, đồng thời cũng là công tắc điều khiển đèn hành lang tầng trên của chúng tôi – như một cách lịch sự để ra hiệu cho chúng tôi nhỏ tiếng lại. Bà Robbie và ông Terry đã lớn tuổi. Họ lớn lên ở thời đại khác, với những mối bận tâm khác. Họ đã chứng kiến những điều mà cha mẹ tôi chưa từng được chứng kiến – những điều mà hai anh em chúng tôi, ở độ tuổi trẻ con ồn ào của mình, hoàn toàn không thể tưởng tượng được. Đó là những lời mà mẹ tôi sẽ nói nếu chúng tôi bắt đầu làu bàu về sự khó chịu của nhà dưới. Chúng tôi được dạy là dù không biết đến một tình cảnh nào đó thì cũng hây luôn nhớ là nó có tồn tại. Cha mẹ sẽ nói với chúng tôi rằng ai cũng có một quá khứ mà chúng ta không hay biết, và chúng ta nên nhớ điều đó để cảm thông với mọi người. Nhiều năm sau tôi mới biết bà Robbie đã từng kiện Đại học Northwestern tội kỳ thị chủng tộc – bà đăng ký tham gia khóa hợp xướng do trường tổ chức vào năm 1943 và không được phép ở trong ký túc xá nữ. Người ta bảo bà phải thuê phòng trong thị trấn – nơi “dành cho người da màu”. Còn ông Terry từng là nhân viên khuân vác hành lý trên toa hạng sang của một trong những chuyến tàu đêm chở hành khách đi và đến Chicago. Đó là một nghề đáng quý, dù tiền nong chẳng được cao lắm, hoàn toàn được đảm trách bởi những người đàn ông da đen – những người vừa cố giữ cho bộ đồng phục của mình phẳng phiu trong khi khuân vác hành lý, vừa phục vụ bữa ăn và nói chung là phục vụ những nhu cầu của hành khách đi tàu, kể cả đánh giày. Nhiều năm sau khi đã nghỉ hưu, ông Terry vẫn giữ lối sống nghiêm nghị chỉnh tề – ăn mặc chỉn chu, thái độ phục tùng, không bao giờ khẳng định bản thân dưới bất cứ hình thức nào, ít nhất đó là những gì tôi thấy. Như thể ông đã từ bỏ một phần con người mình như một cách ứng phó với hoàn cảnh. Tôi thường thấy ỏng cắt cỏ dưới sân giữa cái nắng hè gay gắt trong đôi giày tây cổ điển, quần dài có dây đeo vai, nón phớt vành mỏng, ống tay áo xắn lên cẩn thận. Ông tự nuông chiều bản thân bằng cách hút đúng một điếu thuốc mỗi ngày và uống đúng một ly cocktail mỗi tháng, và ngay cả khi ấy thì ông cũng không bao giờ buông thả bản thân theo cách cha mẹ tôi vẫn làm mỗi tháng vài lần là nốc một ly rượu pha sô-đa hay một chai bia Schlitz. Một phần nào đó trong tôi muốn ông Terry lên tiếng, bật mí bất cứ bí mật nào ông đang mang theo. Tôi nghĩ ông có đủ thứ chuyện hay ho về những thành phố ông đã đặt chân đến, về cách người giàu cư xử hoặc không biết cư xử trên tàu. Nhưng chúng tôi không hề nghe được chút bí mật nào từ ông. Vì lý do nào đó, ông Terry không bao giờ hé môi. ĐƯỢC KHOẢNG BỐN TUỔI, tôi quyết định học dương cầm. Khi đó anh Craig đang học lớp một. Thỉnh thoảng tôi thấy anh chạy xuống dưới lầu để theo học lớp dương cầm hàng tuần của bà Robbie và vẫn nguyên vẹn trở lên. Vậy nên tôi nghĩ mình đã sẵn sàng. Tôi khá tin là thật ra mình đã học chơi dương cầm bằng cách cảm thụ dần qua biết bao giờ đồng hồ lắng nghe những đứa trẻ khác lóng ngóng tập đàn. Âm nhạc đã nằm sẵn trong đầu tôi. Tôi chỉ muốn xuống dưới và thể hiện cho bà Robbie chuẩn-mực cao của mình thấy là tôi có năng khiếu thế nào và sẽ trở thành học trò cưng của bà mà không tốn nhiều công sức ra sao. Cây dương cầm của bà Robbie được đặt trong một căn phòng nhỏ vuông vức ở cuối nhà, gần ô cửa sổ nhìn ra sân sau. Bà đặt chậu cây ở một góc và chiếc bàn gấp ở góc còn lại để học sinh ngồi điền nhạc phổ. Trong giờ dạy, bà ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế bành lưng cao được bọc nệm, tay gõ nhịp, đầu ngẩng cao trong lúc chăm chú lắng nghe dò lỗi. Tôi có sợ bà Robbie hay không? Không hẳn, nhưng bà có vẻ gì đó đáng dè chừng; bà tượng trưng cho một kiểu uy quyền cứng nhắc mà tôi chưa từng gặp ở nơi nào khác. Bà đòi hỏi mỗi đứa trẻ ngồi trước cây dương cầm của mình phải thật xuất sắc. Tôi xem bà Robbie như một nhân vật để lấy lòng, hay có thể là chinh phục theo cách nào đó. Tôi luôn cảm thấy cần phải chứng tỏ điều gì đó với bà. Trong buổi học đầu tiên, chân tôi đong đưa dưới ghế đàn vì ngắn quá chưa chạm tới sàn nhà. Bà Robbie cho tôi dùng riêng một quyển sách nhạc vỡ lòng – chuyện này khiến tôi mừng rỡ vô cùng – và dạy tôi cách đặt tay lên phím đàn. “Được rồi, hãy tập trung nào”, bà nói, gắt gỏng khi tôi thậm chí còn chưa bắt đầu. “Hãy tìm phím Đô giữa.” Khi bạn còn bé, dương cầm có thể trông như cây đàn ngàn phím. Bạn sẽ nhìn chằm chằm một dải những phím trắng và đen trải dài đến mức hai cánh tay nhỏ của bạn không thể với tới. Tôi nhanh chóng học được phím Đô giữa là cột mốc. Đó là ranh giới giữa khu vực dành cho tay phải và tay trái, giữa khóa Sol và khóa Fa. Nếu bạn có thể đặt ngón cái lên phím Đô giữa, mọi thứ khác rồi sẽ tự động đâu vào đó. Các phím trên cây đàn của bà Robbie có chút không đồng đều về màu sắc và hình dáng, vài phím bị sứt mẻ đôi chỗ theo thời gian, khiến chúng trông như một hàm răng xấu xí. Thật may, phím Đô giữa lại khuyết hẳn một góc to gần bằng đầu móng tay tôi, điều này giúp tôi luôn tìm được vị trí trung tâm. Hóa ra tôi thích dương cầm. Việc ngồi đàn cho tôi cảm giác rất tự nhiên, như thể đó là chuyện dành cho tôi. Gia đình tôi có nhiều nhạc công và những người yêu nhạc, đặc biệt là bên nhà ngoại. Tôi có người cậu chơi trong ban nhạc chuyên nghiệp. Vài người dì của tôi hát trong các dàn đồng ca nhà thờ. Tôi có bà Robbie, người còn đứng ra chỉ đạo một chương trình đào tạo mang tên Lớp Operetta – một chương trình âm nhạc sân khấu giá rẻ dành cho trẻ em mà anh Craig và tôi cùng tham gia vào mỗi sáng thứ Bảy ở tầng hầm nhà thờ – bên cạnh việc dạy đàn và tham gia dàn hợp xướng. Tuy nhiên, tâm điểm âm nhạc của cả nhà chính là ông ngoại Shields, người thợ mộc, vốn là em trai bà Robbie. Ông là người vô lo, bụng phệ, có tràng cười dễ khiến người ta vui lây và chòm râu muối tiêu. Hồi tôi còn bé xíu, ông sống ở khu West Side, và anh em chúng tôi gọi ông là ông Westside. Nhưng ông dọn vào khu chúng tôi sống cùng năm tôi bắt đầu theo học đàn, và chúng tôi đã đổi tên ông thành ông Southside cho đúng kiểu. Ông Southside ly thân với bà ngoại tôi từ nhiều thập kỷ trước, khi mẹ tôi còn đang trong độ tuổi teen. Ông sống với bác Carolyn – chị cả của mẹ tôi – và cậu út Steve trong căn nhà nhỏ một tầng cách chúng tôi hai dãy nhà, nơi ông mắc dây nhợ từ trên xuống dưới để thưởng thức nhạc, gắn loa trong mọi căn phòng, kể cả nhà tắm. Trong phòng ăn, ông đóng một bộ tủ kệ công phu để đặt các thiết bị nghe nhạc của mình, đa phần được ông “đào” từ các sự kiện bán hàng đã qua sử dụng. Ông có hai bàn xoay nghe đĩa than không đồng bộ, cộng với một máy nghe “băng cối” cũ cọc cạch và những hàng kệ chất đầy đĩa nhạc mà ông đã dày công sưu tập suốt nhiều năm. Có rất nhiều điều mà ông Southside không tin tưởng, ông là kiểu người già theo thuyết âm mưu kinh điển, ông không tin nha sĩ, điều này khiến ông gần như chẳng còn cái răng nào. Ông không tin cảnh sát. Và vốn là cháu trai của một nô lệ ở Georgia từng trải qua thời thơ ấu ở Alabama trong giai đoạn các đạo luật phân biệt chủng tộc Jim Crow được ban hành trước khi chuyển lên phía bắc đến Chicago vào những năm 1920, không phải lúc nào ông cũng tin người da trắng. Khi có con, ông Southside tìm mọi cách để giữ cho chúng an toàn – đe dọa chúng bằng những câu chuyện có thật và hư cấu về những gì có thể xảy ra với trẻ da đen lỡ bước vào khu vực không thích hợp, và dạy chúng cách tránh né cảnh sát. Âm nhạc dường như là liều thuốc an thần của ông, một cách để ông thư giãn và giải tỏa muộn phiền. Khi được trả tiền làm mộc, thỉnh thoảng ông Southside sẽ vung tiền tự sắm cho mình một album nhạc mới. Ông thường xuyên tổ chức tiệc tùng cho cả nhà, buộc mọi người phải nói thật lớn tiếng trên bất kỳ loại nhạc nền nào mà ông đang mở trên dàn âm thanh nổi, vì tiếng nhạc đó luôn lấn át mọi thứ. Chúng tôi ăn mừng hầu hết các sự kiện lớn trong đời ở nhà ông Southside, đồng nghĩa với việc suốt nhiều năm chúng tôi mở quà Giáng sinh trên nền nhạc Ella Fitzgerald[7] và thổi nến sinh nhật giữa tiếng saxophone của Cokrane[8]. Theo lời mẹ tôi, hồi còn trẻ ông Southside đã quyết tâm nhồi nhét nhạc jazz vào đầu bảy đứa con của mình, bằng cách thường xuyên vặn đĩa hát lớn hết cỡ để đánh thức cả nhà dậy lúc mặt trời mọc. Tình yêu âm nhạc của ông đả lan tỏa đến những người khác. Khi ông Southside dọn đến khu nhà chúng tôi, tôi thường dành trọn những buổi chiều ở nhà ông, chọn ngẫu nhiên các album nhạc trên kệ rồi đặt vào dàn máy, mỗi album là một chuyến phiêu lưu đắm say. Mặc dù tôi còn nhỏ nhưng ông không hề cấm tôi đụng vào đồ đạc trong nhà. Về sau ông còn mua cho tôi chiếc đĩa nhạc đầu tiên trong đời, album Talking Book của Stevie Wonder, mà tôi để ở nhà ông, trên chiếc kệ được ông dành riêng cho những đĩa hát tôi yêu thích. Nếu tôi đói, ông sẽ pha cho tôi một ly sữa lắc hay chiên cả con gà trong lúc hai ông cháu nghe Aretha[9], Miles[10] hoặc Billie[11]. Với tôi, nhà ông Southside lớn tựa thiên đường. Và thiên đường, như tôi hình dung, phải là một nơi đầy nhạc jazz. Ở NHÀ, tôi tiếp tục tập luyện để trở thành nhạc công. Ngồi trước cây dương cầm đứng của bà Robbie, tôi nhanh chóng nắm được các thang âm – quá trình học thẩm thấu kia là có thật – và tôi lao vào thị tấu[12] những bản nhạc mà bà đưa cho. Vì không có đàn riêng nên tôi phải chờ đến khi không còn học viên nào ở nhà dưới để tập luyện trên cây đàn của bà Robbie – tôi thường lôi kéo mẹ đi với mình và đề nghị mẹ ngồi lên chiếc ghế bành bọc nệm để nghe tôi tập đàn. Tôi học hết bản này tới bản khác trong sách dạy dương cầm. Chắc chắn tôi không giỏi hơn những học viên khác của bà Robbie, cũng không đỡ vụng về hơn là bao, nhưng tôi rất quyết tâm. Với tôi, chuyện học đàn như có ma lực. Quá trình này khiến tôi luôn có cảm giác hưng phấn và thỏa mãn. Bởi lẽ tôi nhận ra mối tương quan đơn giản, đầy khích lệ giữa thời gian tập luyện và thành quả đạt được. Ngoài ra, tôi cũng cảm nhận được điều gì đó từ bà Robbie – tuy bà kiềm lại không thể hiện rõ ràng – nhưng có một cái gì đó tươi vui nhẹ nhàng tỏa ra từ bà mỗi khi tôi hoàn thành một bản nhạc mà không mắc lỗi, khi tay phải của tôi đánh lên một giai điệu còn tay trái nhấn đúng một hợp âm. Tôi nhận ra điều đó khi lén nhìn bà: môi của bà bớt mím chặt và ngón tay gõ nhịp sẽ nảy cao hơn một chút. Hóa ra đây là giai đoạn tốt đẹp nhất của hai chúng tôi. Hẳn là bà Robbie và tôi đã có thể tiếp tục như thế nếu tôi bớt tò mò và tôn trọng phương pháp dạy đàn của bà hơn. Thế nhưng sách quá dày và quá trình học những bài vỡ lòng kéo dài quá lâu đến mức tôi trở nên thiếu kiên nhẫn và bắt đầu lén đọc trước những bài học sau – không chỉ trước vài trang mà là đọc hẳn cả phần sau của quyển sách, xem những bản nhạc nâng cao và bắt đầu mất tập trung đối với các bài tập chính và thay vào đó là lan man tập đánh những bản nhạc này. Khi tôi tự hào biểu diễn một trong những bản nhạc nằm-ở phần-sau- quyển-sách cho bà Robbie nghe, bà nổi giận, đập tan thành tựu của tôi bằng câu “Chúc ngủ ngon!” cay nghiệt. Tôi bị la hệt như cái cách tôi từng nghe bà la rất nhiều học viên trước đó. Tôi chỉ cố học nhiều hơn và nhanh hơn, nhưng bà Robbie xem việc đó như một trọng tội, giống như tội mưu phản. Bà không hề ấn tượng với nỗ lực của tôi, một chút cũng không. Tôi cũng không dễ gì bỏ cuộc. Tôi là kiểu trẻ con muốn có câu trả lời rõ ràng cho những thắc mắc của mình, thích lý giải sự việc cho ra lẽ, muốn tìm hiểu mọi thứ đến tận cùng. Tôi có dáng vẻ của một luật sư và cũng có xu hướng độc tài, theo lời chứng thực của anh trai tôi, người thường bị yêu cầu rời khỏi khu vực vui chơi chung của chúng tôi. Khi nghĩ mình có một ý tưởng hay ho nào đó, tôi không thích bị từ chối. Đó là lý do bà Robbie và tôi đối đầu nhau, cả hai đều nóng nảy và không khoan nhượng. “Sao bà lại nổi giận vì cháu muốn tập một bản nhạc mới vậy ạ?” “Cháu chưa sẵn sàng. Đó không phải là cách học đàn dương cầm.” “Nhưng cháu đã sẵn sàng rồi mà. Cháu vừa đánh bài đó đấy thôi.” “Đó không phải là cách học đúng.” “Nhưng tại sao cơ ạ?” Giờ học đàn trở nên dài đằng đẵng và mệt mỏi, chủ yếu vì tôi không chịu tuân thủ phương pháp được dạy, còn bà Robbie thì phủ nhận những ưu điểm trong phương pháp học tự do của tôi dành cho giáo trình âm nhạc của bà. Theo tôi nhớ thì hai bà cháu cứ đôi co từ tuần này sang tuần khác. Tôi ương bướng, còn bà thì cố chấp. Tôi có quan điểm cá nhân, bà cũng thế. Giữa những cuộc tranh cãi, tôi tiếp tục chơi đàn, bà tiếp tục lắng nghe và chỉnh sửa. Tôi không mấy công nhận công sức của bà đối với sự tiến bộ trong “sự nghiệp” âm nhạc của tôi. Bà không mấy công nhận sự tiến bộ của tôi. Dẫu vậy, những bài học vẫn tiếp tục diễn ra. Ở lầu trên, cha mẹ tôi và anh Craig thấy mọi chuyện thật buồn cười. Họ cười ngặt nghẽo trong giờ ăn tôi khi tôi kể lại những trận chiến giữa mình và bà Robbie, và họ vẫn tiếp tục phấn khích bàn về chuyện đó trong lúc tôi đang ăn món mì Ý với thịt viên. Anh Craig – vốn là một người hoạt bát, một học viên tuân thủ nguyên tắc và nỗ-lực- vừa-đủ trong lớp dương cầm hoàn toàn không có vấn đề gì với bà Robbie. Cha mẹ tôi không bày tỏ chút cảm thông nào với các nỗi khổ của tôi lẫn của bà Robbie. Nhìn chung, họ không phải là các bậc phụ huynh hay can thiệp vào những chuyện ngoài chuyện học hành trong trường, vì ngay từ sớm họ kỳ vọng rằng anh em tôi nên tự giải quyết chuyện riêng của mình. Dường như cha mẹ tôi coi nhiệm vụ ở nhà của mình là lắng nghe và động viên chúng tôi khi cần thiết. Và trong khi những bậc phụ huynh khác có thể sẽ la rầy khi con mình lời qua tiếng lại với người lớn, như tôi đã làm, thì cha mẹ tôi lại chấp nhận chuyện đó. Mẹ tôi đã có những khoảng thời gian sống cùng bà Robbie từ năm mười sáu tuổi, phải tuân theo mọi quy tắc khó dò mà bà đặt ra, và biết đâu mẹ cũng vui thầm khi thấy quyền lực của bà Robbie bị thách thức. Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ cha mẹ đã tôn trọng tính cương quyết của tôi, và tôi mừng vì điều đó. Họ gìn giữ ngọn lửa nhiệt tình trong tôi. MỖI NĂM MỘT LẦN, bà Robbie tổ chức một buổi biểu diễn hoành tráng để học viên của mình có thể trực tiếp trình diễn trước khán giả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không rõ bà đã xoay xở thế nào, nhưng bằng cách nào đó bà đã được phép sử dụng một phòng tập ở Đại học Roosevelt tại trung tâm Chicago, tổ chức các buổi biểu diễn của mình trong một tòa nhà bằng đá bề thế tọa lạc trên Đại lộ Michigan, ngay cạnh nơi Dàn nhạc Giao hưởng Chicago trình diễn. Chỉ nghĩ đến việc đi đến đó thôi đã khiến tôi hồi hộp. Căn hộ của chúng tôi nằm trên Đại lộ Euclid, cách phía nam của khu Chicago Loop[13] khoảng mười bốn cây số, nơi những tòa nhà chọc trời tráng lệ và những lối đi bộ đông kín người khiến tôi cảm thấy như một thế giới khác. Mỗi năm, gia đình tôi đi vào trung tâm thành phố chỉ vài lần, chủ yếu để tham quan Học viện Nghệ thuật hoặc để xem kịch. Một nhà bốn người chúng tôi di chuyển như những phi hành gia trong khoang tàu vũ trụ bốn bánh hiệu Buick của cha tôi. Cha tôi thích tất cả những dịp được lái xe. Ông rất sốt sắng với chiếc xe của mình, chiếc Buick Elecưa 225 hai cửa màu đồng mà ông tự hào gọi là “con Deuce and a Quarter”[14]. Ông thường xuyên đánh sáp để nó luôn bóng loáng và hết sức “chấp hành” lịch bảo dưỡng định kỳ – ông đem xe đến cửa hàng Sears[15] để đảo lốp và thay dầu hệt cách mẹ tôi đưa hai anh em tôi đi khám sức khỏe định kỳ. Chúng tôi cũng yêu thích chiếc Buick đó. Đường nét mềm mại và thiết kế đèn đuôi xe hẹp khiến nó trông tính tế và hiện đại. Xe rộng rãi đủ để khiến chúng tôi thấy thoải mái như ngồi trong nhà. Tôi thậm chí có thể đứng thẳng trong xe, lần bàn tay theo trần xe bọc vải. Hồi đó việc gài dây an toàn chưa bị bắt buộc, thế nên phần lớn thời gian trong xe, anh Craig và tôi sẽ lăn lộn ở băng ghế sau, nhoài người lên băng ghế trước khi muốn nói chuyện với cha mẹ. Thường thì tôi sẽ chồm lên chỗ tựa đầu của ghế tài xế và đưa cằm ra phía trước để mặt mình kề sát mặt của cha và chúng tôi sẽ có cùng một góc nhìn. Chiếc xe mang lại cho gia đình chúng tôi một kiểu gần gũi khác, một dịp để vừa trò chuyện vừa đi du lịch cùng nhau. Những buổi tối sau khi dùng bữa xong, anh Craig và tôi thỉnh thoảng sẽ nài nỉ cha chở chúng tôi đi dạo một vòng. Để tự thết đãi vào những đêm hè, chúng tôi sẽ đến một bãi chiếu bóng phục vụ khách ngồi trong ô-tô ở khu vực phía tây nam nhà mình để xem loạt phim Hành tinh khỉ, đậu chiếc Buick giữa trời nhá nhem và ổn định chỗ ngồi để xem phim. Mẹ sẽ đưa gà chiên và khoai tây cắt lát mà bà mang từ nhà cho từng người chúng tôi, anh Craig và tôi sẽ lấy đùi mình làm bàn ăn ở băng ghế sau, cẩn thận lau tay bằng khăn giấy chứ không quẹt lên ghế. Phải nhiều năm sau tôi mới hiểu hết ý nghĩa của việc lái xe đối với cha. Hồi bé tôi chỉ có thể cảm nhận được điều đó – sự tự do mà ông cảm thấy khi ngồi sau vô-lăng, niềm vui ông có được khi động cơ chạy êm ru và bốn bánh xe cân bằng hoàn hảo bon bon dưới chân. Trong độ tuổi ba mươi, ông được bác sĩ thông báo rằng sự suy yếu bất thường mà ông mới nhận thấy ở một chân chỉ là khởi đầu của quá trình kéo dài và đau đớn dẫn đến tình trạng tê liệt; rằng nhiều khả năng một ngày nào đó, do sự tổn thương bí ẩn nào đó của các tế bào thần kinh ở não và tủy sống, ông sẽ không còn bước đi được nửa. Tôi không biết thời điểm chính xác, nhưng dường như chiếc Buick đã đến với ông gần như cùng lúc với căn bệnh đa xơ cứng. Và dù ông chưa bao giờ nói ra, nhưng hẳn là ông cảm thấy được xoa dịu hơn mỗi khi lái xe. Chẩn đoán đó không khiến cha mẹ tôi quá lo lắng hay ám ảnh. Lúc đó chúng tôi vẫn còn cách xa thời đại mà một lệnh tìm kiếm đơn giản trên Google có thể mang lại một loạt biểu đồ, số liệu thống kê và giải thích y khoa phức tạp khiến người ta hy vọng hoặc thất vọng. Tôi đoán cha cũng không muốn xem những thông tin đó. Dù theo đạo nhưng ông sẽ không cầu xin Chúa tha chết cho mình. Ông cũng không tìm kiếm phương thức chữa trị khác, không tìm kiếm chuyên gia, càng không tìm lỗi di truyền nào đó để oán trách. Gia đình chúng tôi có một thói quen lâu đời là chặn đứng tin xấu, cố gắng quên nó ngay khi vừa được thông báo. Không ai biết cha tôi đã cảm thấy khó chịu bao lâu trước khi ông tự đi khám bệnh, nhưng tôi đoán