"Charlie Bone và Quả Cầu Xoắn Thời Gian - Jenny Nimmo full prc epub [Huyền Ảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Charlie Bone và Quả Cầu Xoắn Thời Gian - Jenny Nimmo full prc epub [Huyền Ảo] Ebooks Nhóm Zalo CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Những Người Được Ban Phép Thuật Tất cả những nhân vật sau đều là con cháu của mười người con của Vua Đỏ, vị vua phù thuỷ đã rời châu Phi vào thế kỷ thứ 12, với ba con báo tháp tùng. T Vua Đỏ đã sống qua nhiều thế kỷ và ông đã làm nên một quả cầu pha lê nhiệm màu. Ông cất vô đó tất cả những ký ức về cuộc hành trình quanh thế giới của mình. Ông dùng quả cầu này để xoắn vặn thời gian, về lại quá khứ hoặc tiến tới tương lai. Mặt khác, Quả Cầu Xoắn Thời Gian này cũng rất nguy hiểm và không thể lường trước được. CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Những Hậu Duệ Của Vua Đỏ Manfred Bloor: Huynh trưởng của Học viện Bloor. Biết thôi miên. - M - Charlie Bone: Hậu duệ dòng họ Yewbeam, một dòng họ có nhiều người được ban phép thuật. Charlie có thể nghe được tiếng nói của những người trong hình chụp và hình vẽ. - Zelda Dobinski: Hậu duệ một dòng họ phù thủy Ba Lan lâu đời, Zelda là người siêu năng, có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. - Asa Pike: Hậu duệ của một bộ lạc sống ở những khu rừng phía Bắc, có mối liên hệ với những loài thú hoang dã. Asa có thể biến thành thú vào lúc trời tối. - Billy Raven: Chắt của một người đàn ông có tài nói chuyện với lũ quạ hay đậu ở trên giá treo cổ, nơi treo thây những tử tội. Vì tài này mà ông bị đuổi khỏi ngôi làng của mình. Billy có thể nói chuyện với thú vật và hiểu được thú vật. - Lysander Sage: Hậu duệ một dòng họ những nhà thông tháo châu Phi. Có phép gọi hồn tổ tiên mình. - Gabriel Silk: Thuộc dòng họ gồm những nhà tâm linh học. Gabriel có thể cảm nhận được ý nghĩ và cảm xúc của người khác qua áo quần của họ. - Beth Strong: Thuộc một gia đình nghệ sĩ xiếc, gồm những đô vật và những nghệ sĩ nhào lộn. Beth cũng là người siêu năng, có thể di chuyển đồ vật từ xa. - Emma Tolly: Hậu duệ của một hiệp sĩ người Tây Ban Nha, là người từng đồng hành với Vua Đỏ trên những bước đường rong ruổi của ông. Emma có thể biến thành chim. - Tancred Torsson: Hậu duệ của một người gọi bão xứ Scandinavi được đặt tên theo thần sấm là Thor. Tancred có thể tạo nên gió, mưa, sấm và chớp. - Bindi và Dorcas: Cũng được ban phép thuật. Nhưng tài phép của họ chưa bộc lộ. CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Chương 1 Trò Chơi Bắn Bi Tháng Giêng năm 1916 - những ai còn sống đều nhớ rằng, đó là một mùa đông khắc nghiệt nhất. T Những căn phòng tối hù trong Học viện Bloor cũng lạnh buốt như ngoài trời. Henry Yewbeam, vừa chạy gấp qua một hành lang lạnh băng, vừa cất tiếng ngâm nga một mình. Tiếng ngâm nga làm nó phấn chấn lên, giúp sưởi ấm tinh thần cũng như hai bàn chân. Phía đầu kia hành lang, ánh đèn khí xanh lét, chập chờn lay động trong những giá đỡ bằng sắt gắn trên tường. Cái mùi thật kinh khủng. Nếu lúc đó có bắt được con gì chết rữa trong một góc tối thì Henry cũng sẽ chẳng ngạc nhiên. Ở nhà, một ngôi nhà tràn ngập ánh nắng bên bờ biển, em gái Daphne của Henry đang bị bệnh bạch hầu. Để tránh lây nhiễm, Henry và út James được gởi tới sống với anh trai của mẹ chúng, Ngài Gideon Bloor. Ngài Gideon không phải là mẫu người mà bạn nên chọn để ở cùng trong những ngày nghỉ. Không ai xa cách hơn ngài. Ngài là hiệu trưởng của một ngôi trường cổ, và ngài quyết không bao giờ để ai quên điều đó. Học viện Bloor về tay gia đình Ngài Gideon từ hàng trăm năm rồi. Đó là ngôi trường dành cho những đứa trẻ có tài về âm nhạc, kịch và hội họa. Học viện Bloor cũng nhận huấn luyện những đứa trẻ có phép thuật. Đó là những đứa có khả năng kỳ lạ. Chỉ nghĩ đến bọn chúng thôi là Henry đã rùng mình. Henry đã tới được phòng của thằng anh họ Zeke. Zeke là con trai độc nhất của Ngài Gideon, và Henry không thể tưởng tượng nổi trên đời lại có thằng anh họ nào có thể tệ hơn nó. Zeke là một trong những đứa trẻ có phép thuật, nhưng Henry đoán rằng tài phép của nó kinh tởm lắm. Henry mở cửa ra và lom lom dòm vô. Một hàng lũ thuỷ tinh xếp đầy bậu cửa sổ. Bên trong đựng những vật kỳ dị, trôi lều bều trong một thứ chất lỏng trong veo. Henry đảm bảo chất đó không phải là nước. Những vật kỳ dị trông nhợt nhạt, không rõ hình thù. Có một cái xanh da trời. "Mày nghĩ mày đang làm gì hử?" Thím Gudrun lướt phăm phăm trên hành lang, chiếc váy đen dài lết bết rít lên một tiếng, át cả tiếng những bước chân của thím. Đó là một phụ nữ cao lớn, tóc vàng rực, búi thành một cục to tướng ra sau. Một người Viking chính cống (thực tế, thím là người Na-uy), với khuôn ngực rộng và buồng phổi khỏe mạnh để mà chạy huỳnh huỵch. Henry ấp úng, "Ơ... " "Ơ thôi thế hả, Henry Yewbeam. Mày đang do thám phòng thằng Zeke của ta, đúng hay không?" "Không, hoàn toàn không," Henry đáp. "Cấm mày lởn vởn trên những lối đi, thằng kia. Xuống phòng khách ngay." Quý bà Bloor ngoắc một ngón tay thanh mảnh, và Henry không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đi theo bà ta. Bà thím dẫn nó quay về lại, ngang qua những cánh cửa khóa im ỉm, bí hiểm, mà chỉ vài phút trước nó đã liều lĩnh thử mở ra. Nó vốn là đứa hay tò mò và mau chán. Một tiếng thở dài buột ra khi nó lết những bậc cầu thanh cót két xuống lầu trệt. Gia đình Bloor sống ở chái phía tây của Học viện, nhưng họ chỉ ở những căn phòng ở lầu trên. Tầng trệt là cả một tiền sảnh rộng mênh mông, lộng gió, một nhà nguyện, và năm sáu hội trường cùng lớp học. Henry đã thám hiểm một vài căn phòng đó và thấy chúng chán phèo. Tất cả đều có những hàng bàn với ghế dị dạng cùng những kệ sách trông kết sức bụi bặm. "Tới rồi!" Quý bà Bloor mở một cánh cửa và dúi Henry vô phòng. Một thằng bé, đang quỳ trên chiếc ghế đẩu gần của sồ, liền phóng xuống và chạy như bay lại chỗ Henry. "Nãy giờ anh ở đâu vậy?" Bé hét lên. "Thám hiểm tí thôi," Henry đáp. "Em cứ tưởng anh về nhà rồi." "Nhà ở cách đây bao nhiêu dặm cơ mà, Jamie." Henry buông mình vô chiếc ghế da sâu hoắm bên cạnh lò sưởi. Khi lim dim mắt, nó như thấy rõ căn phòng khách ấm cúng ở nhà. Và thế là nó lại thở dài. Thím Grudrun nhăn mắt, đe: "Liệu đấy, bọn bay," đoạn đi ra và đóng cửa lại. Bà thím đi rồi, bé James lại ngồi lên thành ghế của Henry. "Anh Zeke nãy giờ đang làm cái gì đó tức cười lắm," bé thì thầm. Nãy giờ Henry không nhìn ra Zeke, nhưng giờ thì nó nhận thấy thằng anh họ lạ lùng của mình đang chỉm trong im lặng ủ ê ở đầu kia căn phòng. Zeke đang ngồi bên bàn, đắm đuối vô những thứ trải ra trước mặt. Gương mặt xương xẩu, tím mét của nó đông cứng trong lúc tập trung cao độ. Không một cơ bắp nào động đậy, không một hơi thở thoát ra. "Em sợ," bé James thì thầm. "Sao vậy? Anh ấy đang làm gì vậy?" Henry nói thầm với bé James. "À, anh ấy đang chơi trò ghép hình. Có những mảnh ghép đầy trên bàn kìa. Đó, Zeke nhìn chăm chú, rồi xếp chúng lại với nhau hết rồi kìa. À, mới gần hết thôi. Thành một bức tranh. Anh ấy có cho anh coi rồi. Đó là hình một con tàu, nhưng có vài mảnh không khớp." "Thì thầm là thô lỗ đấy," Zeke nói, không rời mắt khỏi miếng ghép hình. Henry nhấc mình khỏi ghế và đi về phía thằng anh họ. Liếc nhìn mười hai mảnh ghép còn lại, rồi nhìn bức tranh con tàu. Mất chưa đầy một phút nó đã biết chính