"
Charlie Bone và Cái Bóng Xứ Badlock - Jenny Nimmo full prc epub azw3 [Huyền Ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Charlie Bone và Cái Bóng Xứ Badlock - Jenny Nimmo full prc epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
Chương1
Chương2
Chương3
Chương4
Chương5
Chương6
Chương7
Chương8
Chương9
Chương10
Chương11
Chương12
Chương13
Chương14
Chương15
Chương16
Chương17
Chương18
Chương19
Chương20
Chương21
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 1
Gió ở xứ Badlock là thứ gió quái độc nhất trên đời - chúng từ khắp mọi hướng thốc tới, hú hét, dội ình ình vào tấm lưng rộng của người khổng lồ, dứt tóc, quất vào mắt ngài khiến ngài không sao mở mắt nổi. Cứ mỗi bước chân nhấc lên là những cơn gió lại quét vòng quanh, bó thít đôi cẳng dài của ngài, tới chừng quật ngài ngã khụy.
Phía sau người khổng lồ, một đồng bằng bao la với đầy bụi rậm bị gió san phẳng và đất đá không ngừng bị gió xới tung. Ngài và đứa trẻ đi cùng đã phải mất một ngày một đêm mới đi hết vùng đất không mến khách này. Họ đi từ những rặng núi quanh năm tuyết phủ, viền quây đồng bằng như một bức tường thành bền vững.
Người khổng lồ kéo chặt chiếc áo thùng cho kín thằng bé ngài đang ôm trong tay. Họ đang đi mải miết, nhắm hướng một lòng chảo nhỏ, nơi ấy có thể thấy cây cối làm chỗ trú ẩn và mặt nước ánh lên loang loáng.
"Tha lỗi cho ta, Roland" người khổng lồ rên rỉ. "Ta không thể bước thêm được nữa."
"Cha mệt rồi, thưa cha" thằng bé nói, đoạn toài người trườn khỏi cánh tay người khổng lồ. "Nếu để con tự đi thì cha sẽ bước dễ dàng hơn."
Người khổng lồ kinh ngạc trước tinh thần của thằng bé. Cái tính này là thừa hưởng từ mẹ nó đây, ngài nghĩ, và chợt thấy xấu hổ khi nhìn Roland vẫn không hề nao núng sau cuộc hành trình cam go ròng rã của họ. Thu hết sức
lực, người khổng lồ lại tiếp tục cất bước, khó nhọc dướn tới trước trong khi con trai ngài dũng cảm lảo đảo bước bên cạnh.
"Trông kìa!" Roland bất chợt hét to. "Con trông thấy một đốm sáng trong lòng hồ."
"Mặt trăng đó," người cha lầm bầm.
"Không phải, cha à. Lửa đó"
Người khổng lồ quơ tay lên che mắt rồi chớp mắt. Quả thật như vậy, một khoảng sáng chập chờn bên rìa lòng chảo. Nhưng làm sao ngài biết cái thứ đó có nguy hiểm hay không? Xem ra hai cha con khó lòng tìm được sự trợ giúp ở cái nơi tiêu điều ảm đạm thế này.
Bất thình lình, Roland lao như thế bắn về phía trước. Cậu luôn có thiên hướng đâm đầu vào những gì kích thích trí tò mò của cậu.
"Khoan!" người khổng lồ gọi giật.
Nhưng Roland, với đôi cánh tay giang rộng như ôm lấy gió, đã vượt lên trước, xuyên qua những làn gió xoay xoáy, bươn bả về phía vạt cây và biến mất khỏi tầm nhìn.
Khi người khổng lồ lê bước tới lòng chảo, ngài thấy con trai đang chuyện trò tíu tít với một thằng bé độ chừng 10 tuổi, tóc trắng lạ kỳ. Thằng bé lạ giơ cây đèn lõi bấc lên để nhìn cho rõ cái thân hình đang đứng sừng sững nơi miệng lòng chảo, và người khổng lồ để ý thấy đôi mắt màu tím của thằng bé. Yêu tinh, người khổng lồ nghĩ. Nó định giở phép ranh mãnh gì ra với cha con mình đây?
"Roland, lại đây" người khổng lồ ra lệnh, bước gần hơn tới hai thằng bé.
Đột nhiên không biết từ đâu, một người khác xuất hiện trong vòng ánh sáng của ngọn đèn, một thanh niên cao lớn, tóc đen nhanh như lông quạ, khoác áo chùng cũng màu đen bóng.
"Đừng sợ" người thanh niên áo đen nói, "Owain tóc trắng không phải yêu tinh đâu. Cậu ấy đã lùng kiếm hai người suốt nhiều tháng nay rồi".
"Tìm ta?" đôi mắt của người khổng lồ nheo híp lại.
Chú là Otus Yewbeam phải không?" cậu bé lạ hỏi.
"Đó là tên ta".
Thằng bé cúi chào thật sát. "Tìm thấy chú cháu vui sướng quá đi mất. Không ai biết chú đã đi đâu. Mãi mới có một bà lão cùng làng với chú, vào lúc sắp chết, không còn sợ bị trừng phạt, mách cho cháu biết chú và con trai đang bị một hiệp sĩ mặc đồ toàn màu xanh lá cây cầm tù."
"Bá tước Harken." Người khổng lồ khịt mũi khinh bỉ.
"Nhưng anh đã trốn thoát rồi," người thanh niên áo đen nói.
"Lẽ ra chúng cháu phải cứu chú" Owain nói, "nhưng chú bị canh phòng nghiêm ngặt quá.
Roland, nãy giờ cứ nhảy lên nhảy xuống loi choi vì khoái chí, không thể nén cái tin này lâu thêm được nữa, liền bật ra, "Owain là anh họ của con đó cha, còn ngài đây," nó chỉ người thanh niên áo đen, "là bác Tolemeo".
Người khổng lồ nhíu mày, "Lẽ nào đây là thật".
Telemeo đáp, "Chúng ta hãy vào hẳn trong lòng chảo đi hẵng, ở đó nói chuyện dễ dàng hơn." Từ lúc gặp nhau đến giờ họ toàn hét vỡ giọng, không sao biểu lộ được tình cảm nồng ấm vì gió cứ chém phạt lời họ mà tung hê lên
trời.
Ngài Tolemeo dẫn đường, theo sau là Owain, cây đuốc rừng rực trong tay nó chiếu vào dải áo chùng của ngài Tolemeo khiến nó cho sáng lóe lên những màu sắc biến ảo, thoắt xanh da trời sống động, chuyển qua xanh lá cây, rồi lại tới màu tím sậm.
Anh ta mặc áo lông chim, người khổng lồ nghĩ, bất giác một nỗi sợ hãi mơ hồ thốn lên, chạy dọc khắp thân thể ngài. Nhưng ta tuyệt nhiên đừng mong chờ họ là người bình thường, bởi vì họ là con cái của Vua Đỏ, giống như Amoret vợ yêu của ta cũng là một người con của nhà vua vĩ đại này.
Tất cả đi xuống cụm đá tảng dưới đáy lòng chảo. Khi đã an tọa trên một phiến đá rộng, người khổng lồ hỏi, "Các vị có biết tin tức gì về vợ tôi không?"
Ngài không nhận được câu trả lời ngay. Owain nhìn gằm xuống đất. Hình như thằng bé tóc trắng này bất giác hoảng hốt và e dè.
"Thứ lỗi cho tôi, anh à," ngài Tolemeo nói lảng, "nhưng theo tôi thấy thì anh không giống người khổng lồ lắm."
"Phải đấy," Owain bật cười lảnh lót. "Cháu luôn tưởng tượng cái đầu khổng lồ khuất hẳn trong mây cơ."
Ngày Otus mỉm cười bao dung. "Tôi không phải là người khổng lồ thật sự, mặc dù tôi xuất thân từ dòng người khổng lồ. Cha tôi cao tận hơn hai sải, Tôi chỉ cao bằng hai phần ba ông ấy thôi. Các em trai tôi thậm chí còn nhỏ hơn tôi. Có lẽ hậu sinh của người khổng lồ bọng tôi sẽ có kích thước bình thường hơn." Nói đoạn ngài liếc nhìn Roland, sau đó thúc giục tha thiết, "Làm ơn nói cho tôi biết đi, các người có tin tức gì về vợ của tôi không?"
Ngài Tolemeo vội nhìn xuống. Cái thoáng nhún vai không kìm nổi của anh
khiến trái tim của người khổng lồ hụt mất một nhịp.
"Làm ơn nói cho tôi đi," Ngài Otus gầm vang "Cho dù là tin xấu nhất." "Vợ của ngài đến chỗ anh trai của bà ấy, Amadis..." ngài Tolemeo bắt đầu.
"Biết rồi, biết rồi," người khổng lồ cắt ngang." Tôi đã nghe nói rằng bá tước Harken đang mưu đồ trở lại. Tôi tưởng bà ấy sẽ an toàn khi ở chỗ Amadis chứ. Bà ấy cho Gương Thần do cha, là nhà vua, chế ra và bà ấy đã dùng nó để... chu du." Ngài Otus nhìn những gương mặt đang dòm mình trân trân. Có vẻ như họ không ngạc nhiên. "Các người biết về Gương Thần à?"
"Chúng tôi biết," ngài Tolemeo xác nhận. "Và chúng tôi còn biết nó là vật mà Harken rất thèm muốn."
Miệng người khổng lồ xệch ra thành một nụ cười cay đắng." Tuy bá tước Harken là thầy bùa nhưng hắn thèm thuồng tất cả mọi thứ do cha của anh làm ra hoặc sở hữu. Bọn chúng, Harken với đội quân quỷ lùn và côn đồ của hắn đã bao vây nhà chúng tôi. Amoret đã cố mang con chạy trốn cùng với mình, bà ấy nghĩ Gương Thần sẽ đưa cả hai mẹ con cùng đi, nhưng không hiểu sao nó lại không có tác dụng với Roland. Thằng bé rơi tòm vào vòng tay tôi khi mẹ nó biến mất. Mấy phút sau, Harken xông vào nhà chúng tôi và bắt hai cha con tôi đi. Chúng đày bọn tôi tới xứ Badlock này và suốt hai năm nay bọn tôi bị giam tại một trong vô số tòa tháp của hắn. Cách đây ba ngày tôi đã hạ gục tên quỷ lùn hung ác mang đồ ăn đến cho bọn tôi, và trong khi hắn còn đang choáng váng với cú đá của tôi thì Roland thông thái đã đẩy hắn vào tủ, khóa cửa lại."
"Xong rồi cháu cởi dây trói cho cha," Roland tiếp lời." Chúng đã không biết là cháu đã trở nên lớn mạnh như vậy, chứ nếu biết thì chúng cũng xích cháu vào tường như cha cháu rồi."
Người khổng lồ bế thốc con trai lên ôm vào lòng mình, "Bọn tôi đã đi miết từ hôm đó tới nay, nhưng thứ gió đáng nguyền rủa này kìm níu bước chân bọn tôi. Nếu bọn tôi có thể ra được bờ biển và kiếm được thuyền thì sớm muộn bọn tôi cũng tìm được vợ và mẹ. Tôi nghe nói anh vợ của tôi, Amadis, có tòa lâu đài tuyệt đẹp nằm trên một hòn đảo ở biển Tây."
Bầu thinh lặng tiếp theo sau lời bình luận này sâu thẳm đến độ tưởng chừng như nó là một cái vực đen hun hút mà tâm trí của người khổng lồ không muốn chạm tới.
"Nói cho tôi biết đi," ngài thì thào.
"Vợ anh đã chết rồi," ngài Tolemeo nói rầu rầu. "Owain sẽ kể cho anh nghe phần còn lại bởi vì nó đã có mặt tại đó."
Roland vùi đầu vào cổ cha, bờ vai nó run rẩy theo từng cơn nấc thầm. Đáng lý ra ta nên biết trước việc này, ngài Otus nghĩ. Làm sao ta dám hy vọng mình sẽ né tránh được sự thật? "Kể đi!" ngài giục.
Owain tụt khỏi tảng đá đang ngồi và trao cây đuốc cho ngài Tolêmo. Xong cậu chắc hai tay lại với nhau, nhìn thẳng vào mặt người khổng lồ và bắt đầu. "Tất cả là do bác Borlath của cháu, anh cả của vợ chú. Hẳn chú đã biết rằng bác ta là một trong những đồng minh của Harken. Bác ta đã tìm thấy hòn đảo của cha cháu và lâu đài mà cha cháu đã xây. Người ta nói đó là tòa lâu đài kì diệu nhất trên đời. Borlath muốn chiếm tòa lâu đài. Bác ta xua lính đánh thuê tới bao vây nhà cháu, nhất quyết làm cho nhà cháu phải chết đói, nhưng cha cháu có khả năng nói chuyện được với thú vật nên ông đã gọi sói, dơi, chim và chuột đến. Lũ chuột đặc biệt hữu ích khi đã ăn hết sạch kho lương của Borlath. Mùa đông tới, bọn lính đánh thuê trở nên bất mãn, đòi bỏ đi, và đó cũng là khi Borlath sử dụng đến tài phép kinh hoàng của bác ta. Cháu thấy mình rơi vào giữa trận chiến - lửa từ tay bác ta phụt ra. "Owain giơ hai bàn tay lên, căng rộng những ngón tay để minh họa. "Chỉ trong một giây mà một
vòng lửa đã bao vây chúng cháu. Cha cháu đặt cháu xuống đất và thét to: 'Chạy đi Owain. Hãy chạy nhanh hết sức tới cái giếng và chừng nào cha gọi thì con mới được ra'. Thế là cháu chạy. Và trong khi chạy cháu ngước lên thấy một cái gương sáng chói đang bay về phía mình, thế là cháu chụp lấy, cháu nghe văng vẳng từ xa, rất xa tiếng cô Amoret gọi: 'Nhớ đưa Gương Thần cho con trai cô'. Sau đó cháu xuống giếng ngay, có con quạ của cháu đi cùng. Nó là bạn cháu mà, chú biết đấy, và cháu nói được ngôn ngữ của nó.
"Từ sâu dưới giếng, bọn cháu, tức là cháu và con quạ lắng nghe. Bọn cháu nghe thấy tiếng kêu thét, tiếng khóc rên, tiếng gươm khua, dao chém, tiếng giàn giáo đổ sập. Cháu ngửi thấy mùi lửa, và mùi còn tệ hơn cả lửa". Owain ngước đôi mắt sáng ngời lên trời, ngực cậu phập phồng lên xuống như thể đang chật vật lấy hơi. Ngài Tolemeo đặt một bàn tay lên vai cậu, và cậu bé kể tiếp. "Rồi bỗng nhiên mọi thứ đều im bặt, im như tờ, và cháu biết cha sẽ không bao giờ gọi cháu ra nữa; cháu biết cháu sẽ không bao giờ nghe được tiếng của cha. Thế là cháu tự chui lên khỏi giếng. Họ đã chết. Tất cả mọi người."
Miệng của người khổng lồ há hốc ra, nhưng tiếng khóc câm nghẹn trong cổ họng ngài. Roland quay đầu nhìn sững vào Owain. Nỗi kinh hãi đã hút khô dòng nước mắt của nó.
Owain nói khẽ, "lúc cháu chui ra thì trời đang đổ tuyết, những bức tường lâu đài sáng lóa lên như thủy tinh, sáng đến nỗi cháu không thể nhìn thấy mặt mình trong đó".
"Đó là thầy pháp ra tay," ngài Tolemeo đỡ lời. "Ngài là bạn của cha tôi, ngài Mathonwy. Ngài phái những đám mây tuyết tới dập tắt lửa. Nhưng sự chi viện của ngài đến quá trễ nên đã không cứu được Amadis và Amoret. Khi sự việc này xảy ra thì tôi đang ở Toledo, thành phố của mẹ tôi."
Owain chụp lấy bàn tay của ngài Tolemeo. "Cháu đã gửi con quạ của cháu
tới tìm bác Tolemeo, kể từ ngày bác ấy đến là bọn cháu đã đi tìm chú tới tận hôm nay". Cậu thò tay vào áo choàng của mình và rút ra một chiếc gương lồng trong khung kim loại quý. Gương Thần sáng đến nỗi như có ánh mặt trời chiếu thẳng vào mặt họ.
Người khổng lồ thở hốc, quay mặt đi. "Amoret", ngài lào thào.
Ngài Tolemeo lấy tấm gương từ Owain và đặt vào hai tay người khổng lồ. "Hãy cầm lấy Gương thần này, Otus Yewbeam à," ngài nghiêm giọng. "Anh đã mất vợ nhưng anh vần còn con trai."
Người khổng lồ định đáp lại thì ngài Tolemeo bất thần quay gót, hai lỗ mũi nở loe ra, mắt quắc lên cảnh giới. "Chúng sắp đuổi kịp bọn ta," ngài thét to.
"Tôi chẳng nghe thấy gì cả" người khổng lồ nói.
"Cũng vậy thôi". Ngài Tolemeo lẳng Roland lên vai. "Chúng ta chỉ còn một thoáng nữa thôi". Ngài bắt đầu sải bước quanh bờ hồ. "Otus, nhanh lên. Chúng đến đó"
Người khổng lồ đứng dây, áp Gương Thần vào ngực. Ngài ngước nhìn lên miệng lòng chảo, quả thật, bọn chúng kìa, một hàng bóng đen dài đang len lỏi qua những thân cây. Tiếng rống giọng mũi, đùng đục nổi lên, xoáy thốc vô lỗ tai người khổng lồ khi quỷ lùn của Harken bắt đầu tràn xuống bờ dốc. Những đôi mắt ti hí lẫn cái mồm nguệch ngoạc dính khuất vào cái mũi khoằm như cục thịt thù lù. Tất cả bọn chúng mặc yếm giáp sắt xếp vẩy, màu xám xịt che bộ ngực và đội mũ sắt chóp cao, trông lố bịch để giấu cái đầu gồ bướu. Khí giới chúng mang theo gồm dùi cui, thương, giáo và những cây giằng ná chết người. Đằng sao chúng là một đám quân gớm ghiếc, không phải quỷ lùn cũng không phải người.
Người khổng lồ vọt chạy. Đôi chân dài của ngài dễ dàng phóng qua khỏi
những cụm đá lởm chởm bên thành hồ. Ở phía trước, ngài còn kịp thấy gương mặt nhỏ xíu của Roland ló ra khỏi vai ngài Tolemeo ngoái nhìn lại. "Chạy đi, cha, chạy mau" chú bé gọi to.
Tiếng rống của lũ quỷ lùn tràn lấp lòng chảo. Đá và thương phóng rào rào xuống từ đủ mọi hướng, giờ thì người khổng lồ biết họ đã bị vây kín.
"Bá tước đang nổi giận" một giọng khàn khạt rống vang. "Ngài đã trừng phạt tao vì mày trốn tháot, Otus Yewbeam. Nên bây giờ đến lượt tao trừng phạt mày".
Người khổng lồ nhận ra đó là Ngón Cái Dị, đầu sỏ đội lính canh của Harken. Hắn to xác hơn những đứa khác, với bộ mặt xám ngoét như xác chết, nhưng đặc điểm khiến hắn nổi bật lên tất cả là ngón cái trên bàn tay phải - to xù, u mấu, chè bè, rộng hơn cả lòng bàn tay hắn.
Ngài Otus né một hòn đá bắn ra từ bộ giằng ná của Ngón Cái Dị.
"Gương thần, cha" Roland hét. "Dùng Gương Thần để tự cứu mình đi cha. Chắc chắn mẹ đã mong ước điều đó".
Ngài Tolemeo dừng chạy, ngoái gọi lại "Đúng vậy, Otus. Hãy đưa Gương Thần cho chúng. Vậy sẽ làm chậm bước chúng. Tôi sẽ cứu con trai anh, nhưng anh phải tự lo lấy."
