🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chân Lý Và Sự Thật
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
ThS. VÕ THỊ TÚ OANH
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
LÊ HÀ LAN
HOÀNG MINH TÁM
VÕ THỊ TÚ OANH
BÙI BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4854-2020/CXBIPH/7-347/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5615-QĐ/NXBCTQG, ngày 01/12/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 12 năm 2020.
Mã ISBN: 978-604-57-6267-7.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Vũ Hoàng Công
Chân lý và sự thật / Vũ Hoàng Công. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 328tr. ; 24cm
ISBN 9786045759356
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh 3. Bài viết 335.43 - dc23
CTK0266p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội, nhất là sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội... Trong khi đó, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, đặt ra nhiệm vụ cấp thiết tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 6
Cuốn sách Chân lý và sự thật của tác giả Vũ Hoàng Công do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản, tập hợp 25 bài chính luận của tác giả viết trong những năm gần đây nhằm trao đổi và làm rõ các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành tựu không thể phủ nhận trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có những thành tựu về dân chủ, quyền con người, tự do thông tin, tôn giáo, đổi mới chính trị, đấu tranh phòng, chống tham nhũng... Đồng thời với việc luận giải, làm rõ những vấn đề cuốn sách đặt ra vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và mang tính thời sự; đóng góp một tiếng nói bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và hoàn thiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong tình hình mới.
Những bài viết tập hợp trong cuốn sách đã được đăng trên các tạp chí lý luận và chính trị có uy tín như: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Khoa học xã hội..., gồm 2 phần:
Phần thứ nhất: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Phần thứ hai: Đường lối đúng và những thành tựu không thể phủ nhận.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 7 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
PHẦN THỨ NHẤT
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH -
NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
CÓ PHẢI LÀ “BẢO THỦ, GIÁO ĐIỀU”?*1
Từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đến nay, ở đâu đó người ta vẫn đọc được sự hoài nghi, thậm chí phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, là “bảo thủ, giáo điều”, không thể đưa đất nước phát triển được.
Sự phê phán như vậy liệu có đúng không, có căn cứ lý luận và thực tiễn nào không?
Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, xin cùng bàn luận về vấn đề này.
Có thể đọc được những phê phán này trong đoạn văn của một blogger như sau:
“Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là lạc hậu, thủ cựu, giáo điều. Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng giành độc lập, sau đó đứng về phe xã hội chủ nghĩa và tiến lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, không những không dẫn đất nước đến phồn vinh mà còn khiến cả đất nước phải trả giá quá đắt cho độc lập. Nhiều nước khác vẫn giành được độc lập, ngày càng phồn vinh mà không phải trả cái giá đắt như vậy”.
* Bài viết đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2013, tr.52-59.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 10
Một blogger khác viết:
“Theo chủ nghĩa xã hội, tức là phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị nhân dân thế giới từ bỏ từ lâu. Ngay quê hương sinh ra Mác và chủ nghĩa Mác đã không còn theo Mác nữa, chỉ coi Mác là một “danh nhân” mà thôi. Còn tại quê hương Lênin, thì chủ nghĩa Lênin cũng đã bị nhân dân đưa vào lịch sử... Trong khi tiến vào thế kỷ XXI, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã và đang xây dựng một chế độ mới tự do dân chủ thực chất hơn, không theo chủ nghĩa xã hội cũng không theo chủ nghĩa tư bản, thậm chí chủ nghĩa dân tộc cũng không theo nữa. Họ có con đường riêng của họ và ngay trên quê hương “Chủ nghĩa Lênin” người ta cũng đang xây dựng một Liên bang Nga hùng cường, không theo chủ thuyết Mác - Lênin nào cả...”.
Sau đây xin nêu mấy căn cứ để trao đổi lại với các ý kiến trên.
1. Để đánh giá về tính đúng đắn của một lý luận, một học thuyết trước hết phải xem xét cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu, cùng những dữ liệu mà nó dựa vào có bảo đảm tính khoa học, khách quan, đáng tin cậy không?
Lý luận nào cũng đặt cho mình mục tiêu trước hết là phản ánh đúng về thế giới khách quan, về đối tượng nghiên cứu. Song tùy theo góc nhìn, phương pháp tiếp cận, phương pháp quan sát, thu thập dữ liệu, khái quát... mà đạt được độ chính xác khác nhau, nói cách khác là đạt được mức độ chân lý khác nhau.
Chủ nghĩa Mác ngay từ đầu đã coi trọng phương pháp luận nhận thức và coi đó là nền tảng để xem xét thế giới nói chung và các đối tượng nghiên cứu cụ thể nói riêng. Điều này đã được C. Mác ý thức xây dựng từ những năm tuổi trẻ và đạt được thành
quả nhờ tiếp thu có phê phán triết học cổ điển Đức, đặc biệt là
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 11
triết học Hêghen. Chủ nghĩa duy vật biện chứng (hay còn gọi là phép biện chứng duy vật) mà ông đạt được chính là phương pháp luận nhận thức cho phép nhận thức thế giới nói chung, các đối tượng nghiên cứu cụ thể nói riêng trong sự vận động có quy luật của nó. Nhờ vậy, C. Mác đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử như là lý luận về quy luật tổng quát của sự vận động và phát triển của lịch sử loài người. V.I. Lênin đã đánh giá chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát hiện vĩ đại mà C. Mác đã tạo ra và đóng góp vào sự phát triển nhận thức của nhân loại.
Vận dụng phương pháp luận đó và dựa vào phương pháp nghiên cứu thực chứng với những con số chính xác của khoa kinh tế (được đăng tải công khai trên sách báo đương thời), với sự phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu... rất lôgíc, C. Mác đã viết bộ Tư bản, một công trình nghiên cứu đồ sộ, toàn diện, sâu sắc về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cũng với tinh thần đó, V.I. Lênin đã viết tác phẩm Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga, được coi là một công trình kinh tế học xuất sắc. Chính các nhà nghiên cứu kinh tế đương thời cũng phải thừa nhận phương pháp nghiên cứu của các ông là khoa học, đáng tin cậy.
Với phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu thích hợp cho các lĩnh vực khác như chính trị, lịch sử..., các ông đã trở thành mẫu mực về sự khách quan trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội. Những số liệu, bằng chứng mà các ông dựa vào đều là những số liệu được các nhà khoa học có uy tín trước hoặc đương thời công bố, ví dụ C. Mác dựa vào các sự kiện lịch sử vừa xảy ra không lâu ở Pháp để viết tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850, Ph. Ăngghen đã dựa vào nghiên cứu của Moócgan về dân tộc học để viết Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, dựa vào thành tựu hiện đại của sinh vật học, y học, vật lý học... để viết Biện chứng của tự nhiên.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 12
Nếu so với điều này thì luận điểm phê phán trên kia quả là hồ đồ.
2. Phải thấy giá trị nhận thức của nó trong sự so sánh với các lý luận trước và cùng thời, xem nó có đem lại nhận thức mới, phản ánh được quy luật khách quan của hiện thực không, có khả năng trở thành cơ sở lý luận để nhận thức tương lai hoặc những vấn đề tương tự không?
Về điều này, có thể thấy giá trị nhận thức trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh điển là:
a) Đem lại nhận thức mới hơn về quy luật chung của sự phát triển thế giới tự nhiên, xã hội và con người.
Trước C. Mác, các lý luận triết học đã đặt ra mục đích này. Trải qua hàng nghìn năm phát triển từ cổ đại cho đến Mác, các nhà khoa học, các nhà triết học thuộc các trường phái khác nhau đã đóng góp cho nhân loại những tri thức vô cùng quý báu, có giá trị đến tận ngày nay. Hêghen là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất, để lại một dấu mốc hết sức lớn lao trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại, đó là phép biện chứng. Triết học của ông đã phác họa quy luật phát triển chung của thế giới từ tự nhiên vô cơ đến hữu cơ và tinh thần con người. Song một phần do chủ quan, một phần không vượt qua được hạn chế khách quan của tri thức khoa học tới lúc đó, ông vẫn dừng lại ở quan điểm duy tâm mà với điều này, về mặt xã hội, con người không thể tiến lên phía trước, vượt qua những thủ cựu, lạc hậu của chính mình. Ngược lại, Phoiơbắc và một số người khác có thể đã tiếp cận đến chủ nghĩa duy vật, song chưa đầy đủ, nhất là trong việc giải thích động lực của phát triển lịch sử loài người. C. Mác là người đánh giá đúng đắn thành tựu của Hêghen và Phoiơbắc và với cái nhìn duy vật biện chứng, C. Mác khắc phục được khuyết điểm của
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 13
triết học duy vật ở Phoiơbắc, cũng như triết học duy tâm của Hêghen, hình thành lý luận duy vật lịch sử của mình. Tiếp theo C. Mác, trong các tác phẩm của mình, Ph. Ăngghen và sau này V.I. Lênin đã có những định nghĩa, những lý giải sâu sắc đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển nhận thức về các quy luật trong nhiều lĩnh vực như sinh vật học, vật lý học, dân tộc học... Những thành tựu trong nghiên cứu thế giới tự nhiên của thế kỷ XX chứng tỏ rằng quan điểm duy vật biện chứng là đúng đắn và người nào dù có ý thức hay không có ý thức, dù có là người mácxít hay không nhưng tuân theo quan điểm này đều và sẽ đạt được bước tiến trong nhận thức thế giới tự nhiên vô cùng, vô tận và luôn vận động, biến đổi không ngừng. Cũng như vậy, người ta sẽ hiểu được động lực thực sự của sự phát triển lịch sử loài người. Đó chính là ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận tích cực của triết học Mác - Lênin.
b) Phát triển khoa học kinh tế
Các nhà kinh tế học với tinh thần khoa học, khách quan cùng thời và sau này đã thừa nhận C. Mác là người đã mô tả sâu sắc nhất về kinh tế tư bản chủ nghĩa, về bản chất và xu hướng phát triển toàn cầu của nó, mà cho đến nay dù có biến đổi rất nhiều song vẫn là phương thức sản xuất thống trị toàn thế giới. Lý luận của C. Mác không mâu thuẫn với những lý thuyết kinh tế hiện đại của thế kỷ XX. Ngược lại, các lý thuyết kinh tế này cũng không phủ nhận được giá trị cốt lõi của lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin. Người ta vẫn cần lý luận kinh tế chính trị mácxít như một công cụ nhận thức về những mối quan hệ nền tảng của kinh tế thế giới hiện đại, về các quy luật kinh tế hiện đại, nhưng để có các chính sách kinh tế thích hợp cả về vi mô và vĩ mô cũng cần được trang bị thêm những lý luận kinh tế hiện đại. Đó là những điều không hề mâu thuẫn nhau.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 14
c) Phát triển khoa học chính trị
C. Mác, Ph. Ăngghen và sau này là V.I. Lênin, bằng phân tích lịch sử chính trị và thực tiễn đấu tranh chính trị thế giới đã vạch ra những quy luật của đời sống chính trị và hình thành nên cái có thể gọi là Chính trị học mácxít. Các ông rất hiểu chính trị là lĩnh vực vô cùng phức tạp, dường như là sản phẩm của cá nhân - kẻ cầm quyền. Nhưng khác với rất nhiều người, các ông cho rằng nó có quy luật chứ không phải hoàn toàn vô trật tự hoặc tùy thuộc ý chí chủ quan của con người. Mặc dù các sự kiện chính trị không thể phân tích như các con số kinh tế, quy luật của chính trị cũng không như quy luật của kinh tế, do đó nghiên cứu chính trị khác với nghiên cứu kinh tế, song V.I. Lênin vẫn cho rằng: “Chính trị có lôgic khách quan của nó”. Các ông đã chỉ ra những quy luật, hay những tính quy luật phổ biến của đời sống chính trị trên cơ sở phân tích, khái quát từ các sự kiện lịch sử của các quốc gia - dân tộc từ cổ đại tới hiện đại (thế kỷ XIX - XX). Những điều được đúc rút, hay những quy luật được phát hiện ra cho đến nay vẫn đang tồn tại, đang hiển hiện. Ví dụ, lý luận của các ông về quyền lực chính trị, nguồn gốc, bản chất, cơ sở của nó... hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Có thể nói, lý luận Mác - Lênin về chính trị đã đóng góp rất lớn trong sự phát triển Chính trị học với tư cách một ngành khoa học xã hội.