xác vị trí của từng mảnh. "Hừm." Henry chỉ nói thế, và không thêm lời nào nữa, nó tuần tự nhặt những mảnh ghép lên, từng cái, từng cái một, và lắp nó vô bức tranh; hai cái cho bầu trời, ba cái ở thân tàu, hai cái ở dây buồm, và bốn cái cho mặt biển. Mất một lúc, Zeke đã nhìn theo bàn tay của Henry một cách thích thú. Nhưng đúng lúc Henry đặt miếng ghép cuối cùng vô đúng vị trí, thì Zeke đột ngột đứng dậy và rú lên: "Ai khiến mày? Tao làm được mà. Tao làm được!" "Xin lỗi," Henry vội lùi lại. "Em tưởng anh muốn em giúp." "Anh Henry chơi ghép hình hay lắm," bé James khoe. "Hừ, tao giỏi những thứ khác," Zeke gầm gừ. Bé James còn quá nhỏ để mà nhận ra những dấu hiệu nguy hiểm. Tia giận dữ long lên trong đôi mắt đen của Zeke chĩa thẳng qua đầu thằng bé. "Phép thuật đâu phải lúc nào cũng xài được đâu!" Bé James nói một cách vô tình. "Anh Henry thông minh hơn anh mà, Zeke." Chính vì lời nhận xét ấy mà bé James Yewbeam tội nghiệp đã đóng dấu lên số phận của anh mình, và dĩ nhiên cả số phận của bé. "Cút đi!" Zeke rít lên. "Cả hai thằng mày. Đồ Yewbeam đáng ghét. Đi! Ngay! Tao không thể chịu nổi cái bản mặt tụi mày." Henry và James chạy vội ra cửa. Gương mặt nhợt nhạt của thằng anh họ đã có hơi hám bạo lực, và chúng không muốn ở lại cho hắn trút cơn thịnh nộ. "Tụi mình đi đâu đây?" James thở hổn hển khi lao theo thằng anh dọc hành lang. "Tới tiền sảnh, Jamie. Ra đó chơi bắn bi." Henry rút từ túi quẩn ra một cái bao nhỏ và vẫy vẫy trước mặt em. Nhưng không. Chúng chưa kịp chạy thêm được bước nào thì có một tiếng quát của thím Gudrun. "James, đi ngủ!" Bé James giả bộ như không nghe thấy. "Ngay lập tức!" "Em nên đi ngủ đi thì hơn," Henry nhẹ nhàng. "Bà ấy sẽ phạt nếu em không nghe lời." "Nhưng em muốn chơi bắn bi cơ," bé James nói. Henry lắc đầu. "Thôi mà, Jamie. Bây giờ không được rồi. Ngày mai nhé. Nhưng chút nữa anh sẽ tới đọc truyện cho em." "Hứa đi? Anh đọc nốt truyện Võ sĩ Ngốc nhé?" "James, lại đây," thím Gudrun quát. "Ừ, hứa," Henry nói và nhất định sẽ giữ lời. Thế nhưng, Zeke đã có một kế hoạch khác dành cho nó. Đầu cúi gục, bé James thất thểu lê bước về phía thân hình to lớn đứng ở cuối hành lang. "Còn mày, Henry!" Thím Gudrun gọi. "Đừng có gây rắc rối đấy." "Vâng, thưa thím," Henry nói. Nó vừa tính xuống cầu thang rộng dẫn xuống tiền sảnh, thì chợt nảy ra một ý. Trời buốt lạnh đến nỗi nó trông thấy cả hơi thở mình tuôn ra cuồn cuộn như những đám mây nhỏ màu xám. Dưới tiền sảnh có khi còn lạnh hơn. Và nó có thể chết cóng. Henry quay gót trở lại, cho đến khi thấy cánh cửa một căn phòng mà nó đã điều tra. Đó là một nhà kho rộng, chứa đầy quần áo do những học sinh cũ của Học viện bỏ lại. Những hàng áo chùng xếp theo màu: xanh da trời, xanh lá cây, tím; những giá treo mũ và áo khoác; những hộp ủng da cổ xưa. Henry chọn một chiếc áo chùng xanh da trời ấm áp và mặc vô. Cái áo dài tới đầu gối, lý tưởng để mặc ở tiền sảnh có gió lùa. Nó có thể bò lê dưới sàn nhà mà không cảm thấy nền đá lạnh toát. Henry lao xuống tiền sảnh. Bộ sưu tập bi của nó là nỗi ghen tị của tất cả đám bạn. cha của Henry hay đi đó đi đây, và không bao giờ về nhà mà không mang theo ít nhất một viên bi quý cho bộ sưu tập của con trai. Trong cái túi da của Henry có bi bằng inox, bi mã não lên nước bóng nhẫy, bi thủy tinh, bi đá vôi, bi thạch anh, và cả những viên bi bằng sứ có hoa văn. Trong tiền sảnh không có đèn, nhưng mặt trăng non luồn qua những ô cửa sổ dài, mù sương, khiến những phiến đá xám lót sản sáng nhờ nhờ như ngọc trai. Henry quyết định chơi trò Thiện xạ, trò mà nó thích nhất. Dẫu không có đối thủ, nó vẫn hay luyện bằng cách chơi một mình. Chỉ với một mẩu phấn, luôn có sẵn trong túi, Henry vẽ một vòng tròn lớn ở ngay giữa tiền sảnh. Xong, nó vẽ thêm một vòng tròn nhỏ hơn bên trong vòng đầu tiên. Chọn ra mười ba viên bi trong túi, nó xếp chúng thành hình cây thánh giá bên trong vòng tròn nhỏ. Giờ thì Henry quỳ xuống nền đá lạnh băng, ngay bên ngoài vòng tròn lớn. Đôi tay đã tím ngắt vì lạnh, nó không sao kìm cho hàm răng thôi va nhau cầm cập. Nhét vạt áo chùng xanh da trời xuống dưới đầu gối, nó lôi ra viên bi yêu quý nhất của mình - viên bi trong, màu xanh da trời, có một lằn bạc bên trong, tựa như ánh sao. Đó luôn luôn là hòn bi cái, hay hòn bi xạ thủ. Đặt những khớp ngón tay phải xuống sàn, lòng bản tay ngửa lên, Henry đặt viên bi xanh da trời lên đầu ngón trỏ và giơ ngón cái búng nó về phía hàng thánh giá bi. Một tiếng "cách" thật đanh, nó bắn bật viên bi màu cam ở bên phải ra khỏi hai vòng tròn. "Hoan hô!" Henry hét lên. Có một tiếng két nhẹ sau lưng. Henry nheo mắt nhìn vô những mảng tối đen trên những bức tường ốp ván gỗ sồi. Đó là do nó tưởng tượng? Hay một bức thảm thêu dài vừa rung lên? Ở đầu kia của bức thảm thêu, có một cánh cửa dẫn đến chái phía tây. Henry thích cầu thang chính hơn. Còn hành lang đằng sau cánh cửa kia tối quá và ma quái quá. Một cơn gió lạnh lùa qua đầu gối Henry, và bức thảm thêu lại cuộn lên một lần nữa. Một loạt mưa đá nện rầm rầm lên những cánh cửa sổ, và gió rít thê lương, luẩn quẩn quanh mảnh sân ngập tuyết. "À, gió." Henry run tay, kéo áo chùng lên sát người hơn. Rồi nó kéo chiếc mũ lên, trùm kín đầu. Trong hành lang phía sau tấm thảm thêu, Ezekiel Bloor đứng, một tay cầm đèn lồng, và tay kia cầm một quả cầu pha lê lấp lánh. Những tia màu sáng chói, xoáy cuộn, tỏa ra từ quả cầu, thành một cầu vồng được viền vàng và bạc. Ánh mặt trời và ánh trăng nối tiếp nhau vần vũ trên quả cầu. Zeke hiểu rằng nó tuyệt đối không được nhìn vô đấy. nó đang cầm một trong những viên bi cổ xưa nhất thế giới. Ngày trước, trên giường hấp hối, bà cô Beatrice của Zeke, một phù thuỷ, đã ấn quả cầu này vô tay nó. "Quả Cầu Xoắn Thời Gian," bà thều thào bằng giọng của người sắp chết."Để du hành xuyên thời gian. Không được nhìn vô nó, Ezekiel, trừ khi con muốn du hành." Ezekiel không muốn du hành. Nó lớn lên trong tòa nhà lớn âm u của gia đình, và rất hiếm khi có ai thuyết phục được nó rời khỏi nơi này. Tuy nhiên, nó ao ước muốn biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó nhìn vô Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Và theo như Zeke nghĩ, thì không có ai xứng đáng để làm một chuyến xuyên thời gian hơn là thằng em họ kém cỏi Henry Yewbeam của nó. Henry tính đến giờ đã búng bay thêm được ba viên bi nữa ra khỏi vòng tròn nhỏ. Nó không bắn hụt viên nào, mặc cho những ngón tay tê cứng. Nó đang chuyển vị trí, lùi lại bên ngoài vòng tròn, thì một viên bi pha lê lăn về phía nó. Viên này to hơn viên xạ thủ xanh da trời của Henry, và có những tia sáng đủ màu sắc, lung linh nhảy múa xung quanh. "Ui trời," Henry nín thở. Nó ngây ra như phỗng trong khi viên bi lạ vẫn lăn, cho tới khi chạm vô chân nó. Henry nhăt viên bi lạ lên. Nó nhìn trân trối vô những lằn sáng bên trong viên bi. Nó thấy những mái vòm bằng vàng, những thành phố rực nắng, những bầu trời không một gợn mây, và nhiều, nhiều thứ nữa. Nhưng ngay cả khi đang bị cuốn theo cảnh tượng diễn ra trước mắt, Henry vẫn nhận ra rằng có một sự thay đổi đang xảy ra trong cơ thể mình, và nó biết mình không nên nhìn vô những hình ảnh khó tin và ngoạn mục này nữa. Những bức tường ốp ván gỗ sồi đang toác ra. Ánh trăng giá lạnh mờ dần. Đầu óc Henry quay cuồng và bàn chân nó bắt đầu hổng lên. Xa, rất xa, một co mèo cất tiếng