là ông đã chịu đựng hàng tháng, thậm chí hàng năm trời. Ông không thích những cuộc hẹn khám sức khỏe. Ông không ưa than thở. Ông là kiểu người chấp nhận những gì xảy ra và cứ thế tiếp tục cuộc sống của mình. Điều tôi biết là vào ngày biểu diễn piano trọng đại của tôi, ông đã bước hơi loạng choạng, chân trái không thể bắt kịp chân phải. Tất cả ký ức của tôi về cha luôn bao gồm những biểu hiện của khuyết tật này, ngay cả khi lúc đó chưa ai trong số chúng tôi sẵn sàng gọi đó là khuyết tật. Khi đó tôi chỉ biết cha mình di chuyển hơi chậm hơn những người cha khác. Đôi khi tôi thấy ông khựng lại trước khi bước lên bậc thang, như thể cần phải nghĩ qua một lượt cách làm trước khỉ thực hành vậy. Khi gia đình chúng tôi đi mua sắm ở trung tâm thương mại, ông sẽ ngồi trên ghế đá, hài lòng ngồi trông chừng mấy túi đồ hoặc chợp mắt một chút trong lúc ba thành viên còn lại lang thang mua sắm. Trên đường vào trung tâm thành phố để tham gia buổi trình diễn, tôi ngồi ở ghế sau chiếc Buick, mặc chiếc đầm xinh xắn, mang giày da bóng, tóc tết bím, và lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là đổ mồ hôi lạnh. Mặc dù đã luyện tập nhừ tử ở nhà trong căn hộ của bà Robbie, tôi vẫn lo lắng về màn biểu diễn. Anh Craig cũng mặc com-lê chỉnh tề và chuẩn bị bài biểu diễn của mình. Nhưng anh không lo lắng. Thực tế là anh ấy ngủ ngon lành đến mức không còn biết trời trăng gì ở băng ghế sau, miệng há hốc, hoàn toàn thoải mái và vô lo. Anh Craig là vậy. Cả đời tôi vẫn luôn ngưỡng mộ sự thư thái của anh. Khi đó anh đang tham gia mùa giải bóng rổ Biddy có lịch thi đấu vào mỗi cuối tuần và rỏ ràng là anh đã chế ngự được nỗi sợ mỗi khi trình diễn. Cha tôi thường đậu xe ở gần nơi muốn đến nhất có thể, chấp nhận trả thêm tiền đậu xe để giảm thiểu quãng đường phải đi trên đôi chân không vững của mình. Hôm đó chúng tôi dễ dàng tìm được Đại học Roosevelt và đi đến nơi sẽ diễn ra buổi trình diễn, một khán phòng có vẻ rất lớn và vọng âm. Tôi cảm thấy mình vô cùng bé nhỏ khi ở trong đó. Căn phòng có những ô cửa sổ thanh nhã cao chạm trần nhìn ra những bãi cỏ rộng của Công viên Grant và xa xa là những con sóng bạc đầu của Hồ Michigan. Những dãy ghế màu xám kim loại ngay hàng thẳng lối dần dần được lấp đầy bởi những đứa trẻ đang hồi hộp và những bậc phụ huynh mang đầy kỳ vọng. Và ở phía sân khấu, trên bục cao, là hai cây đại dương cầm loại nhỏ đầu tiên tôi từng thấy, nắp đàn bằng gỗ cứng được chống lên trông như hai cánh chim đen tuyền khổng lồ. Bà Robbie cũng có mặt ở đó, bận rộn tới lui trong bộ đầm họa tiết đơm hoa tựa như nữ hoàng của vũ hội – dù là nữ hoàng có hơi “cứng” một tí – để đảm bảo tất cả học sinh của mình đã đến đủ và đều cầm nhạc phổ trong tay. Bà ra hiệu cho khán phòng im lặng khi đến giờ mở màn. Tôi không nhớ thứ tự các tiết mục của ngày hôm đó. Tôi chỉ nhớ khi đến lượt mình, tôi đã đứng dậy và đi lên sân khấu với dáng vẻ hoàn hảo nhất, bước lên bậc thang và ngồi trước một trong hai cây đại dương cầm nhỏ sáng bóng. Thực tế là tôi đã sẵn sàng. Dù vẫn cảm thấy bà Robbie nóng tính và cứng nhắc, nhưng tôi cũng tiếp thu sự tận tụy hết mình của bà. Tôi thuộc bản nhạc làu làu đến mức không phải nghĩ ngợi gì về nó nữa. Tôi chỉ cần bắt đầu di chuyển đôi tay. Vậy mà lại có vấn đề, một vấn đề mà tôi phát hiện ngay khi nhấc những ngón tay nhỏ của mình lên phím đàn. Tôi đang ngồi trước một cây dương cầm hoàn hảo, được lau chùi kỹ lưỡng, lên dây chính xác, tám mươi tám phím trải ra như một dải ruy-băng trắng đen hoàn mỹ. Vấn đề là tôi không quen với sự hoàn hảo. Trên thực tế, tôi chưa từng gặp được sự hoàn hảo trong đời mình. Kinh nghiệm đánh đàn của tôi hoàn toàn đến từ phòng học nhạc bé xíu trong nhà bà Robbie, nơi có chậu cây lưa thưa và cửa sổ nhìn ra khoảnh sân sau khiêm tốn của chúng tôi. Nhạc cụ duy nhất mà tôi từng chơi là cây dương cầm đứng không-hoàn-hảo của bà, với những phím đàn ngả màu phát ra tiếng kim và phím Đô giữa bị mẻ một cách khá tiện lợi. Đối với tôi, đó chính là dương cầm – giống như khu tôi sống chính là khu tôi sống, cha tôi chính là cha tôi, cuộc sống của tôi là cuộc sống của tôi. Đó là tất cả những gì tôi từng biết. Bỗng nhiên giờ đây tôi nhận thức được là người ta đang ngồi dưới khán đài nhìn tôi ngó chằm chằm vào những phím đàn sáng bóng, không tìm thấy bất kỳ điều gì ngoài sự giống nhau như tạc. Tôi không biết phải đặt tay mình vào đâu. Cổ họng nghẹt lại và tim đập thình thịch, tôi nhìn về phía khán giả, cố gắng che giấu sự hoảng loạn của mình và tìm kiếm gương mặt của mẹ để được trấn an. Thay vào đó, tôi thoáng thấy ai đó đứng lên từ hàng ghế đầu và chầm chậm tiến về phía tôi. Đó là bà Robbie. Chúng tôi đã có nhiều trận cãi nhau âm ĩ, đến mức tôi có chút xem bà như kẻ địch. Nhưng lúc này đây, khi tôi sắp bị chê trách, bà Robbie đến bên tôi như một thiên sứ. Có lẽ bà hiểu nỗi bàng hoàng của tôi. Có lẽ bà biết sự khác biệt của thế giới vừa âm thầm mở ra trước mắt tôi lần đầu tiên. Hoặc cũng có thể bà chỉ đơn giản là cần đốc thúc mọi việc. Dù sao đi nữa, bà Robbie đã im lặng và nhẹ nhàng đặt một ngón tay lên phím Đô giữa để tôi biết phải bắt đầu từ đâu. Sau đó bà quay trở về chỗ với nụ cười khích lệ khẽ nhất có thể. Tôi bắt đầu trình diễn bản nhạc của mình. 2 TÔI BẮT ĐẦU HỌC MẪU GIÁO TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC BRYN MAWR(1) mùa thu năm 1969, với lợi thế kép là đã biết đọc những chữ cơ bản và có một ông anh trai học lớp hai rất được quý mến. Trường chúng tôi là một tòa nhà bốn tầng bằng gạch có sân trước và chỉ cách nhà chúng tôi ở Đại lộ Euclid vài ba dãy nhà. Đi từ nhà đến trường chỉ mất chừng hai phút đi bộ, hoặc nếu chạy như anh Craig thì chỉ mất một phút. Tôi thích ngôi trường này ngay khi bước vào. Tôi thích cô giáo, một phụ nữ da trắng dáng vẻ nhỏ nhắn tên Burroughs. Đối với tôi thì cô rất lớn tuổi nhưng thực tế thì lúc đó cô chỉ mới khoảng năm mươi. Lớp học của cô có những ô cửa sổ cỡ lớn đón nắng, một bộ sưu tập búp bê cho chúng tôi chơi và một ngôi nhà búp bê khổng lồ bằng giấy bìa cứng ở cuối phòng. Tôi làm quen với bạn học, bị thu hút bởi những đứa trẻ cũng có vẻ háo hức được ở trường như tôi. Tôi tự tin vào khả năng đọc của mình. Ở nhà, nhờ thẻ thư viện của mẹ mà tôi đã cày nát những quyển Dick and Jane, và vì vậy tôi mừng rơn khi biết nhiệm vụ đầu tiên ở lớp mẫu giáo là học cách đọc bằng mắt những bộ từ mới. Chúng tôi được học một loạt màu sắc, không phải sắc độ mà tên gọi của chúng – “màu đỏ”, “màu xanh dương”, “màu xanh lá”, “màu đen”, “màu cam”, “màu tím”, “màu trắng”. Trên lớp, cô Burroughs cầm những tấm thẻ giấy manila trên tay và đố lần lượt từng học sinh, yêu cầu chúng tôi đọc bất cứ từ nào được in bằng mực đen trên mặt trước của tấm thẻ. Một ngày nọ tôi quan sát những bạn nam và bạn nữ mà mình đang bắt đầu thân quen đứng lên và đọc những tấm thẻ, tùy vào độ khó mà chữ được chữ không, và bị bắt ngồi xuống khi không đọc được từ nào đó. Tôi nghĩ việc này là một phần của trò chơi, giống như Trò đánh vần vậy, nhưng bạn có thể loáng thoáng thấy một sự phân loại nào đó đang diễn ra và cảm giác bị dè bỉu thấy rõ nơi những đứa trẻ không thể đọc được thẻ “màu đỏ”. Dĩ nhiên, đó là năm 1969, ở một trường công khu South Side thành phố Chicago. Không ai nói về lòng tự trọng hay tư duy phát triển. Nếu được học trước ở nhà, bạn sẽ được khen thưởng ở trường, được cho là học sinh “sáng láng” hoặc “có năng khiếu”, và điều này sẽ củng cố sự tự tin trong bạn. Các lợi thế nhanh chóng phát huy. Hai đứa trẻ thông minh nhất trong lớp mẫu giáo của tôi là Teddy, một cậu bé người Mỹ gốc Hàn, và Chiaka, một cô bé người Mỹ gốc Phi, cả hai vẫn duy trì thứ hạng đầu trong lớp suốt nhiều năm sau đó. (1) Nguyên văn là “Elementary School”, trường tiểu học bao gồm cả chương trình mẫu giáo. Tôi quyết tâm phải đuổi kịp hai người bạn đó. Khi tới lượt mình đọc những tấm thẻ, tôi đứng dậy và cố gắng thể hiện hết sức, đọc một mạch “màu đỏ”, “màu xanh lá” và “màu xanh dương” thật trôi chảy. Nhưng tôi hơi khựng lại ở “màu tím”, và “màu cam” thật khó đọc. Nhưng phải đến khi từ T-R-Ắ N-G xuất hiện thì tôi mới cứng cả người, cổ họng tôi lập tức khô khốc, miệng tôi có cảm giác kỳ lạ và không sao đọc đúng khẩu hình trong lúc não tôi đang gặp sự cố nghiêm trọng, ra sức cố gắng đào bới ra một màu giống với màu “ch-áng”. Tôi chết lặng. Tôi cảm thấy đầu gối lòng khòng một cách kỳ lạ, như thể hai khớp sẽ long ra. Nhưng trước khi chuyện đó xảy ra, cô Burroughs đã yêu cầu tôi ngồi xuống. Và đó chính là lúc tôi nhận ra từ trên tấm thẻ, trọn vẹn và đơn giản. Trắng. Trắắắng. Đó là từ “trắng”. Đêm hôm đó, khi nằm trên giường với những con thú nhồi bông xếp quanh đầu giường, tôi chỉ nghĩ đến “màu trắng”. Tôi đánh vần nó trong đầu, xuôi rồi lại ngược, tự trừng phạt bản thân vì sự ngu ngốc của mình. Sự xấu hổ nặng ngàn cân, như một thứ tôi không bao giờ rũ bỏ được, mặc dù tôi biết cha mẹ sẽ không bận tâm xem tôi có đọc đúng hết các thẻ hay không. Tôi chỉ muốn thành tựu. Hoặc có thể tôi không muốn bị xem là không có khả năng đạt được thành tựu. Tôi đã chắc mẩm là khi đó cô giáo nghĩ tôi không biết đọc, hoặc tệ hơn, không chịu cố gắng. Tôi bị ám ảnh bởi những ngôi sao nhũ vàng có kích thước bằng đồng xu mà cô Burroughs đã thưởng cho Teddy và Chiaka hôm đó, để cả hai đeo lên ngực như sự công nhận thành tích đã đạt được, hoặc đó có thể là dấu hiệu cho thấy chúng được đánh giá là xuất sắc, còn những học sinh còn lại như chúng tôi thì không. Cả hai người họ đã đọc được hết những tấm thẻ mà không hề vấp váp. Sáng hôm sau vào lớp, tôi xin cô cho làm lại. Khi cô Burroughs từ chối, vui vẻ nói thêm là học sinh mẫu giáo chúng tôi còn nhiều thứ khác để làm, tôi vẫn đề nghị cô cho tôi làm lại. Đáng thương cho những đứa trẻ phải xem tôi đối đầu với những tấm thẻ lần thứ hai. Lần này tôi chậm rãi hơn, cố tình dừng lại sau khi đánh vần xong mỗi từ để hít thở, không để sự hồi hộp làm đoản mạch bộ não của mình. Và cách đó có hiệu quả, cho cả “màu đen”, “màu cam”, “màu tím” và đặc biệt là “màu trắng”. Tôi thật sự đã đọc ra từ “màu trắng” trước cả khi nhìn thấy những chữ đó trên thẻ. Tôi thích nghĩ đến cảnh cô Burroughs ấn tượng ra sao với cô bé da đen có đủ can đảm để chứng tỏ bản thân. Tôi không biết Teddy và Chiaka có để ý chuyện này hay không. Dù sao đi nữa thì tôi đã nhanh chóng nhận chiến lợi phẩm của mình khi về nhà vào trưa hôm đó với cái đầu ngẩng cao và một ngôi sao nhũ vàng cài trên áo. Ở NHÀ, tôi sống trong một thế giới đầy kịch tính và âm mưu, đắm chìm trong một bộ phim truyền hình dài tập không ngừng diễn biến của những con búp bê. Có sinh sôi, đối đầu và phản bội. Có hy vọng, thù ghét và đôi khi là tình dục. Cách giết thời gian ưa thích của tôi từ lúc tan học đến trước giờ ăn tôi là ở lì trong khu vực chung ngay trước phòng riêng của hai anh em và bày búp bê Barbie ra sàn, dựng ra những kịch bản mà tôi cảm thấy thật chẳng kém gì ngoài đời, đôi khi còn cho thêm những mô hình nhân vật trong biệt đội G.I. Joe của anh Craig vào cốt truyện. Tôi giữ quần áo búp bê trong chiếc vali nhựa có họa tiết hoa lá dành cho trẻ con. Tôi gán cho từng cô Barbie và từng nhân vật G.I. Joe một tính cách riêng. Tôi còn trưng dụng những khối chữ cái mòn vẹt mà mẹ từng dùng để dạy anh em chúng tôi đọc chữ nhiều năm trước. Những khối chữ này cũng được đặt tên và trao cho cuộc đời riêng. Tôi ít khi chủ động tham gia cùng những đứa trẻ hàng xóm chơi đùa bên ngoài sau giờ học, cũng ít khi mời bạn học về nhà chơi, một phần vì tôi là đứa khó tính và không muốn ai đụng chạm búp bê của mình. Tôi từng sang nhà những đứa con gái khác và chứng kiến những cảnh vô cùng kinh dị – búp bê Barbie bị tước phăng mái tóc hoặc có khuôn mặt bị vẽ nguệch ngoạc bằng bút lông. Và một điều tôi học được ở trường chính là mối quan hệ của những đứa trẻ có thể rối beng. Cho dù bạn thấy cảnh tượng ngọt ngào nào đang diễn ra ở sân chơi, đằng sau chúng sẽ là sự chuyên chế của hệ thống cấp bậc và bè phái thường xuyên đổi chiều. Có những nàng công chúa, kẻ bắt nạt và người theo đuôi. Tôi không nhút nhát, nhưng tôi không chắc là mình cần rước đống lộn xộn đó vào cuộc sống ngoài giờ học. Thay vào đó, tôi dồn năng lượng vào việc trở thành lực lượng nắm quyền duy nhất trong vũ trụ sân-chơi-chung nho nhỏ của mình. Nếu anh Craig xuất hiện và cả gan dịch chuyển dù chỉ một khối nhựa, tôi sẽ bắt đầu gào lên. Tôi cũng không ngại đánh nhau với anh ấy khi cần thiết – thường là một cú đấm thẳng vào giữa lưng. Vấn đề là những con búp bê và những khối nhựa cần được tôi trao cho sự sống, và tôi đã rất có trách nhiệm trao cho chúng điều đó, gây ra hết cuộc khủng hoảng cá nhân này đến cuộc khủng hoảng khác. Như bất cứ vị thần tử tế nào, tôi ở bên cạnh để xem chúng đau khổ và trưởng thành. Trong khi đó, từ cửa sổ phòng ngủ tôi có thể quan sát hầu hết mọi tình hình thực tế đang diễn ra tại dãy nhà của mình trên Đại lộ Euclid. Vào những buổi chiều muộn, tôi nhìn thấy ông Thompson, một người Mỹ gốc Phi cao lớn sở hữu tòa nhà có ba căn hộ bên kia đường, đặt cây ghi-ta bass to tướng lên chiếc Cadillac, chuẩn bị đi diễn ở một câu lạc bộ nhạc jazz nào đó. Tôi cũng nhìn thấy những thành viên nhà Mendoza, gia đình người Mexico sống cạnh bên, về nhà trong chiếc xe tải chất đầy thang sau một ngày dài sơn vẽ các ngôi nhà, và được những chú chó của họ sủa inh ỏi đón chào ngay từ hàng rào. Khu chúng tôi sống thuộc tầng lớp trung lưu và đa sắc tộc, bọn trẻ chọn bạn không dựa vào màu da, mà dựa vào việc đứa nào đang ở ngoài đường và sẵn lòng chơi chung. Bạn bè tôi gồm một cô gái tên Rachel, có mẹ là người da trắng và nói giọng Anh; Susie, cô gái tóc đỏ và xoăn; và cháu gái nhà Mendoza mỗi khi nó đến chơi. Chúng tôi có những cái họ pha lẫn từ nhiều xuất xứ – Kansopant, Abuasef, Yacker, Robinson – và chúng tôi cũng còn quá nhỏ nên không biết mọi thứ xung quanh đang thay đổi nhanh chóng. Năm 1950, mười lăm năm trước khi cha mẹ tôi dọn về khu South Shore, khu vực này có 96% cư dân là người da trắng. Vào thời điểm tôi rời South Shore để học đại học năm 1981, khu này có khoảng 96% cư dân là người da đen. Anh Craig và tôi lớn lên ngay giữa giao điểm của dòng chảy đó. Những dãy nhà xung quanh chúng tôi là mái ấm của các gia đình người Do Thái, gia đình nhập cư, gia đình người da trắng và người da đen, một số gia đình thì phát đạt còn số khác thì không. Nhìn chung thì mọi người đều chăm sóc bãi cỏ và con cái nhà mình. Họ trả tiền cho bà Robbie để các con của họ có thể học đàn dương cầm. Trên thực tế, gia đình tôi thuộc diện nghèo Trong khu. Chúng tôi thuộc số ít những người mà chúng tôi biết là không có nhà riêng, sống chen chúc trên tầng lầu nhà ông bà Robbie và Terry. South Shore vẫn chưa xuôi theo dòng chảy của những khu vực khác – nơi những người khá giả đã khăn gói đến vùng ngoại ô từ lâu, những cửa hàng kinh doanh trong khu lần lượt đóng cửa, dấu hiệu của sự suy tàn xuất hiện – nhưng sự chuyển biến rõ ràng là đã bắt đầu. Chúng tôi bắt đầu cảm nhận được tác động của sự chuyển biến này, nhất là ở trường. Phòng học lớp hai của tôi biến thành nơi hỗn loạn với những đứa trẻ ngỗ nghịch và bút viết bay tứ tung, một điều hãy còn xa lạ với tôi và anh Craig. Tất cả những chuyện này dường như là do một giáo viên không biết cách kiểm soát lớp học, thậm chí người này có vẻ cũng không thích trẻ con. Thêm vào đó, dường như không có ai đặc biệt bận tâm đến việc vị giáo viên đó không đủ năng lực. Bọn học sinh dùng đó như cái cớ để quậy tưng bừng, và cô giáo thì có vẻ chỉ nhìn thấy những gì tồi tệ nhất nơi chúng tôi. Trong mắt cô, chúng tôi là một lớp toàn “trẻ hư”, mặc dù chúng tôi không hề được cô dạy dỗ hay hướng dẫn, và thực tế là chúng tôi đã phải chuyển xuống một phòng học thiếu sáng ở tầng hầm của trường. Mỗi một giờ trôi qua ở dưới đó đều dài lê thê và chẳng khác gì địa ngục. Tôi khổ sở ngồi tại bàn của mình, trên chiếc ghế màu xanh lá ngả vàng – sắc màu chính thức của thập niên 1970 – không học được gì mà chỉ chờ cho tới giờ ăn trưa, lúc tôi có thể về nhà, ăn một chiếc bánh mì kẹp và than thở với mẹ. Hồi bé, gần như mỗi khi tức tối thì tôi đều nói với mẹ. Khi tôi nổi điên về cô giáo mới, mẹ tôi điềm tình lắng nghe, nói những câu như “Ôi trời” hay “Ồ vậy à?”