"
Charlie Bone và Sói Hoang - Jenny Nimmo full prc epub azw3 [Huyền Ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Charlie Bone và Sói Hoang - Jenny Nimmo full prc epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
Chương1
Chương2
Chương3
Chương4
Chương5
Chương6
Chương7
Chương8
Chương9
Chương10
Chương11
Chương12
Chương13
Chương14
Chương15
Chương16
Chương17
CHARLIE BONE 6: CHARLIE BONE VÀ SÓI HOANG
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 1
Charlie Bone sống trong một thành phố ôm giữ vô vàn điều bí mật. Những bí mật ẩn giấu trong tường và chôn vùi dưới đất hàng bao thế kỷ.
Thành phố đó ra đời cách đây chín trăm năm, bắt đầu từ một lâu đài do tổ tiên của Charlie là Vua Đỏ xây dựng nên. Tên của Vua Đỏ xuất phát từ tấm áo chùng đỏ rực và hình mặt trời chiếu sáng khắc trên tấm khiên của ngài. Vua Đỏ là người Phi châu; ngài cũng là một thầy pháp.
Khi hoàng hậu yêu quý của nhà vua, hoàng hậu Berenice, qua đời, ngài đi vào rừng để than khóc. Ngài rất an tâm khi mười người con của mình sẽ an toàn trong tay của những quan cận thần uyên bác và những bà vú hiền lành. Vả lại, mỗi người con của ngài đều được ban một tài phép thần kỳ.
Vào thời đó, vương quốc của ngài là một nơi đầy bạo lực và không có luật pháp – nạn giết người cướp của hoành hành. Trên đường về nhà, ngài nhận thấy cần phải đem tài phép vô song của mình ra cứu giúp dân nghèo và những người bị áp bức. Lập tức, ngài mặc giáp sắt, đội mũ sắt cắm chùm lông đỏ, sau đó hóa phép ra một thanh gươm bất khả chiến bại và cưỡi ngựa xông pha đi bảo vệ những người khốn khổ và những kẻ thân cô thế cô.
Vua Đỏ diệt trừ bọn bạo chúa, quân sát nhân và lũ quý tộc kẻ cướp suốt 5 năm. Cuối cùng, khi ngài về đến lâu đài, mới hay, năm người con của mình đã trốn chạy, còn năm kẻ ở lại thì dùng tài phép của mình đi thôn tính những quốc gia láng giềng. Chính những những con này và cháu chắt của họ đã bắt đầu lịch sử tang thương và đồi bại kinh hoàng của thành phố. Không thể ra
tay đánh đuổi chính các con mình, nhà vua tan nát trái tim đành phải rời khỏi lâu đài của mình vĩnh viễn.
Bà nội Charlie cùng ba người em gái của bà ta đứng về phe quỷ ác. Trong thời gian ba nó bị ếm bùa, họ tống nó vào học viện Bloor, ngôi trường do một dòng họ có quá khứ cực kỳ bạo ngược điều hành. Charlie luôn luôn phải e dè gia đình Bloor và đồng minh của họ, nhưng, tính cho đến nay, nó đã đập tan mọi âm mưu đè bẹp nó của họ, bởi vì xung quanh nó có nhiều bạn bè là hậu duệ của Vua Đỏ, luôn dùng tài phép phi thường của mình để trợ giúp nó.
Riêng với tài đi vào quá khứ của mình, Charlie đang dần khám phá những bí mật của thành phố. Đó là một hành trình nguy hiểm, nhưng Charlie có bạn bè sát cánh bên mình và có niềm tin sắt đá vào tài phép muôn đời của Vua Đỏ.
KHÔNG HẲN LÀ NGƯỜI
Hẳn là bạn sẽ nghĩ Charlie Bone ẩu thật khi để mất cha nó lần thứ hai, nhất là vào lúc nó chỉ vừa mới tìm thấy cha. Họ đã cách mặt mười năm ròng – những năm bị ếm yêu thuật, chú Lyell Bone chìm đắm trong sự quên lãng, không thể nhớ gì về quá khứ, thậm chí kể cả tên của mình cũng quên
Lần này, chí ít Charlie cũng biết cha mình đi đâu. Ba nó đang đưa mẹ nó đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai. Còn gì sung sướng hơn lánh xa những ngày tháng Hai âm u, lạnh lẽo để đi xem cá voi và cá heo nô giỡn ngoài biển rực nắng? Tất nhiên họ rủ Charlie đi cùng, nhưng nó đã ý nhị từ chối. Cha mẹ nó cần được ở bên nhau, ngoài ra, ở nhà nó còn mấy việc phải hoàn thành. Có vài điều bí ẩn cần làm sáng tỏ.
Lúc này đây Charlie đang ở ngoài cổng ngôi nhà nơi nó chào đời. Đó là một tòa nhà gạch đỏ, mái lợp ngói nghiêng dốc, có bốn bậc thang dẫn lên cánh cửa trước màu xanh da trời. Charlie và mẹ đã rời ngôi nhà này khi nó 2
tuổi, thành ra nó chả nhớ chút gì về chốn này. Ngay như cái tên nhà cũng lạ lẫm đối với nó: “Góc Kim Cương” – tọa lạc trên góc phố Diamond và đại lộ Lyme.
Bây giờ Charlie đã 12 tuổi – một thằng bé cao trung bình, tóc đen bù xù và mắt nâu màu quả óc chó. Một thằng bé bình thường về mọi phương diện, ngoại trừ một điều: nó là người-đi-vào-tranh, một tài phép nó thừa hưởng từ Vua Đỏ huyền thoại.
Đứng bên cạnh Charlie là một người đàn ông cao lớn, nét mặt rắn rỏi, đẹp như tạc và mái tóc đen thẳng, dài gần chấm vai. Ông mặc áo khoác đen, dài và trùm chiếc mũ đen rộng vành sụp hẳn xuống, dường như để che kín mắt, mặc dù trong buổi chiều thứ Bảy u ám này không có lấy một tia nắng mặt trời yếu ớt nhất.
“Phải sửa nhiều đây,” người đàn ông nhận xét, nhìn những lỗ hổng đen ngòm trên mái nhà, nơi những miếng ngói lợp bị tốc mất.
“Ước gì con có thể dọn vào đấy ở ngay, Ông cậu Paton à,” Charlie nói.
“Con không phải đợi lâu nữa đâu,” Ông cậu bảo nó. “Tuần tới là thợ xây, thợ sơn, thợ ống nước, và thợ lợp mái sẽ bắt đầu tu sửa mà.”
“Chúng ta vào xem chút đi.” Charlie mở cổng và bước trên lối đi hẹp cỏ mọc tràn lan. Ông cậu nó theo sau, leng keng một chùm chìa khóa. Khi vào gần hơn, họ nhận thấy có ánh đèn ở một trong những cửa sổ tầng dưới.
“Có người trong đó.” Charlie chạy ào lên tới cửa. Ông cậu đang ở sau nó một bước liền phóng vèo qua các bậc thang và tra một chiếc chìa khóa vào ổ. Cánh cửa xanh da trời mở tung và Charlie bước vô trong.
Mùi cũ mốc nồng nặc trong hành lang. Ván lót sàn ẩm, bám kịt bụi, những mảnh giấy dán tường bong tróc dính lủng lẳng trên các bức tường nhem
nhuốc, đen xì. Charlie cố nhón chân nhẹ hết sức, nhưng những tấm ván trần trụi cứ rung lên kèn kẹt dưới từng bước đi của nó. Nó vội vàng mở một cánh cửa bên trái và ngó vô căn phòng hồi nãy nó thấy có ánh sáng. Trống huơ trống hoác. Ông cậu Paton hất đầu ra hiệu về phía cánh cửa khép hờ ở phía kia căn phòng. “Nhà bếp đó,” ông thì thào.
Một tiếng chân được nghe thấy. Khó mà biết nó từ đâu vọng tới. Charlie băng xoẹt qua căn phòng, những bước chân nặng nề của ông cậu bám theo. Nhưng cả nhà bếp cũng trống trơ. Một tiếng “rầm” đanh, gắt, làm Charlie lao bắn vèo qua nhà bếp, vô lối đi hẹp. Cánh cửa sau mở toang, xô đánh ầm vào bức tường phía sau nó một tiếng rung chuyển nữa. Một luồng khí lạnh ập vào mặt Charlie khi nó nheo mắt dòm ra ngoài trời. Vừa vưa kịp lúc cho nó thấy hai bóng đen chui lẹ qua quãng hàng rào gãy ở cuối vườn.
“Hê!” Charlie hét lớn, chạy bươn qua thảm cỏ và những cây dại cao khô héo. Tới hàng rào, nó nhoài người ngó ra ngõ hẹp tí rị. Nhưng kẻ đột nhập đã biến mất.
“Chắc là những kẻ lang thang.” Ông cậu Paton đá vào một chồng báo cũ ở góc nhà. “Về thôi, Charlie.”
“Cho con lên lầu đi?” Charlie năn nỉ. “Con muốn xem mình có nhớ căn phòng mình từng ngủ hay không.”
“Thì đi.” Ông cậu Paton theo Charlie lên cầu thang. Khi ông lên tới nơi, Charlie đang đứng nhìn trân trối vào hai cánh cửa trước mặt nó. Có thêm hai cánh cửa bắt đầu một hành lang ở bên trái nó, rồi một cánh nữa ở bên phải. Nó chọn một cánh.
“Con nhớ giỏi quá, Charlie!”
“Con chỉ đoán thôi,” Charlie nói. Nó đẩy mở cánh cửa đó ra. “ỐI!”
Không thể đi được bước nào vô phòng. Tất cả ván lót sàn đã bị dỡ sạch. Tấm thì dựng đứng vào tường, những tấm khác lại nằm vắt trên các thanh rầm hẹp đỡ sàn nhà.
“Quái lạ!” Ông cậu Paton ghé nhìn qua vai Charlie. “Ta không biết là thợ xây đã bắt đầu rồi.”
Hai ông cháu nhìn vào những căn phòng khác. Phòng nào cũng trong tình trạng tương tự: ván lót sàn bị giật tung rồi quăng bừa bãi vào góc nhà hoặc vắt vẻo trên những thanh rầm mỏng.
“Trông như ai đó sục sạo tìm vật gì,” Charlie nhận xét.
“Một cuộc lùng kiếm tuyệt vọng,” ông cậu đồng ý. “Ta tưởng tượng họ cũng bứt tung sàn nhà dưới lầu lên, nhưng sau đó đã gắn lại để đề phòng người ta nhìn vô qua cửa sổ.”
“Con không thích nghĩ tới việc người lạ lẻn vô và đào bới nhà cũ của con,” Charlie nói.
Khi đi xuống lầu, họ căng mắt tìm xem có dấu hiệu mặt bậc thang bị bứng đi không. Lần này họ phát hiện mặt gỗ tưa xước, đinh bị nhổ lên và tay vịn xục xịch.
“Thế này thì phải thay hết ổ khóa thôi,” Ông cậu Paton nói khi hai ông cháu trở ra đứng ngoài đường. “Để ta nói chuyện với nhà thầu.”
Họ bắt đầu rảo bộ về ngôi nhà số 9, đường Filbert. Ông cậu Paton mải nghĩ về bọn xâm phạm nên quên bẵng là đèn đường đang sáng. Trước khi Charlie kịp cảnh báo, ông đã vô tình ngước lên và bóng đèn phía trên đầu ông kêu bụp một phát, nổ tung.
Ông cậu Paton chúi người né trận mưa thủy tinh dội xuống đầu mình.
“Chán quá! Chán quá!” ông gầm to. “Ai cần làm kẻ tăng áp cơ chứ!”
Ông cậu Paton Yewbeam, một hậu duệ khác nữa của Vua Đỏ, thừa hưởng một tài phép không may. Chỉ cần ông hơi liếc vào một bóng đèn đang cháy, dù nó ở trong cửa sổ, trong nhà dân, trên đường phố, hay tại nhà mình, thì tất yếu nó vẫn cứ tăng sức nóng lên đến độ nổ tan bóng đèn. Vì vậy nên Ông cậu Paton rất ít khi ra khỏi nhà vào ban ngày. Đèn giao thông, đèn xi-nhan ô-tô và đèn cửa sổ bày hàng luôn có nguy cơ hứng chịu tài phép khốn khổ này của ông. Ông thấy điều này thật bất tiện cho mình.
Lần này tai nạn của Ông cậu Paton đã để lộ ra một sự việc. Trong chớp lóe sáng vụt chiếu con đường, hai hình hài bị nhìn thấy đang lúp cúp bên một hàng rào. Khoảnh khắc đó kéo dài không tới một giây nhưng gương mặt họ đã in đậm trong tâm trí Charlie. Trông họ... không hẳn là người.
Charlie chớp mắt trước cơn mưa thủy tinh dội xuống đầu ông cậu. Khi nó mở mắt ra thì hai hình hài đó đã biến mất.
“Mau lên, Charlie, chúng ta mau ra khỏi đây kẻo có người thấy chúng ta.” Ông cậu Paton chộp cánh tay Charlie và lôi nó đi khỏi hiện trường.
“Có người đã nhìn thấy chúng ta rồi, Ông cậu Paton. Con nghĩ đó có thể là bọn họ. Tức những kẻ đột nhập nhà con. Nhưng họ không hẳn là người. Nếu ông hiểu ý con.”
“Ta không hiểu.” Ông cậu Paton túm chặt cánh tay Charlie hơn. “Nhanh lên! Nhanh ra khỏi đây!”
Charlie thấy mình bị lôi xệch qua đường. Một chiếc xe lao tới bóp một tiếng còi cảnh báo và Ông cậu Paton vội giật nó lên vỉa hè.
“Con bảo không-hẳn-là-người nghĩa là sao?” Ông cậu Paton kéo thụp vành nón xuống. Bây giờ cả mũi của ông cũng bị che khuất.
“Họ quái đản lắm, Ông cậu Paton,” Charlie thở hồng hộc. “Con không thể giải thích.”
“Cố lên,” ông cậu ra lệnh. “Ta muốn biết chúng ta đang đối phó với loại sinh vật gì.”
Ông cậu Paton đi tiếp với tốc độ lướt gió thường lệ của mình. Charlie phải cắm cổ chạy từng chặp cho kịp ông. “Chân ông dài gấp đôi chân con.”
“Ta muốn ngăn cách mình với đèn đường,” Ông cậu Paton gắt. Ông rẽ một góc phố và chậm bước lại. “Nào, cố lần nữa coi. Cái gì khiến họ không phải là người, Charlie?”
“Trước tiên là họ có lông. Rồi mắt họ... mắt họ, à, con nghĩ khác xa mắt người. Chúng giống mắt chó... hoặc, hoặc...”
“Sói?” ông cậu gợi nhắc.
“Chắc vậy,” Charlie thận trọng. “Nếu mắt sói màu vàng.”
“Hừm. Sao ta có linh cảm nhà Bloor liên quan tới vụ này? Nói ta coi, ba của con có nhắc đến việc để lại vật gì đó ở ngôi nhà cũ không?”
“Không ạ. Nhưng có rất nhiều thứ ba con đã quên rồi.” Charlie mỉm cười một mình. Ba nó nhớ tên mẹ nó và tên ba là đủ. “Tuy nhiên, trí nhớ của ba con đang dần trở lại. Mỗi ngày lại có một điều mới bật khỏi đầu ba. Có lẽ khi đi nghỉ về, ba con sẽ phục hồi hoàn toàn.”
“Và đó là điều bọn chúng lo sợ.” Ông cậu Paton dừng khựng lại. “Ai ạ? Cái gì cơ?” Charlie hỏi.
“Nghe này, Charlie. Ai nấy tin rằng Manfred Bloor thôi miên ba của con là bởi vì chú ấy gây tai nạn cho lão Ezekiel. Nhưng ta ngẫm thấy còn nhiều lý
do hơn thế nữa. Ta tin là ba của con đang giấu một vật mà gia đình Bloor muốn có. Rất có thể bọn chúng hy vọng là dưới sức thôi miên, chú ấy sẽ tiết lộ nơi cất nó. Nhưng điều này không xảy ra. Đến bây giờ họ lại sợ ba của con sẽ nhớ và tìm ra cái vật đó trước bọn họ.”
Charlie không thể hình dung nổi điều gì khiến ông cậu đi đến kết luận như vậy. Nhưng đầu óc Ông cậu Paton vốn hay lần tìm vấn đề. Ông đang viết lịch sử Vua Đỏ, và căn phòng riêng của ông chật cứng những quyển sách khổng lồ về tất cả những đề tài Charlie từng nghe nói tới, cũng như về biết bao điều nó chưa từng nghe bao giờ.
Đường Diamond nằm ở ngoại ô thành phố, Charlie và ông cậu phải đi bộ gần một tiếng mới về tới nhà. Lúc đó bóng chiều đã ập xuống và sương mù dày đặc đang bò qua các con phố. Thật lạ, không khí thoảng mùi muối, mặc dù biển cách xa nơi này ít nhất là 30 dặm.
Bà ngoại của Charlie, ngoại Maisie, đón họ tận cửa. Vẻ mặt bà như vừa bị choáng sốc ghê gớm. “Bà Bone về rồi,” bà thì thầm, tắt đèn hành lang đi, ngăn ngừa Ông cậu Paton gây tai nạn.
“Về rồi?” Ông cậu Paton nói to. “Cái quái quỷ...”
“Suỵt!” ngoại Maisie đưa một ngón tay lên môi. “Vào nhà đã.”
Charlie và ông cậu theo ngoại Maisie vào nhà bếp. Bàn ăn đã dọn sẵn và trong khi múc súp ra ba cái tô, ngoại Maisie kể cho họ nghe về chuyến trở về đột ngột của nội Bone.
Nội Bone là chị gái của Ông cậu Paton. Hơn ông tới hai mươi tuổi và họ chẳng bao giờ thuận hòa với nhau. Bà ta thậm chí còn không ưa người con trai duy nhất của mình, tức là ba của Charlie. Ngay khi chú ấy trở về sau mười năm bị cầm tù trong học viện Bloor, nội Bone liền khăn gói ra đi – đến
sống với ba cô em gái ở cuối một con hẻm tối tăm, bất ổn tên là Ngách Tối. Charlie đã hy vọng sẽ không bao giờ phải nhìn thấy bà ta lần nữa chứ.
“Mụ ta vẫn còn giữ chìa khóa,” ngoại Maisie kể. “Mụ hùng hổ đi vào, thảy phịch giỏ vô hành lang và hét ‘Ta về lại!’ ‘Sao vậy?’ ta hỏi. Hừ, thoáng nhìn đã biết có điều không ổn rồi. ‘Ai cũng nghĩ chắc là bà tiếc lắm,’ mụ nói. ‘Đúng thế. Tôi tưởng bà dọn đi hẳn chứ,’ ta liền đáp như vậy.”
Charlie bật cười khúc khích.
Ông cậu Paton hỏi, “Nhưng lý do của bà ta là gì, bà Maisie? Tại sao bà ta trở về?”
“Vì đám cưới!” ngoại Maisie nói.
“Cưới ai?” Ông cậu Paton hỏi vội.
“Em út của mụ, Venetia. Tuần sau bà này sẽ cưới chồng.”
Charlie bị sặc súp. “Bà cô Venetia? Người quái quỷ nào trên đời lại muốn cưới bà ta nhỉ?”
“Có đấy, Charlie cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng chẳng mấy chốc gã đàn ông tội nghiệp đó sẽ hối tiếc về ngày này cho mà xem.”
“Quái lạ,” Ông cậu Paton nhìn ngoại Maisie trân trân, không tin nổi.