Nhìn một cách tổng quát, có nhiều điều so với thực tiễn của thời đại ngày nay, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn đúng. Điều quan trọng để khẳng định lý luận còn hợp thời hay không chính là ở chỗ phải nhận thức đúng bản chất của thời đại ngày nay. Cả những người phê phán và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin đều có ý thức về điều này. Song sự khác biệt là ở chỗ, có người chỉ nắm bắt được sự thay đổi mang tính hiện tượng của thời đại,
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 15
có người nắm bắt được tầng bản chất của nó. Loại thứ nhất sẽ đi đến kết luận chủ nghĩa Mác - Lênin (dù đúng đắn trong thời đại tư bản chủ nghĩa công nghiệp) đã lỗi thời, không còn đúng trong thời đại xã hội hậu công nghiệp ngày nay. Do vậy, những gì các ông nêu lên như những giải pháp giải quyết các vấn đề của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ không còn thích hợp cho việc giải quyết các vấn đề ngày nay. Trong số những người này có cả những người đã từng là cộng sản.
Quả là thế giới ngày nay có nhiều biến đổi to lớn so với 100 năm trước đây. Nhưng những năm gần đây, trước sự khủng hoảng của mô hình kinh tế tân tự do tư bản chủ nghĩa, ngay cả ở phương Tây, đã có một xu hướng quay lại với lý luận của C. Mác, hy vọng tìm kiếm trong đó lời giải cho những vấn đề hiện đại. Eagleton là một trong những người như vậy. Vị giáo sư của Trường Đại học Tổng hợp Lancaste (Anh) trong cuốn sách Tại sao Mác đúng xuất bản tại Mỹ năm 2011 và gây tiếng vang lớn, thừa nhận rằng thực tiễn hiện nay dù có rất nhiều điều thay đổi so với thời của Mác, chẳng hạn dường như đã không còn vấn đề đấu tranh giai cấp trong đời sống xã hội phương Tây, là tiến bộ của bình đẳng, tự do, phúc lợi, là sự hình thành những thể chế toàn cầu... Song về mặt bản chất của phương thức sản xuất đang thống trị thì đó vẫn là tư bản chủ nghĩa. Động lực của nó vẫn là lợi nhuận, hậu quả của nó vẫn là sự phân cực giàu nghèo dựa trên bóc lột giữa tư bản và làm thuê (chỉ khác về hình thức, phạm vi). Chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia, các thế lực kinh tế cũ và mới vẫn tiềm ẩn, dù có thể không phải là chiến tranh thế giới... Từ việc nhìn nhận bản chất và thời đại toàn cầu hóa ngày nay, Eagleton khẳng định C. Mác đã đúng và vẫn còn đúng.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 16
3. Phải thấy giá trị thực tiễn của lý luận, xem nó đã cung cấp giải pháp gì để giải quyết các vấn đề thực tiễn mà loài người nói chung, dân tộc - quốc gia nói riêng đặt ra, có đáp ứng nhu cầu giải phóng con người và tiến bộ xã hội hay không?
Phải khẳng định không một học thuyết nào đã trở thành động lực cho các phong trào giải phóng xã hội, giải phóng con người mạnh mẽ trong hơn 150 năm qua như học thuyết Mác. Nếu chủ nghĩa tự do hình thành từ thế kỷ XVII - XVIII đã được giai cấp tư sản dùng làm ngọn cờ lý luận đấu tranh với chủ nghĩa phong kiến và làm nên các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ, thì trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chín muồi và khủng hoảng những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, lý luận của C. Mác và V.I. Lênin có khả năng khoa học để lật đổ giai cấp thống trị cũ, tức là giai cấp tư sản. Đấy chính là khía cạnh cách mạng của học thuyết, bắt nguồn từ tính khoa học của nó, hay nói cách khác chính ý nghĩa lý luận của nó đã đem lại ý nghĩa thực tiễn cho nó. Không phải là sự căm ghét cá nhân của C. Mác với xã hội tư bản chủ nghĩa, không phải là tham vọng cá nhân muốn lật đổ một trật tự hiện thời, mà chính là từ nghiên cứu khoa học đi đến kết luận mang tính cách mạng. Chính là từ tổng kết thực tiễn chính trị nhân loại, rút ra những quy luật phổ biến của sự ra đời một xã hội mới (chẳng hạn sự thay thế tất yếu của các xã hội bằng bạo lực cách mạng, là chuyên chính của giai cấp tiến bộ nhất đối với lực lượng phản động...) đã cung cấp giải pháp và con đường giải phóng của các giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Vì vậy, học thuyết Mác có sức lan tỏa và trở thành ngọn cờ lý luận cho các lực lượng cách mạng ở các nước bị áp bức, nhất là ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh đấu tranh giành độc lập trong thế kỷ XX.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 17
Việc chủ nghĩa Mác không thắng lợi trước tại các nước tư bản chủ nghĩa mạnh nhất ở châu Mỹ, châu Âu cũng là điều dễ hiểu (mặc dù chính C. Mác, Ph. Ăngghen cũng tiên đoán sẽ thắng lợi trước ở các nước tiên tiến như Mỹ, Anh). Lịch sử đã chứng minh những tư tưởng tiến bộ của giai cấp tư sản có trước ở Pháp, Anh, nhưng tư tưởng đó lại thắng lợi trước ở Mỹ với Tuyên ngôn độc lập năm 1776. Còn ở Pháp phải đến năm 1789 mới có cách mạng và phải sau năm 1871 nền cộng hòa tư sản mới thắng lợi hoàn toàn; ở Anh cho tới nay vẫn còn chế độ quân chủ lập hiến.
Với tinh thần cách mạng của mình, không có gì lạ khi ở khắp nơi, đặc biệt ở các nước bản chủ nghĩa phát triển nhất, những kẻ bảo vệ cho trật tự cũ, quyền lực cũ, luôn phản bác và căm ghét lý luận của các ông, ngăn cản sự thắng thế của lý luận này. Giáo sư Tery Eagleton đã viết: “Không thể có người chiến sĩ kiên trung nào vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, hòa bình thế giới, chống chủ nghĩa phát xít và độc lập cho các nước thuộc địa như phong trào chính trị mà công trình của Mác đã sản sinh ra.
Và cũng chưa từng có nhà tư tưởng nào bị lắm hiềm khích đến như vậy!”.
Không những thế, chính lý luận của Mác - Lênin, chính thực tiễn phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Đông Âu trước kia cũng đem lại những gợi ý cho các lý luận gia và chính phủ tư sản trong việc đề ra các giải pháp hoàn thiện chủ nghĩa tư bản, khỏa lấp những khuyết điểm cố hữu của nó về thể chế, về những hậu quả xã hội và tự nhiên mà nó gây ra. Với những nguồn lực có được từ sự phát triển toàn cầu, từ sự khai thác các quốc gia kém phát triển, các nước phương Tây ở thế kỷ XXI đã tạo nên bộ mặt phồn vinh, nhân đạo hơn rất nhiều so với thế kỷ XX và trước đó, tạo nên “sức sống” của chủ nghĩa tư bản.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 18
4. Không thể đồng nhất sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu với sự thất bại của chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là một học thuyết để đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, lại càng không thể vì thế phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh
Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (sau 70 năm phát triển) quả thực đã giáng một đòn nặng vào chủ nghĩa C. Mác - Lênin.
Sự sụp đổ này là một ví dụ sinh động cho thấy sự phát triển của lịch sử dù rất đúng quy luật song không hề thẳng tắp mà hết sức quanh co, thậm chí có những bước thụt lùi. Sở dĩ như vậy bởi nó luôn đi kèm với xung đột giai cấp, với cách mạng và phản cách mạng. Sự ra đời, phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như vậy. Nếu tính từ cách mạng tư sản Hà Lan đầu thế kỷ XVI tới cách mạng Anh hoàn thành (năm 1680) là gần 200 năm, tới khi hình thành Nhà nước Mỹ độc lập (năm 1776) và Nhà nước tư sản Pháp ra đời (năm 1789) mất trên dưới 300 năm. Riêng nước Pháp, mặc dù được coi là cách mạng tư sản triệt để, song cũng mất thêm gần 100 năm, cho tới sau khi Công xã Pari (năm 1871) thất bại, mới là một quốc gia tư sản hoàn toàn.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu có những nguyên nhân khách quan và tác nhân bên ngoài, song có nguyên nhân chủ quan của những người cộng sản cầm quyền. Đó vừa là sự giáo điều, vừa là sự lợi dụng, mạo danh, cố tình hoặc vô ý xuyên tạc, làm sai lệch bản chất của học thuyết Mác trên nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề như dân chủ và chuyên chính, nhà nước và đảng cầm quyền, giai cấp, dân tộc và cá nhân... Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội đã bị mất uy tín nghiêm trọng chính bởi những người lãnh đạo các đảng cộng sản ở các nước. Không thể đổ lỗi hoàn toàn những thất bại đó cho chủ
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 19
nghĩa Mác - Lênin. Ngược lại, phải vạch ra rất nhiều điều về sự không trung thành của những người tự gọi là môn đệ của các ông. Bản tính cá nhân, vị kỷ (chưa gột rửa hết) của những người cộng sản sau này khiến họ thường lạm dụng, lợi dụng tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bỏ qua bản chất khoa học của nó, khiến đường lối, chính sách của các đảng cộng sản cầm quyền bị sai lầm, kéo lùi sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa.
5. Hồ Chí Minh là tấm gương về sự trung thành đầy sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Không thể tách rời Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, song cũng không thể đồng nhất Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin
Không có chủ nghĩa Mác - Lênin, thì không có Hồ Chí Minh. Song bên cạnh chủ nghĩa Mác - Lênin còn những nhân tố tư tưởng khác tạo nên Hồ Chí Minh. Đó là tinh hoa văn hóa chính trị phương Đông và phương Tây, truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Mục đích giải phóng cho nhân dân, đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân đế quốc đã dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Không phải chỉ Hồ Chí Minh mà chính các nhà yêu nước Việt Nam (như Phan Bội Châu) sau những tìm tòi, tin tưởng, đi theo và thất bại đã thừa nhận không có con đường nào, dù là dưới ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ tư sản, hay ngọn cờ nông dân; dù bằng bạo lực (như Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học) hay hòa bình (như Phan Châu Trinh) có thể đạt được kết quả. Lý luận của C. Mác - V.I. Lênin đã chỉ ra con đường mới, lực lượng mới, mục tiêu mới cho cách mạng giải phóng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhận ra, không có lý luận nào có khả năng dẫn dắt cách mạng giải phóng dân tộc bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người nói “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 20
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”1. Song Người cũng hiểu bất kỳ lý luận nào, dù là đầy đủ nhất, hoàn bị nhất, cũng không thể là vạn năng, bao quát hết mọi không gian, thời gian. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như vậy, “Mác đã xây dựng học thuyết trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”2 như nhận định của Nguyễn Ái Quốc.