"Hãy cứu Roland" người khổng lồ thét. Ngài thảy Gương Thần lên trời cao. Tất cả những cái mặt quỷ lùn đồng loạt nghển lên kinh hãi và chết trân khi vòng ánh sáng rơi cuồng cuộn xuống đất, phát ra những tia sáng chói lói xuyên qua những đôi mắt yếu ớt của chúng, làm mắt chúng lòa trong một thoáng.
Một tiếng rú đau đớn và điên cuồng bùng lên. Gương Thần rớt phạch trúng chân Ngón Cái Dị. Hắn có thể cảm nhận sức nặng của Gương Thần nhưng
không thể nhìn thấy nó.
"Tạm biệt, Otus!" Ngài Tolemeo gọi.
Người khổng lồ quay lại.
Ngài Tolemeo đang bay lên khỏi mặt đất, với Roland và Owain tóm chặt lấy hai tay ngài. Cao lên, cao lên nữa. Khi họ bay qua lòng chảo, tấm áo chùng lông chim tung phần phật quanh họ, trong khi mặt nước hồ đen bị quạt gợn sóng theo làn gió. Khi họ bay lên khỏi những ngọn cây viền quanh hồ, hai cái cánh xòe ra phía sau ngài Tolemeo. Ngài lướt không khí phăng phăng, nằm ngang ra như người đang bơi đồng thời với đôi cánh quạt một cách trang nhã trên linh. Có lẽ ngài là con chim to lớn nhất từng bay qua bầu trời đầy sao, đó là chưa tính tới hai thân hình nhỏ xíu đang bám lấy ngực ngài.
Một nụ cười mãn nguyện giãn ra trên gương mặt ngài Otus Yewbeam, và trong những năm tháng dài cô độc về sau này, nụ cười đó thỉnh thoảng vẫn lặp đi lặp lại biết bao lần mỗi khi người khổng lồ hổi tưởng lại khoảnh khắc ấy.
Lũ quỷ lùn đã hồi phục thị giác. Chúng lao xuống hồ, vung dùi cui, gầm gừ chửi rủa. Người khổng lồ biết có chạy cũng vô ích. Ngài thấy Ngón Cái Dị đã nhặt Gương Thần lên. Ruốt cuộc thì cái bóng sẽ có được vật mà hắn muốn.
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 2
Kiện hàng trong tầng hầm
"Ê, tụi mèo đẹp!"
Trong hành lang nhà số 9, đường Filbert, có một thằng nhóc đứng ở chân cầu thang. Trông nó vừa gầy guộc vừa quắt queo. Cào mớ tóc nâu nhạt rối bù xòa trước mặt, nó thè lưỡi ra. "Những con mèo lửa! Người ta gọi tụi bay như thế đó phải không?"
Ba con mèo đang ngồi trên gióng cầu thang phía trên chiếu nghỉ, quắc mắt dòm xuống. Mình chúng khoác những bộ lông rực rỡ: màu đồng, màu cam và màu vàng. Con màu cam rít khè lên; con màu vàng giơ chân trước xòe rõ những móng vuốt nguy hiểm; con màu đồng gừ lên một tiếng đầy đe dọa.
"Sao tụi bay không thích tao? Tao thông minh hơn tụi bay. Cứ chờ đi" thằng bé giơ nắm đấm lên, "rồi có ngày tụi bay sẽ phải hối hận".
Cánh cửa đằng sau nó xịch mở và một giọng chói lói cất lên "Eric, mày đang làm gì đó?"
"Lại xem này".
Hai người phụ nữ bước vào hành lang. Nếu như không có hai mươi năm cách biệt giữa họ thì chắc hẳn là họ giống nhau y đúc. Cả hai đều cao lớn, mắt đen, với cái miệng nhỏ lúc nào cũng mím lại và cái mũi dài nhọn hoắt.
Có điều, trong khi tóc bà này trắng như màu của khúc xương thì tóc bà kia đen như cánh quạ.
"Nhìn ki..a..a!" Eric chỉ lên chỗ ba con mèo.
Người phụ nữ già phịt ra một tiếng gừ đặc tịt trong cổ họng. "Chúng làm gì ở đây? Tao đã cấm tiệt chúng rồi mà."
Người phụ nữ trẻ hơn, mẹ kế của Eric, túm lấy bàn tay nó giật xệch lại, "Tao đã bảo mày không bao giờ được lại gần lũ thú đó mà."
"Con lại gần tụi nó hồi nào" Eric cãi. "Con ở đây còn tụi nó ở trên đó chứ bộ. Với lại tụi nó đâu có cắn con".
"Cắn chứ sao không" bà dì ghẻ vặn lại. "Chúng là thú hoang"
"Với trái tim báo," bà chị đế thêm vào. Xong cất cao giọng mụ ta gọi ầm lên, "Charlie! Charlie Bone, ra đây ngay."
Một cánh cửa trên lầu bật mở, và thoáng cái, một thằng bé tóc bù xù nhoài người qua lan can. Con mèo vàng bước đi tới gần cậu và cọ cái đầu vô cánh tay cậu. Hai con mèo khác nhảy xuống chiếu nghỉ và cũng cạ vòng tròn quanh chân cậu.
"Gì vậy, nội?" Charlie vừa vuốt đầu con mèo vàng vừa ngáp. "Đồ lười chảy thây!" bà nội nó cấm cẳn. "Mày vẫn còn ngủ à?" "Đâu có" Charlie bực bội đáp lại. "Cháu đang làm bài tập về nhà". "Mày đã cho lũ mèo vô nhà phải không?"
"Chúng không gây hại gì đâu" Charlie nói.
"Gây hại thôi á?" đôi mắt đen của nội Bone trợn lên giận dữ. "Chúng là lũ thú nguy hiểm nhát thành phố này, mau đuổi chúng ra".
"Xin lỗi nha Nhân mã". Charlie nhấc con mèo vàng ra khỏi thanh gióng. "Xin lỗi nha Dương Cưu với Sư Tử" nó nói với lũ mèo đang vờn quanh chân nó. "Nội Bone bảo các bạn phải đi đi".
Cho dù cách phát âm hay kiểu nhả chữ của Charlie không rõ ràng nhưng xem ra lũ mèo biết chính xác nó đang nói gì. Chúng đi theo Charlie vô phòng ngủ của Charlie, khi Charlie mở cửa sổ, chúng nhảy ra, từng con một chuyền qua cành cây dẻ thò vô sát bậu cửa.
"Hẹn gặp các bạn ở quán cà phê Thú Kiểng nha". Charlie gọi với theo khi những con mèo lửa nhảy xuống vỉa hè. Chúng đồng thanh meo lên một tiếng, nhất loạt phóng đi khiến cho một con chó bên kia đường dừng sững lại.
Charlie mỉm cười, đóng cửa sổ lại. Quay trở ra chiếu nghỉ, nó thấy bà nội, bà cô Venetia và Eric vẫn còn đang đứng nhìn chằm chằm lên.
"Chúng đi rồi à?" nội Bone hạch hỏi.
"Dạ, nội" Charlie uể oải.
Vừa lúc thì người phụ nữ thứ ba xuất hiện từ phòng khách. Nét mặt góc cạnh và búi tóc xám to sụ khiến nhìn vô ai cũng chắc chắn bà này có liên hệ máu mủ với hai bà kia. Đúng vậy thật, đấy là bà cô Eustacia của Charlie. Mụ ta khệ nệ ôm một vật hình chữ nhật, dẹp, bọc trong giấy màu nâu. Vật đó dài chừng mét rưỡi và rộng gần một mét.
Charlie thừa biết dù cho nó có lên tiếng hỏi về kiện hàng đó thì cũng chẳng ích chi. Thể nào câu trả lời cũng sẽ là không phải việc của nó. Nhưng nó có thể đoán được vật đó là cái gì. Trong bụng nó bỗng nổi lên nỗi phấn khích không sao kìm nén nổi.
"Mày ngó cái gì?" bà cô Eustacia gầm gừ Charlie.
"Đi làm bài tập ngay" nội Bone ra lệnh.
Cái miệng mỏng quẹt của Eric nhếch ra thành một nụ cười thật khó chịu. "Tạm biệt, Charlie Bone!"
Charlie chẳng thèm đáp lại. Nó trở vô phòng và đóng cửa lại tạo ra một tiếng sầm rõ to. Nhưng rồi thi, lẳng lặng hết sức, nó mở cửa ra, he hé chút thôi. Nó muốn biết cái gì đang diễn ra với món đồ mà bà cô Eustacia khiêng tới. Rõ ràng đó phải là một bức tranh.
Đã hai năm trôi qua kể từ ngày Charlie phát hiện ra tài phép dị thường của mình. Cái này mà nó tự dưng nghe thấy những giọng nói phát ra từ một bức hình. Để rồi những năm tháng sau sự kiện đó Charlie thấy mình chu du vô hình chụp, nói chuyện với những người đã chết hàng bao năm trước. Sự việc tương tự cũng diễn ra khi nó tập trung nhìn vô tranh vẽ: nó có thể gặp những đồ vật trong những bức vẽ cổ, gặp cả những con người đã sống cách đây nhiều thế kỷ. Thường thì Charlie cố tránh những trường hợp như vậy - đi vô quá khứ là một chuyện, rời khỏi đó là chuyện khác. Một hay hai lần nó đã may mắn thoát ra được.
Chả hiểu sao mà cái vật hình chữ nhật bọc giấy nhăn nhúm màu nâu kia lại khuấy động trí tò mò của Charlie dữ dội. Nó áp tai vô khe cửa, lắng nghe.
"Sao cô lại mang nó tới đây, ta không thể tưởng tượng được," tiếng bà nội nó vỡ rạn ra vì giận dữ.
"Tôi đã nói với chị rồi," bà cô Eustacia rít chịt. "Tầng hầm nhà tôi bị ẩm ướt"
"Thế thì treo nó lên tường"
"Tôi không thích vậy"
"Vậy thì đem nó cho..."
"Ấy đừng nhìn tôi thế" bà cô Venetia giẫy nảy. "Nó khiến tôi rợn tóc gáy"
"Mụ ta bắt tôi phải nhận" bà cô Eustacia cáu kỉnh. "Con mẹ Tilpin đó không phải là người cho ta cãi cọ"
Charlie suýt nghẹn thở. Nó chưa hề nghe nói đến mụ Tilpin kể từ dạo đó. Có thời mụ ta là cô giáo dạy nhạc khá xinh đẹp được gọi là cô Chrystal, nhưng chưa ai thấy mặt mụ kể từ này mụ bị lộ chân tướng là phù thủy.
"Bọn họ còn lâu mới giữ nó ở trường" bà cô Eustacia re ré tiếp. "Ngay cả Ezekiel cũng cảnh giác với nó. Lão bảo nó đánh cắp ý nghĩ của lão, nó hút ý nghĩ của lão như nam châm... Chính miệng lão nói vậy đấy"
"Joshua Tilpin là nam châm" Eric chen vô.
Dì ghẻ của nó khẩy ra một tiếng cười khô khốc "Hứ! Con trai của phù thủy. Cũng một giuộc cả thôi."
Tới đây thì cả ba bà già cũng tranh nhau nói một lúc, Charlie chẳng thể phân biệt được bà nào nói cái gì, nhưng hình như là cuối cùng nội Bone phải đồng ý cho phép bức tranh, hay bất kể nó là cái gì, được cất dưới tầng hầm nhà mụ. Nói cho ngay, đó không phải là tầng hầm của mụ, bởi vì mụ chia chung ngôi nhà này với ông cậu của Charlie, ông cậu Paton. Charlie và bà ngoại nó, ngoại Maisie, được phép sống chung ở đây cho tới khi ba mẹ Charlie đi nghỉ tuần trăng mật lần thứ hai về, và khi "Góc Kim Cương", nhà của ba mẹ nó, được sửa xong.
Thế là bắt đầu một xâu chuỗi những tiếng lịch kịch, lụp bụp rồi tới những tiếng gắt gỏng, có lẽ là khi bức tranh được khiêng xuống tầng hầm. Cuối
cùng, cửa tầng hầm đóng lại, sau đó thêm một hồi bàn cãi, lầm rầm và lách cách nữa thì nội Bone cùng hai bà em với Rirc rời khỏi nhà.
Charlie ráng chờ ở trong phòng nó cho tới khi nghe tiếng tất cả mọi người nêm vô chiếc xe của bà cô Eustacia. Thêm vài tiếng nổ máy hụt cùng một tiếng gài số xe cái rẹt, đinh óc nữa thì chiếc Ford già nua lảo đảo lao xuống đường.
Cố đợi cho năm phút nữa trôi qua, Charlie lẻn ra khỏi phòng và đi xuống lầu. Xuống tới tầng hầm nó thấy cửa đã khóa. Hên là Charlie biết tất cả chìa khóa được cất ở đâu. Nó đi vô nhà bếp, kéo ghế cặp sát cái tủ đựng chén đĩa. Đứng kiễng chân hết cỡ, nó với lấy cái hũ màu xanh da trời trang trí hình những con cá vàng.
"Con làm gì mà leo lên đó?" một giọng nói cất lên.
Charlie khựng lại. Chiếc ghế chòng cành. Charlie hét lên hết hồn. Cố giữ thăng bằng. Nó đã không nhận thấy ngoại Maisie đang hí húi quần áo ra khỏi máy giặt ở góc bếp.
"Ngoại Maisie, ngoại theo dõi con à?" Charlie dằn dỗi.
Ngoại Maisie đứng thẳng người lên. "Ta còn nhiều việc hay hơn để làm, cậu trẻ à."
Bà ngoại của Charlie khác hẳn nội Bone một trời một vực. Ngoại Maisie không cao hơn Charlie là mấy, lại đang phải đánh vật với vấn đề giảm cân. Giữ chân đầu bếp của gia đình thì việc này không hề dễ dàng tí nào.
"Hừm,, bà tự hỏi tại sao con lại lấy mấy cái chìa khó đó?" gương mặt tròn xoe của ngoại Maisie trông rất tếu khi bà làm mặt nghiêm. Thậm chí nhíu mày cũng là cả cố gắng đối với bà. "Đừng chối nhé. Ở trên đó đâu có gì khác khiến cho con quan tâm"
"Con nghĩ bà cô Eustacia vừa mới mang một bức tranh tới cất dưới tầng hầm"
"Mụ ta cất ở đó thì sao?"
"Con...ờm, con chỉ muốn...bà à, nhìn nó một cái". Charlie tóm vội cái hũ hình cá vàng và lôi ra một chiếc chìa khóa to phành, gỉ sét.
Ngoại Maisie lắc đầu. "Không phải ý hay đâu, Charlie."
"Sao vậy ngoại?" Charlie đẩy cái hũ vô chỗ cũ và nhảy xuống khỏi ghế.
"Con biết bọn họ rồi còn gì" ngoại Maisie nghiêm nghị. "Mấy bà cô nhà Yewbeam đó luôn luôn tìm cảnh phỉnh lừa con. Bộ con nghĩ bọn họ không biết con sẽ bị dụ phải xuống nhìn xem...nó là gì ư?"
"Họ không biết con đã nghe trộm đâu, ngoại Maisie."
"Hừ!" ngoại Maisie lầm bầm. "Đảm bảo họ biết chứ sao không."
Charlie vân vê chiếc chìa khóa trong những ngón tay. "Con chỉ muốn nhìn bên ngoài xem hình thù nó thế nào thôi. Con không bóc giấy bọc ra đâu."
"Không ư? Coi này, Charlie, ba mẹ con đang xem cá voi ở đầu kia thế giới. Nếu có gì xảy ra với con thì bà biết ăn nói thế nào...?"
"Sẽ chẳng có gì xảy ra cho con đâu". Trước khi ngoại Maisie kịp nói thêm lời nào thì Charlie đã xăng xái bước ra khỏi nhà bếp, đi dọc theo hành lang xuống tầng hầm. Chiếc chìa khó xoáy cái một trong ổ khóa - dễ đến ngạc nhiên. Nhưng ngay khi cánh cửa thấp mở ra, Charlie bỗng có cảm giác chắc chắn rằng sẽ có gì đó xảy ra với mình. Không nghi ngờ gì, nó có thể cảm thấy một cú giật nhẹ nhưng dứt khoát, hút nó xuống cái cầu thang gỗ kêu cót két, và xuống, xuống nữa, cho tới khi nó đứng trong bóng tối lạnh lẽo của tầng
hầm.
Gói hàng đã được dựng tựa vô tường, giữa một tấm đệm cũ và một bộ cọc treo màn gió gỉ sét. Charlie không chắc, nhưng hình như nó nghe thấy có một tiếng động nhẹ từ bên dưới lớp giấy bọc nhàu nhĩ phát ra.
"Không thể nào!" Charlie túm lấy tóc. Điều này trước đây chưa bao giờ xảy ra. Đáng lẽ nó phải thấy mặt người trước rồi mới nghe thấy âm thanh chứ. Nhưng tiếng động này vọng tới từ cái gì ngoài tầm mắt nó. Khi nó nhích về phía gọi hàng, một tiếng rít ù ù vụt qua tai nó.
"Gió chắc?" Charlie vươn một tay ra.
Khi nó vừa chạm vô thì lớp giấy bọc liền kêu loạt soạt. Nguyên cả kiện hàng đột nhiên sống động hẳn lên và Charlie lưỡng lự. Nhưng cái giây nghi ngại đó lập tức bị lấn át bởi trí tò mò đang bốc ngùn ngụt trong nó, thế là nó bắt đầu xé toạc giấy gói ra. Những mảnh giấy bay tốc lên không, được nâng
đỡ bởi những ngón tay luống cuống của Charlie, rồi một thứ gió bất tự nhiên, đố ai biết từ đâu thổi ra.
Bức tranh thậm trí không cần phải đợi đến lúc được mở lộ hết ra. Lâu trước khi những chỗ góc được gỡ giấy bọc, một khung cảnh rợn người bắt đầu thấm vô tầng hầm âm u. Sao lại có sự việc như thế này xảy ra? Charlie hoang mang. Nó chờ đợi cái cảm giác lộn nhào quen thuộc vốn thường trấn áp nó khi đi chu du vô tranh ảnh. Việc này chưa từng có. Nó ngây dại nhìn khi những bức tường gạch của tầng hầm bị nuốt chửng bởi một khung cảnh núi non ở đằng xa. Những ngọn tháp cao, đen thùi xuất hiện ở cận cảnh; một ngọn tháp sà vô gần dến nỗi Charlie có thể ngửi thấy mùi rêu ẩm bám trên những bức tường. Những sinh vật xấu xí có vẩy chạy lúp xúp trên mặt tháp, dừng khựng lại một thoáng, ngó trân trối vô Charlie bằng những đôi mắt lấp lóe nguy hiểm.
Chắc là ảo ảnh, Charlie tự nhủ. Nó vươn tay ra... Và chạm vô cái sống lưng có gai cứng như sừng của một trong những con vật màu đen trông như con cóc đó. "Áá!" nhảy phắt ra khỏi con vật, Charlie trượt chân ngã bật ngửa. Bên dưới lưng nó thấy sỏi đá lần sần dính cỏ trơn nhầy, màu đen xám. Phía trên nó là những đám mây màu tím trôi vù vù qua bầu trời màu tro, xung quanh nó gió thét gào và đâm sầm sập, hú hét và thở dài.
"Vậy là mình đã đến nơi đó" Charlie đứng dậy phủi lưng. "Cho dù nơi đó là nơi đâu"
Giữa những chập nghỉ chớp nhoáng, khi gió chỉ còn rên rỉ, Charlie có thể nghe thấy tiếng những bước chân nặng nề và những tiếng nói đục nhề nhệ. "Nó ở đây. Tao có thể ngửi thấy mùi của nó" một cái giọng nổi rõ rệt lên.
"Nó là của tao." Cái giọng này nhơn nhớt hệt như nước trong bồn chứa đặc sệt bát chén dơ. "Tao biết cách bắt nó".
"Ngón Cái Dị biết" một dàn đồng thanh chói tai, đùng đục tiếp theo sau.