“Nội Bone rất cáu tiết,” ngoại Maisie kể tiếp, “Nhưng hai bà em kia thì ủng hộ hoàn toàn.”
“Phùù.” Ông cậu Paton thổi súp của mình, chắc hẳn nó đâu có nóng, bởi vì ông đã nuốt chửng gần chục muỗng rồi mà đâu kêu ca gì. Ông đang cố không để lộ ra, nhưng ai cũng có thể thấy ông đang cực kỳ hoang mang và bàng hoàng thật sự.
Bốn bà chị của Ông cậu Paton đều xấu xa như nhau. Họ căm thù ông em duy nhất của họ; cả đời họ hành hạ ông chỉ vì ông bất đồng những quan điểm đạo đức của họ và luôn bày tỏ dứt khoát cho họ biết điều đó. Cả bốn chị em nhà họ đều đê tiện, hận thù, hống hách, lươn lẹo và tham lam. Quả tình, Charlie không sao tìm đủ lời để diễn tả cho hết họ kinh khủng đến cỡ nào. Không ai trong bọn họ từng bao giờ nói một lời tử tế với Charlie, chứ đừng nói là tặng quà sinh nhật nó, đặc biệt là nội Bone.
Ngoại Maisie ém phần hấp dẫn nhất trong bản thông báo của mình đến phút cuối mới bất ngờ tung ra. “Điều tệ nhất là gã đó đã có con rồi. Hai người nghĩ gì về điều này?”
“Có con!” Charlie rùng mình. “Tội nghiệp bọn chúng. Hãy tưởng tượng bà cô Venetia là mẹ mình!”
“Thật quá quắt.” Ông cậu Paton ngẩng phắt đầu lên.
Charlie quay lưng ra cửa nên không thấy nội Bone đang bước tới từ đằng sau nó.
“Ta mừng rằng ta không phải là mẹ mày,” nội Bone hằn học. Mụ đùng đùng bước tới tủ lạnh, mở ra. “Chẳng có gì trong đây,” mụ phàn nàn. “Chả có gì ngoài phó mát và xương ôi. Không patê, không sốt mayonnaise và thậm chí không cả mùi cá hồi.”
Ngoại Maisie thở dài đánh sượt. “Làm sao tôi biết bà xuống đây lùng sục, với cái bụng cầu kỳ và cái mồm kén chọn của bà? Ngồi xuống đi, Grizelda, để tôi múc cho bà một ít súp nấm.”
“Thôi, cám ơn.” Nội Bone thả người đánh rầm vào chiếc ghế bập bênh gần bếp lò.
Ông cậu Paton nhăn mặt. Ông đã định vứt chiếc bập bênh đó đi rồi. Xưa nay có ai dùng tới nó. Nó là sự nhắc nhở không ngừng về sự có mặt ảm đạm của nội Bone. Phải chi ông nghĩ sớm và đã chặt nó ra làm củi từ hôm trước.
Cọt! Kẹt! Cọt! Kẹt! Cọt! Bà ta nằm đó, mắt nhắm lại, đầu rụt vào cằm. Cọt! Kẹt! Cọt! Kẹt! m thanh dư sức làm vón cục món súp.
“Thì ra,” Ông cậu Paton mãi mới tìm được lời, “tôi nghe nói bà bất hòa với các em, Grizelda.”
“Chúng cũng là chị của mày,” mụ độp lại. “Cưới chồng! Xời, ta chưa bao giờ nghe chuyện lố bịch đến vậy. Venetia đã năm mươi hai tuổi rồi. Đáng ra nó phải dẹp bỏ cái việc đại loại thế từ nhiều năm trước cơ.”
“Đại loại nào?” Charlie hỏi.
“Đừng xấc xược!” bà nội nó mắng.
Charlie ăn xong súp thì đứng lên. “Con cá là bà sẽ đi khi ba con trở về,” nó nói.
“Hừ, bọn mày sẽ đến sống ở Góc Kim Cương ấm cúng kia mà.” Mụ thảy cho Charlie ánh nhìn lạnh lẽo nhất của mụ. “Nhưng mà xem cá voi có thể rất nguy hiểm. Không chừng hắn chả bao giờ...”
Charlie không chờ nghe bà nội nói nốt câu. “Con qua nhà Ben chơi đây,” nó hét to, chạy ra hành lang và xộc áo khoác vào.
Ngoại Maisie gọi với theo, “Charlie, trời tối rồi cưng. Đừng để ý bà Bone. Bà ấy nói vậy chứ chả có ý gì đâu.”
“Có đấy,” Charlie lầm bầm. Nó rời nhà, chạy băng qua đường tới nhà số 12 và nhấn chuông. Đường Filbert luôn im ắng vào giờ này Chủ Nhật. Chỉ có
vài chiếc xe chạy ngang qua, còn vỉa hè vắng teo. Nhưng Charlie cảm thấy nổi gai đằng sau gáy, mách bảo nó có ai đó đang nhìn mình.
“Lẹ, lẹ lên.” Charlie nhấn chuông lần thứ hai.
Benjamin Brown mở cửa. Nó nhỏ hơn Charlie vài tháng tuổi và nhỏ con hơn nhiều. Mái tóc vàng hỗn độn của nó trùng y với màu lông con chó đứng bên cạnh, vẫy đuôi rối rít.
“Mình vào được không?” Charlie hỏi. “Nội Bone vừa trở về.”
Benjamin hiểu ngay tắp lự. “Tai họa làm sao! Mình định đưa Hạt Đậu đi dạo đây. Đi không?”
Bất kể điều gì cũng tốt hơn một buổi tối trong cùng nhà với nội Bone. Charlie liền nhịp bước bên cạnh Benjamin khi thằng này hướng về phía công viên. Với những tiếng sủa hân hoan, Hạt Đậu chạy vòng quanh hai thằng bé, sau đó phóng thục mạng trên con đường tối. Benjamin không thích để vuột tầm mắt khỏi con chó. Dù biết thế là mình lo lắng không cần thiết. Ba mẹ nó luôn dặn nó hãy tươi tỉnh lên, nhưng Benjamin không thể nào khác đi bản tính của mình được. Ngoài ra, một màn sương mù đang bò vào phố – một màn sương bất thường, thoảng mùi muối.
Charlie thõng vai xuống. Lại nữa rồi. Vẫn cảm giác gai gai kỳ quặc bên dưới cổ áo. Nó dừng lại và ngoái nhìn ra sau.
“Gì vậy, Charlie?” Benjamin hỏi.
Charlie kể cho bạn nghe về những người nhưng không-giống-người nó đã thấy gần Góc Kim Cương.
“Đêm nay không có gì bình thường cả,” Benjamin run rẩy. “Chưa bao giờ mình nếm thấy mùi muối trong sương.”
Và rồi chúng nghe thấy tiếng tru – ở rất xa, nhưng đúng là một tiếng tru. m thanh đó nghe hơi giống tiếng người, nhưng không phải tiếng người. Lần đầu tiên kể từ khi ba mẹ đi nghỉ, Charlie ước gì họ đừng đi xem cá voi.
Hạt Đậu hộc tốc trở lại chỗ hai thằng bé. Lông xù dựng lên như lông nhím.
“Vì tiếng tru đó đó,” Benjamin bảo. “Mình đã nghe thấy một lần rồi. Nó khiến Hạt Đậu hoảng hốt, mặc dù bình thường Hạt Đậu vốn không sợ cái gì cả.”
Không lâu sau, Charlie nhận ra có mối liên quan giữa tiếng tru đằng xa và sinh vật không-hẳn-là-người hình như đang đi theo nó.
Nhưng còn về màn sương có muối lại là điều hoàn toàn khác. NHỮNG KẺ LẠ TỪ BIỂN KHƠI
Có hai kẻ lạ mặt đã vào thành phố trong buổi chiều Chủ Nhật buốt giá hôm ấy. Họ đến bằng đường sông. Bỏ lại con thuyền neo dưới một cây cầu, họ leo bờ sông dốc lên đường cái. Họ di chuyển bằng những cử động chao đảo kỳ lạ như thể đang giữ thăng bằng trên boong tàu. Đi tới đâu họ kéo một màn
sương mù theo đến đó: thứ sương mù giả tạo, đượm mùi muối, làm cho chim chóc im tiếng và khiến khách qua đường bật ho vào tận trong lồng ngực mà không cưỡng lại được.
Người nhỏ hơn trong hai người lạ là một thằng bé chừng 11 tuổi, mắt xanh biển trông như tảng băng trôi ngầm dưới nước. Mái tóc dài chấm vai của nó màu nâu lục, bết xỉn, hơi quăn một nếp. Dù cao đúng độ tuổi của mình, nhưng da nó tái nhợt, môi nó hầu như không có máu. Nó chòng chành đi qua những con đường rải sỏi, với vẻ quyết tâm, không gì lay chuyển trên bộ mặt mỏng quẹt.
Cha thằng bé có đôi mắt lạnh trơ giống như mắt nó, nhưng mái tóc dài của
hắn ta điểm những vệt trắng. Tên hắn là Lord Grimwald.
Khi họ đến những bậc thang dẫn lên học viện Bloor, thằng bé dừng lại. Mắt nó dán vào những bức tường xám đồ sộ và đảo lên hai tòa tháp ở hai bên lối vào. “Đi từ biển tới đây xa quá,” nó nói bằng giọng du dương đến không ngờ.
“Con phải học cách sống không biển một thời gian.” Giọng người đàn ông có tiếng dội của hang động ẩm ướt.
“Được.” Thằng bé thọc một tay vào túi quần. Vẻ yên lòng hiện ra trên khuôn mặt nó trước sự tiếp xúc dễ chịu với những linh vật biển. Trong túi, nó mang theo một con cá vàng, một con nhím biển và mấy con cua vàng. Đó là quà tặng từ người mẹ quá cố, được làm từ vàng tìm thấy trong những con tàu đắm dưới biển sâu. “Dagbert, những linh vật biển này sẽ giúp con sống sót,” mẹ nó đã thì thầm với nó. “Nhưng con không bao giờ được cho cha con biết về chúng.”
Khi thằng bé bắt đầu lên cầu thang, cha nó nói, “Dagbert, nhớ lời ta dặn đấy. Phải cố tự kiềm chế.”
Dagbert dừng bước và quay lại nhìn cha. “Ngộ nhỡ con không thể thì sao?” “Con buộc phải. Chúng ta ở đây giúp con.”
“Cha thì giúp. Còn con thì học.” Dagbert quay đầu và bước lên hết cầu thang. Cặp giò dài đưa nó băng qua mảnh sân gạch chỉ với vài sải chân liêu xiêu, tiếp theo, nó giật sợi dây xích treo cạnh cánh cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi. Một tiếng chuông lanh lảnh cất lên đâu đó sâu thẳm bên trong tòa nhà. Dagbert săm soi những hình người bằng đồng khảm trên các cánh cửa.
“Họ xưa hơn cả tòa nhà.” Lord Grimwald rà ngón tay khắp hình một người đàn ông cầm cái gì trông như một tia chớp. “Tổ tiên của chúng ta đó, Dagbert. Nhớ đấy. Chúng ta đang nói về Petrello, người con thứ năm của
Vua Đỏ.”
Một trong hai cánh cửa loảng xoảng mở ra và một người đàn ông xuất hiện. Đó là một gã lực lưỡng, đầu trọc lóc, mặt vuông bạnh và mắt nhỏ rí, vô hồn. “Gì hả?” Hắn hỏi.
“Chúng tôi có hẹn,” Lord Grimwald tuyên bố một cách ngạo mạn. “Tên là Grimwald?” Mắt gã đàn ông híp lại.
“Chứ mi trông chờ ai khác à?”
Gã đàn ông lẩm bẩm “Chậc!” và mở cánh cửa rộng ra hơn. “Thế thì vô đi.”
Cha và con đi theo tấm phản thịt qua một tiền sảnh dài lát đá phiến tới một cánh cửa ăn vào một trong những bức tường ốp ván gỗ sồi. “Tháp nhạc,” kẻ dẫn đường thông báo, xoay một cái vòng sắt. Cánh cửa bật mở và hắn dẫn hai người khách vào một hành lang thắp sáng lù mù. Ở cuối hành lang họ đi vô một căn phòng hình tròn rồi leo một cầu thang xoáy trôn ốc. Lên hết quãng cầu thang thứ nhất, họ rẽ phải và bước vào một hành lang trải thảm dày.
“Văn phòng của tiến sĩ ở cửa thứ hai bên trái,” gã gác cổng đầu trọc nói. “Đúng như ông nói, ông có hẹn. Gia đình Bloor đang ở trong đó. Cả ba người.”
“Tên gì?” Lord Grimwald hạch sách. “Ta muốn biết những chi tiết này.”
“Weedon: gác cổng, lái xe, tạp vụ, làm vườn. Vậy đủ cho ông chưa?” Hắn nện gót trở lại cầu thang.
“Đồ láo xược.” Nước da xanh rêu của Lord Grimwald chuyển thành màu xìn xịt của đất nung. Khi tiến sát đến cửa văn phòng, hắn ta nện thẳng lên đó vài nắm đấm, thay vì gõ cửa lịch sự như ở trường hợp khác chắc hẳn hắn đã
làm.
“Vô đi!” hai giọng vang lên cùng lúc, một trầm đục và ngạo mạn, còn giọng kia rít lên hăm hở.
Lord Grimwald và con trai bước vào phòng. Họ thấy mình ở trong một căn phòng u ám, xếp đầy sách, có một người đàn ông to cao đứng đằng sau bàn viết. Cạnh bên bàn là một sinh vật già khọm ngồi trong xe lăn. Toàn thân lão quấn tọt trong một tấm chăn ca-rô, đầu đội mũ đen hình tròn, ôm sát cái hộp sọ gồ xương. Từ đó lòi ra mấy dải tóc trắng thòng xuống tới vai, trông tưởng sợi sáp. Đằng sau lão, một lò sưởi đun củi cung cấp hơi ấm và chút màu sắc sinh động cho căn phòng.
“Lord Grimwald.” Tiến sĩ Bloor bước vòng qua bàn và bắt tay khách. “Hân hạnh gặp ông. Tôi là tiến sĩ Bloor, hiệu trưởng. Tôi tin là cuộc hành trình của ông không được thoải mái cho lắm.”
“Chúng tôi đến bằng đường biển.”
“Không thể nào. Chúng tôi cách biển nhiều dặm mà,” sinh vật trong xe lăn lên tiếng.
“Chúng tôi đã đi xa hết sức cho phép rồi sau đó chèo thuyền qua sông.” Lord Grimwald bắt bàn tay như móng vuốt thò ra khỏi tấm chăn ca-rô.
“Ta là ngài Ezekiel,” lão già cốc đế nói. “Ta một trăm lẻ một tuổi. Thế nào? Trông không tới tuổi đó, nhỉ?” Không chờ lời đáp lại, lão tiếp, “Ra đây là thằng bé.” Lão thộp lấy tay Dagbert.
“Tên nó là Dagbert,” Lord Grimwald bảo với lão khọm. “Nó có nhiều tên khác nữa, nhưng chúng tôi quyết định họ của nó là Endless1.”
“Bởi vì tên tôi vĩnh cửu như đại dương.” Dagbert không hề nao núng khi
những ngón tay mình bị vò trong một bàn tay xương xẩu. Thật ra nó không nhìn lão Ezekiel. Ánh mắt nó bị hút vào một hình thù trong góc phòng, tùm hụp và sậm tối, ngoảnh mặt khỏi những vị khách, mặc dù nó tạo ấn tượng là đang chăm chú lắng nghe không sót lời nào. Dagbert mải chú mục tới hình thù sát khí đó đến nỗi quên kiểm soát bản thân.
Những lưỡi lửa trong vỉ lò hiu hắt rồi tắt ngỏm. Một màn sương nhớp nháp tràn vào phòng, và những quyển sách màu mốc giăng kín các bức tường bị tắm đẫm trong ánh sáng biển kỳ quái.
“Ma quỷ gì thế này?” Lão Ezekiel vọt miệng, kéo tấm chăn vô sát người hơn.
“Đó là phép của nó,” Lord Grimwald thản nhiên nói. “Chẳng bao lâu nữa Dagbert sẽ phát huy hết quyền năng, và tài phép của nó sẽ mạnh hơn ta.”
“Thật thế ư?” Tiến sĩ Bloor ước lượng thằng bé. “Một ý nghĩ chẳng thoải mái cho ông, ông Lord Grimwald à.”
“Không đâu. Dagbert sẽ không bất tuân. Nếu thế nó sẽ chết. Nó biết rõ điều này.” Lord Grimwald nói như thể con trai không hề có mặt trong phòng. “Ta không muốn có con,” hắn tiếp, “Nhưng rồi thì phép lạ này xảy đến,” hắn chỉ Dagbert, “và ta thấy mình không thể tách khỏi điều đó. Dòng họ của ta bị nguyền rủa, ông biết đấy. Hễ khi nào một đứa con trai đạt tới tối đa công lực, nó sẽ quay qua chống lại cha nó, rồi thì một trong hai cha con sẽ có người chết. Nhưng chúng tôi, ta và Dagbert, đã có một hiệp ước, sẽ luôn luôn hợp tác cùng nhau. Phải không, Dagbert?”
Dagbert gật đầu với cha một cái cụt lủn.
“Nào, Dagbert, hãy tự chủ!”
Dagbert mỉm cười. Ánh sáng biển nhạt đi, những khúc củi trong lò kêu lèo
xèo và bùng cháy trở lại.
“Thú vị.” Tiến sĩ Bloor nhíu mày với thằng bé. “Miễn là nó sử dụng tài phép của nó đúng chỗ.”
“Hãy để mắt tới nó giùm ta,” Lord Grimwald nói, “Và ta sẽ làm những gì ông muốn.”
“Chúng tôi sẽ xếp nó vào phòng ngủ chung của Charlie Bone,” lão Ezekiel hả hê.
“Xin mời cả hai người ngồi xuống,” tiến sĩ Bloor nói. “Dagbert, lấy mấy chiếc ghế cạnh kệ sách lại đây.”
Thằng bé kéo hai chiếc ghế lại gần bàn trong khi tiến sĩ Bloor tiếp, “Charlie Bone đang trở nên mạnh ngoài tầm kiểm soát. Cần phải gò cương nó lại.”
“Cháu có thể làm điều đó, thưa ngài.” Dagbert ngồi xuống ghế cạnh cha nó.
Lần đầu tiên kể từ khi những vị khách tới, cái hình thù trong bóng tối day mặt ra ánh sáng. Lord Grimwald vô ý thở hốc lên, nhưng con trai hắn ta trố mắt nhìn gương mặt bị tàn phá của Manfred Bloor bằng vẻ hãi hùng pha lẫn khoái chí. Bốn vết sẹo lớn chạy từ đường ngôi tới cằm của người thanh niên. Mí mắt hắn nhúm nhíu những mũi khâu và môi trên bị xách ngược lên thành hai phần, khiến cho bộ mặt hắn mang vẻ quàu quạu vĩnh viễn.
“Khủng khiếp hả?” Lão Ezekiel ngó quành lại thằng chắt của mình. “Nhưng chúng ta sẽ trả thù chúng, Manfred.”
“Sao lại ra thế?” Lord Grimwald hỏi.
“Lũ mèo,” tiến sĩ Bloor đáp.
“Mèo?” Lord Grimwald lặp lại, không tin nổi.
“Những con báo,” một giọng đùng đục từ phòng vang vọng ra.
“Chúng xé toạc cổ họng nó,” tiến sĩ Bloor hạ thấp giọng. “Mỗi tiếng nói ra đều khiến nó đau đớn.”