. Bà không nuông theo cơn giận của tôi, nhưng rất nghiêm túc nhìn nhận sự thất vọng của con gái. Nếu mẹ tôi là ai đó khác, hẳn là bà đã nói những câu cho qua chuyện kiểu như, “Hãy cứ làm hết sức đi con”. Nhưng mẹ tôi biết sự khác biệt. Bà biết sự khác nhau giữa phàn nàn và mệt mỏi thật sự. Mẹ không nói gì với tôi, nhưng bà đã âm thầm đến trường và bắt đầu quá trình vận động hành lang kéo dài nhiều tuần liền, giúp tôi và vài đứa trẻ có thành tích tốt được tách ra khỏi lớp đang học, làm bài kiểm tra đầu vào, và khoảng một tuần sau đó, được xếp vào một lớp ba nề nếp ở tầng trên, dưới sự dìu dắt của một cô giáo hay cười, cương quyết và biết rõ việc của mình. Đó là một động thái nhỏ nhưng đã thay đổi cuộc đời tôi. Tôi không ngừng thắc mắc điều gì xảy ra với đám trẻ bị giữ lại trong tầng hầm với vị giáo viên không có khả năng sư phạm. Giờ đây, khi đã là người lớn, tôi nhận ra trẻ con từ rất nhỏ đã biết khi nào chúng bị coi thường, khi nào người lớn thiếu đầu tư vào việc học của chúng. Cơn giận của chúng trước thực tế này có thể thể hiện ra dưới hình thức là chúng không vâng lời. Đó không phải là lỗi của chúng. Chúng không phải “trẻ hư”. Chúng chỉ đang cố gắng sống sót trong nghịch cảnh. Dẫu sao thì vào thời điểm đó, tôi chỉ cảm thấy vui mừng vì được giải thoát. Nhiều năm sau tôi mới biết mẹ tôi, vốn hài hước và ít nói nhưng cũng là người trực tính, đã quyết định tìm tới cô giáo lớp hai kia và nói với cô ấy, bằng cách lịch sự nhất có thể, rằng cồ không nên dạy học mà nên làm thu ngân cho cửa hàng. THỜI GIAN TRÔI QUA, mẹ tôi bắt đầu động viên tôi ra ngoài chơi chung với bọn trẻ hàng xóm. Bà hy vọng rằng tôi sẽ học được cách hòa nhập với xã hội như anh trai tôi đã làm. Như tôi đã nói, anh Craig có tài khiến những việc khó khăn có vẻ thật dễ dàng. Khi đó anh là một hiện tượng mới nổi trên sân bóng rổ, sôi nổi, nhanh nhẹn và đang trổ giò. Cha tôi thúc bách anh tìm đến những trận đấu cam go nhất có thể, đồng nghĩa với việc sau này ông sẽ để anh Craig một mình sang đầu bên kia của thị trấn đấu bóng với những đứa trẻ giỏi nhất thành phố. Nhưng vào lúc này, cha để anh đấu với những tài năng trong khu phố. Anh Craig thường mang theo bóng và băng qua đường để tới Công viên Rosenblum, ngang qua mấy khung gỗ dành cho trẻ con leo trèo và chiếc xích đu nơi tôi thích tới chơi, và rồi biến mất sau hàng cây ở bên kia công viên, nơi có sân bóng rổ. Tôi cứ nghĩ nơi đó tựa như vực thẳm, một khu rừng âm u huyền bí của những kẻ say xỉn, trộm cắp và tội phạm. Nhưng sau khi anh Craig đã đến đó thì anh chỉnh tôi ngay, anh nói rằng ở đó thật sự không có ai xấu xa đến thế cả. Đối với anh tôi, bóng rổ dường như có thể xóa đi mọi ranh giới. Bóng rổ dạy anh ấy cách tiếp xúc với người lạ mỗi khi muốn xin một chân trong trận đấu bóng tự phát. Anh ấy cũng học được cách nói thân thiện hơn mỗi khi phải dùng đến trash-talk[16] đối với các đối thủ to khỏe và nhanh nhẹn hơn mình trên sân. Bóng rổ cũng giúp anh ấy đánh tan nhiều sai lầm về người nào ra sao và chuyện gì đang xảy ra trong khu phố, củng cố khả năng rằng hầu hết mọi người đều là người tốt nếu ta đối xử tử tế với họ – điều mà từ lâu đã trở thành tín điều của cha tôi. Kể cả những gã đáng ngờ hay lê la trước tiệm rượu ở góc phố cũng vui vẻ khi thấy anh Craig; họ gọi tên anh và đập tay chào anh khi bọn tôi đi ngang qua. “Làm sao mà anh lại quen biết với họ vậy?”, tôi ngờ vực hỏi. “Anh đâu có biết họ. Họ chỉ biết anh thôi”, anh Craig nhún vai đáp. Sau cùng, mười tuổi cũng là lúc tôi cảm thấy thoải mái để bắt đầu tự khám phá, một quyết định được tôi đưa ra chủ yếu bởi lúc đó tôi thấy quá chán. Khi đó là mùa hè và chúng tôi được nghỉ học. Anh Craig và tôi đón xe buýt đến Hồ Michigan mỗi ngày để tham gia trại hè do thành phố tổ chức tại một công viên bên bờ hồ, nhưng chúng tôi sẽ về nhà trước bốn giờ chiều, nên vẫn còn nhiều thời gian dành cho các hoạt động khác. Tôi ngày càng chán chơi búp bê, và vì không có máy điều hòa nhiệt độ nên vào buổi chiều căn hộ của chúng tôi vô cùng nóng bức khó chịu. Thế là tôi bắt đầu bám đuôi anh Craig đi quanh khu phố, gặp gỡ những đứa trẻ tôi vẫn chưa làm quen ở trường. Đối diện con hẻm sau nhà chúng tôi là khu dân cư Euclid Parkway, nơi có chừng mười lăm ngôi nhà bao quanh một mảng xanh chung ở giữa. Nó giống một kiểu thiên đường nào đó, không có xe cộ, chỉ có trẻ con đang chơi bóng và nhảy dây, hoặc chỉ ngồi túm tụm với nhau. Nhưng trước khi hòa nhập với đám con gái trạc tuổi ở khu Parkway, tôi trải qua một bài kiểm ưa. Bài kiểm tra đó chính là DeeDee, một cô bé theo học ở trường Công giáo gần đó. DeeDee có sức vóc và cũng xinh xắn, nhưng lại thích bĩu môi và lúc nào cũng sẵn sàng trợn mắt. Cô ấy thường ngồi trước hiên nhà mình, cạnh một cô bé khác, nổi tiếng hơn có tên là Deneen. Deneen lúc nào cũng thân thiện, nhưng DeeDee có vẻ không ưa tôi. Tôi không biết tại sao lại như vậy. Mỗi lần tôi đến Euclid Parkway, cô sẽ bình phẩm về tôi một cách kín đáo nhưng cay độc, như thể chỉ cần tôi xuất hiện thối là đã phá hỏng một ngày của mọi người vậy. Những ngày hè vẫn trôi, các bình phẩm của DeeDee chỉ càng trở nên ồn ào hơn. Tôi bắt đầu khó chịu. Tôi hiểu mình có nhiều lựa chọn khác. Tôi có thể tiếp tục trở thành đứa trẻ bị bắt nạt, có thể từ bỏ Parkway và quay về nhà với đống đồ chơi của mình, hoặc tìm cách có được sự tôn trọng của DeeDee. Và bên trong sự lựa chọn sau cuối kia lại còn một lựa chọn khác: Tôi có thể cố tranh luận với DeeDee, chinh phục bằng lý lẽ hay bằng một kiểu ngoại giao trẻ con nào đó, hoặc đơn giản là khiến cô ấy ngậm miệng. Lần kế tiếp khi DeeDee mở miệng bình phẩm, tôi nhào tới, vận dụng mọi thứ mà cha tôi đã dạy để tung cú đấm. Cả hai chúng tôi ngã xuống đất, nắm đấm giơ lên còn chân thì quẫy đạp. Mọi đứa trẻ ở khu Euclid Parkway lập tức vây lấy hai chúng tôi, tiếng reo hò của chúng phát ra từ sự hào hứng và tính háo thắng của những học sinh cấp một. Tôi không nhớ ai đã lôi hai đứa chúng tôi ra, là Deneen hay anh trai tôi, hoặc một vị phụ huynh nào đó đã bị gọi tới hiện trường, nhưng khi mọi chuyện đã xong thì dường như có điều gì đó đã diễn ra. Tôi chính thức được chấp nhận là thành viên của khu đó. DeeDee và tôi không bị thương tích gì sau lần đó, chỉ bị bẩn vì vấy bùn đất, đứa nào cũng thở hổn hển và tất nhiên là cả hai xác định sẽ không bao giờ trở thành bạn thân của nhau, nhưng chí ít tôi cũng có được sự tôn trọng từ cô ấy. CHIẾC BUICK CỦA CHA tiếp tục là nơi chúng tôi ẩn náu, là ô cửa nhìn ra thế giới. Chúng tôi lái xe ra ngoài vào các ngày Chủ nhật và những buổi chiều hè, cứ chạy loanh quanh như vậy, không vì lý do gì, chỉ đơn giản là chúng tôi có thể đi cùng nhau trên xe. Đôi lúc cả nhà sẽ đến một khu phố ở phía nam, khu vực được biết đến với cái tên Pill Hill (tạm dịch: Đồi thuốc viên) – chắc hẳn là do có nhiều bác sĩ người Mỹ gốc Phi đang sinh sống tại đây. Đó là một trong những khu đẹp đẽ hơn, giàu có hơn của South Side, nơi người ta đậu những hai chiếc ô-tô ở trước nhà và có rất nhiều luống hoa nở dọc theo lối đi. Cha tôi có một chút hồ nghi đối với người giàu. Ông không thích những người trịch thượng, và ông thường có cảm xúc phức tạp về việc sở hữu nhà riêng. Có một dạo cha mẹ tôi đã nghĩ tới việc mua một căn đang rao bán cách nhà bà Robbie không xa, thậm chí chúng tôi đã lái xe tới đó để coi nhà cùng một tay môi giới bất động sản, nhưng cuối cùng quyết định không mua. Lúc đó tôi hoàn toàn ủng hộ việc mua nhà. Tôi nghĩ sẽ rất ý nghĩa nếu nhà mình có thể sống trong căn nhà có nhiều hơn một tầng. Nhưng cha tôi là người vốn rất thận trọng, ông ý thức rõ về sự đánh đổi và hiểu rằng cần phải để dành tiền phòng những lúc khó khăn. “Con sẽ không muốn nghèo mạt vì mua nhà”, ông dạy chúng tôi như thế và giải thích rằng một số người đổ hết tiền tiết kiệm đồng thời phải vay mượn quá nhiều để mua nhà; rốt cuộc họ có một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhưng mất hết tự do. Cha mẹ nói chuyện với anh em chúng tôi như nói chuyện với người lớn. Họ không lên lớp dạy đời mà luôn lắng nghe mọi câu hỏi chúng tôi đặt ra, bất kể chúng có ngây ngô đến đâu. Họ không bao giờ vội vả kết thúc một cuộc thảo luận. Các cuộc nói chuyện của gia đình chúng tôi có thể kéo dài hàng giờ liền, thường là vì hai anh em tôi luôn tranh thủ hỏi cha mẹ những điều mình không hiểu. Khi còn bé, chúng tôi đã hỏi, “Tại sao người ta lại tắm?” hay “Vì sao phải đi làm?” và đủ thứ thắc mắc khác. Một trong những “thắng lợi” đầu tiên của tôi nhờ biết thắc mắc xuất phát từ một câu hỏi có liên quan đến bản thân: “Tại sao chúng ta phải ăn trứng vào bữa sáng?”. Câu hỏi này dẫn đến một cuộc thảo luận về sự cần thiết của chất đạm, vốn lại khiến tôi thắc mắc tại sao bơ đậu phộng không được xem là chất đạm, và cuối cùng, sau nhiều màn tranh luận, mẹ tôi phải nhìn nhận lại vai trò của trứng, món mà tôi chưa bao giờ thích ăn. Suốt chín năm sau đó, biết mình đã giành được quyền không ăn trứng vào bữa sáng, tôi làm cho mình món bánh mì kẹp phết bơ đậu phộng béo ngậy và mứt chứ không ăn dù chỉ một quả trứng. Khi lớn lên, chúng tôi nói nhiều hơn về chất kích thích, tình dục, các lựa chọn trong cuộc sống, về chủng tộc, sự bất bình đẳng và cả chính trị. Cha mẹ không mong hai đứa chúng tôi thành thánh nhân. Tôi còn nhớ cha đã khẳng định tình dục vốn là chuyện vui vẻ. Họ cũng không bao giờ tô điểm cho những thứ mà họ biết là thực tế khắc nghiệt của cuộc sống để chúng tôi khỏi phải ảo tưởng về những thứ đó. Chẳng hạn vào một dịp hè, anh Craig có được một chiếc xe đạp mới và anh đã đạp về phía đông đến Hồ Michigan, đến con đường lát đá dọc bải Rainbow, nơi bạn có thể cảm nhận làn gió hồ. Ngay lập tức, anh bị một viên sĩ quan cảnh sát chặn lại và bị buộc tội ăn cắp, vì viên cảnh sát đó không tin chuyện một cậu nhóc da đen có thể có được chiếc xe đạp mới mà không phạm pháp. (Bản thân viên sĩ quan cũng là người Mỹ gốc Phi và cuối cùng đã bị mẹ tôi mắng cho một trận đồng thời bắt phải xin lỗi anh Craig). Cha mẹ tôi nói, chuyện đó là một thực tế bất công nhưng không may cũng là một thực tế phổ biến. Màu da khiến chúng tôi dễ bị xúc phạm. Đó là điều mà chúng tôi vẫn luôn phải thận trọng ứng phó. Tôi đoán thói quen lái xe chở chúng tôi sang khu Pill Hill của cha là một cách cha thể hiện khát vọng của mình, một dịp để cho chúng tôi thấy học vấn tốt có thể mang lại điều gì. Cha mẹ tôi gần như cả đời chỉ sống lẩn quẩn trong vài cây số vuông ở Chicago, nhưng họ không bao giờ nghĩ là anh Craig và tôi cũng sẽ sống như thế. Trước khi kết hôn, họ đều đã có một thời gian ngắn theo học trường cao đẳng cộng đồng, nhưng cả hai đều từ bỏ rất sớm trước khi có được tấm bằng. Mẹ tôi học để trở thành một giáo viên nhưng rồi lại thấy mình nên làm công việc thư ký thì tốt hơn. Cha tôi thì đơn giản là không có đủ tiền đóng học phí nên đã nhập ngũ. Không ai khuyên ông nên học tiếp, không có tấm gương nào cho ông thấy cuộc đời trí thức sẽ ra sao. Thay vào đó, cha tôi đi lính hai năm, chuyển đến nhiều doanh trại khác nhau. Nếu việc học xong đại học và trở thành một nghệ sĩ từng là mơ ước của cha tôi thì ông đã nhanh chóng chuyển hướng hy vọng của mình, dùng tiền lương từ việc phục vụ trong quân ngũ để hỗ trợ học phí cho em trai mình học kiến trúc. Bây giờ, khi sắp qua tuổi bốn mươi, cha tập trung dành dụm cho hai anh em chúng tôi. Gia đình chúng tôi không bao giờ khánh kiệt vì mua nhà, vì chúng tôi sẽ không mua nhà. Cha là người thực tế, biết các nguồn lực là hữu hạn và thời gian cũng vậy. Khi không lái xe, ông sử dụng gậy để đi lại. Trước khi tôi học xong tiểu học, cây gậy đó đã trở thành một chiếc nạng, và chẳng bao lâu sau là hai chiếc. Cho dù thứ gì đang bào mòn bên trong cơ thể ông, làm suy yếu cơ bắp và tổn hại dây thần kinh của ông, ông vẫn xem đó là một thử thách cá nhân, một chuyện mà ông âm thầm chịu đựng. Như nhiều gia đình khác, gia đình chúng tôi cũng có những lần tiêu xài xa xỉ hơn bình thường một chút. Khi anh Craig và tôi nhận bảng điểm ở trường, cha mẹ tôi sẽ ăn mừng bằng cách đặt một chiếc bánh pizza từ tiệm Italian Fiesta, cửa hàng yêu thích của cả gia đình. Lúc thời tiết nóng nực, chúng tôi mua kem hộp – mỗi hộp gồm một phần kem sô-cô-la, hồ đào và cherry đen – để ăn dần trong nhiều ngày. Hàng năm khi đến lễ hội Air and Water Show(1), chúng tôi chuẩn bị thức ăn mang theo và lái xe về phía bắc dọc theo bờ Hồ Michigan đến một bán đảo có hàng rào bao quanh, nơi có nhà máy lọc nước mà cha tôi làm việc tọa lạc. Đó là một trong những dịp hiếm hoi trong năm các gia đình công nhân viên được phép đi qua cổng rào, đến mảng cỏ xanh mướt nhìn ra hồ, nơi có thể xem cảnh máy bay phản lực biểu diễn trên mặt hồ đẹp chẳng kém bất cứ tầm nhìn nào từ các căn hộ áp mái trên Đường Lake Shore. Tháng Bảy hàng năm, cha tôi thường nghỉ làm một tuần, và chúng tôi sẽ nhét thêm vào chiếc Buick một người cô cùng hai người anh chị em họ, tất cả bảy người ngồi trong chiếc xe hai cửa ấy suốt hàng giờ liền, đi theo đường Skyway ra khỏi Chicago, vòng qua mũi nam của Hồ Michigan, lái đến White Cloud, Michigan, và dừng lại ở một nơi gọi là Khu nghỉ dưỡng Dukes Happy Holiday. Nơi đây có một phòng game, một chiếc máy bán hàng tự động bán nước giải khát đóng chai, và quan trọng hơn cả là có một hồ bơi lớn ngoài trời. Chúng tôi thuê một căn nhà gỗ có bếp và dành hết mấy ngày để nhảy lên nhảy xuống hồ bơi. Cha mẹ tôi sẽ nướng thịt ngoài trời, hút thuốc và chơi bài cùng cô tôi, nhưng thỉnh thoảng cha cũng ngừng chơi để theo đám nhóc chúng tôi xuống hồ bơi. Cha tôi là người đàn ông điển trai với bộ ria cong xuống theo viền môi như một lưỡi hái. Cơ ngực và cánh tay ông rắn chắc, một minh chứng của việc ông đã từng là vận động viên. Trong những buổi chiều dài dưới hồ bơi, cha quạt nước, cười giỡn và tung chúng tôi lên không. Những lúc đó, đôi chân đã yếu của ông bỗng nhiên không còn là gánh nặng nữa. QUÁ TRÌNH XUỐNG CẤP rất khó nhận ra, nhất là khi bạn đang ở giữa quá trình đó. Vào mỗi tháng Chín, khi anh Craig và tôi quay lại trường Bryn Mawr, chúng tôi lại thấy có ít trẻ em da trắng trên sân trường hơn. Một số đã chuyển qua học trường Công giáo gần đó, nhưng nhiều đứa trẻ khác đã rời hẳn nơi này. Thoạt đầu có vẻ như chỉ các gia đình người da trắng mới rời đi, nhưng rồi da trắng hay da đen gì cũng đi. Chẳng mấy chốc, dường như bất kỳ ai có điều kiện thì cũng khăn gói ra đi. Đa số những cuộc ra đi đó đều không được báo trước, cũng không được giải thích nguyên nhân. Chỉ cần nhìn thấy tấm biển “Nhà bán” trước sân nhà Yacker hoặc chiếc xe tải vận chuyển trước cửa nhà Teddy là chúng tôi biết chuyện gì sắp sửa xảy ra. (1) Air and Water Show: lễ hội trình diễn máy bay phản lực của không lực Mỹ, diễn ra thường niên trên Hồ Michigan, Chicago. Có lẽ cú sốc lớn nhất đối với mẹ tôi là khi bạn của mẹ, cô Velma Stewart, thông báo rằng vợ chồng cồ đã đặt cọc cho một ngôi nhà ở vùng ngoại ô Park Forest. Nhà Stewart có hai đứa trẻ và họ sống ở dãy nhà cuối Đại lộ Euclid. Họ cũng thuê căn hộ giống chúng tôi. Cô Stewart có khiếu hài hước độc đáo và tiếng cười dễ lan tỏa, thứ đã thu hút mẹ tôi làm bạn với cô. Họ trao đổi công thức nấu ăn và cập nhật tin tức của nhau, nhưng chưa từng sa đà vào chuyện ngồi lê đôi mách như những bà mẹ khác. Donny, con trai cô Stewart, bằng tuổi với anh Craig và cũng yêu thích vận động như anh, điều này khiến cả hai thân nhau ngay từ hồi mới biết nhau. Con gái cô, Pamela, đã là một thiếu nữ và không thích chơi với tôi cho lắm, dù tôi thấy tất cả những anh chị ở tuổi này thật thú vị. Tôi không nhớ nhiều về chú Stewart, ngoại trừ chuyện chú lái một chiếc xe tải giao hàng cho một hiệu bánh lớn trong thành phố, và vợ chồng con cái nhà Stewart sở hữu làn da trắng nhất mà tôi từng nhìn thấy ở người da đen. Tôi không biết làm thế nào họ mua nổi một căn nhà ở vùng ngoại ô. Hóa ra, Park Forest là một trong những khu dân cư đầu tiên ở Mỹ được quy hoạch hoàn chỉnh – không chỉ là một khu đất thổ cư phân lô, mà là cả một khu dân cư được thiết kế dành cho khoảng ba mươi ngàn người, có khu mua sắm, nhà thờ, trường học và công viên. Được khởi công năm 1948, Park Forest được dự tính sẽ trở thành hình mẫu cho cuộc sống vùng ngoại ô, với những ngôi nhà được xây dựng hàng loạt và khu sân vườn y hệt nhau. Ở đây cũng có quy định giới hạn số gia đình người da đen có thể sinh sống trong một dãy nhà, nhưng vào thời điểm nhà Stewart dọn tới, giới hạn này dường như đã được xóa bỏ. Không lâu sau khi dọn sang nhà mới, gia đình Stewart mời nhà chúng tôi đến chơi vào ngày cha tôi được nghỉ làm. Chúng tôi rất háo hức. Với chúng tôi, đó là một chuyến tham quan mới, một cơ hội để được nhìn thấy vùng ngoại ô vẫn thường được nhắc đến. Bốn người chúng tôi ngồi trên chiếc Buick hướng về phía nam đường cao tốc, đi theo con đường dẫn ra ngoại ô Chicago, và khoảng bốn mươi phút sau thì đến một khu trung tâm mua sắm vắng vẻ. Chúng tôi bắt đầu chạy lòng vòng qua những con đường yên ắng, theo chỉ dẫn của cô Stewart, rẽ qua những dãy nhà trông na ná nhau. Park Forest giống một thành phố mô hình đầy những ngôi nhà có thiết kế giống nhau – những căn nhà khiêm tốn một tầng, mái thấp, màu xám nhạt và những cây bụi mới trồng trước cửa. “Ai lại muốn ở tận chỗ này chứ?”, cha tôi thắc mắc, mắt nhìn chằm chằm qua kính chắn gió. Tôi đồng ý là chuyện này thật không hợp lý. Theo những gì tôi nhìn thấy, khu này không hề có những cây đại thụ như cây sồi to ngay bên ngoài cửa sổ phòng ngủ nhà tôi. Mọi thứ ở Park Forest đều mới, rộng và vắng vẻ. Không có tiệm bán rượu ở góc phố với những gã đáng nghi lởn vởn đằng trước. Không có tiếng còi xe inh ỏi. Không có tiếng nhạc phát ra từ gian bếp của ngôi nhà nào đó. Tất cả cửa sổ của những ngôi nhà ở đây dường như đều đóng kín. Anh Craig thường nhớ về chuyến viếng thăm ấy như một điều gì đó trên cả tuyệt vời, chủ yếu vì anh ấy đã chơi bóng suốt ngày ở sân bóng rộng rãi dưới bầu trời xanh với Donny Stewart và đám huynh đệ mới ở chốn ngoại ô. Cha mẹ tôi có buổi hội ngộ vừa đủ vui vẻ với cô chú Stewart, còn tôi lẽo đẽo theo Pamela, trầm trồ trước mái tóc, làn da sáng và những món trang sức tuổi thiếu niên của chị. Chúng tôi cũng cùng ăn trưa với nhau. Đến tối thì hai gia đình chào tạm biệt nhau. Từ biệt nhà Stewart, chúng tôi đi bộ trong ánh hoàng hôn đến chỗ cha tôi đậu chiếc Buick. Anh Craig vẫn còn nhễ nhại mồ hôi, chân cẳng mỏi nhừ vì đã chạy suốt. Tôi cũng mệt mỏi và sẵn sàng về nhà. Khu này có điều gì đó khiến tôi không thoải mái. Tôi không phải là người thích vùng ngoại ô, mặc dù tôi không thể nói chính xác lý do tại sao. Về sau mẹ tôi đã nhận xét về nhà Stewart và về cộng đồng cư dân mới của họ, dựa trên thực tế là gần như tất cả hàng xóm của họ đều là người da trắng. “Mẹ tự hỏi, có phải không ai biết nhà Stewart là người da đen cho đến khi gia đình chúng ta đến thăm hay không”, bà nói. Bà nghĩ có lẽ gia đình chúng tôi đã vô tình để lộ thân phận của nhà Stewart, vì đã đến từ vùng South Side, mang theo món quà tân gia và làn da đen không thể che giấu. Kể cả nếu nhà Stewart không cố tình che giấu về chủng tộc của mình, có lẽ họ cũng đã không nói về chuyện đó bằng cách này hay cách khác với những người hàng xóm mới. Bất kể bầu không khí nào đang tồn tại ở khu nhà của họ thì họ cũng không phá vỡ nó. Ít nhất là cho đến khi chúng tôi đến thăm. Có phải ai đó đã đứng bên cửa sổ quan sát khi cha tôi tiến lại gần xe vào đêm hôm đó? Có phải ai đó đang núp sau tấm rèm cửa sổ chờ xem mọi chuyện sẽ diễn biến ra sao? Tôi chẳng bao giờ biết được. Tôi chỉ nhớ lúc cha tôi chuẩn bị mở cửa xe, ông đã hơi khựng người lại khi nhìn thấy chuyện đã xảy ra. Ai đó đã rạch một đường bên hông chiếc Buick yêu thích của ông, một đường rạch sâu và xấu xí cắt ngang cánh cửa và kéo dài xuống đuôi xe. Một đường rạch bằng chìa khóa hoặc hòn đá, và chắc chắn không phải chuyện tình cờ. Tôi từng nói cha tôi là người vững vàng, người không bao giờ ca thán dù là chuyện bé hay to, người vui vẻ đón nhận ngay cả những món khó nuốt nhất, người được bác sĩ trao cho bản án tử nhưng vẫn vui vẻ sống. Đối với chuyện lần này cũng vậy. Nếu có một cách nào đó để bày tỏ sự phản kháng, nếu có thể đạp vô một cánh cửa nào đó để trút giận, cha tôi