Charlie lùi vòng qua tòa tháp, núp khi tiếng chân bước rầm rộ tới gần. Xem ra không có cửa sổ trong tòa nhà này và Charlie vừa mới chợt nghĩ rằng cửa lớn cũng không có luôn thì bất ngờ, nó bị tóm ngang thắt lưng rồi bị nhấc bổng lên không. Một nắm tay khồng lồ ụp vô miệng nó và một giọng ghé sát tai nó, thì thào, "Cậu bé, mạng sống của mi phụ thuộc vào sự im lặng của mi."
Choáng sốc và á khẩu, Charlie bị troe đánh đu giật lùi qua một cánh cửa để mở rồi được đặt xuống. Nó thấy mình ở trên bậc thấp nhất của một dãy cầu thang đã hình xoắn ốc hướng đi lên cho tới khi biến mất vô bóng tối.
"Lên đi" giọng nói đó thì thào, "nhanh hết sức đôi bàn chân mi có thể" Charlie leo lên những bậc thang đá, tim đập loạn xạ. Lên, lên và lên tiếp,
không bao giờ dừng lại cho tới khi nó tới một cánh cửa ở bậc trên cùng. Charlie đẩy cửa mở và bước vô căn phòng phía bên kia. Một cửa sổ hẹp, cao trổ trên tường tỏa ra thứ ánh sáng u sầu xuống đồ đạc lèo tèo bên dưới, một cái giường dài nhất Charlie từng thấy, một cái bàn cao nhất, cái ghế cao nhất, và....lẽ nào đó là một chiếc thuyền, treo trên tường? Nó quay phắt lại khi chủ nhân của căn phòng khom người chui qua rầm đỡ cửa bước vô, đóng cửa, khóa lại.
Charlie trông thấy một người khổng lồ hoặc một người gần giống khổng lồ nhất mà nó từng thấy. Tóc của ngài ấy trắng như cước, cuộn lại thành búi phía sau đầu, và một chòm râu cầu kỳ trắng như tuyết, dài xuống gần chấm thắt lưng. Ngài mặc áo vải thô bên trong, bên ngoài choàng áo gi-lê bằng da và quần len màu nâu buộc túm dây ở mắt cá.
Người khổng lồ đặt một ngón tay lên miệng và rồi giơ tay lên đẩy mở một ô ván tường nhỏ, cài giữa những rui nhà. Không một lời, ngài nhấc Charlie lên khoảng không gian tối om vừa lộ ra. Charlie lăn người và ô ván lập tức trở về vị trí cũ, bỏ lại nó trong một cái hố bít bùng tối thui, với hai đầu gối thu lu áp vô ngực và cánh tay ôm vòng lấy chân.
"Chúng sẽ không tìm thấy mi đâu, tin ta đi" người khổng lồ thì thầm, đầu ngài có lẽ chỉ cách bên dưới rui nhà chừng ba tấc.
Có một lỗ nhỏ ở ngang tầm tai Charlie, và khi quay đầu qua nó có thể nhìn thẳng xuống căn phòng bên dưới. Nó vừa loay hoay tìm thế ngồi xong thì nghe thấy tiếng lao xa lao xao dội âm lên cầu thang.
"Otus Yewbeam, người có ở trên đó không đấy?"
"Ngươi có thấy thằng bé không?"
"Ngươi bắt nó rồi hả?"
"Nó là của bọn tao"
"Của tao", giọng gằn đặc của Ngón Cái Dị. "Tất cả đều là của tao". Một rừng nắm đấm và dùi cui bắt đầu nện ầm ầm vô cánh cửa.
"Kiên nhẫn nào, bọn lính" ngài Otus nói gióng ra. "Ta đang ngủ". Chỉ một bước ngài đã ra tới cửa, rồi vừa thở dài sườn sượt không biết bao nhiều lần vừa khua dây xích loảng xoảng, ngài mở cửa ra.
Một bầy sinh vật xấu xí, lùn cục tràn vô, vây ập lấy người khổng lồ. Chúng đeo miếng giáp ngực bằng kim loại chồng lên lớp áo da không tay, vá víu, còn đầu thì bị rọ trong mũ giáp kim loại trông hệt như mũ chóp cao. Rìu, dao, giằng ná, và dùi cui treo lủng lẳng bên thắt lưng, mặc dù có vài đứa đeo cung trên lưng, với ống tên đầy ắp mũi tên bóng nhoáng. Hầu hết bọn này đều thấp hơn thắt lưng người khổng lồ, nhưng có một tên, coi bộ còn bự xác hơn cả bọn, cao gần bằng Charlie. Lẽ nào tên này giống bức tượng thần lùn bằng đá đã từng đặt ngoài cửa ngôi nhà u ám của bà cô Venetia?
"Sao ngươi khóa cửa ngăn bọn ta?" tên to lớn hạch hỏi.
"Không phải ngăn bọn ngươi, Ngón Cái Dị" người khổng lồ đáp, "mà là ngăn lũ vẩy cóc."
"Vẩy cóc!" Ngón Cái Dị nhổ nước bọt phì phì.
"Lũ vẩy cóc phá hoại phát sợ," ngài Otus cằn nhằn. "Nhiều ngày chúng ăn hết bánh mì của ta trong khi ta ngủ".
"láo" Ngón Cái Dị nói. "Bọn vẩy cóc không thể mở khóa cửa giỏi hơn một tên nhóc. Ngươi đã bắt nó rồi, tao biết."
"Ai?" người khổng lồ hỏi lại với giọng điềm đạm.
"Thằng nhóc", một trong những sinh vật nhỏ hơn nạt nộ. "Nó ở đây. Thợ Canh đã thấy nó đi khỏi. Phải bắt nó, theo chỉ thị của bá tước."
"Thầy bùa" tên ở bên cạnh hắn hùa theo.
"Ếm bùa" bọn khác đồng thanh.
Có một tiếng cót két thật lớn vang lên khi ngài Otus đổ rầm người nằm xuống chiếc giường. Giờ thì ngài đã ra khỏi tầm nhìn của Charlie, mặc dù nó vẫn thấy một bàn chân dài quấn da thuộc của ngài.
"Những chú lính đáng kính, ta không thấy một thằng nhóc nào cả," người khổng lồ nói." Không tin thì lục soát đi nếu các chú phải thế."
"Đương nhiên bọn ta sẽ khám", Ngón Cái Dị lầu bầu. "Dậy, tên khổng lồ"
Người khổng lồ vẫn không nhấ mình khỏi giường khi Ngón Cái Dị và lính lác của hắn lật úp cái giường. Chúng chém ga trải giường, moi nệm rơm, chọc ống khói, lôi củi đang cháy dở ra khỏi lò sưởi và nạy ván sàn. Cuộc truy quét điên cuồng kéo dài chưa đến mười phút thì, từ chỗ núp của mình, Charlie thấy một đống tro và rơm chết un lên, cùng với mảnh sành vỡ và những mẩu bánh mì.
"Đuôi trụi!" một tên lính đột ngột ré om xòm.
Charlie không thể thấy hắn vừa lục trúng cái gì. Chắc hẳn thứ đó ở đầu kia căn phòng.
"Tham lam, tham lam" Ngón Cái Dị bất bình. "Những sáu con đuôi trụi cho bữa sáng à, Otus?"
"Ta là người khổng lồ" ngài Otus thở dài.
"Bọn tao sẽ để lại một con...nhỏ nhất" Ngón Cái Dị nói một cách hằn học.
"Cảm ơn" ngài Otus bảo.
Một tên lính có cái mặt đầy mụn cơm bước vô và đứng ngay chóc lỗ nhòm của Charlie. "Không có thằng nhóc ở đây, thưa Tướng Quân" hắn báo cáo. "Có lẽ ở trong rừng?"
"Không nhóc à? Không nhóc". Ngón Cái Dị bước xà quần trong căn phòng. Hắn dừng lại bên cạnh tên mặt mụn và ngó lên.
Charlie thấy mình trố mắt dòm vô một con mắt xám lạnh đá. Nó không dám chớp mắt. Nó không dám thở. Con mắt nó thốn đau khi phải cố giữ cho mắt mở to mà không dao động. Ngón Cái Dị có thấy nó không? Hắn có linh cảm gì về sự hiện diện của Charlie, đang nằm chèo queo phía trên? Một cơn buồn hắt xì ập đến choán giữ Charlie. Nó mím chặt hai môi, từ từ giơ những ngón tay lên mặt và kẹp chặt lấy múi.
"Những sinh vật đáng sợ ở trên đó" tên mặt mụn cơm lào thào. "Chắc là bạch dơi. Bọn ta rời khỏi đây mau, thưa Tướng Quân"
"Bạch dơi?" Ngón Cái Dị xoa xoa cằm bằng ngón cái quái gở, to bằng cả bàn tay của hắn. "Ngươi có bạch dơi không Otus?"
Charlie hầu như không nín được một cái thở hốc.
"Đáng buồn là có" người khổng lồ đáp. "Chúng cướp giấc ngủ của ta"
Ngón Cái Dị cụp đầu xuống và buột ra một tràng cười khùng khục, độc địa. Giây sau cả căn phòng tràn ngập tiếng cười lục bục khi bọn lính hùa theo tướng của chúng. Tràng cười tập thể sốn óc im bặt ngay khoảnh khắc Ngón Cái Dị ngậm cái miệng lại. Không một lời nào nữa, tên đầu sỏ hùng hổ cút đi khỏi, theo sau là đoàn quân của hắn.
Charlie lắng nghe tiếng chân rầm rập đi xuống cầu thang. Cánh cửa ở chân tháp kin kít đóng lại và bọn lính bắt đầu tràn ra đường. Charlie nín thở chờ. Nó không dám nhúc nhích, sợ tên lính nào đó vẫn còn nán lại trong phòng bên dưới. Nó có thể nghe thấy tiếng ngài Otus dọn dẹp phòng sau khi vụ đột nhập ầm ĩ trôi qua.
Rất lâu sau khi những bước chân đi xa hẳn, người khổng lồ bắt đầu cười lên với Charlie. "Mi an toàn rồi, cậu bé. Đừng phải sợ, ta sẽ đưa ngươi xuống."
"Cảm ơn ngài" Charlie nói giọng khản đặc.
Người khổng lồ gỡ tấm ván ra người bảo, "Bước lên vai tra này". Ngài khuỳnh hai cánh tay và Charlie thò hai chân qua cái lỗ. Ngài Otus nhẹ nhàng hạ Charlie xuống và đặt nó lên giường ngài.
Charlie vặn vẹo đôi vai đau nhừ và xoa xoa cánh tay. "Cháu không biết thế nào mà cháu lại ở đây".
Người khổng lồ kéo một cái ghế lại gần giường và ngồi xuống. Nghẹo đầu qua bên, ngài nhìn Charlie chăm chú với vẻ dò hỏi. "Tên mi?"
"Charlie Bone, thưa ngài"
"Mi là người chu du phải không?
"Dạ...phải, thỉnh thoáng. Cháu có thể đi vô hình chụp, hình vẽ." Quan sát cái nhíu mày khó hiểu của người khổng lồ, Charlie nói nhanh "Hình chụp rất khó giải thích, nhưng cháu nghĩ ngài biết hình vẽ là gì". Người khổng lồ gật đầu. "Nhưng sao lần này rất khác...phép chu du của cháu, ý cháu là vậy. Lần này có một bức vẽ...hình như chụp bắt cháu."
"Ừm" người khổng lồ lại gật đầu. "Vợ ta có một tấm gương có thể giúp bà
ấy chu du."
"Gương Thần ạ?" Charlie phấn khích. "Tổ tiên cháu, bà Amoret có một tấm Gương Thần. Nó gây ra nhiều rắc rối. Có kẻ muốn lấy nó... Một thầy bùa."
"Amoret là vợ ta!" nắm tay khổng lồ của người khổng lồ chộp lấy bàn tay Charlie. "Tên ta là Otus Yewbeam".
"Thế thì...ngài cũng là tổ tiên của cháu." Ánh mắt Charlie trượt khắp thân hình cao lớn của người khổng lồ, từ đỉnh đầu tới bàn chân dài. "Có lẽ cháu còn to cao nữa cho mà coi."
Người khổng lồ mỉm cười. "Ngay từ bé ta đã cao thế này rồi." Ngài giơ bàn tay lên cao khỏi mặt đất chừng hơn một mét tám.
"Ố" Charlie ỉu xìu.
"Thế kỷ của mi là gì?" ngài Otus hỏi.
"Ờm...thế kỷ hai mươi mốt" Charlie nói, sau một hồi suy nghĩ. "Tức là cách đây hơn chín trăm năm".
Charlie nhướng mày. "Cháu không biết. Cháu không bao giờ đi vô quá khứ theo cách này. Cháu đang nhìn vô một bức tranh, cháu thấy núi và những tòa tháp, nhưng không có người, rồi thì, bất thình lình tất cả cảnh này hiện ra xung quanh cháu".
"Hắn rất mạnh" ngài Otus nói rành rọt. "Hắn muốn mi ở xứ Baclock". "Ai ạ?"
"Bá tước, thầy bùa, cái bóng xứ Badlock - hắn có rất nhiều tên. Hắn đã bắt
ta đến nơi này làm tù nhân từ cách đây hai mươi năm, khi vợ ta trốn tới lâu đài của anh bà ấy." Đôi mắt to của người khổng lồ mờ đi một thoáng, và ngài ngước nhìn vầng sáng mờ trong khung cửa sổ. "Hắn muốn bắt Amoret. Hắn muốn bắt tất cả những người con của Vua Đỏ. Hắn đã chiếm được năm đứa dễ dàng, đã dắt díu họ bước đi trên con đường tội ác. Những người khác - Amadis, Amoret, Guanhamara, Petrello và Tolemeo - thì trốn khỏi bạo ngược. Chính Tolemeo đã cứu con trai Roland của ta, và chính vì lẽ đó mà cái bóng trừng phạt ta. Lính của hắn tận hưởng sự tra tấn. Bây giờ chúng chấp nhận cho ta hối lộ để được yên thân. Ta gần như bị lãng quên rồi."
Charlie nhắc lại cho người khổng lồ nhớ rằng hôm nay bọn lính đã không buộc ngài phải hối lộ cho yên thân. "Cháu đã đưa ngài vô nguy hiểm" nó nói. "Nếu bọn chúng mà bắt được cháu thì...?"
"Không" người khổng lồ nhiệt thành chúi người về trước. "Chúng sẽ không bắt được mi đâu." Ngài đứng lên và sải bước ra chỗ lò sưởi choán một bức tường rộng. "Giờ thì chúng ta sẽ ăn đuôi trụi nhé, cậu bé".
"Dạ, tốt ạ" Một thoáng lo âu pha lẫn trong giọng nói của Charlie. Đuôi trụi là cái gì, nó thắc mắc.
Người khổng lồ mở một cánh cửa nhỏ ăn vô trong tường và lôi ra một sinh vật trông như con chuột đen có cái đuôi dài thườn thượt, không lông. "Chỉ còn có một con," ngài Otus thở dài. "Nhưng sẽ đủ"
Bụng Charlie thắt lại. "Nếu đó là đuôi trụi, thì bạch dơi là gì?"
Ngài Otus bật cười. "Chúng là thứ mà chúng ta, trên thế giới của chúng ta, được biết đến là con dơi, nhưng bạch dơi trắng như tuyết. Dân Badlock tin rằng chúng là ma. Nhưng ta thì không sợ chúng".
"Cháu cũng không sợ" Charlie lén liếc nhanh về phía người khổng lồ. Ngài
Otus đang lột da con đuôi trụi và, hy vọng đó là việc nó không bao giờ phải làm, Charlie vội ngoảnh mặt đi. "Ngài có bao giờ cố tìm đường về nhà không?" nó hỏi người khổng lồ.
Ngài Otus cười buồn bã. "Anh của vợ ta, Tolemeo, đã cố cứu ta lần thứ hai, nhưng Ngón Cái Dị và bọn côn đồ của hắn đã bắt bọn ta. Tolemeo may mắn thoát đi được. Vả lại sau khi biết vợ ta đã chết, ta chẳng còn quan tâm cuộc đời ta sẽ chấm dứt như thế nào và chấm dứt ở đâu nữa."
Charlie sực nhớ lại hình ảnh lướt qua của một phụ nữ đẹp tuyệt trần, mỉm cười ra từ một bức tường gương, và thế rồi, một kế hoạch hầu như không tưởng bắt đầu lóe lên trong óc nó.
"Xứ Badlock là một xứ mà không ai từ thế giới của chúng ta có thể tìm thấy" người khổng lồ tiếp. "Không ai ngoài Tolemeo thông thái. Đó là một nơi khủng khiếp. Có gió không ngừng gào rú, và rồi vào mỗi mùa đông lại có một trận lụt lớn. Nước tràn ngập vùng đất giữa những dãy núi tạo thành một vực thẳm."
"Thế thì kia đúng là một chiếc thuyền rồi". Charlie gật đầu về phía cái vật có hình thù giống chiếc thuyền gỗ treo trên tường.
"Đúng, nó là thuyền. Đâu có nơi nào khác để sống ngoài tòa tháp." "Thế còn tên thầy bùa sống ở đâu?"
"Trong một pháo đài đen, một vết sẹo trên núi. Để ta chỉ cho mi thấy nào". Nói đoạn ngài Otus thả khối thịt vô nồi sắt, chùi tay vô miếng giẻ giắt ở thắt lưng và, trước khi Charlie kịp phản đối, ngài nâng nó lên khung cửa sổ cao.
Đêm đang ập xuống rất nhanh, nhưng những ngọn núi nhọn hoắt in rõ thành một dải lởm chởm trên nền trời xanh lá cây nhạt. Gần đỉnh của ngọn núi cao nhất có thể thấy những ánh đèn đỏ nhấp nháy, phía sau là một cái
tháp dốc đứng hình mũ màu đen.
"Hắn hiếm khi ở đó" người khổng lồ nói, "nhưng lửa cháy liên tục để nhắc nhở thần dân của hắn là hắn đang canh chừng bọn họ."
Charlie rùng mình. Bất giác nó sợ mình sẽ bị kẹt vĩnh viễn trong thế giới thù địch này. Khi sắp sửa được hạ xuống đất thì nó chợt la lên. "khoan. Cháu nhìn thấy một thứ."
Cách chân tháp của người khổng lồ chừng một mét, có một con chó vàng đang đứng. Nó đang ngước lên nhìn cửa sổ. Khi con chó bắt được ánh mắt Charlie, nó liền hộc lên sủa.
"Hạt Đậu!" Charlie thét òm.
Làm sao con chó của thằng bạn nối khố của nó lại theo nó vô bức tranh? Không thể nào có việc đó.
Nhưng đúng là vậy thật.
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 3
Chú chó tan biến
Vài phút sau khi Charlie chu du vô xứ Badlock, thằng bạn thân nhất của nó, Benjamin Brown, một thằng bé nhỏ thó, tóc sùm sụp và vẻ mặt lúc nào cũng lo âu, rời nhà nó ở số 12, đường Filbert. Hạt Đậu, con chó của thằng này tong tẩy theo sau.
Khi Benjamin nhấn chuông nhà số 9, cánh cửa được ngoại Maisie mở ra ngay lập tức.
"Benjamin cưng ơi," ngoại Maisie thét lên, lôi xệch nó vô hành lang. "Ta hy vọng con làm được cái gì đó. Charlie đi mất rồi."
"Đi mất, thưa bà Jones? Đi đâu ạ?" Benjamin ngoan ngoãn chùi giày vô thảm chùi chân.
"Nếu ta biết thì ta đã không đứng đây bảo con phải làm gì đó, đúng không?" ngoại Maisie nhắm mắt lại và gãi gãi sau gáy. "Ta biết nói gì với ba mẹ nó đây hả trời?"
"Cháu nghĩ bà không cần phải nói gì với cô chú ấy đâu ạ" Benjamin nói. "Có lẽ ba với mẹ cháu có thể giúp được, họ là thám tử tư cơ mà."