meo meo. Và rồi, thêm một con mèo khác, lại một con nữa. Henry nghĩ đến thằng em bé bỏng của mình. Liệu nó có đủ thời gian để đến bên em trước khi bị cuốn trôi đi hẳn? Và nếu thế... Nếu bé James trông thấy anh mình biến mất ngay trước mắt, liệu bé có hoảng sợ mà đến nỗi bị ác mộng suốt đời không? Henry quyết định chỉ để lại một lời nhắn. Trong khi vẫn còn sức lực, Henry móc mẩu phấn từ trong túi quần ra và bằng tay trái (tay phải nó vẫn kẹp chặt Quả Cầu Xoắn Thời Gian), viết vội lên nền đá, "XIN LỖI JAMES, BI... " Đó là tất cả thời gian mà Henry có. Chỉ một giây sau, nó dừng lại ở năm có sinh nhật thứ 11 của mình mà lao về phía trước, rất nhanh, tới một năm mà hầu hết những người quen của nó khi đó hẳn đã chết hết rồi. oOo Trong căn phòng lạnh giá, nhỏ tí ở lầu trên cùng chái phía tây, bé James đang chở anh mình. Thằng bé lạnh đến nỗi phải tròng thêm áo khoác ra ngoài áo ngủ bằng vải nỉ. Trên bàn ngủ bên cạnh, ngọn nến run rẩy trước cơn gió từ ngoài cửa lùa vô. Anh Henry đang ở đâu? Sao anh ấy lại lâu thế nhỉ? Bé James dụi mắt. Nó mệt lắm, nhưng lạnh quá không tài nào ngủ được. Nó kéo tấm trải giường lên tận cằm và lắng nghe tiếng mưa tuyết rít gióng, đập ình ình vô kính cửa sổ. Và rồi, ngọn nến tắt phụt. Bé James ngồi im thin thít trên giường, kinh khiếp đến mức không dám gọi to lên. Thím Gudrun sẽ nổi cáu, còn ông anh họ Zeke sẽ chế giễu nó là đồ con nít. Chỉ có anh Henry là hiểu nó thôi. "Anh Henry! Anh Henry! Anh đang ở đâu?" Bé James nhắm mắt lại và úp mặt vô gối khóc nức nở. Trước khi cạn hết nước mắt, James chợt ngừng run rẩy. Căn phòng đang ấm dần lên. Nó mở mắt và nhận ra mình có thể nhìn thấy chiếc gối, thấy bàn tay mình và thấy cửa sổ. Một luồng sáng dịu quét khắp trần nhà. James nhìn theo xem luồng sáng xuất phát từ đâu, và nó kinh ngạc thấy có ba con mèo đang lặng lẽ đi quanh giiường. Một con màu cam, một con màu vàng và con thứ ba màu đồng đỏ. Ngay khi biết mình đang bị quan sát, bọn mèo liền nhảy lên giường và dụi đầu vô đôi bàn tay, vô cổ và đôi má tế buốt của thằng bé. Bộ lông của chúng ánh rực lên và ấm áp hệt như ánh nắng mặt trời. James vuốt ve chúng, thấy nỗi sợ hãi cũng bắt đầu tan đi. Nó quyết định đi tìm anh Henry. Có vẻ như ý tưởng này vừa nảy khỏi đầu bé James là lũ mèo liền nhảy ra khỏi giường và chạy ra cửa. Chúng đứng chờ, meo meo lên đầy lo âu, trong khi James mang vớ và xỏ chân vô đôi ủng da. Với những sợi ria và đầu mút từng sợi lông sáng lấp lánh, lũ mào dẫn đường băng qua những hành lanag tối om, những cầu thang hẹp, trong khi bé James co giò chạy theo. Cuối cùng, chúng tới một cầu thanh rộng dẫn xuống tiền sảnh. Tại đây lũ mèo thoáng lưỡng lự trước khi bước xuống căn phòng ngập ánh trăng. Không có anh Henry ở đây. Mấy viên bi nằm chơ vơ dưới sàn đá, loang loáng dưới ánh sáng lạnh lẽo từ các cửa sổ rọi vô. Khi bé James chầm chậm bước xuống cầu thang, đám mèo chạy trước nó, rú rít, tru lên. James xuống hết cầu thang rồi bước tới vòng tròn phấn. Nó thầy những viên bi mà Henry đang chơi trò Thiện Xạ - trò ưa thích nhất của anh nó. "Anh Henry!" James gọi lớn. "Anh Henry, anh đi rồi à?" Chưa bao giờ có một nơi trống trải và rộng mênh mông thế này hiện ra trong đời béo James Yewbeam. Chưa bao giờ anh nó lại vắng mặt lại đột ngột và hoàn toàn như thế này. James không cố gọi thêm nữa. Rõ ràng là anh Henry đã đi rồi. Và anh ấy đi mà không chào tạm biệt. Nước mắt thằng bé chưa kịp tuôi trào thì ba con mèo đã nhảy vô vòng tròn, hướng sự chú ý của James vô bốn chữ được viết dưới sàn. Một lời nhắn? Nhưng phải chi bé James biết đọc. Anh Henry đã cố công dạy nhiều tuần rồi, nhưng cho đến bây giờ James vẫn chưa thể đọc nổi một từ. Có lẽ là do nó chưa cố hết sức. Còn bây giờ, khi tình thế vô cùng nghiêm trọng... "X... x... x...," James lẩm nhẩm trong khi ba con mèo nhảy chồm chồm theo từng mẫu tự. Chữ kế tiếp James nhận ra là "i" rồi "n", xa hơn là tên của bé. Ngay lập tức, James chợt đoán ra những từ anh Henry đã gởi lại cho mình. "XIN LỖI JAMES," bé đọc. "BI... " Lời nhắn kết thúc ở đó. Rõ ràng anh Henry muốn James giữ kỹ giùm những viên bi. Nó nhặt cái túi da lên, nhưng khi nó vừa sắp với tới viên xạ thủ xanh da trời, thì con mèo màu cam liền nhanh nhảu chạm vô viên bi, làm viên bi lăn vọt qua tiền sảnh. Con mèo màu vàng lập tức đuổi theo, trong khi con mèo đồng gạt thêm ba viên bi khác ra khỏi vòng tròn. Bỗng nhiên, tiền sảnh sống động hẳn lên vì những âm thanh va đập lách tách, vì những tiếng rừ rừ thích chí. James được những khối cầu đậm sắc, rừng rực nhảy múa, bao quanh. Bọn mèo đang chơi đùa. James nhìn chúng chơi, một nụ cười rạng rỡ trên gương mặt thằng bé. "Ở lại với ta nhé," James nài nỉ bọn mèo. Và lũ mèo ở laị. Chừng nào mà James còn ở trong tòa nhà lạnh lẽo, đáng sợ này, chúng còn giữ ấm cho James Yewbeam; và chúng sẽ bảo vệ thằng bé được an toàn như bất cứ bất cứ cậu bé con nào cũng đều có quyền được bảo vệ. CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Chương 2 Nội Bone Đóng Sầm Cánh Cửa Mùa đông bóp chặt cả thành phố trong nắm tay sắt của nó. Những rễ cây, thân cây, ống khói và thậm chí cả những thứ di động được cũng bị phủ một lớp tuyết dầy. M Charlie Bone đang khấp khởi hy vọng được nghỉ thêm một ngày Giáng sinh nữa. Học kỳ tiếp theo hẳn sẽ không thể bắt đầu trong thời tiết như thế này. Nhưng nội Bone đã dập tắt ngay niềm hy vọng của nó. "Đừng có mà tránh né bổn phận," bà nói bằng giọng khinh khỉnh thường ngày của mình. "Mưa gió hay bão tuyết thì Học viện Bloor cũng mở cửa. Xe cào tuyết sẽ dọn dẹp mấy phố chính, xe buýt trường sẽ dừng ở đầu đường Fillbert sáng thứ Hai, đúng tám giờ." Môi bà cong lên khi nói đến những chữ cuối cùng, vô tình tạo nên một âm thanh gớm guốc. Charlie là học sinh nội trú theo tuần của học viện Bloor, và cứ mỗi tối chủ nhật nó lại phải sắp xếp đồ đạc cho năm ngày sống xa nhà kế tiếp. Vào ngày chủ nhật hôm nay, Charlie lại quan tâm đến những bông tuyết bám vô cửa sổ phòng nó nhiều hơn đến việc sắp đồ đạc. "Đồ ngủ, bàn chải, kem đánh răng, đồ lót," Charlie lầm bầm một mình, "vớ, áo sơ mi sạch... " nó gãi đầu. Nó phải mặc áo chùng xanh da trời trên đường đến Học viện, nhưng nó rất ghét phải mặc chiếc áo này khi chưa tới trường. Bọn trẻ con trên đường Filbert sẽ trêu chọc nó. Học viện Bloor là một trường học khác thường. Chỉ những đứa trẻ có năng khiếu âm nhạc, kịch và hội họa mới được vô học ở đó. Charlie không có những tài này. Nó là một trong mười hai đứa trẻ có phép thuật, tức là những đứa được vô Học viện vì tài năng độc nhất vô nhị của mình. Trong trường hợp của Charlie thì nó nghĩ, thà không có tài phép đó còn hơn. Nó có thể nghe được âm thanh từ những tấm hình, đặc biệt là tiếng người trong hình. Ngay khi nội Bone và ba cô em ác độc của bà phát hiện ra điều này, họ liền gởi nó vô Học viện Bloor. Dòng họ Bloor gồm những nhà tiên tri, nhà thôi miên, ma sói, phù thuỷ và những loại người còn tệ hơn thế. Họ là hậu duệ của Vua Đỏ huyền bí, một phù thủy quyền năng siêu phàm. Và như mọi đứa trẻ có phép thuật khác, Charlie phải được giám sát và tài phép của nó cần phải được nuôi dưỡng. Chuông cửa reng. Charlie chạy lẹ xuống cầu thang, hăm hở chuồn khỏi công việc sắp xếp hành lý nhạt nhẽo kia. Nó vừa mở cửa thì con Hạt Đậu của Benjamin xồ qua người nó, rũ rũ đám tuyết ướt át khỏi lưng. Cái đuôi