“Những con báo.” Mắt Dagbert vẫn chưa rời khỏi bộ mặt bị hủy hoại. “Những con báo của Vua Đỏ,” lại cái giọng ghê sợ đó.
Dagbert quay qua cha. “Chúng ta là con cháu của Vua Đỏ.” Cha nó gật đầu. “Chính vì vậy chúng ta ở đây.”
“Vậy là mi biết câu chuyện về Vua Đỏ?” Lão Ezekiel lăn xe lại gần Dagbert. “Mi biết là khi vợ ngài mất, nhà vua vào rừng than khóc chỉ có lũ báo đi cùng. Nhưng mi có biết ngài đã biến lũ báo đó thành mèo không? Những con mèo bất tử, lông chúng sáng như lửa, lũ mèo đó xuất hiện trong mọi thế hệ để đồng hành với những đứa trẻ khước từ sự kiểm soát.” Giọng lão Ezekiel rú lên giận dữ. “Chính chúng. Những con mèo đó đã hủy hoại chắt của ta.”
“Tại sao?” Dagbert hỏi, rất can đảm trước nỗi cuồng điên của lão già. “Charlie Bone,” cái giọng cay cú trong bóng tối trả lời.
“Đúng, Charlie Bone,” tiến sĩ Bloor thừa nhận. “Cứ cho là nó cố cứu cha nó, nhưng làm ra nông nỗi này...” ông hiệu trưởng vung tay về phía con trai.
“Ông đã tìm ra cách trừng phạt Charlie Bone chưa?” Lord Grimwald hỏi.
“Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi.” Tiến sĩ Bloor thở phùù ra. “Charlie có bạn bè, ông biết đấy, đám bạn có phép hùng mạnh. Chúng nó dính nhau như hồ.”
“Hồ có thể bị loãng,” Dagbert lẳng lặng nói.
Một bầu thinh lặng kinh ngạc theo sau lời nhận xét này. Gia đình Bloor đánh giá Dagbert bằng mối quan tâm mới. Nhưng ánh mắt thằng bé đang bị ghìm giữ trong đôi mắt sứt sẹo đang nhìn ra nó từ trong bóng tối, và tất cả mọi người trong phòng đều cảm nhận mối dây vô hình được hình thành tức tốc giữa Dagbert Endless và Manfred Bloor.
Ezekiel mỉm cười thỏa mãn. Từng có nhiều đứa trẻ được ban phép thuật học ở học viện Bloor; không thiếu đứa độc địa một cách đáng hài lòng, nhưng lão chắc chắn chưa đứa nào chết người như thằng bé phương Bắc có đôi mắt băng trôi này.
Lord Grimwald đứng dậy và bắt đầu di chuyển trong phòng bằng kiểu đi lảo đảo quái đản của mình. “Vậy là ông sẽ giáo dục con trai ta. Thế còn ta sẽ phải làm gì cho ông?”
“À, bây giờ chúng ta đi vào mấu chốt vấn đề,” lão Ezekiel hồ hởi. “Ông có thể điều khiển biển cả, Lord Grimwald. Một tài phép không ai bằng, nếu ta có thể nói thế.”
Lord Grimwald nghiêng đầu trong khi vẫn tiếp tục liêu xiêu trong phòng.
Tiến sĩ Bloor nói, “Cha của Charlie, Lyell Bone, hiện giờ đang ở ngoài biển. Hắn đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai với vợ là Amy. Và bọn chúng đã quyết định sẽ đi xem cá voi.”
“Xem cá voi!” lão Ezekiel cười lục cục. “Bọn ngớ ngẩn. Chúng đang ở trên một con thuyền bé tẹo, sóng sẽ đánh thuyền của chúng nghiêng ngả, đến khi
một con sóng cao nhất, lớn nhất, rộng nhất sẽ dìm con thuyền xuống đáy đại dương, cho Lyell và Amy mãi mãi nằm lại dưới đấy. Ông nghĩ sao về điều đó, Lord Grimwald?”
“Ta có thể làm điều đó cho ông.” Lord Grimwald dừng bước và ngồi xuống. “Nhưng cho ta hỏi, ngoài trừng phạt Charlie Bone, còn có lý do nào khác mà ông muốn dìm chết Lyell Bone?”
“BẢN DI CHÚC!” cả tiến sĩ Bloor và lão Ezekiel cùng đồng thanh. “Bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Nó xưa, xưa lắm rồi, nhưng vẫn còn hiệu lực,” lão Ezekiel nói. “Do ông tằng tổ của ta, Septimus Bloor, lập năm 1865, ngay trước khi chết. Lão ấy để lại mọi thứ: nhà, vườn, lâu đài trên bãi đổ nát, những tài sản vô giá, tất tật... tất tật cho con gái lão là Maybelle và bọn thừa kế của mụ. Nhưng bà dì của ta, Beatrice, là một phù thủy. Beatrice rất căm ghét Maybelle, nên đã đầu độc Maybelle và làm giả một bản di chúc khác. Bản di chúc này, bản giả đó, để lại tất cả mọi thứ cho ông nội ta, Bertram. Ông ấy để lại tất cả cho cha ta, sau đó cho ta. Beatrice không muốn gì cho mình cả – bà ấy thấy Maybelle chết và thấy con cái mụ bơ vơ sống nhờ trại tế bần là mãn nguyện rồi.”
“Thứ lỗi cho sự chậm hiểu của ta, ngài Bloor, nhưng đâu là vấn đề?” Lord Grimwald xòe tay ra. “Dường như bản di chúc thật không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng có đấy, nó vẫn tồn tại,” lão Ezekiel thét gào. “Có kẻ đã tìm thấy nó, đó là Rufus Raven, chắt của Maybelle. Hắn đã trao cho vợ hắn, Ellen, ngay trong ngày cưới.”
“Trao bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Không, không chính xác là bản di chúc. Ellen được trao chiếc hộp đựng bản di chúc,” tiến sĩ Bloor giải thích. “Chìa khóa đã mất và cô ta không thể
mở được chiếc hộp, nhưng Ellen được ban phép nhận biết... đồ vật. Cô ta đoán trong hộp chứa một thứ cực kỳ quan trọng.”
“Bọn ta tin rằng Rufus đã trao chiếc hộp cho Lyell Bone giữ cho an toàn,” lão Ezekiel nói. “Chúng là bạn nối khố của nhau, hắn và Rufus ấy. Bọn ta đã thương lượng, đã cố dọa nạt: ‘Đưa cái hộp cho bọn ta thì mi sẽ được một nửa gia tài’. Dĩ nhiên bọn ta dụ thế thôi.” Một nụ cười quỷ quyệt bệu ra khỏi cặp môi héo hắt của lão Ezekiel. “Nhưng Rufus không chịu nhả. Vì vậy bọn ta buộc phải khử hắn với con vợ khờ khạo của hắn. Một tai nạn thương tâm do một thợ máy xe được ta trả công bày bố. Thằng con của chúng sống sót, nhưng nó chẳng biết tí ti gì.”
“Tên nó là Billy,” tiến sĩ Bloor nói. “Bọn ta đang giữ nó ở đây. Nó 8 tuổi và có thể nói chuyện với thú vật.”
“Lợi hại ghê,” Dagbert thích thú.
Lão Ezekiel cười gằn. “Tài phép của Billy đến giờ chả có lợi lộc gì cho nó. Như Thương Hại này là ví dụ.” Lão bật ngón tay. “Thương Hại, lại đây.”
Một con chó già khú đế từ dưới gầm bàn hiện ra. Mắt nó bị khuất tịt trong mớ da bèo nhèo chảy xệ, bộ vó ngắn cũn cỡn hầu như không đỡ nổi thân hình ục ịch của nó. Môi Dagbert tớn lên ghê tởm khi con vật ự hự và dí vòm miệng nước dãi lòng ròng vào tấm chăn của lão Ezekiel.
“Billy gọi nó là May Phúc,” lão Ezekiel nói. “Có trời mới biết tại sao. Con chó này hiểu được mấy lời láo nháo của Billy nhưng lại chả hiểu những gì bọn ta nói. Bướm với lại,” lão Ezekiel huơ đôi tay còng queo lên khỏi đầu, “với lại... tiệc sinh nhật, là tất cả những gì nó biết. Vì vậy nó không thể mách lẻo Billy chút gì về cuộc chuyện trò của bọn ta, hay về sự thừa kế của nó.”
“Lão chắc không đó?” Dagbert nghi ngờ tia con chó.
“Hoàn toàn,” tiến sĩ Bloor nói. “Những từ duy nhất con chó đó biết là tên nó: Thương Hại hoặc May Phúc.”
Điều này không hẳn đúng. May Phúc không đủ khả năng để hiểu hết từng lời được nói ra, nhưng nó hiểu mạch cảm xúc ở trong phòng. Nó biết bọn họ đang nói về bạn của nó, Billy, và linh cảm hai kẻ lạ mặt kia mang đến tai họa. Họ phả mùi sương và gỗ mục. Da họ lạnh và trơn nhẫy, và trong giọng nói của họ có âm vang tiếng sóng đập vào bờ đá. Mắt thằng bé nhoang nhoáng như nước đóng băng, và mặt của người đàn ông kể về những con tàu đắm và những người bị chết đuối thương tâm. May Phúc sẽ mô tả tất cả những điều này cho Billy, sau đó Billy sẽ nói chuyện với bà bếp trưởng. Và bà bếp trưởng sẽ cho May Phúc một cục xương to, May Phúc hy vọng vậy. Con chó già hướng ra cửa, ngúc ngoắc cái đuôi trụi lủi và đánh một phát rắm khi nghĩ về cục xương hằng ao ước.
Có tiếng gõ cửa lớn và, khi cửa mở, May Phúc hấp tấp sượt qua Weedon ra hành lang.
“Bà bếp trưởng đã dọn xong bữa tối,” Weedon thông báo một cách cục cằn.
“À!” tiến sĩ Bloor đập hai bàn tay vào nhau. “Phòng ăn ở cuối hành lang. Đi hướng này, xin mời mọi người.”
Trong khi hai vị khách đi theo tiến sĩ Bloor, một phụ nữ nhỏ nhắn từ phòng ăn hiện ra. Bà bếp trưởng đã tròn trịa hơn ngày trước, mái tóc đen giờ hơi ngả xám, nhưng gương mặt hồng hào vẫn lưu lại những nét xinh đẹp thời trẻ. Trông thấy tiến sĩ Bloor và khách, bà đứng nép qua bên cho họ đi qua.
“Cảm ơn, bà bếp trưởng,” tiến sĩ Bloor nói.
Bà bếp trưởng gật đầu, bỗng bất giác rùng mình. Bà bụm chiếc khăn mùi
xoa lên mặt và lật đật đi khỏi. Tim bà đập nhanh đến nỗi May Phúc cũng nghe thấy khi bà chạy theo sau nó xuống cầu thang.
“Ối, hãi hùng! Ối, kinh hoàng! Đó là hắn. Là hắn đấy. Ối, May Phúc, ta phải làm gì đây? Sao hắn lại ở đây? Sao lại là bây giờ?”
Bà bếp trưởng bươn vào căn tin xanh da trời, với May Phúc kè sát nút. Chiếc khăn mùi xoa vẫn bịt chặt miệng bà như thể từng luồng không khí bà hít vào đều bị đầu độc.
“Bà bếp trưởng, chuyện gì vậy ạ?”
Bà bếp trưởng đã không thấy thằng bé tóc trắng đang ngồi bên cái bàn trong góc.
“Ồ, Billy, cưng. Ta bàng hoàng quá.” Bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống cạnh nó. “Có một người đàn ông ở đây. Hắn... hắn...” bà lắc đầu. “Billy, ta cần phải nói với con. Chính hắn đã dìm chết cha mẹ ta, quét sạch nhà cửa của ta và giết hại vị hôn phu của ta, tất cả chỉ vì ta không cưới hắn.”
Đôi mắt màu rượu vang đỏ của Billy trợn tròn kinh hãi. “Ở đây? Nhưng tại sao?”
“Ta không lý giải được cho con hiểu. Có gì đó liên quan tới thằng bé mà hắn mang theo, ta nghĩ vậy.” Bà bếp trưởng hỉ mũi và giắt chiếc khăn mùi xoa vào tay áo. “Tên hắn là Grimwald. Chuyện đã bốn mươi năm rồi. Ta không biết hắn còn nhận ra ta không. Nhưng rủi hắn nhận ra...” bà nhắm mắt lại cố gạt đi những nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được. “Nếu hắn nhận ra, ta buộc phải rời khỏi đây.”
“Rời khỏi đây? Không thể được, bà bếp trưởng!” Billy bật dậy và vòng tay ôm cổ bà bếp trưởng. “Con sẽ ra sao nếu không có bà? Bà không thể đi được. Bà đừng đi. Làm ơn đừng đi, mà.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Ta không biết, Billy. Đã từng có rất nhiều người khủng khiếp tới nơi này, nhưng hắn là kẻ kinh khủng nhất. Nếu thằng bé kia có chút gì giống hắn, chúng ta sẽ nguy khốn, tin ta đi.”
Bất thình lình May Phúc chồm hai chân lên đùi bà bếp trưởng và ngửa đầu ra sau, tru lên một tiếng thê lương đến nỗi Billy phải bịt tai lại.
“Nó biết,” Billy thì thầm. “Nó muốn nói với con điều gì đó, nhưng con không chắc mình có muốn nghe không.”
CHARLIE BONE 6: CHARLIE BONE VÀ SÓI HOANG
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 2
DAGBERT ENDLESS
Sáng thứ Hai có một thằng học trò mới xuất hiện ở học viện Bloor. Nó mặc áo chùng xanh da trời, đồng phục của khoa Nhạc. Charlie gặp nó lần đầu tiên ở trong phòng Tập Hợp. Bọn học sinh khoa nhạc có dàn nhạc riêng, và hôm nay anh bạn thân của Charlie, Fidelio, chơi violin chính. Cậu chàng cầm cây vĩ vẫy vẫy Charlie đúng lúc thầy trưởng khoa Nhạc, giáo sư Saltweather, bước lên sân khấu.
“Ai đó?” Có giọng nói lọt vô tai Charlie.
Charlie nhìn quanh thì thấy một thằng bé cao hơn nó cả tấc, tóc dài, trông ướt rượt và mắt xanh biển.
“Ai là ai?”Charlie hỏi lại.
“Thằng đàn violin.”
“Tên anh ấy là Fidelio Gunn,” Charlie đáp. “Anh ấy là một người bạn của tớ.”
“Thế à? Nó đánh violin giỏi không?”
“Kiệt xuất luôn. À nhân tiện, mình là Charlie.”
Giáo sư Saltweather giơ tay lên ra hiệu im lặng, và dàn nhạc trỗi lên.
Ba mươi phút sau thằng bé mới tới đuổi kịp Charlie khi nó rời phòng Tập Hợp. Thằng đó dúi cho Charlie một bức thư. Nhìn một cái là Charlie chẳng thích tí nào. Nó nhận ra loại giấy có tiêu đề của học viện Bloor. Với nội dung in theo lối chữ to, bay bướm như sau:
Charlie Bone được chỉ định là giám sát chính thức của Dagbert Endless. Charlie sẽ chỉ dẫn cho Dagbert tất cả những vị trí liên quan đến một học sinh khoa Nhạc năm thứ hai. Đồng thời Charlie sẽ truyền đạt cho Dagbert những
quy tắc và luật lệ của học viện, cũng như mọi thông tin về trang phục và những đồ dùng học tập bắt buộc. Nếu Dagbert Endless vi phạm bất kỳ nội quy nào của học viện, Charlie Bone sẽ phải chịu trách nhiệm.
Charlie nuốt nước miếng đánh ực.
“Đó là tôi,” thằng bé nói, chỉ vào tên mình trong bức thư. “Dagbert Endless.”
Charlie lắp bắp. “Tôi thắc mắc tại sao họ lại chọn tôi.”
“Bởi vì anh được ban phép thuật,” Dagbert bảo nó. “Tôi cũng vậy. Nhưng tôi mù tịt nhạc. Tuy nhiên tôi sẽ không phiền nếu học trống. Còn anh?”
“Tôi? Ố, tôi thổi kèn trumpet,” Charlie đáp. Nó tự hỏi sao thằng này lại vào trường trễ như vậy. Trong khi bọn chúng đã học gần hết một nửa học kỳ hai rồi.”
“Tôi đến từ phương Bắc,” Dagbert cho Charlie biết. “Phương Bắc rất, rất xa xôi. Tôi đã học ở học viện Loth nhưng họ đuổi tôi.”
Charlie lập tức quan tâm. “Vì sao?”
“Có một vụ chết đuối,” thằng bé nói tỉnh queo. “Không phải lỗi tại tôi, dĩ nhiên, nhưng anh thừa biết những bậc phụ huynh thế nào. Họ muốn trả thù và
ai đó đã nói cho họ biết tên tôi.” Dagbert hạ giọng. “Hắn không yên lâu đâu, tôi bảo đảm với anh đấy.”
“Ai?”
“Kẻ mách lẻo.”
Chúng đã ra tới tiền sảnh và Charlie ham muốn nghe chi tiết vụ chết đuối kinh hoàng đến nỗi nó quên mất nội quy. “Thế, chuyện xảy ra làm sao?”
“Im lặng trong tiền sảnh, Charlie Bone,” một trong những huynh trưởng nhắc to, chị này vui tính, hiếm khi phạt cấm túc.
“Lối này,” Charlie thì thào, huých khủy tay Dagbert.
Chúng bước tới cánh cửa bên dưới hình hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau. Vừa qua cửa Charlie nói, “Tôi mừng là chị Fiona trực chứ không phải Manfred Bloor.”
“Manfred thì sao?” Dagbert hỏi.
Charlie không thích ánh mắt Dagbert bắn vào mình. “Không có chi.” Nhanh chóng chuyển đề tài, Charlie giải thích rằng chúng đang ở trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Học sinh khoa Kịch mặc áo chùng tím, cửa phòng để áo khoác bên đó ở dưới hai chiếc mặt nạ; còn hai cây bút vẽ bắt chéo chỉ chỗ cho học sinh Mỹ Thuật đi. Họ mặc áo chùng xanh lá cây. Mỗi khoa còn có căng-tin riêng nữa. Nhưng tất cả chúng ta cùng học chung, chỉ trừ khi nào học nhạc, họa hay kịch thôi.”
Bọn trẻ bắt đầu bu quanh Dagbert. Nó từ đâu đến? Sao nó ở đây? Nó có sống trong thành phố không?
Charlie nhận ra Billy Raven ngồi trong một góc. Vừa trông thấy Dagbert,
thằng nhỏ liếc nhìn Charlie một cái đầy lo lắng và bỏ chạy. Dagbert dòm theo thằng bé bạch tạng rồi chuyện trò với những đứa khác. Nó không nói với đứa nào những điều nó vừa mới nói với Charlie. Chỉ bảo rằng nó sống trên lầu một cửa hàng bán cá.
“Tôi thích cá lắm, anh biết đấy.” Nó mỉm cười với Charlie ra điều chỉ tụi mình biết thôi.
“Nó là một con cá quái đản,” Fidelio lào thào vô tai Charlie.
Charlie cười toét. Dagbert thấy đầu Fidelio chụm sát vào đầu Charlie thì nụ cười tắt phụt khỏi gương mặt nó. Mắt nó bất thần trở nên lạnh băng đến mức khiến cho một cơn rùng mình chạy khắp sống lưng Charlie.
“Kế tiếp là giờ tiếng Anh,” Charlie nói. “Tốt hơn tụi mình tới phòng thầy Carp đi.”
“Bạn sẽ vui thích cho coi, Dagbert?” Fidelio nói. “Carp có nghĩa là một con cá chép sặc sỡ.”