Benjamin lập tức hối hận với những lời vừa thốt ra.
Ba mẹ nó đang điều tra một vụ án rất quan trọng. Họ vừa mới rời nhà đi
xong, cô Brown cải trang thành đàn ông còn chú Brown cải trang thành phụ nữ. Benjamin không thích ba mẹ nó ăn mặc kiểu như thế - họ không giải thích trường hợp phải đeo râu giả (đối với cô Brown) và phải đội tóc giả nhuộm màu (đối với chú Brown), mà chỉ bảo Benjamin đến nhà Charlie đi, ở đó ngoại Maisie sẽ cho nó ăn trưa.
"Cháu xin lỗi, cháu nghĩ lại là ba mẹ cháu không thể giúp được đâu" Benjamin tạ lỗi.
"Ta chắc chắn điều đó." Ngoại Maisie quay đi và dẫn Benjamin vô một hành lang tối. "Đây là một trong những vụ biến mất mà người thường không thế nào hy vọng tìm ra."
"Nhưng cháu là người bình thường" Benjamin nhắc bà.
Ngoại Maisie thở dài. "Hờ, ta biết. Nhưng con là bạn của nó nên con có thể đi gọi một đứa khác trong bọn những đứa được ban phép thuật á, hay tự chúng xưng như thế".
"Những người con của Vua Đỏ ạ" Benjamin lặng lẽ nói.
Họ đã tới cánh cửa tầng hầm, vẫn còn mở banh. Ngoại Maisie vẫy Benjamin và chỉ xuống tầng hầm. Benjamin ngó xuống căn phòng mốc meo ở dưới mặt đất. Ngoại Maisie gật đầu khích lệ. Benjamin vốn không thích ba cái tầng hầm, cả Hạt Đậu cũng chả thích. Chú chó bự bắt đầu tru lên.
"Cháu phải xuống đó ạ?" Benjamin hỏi.
"Nó ở dưới đó đó" ngoại Maisie giọng khản đặc.
"Dạ?"
"Bức tranh, cưng"
Benjamin vuột ra một tiếng "Ố ố ố" ngân dài khi nó vỡ lẽ rằng Charlie chắc hẳn đã đi chu du rồi. "Vậy thì nó không hẳn là biến mất".
"Lần này thì có" ngoại Maisie nghiêm trang.
Benjamin dòm trân vô tầng hầm. Nó bước xuống ba, rồi bốn bậc cho tới khi có thể thấy bao quát căn phòng. Một ngọn đèn tù mù thòng từ trên trần nhà xuống chiếu cho nó thấy một cái tủ hỏng, mấy cái ghế gãy, bó cọc màn gió, những chồng báo và tạp chí, mấy cái bao nylon to màu đen chứa đồ căng phồng. Và rồi nó nhìn thấy bức tranh. Cái bức tranh dựa vô tường, bên cạnh một tấm đệm cũ cuộn lại.
Một cái bóng nhỏ chập chờn trên bức tranh và Benjamin trông thấy con bướm trắng lượn lờ quanh bóng đèn tròn. Lập tức con bướm chao mình biến vụt đi. Benjamin đi xuống nền tầng hầm và bước về phía bức tranh. Hạt Đậu lạch cạch bước xuống theo sau nó. Chú chàng thở hồng hộc và thỉnh thoảng lại tru lên một tiếng hoảng vía.
Bức tranh khiến Benjamin rùng mình. Đúng như ngoại Maisie thừa nhận, nó chỉ là một thằng bé bình thường, cho nên nó không hề biết đến cảm giác phản kháng lại những cú giật thô bạo như Charlie đã trải qua, cũng không cảm nhận hay nghe được tiếng gió của xứ Badlock rít rú. Tuy nhiên nó có ngay ấn tượng là nét vẽ tả chân của bức tranh bày ra một nơi không phải do tưởng tượng mà là được sao chụp đúng y như thực. Nơi đó hiện hữu. Hoặc đã từng hiện hữu. Với những ngọn tháp xám xịt, bầu trời không có mặt trời, in hình những dãy núi lù xù, chắc hẳn đó là một xứ sở chồng chất hận thù và tội ác.
Có một dòng chữ màu xanh lá cây ở cuối bức tranh, góc phía bên phải. Đề: Xứ Badlock. Nếu xứ Badlock là một nơi có thật thì đó không phải là nơi Benjamin muốn tới. Vậy tại sao Charlie lại "Đi Vào" trong đấy được? Đó là một hoang mạc. Theo như Benjamin nhớ, Charlie luôn cần phải nghe thấy
tiếng nói trước đã, sau đó tập trung vô một gương mặt người rồi mới đi được vô một bức tranh nào đó cơ mà. Và trong suốt quãng thời gian Benjamin biết về tài phép của thằng bạn mình, Charlie không bao giờ biến mất thật sự. Thân người Charlie vẫn luôn luôn ở hiện tại, trong khi tâm trí nó chu du vô thế giới đằng sau bức tranh.
"Con nghĩ việc đó là sao, Ben?" ngoại Maisie trên đầu cầu thang hỏi xuống.
Benjamin lắc đầu. "Cháu không biết, thưa bà Jones. Ông cậu của Charlie đâu ạ?"
"Paton hả? Ở tiệm sách. Chứ còn ở đâu nữa?"
"CÓ lẽ cháu đi tới đó đây. Chắc là ông Yewbeam sẽ biết phải làm gì." Benjamin quay đầu bước lên cầu thang.
Hạt đậu không đi theo cậu chủ mà đứng ở trước bức tranh với điệu bộ kỳ cục, đầu nó oặt hẳn sang bên, như thể đang nghe ngóng gì đó. Nó hộc lên tiếng đục ngầu, nghe thê lương. Và rồi, ngay trước mắt Benjamin, chú chó vàng từ từ nhỏ lại, nhạt dần đi.
"Hạt Đậu?" Benjamin lao bổ về phía con chó. Nó tóm được chóp đuôi Hạt Đậu, mẩu đuôi đứng im, cứng đơ như cây chổi, nhưng chưa tới một giây sau thì cái đuôi cũng tan nốt, tan luôn nguyên cả con chó yêu quý của Benjamin.
Benjamin hét thất thanh "HẠT ĐẬU!" đúng lúc vọng xuống tiếng cánh cửa trước đóng sầm lại.
"Ối thiên địa ơi!" ngoại Maisie ụp tay lên miệng.
Và rồi bà bị đẩy một cách thô lỗ sang bên bởi nội Bone, mụ bất thình lình xuất hiện cạnh bà.
"Cái quái gì thế?" nội Bone hạch sách.
Benjamin ngó lên nhìn hai bà. Ngoại Maisie lắc đầu, mắt mở trao tráo và lông mày giần giật. Dường như bà đang cảnh báo cho Benjamin. Đau khổ hết sức, Benjamin bắt đầu suy nghĩ gấp gáp. Chính nó và Charlie luôn hiểu rằng tuyệt đỗi không được để nội Bone biết tý gì về những việc đang diễn ra, nhất là nếu như việc ấy có dính líu đến phép chu du của Charlie.
Nội Bone đã bắt gặp ánh nhìn khẩn cấp của ngoại Maisie. "Bà mắc chứng gì vậy, bà kia?" mụ hỏi.
"Kinh ngạc" ngoại Maisie nói. "Sửng sốt. Hình như chúng ta nghe thấy tiếng chuột, phải không Benjamin?"
Benjamin gật đầu lia lịa.
"Ta nghĩ ta đã nghe thấy tiếng chó sủa." Nội Bone hoài nghi nhìn Benjamin trừng trừng. "Con chó của mày đâu?"
"Nó...hôm nay nó không đi với cháu" Benjamin nói, hầu như nghẹn lời vì đau buồn. Từ chỗ mụ ta đứng lên, liệu nội Bone có thấy bức tranh bị bóc giấy gói. Nó nghĩ là có.
"Thật bất thường. Mày mà không mang theo chó. Tưởng nó là cái bóng của mày chứ?" người phụ nữ cao nguẩy gót bước đi, còn thòng thêm "Tao sẽ ra khỏi tầng hầm đó nếu tao là mày. Coi bộ sẽ có cái con hơn cả chuột ra bắt mày đó. À mà này, Charlie đâu?"
"Đi tới tiệm sách," ngoại Maisie nói vội. "Và Benjamin cũng định tới đó, phải không Ben?"
"È...dạ"
Benjamin thiểu não lê bước lên cầu thang tầng hầm. Nó cảm thấy mình phản bội Hạt Đậu vì để mặc con chó bị kẹt bên trong bức tranh khủng khiếp. Nhưng nó còn làm gì khác được nữa? Ông cậu Paton của Charlie sẽ cung cấp câu trả lời. Ông thường biết làm gì khi xảy ra sự cố.
Ngoại Maisie nhìn theo Benjamin ra cửa và nói "Cẩn thận nha cưng. Ta không thích nghĩ đến việc con đi một mình trong thành phố này mà không có con chó đi cùng."
"Cháu mười một tuổi rồi" Benjamin nhắc bà "Gặp lại bà sau, thưa bà Jones"
"Ta hy vọng thế, cưng" ngoại Maisie đóng cửa lại.
Benjamin chỉ mới dợm đi được vài bước trên đường là nó đã cảm nhận sâu sắc cái phần thân thể bị mất mát của mình. Phần con chó. Trước đây có lần nó đã không có Hạt Đậu ở bên, khi ba mẹ nó tới HongKong. Nhưng lúc đó rất khác. Đây là thành phố mà hầu như chẳng thể gọi là bình thường. Không hề báo trước, người ta có thể tự dưng biến mất, đèn đường tự nhiên nổ tung, tuyết rơi vào mùa hè.
Tiệm sách cô Ingledew không xa đường Filbert, nhưng hôm nay Benjamin có cảm giác dường như là một vực thẳm choán giữa nó và sự an toàn. Nó mới đi được một nửa đường Đồi Cao thì thấy bên kia đường có hai đứa trẻ khác. Một đứa là Joshua Tilpin, cái thằng quắt quéo, luộm thuộm, mặt lúc nào cũng càu cạu, và bên cạnh nó là thằng cao hơn, nước da mét xanh màu lá cây, dáng đi liểng xiểng. Dagbert kẻ-dìm-chết-người.
Giả bộ như không trông thấy bọn chúng, Benjamin bước đi thờ ơ, nhưng từ góc mắt nó thấy Dagbert đẩy Joshua và chỉ qua đường về phía nó.
Benjamin hoảng hồn. Thay vì đi tiếp trên con đường, nó tạt vô một ngõ
hẻm. Trong vài phút nó đứng trong bóng tối, nhìn ra hai thằng kia. Mình thật ngu, nó tự xỉ vả. Mắc mớ gì mình phải sợ hai thằng học chung trường với Charlie đó? Đúng ra nó đâu có biết chúng. Nhưng sao bọn chúng khiến nó rởn tóc gáy. Joshua khét tiếng làm cho người ta mất nhụt ý chí - không phải kiểu như thôi miên, nhưng theo kiểu mà người ta gọi là lực từ trường. Còn về Dagbert, thằng này có thể dìm người ta chết đuối. Mới đây nó đã định dìm chết Charlie dưới sông.
Liếc tới con đường sau lưng nó, Benjamin thở phào khi nhận ra mình đang đứng ở đâu. Nó liền co giò chạy.
"Sao vậy, Benjamin Brown?" một giọng gọi nó. "Mất chó à?"
Benjamin không ngoái lại. Joshua và Dagbert chắc hẳn đã băng qua đường đi theo nó.
"Mày không phải sợ tụi tao, nhóc Ben" Dagbert quát. "Charlie đâu?"
Suýt nữa thì vấp té, Benjamin lao bổ vô quảng trường rải sỏi. Ở chính giữa quảng trường tọa lạc một ngôi nhà cũ, đứng riêng biệt. Xung quanh là những bức tường thấp và một khu vườn ngập cỏ. Một tấm biển tơi bời mưa gió, đóng đinh trên cổng, đề Mái ấm gia đình Gunn. Ngoài ra trên tấm biển còn vẽ chi chít những nốt nhạc: nốt móc đôi, nốt móc đơn, nốt trắng, nốt tròn mặc dù, chẳng cần phải nhìn những ký hiệu âm nhạc đó người ta cũng biết một gia đình nghệ sỹ sống ở đây. Tiếng ồn từ trong nhà phát ra quả là inh tai nhức óc. Những bức tường rung lên bởi tiếng trống, tiếng đàn violin, tiếng sáo, tiếng cello, và tiếng hát.
Benjamin nhấn chuông cửa và một giọng được thu âm sẵn rống lên inh ỏi "MỞ CỬA! MỞ CỬA! MỞ CỬA!"
Tiếng kêu cửa nhà Gunn luôn khiến Benjmin bứt óc nhưng nếu là một
tiếng chuông thánh thót thì đảm bảo nó sẽ chìm lỉm trong tiếng nhạc và khách khứa hẳn là sẽ chờ vô vọng nơi bậc cửa.
Cánh cửa do Fidelio Gunn mở, một tay cầm cây đàn violin và tay kia cầm cái vĩ. "Chào Ben, Charlie đâu?" cậu bé mặt đầy tàn nhang hỏi.
Một tiếng "Ối" thét lên đằng sau Benjamin.
"Charlie...é....cho em vô, ĐƯỢC KHÔNG?" Benjamin hỏi. Thoáng thấy bóng bọn đuổi theo Benjamin, Fidelio bảo "Vô mau đi". Benjamin nhảy phóc vô Mái ấm Gia đình Gunn và Fidelio đóng cửa lại.
"Có chuyện gì thế hả, Ben?" Fidelio dẫn đường đi vô căn bếp hỗn độn. Một con mèo xám đang ăn bữa sáng thừa chưa được dọn khỏi bàn và một phụ nữ mặc váy dài sặc sỡ đang hát bên bồn rửa chén. Một bé gái mặt cũng đầy tàn nhang đang lên dây đàn violin ở bên cạnh bà.
"Nhạc nhẹ chút đi mẹ!" Fidelio hét tướng lên. "Mimi, đem đàn của em ra chỗ khác."
Bác Gunny ngoái nhìn qua vai và cất tiếng hát vang, "Benjmin Brown. Ngạc nhiên làm sao! Lẽ nào tôi có thể tin vô mắt mình! Chú chó ấn tượng của cháu đâu rồi?"
"Charlie Bone đâu?" Mimi hỏi, đồng thời gẩy một dây đàn.
"Này, Benjamin là người có quyền riêng của mình" Fidelio nói. "Cậu ấy khồng cần phải có thứ phụ thuộc".
"Có cái gì?" Mimi hỏi, gảy một dây đàn khác.
"Đồ phụ tùng" bà mẹ cô bé đáp. "Chú chó của Benjamin không vĩnh viễn
gắn vào cậu ấy, cả Charlie cũng không. Ngồi xuống đi Ben.
Benjamin kéo một cái ghế ra và ngồi xuống. Cảm thấy đói bụng, nó bộc một mẩu bánh mì khô lên cắn.
"Pudding mới liém vô đấy" Mimi cảnh báo.
Benjamin ngó nhìn con mèo xám và buồn bã thả miếng bánh xuống.
Fidelio kéo ghế ngồi cạnh nó và chồm tới trước, chống vùi chỏ lên bàn. Mimi thôi gảy đàn violin và ngồi vắt vẻo lên bàn ở đầu kia. Bác Gunn ngâm nga khe khẽ trong khi đang chà cái gì đó ở trong bồn rửa.
"Gì đó Ben?" Fidelio hỏi. "Không phải vì cái bọn ngớ ngẩn ngoài kia đáy chứ?"
"Không" Benjamin nhìn Mimi.
"Mimi luôn biết óc chuyện gì đang xảy ra" Fidelio nói. "Em không thể giữ bí mật với nó được đâu, nhưng nó có thể giữ bí mật được cho em, phải không Mimi?"
"Môi của em luôn gắn chặt lại" Mimi ngoác với Benjamin một nụ cười rộng nhưng môi thì mím chặt.
"Ờ, được" Benjamin bắt đầu câu chuyện có phần rề rà, nhưng đến đoạn cao trào Hạt Đậu biến mất thì đột nhien nó kể gấp gáp trong làn nước mắt tuôn đầm đìa.
"Anh không thể tin nổi, " Fidelio ngồi thẳng lại. "Trước đây Charlie có bao giờ mang chó đi với nó đâu. Anh không biết là nó có thể làm được điều đó.''
"Nó không mang Hạt Đậu đi". Benjamin rống to. "Hạt Đậu biến mất rất lâu sau khi Charlie vô trong bức tranh. Ít nhất là em nghĩ thế. Nhưng Charlie
không bao giờ đi vô cái gì phải không? Người nó luôn ở ngoài. Chỉ có tâm trí nó đi vô thôi."
"Tính cho tới bây giờ" Fidelio nhận xét. "Có lẽ tài phép của nó đã phát triển."
Benjamin lắc đầu. "Có gì đó không bình thường, Fido". Nó đứng lên và bước tới cánh cửa sổ nhìn ra quảng trường. "Bọn đuổi theo em chuồn rồi. Em nghĩ em tranh thủ chạy ào tới tiệm sách đây. Ông cậu của Charlie sẽ biết phải làm gì."
"Ông ấy....ông ấy....ông ấy... Có vấn đề về chuyện làm nổ phải không?" bác Gunn hát réo rắt.
"Gì ạ?" Benjamin hỏi.
"Ông cậu Paton, ông Yewbeam" bác Gunn thả giọng rơi tòm xuống. "Chắc chắn ông ấy đang yêu một phụ nữ trung thực là cô Ingledew. Làm sao ông ấy có thể cưỡng nổi? Ông ấy sẽ cưới cô ấy. Cả thành phố này đang chờ".
"Ý mẹ là mẹ đang chờ thì có" Fidelio nói. Nó quay qua Benjamin "Anh sẽ đi với em, Ben à. Đừng nghĩ là em một mình đơn độc trong thành phố này khi không có con chó của em".
"Em mười một tuổi rồi" Benjamin thở dài.
"Còn anh mười hai" Fidelio dứt khoát. "Có khác đấy".
Sau nhiều tuần bầu trời ảm đạm và gió rét, hôm nay có vài tia nắng yếu ớt bắt đầu tỏa xuống thành phố. Chúng chẳng thể nâng tinh thần của Ben lên được. Nó cảm thấy giận dữ với Charlie vì đàm làm một việc quá rủi ro. Nhưng thế mới là Charlie. Thằng đó luông đâm sầm vô những rắc rối mà không suy nghĩ gì ráo.
Dường như có thể đọc được tâm trí của Benjamin, Fidelio nói "Có thể Charlie không bao giờ có ý dịnh đi vô bức tranh đó. Rất có thể nó chỉ bị hút vô, ngoài ý muốn của nó, như con chó của em vậy"
"Hừ" Benjamin lầu bầu.
Hai thằng lúc này đang rẽ vô con đường hẹp rải sỏi dẫn đến Nhà Thờ Lớn. Hai bên đường, những ngôi nhà khung gỗ với mái ngói cong cổ xưa đổ bóng xuống mặt đường rải sỏi thành những góc nguy hiểm. Tiệm sahc ở ngay đối diện nhà thờ mái vòm đồ sộ. Một tấm biển gắn trên cửa đề Cô Ingledew bằng lối chữ bay bướm, hoài cổ, trong cửa sổ trưng hai quyển sách khổng lồ bọc da, đặt trên đệm vải nhung đỏ đậm. Cô Ingledew bán toàn sách quý và hiếm.
Nếu hai thằng bé có để ý thấy chiếc xe bóng nhoáng màu đen đậu bên ngoài tiệm, thì chúng cũng không mảy may nghĩ tới nó mà hấp tấp lao thẳng vô. Một cái chuông nhỏ gắn bên trong cửa rung lên vui tai khi chúng bước vô nơi bán sách. Tuy nhiên, cảnh tượng chúng trông thấy chẳng dễ chịu tý nào.