Không thể nói sự lựa chọn của Hồ Chí Minh khiến dân tộc phải trải qua các cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Ngược lại, chính sự tàn bạo và ngoan cố của chủ nghĩa thực dân buộc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam phải chọn con đường cách mạng bạo lực, chọn cuộc đấu tranh vũ trang để giành độc lập. Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc và nhiều người yêu nước khác từ năm 1919 đã gửi tới Chính phủ Pháp bản Yêu sách của nhân dân An Nam yêu cầu cải cách chế độ chính trị - xã hội ở Đông Dương nhưng thất bại. Cũng chính sự ngoan cố của các thế lực diều hâu trong Chính phủ Pháp những năm 1945 - 1946 buộc người Việt Nam phải cầm vũ khí chống lại sự xâm lăng lần thứ hai của đế quốc Pháp trong suốt 9 năm ròng. Cũng chính bản chất đế quốc, chống cộng của Chính phủ Mỹ ngay từ năm 1945 - 1946 và những năm 50 - 60 của thế kỷ XX nhằm chia cắt đất nước Việt Nam, ngăn cản sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở Việt Nam buộc người Việt Nam phải tiến hành chiến tranh giải phóng và thống nhất đất nước suốt hơn 20 năm. Cái giá xương máu mà dân tộc phải trả là điều Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.510.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 21
không mong muốn nhưng không có con đường nào khác. Chính các nhà sử học khách quan của cả Pháp và Mỹ sau này (ví dụ cuốn sách Tại sao Việt Nam? của Archimedes L.A. Patti) đều phải thừa nhận lẽ phải, thiện chí hòa bình thuộc về Hồ Chí Minh và chính phủ các nước này đã “bỏ lỡ những cơ hội hòa bình” và ngoại giao mà Chính phủ Hồ Chí Minh đã đưa ra.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào xác định con đường cách mạng Việt Nam. Song ngay từ năm 1930, Người đã có nhiều sáng tạo, không giáo điều, rập khuôn, máy móc, mà luôn đứng vững trên thực tiễn và truyền thống lịch sử Việt Nam mà xác định chiến lược và sách lược cách mạng thích hợp. Những sáng tạo của Người về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa dân tộc và giai cấp, giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, giữa chiến tranh và khởi nghĩa, giữa bạo lực và hòa bình... đã được thắng lợi của cách mạng chứng minh là đúng đắn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng vào Việt Nam từ ngày Nguyễn Ái Quốc trở về nước mang sắc thái đặc biệt, một sắc thái Việt Nam, kể cả về mục tiêu, hình thức tổ chức, cũng như biện pháp đấu tranh. Nó đã hòa đồng với truyền thống dân tộc. Tất cả đều thấm đượm tư tưởng yêu nước, thương dân Hồ Chí Minh”1.
Cũng như V.I. Lênin tìm cách phát triển lý luận Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã trăn trở tìm kiếm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước Việt Nam còn rất nghèo nàn, lạc hậu. Song sự nghiệp này còn dang dở khi Người ra đi.
Sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh quốc tế những năm 70 - 80 thế kỷ XX, Đảng ta đã mắc sai lầm giáo điều về
1. Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.376.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 22
lý luận, rập khuôn, máy móc trong vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước, đồng thời nôn nóng, chủ quan trong xác định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Không thể nói những sai lầm, khuyết điểm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm đó ở Việt Nam là do đi theo tư tưởng và sự lựa chọn con đường cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngược lại chính là do xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khắc phục những sai lầm đó, từ năm 1986 Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới. Gần 30 năm thực hiện đường lối đó, Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần vận dụng sáng tạo, không giáo điều, đồng thời ngày càng thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh trong mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước nên thu được những thành tựu mang tính lịch sử, ngày càng có vị thế to lớn trên trường quốc tế. Những khó khăn trong những năm đầu thế kỷ XXI của nước ta về kinh tế, một mặt do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới (bắt đầu năm 2008) do đất nước ta đã hội nhập sâu với quốc tế; mặt khác do sai lầm và thiếu kinh nghiệm trong điều hành kinh tế vĩ mô, chứ không phải do chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kìm hãm. Cũng không vì sự kiên định đó của chúng ta mà các nước trên thế giới kể cả các nước siêu cường, không hợp tác toàn diện, thậm chí nâng tầm đối tác chiến lược với nước ta.
6. Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, mỗi dân tộc có thể và cần giữ được bản sắc của mình, kể cả bản sắc văn hóa chính trị trong quá trình phát triển. Việt Nam có thể và cần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành bản sắc văn hóa tinh thần của mình
Nhiều nước châu Âu, châu Mỹ và châu Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xingapo, Malaixia...) đã và đang chú trọng giữ gìn bản sắc
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 23
của mình trong quá trình hội nhập. Trung Quốc vẫn tuyên bố trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và đang trở thành một thế lực kinh tế, chính trị hàng đầu thế giới. Ở Việt Nam, qua hàng chục năm, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng chính trị. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở phương pháp luận để Đảng ta nhận thức thế giới và định hướng trong việc đề ra mọi chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa và có những thành tựu không thể phủ nhận.
Trên con đường phát triển ngày nay, một mặt chúng ta có thể và cần phải trung thành với nền tảng tư tưởng đó theo phương châm mà Hồ Chí Minh đã nêu, đó là nắm cái tinh thần khoa học, thực tiễn của lý luận chứ không phải tuân theo từng câu chữ của C. Mác, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh. Phải thực sự thấm nhuần phương pháp luận nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, thấm nhuần quan điểm khoa học, thực tiễn để nhận thức thế giới và đất nước, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách thích hợp trên mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội...
Mặt khác, có thể và cần phải tiếp thu những thành tựu lý luận khác, ngoài mácxít, làm rõ những điểm “mờ” mà do điều kiện khách quan, chủ nghĩa Mác - Lênin chưa có điều kiện làm rõ, đặc biệt là những giải pháp ngăn ngừa sự lạm dụng, lợi dụng, hoặc xuyên tạc, cắt xén lý luận vì mục đích cá nhân, lợi ích nhóm. Trong thực tế, điều này đã xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước kia. Nếu như còn sống và chứng kiến những sự cắt xén, lạm dụng, lợi dụng các quan điểm tư tưởng của mình nhằm lợi ích vị kỷ và thỏa mãn quyền lực của những môn đệ của chủ nghĩa Mác, hẳn các nhà kinh điển cũng phải tự đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của các ông và các ông sẽ phải bổ sung lý luận nhằm phòng ngừa, ngăn chặn sự lạm dụng, lợi dụng đó.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 24
Nhìn vào thực tiễn phát triển của các quốc gia đã xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin trong những năm gần đây, hoặc ngược lại là “trung thành” cực đoan mà thực chất là lợi dụng, lạm dụng một cách chủ quan, phi khoa học và xa rời thực tế, người ta đều thấy những hậu quả tiêu cực. Có những nơi trở thành thành trì của sự thủ cựu, cô lập với thế giới, song cũng có nơi lại đang trở thành cái đuôi của các nước phương Tây.
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN*1
1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin
a) Điều kiện thực tiễn
Đó là những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Về mặt kinh tế, từ sau Cách mạng tư sản Anh (1640 - 1680) và Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ ở châu Âu. Năm 1776 nước Mỹ ra đời, khẳng định sự thắng lợi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Cuộc nội chiến ở Mỹ và thắng lợi của miền Bắc với miền Nam nước Mỹ lại càng khẳng định tính ưu việt của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ dân chủ tư sản. Sang thế kỷ XIX đã xuất hiện tình trạng khủng hoảng thừa do sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do quy luật phát triển vì lợi nhuận, phải không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường nên đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc.
* Bài viết in trong sách: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Khoa Khoa học Chính trị, Lưu Văn Minh (Chủ biên): Giáo trình Lịch sử học thuyết chính trị, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr.377-405. Bài viết có sự chỉnh sửa, bổ sung so với bản đã in trong sách (BT).
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 26
Về mặt xã hội, giai cấp công nhân ngày càng phát triển về số lượng, nhưng tình trạng thất nghiệp ngày càng nhiều, đời sống bị bần cùng hóa ngày càng nặng nề. Vì vậy, phong trào tự phát đập phá máy móc nổ ra, tiếp theo đó là các cuộc đấu tranh có quy mô lớn xuất hiện nhằm các mục tiêu kinh tế và xã hội (tăng tiền lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc) như cuộc đấu tranh của công nhân ở Silêdi (Đức), ở Lyông (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh). Bước sang thế kỷ XX, mâu thuẫn xã hội không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia tư sản mà mở rộng ra phạm vi quốc tế, giữa giai cấp tư sản chính quốc với giai cấp công nhân, nông dân ở các nước thuộc địa.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) là đỉnh điểm của sự tranh giành thuộc địa của các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu, càng khoét sâu mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong lòng các nước tư bản.
Về mặt chính trị, tiếp theo Anh, Mỹ, đến giữa thế kỷ XIX giai cấp tư sản Pháp chiếm được địa vị thống trị chính trị vững chắc. Còn ở Đức, phải tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX giai cấp tư sản mới có được địa vị thống trị như ở các nước Anh, Pháp, Mỹ.
Chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự giành giật thuộc địa, thị trường của các nước đế quốc mới nổi với các nước đế quốc đang thống trị thế giới là nguồn gốc của Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa các nước chính quốc và các thuộc địa trở nên gay gắt, vấn đề dân tộc càng trở nên cấp bách.
b) Những tiền đề lý luận cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác
Mặc dù có những hạn chế to lớn song các nhà tư tưởng ở châu Âu cũng để lại những giá trị đáng kể, những hạt nhân hợp lý có thể kế thừa.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 27
Triết học cổ điển Đức: Triết học cổ điển Đức chứa đựng tinh thần biện chứng (đặc biệt là Hêghen). Hơn thế, nó còn chứa đựng tinh thần phê phán, cách mạng, kể cả phê phán chính trị (chế độ chuyên chế). Song, hạn chế của sự phê phán đó là không trực diện, mà trong vỏ tư biện và phê phán tôn giáo.
Kinh tế chính trị học Anh cho thấy lao động làm thuê, chứ không phải đất đai hay bất kỳ điều gì khác, mới chính là nguồn gốc của mọi sự giàu có, mọi của cải vật chất và tinh thần.
Lý luận của những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng như Phuriê, Xanh Ximông (Pháp), Ôoen (Anh). Những lý luận và cả những cố gắng thực tiễn của họ (như Ôoen cố gắng thực hiện mô hình công xưởng của ông ở Anh và Mỹ) cho thấy khát vọng mãnh liệt, lý tưởng cao cả của loài người về một xã hội công bằng, bình đẳng, nhân ái. Hơn thế, những cố gắng của họ trong thực tiễn còn chứng tỏ nếu có lực lượng đúng thì lý tưởng đó có thể thành hiện thực.
Tuy nhiên, trước khi xuất hiện chủ nghĩa Mác, giai cấp công nhân và những lãnh tụ của phong trào công nhân chưa nhận thức được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và con đường đúng đắn của cuộc đấu tranh. Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới dừng ở mức độ những đòi hỏi kinh tế. Cho đến đầu thế kỷ XIX, ngay cả những người tiến bộ nhất cũng chưa nhận thức được những sự thay đổi có tính thời đại, cho nên đã không trả lời được (thậm chí không hề đặt ra) các câu hỏi rất cơ bản của tư tưởng chính trị. Đó là: Quyền lực chính trị của thời đại mới phải thuộc về tay ai (giai cấp, tầng lớp nào), làm thế nào giành được quyền lực chính trị và quyền lực đó phải được tổ chức và thực thi như thế nào?
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 28
c) Các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin
- Giai đoạn chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường vô sản của C. Mác và Ph. Ăngghen:
Là những nhà trí thức tiến bộ, C. Mác và Ph. Ăngghen sớm có quan điểm nhân đạo chủ nghĩa, mong muốn đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Chính vì vậy C. Mác đã tham gia bênh vực cho những người Đức nghèo chặt củi trộm. Ph. Ăngghen cũng rất thông cảm với những người vô sản bị bóc lột và bần cùng hóa trong các công xưởng ở Anh. Việc tìm hiểu nguyên nhân và cách khắc phục tình trạng xã hội đó dẫn C. Mác từ lĩnh vực luật học chuyển sang nghiên cứu triết học Hêghen. Một mặt, ông tiếp thu tinh thần cách mạng, dân chủ và nhân đạo của phái Hêghen trẻ, mặt khác phê phán họ về tính duy tâm. Bằng lý luận triết học, từ năm 1845, ông đã nhận thức được mối quan hệ của phê phán bằng lý luận và phê phán bằng thực tiễn, vai trò của giai cấp vô sản trong đấu tranh xã hội (tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen). Từ việc nghiên cứu thực tiễn xã hội và đời sống của công nhân Anh, Ph. Ănghen cũng đi đến lập trường đó (tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh). Kết quả của việc nghiên cứu lịch sử và kinh tế những năm sau đó được thể hiện trong các tác phẩm như Sự khốn cùng của triết học, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức..., là những cơ sở để ra đời Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), đánh dấu một bước ngoặt và sự chín muồi về lập trường giai cấp công nhân của các ông. Trong đó, các ông đã mô tả một cách khái quát và đúng đắn lịch sử hình thành, phát triển của loài người từ cổ đại đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, các ông đã dự đoán sự phát triển của loài người trong tương lai, về khả năng tiến tới chủ nghĩa cộng sản; trả lời được các câu hỏi cơ bản
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 29
của tư tưởng chính trị: trong thời đại mới, quyền lực chính trị phải thuộc về ai và làm thế nào để có được quyền lực đó. - Giai đoạn C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung, hoàn chỉnh tư tưởng chính trị trên lập trường giai cấp công nhân: Tư tưởng chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen không phải chỉ được nghiên cứu trên bình diện chính trị thuần túy mà đặt trên cơ sở của những nghiên cứu kinh tế chính trị học, triết học, lịch sử và cuộc đấu tranh thực tiễn của phong trào công nhân châu Âu. Từ năm 1848 đến năm 1895, các ông tiếp tục hoàn thiện tư tưởng chính trị của mình trên mọi khía cạnh, đặc biệt về phương pháp giành quyền lực và tổ chức quyền lực chính trị (các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850, Chống Đuyrinh, Phê phán Cương lĩnh Gôta...).