Dagbert không cười. “Chỉ đường cho tôi,” nó ra lệnh.
Chúng rời phòng để áo khoác xanh da trời và len lỏi giữa những tốp học trò áo chùng xanh da trời, xanh lá cây, hoặc tím tỏa đi khắp mọi hướng.
Thầy Carp là người mập chắc, mặt đỏ gay, lúc nào cũng đóng chỉnh tề áo ghi-lê sọc và com-lê xám lịch lãm. Thầy cho rằng Charlie Bone khiến mình ngứa mắt, phần vì mái tóc bờm xờm của nó, phần nữa vì tâm trí nó hay để đâu đâu. Nó chúa là hay lo xa và thỉnh thoảng lại tương một câu trả lời dớ dẩn làm cho cả lớp bò ra cười.
“Trò, ngồi kia,” thầy bảo Dagbert. “Đúng, kế bên Charlie Bone. Tôi được biết cậu ta là giám sát của em, mặc dù theo ý của tôi thì chính cậu ta mới cần
người giám sát.” Thầy Carp bật cười trước câu đùa của mình trong khi cả lớp im thin thít.
Dagbert ngồi vào bàn kế bên Charlie. Ở phía bên kia Charlie, Fidelio nhướng một chân mày lên. Tiếng ghế cạ sàn nhà, cả lớp ngồi xuống và bài học về dấu chấm câu bắt đầu.
Suốt thời gian còn lại trong ngày Dagbert đeo dính Charlie như đỉa đói. Đó không phải là lỗi của Dagbert, Charlie lập luận, nhưng nó đang dần gây tai hại đến các quan hệ bạn bè của Charlie. Hai nhỏ bạn Emma và Olivia tới chơi với Charlie trong giờ nghỉ giải lao, nhưng tình hình bỗng chuyển xấu khi Olivia phán rằng Dagbert tanh mùi cá. Charlie đã đinh ninh cái mùi đó phả ra từ khu nhà bếp, nhưng giờ thì nó nhận thấy Olivia nói đúng.
Phản ứng của Dagbert khiến Charlie ngỡ ngàng. “Tụi này nghĩ mấy người bốc mùi nước hoa rẻ tiền, Charlie nhỉ?” Nó nháy mắt Charlie, thằng này mở mồm định phản đối thì Dagbert tiếp. “Tụi này nghĩ hai người lôi thôi lếch thếch quá đi. Nhất là mấy kiểu tóc lố bịch đó.”
“Tớ... không...” Charlie cà lăm.
Emma sững sờ nhìn nó, trong khi Olivia trả treo, “Ra vậy. Hừ, chúng tôi biết mình đang đứng ở đâu, có đúng không?” Con nhỏ chụp cánh tay Emma và kéo xệch đi. Được vài bước, Olivia quay lại, hét lớn, “Tớ luôn biết đằng ấy là đồ lừa đảo mà, Charlie Bone. Lừa đảo và dối trá.”
Đáng lẽ Charlie Bone đã chạy theo bọn con gái, nhưng câu nói đau xốc của Olivia chặn nó khựng lại. Phải chăng con nhỏ luôn nghĩ nó là đồ lừa đảo? Nó nhìn hai đứa con gái băng qua sân. Trong áo khoác đỏ và quần bó đen, trông Olivia không luộm thuộm tí nào. Một chiếc mũ nồi xinh xinh bằng nhung đen đội trên mái tóc nâu điểm những vệt đen và vàng óng của con nhỏ. Charlie chưa kịp khen Olivia thì Dagbert đã ném ra cái câu nhận xét chết người đó
rồi. Hôm nay thậm chí cả Emma cũng rất duyên dáng, với mái tóc vàng cuộn thẳng lên đỉnh đầu.
“Mặc cho tụi nó đi,” Dagbert nói. “Tụi mình dư biết ngữ chúng nó. Bọn đầu rỗng.”
“Dẹp xưng ‘tụi mình’ đi,” Charlie nổi đóa. “Chúng ta không cùng quan điểm gì hết. Các bạn gái đó không hề đầu rỗng.”
Dagbert tảng lờ câu này. “Anh hứa sẽ chỉ cho tôi lâu đài đỏ. Từ đây tôi có thể thấy những bức tường. Đi thôi.”
Ở cuối sân chơi, những bức tường đỏ bầm của lâu đài ẩn hiện giữa tàng cây. Nhìn đống đổ nát, thật khó tin Vua Đỏ đã từng xây cung điện ở đó. Đôi khi Charlie lấy đống tàn tích đó làm nơi nương náu, nhưng thường thì những
bức tường cao vọi luôn tạo cảm giác ơn ớn, gợi nhắc về thời quá khứ tang thương của lâu đài.
“Bạn tự đi đi,” Charlie bảo Dagbert. “Tôi muốn nói chuyện với người khác.” Nó đã thấy anh bạn Gabriel Silk đang lơ ngơ tiến về phía chúng.
Khi Gabriel đến gần, Dagbert hét lên ầm ĩ. “Anh nói phải, Charlie. Đúng là kẻ thua cuộc.”
Chẳng may đúng lúc đó Gabriel tình cờ đi ngang qua Bragger Braine, kẻ bắt nạt khét tiếng năm hai. Bragger cùng với đám con trai vây quanh hắn dòm mái tóc dài và bộ mặt thiểu não của Gabriel rồi phá lên cười độc địa.
“Gabe!” Charlie hét gọi.
Nhưng Gabriel đã chạy mất tiêu. Charlie đảo quét khắp sân, cuối cùng thấy Gabriel chạy về phía cửa vườn.
“Dagbert, sao mày nói vậy?” Charlie điên tiết. “Gabriel rất nhạy cảm. Tao không biết phải giải thích làm sao với anh ấy đây.”
“Tôi cóc quan tâm,” Dagbert tỉnh bơ. “Ai thèm một thằng bạn như thế? Hắn thậm chí còn không thể mặc được áo cũ.”
“Tại anh ấy không thể. Anh ấy chịu mọi cảm xúc của tất cả những ai đã mặc chiếc áo đó trước anh ấy.” Charlie dậm chân. “Nếu mày muốn xem khu đổ nát thì tự mà đi lấy.”
Giận lôi đình, Charlie đùng đùng bỏ đi khỏi Dagbert và hướng vào trường. Tự dưng mùi cá tanh ươn nổi lên nồng nặc đến nỗi nó suýt ói mửa. Thật nhẹ nhõm khi vào trong tiền sảnh và đóng cửa chặn cái mùi nghẹt thở đó lại. Charlie chạy tới phòng để áo khoác xanh da trời, nơi Gabriel thường lánh nạn khi có chuyện không hay. Nhưng thay vì gặp Gabriel, nó thấy Billy Raven ngồi thu lu ở đầu một băng ghế.
“Billy, em có thấy anh Gabriel đâu không?” Charlie hỏi.
Billy lắc đầu. Trông thắc thỏm bất an.
“Em sao vậy?” Charlie ngồi xuống cạnh thằng bé con.
“Anh cần phải biết đôi chút về thằng Dagbert đó,” Billy nói, “May Phúc bảo với em...”
“Đây rồi!” Dagbert hiện ra ở ngưỡng cửa, mặt nó trơ tráo và mùi cá đã bị chế ngự. Hình như nó có thể xả hay bít cái mùi đó lại. “Anh có mấy người bạn quái đản quá, Charlie Bone.”
“Này,” Charlie cố hết sức giữ bình tĩnh. “Tao không phiền làm giám sát cho mày, nhưng hãy để các bạn của tao yên, kẻo không thì...”
“Thì sao?” Mặt Dagbert đanh lại.
Charlie không thể nghĩ ra lời đối đáp.
“Không thì chẳng sao cả,” Dagbert trả lời giùm nó. “Mày chả có phép gì sất, Charlie Bone. Cho nên mày phải lợi dụng người khác.”
Charlie đang bận suy nghĩ, nó đã tống tiễn ba đứa trong đám bạn mình. Nhưng luôn còn Tancred và Lysander. Nó nhìn Dagbert chằm chằm, nhưng thằng người cá này dù có là gì chăng nữa cũng không phải là kẻ đọc tâm trí.
Sau bữa tối, trong khi bọn trẻ khác đến các lớp học của chúng, Charlie dẫn Dagbert tới phòng Nhà Vua.
“Phòng Nhà Vua là gì?” Dagbert hỏi khi chúng leo lên những cầu thang hẹp ở cuối tòa nhà.
“Đó là nơi treo bức chân dung Vua Đỏ. Tất cả những đứa trẻ được ban phép thuật đều phải làm bài tập về nhà ở dó. Bởi vì chúng ta là hậu duệ của Vua Đỏ.”
“Vậy là tôi sắp gặp những người còn lại.” Dagbert vượt lên trước Charlie. Đến lúc Charlie tới cánh cửa cao màu đen của phòng Nhà Vua, Dagbert đã vào bên trong. Charlie thấy nó đang ngó chòng chọc những kệ sách ép sát các bức tường cong.
“Một căn phòng hình tròn,” Dagbert nhận xét ra vẻ thỏa chí. “Và một cái bàn tròn. Giống thời vua Arthur1 quá ta.”
Có bốn đứa nữa đi vào: Joshua Tilpin, Dorcas Loom và hai chị em sinh đôi, Inez và Idith.
“Nào, để coi,” Dagbert nhìn xỉa vào Joshua. “Thỏi từ tính.”
Joshua cười tét lét.
“Tốt, tốt.” Dagbert quay qua Dorcas, đang xếp sách vở của nó cho ngay ngắn trên bàn. “Còn đây thì ếm bùa quần áo?”
“Sao mày biết?” Dorcas hỏi – nó là một đứa con gái bị thịt, mặt húp híp, tóc vàng rối tít.
“Tôi không biết,” Dagbert thú nhận. “Có người bảo cho tôi biết.”
“Còn chúng tôi là người siêu năng,” một trong hai chị em sinh đôi tuyên bố. Chả ai phân biệt được là đứa nào. Cả hai đều mặt nhợt, trơ như búp bê, tóc đen bóng láng. Dải tóc ngang trán chạy một đường thẳng xoẹt ngay phía trên mắt chúng – những con mắt đen không bao giờ biểu lộ một thoáng cảm xúc. “Mày là ai?” Vẫn con đó nói.
“Tôi là người có cái tên mang nghĩa là vĩnh cữu như biển cả.” Dagbert mỉm cười với bọn chúng. “Tên tôi là Dagbert.”
Hai đứa sinh đôi há hốc mồm trước thằng bé. Không đứa nào hỏi thêm câu nào nữa.
Charlie cảm thấy thấp thỏm, một mình trong phòng với bốn đứa không giấu giếm là kẻ thù của nó, và đứa thứ năm rõ ràng không thể coi là bạn. Nó thở đánh phào khi Tancred và Lysander xuất hiện.
Tancred đang hưng phấn mãnh liệt – chiếc áo chùng xanh lá cây tung phồng lên quanh người anh như làn mây, mái tóc vàng dựng đứng và sách vở không ngừng bay phập phều khỏi tay anh. Khi anh đặt đống bài tập về nhà lên bàn, một luồng gió mạnh thổi u u quanh phòng, bốc giấy má lên không và cuốn lăn bút chì, bút mực trên chiếc bàn tròn.
“Đồ trời đánh thánh vật, anh không học được cách kiểm soát mình sao,
Tancred Torsson?” Dorcas lầu bầu khi cúi xuống nhặt một quyển tập.
Trước khi Tancred kịp trả lời trả vốn, Dagbert gào lên, “Kẻ tạo bão! Rất hân hạnh. Tôi là Dagbert Endless.” Nó sấn tới hai anh lớn và bắt tay họ. “Còn anh chắc chắn là Lysander Sage, người gọi hồn.”
Lysander, người Phi châu, nhếch với Dagbert một nụ cười lạnh nhạt.
Dagbert không đếm xỉa tới ba đứa vô tiếp theo. Cố ý tránh Charlie, Emma kiếm chỗ ngồi bên Tancred, và Gabriel ở phía kia con nhỏ. Chỉ có Billy chọn ngồi gần Charlie. Lần này là vì nó bắt phải tia nhìn ớn xương của thằng mới đến.
Đáng ra còn một thành viên thứ mười hai của nhóm này, nhưng Asa Pike đã chẳng còn thấy đâu suốt mấy tuần nay. Charlie chợt nhận ra mình nhớ cái anh cựu học sinh lớp sáu lẻo khẻo, tóc đỏ lưa thưa và mắt vàng như mắt sói, tố cáo tài phép kinh khủng của mình ấy.
Lysander là nhân vật lớn tuổi nhất trong đám được ban phép thuật, vì vậy anh được giao nhiệm vụ trông coi phòng làm bài tập về nhà. Anh thừa hưởng phong thái lãnh đạo rất tự nhiên từ cha mình, thẩm phán Sage lừng danh. Joshua, Dorcas và hai đứa sinh đôi có ý muốn nắn gân vị trí của Lysander, nhưng chúng trờn trợn anh châu Phi cao lớn này, và cho tới nay, chưa đứa nào dám công khai chống đối anh.
“Số mười hai của chúng ta đâu rồi?” Dagbert hỏi. “Tôi được bảo là có một tên người sói cơ mà.”
“Đã có,” Lysander lẳng lặng nói. “Cậu ấy không còn ở với chúng ta nữa. Làm bài tập của cậu đi, ngay.”
Dagbert cung cúc mở một quyển tập ra và bắt đầu đọc.
Charlie không sao tập trung được. Nó ngước nhìn bức chân dung Vua Đỏ rồi lại nhìn đồng hồ treo tường. Khi Manfred ngồi ghế phụ trách phòng Nhà Vua, hắn luôn quát Charlie phải nhìn khỏi bức tranh mà tập trung vào bài tập về nhà. Charlie luôn ao ước đi vào bức tranh đó để nói chuyện với nhà vua, nhưng không thể được. Đằng sau nhà vua có thầy bùa Harken, một cái bóng chặn đứng mọi cố gắng tiếp cận tổ tiên mình của Charlie.
Có lần cái bóng đó đã sổng ra, nhưng bây giờ hắn bị nhốt lại rồi – một bộ dạng ủ ê, căm hận mà Charlie cảm nhận khi nhìn hắn. Nhưng tôi không cần phải tiếp cận nhà vua nữa, nó thầm nói với cái bóng, bởi vì tôi đã tìm thấy cha tôi rồi, và ông không làm gì được nữa đâu.
Còn một kẻ khác cũng đang nhìn Charlie. Đôi mắt xanh biển của Dagbert gắn chặt vào nó. Charlie lập tức hạ ánh mắt xuống và cố chú tâm vào bài tập về nhà.
Lúc 8 giờ tất cả mọi người đóng sách vở lại và lục tục ra khỏi phòng Nhà Vua.
Trước khi Dagbert đuổi kịp bọn chúng, Charlie thì thầm với Billy, “Muốn về nhà anh cuối tuần này không?”
“Muốn chứ. Em có nhiều chuyện...”
“Hê! Chờ tôi với!” giọng Dagbert léo nhéo đằng sau chúng. “Anh phải chỉ phòng ngủ chung cho tôi mà.”
“Tôi tưởng bà giám thị đã chỉ cho cậu rồi chứ,” Charlie nói.
“Bà ấy chỉ rồi, nhưng tôi quên mất,” Dagbert cười ruồi và bắt kịp Charlie trong dáng đi lảo đảo chúi về trước quái dị của nó.
Billy Raven lỉnh lẹ.
“Thằng oắt đó khiến tôi thấy ớn,” Dagbert nhận xét khi nhìn thằng bé bạch tạng đang lủi đi.
“Cậu cũng khiến nó ớn tương tự,” Charlie bảo.
“Tại sao?” Dagbert tỏ vẻ ngạc nhiên thật sự.
Charlie tăng tốc không trả lời. Nó tự hỏi Dagbert sẽ ngủ ở đâu. Mọi giường trong phòng ngủ chung của nó đều đã có người. Cho nên thằng mới vào ngủ sẽ không gây nguy hiểm. Hay là có? Phía trước, nó thấy Gabriel Silk đứng ngoài hành lang. Trông rất quẫn trí. Charlie gọi anh, nhưng anh quay ngoắt và đi vô một cánh cửa xa hơn một chút.
“Cái gì thế không biết?” Charlie bước vô phòng ngủ chung của nó, Dagbert nối gót.
Fidelio đang ngồi trên chiếc giường kế giường của Charlie. “Họ chuyển Gabriel đi rồi,” anh nói. “Tội nghiệp Gabe. Bất công quá. Họ xếp anh ấy gần với Damian Smerk.”
Charlie thở hốc lên. “Kẻ thù tệ hại nhất của anh ấy!”
Dagbert bổ nhào tới chiếc giường từng là giường của Gabriel.
“Giờ thì tụi mình biết lý do Gabriel bị trục xuất rồi,” Fidelio lầm bầm, quay đầu về hướng Dagbert.
Charlie hạ giọng. “Em bị buộc phải trông coi nó. Em đoán chính vì vậy mà bà giám thị xếp nó vô đây.”
Những đứa con trai khác bắt đầu đi vào: ba đứa năm nhất và năm đứa năm hai do Bragger Braine và kẻ nô lệ dốc lòng của hắn, Rupe Small, dẫn đầu. Dagbert phớt lờ tụi đó. Điều này thật ngạc nhiên, có thể đoán ra nó chỉ rắp
tâm kết thân với bọn được ban phép thuật mà thôi. Có lẽ nó cho rằng lũ con trai bình thường không bõ công làm quen – Charlie nghĩ.
Bragger Braine dừng lại ở đầu giường Dagbert và ra lệnh cho thằng mới tới phải tự giới thiệu. Dagbert vẫn điềm nhiên chuyển quần áo từ giỏ xách vào tủ ngăn kéo cạnh giường nó.
“Tao đang nói chuyện với mày, thằng kia,” Bragger hạch sách, bộ mặt mũi tẹt hếch tựa chó púc của nó đỏ lựng lên.
“Trả lời!” Rupe Small the thé hùa theo.
“Trả lời, trả lời, trả lời mau!” bọn khác la ông ổng.
Charlie bỗng nhiên thấy mình phải bênh vực thằng bé mới. “Để nó yên,” Charlie nói.
“Ai hỏi mày, Charlie Bone?” Thằng năm ba bự con quát.
“Tôi chịu trách nhiệm giám sát nó,” Charlie nói dõng dạc. “Tên nó là Dagbert Endless.”
“Tao nghĩ nó là một trong bọn quái dấm ‘được ban phép thuật’,” Rupe vừa ré lên vừa cười hơn hớn.
Charlie thấy Rupe còn đáng ghét hơn cả Bragger. Giọng nói thì gắt như ngựa hí. Nó tò tò theo từng bước chân Bragger, đôi mắt giống mắt chó mở to, không bao giờ hó hé nửa lời trừ phi nó biết chắc chắn là Bragger đồng ý.
“Họ không quái dấm,” Fidelio bình thản phản đối.
“Hừm. Vậy mày học gì, thằng mới?” Bragger leo lên thành đằng chân giường của Dagbert. “Cáo lỗi vì tao nói vầy, nhưng Endless không phải là một cái tên.”
Bất ngờ Dagbert đứng thẳng lên. Nó cắm đôi mắt xanh biển vào Bragger và nói, “Tên tao vĩnh cửu như đại dương, và tao dìm chết người.”
Bàn chân của Bragger trượt khỏi thành giường và nó ngã ngửa xuống sàn. Không đứa nào phá lên cười.