Ngồi trên chiếc xe lăn bên cạnh quầy là lão Ezekiel Bloor, chủ học viện Bloor. Ngài Ezekiel, như lão thích được gọi thế, một trăm lẻ một tuổi, với cái đầu mà nếu xui xẻo nhìn trúng thì ai cũng bảo nó giống một cái hộp sọ động đậy. Thân người lão trùm trong tấm chăn len kẻ ô vuông, đầu đội mũ len đỏ
ôm che khít vàng tai nhăn nheo. Có rất ít thịt bao cái mũi tổ bố, gô flên như cái mấu hay đôi gò má xương xẩu và cái cằm dài của lão. Tuy vậy, mắt Ezekiel lại còn ghê hơn. Chúng quắc trợn bên dưới mảng trán lồi và đen thui như mắt trẻ lên mười.
Đằng sau chiếc xe lăn của lão già có một gã đàn ông lực lưỡng trọc đầu: gã Weedon, kẻ sai vặt ở trường, tài xế riêng, tay làm vườn. Không có gì mà gã không làm theo lệnh của lão Ezekiel, kể cả giết người.
Fidelio và Benjamin chắc hẳn rất vui mừng nếu chúng lùi ra được khỏi
tiệm, nhưng đã quá trễ để tẩu thoát. Chúng lần chần đi xuống ba bậc thang dẫn vô tiệm.
"A ha!" lão Ezekiel rống lên. "Bọn ta có gì ở đây thế này? Những khách hàng lạ lùng đến mua sách hiếm, ta nói thế đấy. Ta cá là bọn bay chưa để dành nổi 100 bảng đâu, Fidelio Gunn, với đứa xuất thân từ gia đình tám con như nhà mày thì còn lâu. Mày không kham nổi đôi giày nữa là, ta nói thế đấy". Lão chĩa tia nhìn móc mỉa vô đôi giày thể thao mòn tưa của Fidelio.
Fidelio ngượng nghịu đổi chân, nhưng nó không phải loại dễ bắt nạt, cho dù là bởi lão chủ học viện đi chăng nữa. "Tôi để dành tiền học, thưa ngài" nói nói. "Và chúng tôi đến gặp Emma Tolly".
"Bạn gái mày à?" lão Ezekiel khịt mũi. "Con chim nhỏ hả?" "Không phải thưa ngài" Fidelio điềm tĩnh nói. "Cô ấy là bạn."
"Còn anh chàng khẳng khiu nào đang cố núp trong bóng tối kia?" lão Ezekiel vặn đầu lại để nhìn Benjamin, thằng này đúng là đang cố núp sau lưng Fidelio. "Mày là ai? Nói!"
Benjamin lúc này tâm trí đang ở đâu đâu, chỉ chăm chắm lo tìm Hạt Đậu, nó hầu như không tập trung vô cái gì, tuy nhiên nó biết nó không nên nói chuyện con chó của nó biến mất cho lão Ezekiel.
"Nói mau, thằng ngu!" lão già quát.
Fidelio đỡ lời "Bạn ấy là Benjamin Brown, thưa ngài. Bạn của Charlie."
Gã Weedon quyết định chen vô cuộc đàm thoại. "Thế hôm nay Charlie đâu?" hắn hỏi, nhếch mép khinh bỉ.
Benjamin lào khào "Bận."
Lão Ezekiel bật ra một tiếng cười quái gở. "Ta biết mày rồi. Ba má mày là thám tử tư. Bọn chó săn hão huyền. Con chó của mày đâu, Benjamin Brown?"
Benjamin cau mặt lại, nghiến chặt răng và thảy cho Fidelio một cái nhìn tuyệt vọng. "È...er...."
Fidelio ra tay giải cứu. "Nó đi bác sĩ thú y rồi. Benjamin rất buồn"
Lão Ezekiel ngửa đầu ra sau mà cười lục cục. Gã Weedon phụ họa bằng một tràng cười gằn, trong khi hai thằng bé im lặng nhìn bọn chúng, trong lòng hoang mang. Có gì tức cười với việc con chó đi thú y?
Bức màn gió đằng sau quầy tách ra và một phụ nữ duyên dáng có mái tóc màu hạt dẻ xuất hiện. Tay cô cầm một quyển sach nhũ vàng nặng trĩu, rồi cô cẩn thận dặt nó lên quầy. "Chào các cháu. Cô không biết các cháu đến đây" cô Ingledew nói.
"Chúng đi theo con chim nhỏ" lão Ezekiel cười khẩy.
Cô Ingledew tảng lờ lời nhận xét của lão. "Tôi nghĩ chắc là ngài muốn quyển này, ngài Bloor" cô nói, quay quyển sách ra để lão có thể thấy cái tựa.
"Bao nhiêu?" lão hỏi cộc lốc.
"Ba trăm bảng" cô Ingledew bảo với lão.
"Ba trăm." Lão Ezekiel đập rầm bàn tay đầy chấm đồi mồi xuống quyển sách quý, khiến cô Ingledew nhăn mặt. "Ta chỉ muốn xem một chút xíu về cái hộp gỗ quý khảm xà cừ, ngày tháng năm và kích thước của nó này kia thôi." Lão Ezekiel bắt đầu lật những trang sách bằng những ngón tay dài, u mấu "Giúp tao, Weedon".
Nhân lúc lão già chúi mũi vô quyển sách, hai thằng bé lật đật băng qua cửa hàng, vòng ra sau quầy. Lão Ezekiel bắt đầu lít rít về chữ nhỏ quá khi chúng chuồn qua khỏi bức màn gió và vo ophòng sau của cô Ingledew.
Trong đây thậm chí còn nhiều sách hơn ở ngoài tiệm. Sách phú kín những bức tường từ sàn tới tận trần nhà: những quyển sách bạc màu, tĩnh tại, những quyển lớn xếp ở kệ dưới cùng, và những quyển nhỏ xếp ở kệ trên cùng. Sách khiến cho căn phòng nồng mùi ẩm mục và mùi da thuộc chứ không dễ chịu.
Nhưng dù sao đó cũng là phòng khách, cho nên nó có vài cái bàn nhỏ, ghế sofa, hai chiếc ghế bành, một cái ghế đứng bọc da và một cái bàn làm việc. Cúi hẳn người trên bàn viết là một người đàn ông tóc đen, mà cho dù đang ngồi ông vẫn cao lớn khác thường.
Người đàn ông không để ý đến hai thằng bé mà vẫn tiếp tục chú mục vô những trang sách trước mặt.
Fidelio hắng giọng.
Không ngẩng đầu lên, người đàn ông nói "Nếu cháu muốn gặp Emma và Olivia thì chúng nó tới quán cà phê Thú Kiểng rồi".
"Thật ra, thưa ông Yewbeam, tụi cháu muốn gặp ông" Fidelio nói. "À" ông cậu của Charlie nói. "Ta đang bận"
"Đây là khẩn cấp ạ" Benjamin kêu lên. "Charlie đang đi vô một bức tranh, cả con chó của cháu nữa và tụi nó không ra"
"Chúng sẽ ra" ông cậu Paton tiếp tục nghiên cứu sách. "Rồi sẽ ra"
"Ông không hiểu" Fidelio nói bằng giọng khẩn cấp nhất mà cái giọng của nó có thể triệu tập được. "Lần này cả người Charlie đi hẳn vô - cả người nó đã biến mất...mất tăm"
Ông cậu Paton ngước mắt lên liếc nhìn tụi nó qua đôi kính nửa vầng trăng. "Mất tăm?"
"Vâng. Thưa ông Yewbeam. Đi hoàn toàn" Benjamin nói, sắp òa khóc tới nơi. "Cái bức tranh đó ở dưới tầng hầm nhà ông và bà của Charlie, bà ngoại dễ mến í, bảo cháu xuống coi giúp vì Charlie đã biến mất trước đó rồi. Vì vậy cháu đi xuống, Hạt Đậu đi theo cháu, và thế là, nó cũng...đi vô đó luôn".
Ông cậu Paton nhíu mày. "Bức tranh gì vậy, Benjamin?"
"Kinh khủng" Benjamin. "Bao nhiêu ngọn tháp và núi. Có một cái tên ghi ở cuối bức tranh. Xứ Badlock, cháu nghĩ nó ghi vậy".
"Xứ Badlock!" ông cậu Paton đứng bật dậy khỏi ghế nhanh đến nỗi chiếc ghế đổ kềnh ra sàn, tất cả giấy bay tung khỏi bàn.
"Đó là một nơi nguy hiểm ạ?" Benjamin nín thở hỏi.
"Nơi tồi tệ nhất thế gian" ông cậu Paton nói. "Mặc dù ta không chắc chắn nó có thật trên đời này hay không"
Miệng Benjamin há xệ ra. Nó nhìn trơ trơ ông cậu Paton Yewbeam, cố hiểu xem ông vừa nói gì. Ngay cả Fidelio cũng không thốt lên lời.
"Không còn thời gian để mất nữa, các cậu. Mau lên". Ông cậu Paton gạt phăng tấm màn gió và sải bước ra ngoài tiệm, Fidelio và Benjamin luýnh quýnh theo sau.
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 4
Món đuôi trụi hầm
Cô Jula Ingledew đang hớt hải nhìn chừng lão Ezekiel Bloor khi lão lật giở quyển sách quý của cô. Cô không thích cái cách lão mạnh bạo giật trang giấy ra xa khỏi người lão nhằm cố ý gây thêm thiệt hại cho sách như thế. Tuy nhiên, khi thấy ông cậu Paton, lão già cũng ngước lên.
"A ha! Paton Yewbeam!" Lão Ezekiel la ré. "Tưởng chú không ra ngoài ban ngày chứ"
"Tôi ra ngoài khi tôi thích" ông cậu Paton độp lại, giật cái phũ phớt khỏi giá treo mũ ở góc phòng.
"Hừm" lão già khịt mũi khi ông cậu Paton bước về phía cửa. "Giờ ta biết rồi, chả trách tại sao cái cửa hàng tình tang này lại tối thế. Bà phải gắn chút điện ở trong đây chứ, Bà Sách"
Ông cậu Paton dừng phắt giữa chừng, khiến Benjamin tông sầm vô ông. "Coi chừng cái lưỡi của lão đó, Ezekiel Bloor" ông cậu Paton gầm to.
"Không thì sao...?" lão Ezekiel cười khẩy. "Ta hy vọng ngươi không nghĩ đến việc cầu xin người phụ nữ tốt này cưới mi, Paton. Cô nàng sẽ chẳng bao giờ được ngươi ngỏ lời đâu, người thừa biết thế". Lão phọt ra một tràng cười khùng khục.
Lũ trẻ len lén nhìn cô Ingledew và ông cậu Paton Yewbeam đang mặt mày đỏ lựng lên. Lão Ezekiel lơi quyển sách ra để quệt miệng và cô Ingledew nhân cơ hội đó bèn tước quyển sách hiếm khỏi tay lão. Gã Weedon giật quyển sách lại.
Đã qua khỏi cơn bối rối, ông cậu Paton nói. "Cảm phiền lão bỏ cái mũi của lão ra khỏi việc của tôi, lão Bloor"
"Thì ngươi cứ chạy việc của ngươi đi", bàn tay ướt nhép của lão Ezekiel phẩy một cái chỏng lớn.
Ông cậu Paton chùng chình, ngó trừng trừng lão già. "Tôi hy vọng lão chưa phá hỏng một quyển sách hiếm". Ông nhìn cô Ingledew. "Ju...cô Ingledew, cô có muốn tôi...?"
"Không, không" cô Ingledew hấp tấp, vẫn còn đỏ mặt. "Ông đi đi, Pa...ông Yewbeam. Tôi thấy việc khẩn cấp đấy".
"Đành vậy". Ông cậu Paton lưỡng lự trong khổ sở. Rõ ràng ông muốn ở lại để bảo vệ cô Ingledew nhưng Benjamin đã ra tới bậc thang và kéo giật ông tay áo ông.
"Em sẽ gọi cho ông" cô Ingledew cầm điện thoại di động của cô lên " nếu có gì không hay"
"Thế nhé" ông cậu Paton nhìn cô một áci đầy ý nghĩa và bước qua khung cửa mà Benjamin đã nôn nóng mở ra sẵn.
"Ông sẽ làm gì ạ, ông Yewbeam?" Fidelio hỏi khi cả đoàn phóng nhanh trên đường.
"Còn tùy xem cái gì là cần thiết" ông cậu Paton nói.
"Ô kìa!" Benjamin chỉ xuống đường.
Đang chạy về phía họ là hai cô bé: Emma Tolly mặc áo khoác có mũ trùm đầu, mái tóc màu vàng bay lòa xòa trước mặt, đang đánh vật với một cái giỏ, trong khi bên cạnh cô bé là Olivia Vertigo cũng đang xách một cái giỏ, cái này nhỏ hơn và rõ ràng là dễ mang hơn. Olivia trông lạ mắt trong chiếc áo lạnh ngoại cỡ, chiếu ra lóa chóa những NGÔI SAO từ mảng kim sa vàng óng đính ở vạt trước. Con nhỏ còn đội thêm một chiếc mũ trắng tinh và quàng khăn cổ màu vàng rực. Tóc nó nhuộm tím rịm.
"Ông Yewbeam" Olivia í ới. "Ông phải giúp tụi con"
"Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi ạ" Emma kêu to. "Có một việc kinh khủng vừa mới diễn ra."
Hai đoàn gặp nhau giữa đường.
"Chúng ta đang cực bận" ông cậu Paton sượt qua chúng và tiếp tục sải bước.
"Có chuyện kinh khủng gì vậy?" Benjamin hỏi, không sao cưỡng được phải dừng lại.
"Quán cà phê Thú Kiểng bị đóng cửa" Emma hét lạc giọng. "Vĩnh viễn. Kinh khủng quá. Tụi này thấy ông Onimous ngồi bên bàn. Đầu cúi gục vô tay. Trông rất sầu thảm."
"Chúng ta sẽ đối phó với việc đó sau Em" Fidelio bước vòng qua hai đứa con gái. "Có việc còn tệ hơn thế đã xảy ra với Charlie".
"Và Hạt Đậu nữa" Benjamin thêm. "Cả hai biến mất. Mất tiêu. Tự dưng tan biến vô một bức tranh".
Emma đặt cái giỏ xuống, từ trong đó phát ra một tiếng quác lớn. "Rồi các cậu định làm gì?"
"Tụi này không biết, để tới nhà Charlie rồi tính" Fidelio nói, lo lắng nhìn theo thân hình đang cắm cúi bước đi của ông cậu Paton.
"Tụi này sẽ tới ngay!" Olivia không bao giờ chịu đứng ngoài sự kiện nào. "Tụi mình về tiệm cất thú cưng đi Em".
"Tớ không vô tiệm đâu nếu tớ là đằng ấy". Fidelio nói ngoái qua vai. "Lão Bloor già đang ở đó đó".
Hai thằng bé vụt đi trong khi hai đứa con gái đứng tần ngần. Cuối cùng Emma quyết định mình không thể để dì Julia một mình đối phó với lão Bloor. Cô bé đi tiếp đoạn đường cùng vịt Namcy, trong khi Olivia co giò đuổi gấp theo sau hai thằng bé cùng với con thỏ trắng tên là George của nó.
Đây là thời điểm tiến thoái lưỡng nan đối với ông cậu Paton. Ông đã tới đường Đồi Cao, nơi có đèn rực rỡ trong từng cửa sổ bày hàng. Ông cậu Paton kéo sụp vành mũ xuống che mặt, cố một cách vô ích đừng liếc nhìn cửa sổ. Nhưng hôm nay là thứ bảy và đường Đồi Cao ken đặc người đi mua sắm. Những đám mây nhè nhẹ sau trút xuống ào ạt. Những cái dù vội vã giương lên, do vóc người cao lớn nên ông cậu Paton lập tức rơi vào tầm nguy hiểm. "Coi chừng!" ông thở hốc khi suýt nữa thì bị một cây dù chọc mất một con mắt. Nghiêng người né qua bên, ông thấy mình ngó thẳng vô một cánh cửa sổ trưng đầy những ma-nơ-canh đang tạo dáng.
"BỐP" tấm kính cửa sổ vỡ vụn.
Giữa tiếng kêu thét thất kinh và cảnh nào loạn, ông cậu Paton quầy quả đi tiếp. Ông không để ý là đang có đèn đỏ nên cứ thế lướt đi, thành ra một chiếc Volvo xanh da trời lại suýt tông trúng ông. "Xin lôi, xin lỗi", ông cậu Paton
nói, liếc nhìn đèn xi nhan của một chiếc xe hơi. Lần này vụ nổ êm hơn, chỉ một tiếng phụp nhẹ. Người tài xế không để ý và ông cậu Paton lên được lề đường mà không bị phát hiện.
Rủi thay, một chiếc xe hơi khác, thắng không kịp đã tông sầm vô chiếc Volvo. Hai người tài xế nhoài người ra tuôn xối xả những lời lẽ thô thiển vào không khí ẩm ướt.
Bán tín bán nghi là ông cậu Paton có liên quan đến cánh cửa sổ vỡ, hai thằng bé chen lấn qua đám đông tới nơi vừa kịp lúc chứng kiến tai nạn mới nhất của ông. Gần về tới nhà số 9, đường Filbert thì chúng bắt kịp ông.
"Phải ông làm không ạ?" Benjamin hỏi. "Ý cháu là về cánh cửa sổ" "E là vậy, Benjamin. Ta rất biết ơn cháu đã im lặng về sự việc". "Dạ vâng, ông Yewbeam".
Họ lên những bậc cấp nhà số 9, ông cậu Paton đi đầu. Vừa mở cửa ra, ông liền đặt một ngón tay lên môi và thì thầp gấp gáp. "Không một lời, bà chị ta đang ở nhà"
"Bà ấy à" Benjamin thì thào lại.
Bỗng có tiếng ré lên từ dưới đường và Olivia chạy như bay đến chỗ họ, cái rổ đung đưa trong tay. "Chờ con với!" nó gọi.
"Suỵt!" cả hai thằng cùng nhắc.
"Xin lỗi" Olivia thở lấy hơi. "Có bà nội cuồng trí đó ở nhà không?"
Benjamin gật đầu. Olivia loáy hoáy leo lên bậc cấp và nhảy tọt vô hành lang cùng mọi người. Ông cậu Paton lặng lẽ đóng cửa lại, và Olivia đặt phịch cái rổ của nó kế bên giá mắc áo khoác.
Họ kiễng chân đi vô nhà bếp, ở đó ngoại Maisie đang chờ thấp thỏm. "Không có gì xảy ra", bà nói liền. "Không một dấu hiệu. Tôi cứ để mắt nhìn nó luôn nhưng bức tranh thổ tả đó cứ ở nguyên đấy, dòm lại tôi. Ông biết không? Tôi có cảm tưởng là nó toát lên vẻ tự mãn vây."
"Chúng ta cùng xem nào". Ông cậu Paton bỏ mũ ra.
Bụng Benjamin sôi rột lên một cái, nghe thấy rõ.
"Ối trời ơi" ngoại Maisie kêu lên. "Tôi quên làm bữa trưa. Lần đầu tiên đấy. Để tôi lo liệu xong ngay trong khi mọi người xuống tầng hầm."
Ông cậu Paton cho rằng không nhất thiết phải kéo cả đoàn xuống đó. Bảo Fidelio và Olivia đợi trong nhà bếp, ông chọn Benjamin tháp tùng mình. Dù sao Benjamin cũng đã chính mắt trông thấy Hạt Đậu biến mất, và nó có thể cho ông biết bức tranh có gì thay đổi không.
Ông cậu Paton thắp ba ngọn nến trong cái giá đặt trên tủ đựng ly chén. "Bất kể làm gì cũng không được bật đèn tầng hầm lên nghe chưa", ông dặn Benjamin.
"Vâng ạ, ông Yewbeam", Benjamin nói dứt khoát.