- Giai đoạn V.I. Lênin bảo vệ, phát triển tư tưởng chính trị của C. Mác và Ph. Ăngghen để chuẩn bị cách mạng, tiến hành cách mạng vô sản và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga:
Gắn với thực tiễn đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân Nga và của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, V.I. Lênin phát triển hàng loạt quan điểm về đảng, nhà nước, về chiến lược và sách lược của đảng (các tác phẩm: Làm gì; Một bước tiến, hai bước lùi; Hai sách lược của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga; Nhà nước và cách mạng; Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxki; Bàn về nhà nước...).
Sau Cách mạng Tháng Mười, trong điều kiện bảo vệ chính quyền Xôviết, V.I. Lênin lại phát triển lý luận về chuyên chính vô sản, về xây dựng nền kinh tế mới, về liên minh công nông trong điều kiện có chính quyền...
Toàn bộ những cố gắng của C. Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lênin trên phương diện chính trị đã tạo nên kho tàng lý luận và kinh nghiệm chính trị phong phú cho những người cộng sản sau này.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 30
2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị mácxít
a) Triết học về chính trị
Chủ nghĩa Mác đã đóng góp cho triết học chính trị những tư tưởng có giá trị. Đó là những lý giải trên cơ sở của phương pháp luận duy vật biện chứng những vấn đề cốt lõi, đặc trưng của tư tưởng chính trị, trả lời một cách khoa học những câu hỏi được đặt ra từ hàng nghìn năm trước về nguồn gốc, bản chất, quy luật của chính trị.
- Bản chất và nguồn gốc của chính trị:
Chính trị theo tiếng Hy Lạp là politics - công việc thành bang, mà cốt lõi nhất, quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra government - nghĩa là cơ quan cai trị, hay là chính phủ (sau này từ thế kỷ XVI trở đi là Etat - nhà nước). Do vậy, người phương Tây nói chung và các nhà tư tưởng phương Tây nói riêng trong suốt thời cổ đại và sau này cả thời trung và cận đại luôn cố gắng đi tìm một hình thức cai trị - hình thức chính phủ, hình thức nhà nước hợp lý nhất. Theo hướng đó, họ đã đưa ra nhiều quan điểm rất có giá trị, chẳng hạn tư tưởng về phân quyền và kiểm soát quyền lực.
Nghiên cứu về chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa quan điểm của những người đi trước trong việc khẳng định chính trị nghĩa là công việc nhà nước. V.I. Lênin viết: “Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”1.
Song, khi đi sâu nghiên cứu về chính trị trên quan điểm duy vật biện chứng, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin thấy rằng, đằng
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.33, tr.404.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 31
sau những hoạt động nhà nước, những hoạt động tham gia vào công việc nhà nước là vấn đề quyền lực và suy cho cùng là vấn đề lợi ích của các tập đoàn người đông đảo trong xã hội - những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định, trong quan hệ với tư liệu sản xuất xã hội, trong việc tổ chức và quản lý nền sản xuất xã hội, và do đó khác nhau trong mức độ hưởng thụ từ sự phân phối của cải và phương thức sống. Những tập đoàn đó được gọi là giai cấp1. Do đó, phải quan niệm chính trị một cách rộng rãi hơn, phản ánh đúng thực chất hơn là quan hệ giữa các giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong vấn đề quyền lực và suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I. Lênin viết: “Cuộc đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp là cuộc đấu tranh chính trị”2, “mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều là đấu tranh chính trị”3.
Với quan niệm như trên C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã vạch ra trong tư tưởng chính trị của loài người với hai loại quan điểm: loại thứ nhất là những người luôn che giấu lợi ích của giai cấp, tầng lớp, của bộ phận xã hội mà họ là đại biểu trong việc đề ra hình thức nhà nước thế này hay thế khác. Ngược lại, loại thứ hai không hề thấy vấn đề lợi ích đó mà cứ loay hoay luẩn quẩn một cách ngây thơ trong việc tìm kiếm hình thức nhà nước lý tưởng. Đó là những người muốn tìm cái lý tưởng, cái lý tính thuần tuý trong sự tách rời với cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước, tách rời lợi ích của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Vạch ra thực chất của chính trị như thế, chủ nghĩa Mác muốn vạch ra sự lừa bịp của các thế lực phản động và sự ngây thơ chính trị của những người khác về vẻ ngoài khách quan vô tư của các
1. Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.33, tr.9.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.256.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.301.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 32
nhà nước, các chính phủ. Các ông nói rằng, nhà nước không có gì khác chính là bộ máy cưỡng bức của giai cấp này với giai cấp kia vì những lợi ích kinh tế nhất định. V.I. Lênin viết: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn có tính đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp về chính trị”1.
Cho nên, việc tham gia vào chính trị, hoạt động chính trị của con người không có gì khác chính là tham gia vào cuộc đấu tranh vì lợi ích của một giai cấp này hay giai cấp kia mà thôi. C. Mác viết: Lịch sử thành văn của con người là lịch sử đấu tranh giai cấp: đấu tranh giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô, giữa thợ bạn với thợ cả, giữa nông nô và chúa phong kiến, giữa công nhân và chủ tư bản2.
Theo quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác, chính trị là hiện tượng có tính lịch sử, xuất hiện trên nền tảng phát triển của xã hội loài người, mà cụ thể là trên cơ sở của trình độ sản xuất của con người, gắn liền với sự xuất hiện giai cấp, nhà nước và đồng thời cũng là sự đánh dấu giai đoạn văn minh của con người. Tới lúc nào đó, trên cơ sở của sự phát triển rất cao của con người sẽ không còn giai cấp nữa và cũng không còn chính trị nữa. Lúc đó, chính trị bị thủ tiêu, nhà nước bị thủ tiêu.
Như vậy, chính trị có nguồn gốc từ chính sự phát triển của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định, là hoạt động tất yếu, khách quan của con người, không phải là sản phẩm chủ
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.57.
2. Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.596.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 33
quan, duy ý chí của một số cá nhân, cũng không phải là áp đặt từ bên ngoài xã hội loài người.
Điều này khác xa quan điểm duy tâm, thần bí về chính trị của nhiều nhà tư tưởng chính trị trước kia - những người coi chính trị như là một phạm trù vĩnh viễn của xã hội loài người, và hoạt động chính trị là thiên chức, đặc quyền của một tầng lớp, hay của những cá nhân ưu tú của xã hội. Chính trị không phải là sáng tạo hay trò chơi của một hay một nhóm người, theo đó họ có thể điều khiển người khác theo ý chí chủ quan của mình.
Việc vạch ra sự thật về bản chất, nguồn gốc của chính trị là đóng góp rất to lớn của tư tưởng chính trị mácxít vì nó đem lại cái nhìn khoa học, khách quan về chính trị. Sở dĩ C. Mác, Ph. Ăngghen và sau này là V.I. Lênin đã vạch ra được bản chất thật sự của chính trị là vì các ông đã đứng trên quan điểm triết học duy vật lịch sử là quan điểm luôn thấy rõ cơ sở kinh tế, nguồn gốc kinh tế, sự thay đổi của phương thức sản xuất là nguồn gốc, là cơ sở của chính trị. Trên góc độ đó, chính trị là hoạt động tất yếu khách quan của con người, và luôn có nội dung cụ thể phù hợp với một phương thức sản xuất nhất định. Do đó, khi nói đến chính trị và gắn với nó là nhà nước, chính phủ, hình thức cai trị thì không thể nói chung chung mà phải nói nhà nước của ai, chính phủ của ai, sự cai trị của ai. Và tính đúng đắn, tính hợp lý, sự tiến bộ của chúng phải được xét một cách cụ thể trong mối tương quan với phương thức sản xuất nhất định.
Việc vạch ra bản chất thật sự của chính trị không chỉ có ý nghĩa về nhận thức lịch sử mà điều quan trọng hơn là nó vạch ra cho giai cấp công nhân một mục tiêu đấu tranh rõ ràng của mình. Đó là chiếm lấy nhà nước, tự tổ chức nên một hình thức cai trị phù hợp với quyền lợi chính đáng của mình, phù hợp với sự phát triển của trình độ sản xuất của loài người.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 34
- Quy luật của chính trị:
Thời cổ đại, có người coi chính trị là nghệ thuật. Xênôphôn nói, chính trị là nghệ thuật của các bậc đế vương, là nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao nhất. Nhưng cũng có người thấy, chính trị không chỉ là nghệ thuật mà còn là khoa học. Platôn coi chính trị là nghệ thuật cai trị con người với sự bằng lòng của họ, song ông cũng nói khoa học thật sự và duy nhất của bậc đế vương là khoa học chính trị.
Arixtốt tiếp tục tư tưởng của Platôn về khoa học chính trị và đã dành công sức khảo sát chính trị của hàng trăm thành bang nhằm tìm ra quy luật sinh ra và mất đi của chính trị.
Như vậy, người ta đã biết chính trị không phải chỉ là nghệ thuật, sự khéo léo của cá nhân mà còn có những điều không phụ thuộc vào các cá nhân.
Chủ nghĩa Mác cũng thừa nhận chính trị vừa là nghệ thuật vừa là khoa học. Nó chứa đựng trong đó cả dấu ấn của cá nhân nhưng cũng chứa đựng quy luật của xã hội. Nó vừa phụ thuộc vào nghệ thuật, sự khéo léo của các cá nhân, nhất là của những người đứng đầu nhà nước, nhưng cũng phụ thuộc một cách quyết định vào quy luật khách quan. Chính trị có lôgíc khách quan nội tại của nó và người hoạt động chính trị phải nắm bắt và hoạt động phù hợp với nó. V.I. Lênin nói: “Chính trị có lôgíc khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác”1.
Dựa vào sự phân tích một cách tỉ mỉ, cụ thể và khách quan thực tiễn lịch sử đấu tranh giai cấp của loài người, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã đưa ra các quan điểm có tính tổng kết về quy luật khách quan của cuộc đấu tranh chính trị của
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.246.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 35
loài người. Trong vấn đề này chủ nghĩa Mác vạch ra hai loại quy luật sau:
Loại thứ nhất là quy luật trong mối quan hệ giữa chính trị với các mặt hoạt động khác của xã hội loài người. Trong mối quan hệ qua lại đó, có khi chính trị bị chi phối, bị quy định, bị phụ thuộc, chẳng hạn suy cho cùng chính trị bị quy định bởi kinh tế. Nhưng trong quan hệ khác, chính trị lại giữ địa vị chi phối, quyết định, chẳng hạn trong quan hệ với quân sự, với ngoại giao, “toàn bộ lịch sử đã qua, trừ trạng thái nguyên thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai cấp; rằng những giai cấp xã hội đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản phẩm của những quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, tóm lại là những sản phẩm của những quan hệ kinh tế của thời đại của các giai cấp ấy; do đó cơ cấu kinh tế của xã hội luôn luôn là cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải dựa vào mới giải thích được tất cả thượng tầng kiến trúc là chế độ pháp quyền và chế độ chính trị, cũng như những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định”1. “Trong lịch sử hiện đại thì như vậy là ít nhất cũng đã chứng minh được rằng tất cả cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp, và tất cả cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa - vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, - xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Do đó, ít ra là ở đây, nhà nước, tức là chế độ chính trị, cũng là yếu tố tùy thuộc, còn xã hội công dân, tức là lĩnh vực của những quan hệ kinh tế, là yếu tố quyết định”2.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19. tr.303.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.441.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 36
Loại thứ hai là quy luật trong đấu tranh chính trị, với nghĩa là đấu tranh giành, giữ, thực thi quyền lực giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau. Trong lĩnh vực này, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin nêu lên các tư tưởng rất quan trọng sau đây:
+ Quyền lực chính trị tất yếu thuộc về giai cấp, tầng lớp xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội, đại biểu cho xu hướng tiến bộ của sản xuất và do đó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội.