cũng sẽ không làm những chuyện đó. “À, thật không may”, ông nói trước khi mở khóa xe. Đêm hôm đó chúng tôi lái xe về lại Chicago mà không nói nhiều về chuyện đã xảy ra. Có lẽ chúng tôi đã quá mệt mỏi để phân tích chuyện này. Dù sao thì chúng tôi cũng biết đủ về vùng ngoại ô rồi. Cha tôi hẳn đã phải lái chiếc xe với nguyên đường rạch đi làm vào ngày hôm sau, và tôi chắc chắn ông không cảm thấy dễ chịu vì điều đó. Nhưng vết rạch đó không tồn tại lâu. Ngay khi sắp xếp được thời gian, cha tôi đã đem xe đến xưởng đồng sơn ở Sears để tút lại. 3 Thế rồi, có một dạo, ông anh trai vốn vô lo của tôi bắt đầu có những biểu hiện lo lắng thái quá. Tôi không thể nói chính xác từ khi nào, hay tại sao chuyện này lại xảy ra, nhưng từ một người luôn giơ tay chào hỏi mọi người trong khu phố, và có thể bất chấp mọi sự xung quanh để thoải mái chợp mắt bất cứ khi nào có được mười phút rảnh rỗi, thì anh Craig giờ đây trở nên cáu kỉnh và cảnh giác ngay cả khi ở nhà, thậm chí anh còn tin rằng thảm họa đang ập đến với tất cả chúng tôi. Những buổi tối khi ở nhà, anh sẽ diễn tập đối phó với đủ loại tình huống giả định mà cha mẹ và tôi cảm thấy thật kỳ quái. Chẳng hạn, anh lo một ngày nào đó anh sẽ không còn nhìn thấy gì nữa, thế là anh đeo bịt mắt rồi mò mẫm đi lại quanh nhà để cảm nhận đường đi tới phòng khách và phòng bếp. Anh còn lo là mình sẽ bị điếc, vậy là anh bắt đầu tự học ngôn ngữ ký hiệu. Chưa hết, anh còn lo bị cắt cụt mất một tay, thế nên lúc ở bàn ăn hoặc khi làm bài tập, anh cứ loay hoay xoay xỏ với cánh tay phải bị cột ra sau lưng. Anh nói ai mà biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thế nhưng nỗi sợ lớn nhất của anh Craig và có lẽ cũng chính là nỗi sợ thực tế nhất, đó là hỏa hoạn. Cháy nhà là chuyện thường xảy ra ở Chicago, một phần do chủ nhà ở những khu ổ chuột để mặc cho nhà cửa xuống cấp và vui mừng nhận tiền bảo hiểm bồi thường khi có hỏa hoạn, phần khác là vì thiết bị báo khói gia dụng lúc này vẫn còn mới mẻ và đắt đỏ so với túi tiền của tầng lớp lao động. Dù là nguyên nhân nào đi nữa, bên trong những dãy nhà chằng chịt của chúng tôi, hỏa hoạn gần như là một thực tế tất yếu, nó ngẫu nhiên xuất hiện và thiêu rụi nhà cửa cũng như con người nơi đây. Ông ngoại Southside của tôi đã chuyển đến khu chúng tôi đang sống sau khi một đám cháy khiến căn nhà cũ của ông ở West Side bị thiêu rụi, thật may là không có thương vong. (Theo lời mẹ tôi kể, ông Southside đã đứng trên lề đường gần ngôi nhà đang cháy, kêu gào lính cứu hỏa chĩa ống nước ra xa những đĩa nhạc jazz quý báu của ông.) Gần đây hơn, một thảm kịch quá đau thương đối với tâm trí non nớt của tôi đã xảy ra. Lester McCullom, cậu bạn học lớp năm của tôi đã qua đời trong trận hỏa hoạn đó. Lester là cậu bé gốc Phi có khuôn mặt hiền lành và sống trong ngôi nhà trên Đường 74 cách chúng tôi không xa. Trận hỏa hoạn đó cũng tước đi mạng sống của anh chị của cậu khi cả ba mắc kẹt trong phòng ngủ trên lầu. Đó là lễ tiễn đưa đầu tiên mà tôi tham dự: những đứa trẻ trong khu phố sụt sùi khóc ở nhà tang lễ giữa nền nhạc The Jackson 5 văng vẳng; người lớn thì bàng hoàng, không có lời nguyện cầu hay bất kỳ câu xã giao nào có thể khỏa lấp được nỗi đau này. Ba cỗ quan tài đóng kín được đặt trong phòng, bên trên là di ảnh của ba đứa trẻ đang mỉm cười. Bà McCullom, người đã sống sót nhờ nhảy ra cửa sổ cùng chồng mình, đang ngồi trước ba cỗ quan tài, suy sụp và đau đớn đến mức chỉ nhìn thôi cũng thấy xót xa. Nhiều ngày sau, những gì còn sót lại trong ngôi nhà của gia đình McCullom vẫn tiếp tục cháy âm ỉ rồi sập hẳn, một quá trình hấp hối chậm rãi chứ không như những gì đã xảy ra với ba người trẻ tuổi từng sống trong đó. Mùi khói vẫn vương vất khắp khu phố. Thời gian trôi qua, cảm giác bất an của anh Craig chỉ càng thêm trầm trọng. Ở trường, chúng tôi tham gia các buổi diễn tập sơ tán dưới sự hướng dẫn của giáo viên, ngoan ngoãn ngồi nghe những bài giảng về cách dừng lại, cúi người và lăn khi có sự cố. Và kết quả là anh Craig quyết định chúng tôi cần tăng cường mức độ an toàn ở nhà. Anh tự phong mình là đội trưởng đội cứu hỏa tại gia, còn tôi là đội phó, sẵn sàng dọn lối thoát hiểm trong các buổi diễn tập hoặc điều động cha mẹ khi cần thiết. Chúng tôi không ám ảnh với việc cháy nhà nhưng luôn chú trọng việc sẵn sàng ứng phó với hỏa hoạn. Sự chuẩn bị là rất quan trọng. Gia đình chúng tôi không chỉ đúng giờ mà chúng tôi luôn đến sớm trong mọi sự kiện vì biết điều này có thể giúp cha cảm thấy dễ chịu hơn khi không phải lo về chuyện phải tìm được chỗ đậu xe sao cho không phải đi bộ một chặng đường dài hoặc có thể chọn được một chỗ ngồi thuận tiện trên khán đài mỗi khi xem anh Craig đấu bóng rổ. Bài học ở đây là hãy kiểm soát những gì mình có thể kiểm soát trong cuộc sống. Để làm được điều này, hai anh em chúng tôi dợt qua một lượt những lối thoát hiểm khả dĩ trong nhà, cố gắng đoán xem mình có thể nhảy từ cửa sổ sang cây sồi trước nhà hay sang nóc nhà hàng xóm khi có cháy. Chúng tôi hình dung xem chuyện gì xảy ra nếu chảo dầu bùng cháy trong bếp, điện bị chập trong tầng hầm, hay sét đánh xuống từ trên cao. Anh Craig và tôi không quá lo lắng về mẹ trong tình huống khẩn cấp. Bà có vóc người gọn gàng, nhanh nhẹn và là kiểu người mà một khi đã nạp adrenalin thì có thể nâng cả một chiếc ôtô để giải cứu đứa bé bị kẹt bên dưới. Chuyện khó giải quyết hơn chính là trở ngại của cha – một sự thật rành rành nhưng không ai nói ra là ông không thể nhảy qua cửa sổ như ba người chúng tôi, và đã nhiều năm rồi chúng tôi không thấy ông chạy. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng tôi nhận ra quá trình giải cứu gia đình mình sẽ không diễn ra nhanh gọn như cảnh cứu hộ trong những bộ phim mà chúng tôi xem trên tivi. Cha tôi không phải là người sẽ vác chúng tôi đến nơi an toàn trên đôi vai lực lưỡng. Nếu có ai phải làm chuyện đó thì đó chính là anh Craig, người mà sau này sẽ vượt xa cha nhưng lúc bấy giờ vẫn còn là một cậu bé tay chân khẳng khiu và có vẻ đã hiểu rằng anh hùng nào cũng cần phải rèn luyện. Đó là lý do mỗi khi gia đình tôi diễn tập để ứng phó với hỏa hoạn, anh ấy đều dựng nên những tình huống xấu nhất, yêu cầu cha phải nằm rạp xuống sàn, bất động như thể đã ngất đi vì ngạt khói. “Ôi trời ơi! Con tính làm thiệt đó hả?”, cha tôi sẽ vừa lắc đầu vừa nói. Cha tôi không quen với việc phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác, ông đã sống sao cho mình không rơi vào cảnh đó – cẩn thận chăm sóc chiếc xe của cả nhà, thanh toán hóa đơn đúng hạn, không bao giờ bàn về chứng đa xơ cứng đang ngày càng nghiêm trọng của mình và cũng không bỏ việc dù chỉ một ngày. Cha tôi muốn trở thành điểm tựa cho người khác. Với những việc mà cha tôi không có đủ sức khỏe để làm, ông sẽ bù đắp bằng cách khác, chẳng hạn như ủng hộ tinh thần hoặc chia sẻ kinh nghiệm, đó là lý do ông yêu thích công việc trưởng ban phân khu bầu cử của Đảng Dân chủ tại thành phố. Ông giữ vị trí này suốt nhiều năm, một phần vì viên chức thành phố ít nhiều cũng được kỳ vọng là sẽ trung thành phục vụ bộ máy của đảng. Dù vậy, kể cả khi có phần bị ép thì ông vẫn thích công việc của mình, mà điều này lại gây khó khăn cho mẹ tôi bởi công việc của cha tốn rất nhiều thời gian. Vào những dịp cuối tuần, cha tôi sẽ đến khu phố lân cận để thăm hỏi cử tri, thường là có tôi miễn cưỡng theo sau. Chúng tôi đậu chiếc Buick rồi đi bộ dọc theo những con đường có những dãy nhà bungalow khiêm tốn, dừng chân trước một thềm cửa để gặp một bà góa lưng còng hoặc một công nhân nhà máy phệ bụng đang cầm lon bia Michelob đứng sau cánh cửa nhìn ra. Thường thì họ sẽ vui vẻ khi thấy cha tôi tươi cười ngoài hiên, tay chống lên chiếc gậy. “Fraser đó à!”, họ lên tiếng chào. “Ngạc nhiên chưa kìa. Vào nhà đi nào.” Với tôi, điều này chưa bao giờ là tin tốt. Bởi mỗi lần như vậy có nghĩa là chúng tôi sẽ đi vào trong. Nghĩa là cả buổi chiều thứ Bảy của tôi sẽ đi tong khi tôi ngồi chết dí trên chiếc sofa mốc meo hay cầm một lon 7UP ngồi bên bàn bếp trong lúc cha tôi thu thập ý kiến – mà thực chất là những lời phàn nàn – để chuyển đến cho ủy viên hội đồng đang nắm quyền trong phân khu. Khi ai đó gặp vấn đề với việc thu gom rác, dọn tuyết hay gặp phải cái ổ gà phiền toái nào đó trên đường, cha tôi sẽ có mặt để lắng nghe tâm tư của họ. Mục tiêu của ông là giúp mọi người cảm thấy được Đảng Dân chủ quan tâm chăm sóc – và sẽ bầu cho đảng khi đến kỳ tuyển cử. Ông không bao giờ hối thúc ai hết, và tôi vô cùng chán nản với việc này. Thời gian, theo cách ông nhìn nhận, là món quà mà chúng ta trao tặng người khác. Ông cười khùng khục khi ngắm ảnh những đứa cháu kháu khỉnh của ai đó, kiên nhẫn nghe mấy chuyện ngồi lê đôi mách và những bản sớ dài về tình trạng sức khỏe tồi tệ của người khác, và gật gù cảm thông khi nghe ai đó than vãn về chuyện tiền bạc eo hẹp. Đến khi ra về, ông sẽ ôm chào tạm biệt các cụ bà, trấn an họ là ông sẽ giúp hết mình để giải quyết những vấn đề có thể giải quyết được. Cha tôi luôn tin bản thân mình hữu dụng. Đó là điều khiến ông cảm thấy tự hào. Đó cũng là lý do trong những cuộc diễn tập hỏa hoạn tại nhà chúng tôi, ông không thích phải trở thành một món đạo cụ thụ động, thậm chí giả vờ cũng không. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ông cũng không hề có ý định sẽ trở thành gánh nặng – một người nằm bất tỉnh trên sàn nhà. Thế nhưng, một phần nào đó trong ông dường như hiểu rằng việc này quan trọng đối với chúng tôi – đặc biệt là với anh Craig. Khi chúng tôi yêu cầu cha nằm xuống, ông sẽ bày trò chọc cười cả nhà bằng cách khuỵu gối, rồi hạ mông, sau đó ngoan ngoãn xoãi người nằm ngửa trên tấm thảm phòng khách. Ông sẽ liếc mắt nhìn mẹ tôi như muốn nói, “Mấy đứa chết toi này”. Những lúc đó mẹ tôi cũng không nhịn được cười, bỏi với bà thì những việc này đúng là rất khôi hài. Rồi ông sẽ thở dài, nhắm mắt, chờ anh Craig bấu chặt hai tay dưới vai để bắt đầu công tác cứu hộ. Mẹ và tôi khi đó sẽ đứng nhìn anh Craig vừa lóng ngóng vừa cố hết sức kéo cơ thể khoảng tám mươi ký của cha ra khỏi hỏa ngục tưởng tượng đang sôi sục trong tâm trí còn chưa đủ tuổi vị thành niên của anh, lôi ông trên sàn nhà, vòng qua trường kỷ và cuối cùng là tới cầu thang. Tới đây, anh Craig nghĩ là mình có thể thả cho cha trượt xuống các bậc thang, ra đến cửa hông và thế là an toàn; nhưng cha luôn từ chối, không để anh ấy thực hành đoạn này. Ông nhẹ nhàng nói, “Vậy là đủ rồi” và nhất quyết đứng lên trước khi bị anh ấy kéo lê xuống cầu thang. Tuy nhiên, giữa hai người đàn ông đó xem như đã có một thỏa thuận ngầm. Chuyện này không hề dễ dàng hay thoải mái nếu nó thật sự xảy ra, và dĩ nhiên chẳng có gì đảm bảo bất kỳ ai trong số chúng tôi có thể sống sót. Nhưng giả sử điều tồi tệ nhất xảy ra thì ít nhất chúng tôi cũng có kế hoạch dự phòng. DẦN DẦN, TÔI TRỞ NÊN CỞI MỞ và hòa đồng hơn, sẵn lòng đối mặt với sự hỗn loạn của thế giới rộng lớn bên ngoài. Tâm lý chống đối bẩm sinh trong tôi đối với sự hỗn độn và những gì tự phát không theo một trật tự nhất định đã giảm ít nhiều sau những lần tôi theo cha đi gặp gỡ cử tri, sau những chuyến đi chơi cuối tuần khi chúng tôi bất ngờ đến thăm cả chục cô dì chú bác và anh chị em họ, ngồi nướng đồ ăn trong đám khói mịt mù ở sân vườn nhà ai đó, hoặc chơi đùa cùng lũ trẻ hàng xóm ở khu phố xa nhà nào đó. Mời bạn tham gia Group HỘI MÊ SÁCH tại địa chỉ: https://facebook.com/groups/mesachhoi để giao lưu, chia sẻ & thường xuyên được tặng những cuốn sách hay. - https://hoimesach.com Mẹ tôi là con gái trong gia đình có bảy anh chị em. Cha tôi là anh cả trong gia đình có năm anh chị em. Họ hàng nhà ngoại tôi thường tụ họp ở nhà của ông Southside gần đó, bởi ai cũng mê tài nấu ăn của ông và thích chơi những ván bài bid whist[17] liên tu bất tận cùng tiếng nhạc jazz sống động không ngừng. Ông Southside như thỏi nam châm gắn kết tất cả chúng tôi lại với nhau. Ông vĩnh viễn không có niềm tin vào thế giới nằm ngoài khoảnh sân nhà mình, chủ yếu là ông lo lắng cho sự an toàn và sức khỏe của mọi người, và cũng chính vì thế mà ông dốc sức tạo ra một môi trường để chúng tôi luôn được ăn đầy chơi đủ, có lẽ với hy vọng là chúng tôi sẽ không bao giờ muốn rời đi. Thậm chí ông còn tìm cho tôi một chú chó có bộ lông màu nâu vàng đáng yêu mà chúng tôi gọi là Rex. Theo lệnh của mẹ, Rex không được sống trong nhà chúng tôi, nhưng tôi cứ đến nhà ông Southside thăm nó suốt. Tôi thường nằm ườn ra sàn và vùi mặt vào mớ lông mềm mại của nó, lắng nghe đuôi của nó vỗ bộp bộp xuống sàn mừng rỡ mỗi khi ông Southside đi ngang qua. Ông nuông chiều Rex hệt như cách ông nuông chiều tôi, bằng thức ăn, tình yêu thương và sự bao dung, với một mong muốn thầm lặng và tha thiết là đừng rời xa ông. Trong khi đó, gia đình bên nội tôi sống rải rác khắp vùng South Side rộng lớn của Chicago, gồm những bà cô, anh chị em họ thuộc thế hệ thứ ba, cùng một vài người có mối quan hệ huyết thống không rõ ràng. Chúng tôi cứ tới lui thăm hết mọi người. Tôi thường đoán xem cả nhà đang đi đâu qua số lượng cây xanh tôi nhìn thấy hai bên đường. Những khu nhà kém khá giả hơn thường không có cây xanh. Nhưng đối với cha tôi, tất cả đều là máu mủ ruột rà. Ông vui vẻ khi gặp chú Calio của mình, một người đàn ông có vóc dáng gầy gò nhỏ con, tóc xoăn trông như Sammy Davis Jr.w và gần như lúc nào cũng say xỉn. Ông yêu quý cô Vendelle, người đang sống với tám đứa con trong một chung cư xuống cấp cạnh đường cao tốc Dan Ryan, khu phố mà anh Craig và tôi hiểu rằng quy luật sinh tồn của nó rất khác. Vào những chiều Chủ nhật, cả nhà bốn người chúng tôi thường lái xe chừng mười phút về phía bắc đến khu Parkway Gardens để ăn tối cùng ông bà nội – mà chúng tôi gọi là Dandy và Grandma – cùng với ba cô chú út, Andrew, Carleton và Francesca, những người sinh sau cha tôi hơn mười năm và vì thế giống như anh trai, chị gái của chúng tôi hơn là cô chú. Tôi nghĩ cha tôi giống như cha của cả ba cô chú hơn là một người anh, ông thường khuyên nhủ và lén cho tiền họ khi họ cần. Cô Francesca thông minh, xinh đẹp và thỉnh thoảng để tôi chải mái tóc dài của cô. Chú Andrew và Carleton chỉ ngoài hai mươi nhưng cực kỳ phong cách. Họ mặc quần ống loe và áo cổ lọ. Họ sở hữu áo khoác da, có bạn gái và nói về những thứ như Malcolm x[18] [19] và “năng lực da đen”. Anh Craig và tôi từng ngồi hàng giờ liền trong phòng ngủ của hai chú ở phía sau căn hộ, chỉ để “hấp thụ” sự sành sỏi của họ. Ông nội Dandy của tôi cũng tên là Fraser Robinson, và rõ ràng là ông không dễ gần như các cô chú. Tôi thường thấy ông ngồi trên ghế bành hút xì gà, tay cầm tờ báo đang mở và mắt thì dõi theo bản tin buổi tối đang phát trên chiếc tivi gần đó. Thái độ sống của ông nội và cha tôi hoàn toàn khác nhau. Đối với ông Dandy thì mọi thứ đều chướng mắt. Ông khó chịu với những tin tức trong ngày, với tình hình thế giới đang được tường thuật trên truyền hình, với những thanh niên da đen mà ông hay gọi là “đám ngớ ngẩn” chỉ biết lông bông và gieo tiếng xấu cho người da đen ở khắp nơi. Ông hét vào tivi. ông lớn tiếng với bà nội, một phụ nữ ngọt ngào, nhỏ nhẹ và mộ đạo Cơ Đốc giáo tên LaVaughn. (Cha mẹ tôi đặt tên tôi là Michelle LaVaughn Robinson, để thể hiện sự kính trọng đối với bà.) Ban ngày, bà nội quản lý cửa hiệu bán Kinh thánh làm ăn khấm khá ở khu Far South Side một cách chuyên nghiệp, nhưng vào thời gian rỗi bên cạnh ông Dandy, bà lại có dáng vẻ nhu mì mà ngay cả khi còn là một cô bé con thì tôi đã cảm thấy thật kỳ lạ. Bà nấu ăn cho ông và nhận hết những lời phàn nàn của ông mà không hề lên tiếng phản kháng. Ngay từ khi tôi còn bé, sự im lặng và bị động của bà trong mối quan hệ của ông bà có gì đó khiến tôi cảm thấy ám ảnh. Theo lời của mẹ, tôi là người duy nhất trong nhà dám phản kháng ông Dandy mỗi khi ông lớn tiếng. Tôi thường xuyên phản kháng như vậy, từ khi tôi còn rất bé và kéo dài suốt nhiều năm sau đó, một phần là vì tôi tức điên khi bà nội không tự lên tiếng bảo vệ bản thân, phần khác vì ai cũng câm như hến khi ở bên ông, và cuối cùng là vì tình yêu thương tôi dành cho ông cũng không kém gì sự khó chịu mà ông gây ra cho tôi. Cái tính ương bướng cố chấp của ông là thứ tôi có thể nhận ra, là cái tính mà chính tôi cũng có, mặc dù tôi hy vọng kiểu ương bướng của mình ít thô lỗ hơn. Tuy vậy, ông Dandy cũng có những lúc cư xử nhẹ nhàng, điều mà tôi chỉ mơ hồ cảm nhận được. Thỉnh thoảng ông nhẹ nhàng xoa cổ tôi khi tôi ngồi cạnh chân ghế của ông. Ông mỉm cười khi cha tôi nói điều gì đó vui nhộn hoặc khi bọn trẻ chúng tôi có đứa góp chuyện với một từ dí dỏm nào đó. Nhưng rồi lại có thứ gì đó khiến ông mất hứng và ông sẽ bắt đầu cau có trở lại. Những lúc như vậy, tôi sẽ nói, “Đừng la mắng mọi người nữa ông ơi”, hoặc “Đừng cộc cằn với bà như vậy ạ”. Tôi cũng thường nói thêm, “Rốt cuộc thì chuyện gì khiến ông tức giận đến vậy ạ?”. Đáp án cho câu hỏi ấy vừa phức tạp vừa đơn giản, ông Dandy sẽ không trả lời mà chỉ nhún vai cáu kỉnh trước sự chen ngang của tôi và tiếp tục với tờ báo đang đọc. Nhưng khi chúng tôi về nhà, cha mẹ tôi sẽ cố gắng giải thích cho chúng tôi hiểu. Ông Dandy xuất thân từ vùng Low Country, thuộc tiểu bang South Carolina, lớn lên ở khu cảng biển ẩm ướt Georgetown, nơi có hàng ngàn nỏ lệ từng dãi nắng dầm mưa trên những đồn điền rộng lớn, gặt lúa, thu hoạch cây chàm và làm giàu cho cánh chủ nô. Ông nội tôi sinh năm 1912, là cháu của những người nô lệ, con trai một công nhân nhà máy, và anh cả trong gia đình có mười anh chị em. Từ nhỏ đã là đứa trẻ nhanh trí và thông minh, nên ông được đặt biệt danh là “Giáo sư” và từ sớm đã có ý định một ngày nào đó sẽ vào đại học. Nhưng ông không chỉ là một người da đen có xuất thân nghèo khó, mà còn lớn lên ngay trong giai đoạn Đại suy thoái. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi làm tại một xưởng gỗ, vì ông biết rằng nếu còn ở Georgetown thì ông sẽ không có thêm lựa chọn nào khác. Khi xưởng gỗ cuối cùng cũng đóng cửa, như nhiều người Mỹ gốc Phi cùng thế hệ, ông đã chớp thời cơ chuyển lên phía bắc đến Chicago, gia nhập một sự kiện mà sau này được biết đến như Cuộc đại di cư – hành trình của sáu triệu người da đen ở miền nam tái định cư tại các thành phố lớn ở phía bắc trong suốt năm thập kỷ, thoát ly khỏi sự áp bức của thói kỳ thị chủng tộc và theo đuổi những công việc thuộc ngành công nghiệp. Nếu đây là một câu chuyện điển hình của Giấc mơ Mỹ thì khi đặt chân đến Chicago vào đầu những năm 1930, ông Dandy hẳn đã tìm được một công việc tốt cũng như con đường để vào đại học. Nhưng thực tế thì khác xa. Tìm việc là chuyện rất khó khăn, một phần vì thực trạng các nhà quản lý của nhiều nhà máy lớn ở Chicago thường thuê người di dân gốc Âu hơn là các công nhân người Mỹ gốc Phi. Ông Dandy làm bất cứ công việc nào mà ông có thể tìm được, từ dựng ky ở sân bowling, rửa chén đĩa, cho tới làm mấy việc lặt vặt được người ta thuê mướn. Dần dần, ông giảm bớt hy vọng, từ bỏ ý định học đại học mà thay vào đó là chuyển sang học nghề thợ điện. Nhưng hy vọng này cũng nhanh chóng lụi tàn. Nếu muốn trở thành thợ điện (hay công nhân nhà máy thép, thợ mộc, thợ ống nước và các công việc tương tự) ở bất cứ điểm tuyển dụng quy mô lớn nào ở Chicago, bạn cần có thẻ nghiệp đoàn. Mà nếu bạn là người da đen thì rất nhiều khả năng là bạn không bao giờ có được tấm thẻ đó. Chính sự kỳ thị này đã làm thay đổi số mệnh của nhiều thế hệ người Mỹ gốc Phi, trong đó có nhiều người đàn ông trong gia đình tôi, hạn chế thu nhập của họ, thu hẹp cơ hội của họ và cuối cùng là kìm kẹp cả khát vọng của họ. Là một thợ mộc, nhưng ông Southside không được phép làm việc cho những công ty xây dựng lớn vốn có khả năng trả mức lương ổn định từ những dự án lâu dài, vì ông không thể gia nhập nghiệp đoàn lao động. Còn ông Terry, chồng bà Robbie, đã phải từ bỏ sự nghiệp thợ ống nước vì lý do tương tự và trở thành nhân viên phục vụ trên toa tàu hạng sang. Bên nhà ngoại tôi thì có cậu Pete không thể gia nhập nghiệp đoàn tài xế taxi và đã phải chuyển sang lái taxi “chui”, phải đón khách ở những vùng nguy hiểm hơn trong khu West Side, nơi xe khách thông thường không thích lai vãng. Họ là những người đàn ông rất thông minh, khỏe mạnh, không được làm những công việc có thu nhập cao, chính vì vậy họ không thể mua được nhà, không thể cho con cái của mình học đại học, cũng không thể tiết kiệm cho lúc về hưu. Tôi biết họ đau xót khi bị gạt ra lề xã hội, bị mắc kẹt với những công việc không xứng tầm với năng lực của họ và chứng kiến người da trắng vượt mặt. Đôi khi họ còn phải đào tạo những nhân viên mới mà họ biết sau này có thể trở thành cấp trên của mình. Tất cả những chuyện này gieo vào họ sự oán giận, khiến họ mất lòng tin, ít nhất là ở mức độ nào đó: bạn không bao giờ biết người khác nhìn nhận mình ra sao. Về phần ông Dandy, cuộc sống không phải lúc nào cũng tồi tệ. Ông gặp bà nội tôi khi đang đi lễ ở khu South Side, và rốt cuộc ông cũng tìm được việc làm thông qua Cơ quan Quản trị Dự án Việc làm của chính phủ liên bang, một chương trình hỗ trợ thuê lao động không lành nghề cho các dự án xây dựng công cộng trong suốt thời kỳ Đại suy thoái. Sau đó ông trải qua ba mươi năm làm nhân viên bưu tín trước khi nghỉ hưu với mức lương hưu đủ để ông lúc nào cũng có thể ngồi trên chiếc ghế bành thoải mái của mình và chửi bới “đám ngớ ngẩn” trên tivi. Cuối cùng, ông có năm người con cũng thông minh và có tinh thần kỷ luật như mình. Chú Nominee, người con thứ hai của ông, tốt nghiệp Trường Luật Harvard. Hai chú Andrew và Carleton lần lượt trở thành nhân viên điều hành tàu hỏa và kỹ sư. Cô Francesca là giám đốc sáng tạo trong ngành quảng cáo một thời gian và cuối cùng trở thành giáo viên tiểu học. Dù vậy, ông Dandy vẫn không thể mãn nguyện với thành tựu của các con. Mỗi khi đến Parkway Gardens dùng bữa vào tối Chủ nhật, chúng tôi đều nhận ra ông đang sống trong dư vị đắng cay của những giấc mơ vụn vỡ. NẾU NHỮNG CẦU HỎI MÀ TÔI ĐẶT RA cho ông Dandy là khó trả lời, thì tôi cũng nhanh chóng nhận ra là có nhiều câu hỏi khác cũng khó trả lời tương tự như vậy. Trong cuộc sống của mình, tôi cũng bắt đầu đối mặt với những câu hỏi mà tôi chưa sẵn sàng trả lời. Có một cô gái mà tôi không nhớ tên từng hỏi tôi một câu kiểu như vậy. Cô này là em họ xa của tôi, là con của người họ hàng sống trong căn bungalow cách nhà tôi khá xa về phía tây. Mỗi lần mẹ chở anh em tôi tới đó chơi thì cô gái này thường cùng chơi đùa với chúng tôi ở sân sau trong lúc người lớn nói chuyện. Khi người lớn uống cà phê và trò chuyện rôm rả trong bếp, thì ngoài sân bọn trẻ con chúng tôi cũng cùng cười đùa và rượt đuổi nhau. Đôi khi tôi thấy hơi kỳ quặc khi tất cả chúng tôi đều phải gượng gạo làm thân với nhau, nhưng thường thì mọi chuyện cũng ổn. Anh Craig gần như sẽ mất dạng vào một trận bóng rổ, còn tôi thì nhảy dây hoặc cố tham gia vào một cuộc trò chuyện vui vẻ nào đó đang diễn ra. Một ngày hè nọ năm tôi khoảng mười tuổi, tôi ngồi trên thềm nhà tán dóc với một nhóm con gái trạc tuổi mình. Chúng tôi đều tết tóc bím, mặc quần ngắn và về cơ bản thì chỉ đang giết thời gian. Thường chúng tôi sẽ nói về bất kỳ chủ đề nào – trường lớp, mấy ông anh, hay thậm chí là một tổ kiến dưới đất. Đoạn, một đứa con gái trong nhóm – cô em họ thứ hai, ba hay bốn gì đó của tôi – bực dọc liếc nhìn tôi và nói, “Tại sao chị nói năng như một đứa con gái da trắng vậy?”. Đó là một câu hỏi sắc bén, có ý châm chọc hoặc ít nhất cũng là khiêu khích, nhưng cũng rất nghiêm túc. Nó chứa đựng cốt lõi của một điều gì đó khiến cả hai chúng tôi đều bối rối. Chúng tôi có vẻ cùng chung huyết thống nhưng lại đến từ hai thế giới khác nhau. “Làm gì có”, tôi đáp, sững người vì con bé dám có suy nghĩ đó và vô cùng ái ngại khi những đứa con gái khác cứ nhìn tôi chằm chằm. Nhưng tôi biết con bé muốn nói gì. Đó là chuyện không thể chối cãi, kể cả khi tôi vừa mới chối xong. Tôi thật sự có cách nói chuyện khác với nhiều người họ hàng của mình, và anh Craig cũng vậy. Cha mẹ đã dạy chúng tôi thấm nhuần tầm quan trọng của việc phát âm chuẩn, tròn vành, rõ chữ, chẳng hạn nói “cảm ơn” thay vì “củm mơn”. Cha mẹ mua cho chúng tôi một quyển từ điển và trọn bộ Bách khoa toàn thư Britannica. Chúng tôi đặt chúng ngay ngắn trên kệ cầu thang trong căn hộ nhà mình, mỗi tựa sách đều là chữ khắc chìm mạ vàng. Mỗi khi chúng tôi thắc mắc về một từ, một khái niệm hoặc một dữ kiện lịch sử nào đó, cha mẹ sẽ bảo chúng tôi tìm câu trả lời trong những quyển sách đó. Ông Dandy cũng góp phần ảnh hưởng khi tỉ mỉ chỉnh sửa văn phạm hoặc khuyến khích chúng tôi phát âm thật rõ ràng mỗi khi chúng tôi tới nhà ông dùng bữa tối. Mục đích của ông Dandy và cha mẹ tôi là giúp anh em tôi có thể vượt mọi giới hạn để có thể tự mình tiến xa hơn. Họ đã lên kế hoạch cho việc này. Họ đã làm mọi cách để thực hiện kế hoạch này. Họ kỳ vọng chúng tôi không chỉ thông minh, mà còn sở hữu sức mạnh đó và sống với nó một cách tự hào. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến cách chúng tôi nói chuyện. Nhưng chuyện này cũng có thể trở nên phiền toái. Nói chuyện theo “cách của người da trắng” – như vài người nhận định – bị xem là một sự phản bội, là trịch thượng, là ít nhiều chối bỏ văn hóa của chúng tôi. Nhiều năm sau, sau khi gặp và kết hôn với chồng mình – người đàn ông có màu da sáng đối với một số người nhưng lại sậm đối với một số khác, người đàn ông nói chuyện với cung cách của một người Hawaii da đen được đào tạo tại Ivy League{1) và được gia đình da trắng thuộc tầng lớp trung lưu vùng Kansas nuôi nấng – tôi thấy vấn đề này xuất hiện cả trong tâm thức của người da trắng lẫn người da đen trên khắp cả nước, đó là nhu cầu phải đóng khung ai đó trong khuôn khổ chủng tộc của họ, đó cũng là sự khó chịu khi nhu cầu này không được đáp ứng dễ dàng. Nước Mỹ sẽ đặt ra cho Barack Obama những câu hỏi mà em họ tôi đã vô thức đặt ra cho tôi ngày hôm đó trên thềm nhà: Có phải anh đúng là những gì mà anh đang thể hiện? Chúng tôi có thể tin tưởng anh hay không? (1) Ivy League: khối các trường đại học danh tiếng ở Mỹ, bao gồm các trường Brown, Columbia, Cornell, Dartmouth, Harvard, Pennsylvania, Princeton và Yale. Hôm đó tôi đã cố không nói nhiều với cô em họ. Tôi cảm thấy mất hứng vì thái độ thù địch của con bé, nhưng đồng thời cũng muốn con bé nhìn thấy sự chân thực của tôi – tôi không hề có ý trịch thượng khoe mẽ. Tôi không biết phải làm sao. Tôi loáng thoáng nghe thấy cuộc trò chuyện của người lớn đang diễn ra trong gian bếp kế bên, tiếng cười thoải mái của cha mẹ tôi lan tỏa khắp sân. Tôi nhìn anh trai đang nhễ nhại mồ hôi chơi bóng cùng đám trẻ ở góc phố sát bên. Ai nấy đều có vẻ hòa nhập với môi trường xung quanh, trừ tôi. Giờ đây, khi nhìn lại sự khó chịu lúc đó, tôi nhận ra một thử thách to lớn hơn của việc cân bằng giữa việc chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến và muốn đi đến đâu. Tôi cũng nhận ra là hãy còn rất lâu nữa tôi mới tìm được tiếng nói của mình. 4 Ở TRƯỜNG, CHÚNG TÔI CÓ MỘT TIẾNG NGHỈ GIẢI LAO để dùng bữa trưa. Vì mẹ không đi làm và căn hộ của chúng tôi rất gần trường nên tôi thường đi bộ về nhà cùng bốn hay năm đứa con gái khác. Trên đường về, chúng tôi sẽ nói chuyện không ngừng và chuẩn bị về đến nhà là nằm ườn trên sàn bếp để chơi trò chụp banh jacks[20] và xem bộ phim nhiều tập All my Children trên tivi trong lúc mẹ tôi phát cho mấy ổ bánh mì kẹp. Với tôi, chuyện này đã trở thành một thói quen mà tôi duy trì đến tận bây giờ, đó là luôn có một nhóm bạn gái thân thiết và yêu đời để có thể chia sẻ những chuyện-con-gái với nhau. Trong lúc ăn trưa, chúng tôi sẽ bàn tán bất kỳ chuyện gì đã diễn ra ở trường vào sáng hôm đó, những lời than vãn về thầy cô của mình, hay bất cứ bài tập nào mà chúng tôi cảm thấy chẳng mang lại ích lợi gì. Quan điểm của chúng tôi chủ yếu hình thành từ quan điểm chung của cả nhóm. Chúng tôi tôn thờ nhóm nhạc The Jackson 5 và không biết nói sao về nhóm nhạc nhà Osmonds. Vụ bê bối Watergate đã xảy rà và chúng tôi không hiểu gì về nó. Dường như có rất nhiều người lớn đang nói vào micro ở Washington, D.C., nơi mà đối với chúng tôi chỉ là một thành phố xa xôi đầy những tòa nhà màu trắng và người da trắng. Trong khi đó, mẹ tôi rất vui vì được “phục vụ” chúng tôi. Việc đó giúp bà dễ dàng tiếp cận thế giới của chúng tôi. Khi chúng tôi ăn trưa và tán gẫu, bà thường yên lặng đứng cạnh bên, vẫn làm việc nhà nhưng không hề che giấu chuyện mình đang lắng nghe từng chữ một. Dù sao thì chúng tôi cũng không có không gian riêng tư khi cả nhà bốn người phải sống gói gọn trong tám mươi mét vuông. Chỉ thỉnh thoảng điều đó mới trở thành vấn đề. Chẳng hạn như từ lúc đột nhiên có hứng thú với đám con gái, anh Craig đã phải chuồn vào nhà tắm đề nghe điện thoại, khi đó dây điện thoại xoắn tít sẽ bị kéo căng từ vách tường trong bếp và giăng ngang qua hành lang trong nhà. Trong số những ngôi trường ở Chicago, Bryn Mawr nằm đâu đó giữa mức “trường dở” và “trường giỏi”. Sự phân biệt về chủng tộc và kinh tế ở khu South Shore tiếp tục diễn ra suốt những năm 1970, đồng nghĩa với lượng học sinh da đen và học sinh có hoàn cảnh khó khăn mỗi năm một tăng. Từng có cả một phong trào toàn thành kêu gọi đưa đón học sinh từ vùng này sang học trường mới ở vùng khác nhằm thúc đẩy hòa hợp sắc tộc, nhưng những bậc phụ huynh ở Bryn Mawr đã đấu tranh thành công, với lập luận rằng số tiền đó nên được dùng vào việc cải thiện trường lớp. Là trẻ con, tôi không biết điều nào có ảnh hưởng hơn – cơ sở vật chất xuống cấp hay việc gần như không còn đứa trẻ da trắng nào theo học ở trường. Trường Bryn Mawr dạy từ mẫu giáo đến lớp tám, đồng nghĩa với việc khi lên đến các lớp trên thì tôi đã biết rõ từng công tắc bóng đèn, từng tấm bảng và từng vết trám tường ở hành lang. Tôi biết gần như tất cả các thầy cô và quen mặt hết đám học sinh. Với tôi, Bryn Mawr đúng là phiên bản mở rộng của nhà mình. Năm tôi vào lớp bảy, tuần báo phổ biến đối với độc giả Mỹ gốc Phi Chicago Defender đã đăng một ý kiến cay độc cho rằng chỉ trong vòng vài năm, Bryn Mawr đã tuột dốc từ một trong những trường công tốt nhất Chicago thành một “ổ chuột rách nát” được điều hành bởi một “tư duy ổ chuột”. Hiệu trưởng của trường, Tiến sĩ Lavezzi, lập tức phản pháo bằng một lá thư gửi đến biên tập viên của tờ báo. Ông bảo vệ cộng đồng phụ huynh và học sinh của mình, nhận định bài viết đó là “một lời nói dối trắng trợn, dường như được viết ra chỉ để gieo rắc cảm giác thất bại và khiến người ta muốn muốn chạy”. Tiến sĩ Lavizzo có vóc người mập mạp, vui tính, mái tóc Afro xoăn rậm phồng lên ở hai bên vùng đầu hói và là người dành phần lớn thời gian ở trong văn phòng gần cổng trước của trường. Qua bức thư đó, có thể thấy rõ là ông biết chính xác mình đang chống lại điều gì. Ông biết là khi liên tục bị gieo vào đầu cảm giác thất bại thì người ta sẽ thất bại thật. Cảm giác đó bắt nguồn từ sự tự nghi ngờ bản thân, và sau đó, thường là cố tình, được đẩy lên cao bởi nỗi sợ. Những “cảm giác thất bại” mà ông đề cập đã hiện diện ở khắp nơi trong khu phố tôi sống, ở những bậc cha mẹ không thể cải thiện thu nhập, ở những đứa trẻ bắt đầu ngờ rằng cuộc sống của chúng sẽ không khác gì hơn, ở các gia đình đang chứng kiến những người hàng xóm dư dả của mình chuyển đến vùng ngoại ô hoặc chuyển con cái của họ sang học tại các trường Công giáo. Những tay môi giới nhà đất bắt đầu rảo khắp South Shore để săn mồi, rỉ tai dụ các chủ nhà nơi đây hãy bán nhà trước khi quá muộn, rằng họ sẽ giúp gia chủ thoát ra khi còn có thể. Ý của những tay môi giới đó là ngày tàn đang đến, ngày đó là không thể tránh khỏi và nó đã đến rất gần rồi. Bạn có thể để mình mắc kẹt giữa đống đổ nát, hoặc bạn có thể tránh được cảnh đó. Người ta dùng cái từ mà ai cũng dè chừng – “ổ chuột” – như một mồi lửa thả vào đám dầu đang sôi sục. Mẹ tôi không quan tâm những chuyện này. Bà đã sống tại South Shore mười năm, và sẽ còn sống thêm bốn mươi năm nữa ở đây. Bà không tin những kẻ gieo rắc hoang mang, đồng thời cũng có vẻ miễn nhiễm đối với bất kỳ hình thức nào của chủ nghĩa lý tưởng tốt-đẹp- nhưng-phi-thực-tế. Bà là người thực tế điển hình. Bà sẽ kiểm soát những gì mình có thể kiểm soát. Ở Bryn Mawr, bà trở thành một trong những thành viên năng nổ nhất của Hội phụ huynh học sinh và giáo viên. Bà luôn hăng hái hỗ trợ gây quỹ mua trang thiết bị mới cho lớp học, tổ chức những bữa tối tri ân giáo viên và vận động thành lập một lớp đa cấp học chuyên biệt cho học sinh có thành tích xuất sắc. Lớp đa cấp học này là ý tưởng của Tiến sĩ Lavizzo, người đã học ca tối để hoàn tất chương trình tiến sĩ giáo dục và nghiên cứu xu hướng mới về việc phân nhóm học sinh theo năng lực thay vì độ tuổi – về cơ bản là xếp những đứa trẻ sáng dạ chung một nhóm để chúng có thể học nhanh hơn. Ý tưởng này đã gây nhiều tranh cãi và bị chỉ trích là không dân chủ – cũng như bất kỳ chương trình “chuyên và năng khiếu” nào khác. Nhưng đồng thời ý tưởng này cũng nhận được sự ủng hộ như một phong trào cải cách trên khắp nước Mỹ, và tôi chính là người hưởng lợi từ nó trong suốt ba năm cuối ở trường Bryn Mawr. Tôi gia nhập một nhóm khoảng hai mươi học sinh đến từ nhiều cấp lớp khác nhau, học trong một lớp riêng biệt và có thời khóa biểu riêng cho giờ giải lao, ăn trưa, lớp âm nhạc và thể dục. Chúng tôi được trao những cơ hội đặc biệt, bao gồm những chuyến đi hàng tuần đến một trường cao đẳng cộng đồng để tham gia khóa dạy viết nâng cao hoặc giải phẫu chuột trong phòng thí nghiệm sinh học. Còn ở lớp học, chúng tôi thực hiện rất nhiều bài tự học, tự đặt ra mục tiêu riêng và có thể học theo bất kỳ nhịp độ nào mà mình cảm thấy thích hợp nhất. Chúng tôi có những giáo viên tận tâm, đầu tiên là thầy Martinez và sau đó là thầy Bennett, cả hai đều là những người Mỹ gốc Phi lịch thiệp và hóm hỉnh, luôn tập trung lắng nghe ý kiến của học sinh. Rõ ràng nhà trường đã đầu tư cho chúng tôi, và tôi nghĩ chính điều này đã khiến tất cả chúng tôi cố gắng nhiều hơn và cảm thấy bản thân tốt đẹp hơn. Hình thức tự học càng châm lửa cho tính ưa cạnh tranh của tôi. Tôi học bằng hết các bài học và âm thầm theo dõi thứ hạng của mình so với các bạn trong lớp – từ lúc học cách làm phép chia trên giấy cho đến khi học môn đại số căn bản, từ lúc học viết những đoạn văn đơn cho đến khi hí hoáy các bài nghiên cứu hoàn chỉnh. Đối với tôi, chuyện này giống như một trò chơi. Và cũng giống đa số những đứa trẻ khác, khi chơi bất kỳ trò chơi nào khác, tôi hạnh phúc nhất khi dẫn đầu. TÔI KỂ MẸ NGHE mọi chuyện xảy ra ở trường. Bà được “cập nhật tin tức” một lần vào buổi trưa và sau đó là một lần nữa vào buổi chiều, khi tôi lao vào nhà và vội kể ngay với bà trong lúc quẳng cặp xuống sàn và lục lạo đồ ăn vặt. Tôi nhận ra mình không biết chính xác là mẹ làm gì trong lúc hai anh em tôi đi học, chủ yếu là vì tôi chưa bao giờ hỏi. Tôi không biết bà nghĩ gì và cảm thấy ra sao khi trở thành một người nội trợ truyền thống thay vì làm một công việc khác. Tôi chỉ biết mỗi khi tôi về nhà thì sẽ có thức ăn trong tủ lạnh, không chỉ cho riêng tôi mà còn cho bạn bè của tôi nữa. Tôi biết khi lớp sắp có chuyến tham quan, mẹ luôn xung phong tham gia làm người hướng dẫn, diện bộ đầm xinh xắn và son môi sẫm màu, cùng ngồi xe với chúng tôi để đến thăm trường cao đẳng cộng đồng hoặc sở thú. Ở nhà, chúng tôi sống tiết kiệm nhưng không thường nhắc đến hạn mức chi tiêu. Mẹ luôn có cách để cân đối. Bà tự làm móng, tự nhuộm tóc (từng có lần bà vô tình nhuộm tóc thành màu xanh lá), và chỉ có quần áo mới khi cha tôi mua tặng bà nhân dịp sinh nhật. Bà chưa bao giờ giàu có, nhưng bà rất khéo tay. Hồi chúng tôi còn bé, bà đã biến những chiếc vớ cũ trở thành những con rối trông y hệt những nhân vật trong loạt phim hoạt hình The Muppets[21]. Bà tự móc khăn trải bàn. Bà tự may rất nhiều quần áo cho tôi, ít nhất là đến khi tôi vào trung học và kiên quyết đề nghị bà đừng may đồ cho tôi nữa, vì lúc này bỗng nhiên việc có được một chiếc quần jeans thêu ký hiệu thiên nga của Gloria Vanderbilt[22] ở túi trước có ý nghĩa hơn hết thảy mọi thứ. Thỉnh thoảng mẹ thay đổi cách bài trí phòng khách, trải tấm phủ mới lên sofa, đổi các tấm ảnh và tranh treo tường khác. Khi thời tiết ấm lên, bà sẽ tổng vệ sinh nhà cửa để đón xuân như một nghi thức hàng năm mà trong đó bà sẽ “tấn công” trên mọi mặt trận, từ hút bụi, giặt màn cửa và tháo hết các cánh cửa chống bão xuống để lau chùi rồi thay chúng bằng cửa lưới để không khí mùa xuân có thể tràn vào căn hộ nhỏ bé và chật chội của chúng tôi. Sau đó