xồm xoàm của Hạt Đậu xịt những tia nước khắp hành lang, thẳng giữa lối đi của ngoại Maisie. "Con nên hong khô con chó ở đây thì hơn," ngoại Maisie nói vui vẻ khi lùi trở vô nhà bếp. "Để bà lấy khăn cho nó." Ngoại đã dành hẳn một cái khăn riêng cho Hạt Đậu, vốn là khách quen của ngôi nhà. Con chó vàng to đùng chạy xoắn theo bà ngoại, trong khi Charlie cầm áo khoác của Benjamin và treo lên mắc trong hành lang. "Ngày mai bồ có đi đắp người tuyết không?" Benjamin hỏi Charlie. "Trường mình chắc chắn chưa mở cửa. "Nhưng trường mình thì mở," Charlie rầu rĩ nói. "Đừng buồn nhe, Ben." "Xời!" Mặt Benjamin xệ xuống. Nó là một thằng bé tóc màu rơm, mặt lúc nào cũng lo âu. "Thế bồ không giả bộ bệnh hay gì gì đó được sao?" "Còn lâu mới được," Charlie nói. "Bồ biết bà nội với mấy bà cô của mình rồi mà." Benjamin biết họ quá rõ là đằng khác. Bà cô Eustacia của Charlie đã có lần làm bảo mẫu cho Benjamin. Đó là hai ngày khủng khiếp nhất trong đời nó: đồ ăn gớm guốc, phải đi ngủ sớm, không cho chó ở trên giường. Nhớ lại mà Benjamin rùng cả mình. "Thôi vậy," nó rầu rầu. "Mình sẽ nặn người tuyết một mình vậy." Một cánh cửa bật mở nơi chiếu nghỉ trên đầu chúng. Và một giọng oang oang. "Benjamin Brown đó hả? Ta ngửi thấy mùi chó." "Dạ, con ạ, bà Bone," Benjamin nói mà thở dài. Nội Bone xuất hiện ở trên đầu cầu thang. Lọt trong mớ quần áo đen tuyền, với mớ tóc trắng búi cao trên đầu, trông bà giống như một nữ hoàng độc ác trong chuyện cổ tích hơn là một bà nội. "Ta hy vọng mày không định ở lại quá mười phút," nội Bone bảo. "Charlie phải đi ngủ sớm. Ngày mai nó đi học rồi." "Mẹ bảo con còn được ra ngoài chơi một giờ nữa mà," Charlie la lên. "Hử? Ừ, nếu mà như thế thì việc gì ta lại phải mất công quan tâm đến tiền trợ cấp cho mày nhỉ. Rõ ràng là ta chỉ tốn thời gian vô ích." Nói rồi nội Bone vụt biến vô phòng, đóng cửa đánh sầm. Không biết là do cửa sầm mạnh hay là do một cơn động đất nhẹ, Charlie không biết được, nhưng một bức hình nhỏ bỗng rớt khỏi móc treo ở trong hành lang. Charlie chưa bao giờ xem kỹ những bức hình cũ phai màu treo trang trí dọc hai bức tường trong hành lang tối. Thật ra, kể từ khi khám phá ra tài năng không mời mà đến của mình, nó cố ý tránh nhìn vô những tấm hình. Nó không muốn nghe thấy những gì vị tổ tiên coi bộ nóng tính của nó cần nói. "Chà!" Benjamin thốt lên. "Sao nó lại rớt vậy?" Charlie nhận ra đây là tấm hình mà nó sẽ không thể bỏ qua. Khi nhặt hình lên và lật lại, nó chợt có cảm giác thôn thốn bơi bụng. "Tụi mình coi đi!" Benjamin giục. Charlie chìa tấm hình lồng khung đen ra xem. Đó là một tấm hình màu nâu đỏ, đã phai màu. Mặt kính bị nứt nhưng chưa long ra hẳn. Qua những đường nứt rạn, hai đứa thấy một gia đình năm người đang ở trong vườn. Sau lưng họ, thấp thoáng bức tường thấp màu vàng của một ngôi nhà tranh. Và góc kia của tấm hình, xa khỏi một bức tường đá, một con thuyền buồm đang neo trên mặt biển phẳng lặng như nhung. "Bồ không sao đấy chứ?" Benjamin liếc nhìn Charlie. "Không," Charlie rên rỉ. "Bồ biết tại sao mà. Ối, nghe thấy rồi." Những giọng nói ong ong vo vo bắt đầu ập vô tai nó. Người mẹ nói trước. “Henry, đứng im coi. Con làm hư hình bây giờ”. Cô là một phụ nữ khả ái, mặc váy đăng ten, cổ bẻ cao. Một chiếc trâm cài áo như hình ngôi sao gài ngay dưới cằm. Một cậu bé khoảng bốn tuổi ngồi lên đùi cô, và một bé gái cỡ sáu hay bảy tuổi dựa vô đầu gối cô. Bên cạnh người phụ nữ là một người đàn ông trẻ mặc quân phục. Gương mặt của chú ấy không thể là một người lính nghiêm nghị và dữ dằn như những người lính vẫn thế. Nhưng người khiến Charlie phải dán mắt vô chính là một cậu bé đứng phía trước người lính. “Con không thở được”, cậu bé cằn nhằn. "Hây, Charlie, trông nó giông giống bồ!" Benjamin chỉ một ngón tay bám đầy đất vô cậu bé lớn. "Ừm," Charlie đồng ý. "Cũng cỡ tuổi mình nữa." Xem ra cái cổ áo hồ cứng khiến cho cậu bé tên là Henry khó chịu. Cái cổ áo kẹp quanh cổ nó, bên trên chiếc áo khoác cài chặt nút, gần như cọ hẳn vô. Nó mặc quần chẽn dài tới đầu gối, đi vớ đen dài và ủng đen bóng loáng. “Ui da!” Henry than thở. Mẹ cậu thở dài. “Bảo con đứng im mà cũng không được sao?” “Con nghĩ có một con ruồi trong cổ áo con”, Henry nói. Đến đây thì người lính phá ra cười. Rồi em gái và em trai của Henry cũng bò ra cười ngặt nghẽo. “Thật không?”, bà mẹ nghiêm trang. “Mẹ chắc chắn là ông thợ chụp hình đáng thương của chúng ta chẳng thấy có gì tức cười cả. Ông không phiền chứ, ông Caldicott?” Có tiếng càu nhàu. “Ừm, cảm ơn bà”, và rồi tiếng một cái gì đó đổ kềnh. Charlie không chắc đó là ông phó nháy hay chiếc máy chụp hình. Những người trong tấm hình chao nghiêng, khiến Charlie xây xẩm mặt mày. "Trông bồ tái mét kìa," Benjamin nhận xét. Nó dìu Charlie run rẩy vô nhà bếp, tại đây ngoại Maisie đang lau khô cho con Hạt Đậu bằng một chiếc khăn. "Trời ơi," ngoại Maisie la lên. Chỉ cần liếc sơ một cái là ngoại biết chuyện gì xảy ra. "Con vừa mới nghe thấy cái quỷ quái gì đó đúng không, Charlie?" "Dạ phải," Benjamin trả lời. Một tiếng "xèo" thật lớn khi mẹ Charlie thảy một nắm rau nhìn lạ mắt vô trong chảo. "Lần này là cái gì vậy, con?" Bà hỏi. Charlie đặt tấm hình lên trên bàn bếp. "Nó rớt khỏi tường lúc nội Bone đóng sầm cửa." "Cũng lạ là mấy cánh cửa trong nhà naỳ vẫn còn dính lại được với cái kiểu đóng sầm sập như thế," ngoại Maisie chép miệng, tay nhặt những miếng thủy tinh bể bỏ vô một tờ báo. "Cứ phải chứng kiến bà ấy sập cửa, rồi Ông cậu Paton làm bể bóng đèn, với lại đám rau thối của mẹ con, nhiều khi ngoại nghĩ thà bỏ nhà vô sống trong trại dưỡng lão còn hơn." Mọi người đều bỏ lơ lời phàn nàn này. Nghe thường xuyên quá rồi. Ngoại Maisie chưa đủ già để vô trại dưỡng lão, vả lại, mọi người đã nói với ngoại hàng trăm lần rồi, rằng gia đình không thể sống thiếu ngoại. "Thế mẹ có biết những người trong hình này không?" Charlie chỉ gia đình trong khung hình đen. Không còn những miểng thuỷ tinh bể, người lính và gia đình trông rõ hơn. Mẹ Charlie nhìn với qua vai nó. "Chắc chắn là những người nhà Yewbeam," bà đáp, "Họ hàng nội Bone. Tốt hơn con nên hỏi nội." "Không đời nào," Charlie nói. "Con sẽ hỏi Ông cậu Paton trước khi đi ngủ. Đi nào, Benjamin." Kẹp tấm hình dưới nách, Charlie dẫn Benjamin và Hạt Đậu lên phòng nó. Một giờ chơi trò chơi trên máy vi tính trôi qua cái vèo, sau đó thình lình nội Bone nện cửa phòng Charlie và la toáng lên: "Đuổi con chó ra khỏi giường mau." Làm sao nội đoán được nhỉ? À mà, rất nhiều người nhà Yewbeam có cái khả năng đó. Bọn nhóc lê xuống cầu thang, Hạt Đậu theo sau, rồi Charlie tiễn Benjamin và con chó ra khỏi cửa trước. Nó đứng trong hành lang một hồi, nhìn đăm đăm mảng giấy dán tường hình chữ nhật, nơi treo tấm hình. Cái gì khiến tấm hình rơi ra nhỉ? Có đúng là chỉ vì cánh cửa đóng mạnh quá không? Xem ra trong căn nhà này, có một sức mạnh tác uy đang ngày càng huyền bí. "Có lẽ Ông cậu Paton sẽ biết," Charlie lẩm bẩm. Nó chạy lên lầu. Là em trai của nội Bone nhưng Ông cậu Paton hơn bà những hai mươi tuổi, và rất dí dỏm. Cái khả năng kích bể bóng đèn mỗi khi đứng gần đèn sáng khiến ông suốt ngày phải ở trong phòng va chỉ có thể ra ngoài vào ban đêm. Ông bảo, ban ngày, trong các cửa hàng vẫn có bóng đèn. Ban đêm thì ông sẽ ít bị người ta dòm thấy. Charlie cầm tấm hình từ phòng nó sang gõ cửa phòng Ông cậu, mặc kệ tấm biển XIN