Ông cậu Paton xuống cầu thang theo kiểu giật lùi, tay phải cầm giá nến. Benjamin theo sau.
"Trời, nơi gì mà gớm ghiếc!" ông cậu Paton tuyên bố khi ánh nến run rẩy chiêus lên bề mặt bức tranh.
Benjamin rùng mình. Xứ Badlock trông ghê rợn hơn lần trước. Trong ánh nến nó càng toát ra vẻ hãi hùng. Benjamin không dám nghĩ cái gì có thể xảy đến với Hạt Đậu trong cái xứ sở khủng khiếp ghê hồn này. Bất ngờ, nó trông
thấy. Ở cuối bức tranh, đang ló ra khỏi góc của một trong những tòa tháp, là một con chó. Hạt Đậu. Miệng nó há ra trong tiếng tru câm nín.
Benjamin thét lên.
"Gì thế..." ông cậu Paton suýt đánh rơi cái giá nến.
"Nhìn, nhìn kìa ông Yewbeam!" Benjamin chỉ ngón tay run rẩy vô Hạt Đậu.
Ông cậu Paton cúi sát hơn về phía cái đầu của con chó.
Tiếng thét của Benjamin khiến cho mọi người ở bên trên chạy xồ tới cánh cửa tầng hầm.
"Gì thế? Chuyện gì thế?" ngoại Maisie lo lắng.
"Cho con xuống được không?" Olivia nài nỉ. "Con không thể chịu nổi nếu không biết có gì dưới đấy".
"Hạt Đ...ậu ở đâ...ây..." Benjamin lắp bắp.
"Ở đây?" Fidelio nói.
"Ở đây....nhưng không phải ở đây. Ở đó" Benjamin mếu máo.
"Trong bức tranh". Giọng của ông cậu Paton đẩy bầu không khí căng thẳng lên thành mối uy hiếp. Vậy là quá đủ cho Olivia, nó nhào ngay xuống cầu thang. Giữa chừng thì khựng lại bởi một tiếng thét trong hành lang.
"THỎ!" nội Bone hét.
Nội Bone sợ hầu như mọi thú vật, nhưng giống thỏ vô hại mới là thứ mụ ghét cay ghét đắng.
Olivia lưỡng lự leo thụt lùi xuống, trong khi Fidelio bình thản bảo "Không sao đâu bà Bone. Nó không cắn bà đâu"
"ĐỒ QUỶ" nội Bone rú rít và rồi mụ trông thấy Olivia. "Mày làm gì ở đây, con nỡm?"
Olivia chưa bao giờ bị gọi là con nỡm. Nhưng nó hơi khoai khoái, bởi vì thỏ George của nó đã sổng khỏi giỏ và lúc này đang chạy lên tới giữa cầu thang, phởn chí gặm tấm thảm. Nội Bone đứng ở đầu cầu thang, một con mắt nheo híp lại, con kia kinh hoàng theo dõi từng cử động của con thỏ.
Olivia phóng lên khỏi cầu thang, tóm lấy con thỏ và mang giúi trở vô giỏ. "Thật tình nó không làm đau một con ruồi" nó vừa càm ràm vừa cột chặt nắp giỏ.
"Tao hỏi mày đang làm gì ở đây." Cảm thấy đã an toàn hơn, nội Bone lạch bạch đi xuống cầu thang.
Trước khi Olivia kịp nghĩ ra câu trả lời. Ông cậu Paton đã nhô lên khỏi tầng hầm và nói "Tôi nghĩ đã đến lúc bà phải trả lời một vài câu hỏi của tôi, Grizelda"
"Hỏi gì?" nội Bone nguẩy đầu qua với vẻ đề phòng.
"Hỏi rằng....làm sao bức tranh ở dưới tầng hầm, và nó từ đâu được mang tới đây?"
"Không phải việc của mày". Với một cái liếc hống hách về phía chiếc giỏ nhốt George, nội Bone lết xuống cầu thang, băng qua hành lang vô phòng khách. Ông cậu Paton đi theo mụ và ba đứa nhóc kéo lũ lượt theo ông. Nhưng còn ngoại Maisie thì ngồi phịch xuống chiếc ghế ở hành lang, vuột ra một tiếng thở dài não nề.
"Đó là việc của tôi" ông cậu Paton cương quyết.
Nội Bone ngồi phạch xuống chiếc ghế bành và cầm tờ báo lên.
"Chị có nghe tôi nói không đấy, Grizelda?" ông cậu Paton gầm vang, và rồi, trước sự ngỡ ngàng của ba đứa trẻ đang đứng xớ rớ ở cửa, ông nói toẹt ra, "Thằng cháu của chị đã biến mất vô bức tranh đó."
Benjamin lắp bắp. "Chúng ta không nên nói cho bà ấy...."
Nội Bone đặt tờ báo xuống. Khuôn mặt quàu quạu dài thượt của mụ thoáng hiện lên vẻ khoái trá. "Nhưng đó là tại nó" mụ điềm nhiên bảo.
Bên trong tòa tháp của người khổng lồ, Charlie vẫy Hạt Đậu một cái thật nhanh trước khi được hạ xuống sàn nhà của ngài Otus.
"Một con chó ư?" ngài Otus nói. "Diện mạo chúng không bao giờ được thấy ở xứ Badlock."
"Chúng ta phải cứu nó trước khi bọn quỷ lùn tàn ác trở lại" Charlie vừa nói vừa đi ra cửa.
"Con trai, chờ đã!" ngài Otus ra lệnh. "Việc này không đơn giản thế."
"Ở đây không có gì đơn giản cả." Charlie bắt đầu chạy xuống cầu thang đá hình xoáy trôn ốc.
"DỪNG LẠI!" tiếng gầm của người khổng lồ dội âm khắp cầu thang khiến Charlie buộc phải nghe lời. "Coi chừng đó là một trờ lừa, Charlie, để dụ con ra ngoài trời. Trở lại đi, ta nài nỉ con đó."
Charlie lần chần bước trở lại căn phòng của người khổng lồ. Nó nhận ra tình thế của mình sẽ trở nên vô vọng nếu cả nó và Hạt Đậu cùng bị bắt. "Cháu thấy để nó ngoài đó một mình thì tội quá" nó nói với người khổng lồ,
"nhất là bây giờ nó đã trông thấy cháu rồi"
"Ta biết, ta biết" ngài Otus thắp một ngọn nến và đặt lên bàn. "Nhưng xung quanh chúng ta đầy rẫy những tòa tháp và lính canh. Trời sắp tối đến nơi rồi, một bóng tối không giống nơi nào khác, Charlie à. Ở xứ Badlock không có sao chiếu sáng, còn ánh trăng thì rất... Hiếm hoi. Vì vậy chúng ta có thể lẻn ra khỏi tháp và cứu con chó tội nghiệp kia."
Người khổng ồ khuấy cái nồi treo bên trên bếp lò. "Ta đã từng có một con chó trong thế giới quê nhà của ta. Đó là một con chó đẹp, nhưng bọn ta đã bị chia cách. Giờ cái xứ Badlock này chẳng hề có chó hay mèo. Chỉ rặt bọ với lũ sinh vật nhớt nhầy, gớm ghiếc, máu lạnh được gọi là vẩy cóc thôi. Chim chóc bay trên nhưng đôi cánh rặt xương không lông, con nào cũng có một cái mỏ dài đáng sợ."
Charlie leo lên giường của người khổng lồ. "Nhưng tại sao không có chó hoặc mèo?"
"Cái bóng và lũ người của hắn cho rằng công dụng duy nhất của sinh vật là cho vô nồi làm thức ăn, hoặc để lấy da làm áo chùng, áo khoác, hoặc thậm chí cả giày. Mọi sinh vật máu ấm đều bị săn lùng, hầu như đã tuyệt chủng cả. Chỉ còn đuôi trụi là sống sót, có lẽ là do bởi chúng sinh sản nhanh như quỷ."
"Thế còn bạch dơi?" Charlie hỏi.
"À, bạch dơi". Ngài Otus mỉm cười. "Bọn chúng không dám động vô bạch dơi, bởi vì bọn chúng cho đấy là ma". Ngài dùng môi múc vài cục thịt hầm bốc khói vô hai cái tô lớn bằng gỗ. "Đi lại bàn nào, hậu-duệ-Charlie của ta, và ăn bữa tối của con đi."
Charlie nhảy xuống khỏi giường và ngồi lên cái ghế cao, trong khi người khổng lồ xé một ổ bánh tròn ra làm hai và đặt bên cạnh mỗi cái tô một miếng.
Sau đó ngài gần như ngồi hẳn lên bàn và bẻ bánh mì nhúng vô món hầm, dùng nó như một cái muỗng. Charlie làm theo. Đuôi trụi hầm hóa ra ngon cực kì, nhưng chắc là tại Charlie đang đói bụng.
Họ ăn trong im lặng một lát. Charlie cứ lấn bấn với ý nghĩ về con chó bên ngoài tòa tháp. Chú ta đang hoảng sợ biết nhường nào. Đến khi bao tử nó đã được món hầm nóng làm cho ấm lên thì nó chỉ còn nghĩ sao mà dễ chịu thế không biết. Chốc chốc nó lại liếc nhìn gương mặt ông tổ của mình. Ngài không có gì giống với người khổng lồ và những người Yewbeam mà nó biết. Nội Bone và mấy bà em có mắt đen híp và miệng mỏng dính, trong khi ngài Otus này có đôi mắt to màu xám và miệng rộng, phóng khoáng. Nhưng dĩ nhiên, nhiều thế hệ đã trôi qua giữa họ.
"Kể cho ta nghe về cuộc sống của con đi" người khổng lồ nói, vét mẩu thịt cuối cùng ở cái tô của ngài.
Charlie liếm ngón tay cho tới khi không còn chút tàn tích nào của món hầm ngon lành nữa, và nó bắt đầu kể. Nó kể cho người khổng lồ nghe chuyện ba nó bị Manfred Bloor thôi miên như thế nào, phải sống mười năm ròng rõ trong một ngôi trường được gọi là học viện Bloor, trong khi không ai biết ông ở đâu. Nó kể tiếp rằng nó, Charlie, đã khám phá ra tài phép có thể đi vô tranh của mình. Nó tả nội Bone và các bà em độc ác của mụ. Nó kể về bạn bè nó, những cậu bé bình thường như Fidelio và Benjamin. "Chỉ có Fidelio không hẳn là bình thường" Charlie thêm. "Anh ấy là thiên tài âm nhạc và một ngày nào đó anh ấy sẽ nổi tiếng.
Tiếp theo Charlie kể lại những cuộc phiêu lưu của nó với những đứa trẻ khác, cũng được ban phép thuật, những hậu duệ của Vua Đỏ, như nó. Emma biết bay, Billy hiểu được tiếng thú vật, Lysander gọi hồn tổ tiên tâm linh của anh ấy, Tancred tạo bão, Gabriel cảm nhận được những việc đã xảy ra. "Và cả Olivia". Charlie bật cười khúc khích. "Bạn ấy là người tạo ảo ảnh, nhưng gia đình Bloor không biết về tài phép của bạn ấy. Bạn ấy là vũ khí bí mật của
tụi con".
"Vậy là cái lão già Ezekiel cổ lỗ này giam giữ bọn trẻ các con trong cái học viện của lão vì...vì...?" người khổng lồ nhìn Charlie với vẻ dò hỏi.
"Vì tài thánh, con nghĩ ở đây ngài gọi như thế", Charlie nói. "Và tụi con không hẳn là bị cầm tù".
"Nhưng dưới sự kiểm soát của lão".
"Thỉnh thoảng tụi con không tuân lệnh".
"Tốt! Tốt!" ngài Otus thốt lên, chập hai bàn tay vào nhau. Ngài liếc ra cửa sổ. "Sắp tối rồi. Con chó có thể được cứu".
"Hạt Đậu!" Charlie hầu như đã quên khuấy Hạt Đậu đáng thương trong khi nó mải kể chuyện cho người khổng lồ nghe.
Ngài Otus dẫn đường đi xuống tháp. Ngài cầm nến để trong một cái đĩa sắt. Nó bốc mùi mỡ cháy và tỏa ra những cái bóng khổng lồ nhún nhảy trên bức tường đá. Khi họ ra tới cánh cửa ngoài, người khổng lồ dừng lại nghe ngóng. Charlie chờ bên cạnh, hầu như không dám thở.
Ngài Otus chưua kịp mở hẳn cửa Charlie đã vèo ra ngoài. Nó đâm sầm vô bức màn đen không thể xuyên thủng, đến nỗi nó cảm thấy như mình vừa bị mù tức thì. Mà qua bức màn đen khủng khiếp đó là gió, thoạt tiên ùa tới từ một hướng, tiếp sau từ hướng khác, đẩy nó dí lưng vô bức tường tháp, kéo hẫng chân nó và thốc vô đầu nó.
"HẠT ĐẬU!" Charlie thét vô trong gió.
Nó chờ một tiếng sủa đáp lại. Nhưng không có tiếng gì vọng át được tiếng gió.
"Tốt nhất là quay lại thôi, con" ngài Otus gọi. "Nó bị bắt rồi."
"Không!" nó chạy đại tới trước. Bất thần nó té dụi. Rồi đáp oạch xuống mặt đất đá sỏi cứng ngắc cùng với một tiếng hự. Quờ một tay ra nó chạm trúng một bức tường nhớp nháp. Có gì lúc nhúc bò qua các kẽ tay nó và nó lại thét lên tiếng nữa.
Đúng lúc đó mang lên một tiếng sủa gằn sâu trong cổ họng, và cho dù ở tư thế nguy hiểm thế này, Charlie vẫn thấy phấn chấn hẳn lên. "Hạt Đậu!" nó gọi.
Giọng của người khổng lồ trôi lều bều bên trên ngọn gió, "Ta là gã khổng lồ đáng nguyền rủa. Đáng ra ta phải báo trước cho con biết về những cái hố. Con đâu rồi, cậu bé?"
"Ở đây!" Charlie kêu to. Nó nghe thấy tiếng giày ống. Một bàn tay tổ chảng chụp lấy tay nó, và rồi nó được nhấc bổng lên dọc theo thành hố. Khi nó được nhấc lên tới mặt đất, một luồng ánh trăng yếu ớt, đứt khúc chiếu cho nó thấy một con chó màu vàng to đùng đang đứng chênh vênh trên miệng hố. "Hạt Đậu!" nó mừng húm.
Hạt Đậu sủa rối rít khi người khổng lồ bê cả thằng bé lẫn nó đi về phía tòa tháp. "Im, chó!" ngài suỵt, đẩy cả hai qua cánh cửa.
Charlie túm lấy vòng cổ của con chó đang mừng rỡ, trong khi ngài Otus đóng cửa lại và cài hai cái then nặng ngang qua.
"Chắc chắn con chó này sẽ khiến bọn ta bị xích cả đêm trươc khi màn đêm qua" người khổng lồ lầm bầm.
"Có ai nghe thấy tiếng chúng ta ạ?" Charlie vuốt đầu Hạt Đậu, cố vỗ cho nó điềm tĩnh lại.
"Ta e là tên hàng xóm của ta đã nghe rồi", ngài Otus thừa nhận khi họ đi lên cầu thang đá. "Tòa tháp của hắn ở sát bên, hắn chẳng phải là người tử tế gì".
Vì bây giờ Hạt Đậu đã tìm thấy Charlie cho nên nó có vẻ ngại leo lên những bậc thang tối. Charlie phải dụ nó bằng những cái vuốt ve và hứa hẹn những cục xương, mặc dù nó không biết có tìm thấy cục nào khi cả đoàn lên tới phòng của người khổng lồ hay không.
Người khổng lồ đã nghĩ trước cả. Đến lúc Charlie lôi được con chó sợ sệt lên đỉnh cầu thang, ngài Otus đã vớt từ trong nồi ra hai cục xương. Quăng qua sàn nhà, ngài chặc chặc nói, "Ăn đi, chó dũng cảm".
"Con không nghĩ nó dũng cảm đâu" Charlie nhận xét khi nhìn Hạt Đậu hau háu gặm khúc xương.
"Charlie, con phải trốn khỏi đây" ngài Otus nói rành rọt. "bọn ta không thể đảm bảo sẽ giấu được con chó đó. Chẳng bao lâu sau gã hàng xóm của ta sẽ báo cho Ngón Cái Dị và bọn lính. Con sẽ nghe thấy tiếng tù và rồi thế là con tiêu tùng".
"Nhưng bằng cách nào?" Charlie ngó quanh căn phòng của người khổng lồ. "Con không thê", nó nói như sắp khóc. "Con không biết làm sao con đã đến được đây. Khi chu du con có một chiếc đũa phép..."
"Chiếc đũa phép?" mắt người khổng lồ trợn to lên.
"Con là thầy pháp thật ư?"
"Không, không" Charlie lắc đầu. "Đó là món đồ con được thừa kế từ một tổ tiên khác của con, một thầy pháp xứ Wales. Giải thích lâu lắm"
Quá dài, thật vậy, bởi vì ngay khoảnh khắc đó, âm thanh xé óc của một hồi
tù và rống lên rung chuyển cả tòa tháp của người khổng lồ.
"Ối, chao ôi, phải làm gì bây giờ?" người khổng lồ bước vòng quanh vòng quanh, hai nắm tay siết chặt lại và nhìn trừng trừng ra ngoài khung cửa sổ cao. "Ta sẽ bao vệ con đến hơi thở cuối cùng của ta, Charlie. Nhưng ta chỉ có một mình. Ta không thể thắng bọn chúng. Ngón Cái Dị sẽ bắt con. Ối tội nghiệp con, rồi con sẽ ra sao?"
Tiếng rên rỉ của người khổng lồ quá sức chịu đựng của Hạt Đậu. Nó tru hộc một tiếng đồng thời nhảy cỡn lên - và một sự việc đáng kinh ngạc xảy ra. Từ trong một bên tai của con chó, một con bướm trắng bay ra. Nó đến đậu trên cánh tay Charlie.
"Claerwen" Charlie thở hốc. "Chiếc đũa phép của con"
"Trong thế giới ở thời của ta, bọn ta gọi loài này là bướm đêm," người khổng lồ đang bối rối nói.
"Dạ, đúng đúng, nó là bướm đêm, nhưng nó đã từng là chiếc đũa phép" Charlie bảo với người khổng lồ. "Ngài Yewbeam, ngài Otus...bọn con có thể đi được rồi. Cảm ơn, cảm ơn ngài...."
"Thế thì đi đi. Bởi vì ta đã nghe thấy tiếng bước chân bọn quỷ lùn. Nhanh lên, nhanh lên. Charlie Bone."
"Có lẽ ngài đi với con, ngài Otus?"
Người khổng lồ buồn bã lắc đầu. "Một việc không thể được. Đi đi, Charlie".
Charlie vòng tay ôm ngang người Hạt Đậu. "Con sẽ trở lại, ngài Otus, con hứa. Con sẽ tìm cách đưa ngài ra khỏi xứ Badlock". Nhìn vô con bướm đêm, nó hét. "Claerwen, đưa tớ về nhà."
Căn phòng quanh nó bắt đầu giật nảy lên và lóc xóc mấy cú liền. Bất chấp trọng lực của trái đất, bàn, ghế, giường nghiêng qua bên, rồi lơ lửng trên không. Charlie đang lướt không khí. Giờ thì nó lộn ngược đầu xuống. Tai nó kêu ù ù ầm ầm. Nó cảm thấy bộ lông cứng của Hạt Đậu tan đi dưới những ngón tay nó và cố túm cho chặt hơn, nhưng có gì đó, hoặc ai đó, đang cố giật chú chó khỏi tay nó. Và rồi bàn tay nó trống huơ trong khi nó thì xoáy lộn ra xa.
Charlie thoáng thấy gương mặt nhân từ, đang hoài nghi của tổ tiên mình lần cuối cùng trước khi nó bị giật qua thời gian, qua những mạng âm thanh loang loáng, vun vút, ngập tràn xúc giác và khứu giác.