Nghiên cứu lịch sử loài người, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C. Mác viết: “Cái cối xay chạy bằng tay đưa lại xã hội có chúa phong kiến, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”1. Nhưng cũng chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản lại tạo ra vũ khí tiêu diệt giai cấp tư sản, đó là lực lượng sản xuất vô cùng to lớn mà quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa không thể tương dung được, và cùng với vũ khí đó là những người sử dụng chúng, những người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, tức là giai cấp công nhân. C. Mác viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”2.
Tuy nhiên, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng vạch ra rằng tính tất yếu không có nghĩa là một giai cấp, một lực lượng tiến bộ về kinh tế sẽ tự nhiên có được quyền lực chính trị, nói cách khác là ngồi chờ quyền thống trị chính trị đến với mình. Ngược lại, lịch sử chứng minh rằng một giai cấp, một lực lượng dù đã trở nên lạc hậu phản động đến mấy cũng không bao giờ tự
1, 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187, 610.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 37
nhường quyền thống trị của mình. Do đó cần phải đấu tranh để giành lấy quyền thống trị đó.
+ Việc đấu tranh giành quyền thống trị chính trị tất yếu phải giành lấy nhà nước.
Nhà nước là tổ chức bạo lực của giai cấp này chống lại giai cấp kia, là hình thức hoàn chỉnh nhất của quyền lực. C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin nhấn mạnh nhà nước luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng: “Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị - ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản, - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu”1. V.I. Lênin cũng nói: “Chủ nghĩa Mác thừa nhận rằng chỉ khi nào đấu tranh giai cấp không những bao trùm lĩnh vực chính trị mà còn nắm lấy cái căn bản nhất trong chính trị tức là việc tổ chức chính quyền nhà nước, thì khi đó nó mới là một cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đầy đủ, có “quy mô toàn dân tộc””2.
+ Việc giành lấy nhà nước tất yếu cần tới bạo lực. C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin chứng minh rằng, trong lịch sử loài người các giai cấp nắm được quyền thống trị chính trị đều cần đến bạo lực với tư cách là dùng sức mạnh để cưỡng chế. Với bản chất đó, bạo lực có những hình thức khác nhau: có bạo lực quân sự, có bạo lực chính trị. Nhưng dù dưới hình thức gì thì nó cũng là phương thức cần thiết, tất yếu, do đó các ông khẳng định
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.48.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.301-302.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 38
“bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”1.
+ Việc giành và giữ quyền lực chính trị cần tới mối liên minh chặt chẽ với các tầng lớp lao động đông đảo trong xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định không một giai cấp nào có thể đấu tranh thắng lợi và giành được chính quyền nhà nước mà không cần tới mối liên minh này. Ngay cả giai cấp tư sản ở các nước châu Âu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị với giai cấp phong kiến quý tộc cũng cần tới sự ủng hộ và liên minh của giai cấp nông dân và giai cấp công nhân. + Giữ và thực thi quyền lực chính trị luôn bao hàm hai mặt: chuyên chính và dân chủ vì lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy, chuyên chính và dân chủ luôn có tính giai cấp. Sự khác biệt chỉ là trong xã hội có giai cấp bóc lột cũ, giai cấp thống trị luôn là số ít (chủ nô, phong kiến, tư sản), nên đối tượng dân chủ chỉ cho số ít, chuyên chính đối với số nhiều. Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp thống trị là số đông, trước hết là giai cấp công nhân, nhân dân lao động nói chung, đối tượng chuyên chính chỉ là số ít.
+ Giữ quyền lực chính trị cần thiết phải củng cố chế độ sở hữu nền tảng của phương thức sản xuất và của giai cấp đang nắm quyền lực chính trị.
Mỗi phương thức sản xuất cần có một cấu trúc thượng tầng tương ứng, trong đó có vai trò chính trị chi phối của giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất, là người đại diện cho chế độ sở hữu cơ bản của phương thức sản xuất. Đây là mối quan hệ qua lại biện chứng. Do vậy, giai cấp phong kiến trước kia phải củng cố chế độ sở hữu đất đai, còn giai cấp tư sản phải củng cố chế độ
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.1043.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 39
sở hữu tư bản. Giai cấp công nhân với tư cách là chủ phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại, phải củng cố chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Có thể nói, những kết luận trên là những đúc kết mà trước Mác không một nhà tư tưởng chính trị nào nêu lên. Đó cũng chính là đóng góp to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin vào kho tàng tư tưởng chính trị của nhân loại.
b) Lý luận về những nhiệm vụ chính trị của giai cấp vô sản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Triết lý về chính trị không chỉ vạch ra quy luật của lịch sử mà còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn, là căn cứ lý luận để dựa vào đó C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ mục tiêu và biện pháp đạt đến mục tiêu chính trị của mình, đồng thời đấu tranh chống lại những quan điểm có tính cơ hội của một số phần tử trong phong trào công nhân châu Âu.
Theo các ông, giai cấp công nhân phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình và biết thực hiện sứ mệnh đó bằng cách: - Tổ chức ra một đội tiền phong của giai cấp, tức là đảng cộng sản, một đảng chính trị kiểu mới để dẫn dắt toàn thể giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản. - Liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và giữ vững chính quyền. - Khi thời cơ đến phải dùng bạo lực lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản và tự tổ chức ra nhà nước kiểu mới của mình. - Thực hiện dân chủ và chuyên chính vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Dùng quyền lực nhà nước để củng cố và phát triển cơ sở kinh tế, chế độ sở hữu chung của nhân dân lao động, làm nền tảng cho quyền lực chính trị.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 40
- Phát triển sách lược và nghệ thuật chính trị, xây dựng đội ngũ những nhà chính trị của giai cấp công nhân có trí tuệ và đạo đức.
- Thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc đi đôi với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo đúng đắn. Với những kết luận trên, V.I. Lênin đã lãnh đạo Đảng Bônsêvích Nga và giai cấp công nhân Nga làm cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thành công, xây dựng nên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuân theo những quan điểm chính trị đó của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thưc tiễn đó chứng tỏ lý luận chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là đúng đắn.
3. Giá trị tư tưởng của chính trị mácxít
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa C. Mác đã để lại di sản tư tưởng quý báu về chính trị; đồng thời, các ông cũng là các nhà hoạt động chính trị thực tiễn có nguyên tắc và phong cách độc đáo. Có thể nói, ở các ông có sự thống nhất cao độ giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm, tạo nên đặc điểm rất riêng biệt của các nhà mácxít chân chính.
Ngày nay, những người cộng sản trên thế giới cũng như ở Việt Nam đang phải đối mặt với thực tiễn chính trị - xã hội hết sức phức tạp, trong đó có những vấn đề rất mới mẻ. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin tức là phải vận dụng một cách sáng tạo trên tinh thần thực tiễn những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó đòi hỏi những người cộng sản phải nắm được tinh
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 41
thần cơ bản, những nguyên tắc cơ bản của tư tưởng chính trị mácxít. Đó là:
a) Thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại: Chủ nghĩa Mác coi mục đích cao cả nhất của mình là giải phóng con người nói chung, tức là nhân loại khỏi mọi áp bức, đau khổ. Đây là lý tưởng, là mục đích cao nhất trong cuộc đời hoạt động chính trị của C. Mác. Cũng vì thế, chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa nhân đạo cao cả, là sự tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo mà
nhiều nhà tư tưởng tiến bộ trước Mác đã nêu lên. Song khác với các nhà tư tưởng trước, C. Mác thấy rõ để giải phóng loài người nói chung thì trong thời đại tư bản chủ nghĩa chính là phải giải phóng giai cấp công nhân khỏi sự tha hóa bởi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để làm được điều đó cần có lực lượng vật chất và lực lượng vật chất đó không thể nào khác là giai cấp vô sản, vì trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, chỉ duy nhất giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng, đại biểu cho một phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại. Tất cả các giai cấp khác đều lạc hậu, phản động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Và cùng với điều đó là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Như vậy, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho nguyện vọng chung, lợi ích chung của loài người.
Giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh là người giải phóng xã hội nếu giải phóng được chính mình với tư cách là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội. Ngược lại, giai cấp vô sản chỉ có thể xóa bỏ được địa vị bị bóc lột của mình với tư cách là một giai cấp, nếu xóa bỏ triệt để phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó giải phóng tất cả những tầng lớp, những giai cấp gắn liền và phụ thuộc phương thức sản xuất ấy. Chừng nào phương thức sản xuất ấy còn tồn tại, chừng nào vẫn còn những tầng lớp
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 42
khác bị áp bức, bóc lột, bị phụ thuộc vào phương thức sản xuất ấy thì chừng đó giai cấp vô sản vẫn sẽ còn tồn tại, và như thế mục tiêu cách mạng của mình chưa đạt được. Vì vậy, sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân loại, giữa mục tiêu giải phóng giai cấp và mục tiêu giải phóng nói chung là một nguyên tắc, một yêu cầu mà những người cộng sản phải tuân theo. C. Mác viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản như sau:
“Nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị, và với tư cách giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.
Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1.
Nhưng giai cấp vô sản cũng hiểu rằng chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh toàn thế giới của mình khi bản thân họ phải trở thành dân tộc (ở đây là dân tộc - quốc gia). Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác khẳng định về bản chất đó là cuộc cách mạng có tính toàn thế giới nhưng về hình thức không thể không có tính chất dân tộc. Giai cấp vô sản trước hết phải trở thành dân tộc đã. Nói cách khác trước khi là đại biểu thực sự cho toàn thể nhân loại, giai cấp vô sản phải xứng đáng là đại biểu cho toàn dân tộc - quốc gia của mình trước đã.
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.628.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 43
Với nguyên tắc đó, trong điều kiện toàn cầu hóa, phát triển kinh tế thị trường, đảng cộng sản cầm quyền phải hiểu rằng những chính sách có lợi cho sự phát triển chung của xã hội, của đất nước cũng chính là có lợi cho giai cấp công nhân. Và ngược lại, những chính sách có lợi cho giai cấp công nhân không tách rời mà phải gắn bó với lợi ích chung của các giai cấp khác của dân tộc trên cơ sở phương thức và trình độ sản xuất khách quan của mỗi dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các tầng lớp khác phù hợp với sự phát triển đất nước là tiêu chí đánh giá sự đúng đắn của đường lối, chính sách do đảng cộng sản cầm quyền đề ra.
Nhìn ra quốc tế, lợi ích của giai cấp công nhân mỗi nước không những thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân ở các nước khác mà còn thống nhất với lợi ích của tất cả các tầng lớp, giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, vì sự tiến bộ chung của toàn thể loài người. Nhận thức đúng đắn những điều này sẽ quy định chính sách quốc gia và chủ nghĩa quốc tế của các đảng cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa.
b) Thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học Giai cấp vô sản bước vào cuộc đấu tranh chính trị ban đầu là tự phát và đứng dưới ngọn cờ cách mạng của giai cấp tư sản chống phong kiến. Ngay cả khi đã đối mặt với giai cấp tư sản, họ cũng không phải đã đạt đến trình độ tự giác ngay. Ở những giai đoạn đầu, trong thực tế giai cấp vô sản chưa sản sinh ra những nhà tư tưởng của mình. Nhưng khi cuộc đấu tranh giai cấp đã đạt đến trình độ đấu tranh chính trị với nghĩa là động chạm tới vấn đề chính quyền thì nhu cầu về lý luận cách mạng, lý luận chính trị nói chung được đặt ra một cách bức thiết. Nhiều nhà tư tưởng trong phong trào công nhân đã xuất hiện, nhưng
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 44
không phải lý luận nào của họ cũng mang tính cách mạng và khoa học. Có những người nêu ra cho giai cấp công nhân những khẩu hiệu cách mạng, nhưng thiếu tính khoa học, ví dụ Bacunin và sau này là Tơrốtxki với lý luận sặc mùi “tả” khuynh vô chính phủ. Ngược lại, có những người nhân danh khoa học nhưng thực chất là tuyên truyền lý luận đầu hàng giai cấp tư sản, ví dụ như Bécxtanh, Cauxki. Cả hai thái cực, cách mạng cực tả hay xét lại hữu khuynh đều dẫn giai cấp công nhân đến thất bại.