ĐỪNG QUẤY RẦY. Cú gõ đầu tiên không có lời đáp. Nhưng đến cú thứ hai thì có tiếng gắt. "Gì đó?" "Có một tấm hình, Ông cậu Paton." "Mày lại nghe được tiếng nói à?" "Chắc vậy." "Thế thì vô đi." Lời này được nói bằng giọng ỉu xìu. Người đàn ông cao lơn, tóc đen dày cui nhìn lên từ chiếc bàn làm việc bên cạnh cửa sổ. Khi ông nhúc nhích, cùi chỏ ông hích đổ một chồng sách rớt xuống sàn. Ông càu nhàu: "Đã chán rồi còn gặp thứ chán hơn." Ông cậu Paton đang viết lịch sử gia đình mình, dòng họ Yewbeam, và ông cần rất nhiều sách để tra cứu. "Thế, tấm hình ấy đâu? Đưa đây coi coi!" Ông cậu Paton bật ngón tay tanh tách, nôn nóng. Charlie đặt tấm hình trước mặt Ông cậu. "Họ là ai vậy?" Ông cậu Paton nheo mắt nhìn gia đình trong tấm hình. Ông chỉ cậu bé ngồi trên đùi người phụ nữ. "À, đây là cha ta." "Còn đây," ông chỉ ngón tay dính mực vô bé gái, "đó là cô Daphne tội nghiệp, đã chết vì bệnh bạch hầu. Người lính là ông nội ta, đại tá Manley Yewbeam - một người vui tính cực kỳ. Lúc ông sắp giải ngũ thì có một cuộc chiến nổ ra. Đây là bà nội ta, bà Grace. Bà là một họa sĩ... một họa sĩ đại tài." "Còn cậu bé kia?" "Đó là... lạy Chúa, Charlie, trông cậu ta giống con quá. Trước đây ta không bao giờ để ý thấy điều đó." "Tóc anh ấy khác tóc con. Nhưng con nghĩ có lẽ anh ấy đã ép nó xuống bằng thứ gì đó." Không thứ gì có thể ép được mái tóc dày, lỉa chỉa của Charlie xuống. "Hừm, Henry đáng thương," Ông cậu Paton lẩm bẩm. "Chú ấy biến mất." "Bằng cách nào?" Charlie kinh ngạc. "Lúc đó họ đang ở trong Học viện Bloor. Henry và James, còn Daphne bị bệnh sắp chết. Đó là một mùa đông giá buốt nhất thế kỷ, cha ta không bao giờ quên được. Một hôm, đang lúc chơi bi, Henry tự nhiên biến mất." Ông cậu Paton xoa xoa cằm. "Người cha tội nghiệp của ta tự nhiên trở thành con một. Ông ngưỡng mộ anh trai mình lắm." "Biến mất?" Charlie lẩm bẩm. "Và bây giờ Henry đang nói chuyện với con." "Cha ta luôn luôn nghi ngờ ông anh họ Ezekiel có dính líu sao đó đến vụ biến mất này. Hắn ghen tị với Henry. Ezekiel là một phù thuỷ, nhưng Henry thông minh một cách tự nhiên hơn." "Đó có phải là Ezekiel mà... " "Phải. Ông nội của giáo sư Bloor. Lão ấy vẫn còn sống, ẩn dật ở đâu đó trong Học viện, bao quanh là một đống đèn khí với ma thuật." "Chao! Vậy ông ấy phải cả trăm tuổi rồi." "Ít nhất cũng trăm tuổi," Ông cậu Paton chồm người ra trước. "Nói cho ta hay nào, Charlie, những tiếng nói mà mày nghe được ấy, có bao giờ chúng nói một việc gì không liên quan trực tiếp gì hết đến thời điểm chụp hình không?" "Ừm, không," Charlie đáp. "Hoặc chưa. Con không thích nhìn họ quá lâu." "Hừ, tiếc thật," Ông cậu Paton nói. "Chắc sẽ thú vị lắm. Này, cầm lấy." Ông trao tấm hình cho Charlie. "Thôi," Charlie nói. "Ông cậu cứ giữ đi." Trông Ông cậu Paton có vẻ thất vọng. "Cha ta sẽ vui lắm nếu biết thêm được gì." "Ông cố vẫn còn sống à?" Charlie ngạc nhiên. Nó chưa bao giờ thấy ông cố mình. Đúng hơn, nó chưa bao giờ nghe nói về ông. "Giờ ông già lắm rồi," Ông cậu Paton bảo. "Hơn 90 tuổi rồi, nhưng vẫn sống ở ngôi nhà tranh bên bờ biển này." Ông vỗ vỗ tấm hình. "Tháng nào ta cũng đến thăm ông. Nếu ta xuất phát nửa đêm thì thường tới nơi vào lúc mặt trời mọc." "Thế còn bà nội và mấy bà cô? Họ là con gái của ông cố mà?" Ông cậu Paton làm một điệu bộ cho thấy có một xì căng-đan trong vụ này. Môi Ông cậu mím lại, đôi lòng mày dài rậm cong vòng lên về phía đường ngôi tóc. "Có một mối bất hòa sâu sắc, Charlie à. Cãi nhau kịch liệt. Cách đây lâu, lâu lắm rồi. Ta không còn nhớ nữa. Với mấy người ấy, cha ta không tồn tại." "Thật kinh khủng!" Nhưng về mặt nào đó, Charlie không hề ngạc nhiên chút nào. Suy cho cùng, đến ba Lyell của nó, là con trai duy nhất của nội Bone, mà bà còn không thèm nhắc tới khi ông biến mất nữa là... Bà chỉ đơn giản hất ba nó ra khỏi tim mình. Charlie chúc Ông cậu ngủ ngon và về giường. Nhưng nó nằm trằn trọc mãi, cố tưởng tượng ra ngày đầu tiên nó trở lại Học viện Bloor, nhưng gương mặt láu lỉnh của Henry cứ lấn cấn mãi trong tâm trí nó. Làm sao mà cậu ấy biến mất được? Và cậu ấy đi đâu? CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Chương 3 Một Cái Cây Đổ Trong đêm, nhiệt độ tụt xuống thấp thêm năm, sáu độ nữa. Vào sáng thứ hai, gió băng mang mưa tuyết tới trút xuống đường Filbert, làm mù mắt bất cứ ai dám liều lĩnh ra đường. T "Con không tin nổi là như thế này mà vẫn phải tới trường," Charlie than van khi chật vật bước đi trong gió. "Cũng phải tin thôi, Charlie, xe buýt tới rồi kìa! Chúc con may mắn!" Mẹ Charlie gởi tới cho nó một nụ hôn gió rồi quay đi, hướng về phía cửa hàng rau quả. Charlie chạy tới đầu đường Filbert, nơi chiếc xe buýt đang chờ để đón những học viên khoa nhạc tới Học viện Bloor. Charlie được xếp vô khoa nhạc chỉ vì ba nó đã từng học ở khoa này. Nhưng anh bạn Fidelio của nó thì khác, Fidelio thực sự sáng chói. Fidelio đã xí chỗ cho Charlie trên xe buýt. Ngay khi trông thấy mớ tóc hoe vàng xõa hờ và gương mặt rạng rỡ của bạn, Charlie liền cảm thấy khá hơn. "Học kỳ này sẽ chán ngấy cho coi," Fidelio thở dài. "Sau những chuyện sôi động vừa qua." "Em nghĩ chả có gì chán cả," Charlie nói. "Chắc chắn em sẽ không vô khu đổ nát nữa đâu." Chiếc xe buýt đỗ lại ở một góc quảng trường rải sỏi, có vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá ở giữa. Khi xuống xe buýt, bọn trẻ nhận thấy mỏ đàn thiên nga lủng lẳng những cục nước đá, và cánh chúng viền toàn sương giá. Hóa ra chúng đang bơi trên mặt hồ đóng băng. "Nhìn kìa," Charlie phấn khích la lên khi đi ngang qua vòi phun nước. "Phòng ngủ chung sẽ giống như tủ lạnh," Fidelio nghiêm nghị. Charlie tiếc là nó đã không mang theo bình nước nóng. Thêm một xe buýt khác tấp vô quảng trường. Chiếc này sơn màu tím, và một đám trẻ con mặc áo chùng tím ùa xuống tràn ngập các bậc thang. "Tới rồi kìa!" Fidelio kêu lên khi một nữ sinh nhuộm tóc màu chàm gần như bay về phía chúng. "Chào, Olivia!" Charlie reo mừng. Olivia Vertigo túm chặt cánh tay Charlie: "Charlie, rất vui là thấy đằng ấy còn sống. Cả anh nữa, Fido!" "Ừ, còn sống thì mừng rồi," Fidelio đáp. "Nhưng sao lại gọi tôi là Fido 1?" "Em quyết định đổi tên anh," Olivia tỉnh bơ. "Phát âm Fidelio lưỡi phải uốn đầy cả miệng, còn Fido nghe ngầu hơn. Anh không thích à?" "Đó là tên một con chó," Fidelio nói. "Nhưng thôi, để anh nghĩ kỹ lại chuyện này." Bọn trẻ áo chùng xanh lá cây giờ cũng đã nhập vô đám đông. Lũ học trò khoa hội họa không ồn ào như tụi bên khoa kịch, cũng không kiêu kỳ như bọn khoa nhạc. Thế nhưng, nhìn những chiếc áo chùng xanh lá cây của chúng bay tốc lên, để lộ khăn quàng gắn khoen xê-quin tròn lấp lánh, hoặc những đường chỉ vàng óng trên nền áo len đen, người ta dễ có cảm tưởng rằng đám trẻ trông im im này có khi còn vi phạm nội quy tợn hơn, nghiêm trọng hơn bọn mặc áo chùng tím hoặc xanh da trời. Những bức tường cám cao ngất của Học viện Bloor giờ đã sừng sững trước mặt. Hai bên cổng vòm đi vô có hai tòa tháp nhọn và, khi Charlie bước lên những bậc thang dẫn tới cổng, chợt nó thấy mình cứ dán mắt vô cửa sỗ trên cùng của một tòa tháp. Mẹ nó từng bảo bà cũng cảm thấy có ai đó đang nhìn mình từ cửa sổ ấy, và giờ Charlie cũng có cảm giác tương tự. Nó hơi rùng mình, bèn vội vã đuổi cho kịp tụi bạn - tụi này đã băng qua khoảng sân lát gạch và giờ đang lên một dãy cầu thang rộng khác. Ở trên