bà sẽ xuống căn hộ của ông bà Robbie và Terry để dọn dẹp cho họ, đặc biệt là khi họ đã cao tuổi và không còn đủ sức. Nhờ mẹ mà đến tận hôm nay, cứ mỗi lần nghe thấy mùi hương nước tẩy rửa Pine-Sol, tôi sẽ bất giác thấy cuộc đời trở nên dễ chịu hơn rất nhiều. Đến mùa Giáng sinh, mẹ càng trở nên đặc biệt sáng tạo. Một năm nọ, bà nghĩ ra cách bọc giàn sưởi của chúng tôi bằng giấy bìa cứng có in hình những viên gạch đỏ, rồi bà tiếp tục dùng bìa cứng làm một ống khói giả, bắt lên trần nhà và một cái lò sưởi giả, sau đó trang trí lò sưởi giả đó như thật. Rồi bà yêu cầu cha tôi – một nghệ sĩ tại gia – vẽ những đốm lửa màu cam trên giấy mỏng, để khi rọi đèn từ đằng sau thì sẽ tạo cảm giác khá giống những ngọn lửa thật. Vào đêm Giao thừa, như một truyền thống gia đình, bà sẽ sắm một giỏ quà đặc biệt đựng đầy các viên phô mai đủ loại, hàu hun khói đóng hộp và nhiều loại xúc xích salami khác nhau. Bà sẽ mời cô út Francesca đến nhà để cùng chơi board game. Chúng tôi gọi pizza cho bữa tối rồi ăn lai rai đến hết ngày. Mẹ tôi sẽ bưng ra các khay bánh cuộn xúc xích, tôm chiên và bánh Ritz phủ phô mai đặc biệt. Khi gần đến Giao thừa, mỗi người chúng tôi sẽ có một ly sâm-banh nhỏ. Mẹ tôi có lối tư duy dạy con mà giờ đây tôi mới nhận ra là thật khác thường và hầu như ít có phụ huynh nào làm được – nó trung lập và mang tính điềm tĩnh đậm chất thiền. Tôi có những người bạn mà tâm trạng của mẹ họ cứ trồi lên sụt xuống theo những vấn đề của con cái, như thể đó là vấn đề của chính mình, và tôi biết nhiều đứa trẻ có cha mẹ bị quá tải với những khó khăn của bản thân nên gần như không để tâm nhiều đến con cái. Mẹ tôi chỉ đơn giản là trầm ổn. Bà không vội phán xét cũng không vội hòa giải. Ngược lại, bà dõi theo tâm trạng của hai anh em chúng tôi và điềm tĩnh chứng kiến mọi khó khăn và những gì chúng tôi đạt được trong ngày. Khi chuyện trở nên tồi tệ, bà chỉ an ủi chúng tôi một chút. Khi anh em tôi làm được chuyện gì đó ra trò, mẹ cũng chỉ khen ngợi vừa đủ để chúng tôi biết là bà đang hài lòng, chứ bà không bao giờ khen quá lời đến mức biến lời khen trở thành động lực để chúng tôi làm hay không làm một việc nào đó. Lời khuyên của bà, nếu có, thường là kiểu lời khuyên vừa thực tế vừa cứng rắn. “Con không cần phải thích giáo viên của con”, bà nói khi nghe tôi càu nhàu. “Nhưng cô giáo đó có những kiến thức toán học mà con cần. Hãy tập trung vào chuyện đó và bỏ qua những chuyện râu ria khác.” Dù rất yêu thương anh Craig và tôi, nhưng bà không bao giờ bao bọc thái quá. Mục tiêu của bà là đẩy chúng tôi ra thế giới bên ngoài. “Mẹ không nuôi dạy trẻ con”, bà nói với anh em chúng tôi. “Mẹ đang nuôi dạy người trưởng thành.” Cha mẹ tôi thường đưa ra các hướng dẫn chứ không phải là các quy tắc. Điều đó có nghĩa là hồi còn là những đứa trẻ vị thành niên, chúng tôi chưa bao giờ có giờ giới nghiêm. Thay vào đó, họ sẽ hỏi, “Con về nhà vào lúc nào là hợp lý?” và rồi tin tưởng chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa. Có một lần, anh Craig kể chuyện về cô gái mà anh ấy thích hồi lớp tám và chuyện một ngày nọ cô ấy mở lời mời mọc anh ấy sang nhà chơi, cố tình nhấn mạnh là cha mẹ của cô ấy không có ở nhà và như vậy thì cả hai sẽ được thoải mái bên nhau. Sau đó anh đã khổ sở giằng co giữa việc đi hay không đi; anh bị kích thích bởi cơ hội có được, nhưng cũng biết chuyện đó là vụng trộm và đáng hổ thẹn, là kiểu hành vi mà cha mẹ tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Lúc đó anh có kể với mẹ tôi một nửa sự thật, tức là anh cho bà biết về cô bạn kia nhưng lại nói rằng cả hai sẽ gặp nhau ở công viên. Nhưng rồi có lẽ là do có chút cắn rứt lương tâm, sau cùng anh Craig đã thú nhận với mẹ tôi toàn bộ kế hoạch kia với hy vọng mẹ sẽ tức giận và cấm anh đi. Nhưng không, mẹ không nổi giận. Đó không phải là cách của mẹ. Bà lắng nghe, nhưng không tháo dỡ gánh nặng lựa chọn cho anh Craig. Trái lại, mẹ trả lại anh ấy sự giằng co bằng một cái nhún vai. “Hãy xử lý theo cách mà con nghĩ là tốt nhất”, bà nói trước khi quay lại với đống chén đĩa trong chậu hoặc mớ quần áo cần được xếp vào tủ. Đó là một cú hích nhẹ để đẩy chúng tôi đến gần với thực tế. Tôi chắc chắn trong thâm tâm mẹ đã biết anh Cralg sẽ đưa ra lựa chọn đúng đắn. Bây giờ tôi nhận ra mỗi quyết định của bà đều được củng cố bởi một niềm tin thầm lặng là bà đã nuôi dạy hai anh em chúng tôi thành người trưởng thành. Chúng tôi là người quyết định. Đây là cuộc đời của chúng tôi, không phải của bà, và sẽ luôn như vậy. KHI MƯỜI BỐN TUỔI, về cơ bản thì tôi đã nghĩ mình đi được nửa chặng đường để trở thành người lớn – thậm chí có lẽ là hai phần ba. Tôi có kinh nguyệt, và tôi ngay lập tức háo hức thông báo với mọi người trong nhà, vì đơn giản đó là cách của gia đình tôi. Tôi không còn mặc áo lá mà chuyển sang mặc một chiếc áo ngực khiến tôi trông có vẻ nữ tính hơn một chút, và điều này cũng làm tôi phấn khởi. Thay vì về nhà để dùng bữa trưa, giờ đây tôi ăn với bạn học tại phòng của thầy Bennett trong trường. Thay vì sang nhà ông Southside vào các ngày thứ Bảy để nghe mấy đĩa nhạc jazz của ông và chơi với chú chó Rex, tôi đạp xe ngang qua nhà ông, thẳng về phía đông để đến căn bungalow trên Đại lộ Oglesby, nơi chị em nhà Gore sinh sống. Chị em nhà Gore là bạn thân của tôi và tôi cũng hơi thần tượng họ. Diane học cùng lớp với tôi, còn Pam thì học sau một lớp. Cả hai đều là những cô gái xinh xắn – Diane có màu da sáng, và da Pam thì sậm hơn – mỗi người đều toát lên vẻ đẹp riêng. Kể cả em gái Gina, người nhỏ hơn họ vài tuổi, cũng sở hữu vẻ đẹp nữ tính mà tôi cho là đặc điểm của nhà Gore. Nhà của chị em họ ít khi có đàn ông. Cha họ không sống ở đó và ít khi được nhắc tới. Họ có một người anh lớn hơn rất nhiều tuổi chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện. Bà Gore là một phụ nữ vui vẻ, lôi cuốn và bà làm việc toàn thời gian. Bà có một bàn trang điểm đầy những chai nước hoa, hộp phấn trang điểm và đủ loại dầu làm đẹp được đựng trong những chiếc lọ nhỏ mà tôi cảm thấy cứ như là những món trang sức đẹp lạ – vì mẹ tôi ở nhà rất dung dị. Tôi rất thích đến nhà họ chơi. Pam, Diane và tôi huyên thuyên về những đứa con trai mình thích. Chúng tôi bôi son bóng lên môi và ướm thử quần áo của nhau, để rồi chợt nhận ra một số kiểu quần tây sẽ khiến mông chúng tôi có vẻ cong hơn. Ngày ấy tôi tiêu tốn nhiều năng lượng cho mấy suy nghĩ vẩn vơ, chẳng hạn như tôi thường ngồi một mình trong phòng nghe nhạc, tơ tưởng về điệu nhảy slow với một anh chàng điển trai nào đó, hoặc nhìn ra cửa sổ, hy vọng người mà mình đang để ý sẽ chạy lướt qua. Thế nên thật may khi tôi tìm được những cô chị em gái để cùng trải qua những năm tháng đó. Bọn con trai không được phép vào nhà Gore, nhưng họ cứ lảng vảng xung quanh. Họ đạp xe tới lui trên vệ đường. Họ ngồi ở bậc thềm trước cửa, hy vọng Diane hay Pam sẽ đi ra ngoài để được dịp tán tỉnh. Thật thú vị khi chứng kiến quá trình ôm cây đợi thỏ này, ngay cả khi tôi không chắc toàn bộ những chuyện này có ý nghĩa gì. Nhìn đâu tôi cũng thấy những cơ thể thanh xuân đang trổ mã. Bọn con trai ở trường bỗng cao lớn như đàn ông và hành xử kỳ quái, năng lượng lên xuống thất thường còn giọng nói thì cứ ồm ồm. Trong khi đó, một số cô bạn tôi trông như đang tuổi mười tám; họ đi dạo trong trang phục quần ngắn cũn cỡn và áo yếm, ra vẻ hiểu đời và vô cùng tự tin như thể các cô nàng biết một bí mật nào đó, như thể giờ đây họ đang ở một trình độ khác – trong khi đám chúng tôi vẫn bối rối và còn có vẻ hơi ngờ nghệch, đợi đến lượt mình được bước vào thế giới của người lớn. Chúng tôi trông như những cô ngựa non đang nhổ giò, non đến độ có bôi bao nhiêu son bóng cũng không thể nào bớt non được. Như rất nhiều đứa con gái khác, tôi bắt đầu nhận thức về cơ thể mình từ sớm, rất lâu trước khi tôi ra dáng là một phụ nữ. Tôi tự đi lại trong khu phố nhà mình nhiều hơn và ít đi cùng cha mẹ. Tôi tự đón xe buýt nội thành để đến lớp khiêu vũ buổi tối tại Học viện Mayfair trên Đường 79, nơi tôi đang học nhảy jazz và nhào lộn. Thỉnh thoảng tôi chạy việc vặt cho mẹ. Tất nhiên, cùng với sự tự do mới có được của tuổi mới lớn này là những hiểm họa tiềm ẩn mới. Tôi tập nhìn thẳng về phía trước mỗi khi đi ngang qua một nhóm đàn ông tụ tập ở góc đường, vờ không để ý thấy ánh mắt họ đang nhìn vào ngực hay chân tôi. Tôi biết mình phải phớt lờ tiếng huýt sáo trêu ghẹo. Tôi biết chỗ nào trong khu chúng tôi sống được cho là nguy hiểm hơn các nơi khác. Tôi biết không nên ra đường một mình vào buổi tối. Ở nhà, cha mẹ tôi đã có một sự nhượng bộ lớn trước thực tế là họ đang có hai đứa trẻ tuổi vị thành niên đang lớn trong nhà. Họ cải tạo hành lang phía sau bếp và biến nó thành phòng ngủ cho anh Craig, khi ấy đang học năm thứ hai trung học. Vách ngăn mỏng dính mà ông Southside làm cho chúng tôi nhiều năm trước đã được dỡ bỏ. Tôi dọn sang nơi từng là phòng ngủ của cha mẹ, còn họ dời vào nơi từng là phòng của anh em chúng tôi, và thế là lần đầu tiên trong đời, chúng tôi thật sự có không gian riêng tư. Phòng ngủ mới của tôi đẹp như mơ, có ga giường và ga gối họa tiết hoa lá màu xanh dương và trắng, một tấm thảm màu xanh nước biển mát rượi, và một chiếc giường công chúa màu trắng có tủ và đèn ngủ đồng bộ – một bản sao gần như hoàn hảo của mẫu thiết kế phòng ngủ mà tôi thích trong catalog của Sears. Cha mẹ còn nối cho anh em tôi mỗi người một chiếc điện thoại trong phòng – điện thoại của tôi có màu xanh nhạt để hợp với căn phòng mới của tôi, còn điện thoại của anh Craig thì có màu đen nam tính – điều này đồng nghĩa với việc chúng tôi có thể tương đối tự do làm việc riêng. Thực tế là tôi đã sắp đặt nụ hôn đầu đời của mình qua điện thoại. Đó là nụ hôn với một cậu bạn tên Ronnell. Ronnell không học cùng trường hay sống cùng khu phố với tôi, nhưng cậu ấy hát cho dàn hợp xướng thiếu nhi Chicago với cô bạn cùng lớp Chiaka của tôi, và khi được Chiaka giới thiệu thì theo cách nào đó, chúng tôi đã biết là mình thích nhau. Các cuộc gọi giữa chúng tôi có hơi kỳ lạ, nhưng tôi không bận tâm. Tôi thích cảm giác được người khác thích mình. Tôi cảm thấy một chút háo hức mỗi khi điện thoại đổ chuông. Có phải là Ronnell không? Tôi không nhớ ai trong chúng tôi đã đề nghị gặp nhau bên ngoài vào một buổi chiều để thử hôn nhau, nhưng chúng tôi không hề dè dặt với đề nghị đó và không cần phải nói tránh đi. Chúng tôi không “đi chơi” hay “đi dạo”. Chúng tôi sẽ hôn nhau. Và chúng tôi đều sẵn sàng cho chuyện đó. Đó là lý do tôi ngồi xuống ghế đá bên cửa hông nhà mình, nơi có thể nhìn toàn cảnh các cánh cửa sổ hướng nam cùng với những luống hoa của bà Robbie, và đắm đuối trong nụ hôn nồng nàn với Ronnell. Chuyện chẳng có gì kinh thiên động địa hay cực kỳ phấn khích, nhưng cơ bản là chuyện đó khá vui. Tôi bắt đầu thấy ở quanh đám con trai thật là vui. Dần dần tôi không còn cảm giác mình đang làm nghĩa vụ của một cô em gái khi dành hàng giờ đồng hồ xem anh Craig đấu bóng từ ghế súp ở hết phòng tập này đến phòng tập khác. Vì một trận đấu bóng có thể là gì khác nếu không phải là một cuộc trình diễn của đám con trai? Tôi sẽ chọn mặc chiếc quần jeans bó sát nhất, đeo thêm vài chiếc vòng tay và thỉnh thoảng dẫn theo một chị em nhà Gore để tăng sức hút của mình trên khán đài. Và rồi tôi tận hưởng từng phút của trận đấu bóng nhễ nhại mồ hôi trước mắt – những cú nhảy hoặc tấn cống, tiếng rì rầm và la hét, chất nam tính và tất cả những bí ẩn của nó đang được bày ra trước mắt. Khi một anh chàng ở đội JV mỉm cười với tôi lúc rời sân vào một tối nọ, tôi cười đáp lại ngay. Tôi cảm giác như tương lai của mình vừa bắt đầu mở ra. Tôi dần dần tách khỏi cha mẹ và ít nói ra mọi suy nghĩ trong đầu của mình hơn. Mỗi khi xem xong các trận đấu của anh Craig, tôi thường ngồi ở băng ghế phía sau chiếc Buick và im lặng suốt quãng đường về nhà. Cảm xúc của tôi quá sâu kín hoặc quá lộn xộn đến mức không thể chia sẻ với cha mẹ. Tôi rơi vào trạng thái cô đơn của một đứa trẻ tuổi dậy thì và tin là những người lớn xung quanh chưa bao giờ trải qua những gì tôi đang trải qua. Có những buổi tối sau khi đánh răng xong, tôi bước ra khỏi nhà tắm và thấy căn hộ tối đen – đèn đóm trong nhà đã tắt hết và ai cũng an ổn trong không gian riêng. Tôi nhìn ánh sáng hắt ra từ khe cửa phòng anh Craig và biết anh ấy đang làm bài tập về nhà. Tôi thấy ánh sáng tivi le lói từ phòng cha mẹ và nghe tiếng họ thủ thỉ, cười đùa với nhau. Tôi chưa bao giờ thắc mắc về ý nghĩa của hôn nhân, cũng chưa bao giờ thắc mắc xem làm một người mẹ và người nội trợ toàn thời gian là như thế nào. Tôi thấy sự gắn kết của cha mẹ tôi là hiển nhiên. Đó là một thực tế đơn giản và rõ ràng, là nền tảng hình thành cuộc sống của cả bốn người chúng tôi. Rất lâu sau này mẹ tôi mới kể rằng hàng năm khi xuân về và bầu không khí ở Chicago ấm dần lên, bà lại lan man ý nghĩ rời bỏ cha tôi. Tôi không biết những suy nghĩ đó có thật sự nghiêm túc hay không. Tôi không biết bà nghĩ về chuyện đó trong chỉ một giờ, một ngày, hay suốt cả mùa xuân, nhưng đối với bà thì đó thật sự là một ý tưởng kỳ quặc nhưng tích cực, một điều gì đó lành mạnh, mà chỉ cần nghĩ đến thôi cũng có thể mang lại động lực, tựa như một nghi lễ vậy. Giờ đây tôi hiểu rằng ngay cả một cuộc hôn nhân hạnh phúc nhất cũng có thể trở thành một sự phiền toái, rằng đó là một hợp đồng mà tốt nhất là nên được làm mới liên tục, cho dù là theo cách yên lặng và âm thầm – thậm chí là đơn phương. Tôi không nghĩ mẹ từng thẳng thắn nói ra những nghi ngờ và bất mãn của mình với cha, và tôi cũng không nghĩ mẹ đã chia sẻ với cha về những cuộc đời khác mà mẹ đã mơ đến trong suốt những khoảng thời gian đó. Phải chăng bà đã tưởng tượng mình ở trên một hòn đảo nhiệt đới nào đó? Với một kiểu người đàn ông khác, trong một ngôi nhà khác, hoặc làm việc trong một văn phòng nào đó thay vì ở nhà chăm sóc hai đứa trẻ? Tôi không biết, và tôi nghĩ mình có thể hỏi mẹ, người mà giờ đây đã ngoài tám mươi, nhưng tôi nghĩ chuyện đó không còn quan trọng nữa. Nếu bạn chưa bao giờ trải qua mùa đông ở Chicago, hãy để tôi miêu tả cho bạn biết: Bạn có thể phải sống suốt một trăm ngày dưới bầu trời xám xịt trông như một cái nắp bao trùm cả thành phố. Những cơn gió buốt giá thổi đến từ phía Hồ Michigan. Tuyết rơi theo hàng chục cách khác nhau – rơi ào ào về đêm, rơi nghiêng nghiêng lất phất vào ban ngày, rơi dưới dạng một cơn mưa tuyết ướt át làm nản lòng khách bộ hành và rơi nhẹ nhàng như trong mấy câu chuyện cổ tích. Thường thì sẽ có rất nhiều băng tuyết cần được lau dọn trên vệ đường và những tấm kính chắn gió ô-tô. Mỗi sáng sớm sẽ có tiếng cạo tuyết rột roạt vang lên khi người ta chuẩn bị lấy xe đi làm. Bạn thậm chí cũng khó nhận ra người hàng xóm, bởi họ sẽ khoác tấm áo dày cộp và cúi gằm mặt để tránh gió thốc. Xe dọn tuyết của thành phố sẽ rảo khắp các con đường và những đống tuyết trắng thì cứ chất cao và ngày càng bám bẩn. Tuy nhiên, cuối cùng thì sẽ có một chuyện xảy ra. Một quá trình đảo chiều chậm chạp bắt đầu. Nó có thể rất khó nhận ra – một luồng hơi ẩm trong không khí, một chút sáng sủa của bầu trời. Bạn cảm nhận điều đó trước hết trong tim mình, rằng mùa đông hẳn đã qua đi. Thoạt đầu bạn có thể không tin, nhưng rồi bạn sẽ tin. Vì giờ đây mặt trời đã ló dạng, những chồi non bé xíu xuất hiện trên cây, và hàng xóm đã cởi bỏ tấm áo choàng mùa đông nặng nề. Và vào buổi sáng mà bạn quyết định mở mọi cánh cửa sổ trong nhà để lau kính và lau sạch tuyết trên bệ cửa, có lẽ sẽ có một sự thảnh thơi mới mẻ nào đó trong suy nghĩ của bạn. Nó khiến bạn nghĩ ngợi, tự hỏi mình có bỏ lỡ cơ hội nào không khi trở thành vợ của người đàn ông này trong ngôi nhà với những đứa trẻ này. Có lẽ bạn sẽ dành cả ngày để cân nhắc những cách sống mới, cho đến khi cuối cùng bạn cũng gắn lại mọi cánh cửa vào khung và đổ bỏ xô nước tẩy rửa Pine-Sol vào bồn. Và có lẽ giờ đây bạn đã quay về với hiện thực, vì mùa xuân đã đến, đúng vậy, và một lần nữa bạn quyết định ở lại chốn này. 5 Rốt cuộc mẹ tôi cũng đi làm trở lại. Đó là thời điểm tôi vừa lên trung học. Bà quyết định ra khỏi nhà, hướng về khu trung tâm đông đúc với những tòa nhà cao chọc trời của Chicago, tại đó bà tìm được một công việc là trợ lý trong một ngân hàng. Bà sắm một tủ quần áo dành riêng để đi làm và bắt đầu hành trình di chuyển mỗi sáng để đến chỗ làm, hoặc bà sẽ đón xe buýt đi về phía bắc trên Đại lộ Jeffery, hoặc quá giang cha tôi trên chiếc Buick nếu giờ khởi hành của hai người trùng nhau. Đối với bà, công việc đó là một sự thay đổi tốt đẹp trong thói quen sinh hoạt, và đối với gia đình chúng tôi thì đó ít nhiều cũng là một điều cần thiết cho tình hình tài chính của cả nhà. Cha mẹ tôi đã phải trả học phí để anh Craig theo học trường Công giáo. Anh ấy bắt đầu nghĩ đến chuyện học đại học, và không bao lâu sẽ đến lượt tôi. Anh trai tôi giờ đây đã lớn hẳn, trở thành một thanh niên cao lớn tuấn nhã với đôi chân có sức bật phi thường và được xem là một trong những vận động viên bóng rổ xuất sắc nhất thành phố. Ở nhà, anh ăn rất nhiều. Anh có thể nốc cạn cả mấy lít sữa, ngốn sạch vài chiếc pizza cỡ đại chỉ trong một bữa ăn và thường ăn vặt từ sau bữa tối cho tới trước khi đi ngủ. Anh vẫn có cách để vừa thoải mái vừa tập trung cao độ, duy trì một đống quan hệ bạn bè và thành tích học tập tốt, đồng thời xuất sắc trong vai trò vận động viên bóng rổ – như trước giờ vẫn vậy. Anh đi khắp vùng Midwest* [23]) để tham dự giải đấu nghiệp dư mùa hè cùng đội bóng rổ, và trong đội có siêu sao hạt giống Isiah Thomas, người sau này được đề tên trong Nhà lưu danh của Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia Mỹ NBA. Khi vào trung học, anh Craig đã được vài huấn luyện viên của các trường công lập hàng đầu Chicago săn đón để trám vào chỗ trống của đội nhà. Các đội bóng này thu hút cả những đám đông rầm rộ lẫn những chuyên gia săn lùng tài năng thể thao cho trường đại học, nhưng cha mẹ tôi cương quyết không để anh Craig hy sinh quá trình phát triển trí tuệ bản thân để đổi lấy vinh quang sớm nở tối tàn của một hiện tượng thể thao học đường. Trường Mount Carmel, nơi sở hữu đội bóng mạnh thi đấu ở giải bóng rổ trường Công giáo và có một chương trình đào tạo chặt chẽ, có vẻ là lựa chọn tối ưu – xứng đáng với số học phí cả ngàn đô-la