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin chỉ ra rằng, về bản chất, chính trị của giai cấp công nhân là cách mạng, nghĩa là lật đổ xã hội tư bản chủ nghĩa, sáng tạo ra một xã hội mới. Nhưng cuộc cách mạng này không phải là một hành động chủ quan duy ý chí. Không những nó phải có những tiền đề khách quan, chín muồi về kinh tế, xã hội mà ngay cả bước đi, quá trình của nó cũng phải tuân theo những điều kiện khách quan và quy luật phổ biến của chính trị. Như thế, chính trị của giai cấp công nhân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, phải là sự kết hợp chặt chẽ của mục tiêu cách mạng với phương pháp, bước đi khoa học phù hợp với thực tiễn khách quan. Và toàn bộ cuộc đời và lý luận của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin là thể hiện sự thống nhất ấy. Các ông dành hàng chục năm nghiên cứu để vạch ra các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản và những quy luật đấu tranh giai cấp chính là nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho chính trị của giai cấp công nhân. Lý luận của các ông vừa kiên quyết cách mạng, không khoan nhượng với bất kỳ thứ lý luận nửa vời, hữu khuynh nào, từ Pruđông đến Bécxtanh, Cauxki, lại vừa khách quan, khoa học và vì vậy xa lạ với thái độ vô chính phủ, hư vô chủ nghĩa, cực tả. Đối với C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, nếu có tinh thần cách mạng thực sự thì sẽ đạt đến khoa học trong chính trị và ngược lại
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 45
nếu (và chỉ là) khoa học thực sự khi thể hiện tinh thần cách mạng trong lý luận và thực tiễn chính trị.
Nguyên tắc này đòi hỏi đảng cộng sản khi đã có chính quyền phải xây dựng và thực hiện được những chính sách có tính cách mạng, đổi mới nhưng phải có cơ sở khoa học, phản ánh đúng những quy luật của đất nước, thời đại. Điều đó sẽ tránh cho đất nước những thiệt hại do bệnh chủ quan duy ý chí mà trong lịch sử nhiều đảng cộng sản đã mắc phải, và cả ở nước ta đã từng có giai đoạn như vậy.
c) Thống nhất của tính kiên định về nguyên tắc với sự sáng tạo linh hoạt về sách lược, phương pháp
Chính trị là khoa học, đồng thời là nghệ thuật. Giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất. Họ phải luôn công khai mục đích của mình là lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc. Mọi sự thay đổi về mục tiêu cơ bản ấy chính là sự đầu hàng chủ nghĩa tư bản. Chính sách tốt nhất bao giờ cũng là chính sách cách mạng công khai, là cuộc đấu tranh quyết liệt, hoàn toàn có tính chất độc lập dưới ngọn cờ vô sản. “Chính sách thẳng thắn là chính sách tốt hơn cả. Chính sách có tính nguyên tắc là chính sách thiết thực hơn cả”1.
Nhưng mặt khác, cách mạng là quá trình sáng tạo, chỉ có sáng tạo cách mạng mới thành công. V.I. Lênin từng nói: “Do hoàn cảnh bắt buộc, nên có lúc ngay cả chính đảng cách mạng nhất của một giai cấp cách mạng nhất cũng cần phải thực hành thỏa hiệp; vấn đề là ở chỗ phải biết cách thông qua tất cả những sự thỏa hiệp đó mà giữ gìn, củng cố, tôi luyện và phát triển sách lược cách mạng, tổ chức cách mạng, ý thức cách mạng, sự quyết tâm,
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.389.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 46
sự chuẩn bị của giai cấp công nhân và của đội tiên phong có tổ chức của nó, tức đảng cộng sản”1.
Điều ấy có nghĩa là phải rất linh hoạt về phương pháp, về sách lược. Nói về sự thay đổi chính sách của Đảng Bônsêvích Nga để phù hợp với đất nước đã vượt qua cuộc nội chiến, V.I. Lênin viết: “Chúng ta cũng học được... một nghệ thuật cần thiết trong cách mạng: đó là nghệ thuật mềm dẻo, biết tính đến những điều kiện khách quan đã thay đổi mà nhanh chóng và đột nhiên thay đổi sách lược, chọn một con đường khác để đi đến đích của chúng ta, nếu con đường cũ, trong một thời gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”2.
Nhưng điều quan trọng là phải biết phân biệt sự kiên định về nguyên tắc với tính thủ cựu, lạc hậu; giữa linh hoạt, mềm dẻo với sự dao động, ngả nghiêng và chủ nghĩa cơ hội xét lại. Chính trị mácxít là kiên định mà không thủ cựu, lạc hậu; sáng tạo, linh hoạt mà không cơ hội, dao động, ngả nghiêng. Muốn thế phải đặt tính kiên định về nguyên tắc với tính linh hoạt, sáng tạo trong một sự thống nhất, bổ sung lẫn nhau một cách chặt chẽ.
Lịch sử cách mạng Việt Nam từng chứng kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng rất thành công mối quan hệ này để giải quyết vấn đề độc lập, thống nhất Tổ quốc vào thời điểm ngặt nghèo sau Cách mạng Tháng Tám bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, đuổi được gần 20 vạn quân Tưởng về nước kéo theo các lực lượng phản cách mạng Việt Quốc, Việt Cách.
Đối với Đảng ta, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là những
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.40, tr.336.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr.189.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 47
nguyên tắc chính trị cần phải giữ vững. Xa rời, bỏ rơi một trong các nguyên tắc đó sẽ không thể giữ vững được các nguyên tắc khác và dẫn chính trị của chúng ta tới chỗ ngả nghiêng, thất bại, khiến cho những sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt của chúng ta trở nên vô nghĩa.
d) Sự thống nhất giữa quy luật, phương pháp chính trị với chủ nghĩa nhân văn
Trong hoạt động chính trị cần phải sử dụng phương pháp của chính trị. V.I. Lênin nói: Một đội quân mà không biết cách sử dụng tất cả những loại vũ khí, tất cả những phương pháp và thủ đoạn đấu tranh mà kẻ thù sẵn có hay có thể có, đó là “điều ngu xuẩn, thậm chí là tội ác”. Mà đối với chính trị, chân lý này quan trọng hơn đối với nghệ thuật quân sự.
Theo C. Mác, cách mạng là sáng tạo ra cái mới, tiến bộ, hợp với nhân tính. Nhưng để xây dựng chủ nghĩa cộng sản, họ phải hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nền học vấn hiện đại, và nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi.
Với giai cấp công nhân, không những cần có học vấn trong chính trị mà chính trị phải là chính trị có văn hóa, phải tạo ra văn hóa chính trị mới mà hạt nhân là tư tưởng “mình vì mọi người”. Có thể nói biểu hiện của văn hóa chính trị của giai cấp công nhân là:
- Chủ nghĩa tập thể (trái với chủ nghĩa cá nhân).
- Trung thực, thẳng thắn, có trách nhiệm (trái với lừa dối, vô trách nhiệm).
- Tôn trọng danh dự phẩm giá con người (trái với áp bức, hạ thấp phẩm giá con người).
V.I. Lênin nói: Mục đích của văn hóa chính trị, của nền giáo dục chính trị là tạo nên những người cộng sản chân chính, có khả
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 48
năng thắng được sự dối trá và các thiên kiến và có khả năng giúp đỡ quần chúng lao động thắng được chế độ cũ và xây dựng được một nhà nước không có bọn tư bản, bọn bóc lột và bọn địa chủ.
Quy luật chung của chính trị quy định rằng, với cách mạng vô sản, bạo lực là điều không thể tránh khỏi để lật đổ quyền lực chính trị cũ. Trong việc bảo vệ chính quyền mới, bạo lực cũng là điều cần thiết để chuyên chính với kẻ thù. Song bạo lực không phải là sự phá hủy tất cả, mà chỉ phá hủy những gì phản động, lỗi thời, và cần kế thừa những gì phù hợp với xã hội mới. Giai cấp công nhân phải biết tôn trọng những giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại, tôn trọng con người. Không phải lúc nào cũng bạo lực mà có thể sử dụng biện pháp hòa bình trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Tóm lại, làm chính trị mácxít phải đạt được chân, thiện, mỹ. Những điều này là cần thiết vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải là xã hội tốt đẹp hơn các xã hội trước đó. Những điều kiện và sự phát triển của loài người cho phép thực hành những chuẩn mực chính trị ấy. Thực vậy, chính trị tư sản đã tạo ra văn hóa quyền con người, trong đó tôn trọng tự do, danh dự, nhân phẩm của cá nhân là nguyên tắc. Nền dân chủ tư sản cũng đã tạo ra văn hóa chính trị công khai, thẳng thắn, thừa nhận ý chí tự do của mỗi người. Trên cơ sở đó chấp nhận chiến thắng của số đông đối với thiểu số, đồng thời vẫn tôn trọng và cho phép bảo lưu thiểu số. Đó là những giá trị văn hóa mà chính giai cấp công nhân cũng được hưởng (tùy theo mức độ khác nhau). Giai cấp công nhân cần phải kế thừa những giá trị đó. Điều khác biệt là giai cấp công nhân cần thay thế chủ nghĩa vị kỷ tư sản, thói quen lạnh lùng, “tiền trao cháo múc” không tình nghĩa và sự tôn thờ đồng tiền bằng chủ nghĩa tập thể, tương thân tương ái của giai cấp công nhân và mở rộng ra cộng đồng nhân loại.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 49
Trong thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã từng có lúc, có nơi những người cộng sản và đảng của họ không thực hiện đúng những nguyên tắc như vậy của chính trị mácxít, do vậy để lại những hậu quả tiêu cực cho phong trào, làm giảm uy tín của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nguyên nhân căn bản nhất (xét trong hành động thực tế) là ở chỗ một số đảng cộng sản, một số nhà lãnh đạo không xử lý được những mặt đối lập trong sự thống nhất biện chứng của chúng: không thấy tính giai cấp công nhân trong sự thống nhất với tính nhân loại, do đó dẫn đến chủ nghĩa dân tộc quốc gia, buông lơi chủ nghĩa quốc tế vô sản; không thấy tính cách mạng trong sự thống nhất với tính khoa học, do đó dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí; không thấy cái tất yếu của chính trị phải thống nhất với chủ nghĩa nhân văn nên dẫn đến lạm dụng chính sách bạo lực tràn lan, thanh trừng đẫm máu, và nhiều thủ đoạn chính trị xấu xa khác đối với cả đồng chí của mình; không thấy tính kiên định về nguyên tắc, mục tiêu trong sự thống nhất biện chứng với sự sáng tạo, linh hoạt dẫn đến lúc thì bảo thủ, trì trệ, lúc thì đổi mới vô nguyên tắc, chuyển sang cơ hội chủ nghĩa về chính trị, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Những kinh nghiệm thực tiễn đó cho chúng ta bài học sâu sắc rằng, phải nắm vững hơn nữa những nguyên tắc của chính trị mácxít và thể hiện nó trong đường lối, chính sách, trong công tác tổ chức thực tiễn của mình. Đó sẽ là ngọn nguồn của thắng lợi trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ THẾ KỶ XX*1
Cách mạng Tháng Mười Nga là sản phẩm của thời đại đấu
tranh của phong trào công nhân thế giới chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Nó gắn liền với công lao của V.I. Lênin và những người cộng sản Nga trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác. Dưới sự cổ vũ tinh thần của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ của nước Nga Xôviết, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có bước phát triển tiếp theo với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở các nước thuộc địa và lạc hậu trên thế giới, trong đó có Việt Nam, mở ra một cục diện mới của thế giới, đó là sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu vào thập niên 90 thế kỷ XX không làm mất đi ý nghĩa và giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Mười.