đầu cầu thang, hai cánh cửa nặng trĩu được trang trí bằng những tượng đồng đang để mở, đón đàn trẻ đông đúc. Bụng Charlie bỗng quặn lên khi nó đi ngang qua cửa. Nó có nhiều kẻ thù trong Học viện Bloor nhưng nó không biết tại sao lại thế. Tại sao họ lại muốn trừ khử nó? Thường xuyên muốn trừ khử nó. Một cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau dẫn tới khoa nhạc. Olivia vẫy tay rồi biến mất qua một cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ, trong khi bọn trẻ áo chùng xanh lá cây thẳng tiến đến cuối hành lang, nơi có một cây viết chì với một cây cọ vẽ cho biết đây là khoa hội họa. Charlie và Fidelio vô phòng để áo khoác xanh da trời trước, sau đó đi vô hội trường. Vì là một trong những đứa nhỏ nhất nên Charlie phải đứng ở hàng đầu, bên cạnh những thằng bé nhỏ nhất trong tất cả đám học viên - thằng bé bạch tạch Billy Raven. Charlie hỏi Billy ăn Giáng sinh có vui không, nhưng Billy ngó lơ. Billy là trẻ mồ côi, và Charlie hy vọng thằng bé không phải nghỉ lễ một mình trong Học viện Bloor. Theo như Charlie nghĩ, thì Billy có một số mệnh còn tệ hơn cả cái chết. Nó nhận thấy Billy mang một đôi ủng phủ lông. Một món quà Giáng sinh, không nghi ngờ gì nữa. Mọi người đang hát đến nửa bài hợp xướng đầu tiên, thì một tiếng thét vang lên từ trên sâu khấu. "Dừng lại!" Dàn nhạc giao hưởng ngừng chơi. Tiếng hát cũng dứt liền. Giáo sư Saltweather, trưởng khoa nhạc, bước ra sân khấy, khoanh tay trước ngực. Ông là một người lực lưỡng, thật nhiều tóc trắng, quăn tít. Hàng giáo viên khoa nhạc đứng đằng sau ông lộ vẻ lo lắng. Giáo sư Saltweather sắp sửa la họ cũng như la bọn trẻ. "Các người gọi đó là hát hả?" Giáo sư Saltweather gào lên. "Đó là những tiếng rên khủng khiếp. Những tiếng rú kinh tởm. Các người là những nhạc công cơ mà, ôi trời ơi. Làm ơn hát cho có hồn, có điệu một tí! Nào... lại từ đầu nào!" Ông gật đầu ra hiệu ra dàn nhạc giao hưởng ở góc sân khấu và giơ cây ba-toong lên. Charlie hắng giọng. Ngay cả những lúc thuận lợi nhất nó còn không hát được, nữa là hôm nay hội trường lạnh đến nỗi nó không sao giữ cho quai hàm đừng run. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến những đứa trẻ khác, ngay cả những đứa hát hay nhất cũng đang co ro và run bần bật dưới lớp áo chùng xanh da trời. Mọi người hát lại từ đầu, và lần này, giáo sư Saltweather không có gì để phàn nàn cả. Những bức tường ốp gỗ rung lên vì tiếng đàn hát. Các giáo viên cũng cố gắng hết sức. Thầy O’Connor vui tính ngả cả đầu ra sau mà hát say sưa, cô Crystal, cô Dance mỉm cười, lắc lư thân mình, trong khi thầy Paltry già nhíu cả mày lại để tập trung. Tuy nhiên, thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, lại không hề há miệng. Charlie nhận ra thầy Pilgrim không hề đứng lên. Thầy ở sát bên cô Dance, dáng nhỏ nhắn, và thầy vốn cao nên người ta khó nhận ra là thầy vẫn còn đang ngồi. Có gì xảy ra với thầy vậy? Thầy không bao giờ nhìn vô mắt ai, không bao giờ nói chuyện, không bao giờ đi loanh quanh như những giáo viên khác. Xem ra thầy hoàn toàn không nhận thức được về những gì xung quanh mình. Gương mặt xanh xao của thầy không bao giờ biểu lộ một nét cảm xúc nào, dù thật nhỏ. Cho đến nay là thế. Nhưng lúc này, thầy Pilgrim đang nhìn chăm chăm vô Charlie, và Charlie có cảm giác lạ lùng rằng hình như ông thầy này biết nó, không phải như một học sinh, mà như một ai đó. Cứ như người đàn ông lặng lẽ, tăm tối này đang cố nhớ ra nó. Thình lình, một tiếng "rắc" ghê hồn phát ra từ phía cửa sổ. Lớn đến nỗi mọi người đều nghe rõ, át cả tiếng của dàn đồng ca sôi động. Thậm chí giáo sư Saltweather cũng ngừng chỉ huy dàn nhạc. Một tiếng "rắc" nữa xuyên thủng lớp băng tuyết bên ngoài, và rồi một tiếng "rầm" kinh khủng làm rung chuyển cả những bức tường và cửa sổ. Giáo sư Saltweather buông cây gậy xuống và chạy ào ra cửa sổ. Vài đứa trẻ nhào theo, ông cũng không buồn đuổi chúng. "Quái lạ!" Giáo sư Saltweather thét lên, "Coi cây tuyết tùng già kìa!" Cái cây khổng lồ nằm vắt ngang khu vườn, cành lá gãy văng, bộ rễ tua tủa bị tróc khỏi mặt đất. Thêm một tiếng "ầm" nữa khi cái cành dài đỡ chóp cây đổ sụp xuống, và với một tiếng rú thảm thiết, cả thân cây chìm ngập vô trong tuyết. Đã có biết bao trò chơi từng diễn ra dưới gốc cây này; biết bao lời thì thầm bí mật đã được những tán lá rậm rạp, râm mát của nó giữ kín. Đó là cái cây yêu thích nhất của tất cả bọn trẻ, giờ thì nó đã đổ rồi, và chỗ nó đứng chỉ còn là một cái hố tuyết rộng với quang cảnh lam nham của những thành lũy lâu đài bỏ hoang. Tuyết đã phủ những gờ cao và bám vô bề mặt lởm chởm của những bức tường, nhưng cái màu đỏ như máu của những viên đá lớn vẫn nổi rõ mồn một trong khung cảnh trắng xóa. Khi Charlie nhìn trân trân vô những bức tuờng lâu đài, bỗng có cái gì đó xảy ra. Đó có thể là do ảo giác vì ánh sáng, nhưng nó chắc chắn còn có một cây tuyết tùng khác, nhỏ hơn cây này, đang hiện ra ở cánh đồng hình vòm của tòa lâu đài. Lá nó đỏ và vàng, trong khi cái cây đổ kia thì không còn chiếc lá nào mang màu sắc mùa thu nữa. "Anh có thấy cái cây kia không?" Charlie thì thào với Fidelio. "Cái gì?" "Một cái cây đung đưa," Charlie nói. "Nhìn kìa, bây giờ nó đang đứng bên bức tường tòa lâu đài. Anh không thấy à?" Fidelio nhíu mày và lắc đầu. Charlie cố chớp mắt để xua cái cây đi. Nhưng khi nó nhìn lại thì cây vẫn ở đó. Không ai khác ngoài nó trông thấy cái cây. Charlie lại có cảm giác quặn lên quen thuộc ở bụng. Cảm giác này luôn xảy ra khi nó nghe thấy tiếng nói trong hình, nhưng lần này không có tiếng nói nào cả. Một tiếng "rầm" từ trên sâu khấu khiến Charlie ngoái nhìn lại. Thầy Pilgrim vừa mới đột ngột đứng lên, hất chiếc ghế đổ chỏng gọng. Thầy dòm lướt qua đầu bọn trẻ, nhìn ra vườn, bên ngoài cửa sổ. Rất có thể thầy đang nhìn cây tuyết tùng đổ, nhưng Charlie chắc chắn là thầy đang nhìn ra xa, tới những bức tường đỏ của tòa lâu đài. Phải chăng thầy cũng trông thấy cái cây lạ đang đung đưa? Giáo sư Saltweather rời khỏi cửa sổ. "Bài tiếp theo, bay" ông vừa hô to vừa bước phăm phăm trở lại sân khấu. "Với cái đà này bọn bay sẽ không bao giờ lên lớp được." Sau giờ tập họp, Charlie tới lớp học của thầy Paltry Kèn Sáo đứng tuổi và nóng nảy. Thầy than là dạy Charlie Bone chơi nhạc cũng chẳng khác gì đổ cho đầy một cái thùng lủng đáy. Ông thầy già cứ thở dài sườn sượt, hết lau kính lại vụt cây gậy đen đét lên giá nhạc, trong khi Charlie đứng sát ngay trong tầm gậy. Charlie cho rằng, nếu thầy Paltry mà cứ tấn công nó theo cái kiểu này, thì cuối cùng nó sẽ mất sạch răng - và có thế nó mới được giải thoát khỏi những giờ học nhạc khủng khiếp. "Đi, Bone, đi đi!" Thầy Paltry gầm gừ sau bốn mươi phút tra tấn lẫn nhau. Charlie sung sướng vô ngần. Tiếp theo là mang ủng vô và bươn ra ngoài vườn tuyết lạnh. Trong giá lạnh căm căm, bọn trẻ được phép mặc áo chùng ở ngoài trời; vào mùa hè, áo chùng phải để lại trong phòng để áo khoác. Fidelio ra khỏi lớp học vĩ cầm hơi trễ, cho nên khi hai đứa chạy ra ngoài vườn thì tuyết đã bị ba trăm đứa khác giày xéo rồi. Những thằng người tuyết đang được dựng lên, những trận chiến ném tuyết đang hồi gay cần, và ông Weedon, người làm vườn, đang vất vả xua đuổi lũ trẻ tránh xa gốc cây ra. "Em muốn xem cái gì ở cạnh lâu đài," Charlie nói với Fidelio. "Em bảo là em không muốn đến gần khu đổ nát nữa mà," Fidelio