mà cha mẹ tôi phải đóng. Giáo viên dạy anh Craig là những tu sĩ mặc áo thụng nâu và được gọi là “Cha”. Khoảng 80% bạn cùng lớp của anh là người da trắng, nhiều người trong số đó là người Công giáo gốc Ireland đến từ các khu phố lao động da trắng xa trung tâm. Đến cuối năm nhất trung học thì anh ấy đã được nhiều đội bóng trường đại học Hạng săn đón, một số trường đề nghị miễn hết học phí cho anh. Thế nhưng cha mẹ tôi vẫn giữ vững lập trường là anh ấy nên tiếp tục cân nhắc mọi lựa chọn, với mục tiêu là vào trường đại học nào tốt nhất có thể. Về phần mình, họ có chút lo lắng về học phí. Trong khi đó, quá trình học trung học của tôi không khiến gia đình tốn kém gì ngoài tiền vé xe buýt. Tôi may mắn được tham gia thi tuyển vào trường chuyên đầu tiên của Chicago, trường trung học Whitney M. Young, nằm trong khu vực đang xuống cấp ở ngay phía tây khu Loop. Sau vài năm được thành lập, ngôi trường này đang trên đường trở thành trường công lập hàng đầu thành phố. Trường Whitney Young được đặt theo tên một nhà hoạt động dân quyền và bắt đầu mở cửa từ năm 1975 như một phương án thay thế tích cực cho việc đưa đón học sinh vùng này sang học ở vùng khác để thúc đẩy sự hòa hợp sắc tộc. Nằm ngay ranh giới giữa North Side và South Side, có những giáo viên mang tư tưởng cấp tiến và cơ sở vật chất mới tinh, ngôi trường được xây dựng như thiên đường của sự bình đẳng về cơ hội, với mục đích thu hút học sinh có thành tích học tập cao thuộc mọi sắc tộc. Chỉ tiêu tuyển sinh do ban đặc trách học khu Chicago đặt ra yêu cầu trường phải có 40% học sinh da đen, 40% học sinh da trắng và 20% học sinh gốc Mỹ La-tinh hoặc các nhóm khác. Nhưng thực tế diễn ra hơi khác. Khi tôi vào học, có khoảng 80% học sinh của trường không phải là người da trắng. Hành trình đến trường vào ngày nhập học đầu tiên của năm lớp chín không thôi đã là cả một chuyến phiêu lưu mới mẻ, bao gồm chín mươi phút căng não đi hai tuyến xe buýt khác nhau và một lần đổi xe trung chuyển vào trung tâm. Năm giờ sáng hôm đó, tôi tự bật dậy và mặc đồ mới, đeo một đôi bông tai xinh xắn, tự hỏi từng ấy món sẽ được đón nhận ra sao ở trạm cuối của chuyến xe. Tôi ăn sáng, tự hỏi không biết bữa trưa sẽ ra sao. Tôi chào tạm biệt cha mẹ, tự hỏi đến cuối ngày thì tôi có còn là mình nguyên vẹn như thế này không. Trường trung học là một thay đổi lớn đối với hầu hết mọi người; và với tôi, vào học trường Whitney Young thật sự là một trải nghiệm hoàn toàn mới. Ngôi trường đẹp đến choáng ngợp và rất hiện đại, không giống với bất kỳ ngôi trường nào mà tôi từng thấy. Trường gồm ba khối nhà lớn, trong đó có hai khối nhà thông với nhau bởi một cây cầu bộ hành bằng kính đẹp mắt bắc ngang Đại lộ Jackson nhộn nhịp. Các phòng học có phong cách mở và được thiết kế tỉ mỉ. Có cả một tòa nhà dành riêng cho bộ môn nghệ thuật, bao gồm những phòng chuyên dụng dành cho dàn hợp xướng và các ban nhạc tập diễn, và nhiều phòng khác được trang bị đầy đủ dụng cụ và trang thiết bị để dạy nhiếp ảnh và cả làm gốm. Ngôi trường được xây dựng như một thánh đường dành riêng cho việc học tập. Và hôm đó, tại thánh đường này, các học sinh ùa vào lối đi chính cùng với quyết tâm cao độ ngay từ ngày đầu đến lớp. Có khoảng một ngàn chín trăm học sinh theo học tại Whitney Young, và nhìn chung, tôi thấy họ đều có vẻ lớn hơn và tự tin hơn tôi – họ kiểm soát được từng tế bào não của mình và được tiếp thêm sức mạnh qua từng câu trắc nghiệm mà họ đã làm đúng trong bài kiểm tra năng khiếu toàn thành phố. Nhìn xung quanh, tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé. Hồi ở Bryn Mawr, tôi thuộc nhóm đàn anh đàn chị, còn giờ đây tôi là một trong những học sinh nhỏ tuổi nhất. Khi xuống xe buýt, tôi để ý thấy ngoài cặp sách, rất nhiều nữ sinh còn mang theo túi xách tay. Nếu phân loại những nỗi lo của tôi thời trung học thì phần lớn chúng đều được xếp vào một nhóm: Mình có đủ giỏi chưa. Đó là câu hỏi đã đeo bám tôi suốt tháng đầu tiên, ngay cả khi tôi bắt đầu ổn định, ngay cả khi tôi đã quen với những lần thức dậy khi mặt trời còn chưa ló dạng và di chuyển qua các tòa nhà để đến lớp. Whitney Young được chia thành năm “nhà”, mỗi nhà có chức năng giống như tổ ấm cho các thành viên, vận hành với mục đích mang đến cảm giác thân thuộc và gắn bó cho trải nghiệm học tập tại một ngôi trường lớn. Tôi là thành viên của Nhà Vàng, nơi được quản lý bởi thầy Smith, trợ lý hiệu trưởng, người hóa ra chỉ sống cách chúng tôi vài căn nhà trên Đại lộ Euclid. Trước đây thầy Smith từng thuê tôi làm những việc lặt vặt cho thầy và gia đình của thầy trong suốt nhiều năm, từ trông trẻ, dạy đàn cho tới huấn luyện chú cún bất trị nhà họ. Gặp được thầy Smith ở trường khiến tôi cảm thấy khá dễ chịu, bởi thầy giống như chiếc cầu nối giữa Whitney Young và khu tôi sống, nhưng dù vậy thì chuyện này vẫn không thể xóa đi nỗi bất an trong tôi. Ở Ở khu tôi sống, chỉ có vài đứa trẻ theo học trường Whitney Young, trong đó có cậu bạn hàng xóm Terri Johnson, cô bạn Chiaka học chung từ hồi mẫu giáo, cùng với một, hai cậu bạn khác. Vài đứa chúng tôi đi học trên cùng chuyến xe buýt vào buổi sáng, nhưng khi ở trường thì chúng tôi sinh hoạt trong các nhà khác nhau, thân ai nấy lo. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi không có sự bảo hộ ngầm của anh trai. Từ trước đến giờ anh Craig luôn mở đường cho tôi, bằng phong cách đủng đỉnh và vui vẻ của anh. Hồi ở trường Bryn Mawr, anh được giáo viên quý mến nhờ sự hòa nhã, đồng thời anh cũng có được sự tôn trọng nhất định trên sân bóng. Anh ấy tạo ra một vùng trời rực rỡ mà tôi chỉ cần đặt chân bước vào. Hầu như đi đến đâu, tôi cũng được biết đến như em gái của Craig Robinson. Nhưng giờ đây tôi chỉ là Michelle Robinson, không có anh Craig theo sau nữa. Ở Whitney Young, tôi phải tự tìm chỗ đứng cho mình. Chiến thuật ban đầu của tôi là giữ yên lặng và cố gắng quan sát các bạn học mới. Rốt cuộc thì những đứa trẻ này là ai? Tôi chỉ biết là họ thông minh. Một sự thông minh đã được chứng thực. Một sự thông minh đã qua tuyển chọn. Chắc hẳn đó là những đứa trẻ giỏi nhất Chicago. Nhưng có phải tôi cũng giống họ không? Có phải tất cả chúng tôi – tôi, Terri và Chiaka – có mặt ở đây vì chúng tôi cũng là những đứa trẻ thông minh như họ không? Sự thật là tôi không biết. Tôi không biết chúng tôi có thông minh như họ hay không. Tôi chỉ biết chúng tôi là những học sinh giỏi nhất đến từ nơi vốn được cho là ngôi trường thường thường bậc trung chủ yếu chỉ có học sinh da đen theo học trong khu vực cũng thường thường bậc trung chủ yếu chỉ có người da đen sinh sống. Nhưng nếu như vậy vẫn chưa đủ thì sao? Nếu thật ra chúng tôi chỉ là những thằng chột trong xứ mù thì sao? Đây chính là nỗi ngờ vực cứ quẩn quanh trong tâm trí tôi suốt tuần lễ hướng dẫn học viên mới, suốt những giờ học đầu tiên của môn sinh học và tiếng Anh, suốt các cuộc trò chuyện làm quen có phần lóng ngóng của tôi ở căng-tin trường với những người bạn mới. Chưa đủ. Chưa đủ. Đó là nỗi ngờ vực về xuất thân của bản thân và những gì tôi tin về bản thân mình tính tới thời điểm này. Nó giống một tế bào ác tính cứ hăm he phân bào cho đến khi tôi có thể tìm được cách áp chế nó. TÔI NHẬN RA CHICAGO rộng lớn hơn những gì mình tưởng tượng rất nhiều. Đây là một phát hiện mà tôi ghi nhận từ từ mỗi ngày, thường là trong lúc buộc phải đứng vì không đủ chỗ ngồi trên những chuyến xe buýt kéo dài ba giờ đồng hồ, bắt đầu từ Đường 75 và rồ rồ chạy qua một mê lộ các trạm dừng. Qua ô cửa kính, tôi chậm rãi quan sát vùng Southside một cách trọn vẹn – những cửa hàng và quán thịt nướng nơi góc phố vẫn đóng kín cửa trong ánh sáng nhàn nhạt của buổi sớm mai, các sân bóng rổ và sân chơi lát gạch còn đang vắng tanh. Xe chúng tôi chạy hướng bắc theo đường Jeffery rồi sang hướng tây theo Đường 67, sau đó lại đi theo hướng Bắc, rẽ tới rẽ lui và cứ đi được hai dãy phố sẽ dừng lại một lần để đón khách. Chúng tôi băng qua khu vực Jackson Park Highlands và Công viên Hyde, nơi có Đại học Chicago nằm khuất sau cánh cổng khổng lồ bằng sắt uốn hoa văn. Sau một quãng thời gian dài như vô tận, cuối cùng xe cũng tăng tốc trên cung đường Lake Shore, chạy dọc theo bờ Hồ Michigan uốn cong về phía bắc và tiến vào trung tâm thành phố. Tôi có thể cho bạn biết là đi xe buýt không vội được đâu. Bạn lên xe, và bạn chịu đựng. Mỗi buổi sáng, tôi chuyển xe trên Đại lộ Michigan ở trung tâm thành phố ngay vào giờ cao điểm, sau đó bắt chuyến xe dọc đường Van Buren để đi về phía tây, nơi mà cảnh vật chí ít cũng có vẻ hấp dẫn hơn khi chúng tôi chạy ngang qua các trụ sở ngân hàng có cửa chính đồ sộ màu vàng ánh kim và những nhân viên xách hành lý đứng bên ngoài các khách sạn lộng lẫy. Tôi nhìn ra cửa sổ ngắm người ta mặc những bộ cánh lịch thiệp com-lê, váy, giày công sở – và cầm cà phê đến nơi làm việc với vẻ hối hả như thể đang làm điều gì đó rất quan trọng. Khi đó tôi vẫn chưa biết họ được gọi là những người làm việc chuyên nghiệp. Tôi vẫn chưa biết gì về những tấm bằng mà họ phải có để được bước vào các tòa nhà văn phòng nguy nga dọc theo đường Van Buren. Nhưng tôi thật sự thích vẻ kiên quyết của họ. Trong khi đó, ở trường, tôi lặng lẽ thu thập từng mẩu dữ liệu và cố gắng xác định vị trí của mình trong giới trí thức tuổi teen. Cho đến thời điểm đó, tôi chỉ có dịp chơi với những đứa trẻ ở khu phố khác qua những lần gặp gỡ anh chị em họ và vài chuyến trại hè do thành phố tổ chức tại bãi Rainbow, nơi mọi trại sinh đều đến từ khu South Side và không ai giàu có cả. Ở Whitney Young, tôi gặp những đứa trẻ da trắng sống ở khu Northside – một phần của Chicago mà tôi cảm thấy rất bí ẩn, nơi tôi chưa bao giờ nghĩ tới và cũng không có lý do gì để đến đó. Tôi còn phấn khích hơn khi phát hiện sự tồn tại của một tầng lớp tinh hoa người Mỹ gốc Phi. Đa số bạn bè tôi mới quen ở trường trung học đều là người da đen, nhưng hóa ra điều đó không có nghĩa là chúng tôi có trải nghiệm như nhau. Nhiều bạn có cha mẹ là luật sư hoặc bác sĩ, và dường như họ đều quen biết nhau thông qua một câu lạc bộ tên “Jack and Jill” của người Mỹ gốc Phi. Họ từng có những kỳ nghỉ trượt tuyết và những chuyến đi xa phải dùng đến hộ chiếu. Họ nói về những chuyện mà tôi nghe cảm thấy thật xa lạ, chẳng hạn như kỳ thực tập hè và những trường đại học xưa nay chỉ dành cho người da đen. Trong lớp tôi còn có một cậu bạn da đen được mệnh danh là mọt sách, luôn tử tế với mọi người và cha mẹ cậu là nhà sáng lập của một công ty cung ứng mỹ phẩm lớn, họ sống tại một trong những tòa cao ốc xa hoa nhất ngay trung tâm thành phố. Đó là thế giới mới của tôi. Tôi không nói mọi đứa trẻ học tại Whitney Young đều giàu có hay kiểu cách, vì thực tế không phải như vậy. Có rất nhiều đứa trẻ đến từ các khu phố giống như khu phố của tôi, những đứa trẻ sống vất vả hơn tôi gấp nhiều lần. Nhưng những tháng đầu tiên học tại Whitney Young đã hé mở trước mắt tôi một điều mà trước đó tôi không hề thấy – hệ thống của đặc quyền và sự kết nối, thứ có vẻ giống như một mạng lưới những chiếc thang và dây néo lơ lửng thoắt ẩn thoắt hiện trên đầu chúng tôi, sẵn sàng làm cầu nối để đưa vài người trong số chúng tôi, chứ không phải tất cả, lên cao. LOẠT ĐIỂM ĐẦU TIÊN của tôi ở trường Whitney hóa ra cũng khá tốt, và loạt điểm thứ hai cũng vậy. Qua hai năm học đầu tiên, tôi đã bắt đầu tạo dựng được sự tự tin mà tôi từng có ở Bryn Mawr. Sau mỗi thành tích nho nhỏ mà tôi đạt được, sau mỗi rắc rối mà tôi khéo léo tránh được, những mối ngờ vực trong tôi từ từ được xóa bỏ. Tôi thích hầu hết các giáo viên của mình. Tôi không ngại giơ tay phát biểu trong lớp. Tại Whitney Young, bạn có thể thoải mái thể hiện sự thông minh. Dù bạn làm gì đi nữa thì người ta cũng tự hiểu là bạn đang nỗ lực để vào đại học, đồng nghĩa với việc bạn không bao giờ cần phải che giấu chuyện bạn thông minh chỉ vì sợ ai đó nhận xét rằng bạn nói năng như một nữ sinh da trắng. Tôi thích mọi môn học liên quan đến viết lách và vất vả vượt qua môn toán giải tích sơ cấp. Tôi là một học sinh tương đối khá môn tiếng Pháp. Luôn có những người bạn dẫn trước tôi một hoặc vài bước, những người có vẻ không khó nhọc gì để đạt được thành tích cao, nhưng tôi cố gắng không để điều đó khiến mình chùn chân. Tôi bắt đầu hiểu ra là nếu dành thêm thời gian để học, tôi thường có thể rút ngắn khoảng cách giữa tôi với họ. Tôi không phải là một học sinh xuất sắc, nhưng tôi luôn cố gắng, và có những học kỳ tôi đã suýt có được danh hiệu đó. Trong lúc đó, anh Craig đã vào học Đại học Princeton, bỏ lại căn phòng ở ngôi nhà trên Đại lộ Euclid và một khoảng trống cao hơn hai thước, nặng gần chín mươi mốt ký trong cuộc sống của gia đình chúng tôi. Tủ lạnh nhà chúng tôi ít hẳn thịt và sữa; đường dây điện thoại không còn bận liên tục vì mấy cô gái gọi điện tán gẫu với anh. Anh được các trường đại học lớn săn đón, họ đưa ra các suất học bổng toàn phần và tạo mọi điều kiện cần thiết để anh trở thành ngôi sao bóng rổ, nhưng với sự khích lệ của cha mẹ, anh đã chọn Princeton, ngôi trường có học phí đắt đỏ hơn nhưng cũng nhiều hứa hẹn hơn – theo nhận định của cha mẹ tôi. Cha tôi vỡ òa tự hào khi anh Craig có mặt trong đội hình chính thức của đội bóng rổ trường Princeton vào năm hai. Dù đi đứng loạng choạng và phải sử dụng gậy, nhưng ông vẫn thích chạy xe đường dài. Cha đã đổi sang một chiếc Buick mới, vẫn là đời 225 nhưng có màu nâu sẫm. Khi không phải làm việc tại nhà máy lọc nước, ông thường thu xếp thời gian để lái xe một chặng đường dài mười hai giờ, băng qua Indiana, Ohio, Pennsylvania và New Jersey chỉ để đến xem một trận đấu của anh Craig. Vì phải di chuyển một quãng đường xa để đến Whitney Young, tôi ít có thời gian ở cùng cha mẹ hơn. Bây giờ nhìn lại, tôi đoán đó là khoảng thời gian cô đơn đối với họ, hay chí ít là họ phải điều chỉnh để thích nghi với sự thay đổi đó. Thời gian tôi vắng mặt nhiều hơn thời gian tôi ở nhà. Vì quá ngán việc phải đứng suốt chín mươi phút trên chuyến xe từ nhà đến trường, Terri Johnson và tôi đã nghĩ ra một mẹo. Chúng tôi rời nhà sớm hơn mười lăm phút vào buổi sáng và đón chuyến xe buýt đi về hướng nam, ngược hướng với trường mình. Sau khi đi qua vài trạm, chúng tôi xuống xe ở khu dân cư ít đông đúc hơn, băng qua đường và đón chuyến xe buýt đi hướng bắc như bình thường. Chuyến xe khởi hành từ đây chắc chắn váng khách hơn so với khi chạy đến trạm trên Đường 75, nơi chúng tôi vẫn thường bắt xe. Khi lên xe, chúng tôi khoái chí ngồi vào ghế rồi thoải mái trò chuyện với nhau hoặc học bài trên suốt chặng đường từ đó đến trường. Khoảng sáu bảy giờ tối, tôi rã rời về đến nhà, vừa kịp ăn vội bữa tối và tranh thủ kể với cha mẹ về mọi chuyện trong ngày. Rồi khi đã rửa xong chén đĩa, tôi thường mang sách vở đến góc cầu thang yên tình, nơi có kệ sách trưng bộ bách khoa toàn thư, và tập trung làm bài tập về nhà. Cha mẹ tôi chưa bao giờ nói về áp lực khi phải trả học phí cho anh em tôi, nhưng tôi đủ hiểu chuyện để nhận thấy áp lực này. Thế nên khi giáo viên tiếng Pháp thông báo rằng cô đang tổ chức cho lớp đi tham quan Paris vào một trong bốn kỳ nghỉ của chúng tôi – một chuyến đi không bắt buộc và dành cho những ai có đủ khả năng chi trả – tôi thậm chí còn không nhắc đến chuyện đó ở nhà. Đó là điểm khác biệt giữa tôi và những đứa trẻ con nhà có tiền, mà nhiều đứa hiện đang là bạn thân của tôi. Tôi có một mái ấm yêu thương và nề nếp, có vé xe buýt để đi tới trường và một bữa tối nóng sốt để ăn khi về nhà vào cuối ngày. Ngoài những điều đó ra, tôi không đòi hỏi thứ gì khác từ cha mẹ mình. Nhưng rồi một tối nọ, cha mẹ bảo tôi ngồi xuống nói chuyện, trông họ có vẻ ngạc nhiên. Mẹ tôi đã nghe mẹ của Terri Johnson nói về chuyến đi Pháp. “Sao con không nói với cha mẹ?”, mẹ tôi hỏi. “Vì chuyến đi đó tốn kém lắm mẹ.” “Miche, chuyện đó không tới lượt con quyết định”, cha tôi nhẹ nhàng nói, có vẻ hơi khó chịu. “Và làm sao cha mẹ quyết định được khi không biết gì về chuyện đó?” Tôi nhìn cha mẹ và không biết nên nói gì. Mẹ liếc nhìn tôi với đôi mắt hiền từ. Cha đã thay bộ đồng phục đi làm ra và mặc vào chiếc áo sơ mi trắng sạch sẽ. Cha mẹ tôi đều đã bước sang tuổi tứ tuần và đã kết hôn được gần hai mươi năm. Thế nhưng cả hai chưa từng đi du lịch châu Âu. Họ chưa bao giờ nghỉ mát ở bãi biển hay ăn tối ở nhà hàng. Họ không sở hữu một căn nhà nào. Chúng tôi, tôi và anh Craig, chính là sự đầu tư của họ. Tất cả đều được dành hết cho anh em chúng tôi. Vài tháng sau, tôi lên chuyến bay đi Paris với cô giáo và khoảng mười mấy bạn học ở Whitney Young. Chúng tôi ở nhà nghỉ, đi tham quan Bảo tàng Louvre và Tháp Eiffel. Chúng tôi mua bánh crepe phô mai tại các quầy bán hàng rong trên đường và rảo bước dọc theo hai bờ sông Seine. Dù chỉ có thể bập bẹ bằng thứ tiếng Pháp mới học, nhưng chí ít thì chúng tôi cũng đã giao tiếp bằng tiếng Pháp. Hôm đó, khi máy bay rời cổng đón khách, tôi nhìn ra cửa sổ hướng về phía sân bay, tôi biết mẹ đang đứng đâu đó đằng sau các cửa sổ kính đen, mặc chiếc áo khoác bà hay mặc vào mùa đông và vẫy tay chào tôi. Tôi nhớ tiếng động cơ phản lực vang lên, ồn ào kinh khủng. Rồi máy bay di chuyển vào đường băng. Lúc máy bay chạy đà và bắt đầu cất cánh, gia tốc khiến lồng ngực tôi nhu thắt lại, bụng dạ nôn nao, và tôi bị ép vào ghế, trong một khoảnh khắc lơ lửng kỳ lạ trước khi cảm thấy hoàn toàn được nâng lên khỏi mặt đất. CŨNG NHƯ CÁC HỌC SINH TRUNG HỌC khác, tôi và chúng bạn thích đi la cà đây đó. Chúng tôi huyên náo và cà kê giữa chốn đông người. Vào những ngày trường cho nghỉ sớm hay khi không có nhiều bài tập về nhà, chúng tôi kéo nhau đến trung tâm Chicago, đi vào trung tâm thương mại tám tầng ở Water Tower Place. Ở đó chúng tôi đi thang máy lên rồi lại xuống, tiêu tiền vào món bắp rang hảo hạng ở Garret’s và chiếm dụng bàn ghế ở McDonald’s lâu hơn mức cần thiết – so với lượng đồ ăn ít ỏi mà chúng tôi gọi. Chúng tôi ngắm những chiếc quần jeans hàng hiệu và mấy chiếc ví cầm tay ở Marshall Field’s – thường là dưới sự giám sát kín đáo của những nhân viên bảo vệ vốn không thích dáng vẻ của chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi còn đi xem phim với nhau. Chúng tôi vui vẻ – vui với sự tự do của mình, vui khi bên nhau, vui trước cách mà thành phố có vẻ lấp lánh hơn trong những ngày chúng tôi không