1. Phong trào công nhân quốc tế trước Cách mạng Tháng Mười Nga
Nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân đã phát triển ở châu Âu, Bắc Mỹ, nhưng chủ yếu còn mang tính tự phát, chủ
* Bài viết đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 10-2017, tr.14-19.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 51
yếu là đấu tranh kinh tế bằng phương pháp bãi công, biểu tình. Từ năm 1848 với sự ra đời của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cùng với các hoạt động lý luận và thực tiễn tích cực của C. Mác và Ph. Ăngghen trong các năm tiếp theo, chủ nghĩa Mác với lý luận cách mạng vô sản dần dần có ảnh hưởng trong phong trào công nhân ở châu Âu.
Năm 1864, Hội Liên hiệp Công nhân quốc tế - International Workingmen’s Association (Quốc tế I) ra đời, đánh dấu bước trưởng thành của phong trào công nhân thế giới. Trong 13 năm tồn tại (1864 - 1876), từ các tổ chức công nhân thành viên đầu tiên của Hội, đã lần lượt ra đời 22 đảng mang tên dân chủ hoặc xã hội chủ nghĩa ở các nước, trong đó mạnh nhất phải kể đến Đảng Công nhân dân chủ xã hội Đức thành lập năm 1869.
Năm 1889, phong trào công nhân được thống nhất lại, Quốc tế II ra đời với công sức đóng góp của Ph. Ăngghen. Chủ nghĩa Mác và Quốc tế II là các tác nhân bên ngoài thúc đẩy sự ra đời của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga năm 1898. Những năm cuối của thế kỷ XIX, Quốc tế II bị chia rẽ bởi đường lối cơ hội chủ nghĩa xét lại của Bécxtanh. Sự chia rẽ càng rõ khi xuất hiện nguy cơ chiến tranh thế giới vào những năm đầu của thế kỷ XX. Từ năm 1912, nhiều đảng dân chủ xã hội do cánh hữu chiếm ưu thế đồng tình với chính phủ tư sản nước mình tiến hành chiến tranh đế quốc. Bécxtanh và Đuyrinh là đại biểu cho cánh Giữa chủ trương hòa bình, song trong thực tế vẫn bỏ phiếu thông qua ngân sách chiến tranh. Chỉ có cánh Tả của các đảng công nhân là chủ trương biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến, giành chính quyền về tay công nhân để chấm dứt chiến tranh thế giới. Đó là chủ trương của những người trung thành với tư tưởng cách mạng vô sản của C. Mác mà V.I. Lênin và những người Bônsêvích trong Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga là đại biểu. Do không
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 52
thống nhất về chủ trương, chính sách, Quốc tế II tan rã vào năm 1916, giữa lúc Chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra ác liệt. Nhưng sự tan vỡ này không ngăn cản được V.I. Lênin và những người Bônsêvích trung thành với chủ nghĩa Mác, tích cực chuẩn bị lực lượng, nắm lấy thời cơ do điều kiện khách quan mang lại, lãnh đạo giai cấp công nhân và binh lính Nga làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới - Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Do vậy, có thể khẳng định nếu không có chủ nghĩa Mác, không có phong trào công nhân quốc tế thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX thì sẽ không có Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
2. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế dưới sự cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười, sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và của V.I. Lênin
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từ năm 1920 trở về sau có sự ảnh hưởng rõ rệt của Cách mạng Tháng Mười, sự giúp đỡ của nước Nga Xôviết và Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Điều này thể hiện trên cả phương diện tinh thần và vật chất, bằng cả sự giúp đỡ trực tiếp và giúp đỡ gián tiếp, bằng cả định hướng hoạt động và đào tạo cán bộ.
Về phương diện tinh thần, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười thực sự trở thành một nguồn cảm hứng tinh thần vô cùng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Như một nhà văn tiến bộ Mỹ đã ví Cách mạng Tháng Mười là Mười ngày rung chuyển thế giới. Nhiều nhà hoạt động xã hội, hoạt động trong phong trào công nhân hay các thanh niên trí thức yêu nước ở nhiều nước đã tìm đến với nước Nga, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Năm 1918, từ nước Anh, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp và ở đây năm 1919 lần đầu tiên Người đã tiếp xúc với tư tưởng của
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 53
V.I. Lênin khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc tin theo chủ nghĩa cộng sản, coi đó là con đường cứu nước, cứu dân duy nhất đúng đắn.
Về phương diện giúp đỡ trực tiếp, sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, trong điều kiện rất bận rộn với việc xây dựng và củng cố chính quyền mới, đồng thời phải giải quyết các quan hệ quốc tế phức tạp với các nước phương Tây, V.I. Lênin vẫn rất quan tâm giúp đỡ phong trào cộng sản và công nhân ở các nước. Trong bối cảnh đã hình thành nhiều nhóm, phái cánh tả trong các đảng công nhân dân chủ xã hội ở các nước châu Âu, Đảng Cộng sản Nga (b) và V.I. Lênin chủ trương triệu tập Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản. Tháng 3/1919, Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản được tổ chức với sự tham dự của 32 đoàn đại biểu từ các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á, trong đó 19 đoàn có tư cách đầy đủ, 13 đoàn với tư cách tham vấn.
Hơn một năm sau, tháng 7-8/1920, Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản được triệu tập. Trong số các văn kiện được thông qua, có một văn kiện quan trọng do V.I. Lênin soạn thảo về 21 điều kiện để một đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản. Theo đó, đảng phải ủng hộ cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, ủng hộ phong trào dân chủ - tư sản, song phải trở thành lực lượng lãnh đạo phong trào đó...
Đại hội lần thứ III (tháng 6-7/1921) của Quốc tế Cộng sản thông qua các văn kiện hướng dẫn về tổ chức, phương pháp và nội dung công tác của các đảng cộng sản. Trong năm này, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản cũng đưa ra các tuyên ngôn, văn kiện, lời kêu gọi đối với phong trào cộng sản châu Âu và các nước khác trên thế giới, trong đó có Anh, Pháp, Italia...
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 54
Năm 1922, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra nhiều tuyên bố, văn kiện về việc thành lập Mặt trận quốc tế như Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Phụ nữ. Đồng thời, cũng có nhiều hơn các tuyên bố, lời kêu gọi, văn kiện về các vấn đề quốc tế bên ngoài châu Âu như Tuyên ngôn về vấn đề Bắc phi thuộc Pháp, về Xyri, Thổ Nhĩ Kỳ, về Đại hội công đoàn toàn Ấn Độ1.
Từ năm 1919 đến năm 1922, với sự cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười và của Đảng Bônsêvích Nga, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản và sự tham gia trực tiếp của V.I. Lênin trong Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, phong trào cách mạng vô sản lan rộng ở châu Âu. Ở một số nước đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa của công nhân dưới sự lãnh đạo của các đảng và nhóm cộng sản, như cuộc nổi dậy của công nhân thành lập Cộng hòa Xôviết ở Hunggari trong năm 1919. Cũng năm này, đã diễn ra cuộc nổi dậy của công nhân Đức ở Bavaria với mục tiêu thành lập Cộng hòa Xôviết Bavaria; tiếp theo là cuộc nổi dậy ở Extônia. Tiếc rằng, các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại.
Cũng khoảng thời gian này, nhiều đảng cộng sản ở châu Âu đã ra đời. Ngoài các đảng cộng sản ở các nước vùng Bantích, Trung Á thuộc Liên Xô sau này, còn có các đảng khác ở Đông Âu, Tây Âu, ví dụ Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Tây Ban Nha thành lập năm 1920, Đảng Cộng sản Italia và Đảng Cộng sản Bỉ thành lập năm 1921. Tất cả các đảng này đều là phái tả của các đảng xã hội dân chủ thuộc Quốc tế II tách ra.
Theo chủ trương của V.I. Lênin, Liên Xô trở thành trung tâm của phong trào cộng sản, là đại bản doanh của Quốc tế Cộng sản.
1. Degra Jane T.: Communist International 1919 - 1943, Documents Vol.II 1923-1928.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 55
Trong suốt thời gian tồn tại (1919 - 1943), tại đây đã tổ chức 7 lần đại hội và 13 kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản, trong đó 4 kỳ đại hội đầu tiên từ năm 1919 đến năm 1922, có sự tham dự, trực tiếp chỉ đạo và soạn thảo nhiều văn kiện của V.I. Lênin.
Không chỉ phát triển các đảng cộng sản, theo Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Mặt trận thống nhất (United Front), các đại hội quốc tế của các tổ chức quần chúng đã được diễn ra ở Liên Xô như Đại hội Quốc tế Nông dân (Nguyễn Ái Quốc tham gia), Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Công nhân đỏ, Quốc tế Cứu tế đỏ.
Sau khi thành lập, mặc dù có sự khác biệt rõ rệt về lý luận và chủ trương, Quốc tế Cộng sản thông qua Ban Chấp hành, vẫn có các hành động cụ thể tạo mối liên hệ với Quốc tế II và Quốc tế II rưỡi, những tổ chức vẫn còn ảnh hưởng nhất định đối với phong trào công nhân ở châu Âu, nhằm hướng phong trào công nhân ở các nước vào các hoạt động mang lại lợi ích chung cho giai cấp công nhân.
Từ năm 1920, nhằm phát triển phong trào cách mạng trên thế giới, V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản chủ trương thành lập các trường đào tạo cán bộ cho các đảng cộng sản và đảng cách mạng ở các nước. Tháng 4/1921, Trường Đại học Cộng sản của lao động phương Đông, hay còn được gọi là Trường Đại học Phương Đông (Communist University of Toilers of the Eastes) được thành lập. Sau khi tới Liên Xô vào cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã học một thời gian ngắn và có tham gia giảng dạy ở đây.
Tháng 11/1921, Trường Đại học Cộng sản dành cho các dân tộc thiểu số phương Tây (Communist University of minorities of Westerns) được thành lập. Từ năm 1925, trường này đào tạo cả sinh viên các nước Trung Âu và vùng Bancăng.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 56
Năm 1925, một bộ phận của Trường Đại học Phương Đông tách ra thành Trường Tôn Dật Tiên chuyên đào tạo sinh viên cho Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng Trung Quốc.
Cũng năm 1925, Quốc tế Cộng sản thành lập Trường Quốc tế Lênin (International Lenin School) chuyên đào tạo, bồi dưỡng về lý luận cho đảng viên của các đảng cộng sản các nước. Nguyễn Ái Quốc cũng học ở đây trong các năm 1934 - 1935 theo chương trình nghiên cứu sinh.
Trường Đại học Phương Đông và Trường Tôn Dật Tiên từ năm 1921 đến năm 1928 đã đào tạo 1.000 sinh viên. Ngoài số sinh viên các dân tộc thiểu số thuộc Liên Xô, trường đã đào tạo khoảng 400 sinh viên Trung Quốc, trong đó có những người nổi tiếng sau này như Tưởng Kinh Quốc của Quốc dân Đảng, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trường cũng đào tạo được khoảng 40 sinh viên Nhật Bản.
Theo sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, nửa cuối những năm 1920, nhiều sinh viên Việt Nam đã được chọn và cử sang học tập tại Trường Đại học Phương Đông, trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, sau này lần lượt trở thành Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1930.
Sau khi học tại các trường này, nhiều sinh viên đã trở về nước tham gia xây dựng và lãnh đạo các đảng cộng sản ở châu Á, châu Phi như Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm 1922), Đảng Cộng sản Inđônêxia (năm 1924), Đảng Cộng sản Ấn Độ (năm 1925)...
Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ của nước Nga Xôviết, của Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là V.I. Lênin đã làm cho phong trào cộng sản lớn mạnh, từ chỗ thế giới chỉ có một đảng cộng sản là Đảng Cộng sản (b) Nga vào năm 1918 và 32 đảng tham gia Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919,
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 57
trong 10 năm sau đó, số lượng các đảng cộng sản trên thế giới đã tăng gấp hơn hai lần. Tới Đại hội lần thứ VII (đại hội cuối cùng của Quốc tế Cộng sản) năm 1935 đã có đại biểu của 65 đảng cộng sản tham dự1.