Nó đáp cái bụp xuống nền tầng hầm lạnh lẽo của nhà số 9, đường Filbert. Bức tranh Badlock dựa vô tường, đằng sau nó. Liếc nhìn vụt qua bức tranh, Charlie phóng vút lên cầu thang, leo vô hàng lang. Nó có thể nghe thấy tiếng cãi cọ phía trên.
"Ối quỷ thần ôi!" ngoại Maisie hét lên, nhảy dựng khỏi ghế. "Charlie về rồi!"
Một bầu thinh lặng đột ngột rơi xuống phòng khách. Ông cậu Paton hiện ra, theo sau là Fidelio, Benjamin và Olivia.
"Charlie!" Benjamin thét vang. "Bồ có thấy Hạt Đậu không?"
Charlie vẫn chưa hoàn hồn. Bám chắc lấy thanh vịn cầu thang cho khỏi té, nó nói, "Có chút vấn đề ở đây, Ben à".
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 5
Làn hơi nước màu xanh lá cây
“Charlie Bone, tao ghét mày!”
Cơn giận thình lình nổ tung của Benjamin không giống tính nó chút nào, đến nỗi Charlie chỉ đứng đực ra, sửng sốt dòm thằng bạn.
“Mày lúc nào cũng thế,” Benjamin thét toáng. “Mày luôn làm mất chó của tao. Lần trước nó suýt bị chết đuối, lần trước nữa khi thầy bùa tới thì...”
“Benjamin Brown. Bình tĩnh coi,” Ông cậu Paton quát.
Miệng Benjamin ngậm tịt lại thành cái mím môi dỗi hờn. Gương mặt xanh xao của nó chuyển thành đỏ tía vì tức giận, mắt đẫm nước.
Charlie đau khổ nhìn chằm chặp xuống chân. “Mình xin lỗi, nhưng mình đã cố mang Hạt Đậu về cùng với mình, mình đã cố thật mà.”
“Cậu thấy nó à?” Benjamin suýt nữa thì nghẹn chính lời của nó. “Làm sao cậu ra được còn nó thì không? Nó bị kẹt ở nơi ghê rợn đó rồi... và... và...”
Ông cậu Paton đặt tay lên vai Benjamin và nhẹ nhàng đẩy nó về phía nhà bếp. “Nào, ngồi xuống đất đã, tất cả. Chúng ta cần bàn thảo mọi việc thật cẩn thận nào.”
Một giọng gióng giả từ phòng khách vọng ra. “Xời, còn làm gì được nữa?”
“Tôi nghĩ đây là âm mưu quỷ quyệt gì đó của bà, có phải không Grizalde?” Ông cậu Paton trả miếng.
“Của ta?” vẫn cái giọng ai oán đó chõ ra. “Ta chả biết gì với cái gì về nó sất. Bức tranh bọc giấy kín mít. Làm sao ta biết Charlie sẽ nổi cơn tọc mạch?”
“Bà đã biết hết,” Ông cậu Paton làu bàu. Lùa tất cả vào nhà bếp xong, ông đóng sầm cửa lại.
“Để ta làm ít bánh sandwich,” ngoại Maisie nói bằng giọng êm ru, tỉnh rụi của mình.
Tất cả mọi người ngồi vào bàn bếp trong khi ngoại Maisie bắt đầu xẻ bánh mì. Ông cậu Paton bước tới bước lui, hết ngắt cằm lại gãi đầu.
Charlie nhìn Benjamin đang ngồi chàu bạu đằng cuối bàn. “Ừ... nếu tất cả muốn biết.”
“Dĩ nhiên muốn chứ. Chính vì vậy mà bọn này ở đây,” Fidelio nói.
“Quái lạ lắm,” Charlie bắt đầu, liếc them cái nữa về hướng Benjamin. “Tớ đang đứng dưới đó, nhìn vào bức tranh thì tớ cảm thấy hình như mình bị kéo về phía nó. Dù nó bọc kín, nhưng tớ nghe thấy tiếng động từ bên trong phát ra... tiếng gió.”
“Gió?” Ông cậu Paton dừng bước và đi lại ngồi xuống bên bàn. “Tiếp đi,” Olivia thúc ép.
“Thế là tới tháo giấy bọc bức tranh ra, chỉ tháo chút thôi, rồi thì bất thình lình tớ đã ở đó. Tớ hầu như không chu du gì hết. Cứ như bức tranh thò ra hút tới vô vậy.” Charlie nhìn quanh những gương mặt đang chờ đợi. Ngay cả
Benjamim cũng đang nhìn trân trối vào nó.
“Ừ,” Ông cậu Paton nói, “Rồi sao?”
“Sau đó con gặp một người khổng lồ.”
“NGƯỜI KHỔNG LỒ!” tất cả cùng thốt lên, kể cả ngoại Maisie, bà lại ré lên cái nữa do vô tình sập của tủ lạnh ngón tay mình.
“Đại loại là người khổng lồ,” Charlie chữa lại. Nó bắt đầu kể cho mọi người nghe về NGÓN CÁI DỊ và đội quân quỷ lùn, về đuôi trụi và bạch dơi, về pháo đài đen trên núi, và cuối cùng, về việc HẠT ĐẬU đã xuất hiện như thế nào và con bướm đêm của Charlie trốn trong tai của HẠT ĐẬU ra sao.
Trong suốt quãng thời gian dài Charlie kẻ chuyện không một lời nào xem ngang lời nó, và khi nó kể xong, một bầu im lặng sâu thẳm rơi tòm xuống căn phòng, dường như không ai có ý muốn phá vỡ sự im lặng ấy, cho tới khi Benjamin nói, cực khẽ, “Điều gì sẽ xảy ra cho HẠT ĐẬU nếu đội quân quỷ lùn muốn bộ da của nó?”
Trước khi ai dám đưa ra lời suy đoán, ngoại Maisie đặt một đĩa sandwich thật to lên bàn, bảo, “Ăn chút gì đi, mấy con.”
“Hy vọng cái này cũng thích hợp với tôi,” Ông cậu Paton nói, nhốn lấy một miếng bánh sandwich kẹp táo và hạt óc chó phồng cả ra một bên. “Charlie,” ông tiếp, “Con vừa nói cho chúng ta nghe là con đã thấy một pháo đài ở xứ Badlock.”
“Ở xa xa.” Charlie nói bằng cái miệng đầy nhóc phó mát và dưa chua. “Pháo đài của tên thầy bùa. Chỉ nhìn thôi con đã nổi da gà lên rồi.”
“Hừm.” Ông cậu Paton vuốt ngược lọn tóc đen mà ông suýt cắn chung với bánh mì ra sau. “Ta thấy xem ra tên thầy bùa Harken lại định giở trò gì đây.”
“Sao hắn giở trò được ạ,” Fidelio cãi lại. “Charlie và các bạn khác tống cổ hắn đi khi họ niệm chú xung quanh cái cây Nhà Vua rồi mà.”
“Chắc chắn hắn đi rồi,” Olivia hét ầm, nhảy choi choi tại chỗ nó đang ngồi, “bởi vì mẹ của Charlie đã được cứu và... và ba của nó đã tỉnh trí... rồi mẹ của Joshua, mụ phù thủy á, đã biến mất.”
“Và hắn không còn sống ở cửa hàng bách hóa Vương Quốc nữa,” Benjamin xác nhận với chúng, “bởi vì ba mẹ tớ đã gặp người chủ mới khi đi mua sắm ở đó rồi, ba mẹ tớ bảo ông ấy hoàn toàn bình thường, có điều hơi lên ký, theo ý mẹ là vậy.”
“Tuy nhiên,” Ông cậu Paton quay qua Charlie. “ Cái bóng trong bức chân dung Nhà Vua vẫn còn đó chứ?”
Charlie thú thật là nó vẫn còn ở đấy, trong bức chân dung treo trong phòng Nhà Vua ở Học viên Bloor. Charlie hay cố đi vô đó, nhưng luôn luôn có một cái bóng đen đằng sau Nhà Vua ngăn Charlie gặp tổ tiên lẫy lừng của mình.
“Vậy là ta chắc chắn rồi,” Ông cậu Paton nói.
Olivia nhướng long mày lên. “Nghĩa là sao, thưa ông Yewbeam?”
Ông cậu Paton thở dài. “Có nghĩa là, Olivia cưng, rằng nếu có một cái bóng trong bức chân dung Nhà Vua, thì vẫn có một cái bóng ám ảnh trong cuộc sống của chúng ta... nó rất yếu,” ông nói thêm khi quan sát vẻ mặt lo lắng của bọn nhỏ, “nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cái bóng thôi. Ta cảm
thấy dường như ai đó vẫn còn liên lạc với tên thầy bùa Harken, do đó mà bức tranh mới được mang tới đây, và cung cách lạ đời của cuộc hành trình vô xứ Badlock của Charlie.”
Ông cậu Paton thấy năm cặp mất mở căng đang dán vô mình một cách mong đợi hơn là hoảng hốt. Nhận thấy mình nên nghĩ ra cái gì đó tốt hơn,
ông nói, “Nhưng người đó là ai, hay cái gì, hoặc tại sao... ta ko thể hiểu được. Trừ phi, “ông gãi cằm,” trừ phi có ai đó sử dụng Gương Thần.”
“Gương Thần của bà Amoret đã bị nứt khi Joshua đánh cắp nó từ tay con rồi,” Charlie thủng thình nói.
“Có lẽ nó đã được sửa lại,” Benjamin nêu ý kiến khi trong nó ước gì mình xua đi được hình ảnh con chó đói meo, bị xích vào một khối đá và tên quỷ lùn Ngón Cái Dị đang cầm cái kéo bự tổ chảng, trờ tới.
Gương Thấn Amoret vẫn chưa được sửa. Mụ Tilpin, tức cô Chrystal hồi đó, tuy là phù thủy nhưng mụ cũng có những hạn chế nhất định. Mụ đã cố thử mọi bùa chú mục có thể tìm thấy trong cuốn Những Bùa mê và Thấn chú Chọn lịc của Steffania Sugwash (quyển sách mụ được thừa kế từ ông cụ kỵ của mụ, Silas Sugwash khét tiếng), tất cả đều vô hiệu. Vì vậy mụ quyết định chiêu nạp một số học trò được ban phép thuật của Học viện Bloor vô một lớp học cuối tuần, ở đây mụ kỳ vọng sẽ kết hợp những tài phép đặc biệt của bọn chúng lại để sửa chữa Gương Thấn Amoret quý báu nhưng đã hư hỏng một cách đáng buồn.
Cùng sự phò tá của Manfred Bloor, mụ Tilpin đã xoay sở trốn dưới tầng hầm Học viện Bloor. Mụ sống tại đấy với con trai, Joshua – cái thắng này dạo gần đây haygắt gỏng, phát cuồng mỗi khoảnh khắc phải chui nhủi trong hai căn phòng bẩn thỉu ẩm thấp cùng bà mẹ luôn tụng kinh ề ề, đốt thảo dược trong tô sắt và thỉnh thoảng lại còn bắt nó nhảy chung với bà ta những vũ điệu kinh hồn. Nhưng bà ta là mẹ nó, và nó không trách móc bà ta - ối không đâu nó hận là hận Charlie Bone, kẻ đã khiến mẹ nó phải chịu cảnh giấu mình; Charlie, kẻ đã đánh cắp Gương Thần Amoret và khiến cho Joshua phải làm bể gương.
Chẳng có nhiều đứa trẻ chọn tiêu pha những buổi chiều thứ Bảy của mình trong căn phòng đầy âm khí dưới tầng hầm trong căn phòng đầy âm khí dưới
tầng hầm Học viện Bloor, nhưng Dorcas Loom và chị em sinh đôi nhà Branko, Idith và Inez, là bọn hâm mộ cô Fairy Tilpin, như chúng thích gọi mụ như vậy, lại làm thế. Tên gọi này của mụ đã có thời rất hợp linh, nhưng kể từ khi mụ Tilpin liên lạc với tên thầy bùa Harken thì không thể còn thế nữa. Dĩ nhiên Joshua cũng tham dự lớp học, nhưng thành viên cuối cùng của nhóm, Dagbert Endless, thì ít hăng hái nhất. Trong khi bọn khác nhoài cả người qua bàn, mê mẩn lắng nghe mụ Tilpin thì Dagbert lại thích tha thẩn vô những xó tối. Thỉnh thoảng nó liếc nhìn nhúm người lèo tèo kia bằng vẻ mặt ngờ vực không che giấu. Điều này khiến mụ Tilpin sôi máu, nhưng mụ chưa lần nào phê bình Dagbert, bởi vì mụ biết nó là đứa hung mạnh nhất trong tất cả bọn trẻ ở đây, và nếu mụ mà mang được thầy bùa Harken trở về thế giới này thì Dagbert sẽ là một đồng minh vô giá.
Hôm nay, mụ Tilpin đang cảm thấy lạc quan cực kỳ. Bọn oắt con đã sẵn sàng phát huy tài lực. Mụ cất quyển Những Bùa mê và Thấn chú Chọn lọc của Steffania Sugwash vào một hộc tủ và khóa lại bằng chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng mà mụ luôn giữ trong túi áo.
“Á á! Hôm nay cô không dạy chúng em về Steffania sao?” một trong hau đứa sinh đôi nhà Branko khiến cho một chiếc ghế khẳng khiu bay lảo đảo qua phòng.
“Nóng nảy sẽ không đưa ngươi đi tới đâu,” mụ Tilpịn mắng. “Ai đã làm vậy?”
“Em,” đứa sinh đôi vừa làm nhận.
“Ừ, nhưng ngươi là đứa nào trong hai?”
“Cô mà không nhận ra được à, cô T?” Giọng nói từ trong bóng tối bên cạnh một cái tủ to lù lù vọng ra. “Thế mà em tưởng cô biết tất cả mọi thứ cơ chứ.”
Mụ Tilpin quyết định lờ tịt Dagbert đi. “Nếu ngươi không nói cho ta biết ngươi là đứa sinh đôi nào thì bài học kết học tại đây.”
Hai chị em sinh đôi nhà Branko ngồi sát vào nhau, giương mắt dòm mụ Tilpin bên dưới mảng tóc đen thui chạy ngang qua trán. Hai bộ mặt trắng bợt như sứ không biểu thị tí ti cảm xúc nào, nhưng rồi một trong hai đức bất thần ré lên, “Inez, thưa cô Fairy Tilpin, em là Inez.”
“Không phải, mày là Indith,” Dagbert vặn vẹo.
Đến đây thì sự việc đã đi quá xa. “Dagbert Endless, nếu ngươi không thôi phá lớp đi, thì ta sẽ không có giải pháp nào ngoài đuổi ngươi.”
“Đuổi thì đuổi.” Dagbert bước về phía những tấm ván gãy nát dung để làm cửa cho cái được-gọi-là lớp học.
“Dừng lại!” mụ Tilpin ra lệnh.
Dagbert đã ra tới cửa, nghếch mắt dòm lại.
Mụ Tilpin đảo mắt gớm ghiếc lườm thằng bé đang làm mặt câng câng. Thằng ranh này bốc mùi cá tanh lòm, mặt xanh rới như tàu lá, còn tóc thì dài lều nghều khiến đầu óc mụ liên tưởng tới rong biển. Nhưng mụ cần nó.
“Ta đã không nói ngươi bị đuổi,” mụ Tilpin nói xó hơi hám phỉnh nịnh. “Ta chắc chắn chúng ta sẽ hòa thuận nếu chúng ta cùng cố gắng hơn. Có một vật ta muốn chỉ cho riêng mình ngươi coi. Dagbert.”
“Tại sao là Dagbert?” Joshua thắc mắc.
“Ờ, cả các ngươi nữa,” mẹ nó bảo, đoạn với vẻ gây chú ý đầy kịch tính, mụ thò tay xuống gầm bàn và lôi ra một tấm gương lồng khung kim loại quý sang lập lánh. Giơ ra cho từng đứa một cảm nhận ánh sáng chói lóa từ mặt
gương bóng ngời, mụ tuyên bố, “Gương Thần Amoret.”
“Nó bị nứt,” Dagbert nhận xét.
“Chính xác,” mụ Tilpin mỉm cười.
“Cô có ý gì khi nói... chính xác?” Dorcas Loom hỏi bằng giọng lè nhè của nó.
Mụ Tilpin không hoàn toàn vô cảm. Mụ cảm thấy tội nghiệp cho cái con Dorcas mặt phèn phẹt đỏ gay và mái tóc xoăn tít thò lò kia. “À, hừ, lý do ta chỉ cho các ngươi Gương Thần này là bởi vì nó bị nứt. Ta nghĩ nếu kết hợp tài phép phi thường của chúng ta lại, thì chúng ta sẽ có thể, và sẽ có khả năng
sửa nó.” Mụ đặt tấm gương lên bàn, hể hả nhận thấy Dagbert đã tiến lại gần hơn.
Ba đứa con gái háo hức cúi rạp người xuống bàn và ngó chòng chọc tấm gương bạc. Đinh ninh bóng mình sẽ được soi vào gương, bọn chúng choáng sốc khi nhìn thấy một màn sương khói nhiều màu lờ mờ trên bề mặt.
“Giống như nước,” Inez bình phẩm.
Dagbert tiến lại gần hơn và nhìn qua vai Joshua.
“Sao chúng em không nhìn thấy mình trong đó,” Dorcas hỏi. “Bởi vì các ngươi không có ở đó,” mụ phù thủy lầm rầm.
Dagbert chĩa tia nhìn ngờ vực vào mụ và nói rành rỏ. “Chúng tôi ở đây. Cho nên hình chúng tôi phải ở trong đó chứ.” Nó chỉ vào tấm gương.
“Ờ. Nhưng đây là Gương Thần Amoret,” mụ Tilpin đáp. “Ta thấy rằng ngươi không biết câu chuyện này Dagbert. Ta sẽ làm ngươi hài lòng ngay. Cách đây chín trăm năm, Vua Đỏ, mà tất cả nhưng người trong căn phòng
này công nhận là tổ tiên của mình, đã...”
“Không phải là tổ tiên duy nhất,” Dagbert chỉ ra.
“Suỵt!” mấy đứa kia nhắc.
Mụ Tilpin tiếp tục như thể sự phá ngang không hề hiện diện, “... có mười người con. Bà Lilith, con gái cả của Người cưới thầy bùa Harken và ta là hậu duệ của sự kết hôn này.”
“Húú-uu!” Dagbert huýt sáo.
“Bà Amoret, con gái út của Nhà Vua, cưới một...” mụ Tilpin ngúc ngoắc những ngón tay trắng trợt của mụ trên không, “một gã khổng lồ, ta tin thế.”
Dagbert lại huýt sáo, nhưng tất cả lờ nó đi.
“Nhà Vua làm cho bà Amoret một tấm gương, một tấm Gương Thần có thể giúp bà ta chu du. Bà ta chỉ việc nhìn vào Gương Thấn và nghĩ đến người mà bà ta mong ước thấy, và thế là, bà ra đã ở bên cạnh họ rồi.”
Đến đây thì Joshua kể tiếp câu chuyện mà đến bây giờ nó đã thuộc nằm lòng. “Nhưng bà Amoret chết và thầy bùa Harken thừa kế Gương Thần.”
“Thật không? Có thật ông ta thừa kế Gương Thần?” Dagbert khịt mũi một cái, ra điều không tin. Đôi mắt xám của mụ Tilpin quắc lên. “Đúúúng! Thừa kế!”
“Tao cầu cho mày đừng phá bĩnh nữa, Dagbert,” Idith càu nhàu. “Mày làm phiền tụi tao nhiều quá.”
“Thế thì xin lỗi!” Dagbert nhún vai và bước đi.
“Khoan!” mụ Tilpin ra lệnh. “Ta đã đưa thầy bùa Harken trở lại bằng cái
này.” Mụ chộp lấy tấm gương và giơ lên.