CHARLIE BONE 6: CHARLIE BONE VÀ SÓI HOANG
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 3
TIẾNG TRU
Chắc chắn là một thằng khác trong đám đã truyền đi tin tức về Dagbert, chứ bảo đảm không phải Bragger. Sợ mất hồn vía đến nỗi bổ ngửa ra sàn chẳng có gì hay ho mà khoe khoang cả.
Lời đồn đại lan nhanh như chớp. Loáng cái thậm chí cả đứa năm nhất lơ mơ nhất cũng đã biết tin: Dagbert Endless dìm chết người.
Nhưng dìm bằng cách nào? Câu hỏi đó lướng vướng trong tâm trí mọi người. Vô nhà tắm buổi tối, thật dễ nhận thấy bọn nhỏ hứng nước vào bồn cạn như thế nào. Có đứa quyết định không tắm bồn nữa và chọn tắm vòi sen lạnh ngắt trong những phòng thay đồ không được sưởi ấm. Mà là vào tháng hai. Vậy đủ biết chúng lo sợ tới cỡ nào.
“Chúng mày bị ma quỷ gì ám vậy?” Bà giám thị gầm gừ. “Bọn bay hay kêu rêu là không đủ nước tắm cơ mà. Giờ, tự nhiên đứa nào cũng dửng dưng, chỉ lấy nước hầu như không đủ rửa đầu gối là sao.”
Mọi người bắt đầu lảng tránh Charlie bởi vì Dagbert luôn luôn cặp kè bên cạnh nó. Trong những trò chơi đồng đội, Charlie luôn là đứa cuối cùng được chọn, cứ như thằng mới đến vĩnh viễn dính vào Charlie, và đứa nào chọn Charlie về phe mình tức là phải gánh trách nhiệm về Dagbert-dìm-chết-người luôn.
Dĩ nhiên cũng có ngoại lệ. Người ta không thể dứt lìa Joshua, Dorcas, hai chị em sinh đôi ra khỏi Dagbert. Vì vậy Charlie đành phải đi chung đám với bọn nó. Việc này khiến nó mệt phờ vì cứ phải nghe bọn chúng bốc phét về những phép kỳ tài của mình. Tuy nhiên, nó cũng ráng xoay xở để biết được điều hữu ích.
Bọn chúng đang ngồi trong phòng Nhà Vua, chờ giờ bài tập về nhà bắt đầu. Lysander và Tancred chưa tới, Billy đang bận kiếm một cuốn sách tham khảo, Emma tới trễ, còn Gabriel nằm trạm xá dưỡng bệnh sốt siêu vi.
Charlie đã mở sách lịch sử ra, giả bộ ghi chú về cuộc chiến giành Độc Lập của Mỹ. Tiếng rù rì bàn đối diện được giữ ở mức thầm thì, thỉnh thoảng xen tiếng cười hinh hích của Dorcas. Và rồi, tình cờ, Charlie nghe lỏm: “Bà ấy dạy tao mọi chiêu về ếm bùa quần áo.”
Dorcas đang tám về bà cô Venetia của Charlie. Charlie liền hạ thấp đầu xuống và mở banh tai ra nghe ngóng.
“Với lại bà ấy đã kể cho tao nghe về lão. Bà ấy muốn lấy lão là vì, thứ nhất, lão giàu có, và thứ nữa, thằng con út của lão được ban phép thuật – chí ít bà Venetia nghĩ nó là...” Dorcas im bặt và Charlie cảm thấy mắt con nhỏ găm vào mình. Nó vẫn cúi thấp, nhưng Dorcas nói tiếp khẽ đến độ nó chỉ nghe bập bõm được vài từ lạ lùng. Như là “Arthur Shellhorn, thuốc độc, chuỗi hạt, suy tim... cỏ mê lú... đám cưới...”
Thật dễ đoán nội dung còn lại, và Charlie chẳng cần lâu mới suy ra bà cô mình đã làm gì. Ông cậu Paton đã cảnh báo nó bà cô Venetia không ngại làm kẻ sát nhân, và ông nói đúng. Mụ đã đầu độc vợ của Arthur Shellhorn bằng một xâu chuỗi khiến tim bà ngừng đập, xong mụ xông cỏ mê vào áo khoác của Arthur. Và Arthur tội nghiệp bị lừa phỉnh đã nài nỉ bà cô Venetia cưới mình.
Đến đây thì Lysander và Tancred lướt vô, anh bão tố trông còn xúc động hơn thường lệ.
“Xin lỗi chúng tôi trễ,” Lysander nói. “Chúng tôi đã bận họp. Rất vui thấy các bạn tự giác với công việc của mình. Billy đâu?”
“Đây. Em đây.” Billy lệt bệt tuôn qua cửa, với Emma theo sau vài bước.
Im lặng rớt độp xuống. Tất cả cúi xuống sách vở của mình. Giờ bài tập về nhà bắt đầu.
Charlie giương mắt dòm những trang giáo khoa lịch sử mà chẳng thấy gì. Đầu óc nó lang bang tận đẩu tận đâu. Nó đang cố tưởng tượng xem có một bà mẹ kế như bà cô Venetia thì thế nào: kẻ đầu độc, phù thủy, tên sát nhân. Nó nóng lòng gặp Ông cậu Paton quá đi mất. Còn những một đêm nữa, nó nghĩ, khi đó nó sẽ thoát khỏi Dagbert Endless. Nó sẽ ngồi ở nhà, ăn bữa tối mê ly của ngoại Maisie.
Nhưng mà không được thế.
Vào đêm thứ Năm, chỉ năm phút sau khi đèn tắt, Dagbert quyết định kể chuyện giờ đi ngủ.
“Nói chuyện sau khi đèn tắt là vi phạm nội quy,” tiếng thì thầm nhắc nhở của Charlie chẳng xi nhê gì với Dagbert, cho nên nó nâng tiếng thì thầm lên một nấc nữa. “Cậu sẽ bị cấm túc.”
“Ai bảo?” Dagbert cãi lại.
“Cứ để nó kể đi,” Bragger hăng hái từ phía bên phải Dagbert. “Ừ, để nó kể đi,” Rupe the thé. “Mày là đồ phá bĩnh, Charlie Bone.” Fidelio làu bàu. “Rồi mày sẽ không thấy tiệm bán cá của mày vào đêm thứ
Sáu đâu, Bertie(1).”
((1)Bertie là tên thường đặt cho chó và ngựa và là tên con gái. Fidelio gọi Dagbert là Bertie có hàm ý khinh miệt.)
“Muốn cược không?” Dagbert cười khẩy. “Với lại đừng gọi tôi là Bertie.” Fidelio lật sấp người xuống và vỗ cho gối của mình phồng lại.
Gân cổ lên, Dagbert tiếp tục câu chuyện của nó. Một câu chuyện vừa dở vừa được kể tệ. Đương nhiên chả có gì buồn cười mặc dù Rupe và Bragger cứ cười khục khịch. Chuyện về người cá luôn khiến Charlie ngáp. Nó ngáp thật và nhắm mắt lại.
Hai giây sau, cửa bật mở tung và bà giám thị rầm rập bước vô phòng. Bà ta bật đèn lên. Charlie mở choàng mắt ra, chớp chớp.
“Ai đang nói?” Bà giám thị hạch hỏi.
“Cháu,” Dagbert mau mắn lên tiếng. “Cháu đang kể chuyện.” “Mi phạm luật,” bà giám thị nói.
“Cháu á?” Dagbert làm bộ hoài nghi. “Xin lỗi. Cháu thành thật không biết.”
Bà giám thị thở hắt ra bực bội. “Charlie, mày chịu trách nhiệm cậu bé mới đến này. Mày có nhiệm vụ phải bảo cho nó biết luật chứ.”
“Có, ơ, cháu có nói...” Charlie mở miệng.
“Phạt mày cấm túc,” bà cô nạt nộ. “Đến thứ Bảy mày mới được về nhà.” “Nhưng cháu đã nhắc nó rồi,” Charlie phản đối.
Bà giám thị tắt đèn đi và lộc cộc bước ra, đóng sầm cửa lại sau lưng.
Bầu thinh lặng bị phá vỡ bởi tiếng ngáy của Bragger và tiếng cười khẩy của Rupe.
Charlie nằm ngửa, nhìn chòng chọc vào bóng tối. Nó tự nhủ mình cóc quan tâm. Chẳng qua chỉ là thêm một ngày nữa? Nó nằm thức mãi đến hơn nửa đêm và rồi, khi nó vừa thiu thiu ngủ, một âm thanh cắt phăng màn đêm. Một tiếng tru đằng xa, rất xa.
Có tiếng khăn trải giường sột soạt và Charlie thấy hình thù tròn tròn của cái đầu trắng của Billy Raven. Thằng bé đang ngồi dậy, lắng nghe. Nó hiểu tiếng tru đó nói gì, Charlie nghĩ, không lâu nữa nó sẽ nói cho mình biết.
Điều cuối cùng trên đời Charlie có thể ngờ là một lời xin lỗi. Ấy thế mà sáng hôm sau, trong bữa sáng, một lời xin lỗi là thứ nó đã nhận được.
“Xin lỗi chuyện đêm qua,” Dagbert nói, nuốt ực một muỗng cháo bột ngô. “Bị cấm túc thì tôi không thể nào chịu được. Những người tôi sống chung sẽ không hiểu nếu tối nay tôi không về.”
“Nhưng cậu đâu cần phải nói chuyện sau khi đèn tắt phải không?” Fidelio trách móc. “Charlie đã nhắc cậu rồi mà.”
Dagbert nhăn mặt, lầu bầu. “Thật khó nhịn.”
Charlie hơi hơi thông cảm cho nó. “Hừm, cậu sẽ không thoát lần thứ hai đâu. Giờ thì chính bà giám thị đã cảnh cáo cậu rồi, cho nên cậu liệu hồn mà kiềm giữ những câu chuyện của cậu lại.”
“Được,” Dagbert nghiêm nghị. “Tưởng tượng. Những câu chuyện trong chai.”
Không phải lần đầu tiên Charlie tự hỏi thật ra trong đầu Dagbert đang nghĩ gì.
Suốt thời gian còn lại trong ngày Charlie rơi vào trạng thái lơ lơ lửng lửng. Tâm trí nó chỉ nôn nóng muốn nghe xem Billy phải nói gì với mình. Chứ việc nó phải ở lại trường một đêm nữa có gì mà quan trọng?
Vào lúc 4 giờ, lão Weedon mở khóa cổng chính và bọn trẻ xô đẩy nhau ra khỏi học viện. Từ phòng ngủ chung, Charlie và Billy có thể nghe thấy tiếng bọn học trò reo mừng khi vừa được giải phóng khỏi tòa nhà âm u. Charlie dòm qua cửa sổ xuống mảnh sân gạch. Thấy Dagbert Endless đi theo đám đông. Thằng bé là đứa duy nhất không thét rầm lên vui sướng. Mặt nó nghiêm trang, gần như là e sợ. Nó là đứa cuối cùng rời khỏi sân.
Charlie quay đi khỏi cửa sổ. “Tất cả về hết rồi, Billy.”
Billy đang ngồi trên giường của nó, đầu gối thu lên tới tận cằm.
“Trước khi tụi mình nói về Dagbert anh muốn biết em đã nghe thấy gì đêm qua,” Charlie hỏi.
“Một tiếng sói tru,” Billy đáp.
“Anh cũng nghe thấy. Em có biết nó có nghĩa gì không?”
Billy lắc đầu, thụp vai xuống, tự ôm chặt lấy người. “Đó là một tiếng kêu cứu. Nó sợ hãi và cô đơn.”
Charlie nhìn vào đôi mắt to màu rượu vang, được phóng đại bởi cặp mắt kính tròn của Billy. “Em có biết tiếng đó... tiếng tru đó... từ đâu không?”
“Không biết đích xác. Nó ở xa, xa lắm, có lẽ ở dưới lòng đất. Nó nói nó bị mắc kẹt.”
“Mắc kẹt?” Charlie nói. “Ai đã nhốt nó? Anh tự hỏi.”
Billy nhún vai. “Charlie, em muốn nói với anh về Dagbert. Suốt tuần em đã cố nói, nhưng nó cứ đeo sát anh. Nó gọi em là đồ dị dạng.”
“Nó bảo Gabriel là kẻ thất bại, còn Olivia và Emma thì lôi thôi lếch thếch. Láo.”
Billy chồm tới trước. “Bà bếp trưởng biết cha của Dagbert. Hắn đã dìm chết cha mẹ của bà, quét trôi nhà bà và giết chồng sắp cưới của bà. Tất cả vì bà không cưới hắn.”
“Chờ một phút!” Charlie thốt lên. “Anh nhớ rồi. Bà bếp trưởng cũng đã kể cho anh nghe. Tên hắn là Lord Grimwald.”
“Đúng, Lord Grimwald. May Phúc nói hắn bốc mùi cá tanh, tảo biển, mảnh tàu đắm và người chết đuối. Trong tim hắn có một hạt trai lạnh lẽo, kiểu như hạt cát mắc kẹt trong con trai. Bà bếp trưởng sẽ ra đi. Bà ấy sợ.”
Charlie rớt bịch xuống sàn. “Hả, bà bếp trưởng đi? Không thể nào. Bà ấy là đá nam châm. Bà ấy giữ cân bằng cho nơi này mà. Sao bà phải đi? Đâu ai biết bà là ai.”
“Rất có thể Dagbert sẽ đoán ra,” Billy nói cứng.
Charlie kiên quyết làm bà bếp trưởng đổi ý. Bữa tối nay gặp bà, nó sẽ thuyết phục bà phải ở lại. Nếu không thì ai sẽ chăm sóc Billy trong những ngày dài trường nghỉ học? Thằng nhỏ không có nhà, không cha mẹ, không
người thân nào trên đời này để mà nương tựa. Gia đình Bloor luôn hứa hẹn là nó sẽ được nhận làm con nuôi, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra, trừ phi ta tính đến vợ chồng nhà de Grey – đã nhận nuôi Billy mà giam cầm nó và đối xử với nó như đầy tớ.
Bọn trẻ bị cấm túc thường hay phải xơi bữa tối nguội lạnh trong căng-tin. Nhưng khi Billy và Charlie xuống lầu lúc 6 giờ, căng-tin xanh da trời vắng tanh. Ghế chất hết cả lên bàn và một tấm trải ca-rô xanh da trời phủ kín quầy.
Charlie mở cửa đi vào bếp và ngó quanh quất. Không thấy một mống người. Tất cả nồi niêu xoong chảo nặng nề đều treo vào chỗ, cửa bếp lò đóng lạnh te, đến cả tiếng nước sôi cũng không có.
“Bọn mày làm gì ở đây?” Một giọng cất lên.
Charlie quay lại. Đụng mặt đối mặt với vợ của lão Weedon. Mụ Weedon là người mặt thớt, dữ tợn, mắt lồi, thường ngày phụ trách căng-tin xanh lá cây.
“Cháu tìm bà bếp trưởng,” Charlie nói.
“Bà ta ra ngoài rồi.” Đôi môi không máu của mụ Weedon chẹp chẹp một cách cáu kỉnh.
“Tụi cháu muốn ăn tối.” Charlie nhìn Billy, đang đứng hy vọng cạnh một chiếc bàn chất đầy ghế.
Mụ Weedon liếc qua Billy. “Tao đoán là mày bị cấm túc, phải không Charlie Bone?”
“Điều đó không có nghĩa là cháu sẽ không được ăn,” Charlie ngang ngạnh.
“Chậc!” Mụ Weedon quay lưng bước ra. “Tụi bay theo tao,” mụ nói với lại bọn chúng.
Căng-tin xanh lá cây cũng trong tình trạng như căng-tin xanh da trời: ghế để hết lên bàn, quầy phủ kín, có điều là bằng một tấm trải màu xanh lá cây.
“Tao chỉ có đậu nướng thôi,” mụ Weedon sấn sổ. “Bọn mày ra ngồi kia,” mụ chỉ một cái bàn. “Tao không có bổn phận trực, nhưng bà bếp trưởng đi
đột xuất quá, có trời biết đi đâu, gia đình Bloor muốn bữa tối của họ, và tao phải mang lên tận chái phía tây để dọn cho họ, nếu tụi mày cảm phiền.”
Charlie chưa bao giờ biết mụ Weedon lại nói nhiều như thế này. “Bà bếp trưởng chưa đi hẳn đâu ạ?” Nó ngập ngừng dò hỏi.
“Đi hẳn? Dĩ nhiên là chưa.” Đôi mắt lồi của mụ Weedon nheo híp lại. “Sao hỏi vậy? Cái gì khiến mày nghĩ mụ ta sẽ đi hẳn?”
“Không ạ. Chỉ là... tụi cháu thắc mắc.”
Mụ Weedon nhăn nhó lắc đầu. “Mày thắc mắc nhiều quá mức tốt đẹp cho mày.” Mụ nện gót đi qua cửa vô nhà bếp.
Charlie và Billy dỡ hai chiếc ghế xuống khỏi cái bàn mụ Weedon đã chỉ, và ngồi xuống.
Món đậu được dọn ra không còn ấm nữa. Bánh mì nướng bị cháy và không có lấy một mẩu bơ. Charlie quyết định xin thêm lượt hai. Bảo Billy đi theo mình, nó tới cánh cửa nhà bếp xanh lá cây và ngó vào. Không thấy tăm hơi mụ Weedon đâu cả.
“Đi,” Charlie thì thào. “Vô coi có đồ ăn không. Anh đói chết lên được.”
Chúng rón rén vô nhà bếp. Một hàng hộp thiếc đập vào mắt Charlie. Không nghi ngờ gì, chúng đựng bánh bích quy sô-cô-la và nhân nho. Tụi nhóc nhón mỗi thứ hai chiếc, rồi vừa ăn nhồm nhoàm vừa đi sâu hơn vô phòng. Billy phát hiện một hộp bánh bơ giòn, liền đút một chiếc vô túi quần. Charlie thấy một ổ bánh mì gừng thì bẻ ra lấy một khúc. Nó đã bắt đầu bớt bớt đói. Chúng tới cánh cửa đằng cuối nhà bếp và bước ra một mảnh sân, nơi có một cầu thang đá dẫn lên đường cái.
“Í, tụi mình có thể ra ngoài bằng đường này,” Charlie nói. “Tụi mình có thể
lẻn vào thành phố và tìm tới một tiệm cà phê ngon lành và...” Cùi chỏ Billy thúc vào mạng sườn Charlie. “Coi kìa!” thằng bé thì thào.
Ở cuối sân có hai người ngồi chồm hỗm ở trong một góc tối. Thật ra, họ không hẳn là người. Mắt họ sáng quắc như mắt của loài thú ăn thịt và mặt họ lấm chấm những mảng lông. Trong vài giây họ bất động đến nỗi cứ tưởng họ là những pho tượng nhưng, bất thình lình, họ phọt ra một tiếng rên và hấp tấp
đi về phía cầu thang. Họ leo cầu thang bằng cả bốn chân, nhảy phóc lên bậc trên cùng nhanh như mèo. Cánh cổng sắt thông ra đường kêu lảnh lót khi hai dáng người đẩy mở nó ra và biến mất.
Billy bíu chặt lấy cánh tay Charlie. “Họ là cái gì đó?”
“Anh không biết. Nhưng họ đang đi theo anh.” Nó nhận thấy có gì đó ở cái góc hai người lạ hồi nãy vừa ngồi. Hình như là một tô bánh pudding? Nó bước lại gần xem sao.
“Coi này!” nó la lên. “Cái tô này còn một nửa các món điểm tâm. Đậu phộng, cháo yến mạch, chuối và vài thứ nữa. Trông như có người đem tới cho họ ăn vậy. Lại xem này.”