phải bận tâm chuyện trường lớp. Chúng tôi là những đứa trẻ thành thị đang học cách khám phá phạm vi sinh hoạt của mình. Tôi rất thường chơi cùng một cô bạn cùng lớp tên Santita Jackson, người lên chuyến xe buýt Jeffery sau tôi chỉ vài trạm vào buổi sáng, cũng là người mà sau này trở thành một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi thời trung học. Santita có đôi mắt đen tuyệt đẹp, đôi gò má đầy, và dù chỉ mới mười sáu tuổi, cô đã có dáng vẻ của một phụ nữ khôn ngoan. Ở trường, cô ấy là một trong những học sinh đăng ký tất cả các lớp nâng cao[24] mà trường đưa ra và dường như đều hoàn thành xuất sắc. Cô ấy mặc váy khi mọi người đều mặc quần jeans, và cô có giọng hát trong và khỏe đến mức nhiều năm sau cô đi lưu diễn trong vai trò ca sĩ hát bè cho danh ca Roberta Flack. Cô cũng rất sâu sắc. Đây là điểm tôi thích nhất ở Santita. Giống như tôi, cô ấy có thể bông đùa khi chơi cùng một nhóm đông người, nhưng khi một mình thì chúng tôi nghiêm túc và trở thành hai nữ triết gia nỗ lực giải quyết những vấn đề trong cuộc sống, dù lớn hay nhỏ. Chúng tôi dành hàng giờ nằm ườn trên sàn phòng ngủ của Santita ở tầng hai trong căn nhà kiểu Tudor màu trắng của gia đình cô ở Jackson Park Highlands, một khu vực giàu có hơn của vùng South Shore. Lúc đó chúng tôi nói với nhau về những thứ khiến mình khó chịu, bàn về định hướng cuộc đời cũng như những điều chúng tôi hiểu và chưa hiểu vẻ thế giới. Santita là người bạn biết lắng nghe và sâu sắc, tôi cũng cố gắng trở thành một người bạn như vậy. Cha của Santita là người nổi tiếng. Đó là một thực tế quan trọng và không thể né tránh về cuộc đời của cô. Cô là con gái lớn của mục sư Jesse Jackson, một nhà thuyết giáo đầy nhiệt huyết của dòng Tin Lành Báp-tít và một thủ lĩnh chính trị đang lên. Jesse Jackson làm việc kẻ cạnh với Martin Luther King Jr. và trở nên nổi bật khắp cả nước vào đầu thập niên 1970 trong vai trò nhà sáng lập tổ chức chính trị Operation PUSH, tổ chức hoạt động vì quyền lợi của người Mỹ gốc Phi bị đối xử bất công. Đến năm chúng tôi học trung học thì ông đã trở thành nhân vật vô cùng nổi tiếng – có sức hút, giao thiệp rộng và thường xuyên đi đó đây. Ông đi khắp nước Mỹ, mê hoặc đám đông bằng những hiệu triệu dậy sóng kêu gọi người da đen xóa bỏ hình ảnh khu ổ chuột thấp kém và giành lấy quyền lực chính trị bị bỏ quên bấy lâu. Ông rao giảng thông điệp về sự tự lực tự cường đầy kiên định và quyết tâm. Ông kêu gọi “Bỏ ma túy! Tăng hy vọng! Ông khiến học sinh chịu ký cam kết tắt tivi và dành hai giờ đồng hồ mỗi tối để làm bài tập. Ông khiến các bậc cha mẹ hứa làm hết vai trò của mình. Ông đẩy lùi cảm giác thất bại đang tràn lan khắp cộng đồng người Mỹ gốc Phi, thúc giục mọi người thôi than thân trách phận và hãy làm chủ vận mệnh của mình. Ông nói, “Không ai nghèo tới mức không thể tắt tivi hai giờ đồng hồ mỗi đêm!”. Nhà của Santita rất thú vị. Đó là một nơi rộng rãi và hơi lộn xộn, là mái ấm của gia đình có năm đứa trẻ và chất đầy đồ nội thất thời Victoria cùng những món đồ cổ bằng thủy tinh mà mẹ của Santita, cô Jacqueline, thích sưu tập. Cô Jackson, cách tôi gọi mẹ của Santita, có trái tim chan hòa và giọng cười vang vọng. Cô mặc những bộ quần áo dáng rũ có màu sắc sặc sỡ và thường dọn món ăn lên chiếc bàn khổng lồ trong phòng ăn để thết đãi bất cứ người nào xuất hiện trong nhà, mà hầu hết là những người có liên quan đến cái mà cô gọi là “phong trào”. Những nhân vật này bao gồm những vị lãnh đạo doanh nghiệp, chính trị gia và nhà thơ, cộng với một nhóm những người nổi tiếng, từ ca sĩ cho tới vận động viên thể thao. Khi Mục sư Jackson có ở nhà, ngôi nhà sẽ tràn ngập một thứ năng lượng khác. Những lề thói sinh hoạt thường ngày bị gác sang một bên; các cuộc trò chuyện bên bàn ăn tối kéo dài đến tận khuya. Các vị cố vấn đến và đi. Luôn có kế hoạch nào đó được đem ra bàn bạc. Điều này rất khác với căn hộ của gia đình tôi ở Euclid, nơi cuộc sống diễn ra theo nề nếp và nhịp độ dễ đoán, nơi mà mối bận tâm của cha mẹ tôi ít khi nào nằm ngoài hạnh phúc và thành công của gia đình. Nhà Jackson dường như đang theo đuổi một điều gì đó to lớn hơn, phức tạp hơn và có vẻ có sức tác động hơn. Họ dấn thân ra bên ngoài; họ hướng đến một cộng đồng lớn, họ mang một sứ mệnh trọng đại. Santita và các em của mình được nuôi dạy để trở thành những người có hiểu biết về hoạt động chính trị. Họ biết phải tẩy chay cái gì và bằng cách nào. Họ tham gia tuần hành để ủng hộ hoạt động của cha mình. Họ theo ông đi công tác đến những nơi như Israel và Cuba, New York và Atlanta. Họ đứng trên sân khấu, trước những đám đông khổng lồ và học cách tiếp nhận những âu lo và tranh cãi gắn liền với việc cha mình là người của công chúng, đặc biệt là khi đó còn là một người cha da đen. Mục sư Jackson còn có vệ sĩ – những người đàn ông vạm vỡ và lặng lẽ đi cùng với ông. Khi đó tôi chỉ mang máng hiểu là sự an toàn của ông bị đe dọa. Santita yêu thương cha mình và tự hào về những gì ông đang làm, nhưng cô cũng tìm cách sống cuộc sống của riêng mình. Chúng tôi hết lòng ủng hộ việc củng cố sức mạnh của thế hệ trẻ da đen trên khắp nước Mỹ, nhưng chúng tôi cũng hết sức muốn tới khu thương mại Water Tower Place trước khi đợt hạ giá giày K-Swiss kết thúc. Chúng tôi thường đi nhờ hoặc mượn xe. Tôi sống trong gia đình một-xe có hai bậc phụ huynh đều đi làm, thế nên cơ may mượn được xe bên nhà Jackson sẽ cao hơn vì cô Jackson có một chiếc station wagon ốp gỗ và một chiếc xe thể thao cỡ nhỏ. Đôi khi chúng tôi quá giang nhân viên của chú Jackson hoặc những vị khách thường lui tới nhà họ. Đổi lại, chúng tôi không được chủ động. Đây chính là bài học đầu tiên mà tôi vô tình học được về đời sống chính trị: lịch trình và kế hoạch dường như không bao giờ diễn ra đúng như dự định. Ngay cả khi chỉ là một người ngoài cuộc đứng ở rìa cơn lốc, bạn vẫn có thể cảm nhận được vòng xoáy của nó. Santita và tôi thường phải chờ đợi cha cô luôn có những việc đột xuất cần xử lý – một cuộc họp kéo dài hơn dự kiến hay một chuyến bay còn đang bay lòng vòng trên sân bay – hoặc phải ghé qua hàng loạt điểm đến mới-phát-sinh trước khi đến được điểm đến cuối cùng. Chúng tôi nghĩ mình đang được đi nhờ từ trường về nhà hay đến trung tâm mua sắm, nhưng thay vào đó, chúng tôi lại dừng chân ở một cuộc tuần hành chính trị bên khu West Side hoặc mắc kẹt hàng giờ liền trong trụ sở của Operation PUSH tại Công viên Hyde. Một ngày nọ, hai đứa chúng tôi ngẫu nhiên xuất hiện giữa đám đông đang biểu tình ủng hộ Mục sư Jesse Jackson tại Lễ diễu hành Bud Billiken. Cuộc diễu hành này được đặt theo tên của nhân vật Bud Billiken trong loạt truyện từng được đăng báo ngày xưa. Đây cũng là một trong những sự kiện truyền thống có quy mô nhất South Side, diễn ra vào tháng Tám hàng năm – với cơ man các dàn nhạc lễ và xe phướn kéo dài gần ba cây số dọc theo đường Martin Luther King Jr., băng qua trung tâm khu vực sinh sống của người Mỹ gốc Phi, nơi trước kia từng có tên là Black Belt nhưng về sau đổi thành Bronzeville. Lễ diễu hành Bud Billiken là sự kiện thường niên kể từ năm 1929 và hướng đến lòng tự hào của người Mỹ gốc Phi. Nếu bạn là một nhà lãnh đạo cộng đồng hoặc chính trị gia, ít nhiều bạn phải có mặt và tham gia cuộc diễu hành này – đến tận ngày nay vẫn vậy. Tôi không hề biết cơn lốc xoáy quanh cha của Santita bắt đầu tăng tốc. Chỉ còn vài năm nữa là Jesse Jackson chính thức tham gia tranh cử tổng thống Mỹ, nghĩa là ông có thể đã bắt đầu cân nhắc ý định này trong suốt thời gian tôi và Santita học trung học. Ngân sách được huy động. Các mối quan hệ cần được thiết lập. Tranh cử chức tổng thống, theo hiểu biết của tôi bây giờ, là một quá trình đòi hỏi mọi người liên quan phải dốc hết công sức. Bên cạnh đó, những chiến dịch tranh cử tốt thường cần nhiều sự sắp xếp và củng cố nền tảng – vốn có thể phải cần đến nhiều năm trời để hoàn thành. Với dự định tham gia tranh cử năm 1984, Jesse Jackson trở thành người Mỹ gốc Phi thứ hai trong lịch sử tổ chức vận động tranh cử một cách nghiêm túc, sau thất bại của nữ Hạ nghị sĩ Shirley Chisholm năm 1972. Tôi đoán là ông đã có phần nào suy tính về kế hoạch này vào thời điểm cuộc diễu hành diễn ra. Điều mà tôi biết chính là cá nhân tôi không thích cảm giác khi xuất hiện ở ngoài kia, phơi mình dưới ánh mặt trời thiêu đốt, giữa những quả bóng bay, kèn tây, kèn trombone và một đám đông đang hò reo. Sự náo động này cũng thú vị, thậm chí có thể khiến người ta say sưa, nhưng có điều gì đó về sự kiện này, và về chính trị nói chung, khiến tôi cảm thấy khó chịu. Một phần là vì tôi thích mọi thứ phải gọn gàng và có kế hoạch từ trước, và theo tôi biết thì dường như không có một chút gì gọi là ngăn nắp trong đời sống chính trị. Cuộc diễu hành đó không nằm trong kế hoạch của tôi. Theo tôi nhớ thì Santita và tôi không hề có ý định tham gia. Chúng tôi bị lôi vào vào phút chót, có thể do cha hay mẹ của cô, hay ai đó trong phong trào đã kịp tóm lấy chúng tôi trước khi chúng tôi kịp hoàn thành dự định của mình. Nhưng tôi rất yêu quý Santita, và tôi cũng là đứa trẻ thường nghe lời dạy bảo của người lớn, thế nên tôi đã tham gia. Tôi đã liều mình bước vào cái ồn ào, nóng bức và quay cuồng của cuộc diễu hành Bud Billiken. Tối đó, tôi về nhà mình trên Đại lộ Euclid và thấy mẹ tôi đang cười to. “Mẹ vừa thấy con trên tivi”, mẹ nói. Bà xem bản tin thời sự và thấy tôi đang diễu hành bên cạnh Santita – tôi vẫy tay, mỉm cười và bước theo mọi người. Tôi đoán lý do bà cười là vì bà cũng nhận ra sự khó chịu của tôi, nhận ra tôi có thể đã bị lôi vào một chuyện không mong muốn. ĐẾN LÚC CHỌN TRƯỜNG ĐẠI HỌC, Santita và tôi đều thích các trường ở Bờ Đông. Santita đã đến trường Harvard để tìm hiểu, nhưng rồi phải thất vọng khi một cán bộ tuyển sinh tỏ ra khó chịu với cô về hoạt động chính trị của cha cô, trong khi cô ấy chỉ muốn người ta nhìn nhận bản thân cô. Tôi dành một cuối tuần để đến Princeton thăm anh Craig. Anh ấy có vẻ đã hòa mình vào một nhịp sống năng động – chơi bóng rổ, học hành và vui chơi ở một trung tâm dành riêng cho sinh viên thuộc nhóm thiểu số trong khuôn viên trường. Trường Princeton rất rộng và đẹp – một trường thuộc Ivy League thật sự có dây thường xuân[25] bao phủ – và bạn bè của anh ấy có vẻ cũng tử tế. Tôi không nghĩ ngợi gì ngoài những chuyện này. Không ai trong gia đình tôi có nhiều trải nghiệm thực tế với trường đại học, nên tôi cũng không có nhiều điều để tranh luận hay tìm hiểu. Như xưa nay vẫn thế, tôi phát hiện tôi cũng thích những gì anh Craig thích, và bất cứ thứ gì anh ấy làm được thì tôi cũng sẽ làm được. Và vì thế, Princeton trở thành ngôi trường đứng đầu trong danh sách lựa chọn của tôi. Đầu năm cuối cấp ở trường Whitney Young, tôi có buổi gặp gỡ bắt buộc đầu tiên với chuyên viên tư vấn tuyển sinh đại học của mình. Tôi không có nhiều điều để kể về vị chuyên viên này, vì tôi đã cố tình và gần như ngay lập tức xóa bỏ ký ức về cuộc gặp gỡ hôm đó. Tôi không nhớ bà khoảng bao nhiêu tuổi, có màu da gì hay bà đã nhìn tôi như thế nào khi tôi xuất hiện trước cửa văn phòng của bà. Khi đó lòng tôi đang khấp khởi tự hào vì sắp được tốt nghiệp với thành tích thuộc nhóm 10% học sinh xuất sắc nhất lớp, từng được bầu làm thủ quỹ của lớp, được gia nhập Hội Học sinh Ưu tú Quốc gia; và tôi đã xóa bỏ nhận định rằng tôi sẽ xuất hiện với dáng vẻ một cô nữ sinh lớp chín e dè. Tôi không nhớ bà xem xét bảng điểm của tôi trước hay sau khi tôi thông báo là mình muốn nối gót anh trai vào trường Princeton mùa thu năm sau. Thật ra, có thể trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó, giáo viên tư vấn đã nói với tôi vài điều tích cực và hữu ích, nhưng tôi không nhớ gì hết. Vì dù đúng hay sai thì tôi chỉ nhớ mãi một câu mà bà ấy thốt ra. “Cô không chắc là em đủ khả năng học ở trường Princeton”, bà ấy vừa nói vừa trao cho tôi một nụ cười chiếu lệ và vẻ khinh thường. Bà ấy đã phán xét chóng vánh và tùy tiện, hẳn là dựa trên một phép tính sơ sài nào đó về điểm số và kết quả thi của tôi. Tôi nghĩ đó là cách bà ấy vẫn làm mỗi ngày. Với dáng vẻ chuyên gia giàu kinh nghiệm, bà ấy nói với học sinh cuối cấp về việc nơi nào thích hợp và không thích hợp với họ. Tôi chắc là bà ấy nghĩ mình chỉ đang tỏ ra thực tế. Tôi không nghĩ bà ấy có chút đắn đo nào về cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Nhưng như tôi đã nói, khi người ta liên tục bị gieo vào đầu cảm giác thất bại thì họ sẽ thất bại thật. Và tôi cảm thấy đó chính xác là điều mà bà ấy muốn làm – nói về thất bại trước khi tôi thử nỗ lực để thành công. Bà ấy nói tôi nên hạ mục tiêu xuống, một điều hoàn toàn trái ngược với những gì cha mẹ tôi dạy. Nếu tôi tin lời bà ấy thì tuyên bố kia của bà hẳn đã bóp chẹt sự tự tin của tôi một lần nữa và khơi dậy điệp khúc xưa cũ, chưa đủ giỏi, chưa đủ giỏi. Nhưng ba năm nỗ lực cùng những đứa trẻ giàu tham vọng ở Whitney Young đã dạy tôi rằng tôi có khả năng nhiều hơn thế. Tôi sẽ không để ý kiến của ai đó đánh bật mọi điều mà tôi cho rằng tôi hiểu về bản thân mình. Thay vào đó, tôi thay đổi phương pháp thực hiện mục tiêu của mình. Tôi nộp hồ sơ vào Princeton và chọn thêm vài trường khác, nhưng hoàn toàn không cần thêm bất kỳ nhận định nào từ vị chuyên viên tư vấn tuyển sinh đó nữa. Tôi tìm sự giúp đỡ của một người thật sự hiểu tôi: thầy Smith, trợ lý hiệu trưởng và cũng là hàng xóm của tôi. Thầy đã nhìn thấy thế mạnh trong học tập của tôi và tin tưởng để tôi chăm sóc các con của thầy. Thầy Smith đồng ý viết cho tôi một lá thư giới thiệu[26]. Tính đến nay, tôi rất may mắn được gặp đủ kiểu người phi thường và thành đạt – những nhà lãnh đạo thế giới, nhà phát minh, nhạc sĩ, phi hành gia, vận động viên, giáo sư, doanh nhân, nghệ sĩ, nhà văn, bác sĩ và các nhà nghiên cứu tiên phong. Một số (dẫu vẫn chưa đủ) Trong số họ là phụ nữ. Một số (dẫu vẫn chưa đủ) là người da đen hoặc da màu. Một số được sinh ra trong nghèo khổ hoặc từng sống cuộc sống mà đối với nhiều người trong số chúng ta là nhiều nghịch cảnh đến mức bất công, nhưng họ vẫn sống như thể có được mọi lợi thế trên thế gian này. Điều mà tôi học được chính là: tất cả họ đều từng bị nghi ngờ. Vài người sẽ tiếp tục có một “bộ sưu tập” những kẻ chỉ trích và chuyên gia “bàn ra” – những người sẽ hét lên Tôi đã nói rồi mà mỗi khi họ phạm sai lầm hay vấp ngã. Sự phiền nhiễu đó sẽ không biến mất, nhưng những nhân vật thành công nhất mà tôi biết đã học cách sống chung với nó, cách hướng đến những người tin tưởng họ, và cách tiếp tục thực hiện mục tiêu của mình. Ngày rời khỏi văn phòng tư vấn tuyển sinh tại Whitney Young, tôi giận sôi người. Cái tôi của tôi bị bầm dập hơn cả. Suy nghĩ duy nhất của tôi khi đó là Tôi sẽ chứng minh cho cô xem. Nhưng sau đó tôi đã bình tĩnh lại và tiếp tục làm việc của mình. Tôi chưa bao giờ nghĩ vào đại học là chuyện dễ dàng, nhưng tôi đang học cách tập trung và đặt niềm tin vào câu chuyện của riêng mình. Tôi tìm cách trình bày tất cả những điều ấy vào bài luận tuyển sinh[27 của mình. Thay vì giả vờ là một đứa cực kỳ trí tuệ và sẽ vô cùng phù hợp với môi trường bên trong những bức tường phủ đầy dây thường xuân của Princeton, tôi viết về chứng đa xơ của cha và việc cả nhà tôi không có ai được học lên cao. Tôi thừa nhận và làm chủ một thực tế là tôi đang vươn đến một điều nằm ngoài tầm với. Trong hoàn cảnh của mình, vươn lên chính là tất cả những gì tôi có thể làm. Và cuối cùng, tôi nghĩ tôi đã chứng tỏ được cho vị giáo viên tư vấn tuyển sinh kia thấy năng lực của mình, vì sáu hay bảy tháng sau đó, một lá thư đã được gửi đến hộp thư nhà chúng tôi trên Đại lộ Euclid. Đó là thư mời tôi nhập học trường Princeton. Đêm đó, cha mẹ và tôi đã ăn mừng bằng một chiếc pizza do cửa hàng Italian Fiesta giao tận nhà. Tôi gọi cho anh Craig và khoe tin mừng. Hôm sau tôi gõ cửa nhà thầy Smith và báo về việc tôi trúng tuyển, cảm ơn thầy đã hết lòng giúp đỡ tôi. Tôi chưa bao giờ ghé qua chỗ cô chuyên viên tư vấn tuyển sinh kia để nói với bà là bà đã sai, rằng thực tế thì tôi hoàn toàn có khả năng vào Princeton. Làm như thế khống đem lại lợi ích gì cho tôi hay bà ấy. Mà xét cho cùng thì tôi đâu cần phải chứng minh điều gì với bà ấy. Tôi chỉ cần chứng tỏ bản thân mà thôi. 6 Mùa hè năm 1981, cha lái xe chở tôi băng qua những xa lộ nối liền Illinois với New Jersey để tới Đại học Princeton. Nhưng đây không phải là một chuyến xe của cha và con gái như bình thường. Bạn trai tôi, David, cũng đi cùng. Tôi được mời tham gia chương trình định hướng kéo dài ba tuần vào mùa hè, một chương trình có mục đích nối liền khoảng cách giữa trung học và đại học, giúp một số tân sinh viên có thêm thời gian để thu xếp và hòa nhập vào môi trường mới. Tôi không biết chính xác chúng tôi được nhà trường nhận định như thế nào – phần nào trong hồ sơ nhập học của chúng tôi đã gợi ý với nhà trường là chúng tôi cần được hướng dẫn cách đọc đề cương chi tiết môn học hoặc cách đi lại giữa các tòa nhà trong khuôn viên trường. Nhưng hai năm trước anh Craig cũng đã tham gia chương trình này, và có vẻ đây là một việc hữu ích. Thế là tôi sửa soạn đồ đạc, tạm biệt mẹ và lên xe – hai mẹ con không hề có cảnh sụt sùi sướt mướt. Một phần lý do khiến tôi hăm hở rời khỏi Chicago là vì vài tháng vừa qua tôi đã làm việc trong dây chuyền sản xuất tại một nhà máy đóng sách nhỏ ở trung tâm thành phố. Về cơ bản, nhiệm vụ của tôi là vận hành một khẩu súng bắn keo cỡ lớn – một công việc chán-muốn- chết lặp đi lặp lại suốt tám giờ đồng hồ một ngày, năm ngày mỗi tuần, và đóng vai trò là lời nhắc nhở mạnh mẽ nhất về việc đi học đại học quả là một ý kiến hay. Mẹ của David làm việc ở nhà máy đóng sách và đã giúp hai chúng tôi được nhận vào đây. Chúng tôi làm việc bên nhau suốt mùa hè, và điều này giúp cho giai đoạn cực khổ này trở nên dễ chịu hơn. David lớn hơn tôi hai tuổi, là một chàng trai thông minh, hiền lành, cao ráo và điển trai. Vài năm trước, David đã kết bạn với anh Craig trên sân bóng rổ ở Công viên Rosenblum khi tham gia các trận đấu ngẫu nhiên nhân dịp đến thăm họ hàng ở khu Euclid Parkway. Sau cùng, anh ấy bắt đâu hẹn hò với tôi. May là David theo học một trường đại học ở tiểu bang khác, nhờ vậy mà trong năm học tôi không bị phân tâm vì anh. Vào các kỳ nghỉ và suốt mùa hè, anh về nhà """