nhắc nhỏ. "Ừ, nhưng mà... như em nói đó, em thấy một thứ. Em muốn xem có dấu chân gì không." "Thôi được," Fidelio nhún vai một cách hiền lành. Khi chúng chạy ngang qua cây tuyết tùng gãy, Billy Raven gọi to: "Hai anh đi đâu vậy?" Gần như không suy nghĩ, Charlie vọt mồm: "Không phải việc của em." Thằng bé bạch tạng liền sầm mặt lại, và nép mình vô đám cành lá tuyết tùng rậm rạp. Đôi mắt màu đỏ như đá rubi của nó lóa lên đằng sau cặp kính. "Sao em lại nói như thế?" Fidelio hỏi khi chúng vẫn đang chạy. "Em không nhịn được," Charlie bảo. "Billy Raven có cái gì đó kỳ cục lắm. Em không tin nó nữa." Chúng đã tới cổng khu đổ nát. Tuyết bên dưới những mái cổng vòm sạch bong và mướt mát. Không ai ra vô khu này. Charlie nhăn mặt. "Lúc nãy em còn trông thấy nó mà," nó lầm bầm. "Tụi mình vô đi," Fidelio nói. Charlie lưỡng lự. "Ban ngày trông không có vẻ gì ghê gớm nhỉ," Fidelio hé mắt nhìn qua cổng vòm. Nó băng vô và Charlie theo sau. Chúng bước thập thò qua một khoảng sân và chui vô một trong năm con hẻm dẫn sâu hơn vô khu đổ nát. Sau vài phút lần mò trong bóng tối, chúng đến được một khoảng sân khác. Ở đó, chúng thấy vết máu. Hoặc cái gì đó giống máu: những vệt đỏ sâu, loang trong tuyết, bên cạnh một đụn lá vàng lá đỏ. "Quái thú!" Charlie thét lên. "Ra thôi!" Phải đợi đến khi đứng an toàn bên ngoài bức tường rồi thì Fidelio mới hoàn hồn nói: "Hình như không phải là con thú đâu." "Có máu mà," Charlie nói. "Có một con thú. Nó đã giết chết hoặc làm bị thương một con gì đó." "Nhưng đâu có dấu vết gì khác đâu, Charlie. Chẳng có dấu hiệu vật lộn, hay dấu chân... hay... " Charlie không chờ nghe hết những lý lẽ nghi ngờ của Fidelio. Nó chạy khỏi khu bỏ hoang, trong lòng như sống lại các đêm dài hôm nào, nó bị một con thú mắt vàng đuổi theo qua những ngõ ngách vô tận và những căn phòng lạnh lẽo, dội âm. Khi chạy được tới chỗ cây tuyết tùng gãy, nó đứng lại chờ cho Fidelio bắt kịp. "Tránh ra!" Một giọng khàn đục vang lên đằng sau. Đang sẵn run lẩy bẩy, Charlie giật thót mình và quay lại. Gương mặt đỏ gay của ông Weedon hiện ra giữa đám cành cây rối rắm; ông đội chiếc mũ bảo hiểm đen bóng, và Charlie trông thấy một lưỡi cưa nằm chặt trong đai bao tay màu đen của người đàn ông vạm vỡ này. "Cái cây này rất nguy hiểm," ông Weedon la lên. "Ta đã bảo bọn nhóc là không được chơi gần nó mà." "Cháu có chơi đâu," Charlie cãi. Fidelio đã bắt kịp và nó thấy tự tin hơn. "Ồ, không hả, Charlie Bone? Mày không bao giờ chơi chứ gì? Mày là một thằng bé nghiêm túc chứ gì?" "Ông biết gì về cháu mà nói nào," Charlie nổi cáu. "Ông không thể... " Một tiếng nổ lớn, tiếp sau là tiếng cưa xè xè, ông Weedon vén đường qua cái cây rậm rạp, tiến đến chỗ Charlie. Cành cây văng tung tóe khi lưỡi cưa nghiến vô gỗ và cành lá. "Đi nào!" Fidelio kéo áo chùng của Charlie. "Tụi mình ra khỏi đây đi." "Ông đó thật nguy hiểm," Charlie lẩm bẩm khi chúng chạy khỏi đám cây. "Làm sao ông ấy lại biết em?" "Tại em nổi tiếng quá mà," Fidelio nói, thở gấp gáp. Giờ chúng đã đủ xa khỏi ông Weedon nên có thể dừng lại nghỉ. "Chuyện bị lạc trong khu bỏ hoang học kỳ rồi là hẳn một sự kiện đấy chớ. Tất cả mọi người đều phải biết em là ai." Charlie ước sao cho mọi việc không phải như thế. Một hồi còi đi săn rúc lên, báo hiệu đã hết giờ giải lao. Nhiệt độ vẫn tụt xuống vùn vụt. Sau bữa tối, những đứa trẻ có phép thuật, như thường lệ lại tới phòng Nhà Vua để làm bài tập về nhà. Chính tại đây đã nổ ra cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai anh bạn lớn của Charlie: Tancred torsson và Lysander Sage. Lysander là người nhạy cảm với cái lạnh nhất. Nhưng vốn là người hay bông lơn, nên nếu có ca cẩm thì cũng theo kiểu thân thiện, đúng hơn là tếu táo. Nó nói nguyên văn như thế này với Tancred: "Tanc, mày đã làm gì với thời tiết vậy?" "Cả ông mà cũng không biết à!" Tancred nhảy dựng lên và dậm chân, "Tôi tưởng trong cả đám thì ông phải là người biết rõ hơn chứ?" Lysander chưa kịp đáp lời, thì Manfred Bloor lên tiếng. "Thôi đi, Tancred! Thương thằng bạn của chúng ta một chút coi. Mày đang làm nó chết cóng đó." "Tôi có làm đâu!" Tancred giãy nãy, vò xé mái tóc nhiễm điện của mình. "Nó giỡn thôi mà, Tanc," Lysander mỉm cưởi, nói. Đến lúc này thì một vài đứa trẻ bắt đầu cảm thấy bất an. Charlie đặc biệt lo âu. Lysander và Tancred đã cứu nó ra khỏi khu bỏ hoang. Họ đã cùng nhau hợp lực chống lại những thế lực hắc ám đang rình rập trong Học viện Bloor. Nhìn hai người cãi nhau, nó không chịu nổi. "Bây giờ ông về phe nó rồi à?" Tancred hỏi, trừng mắt nhìn đồng minh cũ của mình. "Tất cả mọi người đề về phe anh," Manfred cười khẩy. Lysander im lặng lắc đầu, nhưng rủi thay, Zelda Dobinski chọn ngay lúc ấy để trình diễn tài năng di chuyển đồ vật quái dị của nó. Con nhỏ dòm lom lom vô một cuốn sách khổng lồ ở trên kệ đằng sau Tancred. Cuốn sách phóng qua căn phòng và đâm trúng vô lưng Tancred, ngay khi nó lao ra cửa. "Úi!" Tancred rú lên. Sáu đứa trẻ bò ra cười, trong khi năm đứa còn lại lộ vẻ khiếp hãi. Tancred không nhìn thấy những gương mặt thông cảm. Nó chỉ kịp nhìn thấy những đứa cười giễu cợt. Gió bỗng giật rùng rùng khắp căn phòng khi cậu bé đang nổi cơn sấm sét này vù ra cửa, để lại những tiếng dộng thình thình vô tường. Charlie không kìm nổi. "Chờ đã!" Nó hét lên, lao theo Tancred. "Mày đi đâu vậy, Bone?" Manfred hỏi. "Em để quên cây viết ở phòng để áo khoác," nó nói dối. Một thằng tóc đỏ, gầy đét ngóc đầu nhìn lên trêu nó: "Luôn luôn quên đồ, há Bone?" "Không phải luôn luôn, Asa!" Charlie sợ Asa Pike. Nó là tay sai của Manfred và có biệt tài kinh khủng là thay đổi hình dạng. "Đóng cửa lại," Asa nói khi Charlie bước ra. Charlie đóng cửa. Hành lang bên ngoài vắng tanh. Charlie quyết định ra tiền sảnh. Lúc xuống tớt cầu thanh rộng, một luồng gió buốt thốn suýt nữa hất nó ngã chổng kềnh. Nó đi vô tiền sảnh nền đá, chợt đứng sững, bất động. Có cái gì đó đang diễn ra trước mắt nó. Nó đang nhìn vô những thứ mà đúng ra không được có ở đó. Một đám bụi lấp lánh đang trôi cuồn cuộn vô chính giữa căn phòng dài. Hay là một cơn bão chăng? Tù từ, từ từ, những hạt nhợt nhạt ấy rõ dần lên. Giờ thì chúng đã hợp thành một hình hài lờ mờ, xanh da trời với một dãi đen bên dưới. Trước con mắt sửng sốt của Charlie, một bóng người mặc áo chùng xanh da trời đột mũ trùm hiện ra. Charlie không nghi ngờ gì nữa là nó đang nhìn thấy một con ma. Nhưng khi hình dáng kia quay mặt về phía nó, thì nó kinh hãi thấy rằng nó đang nhìn vô... chính nó. -------------------------------- 1 Tên một chú chó ngôi sao của Hollywood - nổi tiếng với những pha quảng cáo bạc triệu. CHARLIE BONE VÀ QUẢ CẦU XOẮN THỜI GIAN Jenny Nimmo www.dtv-ebook.com Chương 4 Henry Ẩn Náu Chính Charlie kia lên tiếng trước. C "Giỡn kiểu gì ấy! Cậu bé kia lẩm bẩm. "Mình chẳng đi xa được hơn chút nào cả." Cậu ta có giọng nói hết sức bình thường, Charlie thấy thế. Đây không phải là con ma. Nhưng nếu không phải là ma thì là cái gì? Tằng hắng cho thông cổ, nó nói: "Anh từ đâu tới? Chính xác là... " "Từ đây," cậu bé trả lời. "Lúc nãy tôi ở ngay chỗ này, nhưng... " Cậu giơ tay lên che mắt và nhìn trân trối vô dãy đèn điện thắp sáng tiền sảnh. "... không giống như thế này. Làm cách nào mà nó sáng vậy?" "Điện đấy," Charlie nói. Nó bắt đầu nhận ra cậu bé. "Anh là...?" Nó lựa lời. "Ý tôi là... ờ... thế này... Tôi