Trước khi Billy kịp nhúc nhích thì một bàn tay phóng ra khỏi khung cửa đằng sau nó.
Mụ Weedon chộp lấy đằng sau cổ áo Billy và giật, suýt làm nó nghẹt thở. “Tụi mày vừa mới làm gì đó?” Mụ trợn mắt nhìn Charlie.
“Tụi cháu đói bụng,” Charlie đáp.
“Đó không phải là lý do để rình mò.” Mụ Weedon buông Billy ra và đẩy dúi nó một cái. “Tụi mày có thấy ai ở đây không?”
“Tụi...” Billy chu mỏ, nhưng Charlie nhanh trí la lớn, cắt lời thằng nhỏ. “Không, không thấy ai.”
“Hừm.” Mụ dòm Charlie đầy ngờ vực, đôi mắt muốn lòi ra. “Đi vô.” Chúng cum cúp tuân lệnh.
“Tao sẽ báo với tiến sĩ Bloor vụ việc này,” mụ Weedon nói khi mụ theo chúng vào căng-tin. “Khôn hồn tụi mày lên thẳng giường đi ngủ đi.”
“Tụi cháu không làm gì sai trái,” Charlie phản kháng.
“Mày chỉ được cái mồm,” mụ gầm gừ.
Chúng nghe thấy tiếng đồng hồ treo tường kêu tích tắc khi bước ra khỏi cửa căng-tin. Charlie lần sờ khúc bánh mì gừng trong túi, mừng rơn là cả hai đã thó được cái ăn trước khi bị tóm.
Bà giám thị dòm vào kiểm tra bọn nhỏ khi lên phòng tắt đèn. “Ngày mai ông cậu mày sẽ đến đón mày,” bà ta nói lạnh trơ. “Mày thật là phiền phức, Charlie Bone.”
“Billy sẽ về nhà với cháu,” Charlie bảo.
Bà giám thị dẩu cớn môi lên nhưng không châm chích gì. Ông cậu Paton đã buộc gia đình Bloor phải ký một thỏa thuận hứa cho Billy nghỉ cuối tuần ở bất kỳ đâu nó muốn.
Một đêm lạnh tơi bời, chúng rúc vào chăn và ăn bánh lấy được trong nhà bếp. Charlie nhanh chóng ngủ thiếp đi. Nó mơ thấy ba mẹ, đang cưỡi sóng trên con thuyền, xem cá voi hát dưới đại dương. “Chúng hát thật đó con,” mẹ nó đã nói vậy. “Con có chắc là không muốn đi không?”
Charlie thấy mình lắc đầu. Ba mẹ cần thời gian riêng tư bên nhau. Họ đã
mất mười năm xa cách nhau; ngoài ra, bản năng mách bảo Charlie rằng mình phải ở lại trong thành phố, nơi mà có quá nhiều người muốn ba nó “biến khỏi trần gian”, nơi mà những mưu mô quỷ quyệt đang manh nha, nơi mà các bạn của Charlie liên tục bị nguy hiểm rình rập.
Trong giấc mơ của Charlie, tiếng cá voi hát từ từ biến thành tiếng ai oán, thê lương, và trong khi lắng nghe nó chợt nhận ra mình đang thức, và một lần nữa, đang lắng nghe tiếng tru tuyệt vọng, từ xa.
“Billy, em có nghe thấy không?” Charlie thì thào.
“Có,” Billy đáp. “Nó vẫn lặp đi lặp lại những lời: ‘Cứu tôi với!’. Charlie, những lời đó như đập thẳng vào tim em. Tụi mình phải làm gì bây giờ?”
“Cứu nó!” Charlie đáp, mặc dù nó không biết phải cứu cách nào.
CHARLIE BONE 6: CHARLIE BONE VÀ SÓI HOANG
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 4
BỌ BIẾN DẠNG
Sáng Chủ Nhật, mưa dầm, thỉnh thoảng chuyển mưa tuyết, trôi lượt thượt xuống những tấm kính cửa sổ. Bầu trời tối sụp, xám như chì, nhiệt độ đóng băng. Vẫn không thấy bóng dáng bà bếp trưởng đâu, nên Charlie và Billy phải ăn bữa sáng khốn khổ trong căng-tin xanh lá cây: lại bánh mì nướng cháy, không bơ, không cốm bắp. Chúng đã chắc mẩm là mình phải đứng lên mà không được uống gì thì mụ Weedon đặt kịch một bình nước và hai cái ca xuống bàn chúng.
“Cháu nghĩ lẽ nào tụi cháu không được một miếng bơ?” Charlie thận trọng hỏi.
“Mày nghĩ đúng đấy,” mụ Weedon nói.
“Còn mứt?” Billy gợi ý.
Mụ Weedon lờ tịt thằng nhóc và hằm hằm đi ra. Hai phút sau trở lại với một bình đựng cái gì trắng trắng. “Váng kem đấy,” mụ bảo tụi nó. “Rất tốt cho tụi mày.”
Hai thằng nghi ngờ nhìn cái gọi là váng kem. Ngay khi mụ Weedon tếch khỏi, Charlie thò con dao ăn của nó vào bình rồi nhấc ra, dính nhoe nhoét. Nó liếm con dao. “Uuuurrrghh! Kinh tởm.”
Billy lại có quan điểm khác. “Em thích nó,” thằng bé trét dày váng sữa vào miếng bánh của nó. “Bánh cháy sẽ đỡ hơn với cái này phết lên.”
Ăn sáng xong chúng lang thang lên phòng Nhà Vua. Không có ai để bảo chúng phải làm gì. Nếu Manfred Bloor ở đó, thể nào hắn cũng ra lệnh chúng phải ra sân chơi. Hắn rất khoái đuổi cổ bọn trẻ ra ngoài trời, đặc biệt là những khi trời lạnh và ẩm ướt. Mà Manfred bấy nay đâu chẳng thấy?
“Em nghe nói hắn trông như quái vật.” Billy liếc quanh căn phòng, nơm nớp sợ Manfred xồ ra từ sau một kệ sách. “Hắn bị gù lưng và què.”
“Anh ngạc nhiên là hắn còn sống,” Charlie nói khẽ. “Không nhiều người sống sót nổi sau khi bị báo tấn công đâu.”
“Báo!” Vẻ khiếp đảm pha lẫn trong giọng nói của Billy. “Trông chúng y như mèo bình thường vậy, trừ màu lông.”
“Ừm.” Charlie chưa bao giờ ngưng thắc mắc làm thế nào mà ba con mèo, trong vài phút sống còn, lại biến thành báo, có khả năng xé xác người ra thành từng mảnh. À, không thành từng mảnh đâu, nhưng thế là đủ rồi.
Đến giữa trưa hai thằng quyết định đi tìm bà bếp trưởng. Sau một bữa sáng sơ sài, bao tử chúng đã đánh lô tô rồi. Khi đi xuống cầu thang chính, chúng thấy một bóng người đang băng qua tiền sảnh. Áo chùng đen phủ toàn thân người đó. Chỉ còn nhìn thấy được bàn chân, bọc trong giày bốt đen, bên dưới cẳng chân mặc quần xắn đến mắt cá. Chiếc mũ trùm ụp kín cái đầu bổ về trước, thòi ra từ đôi vai thõng xuống một cách bất tiện, quái dị.
Hai thằng bé đông cứng lại khi thân hình đội mũ trùm khập khiễng đi tới cánh cửa dẫn vào chái phía tây. Có vẻ bất lực trong cách hắn giật và lắc cái vòng tay cầm, hình như hắn không thể vặn được nó vậy. Nhưng cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, và đến khi đó cái hình hài mới quay về phía bọn trẻ.
Chúng đinh ninh là sẽ thấy một gương mặt cau có, biểu thị sự tức giận vì bị dòm ngó. Nhưng người đàn ông đội mũ trùm không có mặt. Charlie và Billy thấy mình nhìn vào một chiếc mặt nạ trắng khoét hai lỗ xiên xiên, viền bạc và một cái miệng há hoác hình con thuyền. Thế rồi hắn biến mất, lướt qua cánh cửa nhỏ với tốc độ đáng kinh ngạc, bỏ lại hai thằng trơ khấc ra ở cầu thang.
“Manfred,” Billy thì thầm.
Charlie gật đầu. “Chắc vậy.”
“Em thấy ớn sườn. Em đang cố tưởng tượng gương mặt hắn thế nào.” “Đừng tưởng tượng,” Charlie nói.
Mãi rốt cuộc chúng tìm ra bà bếp trưởng ở đằng cuối nhà bếp của bà. Bà đang vừa lầm bầm to tiếng một mình vừa thảy hành băm vào một cái chảo kêu xèo xèo. Charlie gọi bà, nhưng không thấy đáp lại, nó bèn chạm nhẹ vào cánh tay bà. Bà bếp trưởng hoảng hồn thét lên và chiếc thìa gỗ bà đang cầm bay vèo lên không.
“Sao con làm thế?” Bà nói lạc giọng.
“Tại bà không nghe con gọi, bà bếp trưởng. Bà đang nói chuyện một mình.”
“Thế à? Ồ, ta đã nói gì?” Bà bếp trưởng vuốt thẳng tạp dề và vặn nhỏ ga lại.
Khi nghe kể về thức ăn mà hai thằng nhỏ đã phải è cổ ra nuốt, bà bếp trưởng bình tâm lại một chút và hứa chúng sẽ có súp thịt trong bữa trưa. “Sau đó có thêm bánh hấp phết táo nữa,” bà thêm. “Ta đã làm một ít trong lò để cho nhà Bloor.”
“Bà đã ở đâu vậy, bà bếp trưởng?” Billy hỏi. “Thường bữa sáng nào bà cũng ở đây kia mà.”
“Ta đã ở nhà một người bạn. Có thể nói là suýt nữa ta đã không trở lại. Nhưng bạn của ta đã thuyết phục ta phải trở lại. Bà ấy là người rất nhạy cảm.” Bà bếp trưởng mở vung ra và thảy vào chảo một nắm lá gia vị.
“Ưmm!” Charlie nhắm mắt lại. Mùi thơm từ cái chảo bay ra mê hồn đến độ nó tưởng như mình đang ăn món đó.
“Chưa xong đâu.” Bà bếp trưởng xua hai thằng bé trở lại căng-tin. Vài phút sau bà xuất hiện với hai tô súp thịt bốc khói.
“Bà sẽ không rời học viện Bloor đâu, bà nhỉ?” Charlie hỏi bà bếp trưởng. Bà nhăn mặt. “Billy đã kể cho con nghe về thằng Dagbert đó rồi à?”
“Con biết rành về Dagbert,” Charlie thở dài, “về Lord Grimwald và những gì hắn đã gây ra cho bà. Kinh khủng quá, bà bếp trưởng, nhưng Dagbert không biết bà là ai. Tại sao bà phải sợ nó?”
“Ta không cưỡng lại được, Charlie. Chỉ cần nghĩ về gia đình đó thôi là ruột gan ta lộn nhào. À, Billy này, con chuột của con bị chuyển đi rồi.”
“Rembrandt? Sao? Sao vậy ạ? Sao nó không thể ở quán Cà Phê Thú Kiểng?”
“Tại nó tự cảm thấy ô nhục. Về tội ăn cắp bánh bích quy. Thật đáng giận. Con biết bà Onimous yêu thương nó biết chừng nào không. Bà ấy không muốn nó đi, dĩ nhiên rồi, nhưng ông Onimous thì nhất quyết. Ta nghe nói con rắn tội nghiệp nhớ nó kinh khủng, đến nỗi gần mất màu luôn. Nhưng mà thôi, việc đã rồi.”
“Nhưng bây giờ Rembrandt ở đâu?” Billy thất kinh. “Nó có vui không? Nó có thích chỗ ở mới của nó không?”
“Nó ở tiệm Ấm Đun,” bà bếp trưởng thông báo với chúng. “Không thể chôm chỉa được gì ở đó, ngoài trà, tất nhiên. Theo tin tức ta thu thập được thì nó không thích nơi đó cho lắm.” Bà quay đi.
“Tiệm Ấm Đun ở đâu vậy bà?” Billy tha thiết hỏi.
Bà bếp trưởng ngần ngừ. Đầu óc bà hình như đang ở nơi khác. “Tiệm Ấm Đun,” bà lơ đãng, “ở đường Piminy. Hãy hỏi thăm bà Kettle – một người bạn thân của ta. Ăn súp đi kìa.”
Khi bà bếp trưởng đi trở vào bếp, Charlie nhận thấy lò xo đã biến khỏi bước chân của bà. Bà vốn là người quyết đoán và lạc quan, thấy bà buồn nản như vậy khiến nó lo lắng.
Không lâu sau, bánh hấp phết táo hiện ra tiếp theo súp thịt như đã hứa. Ăn xong, để lại bà bếp trưởng vẫn nói chuyện một mình, Charlie và Billy trở về phòng Nhà Vua. Không có người cai quản nên bọn chúng khó lòng ép mình tự học bài được.
“Nếu Olivia ở đây chị ấy sẽ rủ tụi mình đi thám hiểm cho coi,” Billy hít hà.
Nhưng Olivia không có ở đó, và nghe nhắc đến tên con nhỏ khiến Charlie lộn tiết. Nó không tài nào quên được cái kiểu con nhỏ hối hả chạy đi, hét bảo nó là đồ dối trá và lừa phỉnh.
“Đi, tụi mình đi thám hiểm đi,” Billy nài nỉ.
Charlie rên rẩm và đặt sách xuống, bất thần nó bỗng thấy ham thích. “Thì đi.”
Thám hiểm ở đâu? Billy không có đáp số. Không thể là trên gác mái, nơi lão Ezekiel sống chung với những thí nghiệm rùng rợn của lão. Không phải dưới tầng hầm, nơi tiến sĩ Bloor cất giữ những dụng cụ tra tấn cổ xưa, trong đó có những món thấy là dựng óc. Càng không thể ra sân chơi, vì ngoài ấy mưa tuyết đã chuyển thành bức màn mưa đá trắng xóa.
Cuối cùng chúng quyết định vào phòng Mỹ Thuật. Ngắm tranh luôn luôn là thú tiêu khiển, mặc dù tranh không đẹp gì cho cam. Phòng điêu khắc ở bên dưới trưng bày một số tác phẩm rất ấn tượng. Lysander là nhà điêu khắc tài năng. Những bức tượng của Tancred cũng rất thú vị, có điều không phải lúc nào ta cũng biết đấy là tượng gì.
Phòng Mỹ Thuật ở ngay đầu kia phòng ngủ chung của chúng và nhìn ra vườn. Hôm nay những cửa sổ dài chỉ nhìn ra được một làn mưa tuyết và mưa đá lay động. Chúng hắt ánh sáng quái gở lên rừng bảng vẽ và giá vẽ.
“Tụi mình đi xem tượng của Lysander đi,” Billy đề nghị.
Một cầu thang xoáy trôn ốc bằng sắt rèn chạm trổ tinh xảo dẫn xuống phòng điêu khắc. Trong lúc chúng đi xuống, một âm thanh bất thình lình vẳng lên chỗ chúng. Tiếng hát. Hay là tiếng đọc kinh? Có thể là ai? Theo như chúng biết thì không có đứa nào khác bị cấm túc vào cuối tuần này.
Khi xuống tới phòng điêu khắc, chúng nhón chân vòng qua những khối gỗ, thạch cao và những bức tượng hình thù kỳ lạ. Ở chính giữa phòng dựng tác phẩm của Lysander: một bức tượng cỡ bằng người thật, hình mẹ anh ấy, bà Hortense Sage, và đứa con mới sinh của bà.
Chúng càng tiến vào căn phòng dài thì tiếng tụng kinh càng rõ dần. Đến khi chúng băng tới đầu kia, không nghi ngờ gì cái tiếng ấy phát ra từ căn phòng sát vách: căn phòng dành cho lớp vẽ năm nhất và lớp may trang phục.
Charlie đặt tay vào nắm cửa.
“Mở đi,” Billy thì thầm. “Coi đó là ai.”
Charlie mở phăng cửa ra.
Một tiếng rú lên hoảng hốt, cùng với một đống giấy, kim ghim và vải – hai thằng bé thấy mình nhìn sững vào Dorcas Loom. Trên chiếc bàn rộng trước mặt con nhỏ có một cây kéo khổng lồ, to nhất Charlie từng thấy. Nó còn thấy cả những cái hũ và hộp gỗ, những hộp thiếc nhỏ và những bó dược thảo xếp thành hàng ngay ngắn bên cạnh cây kéo. Chắc chắn bà cô Venetia của nó có dính dáng đến mấy thứ này.
“Đồ rình mò!” Dorcas gào to.
Charlie mặc kệ ánh mắt buộc tội của con nhỏ. “Cô làm gì trong trường thế này?”
“Chứ mày làm gì ở đây?” con bé quật lại, vừa vội vàng đậy một tờ khăn giấy lên cái gì đó màu xanh da trời. Nhưng Charlie đã kịp thấy nó là vật gì.
“Tôi bị cấm túc,” nó nói một cách thờ ơ. “Còn lý do của cô là gì?”
Đã định thần lại, Dorcas lên giọng kiêu căng. “Tao không cần lý do. Tao làm việc cho bà Venetia của mày.”
“Tôi thấy cô có đủ đồ nghề thích hợp đấy.” Charlie cầm một cái hộp thiếc lên và đọc trên nhãn hiệu. “Bọ Biến Dạng. Dùng để...”
“Trả đây cho tao!” Dorcas giật lấy đáy hộp trong khi Charlie vẫn giữ chặt cái nắp. Và điều tất yếu là cái hộp tách bung ra làm hai phần.
Một đám mây bọ màu cam đổ ụp ra bàn, phủ kín kéo, kim ghim và ống chỉ cotton.
“Đồ quỷ!” Dorcas thét gầm, quính quáng lôi các thứ ra khỏi đám bụi cam. “Cút khỏi đây. CÚT MAU!”
Charlie và Billy đứng ngây ra như phỗng. Ngay trước mắt chúng, những đồ vật bị đàn bọ bám đang từ từ thay đổi hình dạng – chúng kéo dài ra hơn, thon lại, và láng hơn.
“Chị đang là... làm gì đó, Dorcas?” Billy run rẩy hỏi.
“Không phải việc của mày,” con nhỏ rống như bò bị chọc tiết. “CÚT MAU! CÚT ĐI!”
Dorcas bắn giạt qua bên bởi một tiếng gầm từ ngưỡng cửa.
“Mày điếc hả, Charlie Bone?” Lão Weedon quát. “Tao đã lùng sục khắp cái học viện chết tiệt này tìm mày. Đến giờ về nhà rồi. Trừ phi mày định ở đây thêm một đêm nữa.”
“Không, không,” Charlie hấp tấp. “Cháu không nghe thấy. Phải Ông cậu Paton...”
“Hắn không vào. Liên tục gọi cho tao từ cái mobile tàn tạ của hắn. Món đồ phải gió. Thà đừng bao giờ phát minh ra thì hơn. Theo tao thì đó là đồ dùng của quỷ.”
Charlie vù qua lão Weedon, Billy lọt tọt theo sau. Chúng phóng bay lên phòng ngủ chung để lấy giỏ xách và trở xuống tiền sảnh trong vòng ba phút đúng. Lão Weedon ì ạch đuổi theo chúng xuống cầu thang.
“Chúng mày không xứng đáng một ngày nghỉ,” lão vừa làu bàu vừa mở khóa cánh cửa nặng nề.