“Nhưng Charlie Bone đã lấy được, bọn ta đã đánh nhau và tao làm bể nó,” Joshua tiếp, “rồi sau đó Charlie tìm ra thần chú đưa thầy bùa Harken trở về xứ Badlock.”
“Và ngài vẫn ở đó cho tới khi Gương Thần được chữa lành,” mụ Tilpin nối lời. “Nhưng chúng ta sẽ làm được, phải không bọn trẻ? Ta và các ngươi hợp lực để thầy bùa Harken có thể lại một lần nữa bước đi cùng với chúng ta.”
Bọn chúng ngước lên nhìn xoáy vô người phụ nữa nước da tái mét, lông mày rậm dày, người đã từng là một cô giáo xinh đẹp tóc vàng dễ mến. Tóc mụ bây giờ suôn đuột không còn màu sắc, đôi mắt dề lên những quầng thâm, thậm chí cả cái miệng của mụ cũng rúm lại thành một đường kẻ tím ngắt. Lẽ nào đây là điều xảy ra khi người ta chịu nhượng bộ làm phù thủy? – Đám con gái thầm hỏi.
Dagbert Endless ngọ nguậy muốn đi ra phía cánh cửa tạm. “Tôi dìm chết người,” nó nói, “tôi không thấy mình có thể vá tấm gương đó bằng cách nào.”
“Nhìn đây!” mụ Tilpin ra lệnh, vung vẩy tấm Gương Thần một cách vô vọng. “Hãy kinh ngạc đi! Dagbert Endless! Hãy kính sợ, hãy sửng sốt, hãy choáng ngợp.”
Dagbert vâng lời mụ ta bằng một cái liếc tò mò về phía tấm gương lồng trong khung quý. Rồi nó nhìn thêm cái nữa. Mắt nó căng tròn ra, quai hàm há xệ xuống. Bởi vì đó kia, giữa những hình thù và màu sắc chuyển động không
ngừng, một hình nhân đang dần hình thành. Đầu tiên là mọt chiếc áo chẽn màu xanh lục, rồi tới khuôn mặt da màu ô-liu nhưng chưa rõ thành nét hay đặc điểm gì hiện ra bên dười làn mây của mái tóc nâu vàng. Từ từ, trong khuôn hình ô-van của gương mặt, hai con mắt màu xanh lá cây đậm phòi ra – chúng hình như đang chĩa thẳng vô Dagbert và, dưới ánh nhìn dữ tợn, có sức
khống chế đó, nó thấy chân mình đang nhúc nhích về phía tấm gương. Thề nhưng khoảnh khắc đắc thắng của mụ Tilpin bị cướp mất bởi một tiếng ình chói tao. Cánh cửa gỗ mụ thình lình đổ ập và một thằng bé tóc trắng nhỏ tẹo đổ nhào vô phòng. Nó nằm vập mặt trên tấm ván gãy, và tất cả mọi người trố mắt nhìn nó, không thốt nên lời, cho tới khi mụ Tilpon tìm lại được giọng.
“Billy Raven! Gián điệp!” mụ thét rầm.
“Tên rình mò!” Joshua gào.
“Đồ hớt lẻo nghe lén!” Dorcas hùa tiếp.
“Thằng chó mũi!” hai đứa sinh đôi đồng thanh.
“Sao mày tìm được bọn tao, Billy?” Dagbert hỏi khi vừa rùng mình thoát khỏi ánh nhìn màu xanh lá cậy đậm.
Billy Raven lồm cồm đứng dậy, lọng cọng vừa tìm mắt kính vừa nói, “Em đang tìm con chó của em.”
“Con May Phúc già khú ghẻ lở,” Joshua gằn giọng.
Mụ Tilpin đặt tấm gương rất nhẹ xuống bàn và bước tới chỗ Billy. “Sao mày không ở nhà Charlie Bone?” mụ hỏi với giọng lạnh tanh.
“Anh ấy quên hỏi em,” Billy xịt mũi, rút một cái dằm ra khỏi lòng bàn tay. “Quên,” mụ Tilpin nói. “Vậy là không tử tế. Ta tưởng nó là bạn của mày.” “Anh ấy là bạn,” Billy lí nhí, “nhưng thỉnh thoảng anh ấy bận.” “Ối! Billy tội nghiệp,” Dorcas ỉ ôi.
Billy chu mỏ, lén liếc nhanh về phía cái bàn. Một làn mây giống như hơi
nước màu xanh lá cây đang bay cuồn cuộn khỏi tấm gương lên phía trần nhà ẩm thấp. Tất cả mọi người quay qua nhìn theo ánh mắt của nó, ai nấy mắt chữ O mồm chữ A.
“Đó là gì thế?” Billy thắc mắc.
Mụ Tilpin chắp hai tay vào nhau, lộ vẻ sung sướng vô ngần. “Billy Raven, đó là một thông điệp từ tổ tiên của ta. Dường như mày vừa mới làm ngài ấy thất vọng.”
“Em?” Cái cảm giác lạnh buối chạy dọc sống lưng Billy không liên quan gì đến nhiệt độ trong căn phòng của mụ Tilpin. Cảnh tượng làn hơi nước màu xanh lá cây làm nó khiếp hãi, đến nỗi không nghe được tiếng gỗ kêu rắc rắc khi có ai đó bước qua cánh cửa sụp.
Thình lình vai Billy bị tóm chặt từ đằng sau và thằng bé kêu hốc lên bạt vía.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred Bloor xoay người thằng bé về phía hắn. “Sao mày không ở nhà Charlie Bone?”
Billy nhìn vào đôi mắt đen hung ác đang găm xuống mình. Nó luôn rờn rợn Manfred Bloor – với gương mặt xương xẩu và đôi vai hẹp, trông hắn như một ông già hơn là một thanh niên mười chin tuổi. Mái tóc dài cột đuôi ngựa đã điểm những sợ xám, và cái áo lạnh màu đen bó cứng hắn mặc chỉ càng nhấn mạnh thêm bộ khung gầy nhẳng của hắn.
“Hả?” Manfred gừ.
“Anh... anh ấy không hỏi,” Billy ấp úng.
“Không hỏi. Đó không phải là lý do.” Manfred khinh khỉnh liếc nhìn đám nhóc ngồi quanh chiếc bàn và khi nhận ra Dagbert hắn liền nhếch ra nửa cái
cười.
Trong lúc đó làn hơi nước màu xanh lá cây chỉ còn lại một sợi mây mỏng như mạng nhện, lở lửng hướng lên mái trấn lát gạch. Hình như Manfred không trông thấy nó. “Cút đi lũ nhóc!” hắn sủa. “Ta muốn nói chuyện riêng với bà Tilpin.”
Cả lũ đồng thanh “Vâng, thưa ngài Manfred” xong rồi Dorcas, hai chị em sinh đôi, Joshua thu dọn sách vở của chúng và tiển ra cửa. Dagbert không hó hé gì, nhưng cũng theo tụi kia. Khi cả bước qua đống gỗ vụn, đọt ngột nó quay phắt lại và mấp máy môi, “Bà ta muốn đưa một thầy bùa về đi rong trên thế giới này. Thầy nghĩ gì về việc đó, thầy Manfred?”
“Ta nghĩ đó là một ý tưởng xuất sắc,” Manfred đáp, kèm theo một trong những kiểu cười độc địa của hắn.
“Thật à?” Dagbert nhướng lông mày lên rồi bước ra hành lang tối.
“Cả mày nữa,” Manfred bảo thằng bé tóc trắng, hình như đáng bị thôi miên.
Billy giật nảy mình. Nó ngó dáo dác căn phòng như thể không biết làm sao mà mình lại ở đó, rồi lê bước qua khung cửa.
“Bảo gã Weedon đến sửa cánh cửa mày đã làm đổ,” mụ Tilpin gọi với theo thằng nhỏ.
“Vâng,” Billy nói ỉu xỉu.
Manfred nhặt hai mẩu ván lên gác chéo qua khoảng trống gió lùa. Phủi hai tay cho sạch bụi, hắn đến ngồi xuống bàn. “Rất đáng hài lòng,” hắn nói, cười ngoác để lộ ra một hàm răng dài vàng ệch.
“Anh có vẻ mãn nguyện về mình đấy,” mụ Tilpin nhận xét. “Ồ đúng thế, Titania. Bà không nhận ra sao?”
“Nhận ra cái gì?” xem ra mụ Tilpin đáng quan tâm đến gương mặt của mụ hơn bất kỳ lời nào Manfred nói.
“Nó đang trở lại,” Manfred bấu chặt lấy cạnh bàn và chồm người tới trước. “Tài phép của tôi, Titania. Nhớ không, bà đã nói là nó sẽ trở lại nếu tôi kiên nhẫn. Bà đã nói, “Hãy thư giãn, cứ cố gắng nhưng đừng bắt ép nó’. Ồ, tôi vừa mới thôi miên Billy Raven xong. Bà không nhận ra sao?”
“Ta nghĩ vậy.” Mụ Tilpin chau mày vào tấm gương, lẩm bẩm, “Ngài không vui.”
“Khi lũ báo tấn công tôi, tôi đã nghĩ thế là mình tiêu đời rồi, nhưng giờ thì tình thế đã đảo ngược. Tôi mạnh hơn bao giờ hết.” Manfred giang rộng đôi cánh tay khẳng khiu dài thượt ra.
“Ta nghĩ đó là sự giận dữ,” mụ Tilpin nói, vẫn không rời mắt khỏi tấm gương, “Cơn giận dữ và nỗi sợ hãi, hai yếu tố hùng mạnh. Chúng có thế tạo đường dẫn cho những sức mạnh còn nằm ngủ yên trong chúng ra.”
“Thế ư?” Manfred nhíu mày với tấm gương. “Chuyện gì đang diễn ra thế, Titania?”
Ánh mắt vẫn dán chặt vô tấm gương, mụ Tilpin lầm bầm, “Ngài đang chờ thằng bé bạch tạng. Ta chưa cho phép anh sử dụng tên của ta để gọi ta.”
Manfred nhún vai, “Xin lỗi, Fairy Tilpin, nhưng cái tên đó rất hợp với bà.”
Mụ Tilpin nhăn mặt. Mụ không bao giờ biết cách nhận lời khen. “Ta cảm thấy ngài đang tức giận, ngay ở đây.” Bỗng mụ tự đấm thật mạnh vô bụng
mình. “Ngài muốn Billy vào hôm nay. Khi Eustacia Yewbeam mang bức tranh đi, mụ đã bảo đảm với ta là thắng bé bạch tạng sẽ ở nhà Charlie mà.”
“Có gì vội vã thế?” Chúng tôi bảo đảm chắc chắn thằng bé đó sẽ nhìn vô bức tranh vào thứ Bảy tuần sau. Rồi nó sẽ nói chuyện với con chó cà bá tước Harken sẽ bắt được nó.”
“Con chó đó còn lâu mới cầm cự được một tuần,” mụ Tilpin cáu kỉnh. “Bọn quỷ lùn ăn thịt chó, anh biết đấy.”
“Khổ nó chưa.”
Mụ Tilpin dặm chậm. “Này, đừng có bông phèng. Anh quên Thầy Bùa làm việc này là vì anh à? Ngài đã hứa sẽ giữ thằng bé ở lại cho đến khi bản di chúc mắc toi kia được tìm thấy và được hủy bỏ. Anh thử tưởng tượng coi cái gì sẽ xảy ra nếu Lyell Bone trở lại và nhớ ra bản di chúc được cất giữ ở đâu. Trò chơi sẽ kết thúc, Manfred Bloor. Billy Raven sẽ thừa kế tất cả mọi thứ. Nhớ đấy: “tòa nhà này, tòa lâu đài cổ xưa, thậm chí cả những của cải giấu bên dưới giường của lão Ezekiel.”
Manfred tắt ngúm nụ cười và vẻ mặt trở về lạnh lùng ma mãnh, mụ Tilpin bất giác áp chặt tấm gương vào ngực, như thể cái hình hài màu xanh là cây đang lợn gợn trong mặt gương có thể bảo vệ mụ khỏi tia nhìn chết chóc của gã thanh niên.
“Lyell Bone sẽ không bao giờ trở lại,” Manfred rít chịt. “Bọn ta cứ chờ đi rồi thấy.”
CHARLIE BONE 7: CHARLIE BONE VÀ CÁI BÓNG XỨ BADLOCK
Jenny Nimmo
www.dtv-ebook.com
Chương 6
Quán cà phê thú kiểng bị đóng cửa
Thật lâu sau khi những người bạn thân thiết ra về, Charlie vẫn đi lẩn quẩn quanh nhà. Lê rồi xuống cầu thang, vô rồi lại ra khỏi phòng nó, nó lại lọ mọ chui xuống tầng hầm, ở đó nó nhìn trân trân vô hình ảnh Hạt Đậu, những mảng lông trắng chen lẫn mảng lông nâu vàng, cái mũi đen bóng và đôi mắt nâu vàng mang vẻ hờn trách đang nhìn xoáy vô mắt Charlie.
“Tao đang tìm cách đưa mày thoát khỏi đó, Hạt Đậu,” Charlie lảm nhảm, nhưng dù cố hết sức nó vẫn không thể chạm tới con chó bị kẹt ở xứ Badlock, một nơi xem ra thậm chí không tồn tại ở thế giới thực. Ai đó đã tạo ra một thanh chắn giữa Charlie và sinh vật đáng thương mà nó đang tha thiết muốn cứu. Charlie biết thừa ẻ đó là ai, bởi vì nó đã gặp bức tường không thể nào xuyên qua được như thế bất cứ khi nào nó cố đi vào bức chân dung Vua Đỏ.
Ông cậu Paton đã rút lui vô phòng riêng để nghiền ngẫm vấn đề. Theo ý kiến của ông thì Billy Raven mới là đứa giải tỏa được sự huyền bí của câu chuyện Hạt Đậu bị giam hãm. Rất có cơ hội thằng bé bạch tạng này sẽ bằng cách nào đó liên lạc được với con chó trong bức tranh.
Nhưng Billy đang bị nhốt trong học viện Bloor và chẳng có cơ may nào được thả ra vào cái giờ muộn màng ngày Chủ Nhật như thế này. Họ đành phải đợi đến cuối tuần sau, khi Charlie chắc chắn sẽ đưa Billy về cùng.
“Một tuần là quá dài,” Charlie thất kinh kêu lên khi nghĩ tới Ngón Cái Dị
và cái thói khoái thịt chó của hắn.
Ngoại Maisie bật tivi nhà bếp lên, vẻ mặt vốn thường vui vẻ của bà hằn những nếp lo âu. “Giờ chúng ta không thể làm gì được, Charlie à. Cho nên chúng ta cố phải mà vui lên thôi,” bà nói.
Charlie không thể đồng tình với và. Nó định trở xuống tầng hầm lần nữa thì nội Bone đi xuống cầu thang, diện đồ là lượt để đi ăn tối với các bà em. Charlie đứng bên cánh cửa tầng hầm, nhìn cái dáng cao lớn đi hùng hổ về phía cửa trước. Dù biết là vô ích nhưng Charlie vẫn không kìm nổi, phải hô tướng lên.
“Nội ơi! Làm ơn, làm ơn đi, bà có biết tại sao con chó của bạn cháu bị khoá ở trong bức tranh đó không?”
Nội Bone lừng khừng.
Charlie bước về phía mụ. “Nếu nội biết tại sao việc đó xảy ra thì nội làm ơn nói cho cháu biết cháu có thể mang Hạt Đậu ra khỏi đó bằng cách nào được không?”
“Tao hy vọng mày đã làm xong bài tập về nhà của mày. Ngày mai đi học rồi.” Mụ xoay cái nắm cửa.
“Làm ơn đi nội!” Charlie năn nỉ.
Không nói thêm lời nào bà nội nó mở cửa trước bước ra, để mặc gió đông đóng sầm cửa lại đằng sau.
“Cảm ơn nội!” Charlie lầu bầu.
Nó vừa mới bước được và bước xuống tầng hầm thì chuông cửa reo. Nội Bone quên chìa khóa ư? Charlie cố làm ngơ tiếng chuông, nhưng nó vẫn reo
điên cuồng. Dù là ai gọi, thì ngón tay người đó dính hẳn vô cái chuông luôn và học không buông tay đến chừng nào có người ra mở cửa.
Charlie lê bước trở lại cửa trước. Hầu như nó chi vừa xoay nắm cửa thì một phụ nữ nhỏ bé tóc nâu trong bộ com-lê vải tuýt và mũ lưỡi trai đàn ông đã xông ào vô hành lang. Charlie nhận ra ngay mẹ của Benjamin, cố Brown.
“Charlie, ông cậu của cháu đâu?” cô Brown hỏi.
“Ông ấy bận ạ.” Charlie biết ông cậu Paton ghét bị quấy rầy vào lúc sẩm tối, khi tất cả đèn đóm sáng lên. “Nếu về Hạt Đầu...”
“Dĩ nhiên rồi!” cô Brown nói to. “Cháu đã làm gì thế? Benjamin ầu sầu không nguôi...”
“Cháu biết...” Charlie gật đầu.
“Cháu không biết, Charlie Bone, chứ biết thì cháu đã không làm thế.” “Nhưng cháu...”
“Ông Paton!” cô Brown gọi lên lầu. “Tôi biết ông ở trên đó. Tôi thấy nến sáng ở cửa sổ phòng ông. Tôi phải nói chuyện với ông.”
Một cánh cửa bật mở và ông cậu Paton xuất hiện nới đầu cầu thang. “Gì thế, Patricia?” ông cậu nói hơi cộc.
“Gì ư? Ông biết rõ còn gì,” cô Brown hé tom. “Ông nhốt con chó của Benjamin ở đây và chúng tôi muốn lấy lại chó.”
“Chính xác nó không ở...’ Charlie cố giải thích cho cô.
Rò ràng, cô Brown coi như Charlie không có mặt ở đó. “Im coi,” cô nói. “Cô đang nói chuyện với ông cậu của cháu. Hạt Đậu đâu? Tôi muốn thấy
nó.”
“Nếu cô khăng khăng.” Ông cậu Paton trở vô phòng ông và trở ra với một ngọn nến cầm theo. “Vui lòng đừng bật đèn,” ông nói khi đi xuống cầu thang.
“Điều đó có mơ tôi cũng chả dám,” cô Brown nói.
Ông cậu Paton dẫn cô xuống tầng hầm, trong khi Charlie lúp cúp theo đuôi cách vài bước. Vừa trông thấy hình vẽ Hạt Đậu đang tru không thành tiếng trong cảnh thê lương ác mộng, cô Brown rú lên và chắp hai tay vào nhau.
“Chuyện gì thế?” cô thở hốc. “Benjamin kể không mạch lạc. Tôi không hiểu nổi nó nói gì.”
Charlie bắt đầu giải thích và lần này cô Brown cho phép nó kể hết câu chuyện hoặc ít nhất là hết phần có Hạt Đậu. Charlie bỏ hầu hết về các chi tiết về xứ Badlock và không nói rõ người đã cứu nó là một ông khổng lồ.
“Mọi người định sẽ làm gì?” cuối cùng cô Brown hỏi. “Làm sao mang co chó của chúng tôi ra khỏi đó?”
“Tôi hy vọng cô giúp đỡ Patricia,” ông cậu Paton gượng gạo. “Cô là thám tử tư.”
“Đừng khiếm nhã thế ông Paton,” cô độp lại. “Tôi không thể đối phó với...vớt tất cả những thứ ma thuật đó. Ối, đôi lúc tôi nghĩ giá như Charlie và Benjamin đừng bao giờ là ban. Đáng ra tôi không nên để việc này tiếp diễn, một khi tôi biết Charlie rất...khác.”
Ông cậu Paton trừng mắt ngó cô. “Cô để chúng làm bạn với nhau là vì bà Maisie chăm sóc con trai cô trong khi cô lang thang khắp đất nước cải trang thành Sherlock Holmes.” Ông bước nhanh khỏi bức tranh và bắt đầu leo lên cầu thang. “Đi, Charlie.”
"""