trông thấy anh trong một tấm hình. Phải anh là Henry Yewbeam không?" "Chính là tôi," Henry nó, rạng rỡ hẳn lên. "Tôi nghĩ tôi cũng trông thấy cậu. Ở đâu đó... Cậu là ai?" "Tôi là... à... kiểu như anh em họ của anh vậy. Em là Charlie Bone." "Ôi! Thật là hay. Một người em họ. Hay. Hay." Henry tiến lại và bắt tay Charlie. "Rất vui được gặp em, Charlie Bone." "Việc này không hay đến thế đâu," Charlie nói. "Ngày mà anh... Ngay bây giờ là ngày nào nào?" "Ngày 12 tháng Giêng năm 1916," Henry nói. "Tôi luôn nhớ ngày tháng." "Em sợ bây giờ không còn là ngày tháng đó nữa." "Không phải à?" Nụ cười của Henry chợt lụi tàn. "Thế..?" "Anh đang ở tương lai, gần chín mươi năm sau thời của anh," Charlie nói. Miệng Henry há hốc, nhưng không thốt ra được lời nào. Thay vô đó là một âm thanh sắc gọn, vang lên khi một vật gì đó tuột khỏi tay cậu và rơi xuống đất. Charlie thấy một viên bi pha lê lớn lăn qua tiền sảnh. "Chao!" Charlie trầm trồ, nhưng nó vừa tính nhặt viên bi lên thì Henry thét thất thanh: "Cẩn thận, Charlie. Đừng nhìn vô nó." "Tại sao?" "Nó là thứ đã mang tôi tới đây." Charlie lùi lại khỏi viên bi lóng lánh. "Ý là nó mang anh đi xuyên thời gian?" Henry gật đầu. "Nó là Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Mẹ tôi đã có lần kể cho tôi nghe. Nhưng tôi chưa bao giờ trông thấy, cho đến bây giờ... Đáng lý tôi phải đoán ra nó là cái gì. Tôi biết Zeke luôn tìm cách trừng phạt tôi." "Zeke?" "Anh họ tôi, Ezekiel Bloor." Henry bất giác toét miệng cười. "Tôi nghĩ, chắc bây giờ anh ta chết rồi." Nhưng chợt, một nét u buồn và nghiêm trang hiện ra trên mặt cậu. "Nhưng chắc họ cũng qua đời cả rồi: cha, mẹ, cả em trai James của tôi nữa. Không còn ai cả." "Thì còn em," Charlie nói. "Em nghĩ em trai của anh là... " Đúng lúc đó, một tiếng tru đầu hăm dọa cất lên từ cầu thang phía trên đầu chúng. Hai cậu bé cùng ngước lên, thấy một con chó xấu xí, ú nu, lùn tịt đang đứng trên đầu cầu thang. Nó tru thêm một tiếng nữa, ngỏng cái mũi dài về phía mài nhà, trong khi đống da gần như trụi hết lông lúc lắc dưới đụn cằm của nó. "Con gì mà xấu chưa từng thấy," Henry thì thầm. "Nó là May Phúc, con chó của bà bếp trường đấy." Charlie không đợi cho con chó tru lên thêm nữa. "Nhanh lên," nó chộp lấy cánh tay Henry. "Anh phải trốn đi. Chỗ này hiện thời không tốt cho anh đâu. Có những người ở đây... họ có thể làm những chuyện xấu xa nếu họ nhận ra anh là ai." "Tại sao vậy?" Mắt Henry tròn xoe. "Em chỉ cảm thấy thế thôi," Charlie nói. "Đi thôi," nó lôi Henry về phía cánh cửa dẫn vô chái phía tây. "Tụi mình đi đâu vậy?" Henry hỏi, nhặt vội Quả cầu Xoắn thời Gian lên và đút vô túi áo. Trong thoáng chốc, Charlie không hiểu vì sao nó lại kéo Henry vô chái phía tây. Nó xoay cái vòng đồng nặng nề ở trên cánh cửa và đẩy người bạn mới vô hành lang tối mò. "Tôi biết chỗ này," Henry thì thào. "Không bao giờ thích nó cả." "Em cũng không thích," Charlie nói. "Nhưng chúng ta phải đi lối này để kiếm chỗ an toàn." Nó đóng cửa lại sau lưng khi con May Phúc tru lên một hồi nữa. Hai cậu bé mò mẫm đi dọc theo hành lang cho đến khi chúng tới một căn phòng trống hình tròn. Bóng đèn từ trần nhà hiu hắt soi một cánh cửa gỗ kiểu cổ. Đối diện cánh cửa là một dãy cầu thang đá. "Lên tháp à?" Henry nhìn những bậc thang và nhăn mặt. Đến lúc nào Charlie mới nhận ra lý do nó mang Henry đến chỗ này. "Anh sẽ an toàn ở trên tầng trên cùng," nó bảo. "An toàn?" Henry có vẻ hồ nghi. "Tin em đi mà," Charlie trấn an. Khi Henry bắt đầu đi lên các bậc thang, Charlie để ý cái quần vải tuýt lạ lùng của cậu bé. Nó chỉ ngắn tới gối, có khuy cài ở gấu để giữ cho ống quần trùm ra ngoài đôi vớ rộng màu tím. Đôi ủng của Henry trông y như ủng con gái: đen, bóng lộn, và cột dây thẳng thớm phía trên mắt cá. "Tốt nhất là tụi mình phải kiếm quần áo mới cho anh thôi." Charlie thì thầm khi chúng tới căn phòng hình tròn thứ hai. Có một cánh cửa thông ra chái phía tây, nhưng Charlie giục Henry leo lên dãy cầu thang kế tiếp. "Gia đình Bloor sống ở đó đó," nó bảo. "Hay nhỉ," Henry nói. "Một số thứ vẫn không thay đổi." Chúng tiếp tục leo lên, còn xa mới tới tầng trên cùng của tháp, nhưng đã nghe thấy tiếng đàn piano vẳng xuống, âm vang khắp cái cầu thang hẹp. Henry dừng lại. "Có người ở trên đó." "Thầy giáo dạy dương cầm, thầy Pilgrim," Charlie bảo. "Chẳng có ai lên đây ngoài thầy. Mà hình như thầy Pilgrim cũng không quan tâm đến chuyện gì đâu. Không lo thầy đâu. Em đảm bảo!" Thêm hai lượt cầu thang nữa thì chúng tới căn phòng nhỏ ở trên cùng: những tập nhạc nằm rải rác trên sàn nhà, những kệ sách cao đụng trần ken đặc những quyển an-bum bọc da và vô số bản nhạc quăn góc. "Ở đây thì ấm đấy," Charlie nói, rút vài chồng ra khỏi kệ. "Anh coi, nếu mình trải giấy xuống sản như vầy." Nó trải vài bản nhạc ra giữa kệ sách và những chồng nhạc xếp cao như một bức tường. "Vậy là thành một chiếc giường. Anh có thể núp ở đây tới sáng." "Sau đó thì sao?" Henry hỏi. "Á... " Charlie gãi gãi đầu. "Sau đó em sẽ tìm cách lấy cho anh một ít đồ ăn sáng, và cả quần áo mới nữa." "Quần áo của tôi có gì không được à?" Henry nhíu mày lo lắng. "Chúng chỉ trông khác quá thôi. Bây giờ người ta không mặc đồ như thế nữa." Henry liếc cái quần xám dài và đôi giày đế bự của mình Charlie. "Ôi không. Để coi đã," cậu rên rẩm. "Em phải quay về lớp đây," Charlie nói. "Huynh trưởng Manfred Bloor sẽ truy lùng em. Em không muốn đối đầu với anh ấy. Anh ấy biết thôi miên." "Trời! Lại một đứa biết thôi miên!" Henry đã từng nghe kể về những nhà thôi miên trong dòng họ mình. "Em cũng là một người có phép thuật như họ à?" Cậu hỏi Charlie. "Chắc vậy," Charlie đáp. "Chính vì thế nên em mới biết anh." "Thế ông ấy thì sao?" Henry chỉ cánh cửa sau lưng, nơi tiếng nhạc du dương vọng ra. "Thầy không làm gì anh đâu," Charlie nói chắc chắn. "Tạm biệt." Nó vẫy tay và đi ra khỏi căn phòng nhỏ, cảm giác mình có lỗi mà không sao giải thích được. ° ° ° Trong phòng Nhà Vua, thằng bé có gương mặt dài, rầu rĩ Gabriel Silk cứ nhấp nhỏm liếc nhìn chỗ ngồi bỏ trống của Charlie. Nó thấy lo cho Charlie. Đáng lý ra nó nên chạy theo Tancred, chứ không nên để Charlie đi. Charlie nhỏ hơn và hình như cứ chực chuốc lấy những rắc rối - nó thuộc týp nhóc con gặp toàn những việc không may. Thình lình, có tiếng tru vang lên. Mới đầu tất cả bọn chúng đều cố phớt lờ, nhưng cuối cùng, Manfred buông viết xuống và nghiến răng bảo: "Con chó gớm ghiếc! Billy, đi khóa mõm nó lại ngay." "Để tôi đi," Gabriel xung phong. "Anh bảo Billy." Manfred thảy cho Gabriel một cái nhìn kinh khủng nhất, đoạn chĩa thẳng mắt qua Billy. "Đi mau," hắn gằn giọng, "mày biết nói chuyện với cái đồ ghẻ lở đó. Hỏi xem có phải nó đau bụng không?" "Vâng, thưa anh Manfred." Billy lật đật ra cửa. Khi chạy xuống những bậc thang lạnh toát và hành lang tối mù, Billy phải tự độc thoại. Nó rất ghét những khi tất cả mọi người ai nấy nhốt mình trong phòng làm bài tập. Nó sợ gặp ma. Nó biết là có ma quỷ, cứ lượn lờ trong bóng tối. Đến chỗ chiếu nghỉ rộng, nơi cầu thang lớn dẫn xuống tiền sảnh, nó thấy con May Phúc đang ngồi chầu hẫu trên cầu thang, vẫn không ngớt rú lên. Billy đến ngồi bên cạnh con chó và đặt một tay lên cái lưng núc ních: "Chuyện gì vậy, May Phúc?" Lời nói phát ra thành những tiếng ậm ừ, ư ử, khò khè. Đó là một thứ ngôn ngữ mà May Phúc có thể hiểu được. """