Charlie không mất công đối đáp rằng một ngày rời khỏi trường không phải
là ngày nghỉ. Rốt cuộc mưa tuyết đã ngừng, nhưng thay vào đó lại là một màn sương đóng băng. Thoạt đầu chúng không nhận ra chiếc xe của Ông cậu Paton đậu bên kia quảng trường. Như thường lệ, đầu ông cúi gằm xuống một quyển sách. Nhưng không như thường lệ, ông không đeo kính đen.
“Hầu như chả thấy gì trong màn sương này,” Ông cậu Paton nhận xét khi bọn nhóc lồm cồm chui vào ghế sau. “Nên ta nghĩ chẳng ai nhìn thấy ta.”
Ông lái xe cẩn thận ra khỏi quảng trường. Trời đã gần tối, đèn đường hiện ra như những vầng sáng dịu nhẹ, treo lơ lửng trong màn sương.
“Sương gì kỳ quái,” Ông cậu Paton nói trong khi nhìn thẳng về trước. “Nó có mùi muối. Chắc từ biển bay vào, có trời biết, cách nhiều dặm chứ ít gì.”
“Biển.” Charlie bắt đầu nối kết các sự việc lại với nhau. “Ông cậu Paton, có một thằng bé mới tới trường của con. Nó được ban phép thuật, theo như nó nói, là dìm chết đuối.”
Ông cậu Paton cười khà. “Dìm chết đuối? Vậy chắc là bóng ma từ con tàu đắm hay sao?”
“Chuyện nghiêm túc đấy ạ, thưa ông Yewbeam,” Billy sốt sắng. “Nó dìm chết người ta.”
Charlie thêm. “Cha nó là Lord Grimwald. Người mà đã...”
“Quỷ thần ơi! Ta hiểu ý con rồi, Charlie. Một kẻ hủy diệt từng có trên đời. Hắn im hơi lặng tiếng đã khá lâu. Ta tưởng hắn chết hay bị chôn vùi đâu đó rồi chứ. Nên nhớ...” Ông cậu Paton nhấn còi với một chiếc xe lù lù hiện ra khỏi màn sương, rồ sát tới thật nguy hiểm. “Dạo này có nhiều vụ đắm tàu gần khu vực của hắn. Phần lớn là ngư dân. Họ giải thích là do thời tiết, nhưng đâu biết chừng, ai ngờ được.”
“Vùng của hắn ở đâu?” Charlie hỏi.
“Phương Bắc.” Ông cậu Paton phẩy bàn tay ra một hướng vô định. “Một trong những hòn đảo. Không ai biết vị trí đích xác. Bọn chúng rất bí hiểm, lũ nhà Grimwald ấy. Lưu truyền rằng khi một đứa con trai trong gia đình tới 12
tuổi thì, hoặc là cha nó hoặc là nó sẽ chết. Không thể nào cả hai cùng sống qua khỏi năm sinh nhật thứ 13 của đứa con trai. Thảm họa gia đình, ta có thể nói thế, nhưng mặt khác, một kẻ dìm chết đuối vẫn tốt hơn là hai.”
Charlie đã mất cha khi còn quá nhỏ nên không nhớ gì về cha. Nhưng bây giờ cha nó đã được tìm thấy, sẽ thật kinh khủng nếu như nó mất cha lần nữa, ở tuổi 12. Nỗi sợ bất giác khiến nó rùng mình, khi nghĩ giờ này ba mẹ đang ở ngoài biển khơi. Thậm chí nó còn nếm thấy vị muối trên môi.
Chiếc xe giật nảy lên dừng gấp lại vì Ông cậu Paton chợt nhận ra mình đã ở bên ngoài nhà số 9. Khi họ bước ra khỏi xe, màn sương bao kín lấy họ như một tấm màn băng giá. Billy bật ho và ôm bụm lấy ngực, nói lớt đớt. “Nó chui thẳng xuống cổ họng. Như là nuốt trúng len cotton vậy.”
Khi ba ông cháu leo lên những bậc cấp, tiếng chuông nhà thờ bị nghẹt xuyên qua không gian mù sương, Ông cậu Paton nói, “À, nó nhắc ta mới nhớ. Hôm nay là đám cưới của bà cô Venetia đó, Charlie.” Ông mở cửa trước ra.
“Một ngày khủng khiếp cho đám cưới,” Charlie bình luận khi bước vào trong nhà. “Xui phải biết, con nghĩ vậy.”
Ông cậu chùi chân vào tấm thảm chùi chân. “Ta không được mời, cũng tự nhiên thôi.”
Hai thằng bé mừng húm vì ngoại Maisie cũng không được mời. Chúng có thể ngồi xơi một bữa trà ngon lành mà không có bộ mặt chàu bạu của nội Bone lù lù bên kia bàn.
“Phải chi con thấy bà nội của con nhỉ,” ngoại Maisie nói. “Rốt cuộc bà ta quyết định đi đám cưới. Vẻ bất bình lộ ra đầy mặt, nhưng bà ta vẫn không thể bỏ lỡ sự kiện này. Bà ta diện màu tím từ đầu đến chân. Đúng, thậm chí đôi giày cũng tím với cái nơ to sụ bên trên. Còn nón thì ôi thôi! Gắn bao nhiêu là nho. Trông như một tô trái cây trộn.”
Hình ảnh gương mặt dài của nội Bone phía dưới những chùm nho màu tím làm Charlie bị hóc khoai tây chiên, cả bàn cười rộ lên, Ông cậu Paton cười to nhất.
Charlie định đi thăm Benjamin sau bữa trà, nhưng quang cảnh từ cửa sổ nhà bếp nhìn ra chẳng khích lệ chút nào. Những ngôi nhà phía bên kia đường chìm trong bóng tối và sương mù. Tất cả chỉ có thể nhìn thấy những đốm sáng bức bối từ những chiếc xe hơi chạy cực chậm trên đường.
Billy nuối tiếc nhìn ra cửa sổ. Nó ao ước được đi lấy con chuột cưng của mình nhưng không dám xin xỏ vào một đêm hiểm họa như thế này.
“Mai tụi mình sẽ đi lấy Rembrandt sớm,” Charlie hứa. “Tụi mình sẽ rủ Benjamin với Hạt Đậu đi cùng luôn.”
Đâu đó trong đêm, màn sương mù lờ đờ cuộn đi khỏi, nhường chỗ cho sương giá bao kín lấy thành phố và một vầng trăng tròn hiện ra tít trên trời. Từng mái nhà sáng lấp lánh như rắc bạc. Trong vùng đồng hoang bên kia sông, một sinh vật bị nhốt giữ bắt đầu tru lên thống thiết.
Sáng Chủ Nhật chào đón hai thằng nhỏ bằng ánh nắng rực rỡ và bầu trời xanh băng giá. Chúng tự làm bữa sáng cho mình – cốm bắp, bánh mì nướng và sữa – trước khi có ai thức dậy. Nhưng ngoại Maisie ráng cố xuống cầu thang trong bộ đồ ngủ màu hồng và những ống cuốn tóc ngay khi chúng vừa ăn xong.
“Nhớ về nhà vào giờ ăn trưa đấy kẻo không ta sẽ đi theo các con,” bà nói. “Đường Piminy ở ngay đằng sau nhà thờ lớn, gần tiệm sách cô Ingledew. Nếu các con muốn ghé ăn trưa ở tiệm sách thì phải gọi điện cho bà biết.”
“Tụi con không tới đó đâu,” Charlie ngượng nghịu nói.
Ngoại Maisie nghẹo đầu qua bên. “Con cãi nhau với một trong những bạn gái đấy à.”
“Con không có bạn gái,” Charlie nóng nảy. “Và con chẳng cãi nhau với ai cả.”
Trên đường ra cửa bọn con trai để ý thấy một cái mũ to tướng, màu sắc sặc sỡ đặt trên chiếc ghế trong hành lang. Trông nó đúng là tô trái cây trộn. Cái mũ khiến Billy bật cười khúc khích và Charlie lập tức cảm thấy nhẹ người đi.
Benjamin luôn sẵn sàng để đi thám hiểm, và Hạt Đậu ở sát cánh bên nó, vui mừng tí tởn khi sợi dây dắt chó được lấy xuống khỏi cái móc trong hành lang.
Ba mẹ Benjamin đang mải miết làm việc khi ba thằng bé rời nhà số 12. Là thám tử tư có nghĩa là ngày nghỉ cuối tuần cũng bận rộn y như ngày thường. Hôm nay cô chú không ra ngoài điều tra, mà ở trong nhà bếp để thiết kế một diện mạo cải trang tinh vi khác. Họ phải thường xuyên làm mới việc hóa trang của mình khi đang “theo dõi một đối tượng”, như cách nói của họ. Có nhiều khi đến cả Benjamin cũng không nhận ra ba mẹ mình. Những lúc như vậy, cô chú rất mãn nguyện, mặc dù Benjamin thì không.
“Mình ăn trưa ở nhà bồ nhé?” Benjamin hỏi khi chúng đi về phía nhà thờ lớn.
Charlie nhận ra cô chú Brown hay ỷ vào ngoại Maisie dọn cho con trai mình những bữa thịnh soạn vào cuối tuần. “Dĩ nhiên,” Charlie đáp.
“Billy lấy được Rembrandt xong, tụi mình có tới quán Cà Phê Thú Kiểng ăn quà không?” Benjamin háo hức hỏi.
“Không,” Charlie nói, hơi nhanh.
Benjamin khựng lại. “Sao vậy?”
“Có thể nói thế này, Emma và Olivia sẽ ở đó và tụi nó không hân hoan khi gặp mình.”
“Sao vậy?” Benjamin hỏi tiếp
Charlie kể cho nó nghe về Dagbert.
“Nhưng bạn bè phải làm lành với nhau chứ,” Benjamin kiên quyết. “Bồ có thể giải thích cho tụi nó rằng đó là một sự hiểu lầm khủng khiếp.”
“Không dễ vậy đâu,” Billy nói, trong khi Charlie dướn vượt lên trước. “Anh biết đấy, Dagbert đã làm tất cả tụi em điên tiết hết cả lên. Nó gọi em là đồ dị dạng.”
Hạt Đậu kéo Benjamin chạy theo Charlie. Benjamin thở hùng hục. “Mình nghĩ bồ nên xin lỗi.”
“Hừ, không đâu.” Charlie bước nhanh hơn nữa. “Chuyện thế là thế.”
Không đúng. Charlie rất muốn xin lỗi Emma và Olivia. Có điều nó không nghĩ ra cách làm điều đó như thế nào. Nó quên phéng là mình phải đi qua khúc cuối ngõ Nhà Thờ Lớn trên đường tới đường Piminy.
Tiệm sách cô Ingledew lọt thỏm trong ngõ Nhà Thờ Lớn, thuộc dãy nhà gỗ nơi bóng râm nhà thờ lớn đổ xuống. Charlie nhìn khắp con hẻm rải sỏi dẫn tới tiệm sách và quầy quả rẽ vào đường Piminy. Nó thắc mắc Olivia có ở trong tiệm sách với Emma hay không. Tụi nó đang làm gì? Giúp dì của
Emma, cô Ingledew, không sai. Chắc là đang phân loại sách, quét bụi những bìa sách bọc da, chùi những gáy sách mạ vàng bao những trang sách mong manh. Hoặc tụi nó đang tưởng tượng một kế hoạch trừng phạt Charlie vì những lời mà nó không bao giờ nói?
Về mặt nào đó Charlie đã đoán đúng. Emma và Olivia đang ở trong tiệm sách thật, đang tưởng tượng một kế hoạch – chỉ có Olivia tưởng tượng thì đúng hơn. Nhưng kế hoạch đó chẳng liên quan gì đến Charlie. Mà liên quan tới một thử nghiệm.
Tài phép của Olivia vẫn còn bí mật đối với gia đình Bloor. Chỉ bạn bè cận kề nhất mới biết con nhỏ là người tạo ảo giác. Trong đám biết điều này, vài đứa, gồm Charlie, nghĩ việc con bé bị phát giác chỉ là vấn đề thời gian thôi, bởi vì Olivia là diễn viên. Nó ham vui, và nỗi mê thích dùng tài phép của mình để đùa chơi thỉnh thoảng lại chế ngự, điều khiển nó.
Chính sự ám ảnh về chim của Emma đã gợi cho Olivia nảy ra một ý tưởng vô cùng nguy hiểm. Emma có thể bay, nhưng trước tiên nó phải biến thành chim mới bay được. Nó hay vẽ chim, sưu tập lông chim, và mê mải ngắm hình những loài chim đã bị tuyệt chủng từ lâu. Buổi sáng hôm đó Emma chợt nảy ra trong óc về một loài chim mà nó chưa bao giờ nghe nói đến. Loài chim này ở trong một quyển sách xưa quý hiếm nhất của dì nó.
Emma cầm quyển sách vào phòng trong và để mở ra trên đầu gối. “Hãy tưởng tượng nào, Liv! Mình giống như con chim này, mỏ dài thật dài, chân to thật to, nhưng đôi cánh lại bé xíu đến nỗi không thể bay lên khỏi mặt đất.”
Olivia nằm thẳng cẳng trên chiếc ghế xô pha thoải mái của cô Ingledew. Nó đặt tay sau gáy và nhắm mắt lại. “Tớ hình dung được con chim thần đó rồi,” nó cười nụ. “Bây giờ tớ tạo con chim đó ra cho bồ thấy nhé, Em? Rồi bồ biến thành con chim đó. Thế là có hai con, và tụi mình sẽ để cho dì của bồ đoán, xem con chim nào là Emma, con nào là ảo ảnh?” Nó mở mắt ra, ngồi
bật dậy, vỗ hai tay vào nhau. “Đúng. Tụi mình làm đi.”
Emma nhìn xoáy vào nhỏ bạn, nhíu mày lo lắng. “Tớ không nghĩ vậy đâu, Liv. Vậy không đúng.”
“Có gì mà không đúng? Đi, Em!”
“Tụi mình không nên... sử dụng tài phép làm vui.”
“Thì sao? Ai nói thế?”
“Đó là điều tụi mình ai cũng phải biết,” Emma cứng cỏi.
Olivia ngả ịch xuống trở lại đống gối nệm. “Hừ, tớ sẽ làm.” “KHÔNG, Liv. Làm ơn đừng. Coi chừng bồ...”
Nhưng con chim thần đang thành hình kìa. Khi Olivia ngoái nhìn qua vai, một mảng lông sặc sỡ hiện ra trên không trung phía sau đầu nó. Emma bất lực nhìn đám lông bắt đầu vào đúng vị trí trong hình hài của một sinh vật đẹp mê hồn. Đôi cánh rộng, cái đuôi xòe ra duyên dáng, mắt đen như hạt huyền, và cái mỏ sắc màu cam.
Chưa hài lòng với hình dáng con chim, Olivia cho nó bật ra những tiếng cúc cu dài khi nó ép qua khung cửa che rèm vào trong tiệm.
Đúng lúc đó chuông tiệm sách rung kính coong, cửa mở ra và một phụ nữ cao to xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Cô Ingledew đang dán tựa sách trên quầy chợt ngước lên, bối rối. Hai sự việc cùng xảy ra với cô một lúc. Một, đó là cô đã quên khóa cửa tiệm vào ngày Chủ Nhật và hai, một con chim quái lạ vừa sổng chuồng khỏi sở thú và tìm đường vô tiệm sách của cô. Tình huống thậm chí còn hoang mang hơn khi Emma chạy ù vào phòng, thét to. “Ối không!” Nghe vậy con chim biến
phụt vào không khí.
“Á,” vị khách lạ lên tiếng. “Một ảo giác. Thú vị quá.”
Không nghi ngờ gì về vị khách không được chào đón kia. Nhìn mái tóc đen rức, lông mày cao hình cánh cung chắc hẳn Emma sẽ biết đó là bà cô Venetia của Charlie. Nhưng giờ mụ mới thay đổi làm sao! Không còn váy bẩn thỉu và áo khoác thùng thình như dạo gần đây nữa. Người phụ nữ này mặc veston
màu hoa tử đinh hương rất lịch duyệt, cổ áo viền lông thú, với đôi giày bốt cũng viền lông thú ở cổ.
“Ta vừa mới lấy chồng,” người phụ nữ nói, đi xuống ba bậc thang vô trong tiệm. Giờ ta là bà Venetia Shellhorn. Ta chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật đây.”
“Vậy ư?” Cô Ingledew nói, không một mảy may tươi tỉnh lên.
“Đúng. Và ta muốn đưa...” bà cô Venetia ngoái nhìn ra sau vai. “Chúng đâu rồi?” mụ ta cấm cẳn.
Cửa mở ra, rất chậm.
“Các con của ta,” bà cô Venetia vẫy bàn tay đeo găng ra cửa.
Đứng ở bậc thang trên cùng là hai đứa trẻ ẻo lả, thương tâm nhất mà Emma từng thấy.
CHARLIE BONE 6: CHARLIE BONE VÀ SÓI HOANG
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 5
Chiếc ấm của Feromel
Bà cô Venetia vẫy bọn trẻ và chúng lệt phệt tiến tới trước, đứa con gái dẫn đầu, thằng con trai hầu như không nhích tí nào.
“ Đây là Miranda.” Bà cô Venetia chộp bàn tay con bé và giằng tới đứng bên cạn mụ. “Nó nhỏ thó so với 7 tuổi, nhỉ? Nhưng Eric, ừm, trời đất, nhìn nó này. Ai mà nghĩ nó 6 tuổi cơ chứ?” Mụ lao xổ ra chỗ thằng bé, cố tóm tay nó nhưng nó lùi phắt lại và đứng dựa vào tựa sách.
“ Lại đây, thằng ngu.” Bà cô Venetia xỉa xói. Mụ quay qua cô Ingledew. “ Ta được cho biết là thằng cháu trai của ta hay tới đây vào chủ nhật.”
Cô Ingledew nói sẵng. “ Không phải luôn luôn.”
“Không thành vấn đề.” Bà cô Venetia nhìn Emma. “Ta cho là hôm nay mày sẽ gặp nó, phải không, Ella... hay gì gì đó?”
“Ờm…” Emma ấp úng.
“ Mày hãy chuyển chúng cho nó.” Bà cô Venetia bảo con nhỏ. “ Chuyển chúng…” Emma lưỡng lự. “Ý bà là chuyển các con của bà?” “ Chứ mày nghĩ gì?” Bà cô Venetia đẩy Miranda một phát về phía Emma.
“ Bà không thể để chúng ở đây được,” cô Ingledew căm phẫn.
Bà cô Venetia bước lên các bậc thang, tiếng giày cao gót nện đoàng đoàng như tiếng súng nổ. “Không có ai ở nhà số 9. Paton chắc chắn có ở nhà, nhưng hắn không bao giờ ra mở cửa. Vì vậy ta phải để bọn trẻ ở đây. Chị Eustacia của ta sẽ đón chúng lúc 5 giờ. Ta nghe nói cô làm bánh mì sandwich rất khéo, cô Ingledew.”
“Đây là tiệm bán sách, không phải nhà trẻ.” Cô Ingledew giận dữ đến nỗi cô dằn mạnh một cuốn sách quí xuống quầy.
“ Ta làm sao đưa chúng đi tuần trăng mật của ta được hả?” Xong, bà cô Venetia vừa hát vừa lướt ra ngoài đường. “Lũ trẻ nít…Hãy ngoan.”
Cánh cửa kính coong đóng đập lại bỏ lại cô Ingledew chết điếng, nhìn chăm chắm qua đầu Miranda tới Emma.
“Hừ!” Mãi cuối cùng cô Ingledew mới thốt lên lời. Chắc hẳn cô muốn trút gận xối xả, nhưng hai đứa trẻ trông thiểu não quá, cô nhận ra nếu mình than thở chỉ làm sự tình éo le hơn trước mà thôi. Bà cô Venetia đã lơi dụng bản tính tốt của cô.
Lúc này hai đứa trẻ đã dính chùm vô nhau. Chúng đứng nắm tay nhau giữa tiệm lấm lét dòm, trước tiên là Emma rồi tới cô Ingledew. Quả thật chúng quá nhỏ so với tuổi chủa chúng. Miranda có tóc màu lông chuột và mắt xám. Nó mặc quần jeans và áo khoác đỏ, chiếc áo hình như đã thu lại mấy cỡ. Ống tay áo thậm chí không che nổi hại cổ tay ốm như chân chim của nó. Mái tóc rối bù của Eric sậm màu hơn, rõ ràng đã lâu rồi chưa được cắt, rủ lộn xộn xuống vai nó thành những nùi rối bong. Nó mặc quần nhung kẻ màu xanh lá cây, bẩn bết nơi đầu gối, áo jacket đen mất tiêu vài cái nút.
Tim Emma se lại vì chúng. Con nhỏ vốn không thể chịu nổi khi thấy những
sinh vật bé nhỏ khốn khổ. “ Đến gặp bạn của chị đi.” Nó chìa tay ra. “ Tụi chị đang vẽ chim. Các em có thích vẽ không. À mà, chị là Emma.”
Miranda nói “ Tụi em đi lấy con chó của mình được không?” “Chó?” Cô Ingledew nhăn mặt. “ Nó đâu?”
“Chúng cháu phải để nó ở nhà. Nó rất cô đơn. Nó ghét ở một mình lắm.” Mắt Miranda rơm rớm nước.
Olivia chọn đúng khoảnh khắc này để thò đầu ra khỏi tấm rèm. “Ố!” Nó ré lên khi thấy bọn trẻ. “ Tớ không biết là có người ở đây. Tớ đang nằm bẹp đề phòng có người thấy con chim.”
“Chim nào?” Eric sáng rỡ lên.
“ Ồ. Thì con chim.” Olivia tỉnh bơ. “Em là ai?”
Bọn trẻ nhìn Olivia chòng chọc, im re.
“Đây là Miranda và Eric,” Emma nói, hơi quá đon đả. “Chúng là em họ… em họ kế mới của Charlie Bone, tớ nghĩ vậy.”
Oliva tròn mắt. “ Tội nghiệp không. Chị chả ham bà con gì với gia đình đó. Chị là Olivia.”
“Olivia!” Cô Ingledew gay gắt. “Làm ơn đừng nói kiểu đó về gia đình Charlie.”
“Úi!” Olivia rụt đầu vào.
“Làm ơn cho tụi cháu đi lấy con chó đi?” Miranda kèo nài. Cô Ingledew gãi đầu. “Cô không biết, cưng. Ý cô là, làm sao cháu vô nhà
được? Mẹ kế của cháu có để chìa khóa lại cho cháu không?” Miranda lắc đầu.
Cô Ingledew thở dài. “ Chờ cô chút. Để cô hỏi ý kiến một người bạn.” Cô lấy chiếc moblie của cô từ trong túi quần ra và bắt đầu bấm số.
Emma lùa hai đứa trẻ vô nhà sau trong khi cô Ingledew gọi cho ông Paton Yewbeam. Miranda và Eric nghi hoặc ngó xung quanh căn phòng đầy sách và cuối cùng quyết định ngồi xuống ghế sô-pha, dính sát vào nhau.
“Dì của chị có lâu không?” Miranda hỏi. “ Chattypatra sẽ ư ử, ư ử đến chừng nào tụi em về với nó.”
“Tên oách quá.” Olivia nhận xét. “ Gốc gác từ đâu vậy?”
“Tên nó đã là Cleopatra,” Miranda nói. “Nhưng tại vì nó nhiều chuyện quá. Ờm, cứ sủa, tru rồi rên la. Vì vậy mà mẹ…” nó im bặt và nhìn Eric. Thằng bé bặm môi dưới lại nhưng không khóc. “Vì vậy mẹ.” Miranda tiếp, “Mẹ em gọi nó là Chattypatra(1) (Cleopatra là tên nữ hoàng Ai Cập. Vì con chó hay “nói
nhiều” nên mẹ chúng đổi thành Chattypatra, chat tức là nhiều chuyện, tán gẫu.)”
”Hay ghê,” Olivia gật gù.
Cô Ingledew ngó vô phòng và bảo với chúng, chừng nào ông Yewbean tìm được chìa khóa nhà bà cô Venetia, ông sẽ sai Charlie mang tới đây.
“Vậy sẽ rất lâu?” Đôi môi rướm đỏ của Miranda khẩn nài nhìn cô Ingledew.
“Cô không nghĩ vậy đâu, cưng. Nào, mấy cưng có muốn giúp Emma làm bánh sandwich không?”
“Dĩ nhiên rồi,” Olivia mau mắn. “Đi thôi, tụi mình kẹp mật ong với chuối, hay là pho mát với nho khô, hay là bưởi với đậu phộng? Hay là xúc xích với cam.”
Cô Ingledew thở phào – Miranda, mê mụ đi theo Olivia vô nhà bếp, Eric bám sát gót.
Ngay khi cô Ingledew vừa quay ra tiệm thì ông Paton Yewbean gọi báo tin nội Bone đi vắng, đóng cửa rồi, và giờ không cách chi vô phòng bà ta tìm chìa khóa.
“Ôi, Paton, em không biết phải làm gì nữa. Lũ trẻ đáng thương lắm. Trông chúng rất đau khổ. Em nghĩ con chó sẽ làm chúng vui lên.”
“Bà chị quỷ quái của tôi nghĩ gì thế không biết?” ông Paton cằn nhằn, “Sao lại thảy chúng tới tiệm của em? Này, Julia, anh không biết có được hay không, nhưng anh đoán chắc chắn là bà Venetia hay để chìa khóa cửa dưới một bức tượng thần lùn khổng lồ, gớm ghiếc ở bậc thang trên cùng nhà bà ta.”
“Tượng thần lùn?” Cô Ingledew nói, cô chưa từng léo hánh đến nhà bà Venetia bao giờ.
“Sinh vật dữ tợn. Bằng đá. Tai to. Mũi dài. Có râu quai nón. Ngồi chồm chỗm. Bàn chân to đùng.”
“Em biết thần lùn,” cô Ingledew nói nhanh. “Em chỉ thắc mắc sự khôn ngoan của việc để chìa khóa của dưới tượng thần lùn là gì thôi.”
“Nó không phải là vật sống, Julia thân yêu.”
“Em biết nó không phải là vật sống.” Cô Ingledew thở dài não nề. Đôi khi ông Paton không sống cùng thế giới với người khác. “Ý em là nhỡ có người
tìm thấy chìa khóa và vô nhà.”
“Nhà đó ai trên đời này muốn vào? Của cải quý giá của bà Venetia toàn những thứ để ếm bùa mà chỉ mình bà ta mới biết cách sử dụng thôi.”
Cô Ingledew chịu thua. “Cảm ơn, Paton. Bọn em sẽ nghĩ kĩ về nó.”
Về phần mình, Ông cậu Paton tự hỏi cô Julia sẽ nghĩ về cái gì. Ông rất yêu mến cô, nhưng đôi khi họ không ở trong cùng tần số. Ngay khi Charlie và đám bạn nó về nhà, ông sẽ bảo nó mau mau tới nhà bà Venetia coi có tìm thấy chìa khóa dưới bức tượng không. “Mà khoan, suy nghĩ lại, tốt hơn để chúng ăn trưa xong ta hẵng nói,” Ông cậu Paton độc thoại.
Trong khi đó Charlie, Billy và Benjamin đang chậm rãi thả bộ trên đường Piminy. Chúng vẫn chưa tìm thấy tiệm Ấm Đun, trong bụng đã bắt đầu nghĩ cái tiệm đó không tồn tại. Đường Piminy chi chít những tiệm nhỏ, kỳ dị, tất cả đều đóng cửa, dĩ nhiên, vì hôm nay là Chủ Nhật. Nào là tiệm pho mát, tiệm làm đèn cầy, tiệm làm giầy, tiệm làm đồ mộc, rồi thì tiệm làm bánh mì, tiệm bán hoa và thậm chí có cả tiệm đá.
“Tiệm Đá,” Charlie lầm bầm, ngó vô cửa sổ tối hù. “Vậy tức là sao?” “Chắc là họ bán đồ dùng làm bằng đá?” Benjamin đoán mò.
Bất chợt Charlie nhận ra một hình khối cao lớn ở bên trong cửa sổ. Nó nhìn kỹ hơn và thốt lên:”Một bức tượng”. Khi mắt nó đã quen với bóng tối, nội thất của tiệm dần hiện rõ ra. Bây giờ nó có thể thấy những bức tượng khác: một nhóm tượng những người lính La Mã to bằng người thật; bên cạnh họ là ba người phụ nữ mặt mày hung hãn cằm dùi cui và rìu, lùi xa hơn nữa thì tới một người đàn ông trông giống yêu tinh hơn là con người. Ở gần cuối phòng, bên dưới cửa sổ mái, có một hiệp sĩ cưỡi ngựa cầm thương. Con ngựa của hiệp sĩ có cắm lông chim ở đầu, và bên dưới yên, thân mình nó phủ tấm mền
được kết từ lá cây.
“Ông ta đang đấu thương,” Benjamin nói ra vẻ am tường.
“Tưởng tượng nếu họ sống thì sao nhỉ!” Billy thì thầm.
Charlie lùi một bước khỏi cửa sổ. Rất có thể, trong thành phố có những con người có khả năng khiến cho tượng sống dậy lắm chứ.
“Mình ngửi thấy mùi cá,” Benjamin nói. “Cả Hạt Đậu cũng ngửi thấy.”
Hạt Đậu đã bươn tới một cửa tiệm đằng phía cuối đường. Chú ta đang đứng giữa vỉa hè và sủa um lên bức xúc.
“Nó sủa vậy là vì nó thích cá hả?” Charlie hỏi khi nguyên đám chạy hộc tốc về phía con chó vàng.
“Ghét thì có,” Benjamin thở phì phò, tóm lấy vòng cổ Hạt Đậu.
Nhưng bên trong cửa sổ con chó đang sủa hoàn toàn trống trơn. Một tấm biển đề “CÁ”. Những mẫu tự màu xanh da trời in cẩu thả trên nền trắng, trông như viết đè lên dòng chữ gì khác nữa. Thật vậy, nếu nhìn kỹ hơn, ta có thể thấy chữ “Bán thịt” bên dưới tấm biển trắng.
“Các anh có biết em thấy nó mùi gì không?” Billy nói.
“Dagbert,” Charlie đáp.
Cả đám trố mắt nhìn cái tiệm trống hoác rồi nhìn lên cửa sổ tầng trên, tự hỏi đây có đúng là nơi Dagbert cư ngụ hay không. Và nếu đúng thì, loại người nào lại làm chủ một cửa tiệm vắng teo với tấm biển quấy quá như vậy.
“Những người rất lập dị,” tiếng ai đó vang lên, dường như đọc được tâm trí của bọn chúng.
Cả đám quay lại và thấy một phụ nữ đứng bên ngoài một ngôi nhà cách đó ba căn. Mái tóc màu đồng của bà láng đến nỗi trông như bà đội mũ bảo hiểm, chiếc áo bông màu đen bóng đến độ cứ tưởng nó làm bằng thép. Người bà to bề ngang, với đôi vai rộng tạo ấn tượng về một sức mạnh phi thường.
“Bà đang chờ mấy cưng mãi,” người phụ nữ nói. “Bà là bà Kettle, bạn của bà bếp trưởng. Có một con vật nhỏ đang nôn nóng gặp mấy cưng muốn chết.”
“Rembrandt!” Billy kêu lên, chạy thục mạng tới chỗ bà.
“Cưng là Billy đây mà? Còn cưng chắc chắn là Benjamin rồi, nhìn con chó là biết liền, và cưng là Charlie. Vô đi, mấy cưng, trời lạnh héo queo ngoài đó.” Bà Kettle đi vô tiệm, chắc chắn khác một trời một vực so với cái tiệm cá vắng hoe đằng kia.
Tất cả mọi thứ trong tiệm của bà Kettle hình như đều sáng bóng nhoáng. Chỉ khi mắt Charlie quen với ánh sáng chói lóa xung quanh, nó mới nhận ra vật gì cững đều là ấm đun nước. Đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc. Chỗ này ấm chen chúc nhau trên các kệ, chôc kia ấm khoa sắc trên bàn hoặc ngồi riêng lẻ, chễm chệ trên những chân đế. Ở vị trí danh dự đặt một cái ấm đồng lớn nhất mà Charlie từng thấy. Nó hiên ngang đứng đối diện giữa cửa sổ, có hàng loạt ấm khác nhỏ hơn bao quanh; ta có thể thấy hình ảnh lạ lùng, nghiêng nghiêng, mang các sắc thái màu đồng của toàn bộ cửa hàng phản chiếu lên mặt bên sáng hoáng của nó.
“Cái đấy chỉ để trưng thôi, mấy cưng.” Bà Kettle nói khi nhìn theo ánh mắt của Charlie. “Cái ấm chiến nhất của bà ở đằng sau phòng này cơ. Đi với bà nào.” Bà lướt qua một ô cửa vòm ở cuối tiệm và ra hiệu cho chúng vô một căn phòng khác, cũng chất đầy ấm đun nước, nhưng phòng này có nhiều không gian hơn một chút xíu. Bốn chiếc ghế bọc đệm chỗ ngồi, không có ấm ở trên, kê quanh một cái bạn nhỏ.
Billy chả bụng dạ nào để ý đến cái gì. Không sao kiềm chế nổi sự nôn nóng, nó buột mồm:”Nó đâu? Con chuột của cháu đâu?”
“Ái chà. Bà tự hỏi,” bà Kettle ghẹo nó, “cưng tưởng bà quên rồi ư?” “Phải,” Billy lỡ miệng. “À không. Làm ơn đi, nó đâu rồi?”
"Có ngay đây!" Bà Kettle khoắng tay vào một trong hàng lô hàng lốc ấm và lấy ra một con chuột đen bóng.
Billy giật con chuột khỏi tay bà, thét tướng, “Rembrandt!”
“Nó yêu cái ấm đó lắm,” bà Kettle nói. “Nó đã thử tất cả rồi nhưng đó là cái ấm nó thích nhất.”
Benjamin trông lo lắng. “Ừm, bà bán ấm đung nước ạ?”
“Đừng lo, cưng,” bà Kettle nói. “Bà rửa sạch bên trong ấm thường xuyên mà. Chuột có thể là sinh cật dơ dáy đấy chứ?”
Charlie chợt nghe thấy có tiếng trống vọng đến từ đâu đó phía sau. Hạt Đậu nhắng nhít muốn gặp Rembrandt đến nỗi cái đuôi xù, ngoe nguẩy của nó đập tùng xèng vào hai cái ấm tráng men.
“Rembrandt không muốn chơi,” Billy nói, ôm rịt lấy con chuột.
Trước một hiệu lệnh từ Benjamin, Hạt Đậu đành miễn cưỡng thôi quật đuôi nhưng tiếng trống lập tức được thay thế bằng tiếng hú inh ỏi từ một cái ấm đang đun trên bếp.
Bà Kettle cởi áo khoác ra và bảo bọn trẻ làm theo mình. Xem ra nhiệt độ tăng lên ít nhất hai chục độ, Charlie cởi áo len rồi cởi áo jacket của nó ra luôn.
Bọn con trai ngồi xuống và và bà Kettle rót trà đậm đặc ra bốn cái tách. Benjamin không thích trà nhưng nó hiểu ra mình còn nhận được cái gì khác nữa ở nơi toàn những ấm là ấm này. Nói cho ngay, đó là thứ trà cực ngon, và sau vài ngụm, chúng hoạt bát hẳn lên, kể cả Benjamin. Cứ như là nuốt loại không khí mà làm cho ta thấy nhẹ tênh và tỉnh người ra vậy.
Trong khi uống trà, bà Kettle kể cho chúng về tiệm cá trên đường này, mặc dù chả đứa nào hỏi bà về chuyện đó.
‘Nơi đó từng là tiệm bán thịt,” bà Kettle nói. “Ông chủ tiệm rất dễ mến, hay cho bà thêm thịt vụn. Ừm, ông ấy bỗng nhiên một sáng thức dậy và ra đi. Không một lời từ biệt.’
“Chắc tại ông ấy nhận được một lời đề nghị mà ông ấy không thể từ chối,” Charlie đoán.
“Chắc chắn,” bà Kettle đồng ý. “Nhưng mấy cưng nghĩ coi, ai đã trả tiền mua cái nơi trái khoáy đó thì phải chuyển cái gì vô đáy chứ. Đằng này, bà chưa bao giờ trông thấy một cái vẩy cá trưng ở cửa sổ nữa là.”
“Nhưng nó có mùi cá,” Benjamin chỉ ra.
“Đích xác.” Bà Kettle chồm tới trước. “Mấy cưng biết không, bà nghĩ chữ “CÁ” treo lên cửa sổ chỉ để gải thích cho cái mùi đó thôi. Không phải vì họ bán ca steps gì hết.”
“Ồ,” Charlie ngây ra khi hiểu được ngụ ý của bà Kettle. “Nếu ý bà muốn nói có ai ở đó bốc mùi cá thì cháu biết là ai rồi.”
“Thật à?” Đôi mắt màu đồng của bà Kettlr căng tròn lên như trái cam.
“Nó tên là Dagbert Endless,” Charlie bảo với bà. “Hễ nó đi đến đâu, mùi cá theo nó đến đó. Nó nói no có thể dìm chết người. Cha nó là Lord Grimwald,
và…”
“Chúng tôi biết rồi!” Bà Kettle kêu lên. “Hoặc đoán ra rồi. Bà bếp trưởng đã nghi ngờ, nhưng không chắc lắm. Ôi, bà bạn đáng thương của bà, bà hi vọng bà ấy không gặp rắc rối. Bà đã cảnh báo bà ấy đừng đến đây nữa, chúng ta là chỗ bạn thân thiết.”
Charlie nói, “ Nhưng cách đây đã lâu, khi Lord Grimwald làm điều ác độc đó…”
“Chắc chắn hắn đã cưới ai đó rồi,’ Billy thêm, “vì vậy hắn sẽ không quấy rầy bà bếp trưởng nữa.’
“Cũng chẳng có gì khác.” Bà Kettle uống hết tách trà của mình. Hình như trà khồn có tác dụng tăng lực cho bà chút nào. Mà đúng ra trông bà ủ ê. “Bà bếp trưởng là chỗ bạn thân thiết,” bà lặp lại, lắc đầu.
Để làm bà vui lên, Benjamin hỏi bà có cái ấm điện nào không.
Ai dè bà Kettle phẫn nộ. “Cưng gọi thứ đó mà là ấm? Bà thì không. Ấm nước sôi là bởi bếp lò nóng, chứ không phải khi bấm một cái nút.
Benjamin nở nụ cười tẽn tò. “Cháu xin lỗi.”
Charlie quyết định đã đến lúc ra về. Bọn chúng đến để lấy Rembrandt và chúng đã có con chuột rồi. Nó đứng lên cảm ơn bà Kettle đã mời trà.
“Không có chi, Charlie Bone. Cưng sẽ đến nữa chứ?”
Charlie đáp, “Dĩ nhiên ạ.”
Bà Kettle dẫn bọn chúng trở lại phòng trước, nhưng lúc sắp đi qua ô cửa vòm, Charlie chợt dừng lại. Nó chợt cảm thấy có cái gì ở phía bên trái giần giật rất khác thường. Nó phải dựa vô tường để giữ bình tĩnh, và một cảm giác
"""