Sau khi tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (năm 1924) và các hội nghị quốc tế khác, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu. Tại đây, năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và ra báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện cho các thanh niên yêu nước Việt Nam; sau đó những bài giảng tại lớp huấn luyện này được tập hợp thành tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927. Những tài liệu giáo dục này chứa đựng những tri thức được Người tiếp thu trong thời gian học tập, nghiên cứu ở Liên Xô trước đó. Năm 1930, theo sự phát triển của các tổ chức cộng sản trong nước và chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hương Cảng, Hồng Kông vào đầu năm 1930.
Sự ra đời Đảng Cộng sản ở Việt Nam và ở các nước châu Á khác là minh chứng cho sức ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, sức ảnh hưởng của những thành tựu trong những năm đầu của nước Nga Xôviết và Liên Xô, đối với phong trào cộng sản và công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong cuốn sách Đường cách mệnh viết năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định, so với các cuộc cách mạng ở Mỹ, Pháp, “chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi”2 và đó chính là hình mẫu mà cách mạng Việt Nam cần học tập.
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Tập 1 (1930 - 1954) quyển 1 (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017, tr.339.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 58
Khác với châu Âu, các đảng cộng sản ở châu Á hay châu Phi ra đời không phải hoàn toàn chỉ là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân, mà còn là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với các phong trào yêu nước của nông dân, trí thức. Do vậy, phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp nhằm mục tiêu giành độc lập, chống phong kiến, chống tư sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản lại trở thành một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế (như Việt Nam), và làm tăng về số lượng và quy mô của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong các thập niên tiếp theo.
Sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân ở các nước trên thế giới nói chung cũng có tác dụng bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Mười ở nước Nga, là lực lượng chính trị quan trọng phản đối và ngăn cản sự can thiệp của các nước đế quốc phương Tây với nước Nga Xôviết.
3. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từ sau năm 1945 đến khi kết thúc chiến tranh ở Việt Nam năm 1975
Đây là thời kỳ Quốc tế Cộng sản đã chấm dứt hoạt động (năm 1943), các đảng cộng sản và công nhân ở các nước hoạt động theo đường lối của riêng mình.
Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai khá thuận lợi cho các đảng cộng sản và phong trào công nhân ở các nước vì chủ nghĩa phát xít đã bị đánh bại, trong khi các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu bị kiệt quệ do chiến tranh. Lời tiên đoán của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 5/1941: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”1 đã thành sự thật.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.100.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 59
Tới cuối thập niên 1940, ngoài Liên Xô với 15 nước cộng hòa thành viên, đã hình thành khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu bao gồm 8 nước khác (Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc).
Ở châu Á, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập do Đảng Cộng sản trung thành với tư tưởng của C. Mác và V.I. Lênin lãnh đạo. Bước vào thập niên 1950, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên ra đời do Đảng Lao động Triều Tiên lãnh đạo. Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam năm 1954 “chấn động địa cầu” dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, góp phần tạo động lực cho nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc đấu tranh giành được độc lập, trong đó một số nước hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Hai thập niên tiếp theo là thời kỳ bối cảnh quốc tế vô cùng thuận lợi cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi Mỹ sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài hơn 20 năm ở Việt Nam và thất bại vào năm 1975. Các thập niên 1960 và 1970 là thời kỳ thế giới có số lượng các đảng cộng sản nhiều nhất. Nhiều tổ chức chính trị có vai trò lãnh đạo phong trào dân tộc ở các nước khu vực Mỹ Latinh, châu Phi cũng chuyển thành đảng cộng sản, hoặc theo xu hướng cộng sản, có thiện cảm và quan hệ tốt với các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, với Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Tại Cuộc gặp các đảng cộng sản và lao động quốc tế tổ chức ở Mátxcơva năm 1960 có 81 đảng tham dự.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển rầm rộ khiến chính phủ các nước phải điều chỉnh các chính sách theo hướng có lợi cho công nhân, mở rộng dân chủ, bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn cho người lao động.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 60
So với các đảng cộng sản, ảnh hưởng đối với phong trào công nhân của các đảng xã hội và dân chủ xã hội là thành viên của Quốc tế xã hội (Socialist International) ở các nước châu Âu, châu Mỹ suy giảm rõ rệt. Nhiều tổ chức công đoàn chịu ảnh hưởng của các đảng cộng sản đã tổ chức nhiều phong trào bãi công, biểu tình của công nhân và người lao động, ví dụ ở Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc trong những năm 1970.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thuận lợi như vậy, từ đầu thập niên 1960, phong trào cộng sản thế giới bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, nghiêm trọng nhất là mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di chúc năm 1969: “Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!”1.
Cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có dấu hiệu đi xuống. Ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa có biểu hiện trì trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội, dẫn đến kết cục là sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu mà sự kiện tháng 8/1991 ở Liên Xô là dấu chấm hết. Đây là một sự thất bại to lớn, là bước thụt lùi không thể tưởng tượng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sau sự kiện này, nhiều đảng cộng sản, trong đó có những đảng lớn, đã giải tán hay thay đổi tên gọi, trở lại với tên gọi trước kia, ví dụ Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất cầm quyền ở Cộng hòa Dân chủ Đức đến năm 1990 đổi tên thành Đảng Chủ nghĩa xã hội dân chủ. Những đảng còn giữ tên cộng
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.613.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 61
sản thì số lượng đảng viên sụt giảm nghiêm trọng (Đảng Cộng sản Liên bang Nga vào thời điểm năm 2015 chỉ còn 570.000 đảng viên). Hình ảnh và uy tín của các đảng cộng sản trong phong trào công nhân thế giới xuống rất thấp. Từ thập niên 1990 đến nay, hầu như không có phong trào công nhân đáng kể nào dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản diễn ra trên thế giới.
Nguyên nhân của sự thất bại của phong trào cộng sản cuối thế kỷ XX có nhiều, song chủ yếu do chính các đảng cộng sản cầm quyền, trước hết là Đảng Cộng sản Liên Xô.
Từ thời điểm Liên Xô sụp đổ, hơn 3 thập niên đã trôi qua, phong trào cộng sản thế giới vẫn tồn tại, hình ảnh và dư âm của Cách mạng Tháng Mười vẫn tồn tại. Bằng chứng là trong những năm 1998 - 2017 đã diễn ra 18 lần gặp gỡ hằng năm của các đảng cộng sản và công nhân các nước trên thế giới. Ở những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản cầm quyền, đang nỗ lực thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Song nhìn tổng thể, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vẫn chưa khôi phục được vị thế, vai trò như trước kia. Do vậy, việc nhìn nhận, phân tích một cách thẳng thắn, khách quan, khoa học những nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự thất bại của phong trào cộng sản thế giới là rất cần thiết. Chỉ có như thế thì mới khôi phục và phát triển phong trào lên một trình độ mới trong tương lai.
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC*1
Từ xa xưa con người luôn khát vọng về một chế độ xã hội công
bằng, bình đẳng, tự do và trong thực tiễn, bằng các cuộc đấu tranh và cách mạng đã đưa xã hội loài người đạt được nhiều tiến bộ về tự do, bình đẳng, công bằng. Thời đại tư sản đã đóng góp vào sự tiến bộ đó, song chính sự phát triển của nó cũng làm nảy nở những bất bình đẳng, bất công mới mà bản thân nó không giải quyết được. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra con đường mới giải quyết những bất công, bất bình đẳng của chủ nghĩa tư bản và trong thực tế đã đạt được nhiều thành tựu không thể phủ nhận. Ngày nay, một mặt cần đánh giá đúng những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực, song cần chỉ ra những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề công bằng, bình đẳng đã góp phần dẫn đến sự sụp đổ của nó và rút ra những bài học cần thiết.
1. Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội mở ra con đường thực hiện khát vọng của loài người về một xã hội công bằng và bình đẳng
Từ khi xã hội loài người hình thành giai cấp, xuất hiện nhà nước và các chế độ người bóc lột người thay thế nhau, các nhà tư
* Bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 01-2018, tr.3-9. Bài viết có một số chỉnh sửa, bổ sung trong lần xuất bản này (BT).
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 63
tưởng tiến bộ và giai cấp bị áp bức nói chung luôn mong ước về một xã hội bình đẳng, công bằng, tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy được các nhà triết học, nhà văn... mọi thời đại thể hiện trong các tác phẩm nổi tiếng của mình. Các tôn giáo từ Phật giáo tới Thiên Chúa giáo ra đời cũng với mong muốn đưa con người tới một cuộc sống bình đẳng, công bằng, tự do, hạnh phúc thực sự.
Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển ở châu Âu chỉ trong vòng 200 năm đã tạo nên khối của cải khổng lồ bằng tất cả các thời đại trước cộng lại - như lời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848. Nó cũng đem lại bước tiến về xã hội, đó là pháp quyền tư sản với quyền tự do sở hữu và tự do thân thể và các quyền cơ bản khác của con người mà thời đại phong kiến và nô lệ không cho phép. Song kể cả 100 năm sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, chủ nghĩa tư bản vẫn không xóa được bất công, bất bình đẳng, mà chỉ thay bằng bất công, bất bình đẳng dưới hình thức mới. Đó là bất công, bất bình đẳng giữa các nhà tư bản với đa số lao động bị bóc lột là giai cấp công nhân.
Sự xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XVIII như là sự tiếp nối của dòng chảy khát vọng của loài người về một xã hội công bằng, bình đẳng, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, không chỉ quan điểm mà cả phương án có tính thực nghiệm của các ông cũng không thành hiện thực. Mô hình tổ chức kinh tế - xã hội của Ôoen rất tiến bộ nhưng không thể phát triển trên quy mô quốc gia. Đó là lý do C. Mác và Ph. Ăngghen gọi các nhà xã hội chủ nghĩa thế kỷ XVIII là không tưởng.
Thế kỷ XIX là thời kỳ phong trào xã hội chủ nghĩa nối kết và hòa vào phong trào công nhân. Song, sự phát triển tự thân của chủ nghĩa tư bản thế giới làm xuất hiện nguy cơ về một cuộc chiến tranh thế giới đầu thế kỷ XX đã làm bộc lộ sự khác nhau giữa hai đường lối trong phong trào xã hội chủ nghĩa và công
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 64
nhân. Một là, đường lối nhu nhược theo đuôi giai cấp tư sản của các nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ mà Bécxtanh là đại biểu dưới vỏ bọc của chủ nghĩa yêu nước. Theo đó, giai cấp công nhân ở các nước sẽ đánh giết lẫn nhau. Hai là, đường lối cách mạng của những người mácxít chân chính mà V.I. Lênin và những người Bônsêvích ở Nga, Rôsa ở Lúcxămbua và Các Lípnếch ở Đức là đại biểu. Theo đó, giai cấp công nhân ở các nước sẽ giành lấy chính quyền về tay mình để chấm dứt cuộc chiến tranh đó.
Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra chứng minh rằng, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn các nước đế quốc phải tranh giành thuộc địa bằng chiến tranh, đẩy người dân ở các nước vào lò lửa tương tàn mà lợi ích thì thuộc về giai cấp tư sản. Là một nước đế quốc, sự tham gia của nước Nga Sa hoàng vào cuộc chiến tranh vừa làm cho nước Nga kiệt quệ, vừa không làm giai cấp tư sản Nga vừa lòng. Giai cấp tư sản cần nắm lấy chính quyền để tiến hành cuộc chiến tranh theo đường lối của mình. Đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga với sự ủng hộ của các đảng chính trị khác ở Nga, trong đó có cả Đảng Bônsêvích. Khác với các nước mà giai cấp tư sản đã cầm quyền, vào thời điểm này ở Nga, đa số các đảng phái và các tầng lớp nhân dân vẫn tin vào giai cấp tư sản, do vậy dù mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với tư sản đã sâu sắc, song nếu thực hiện ngay cuộc cách mạng vô sản là chưa đúng lúc, không thể giành được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân.
Cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga vào tháng 02/2017 đã đem lại quyền lợi chính trị cho giai cấp tư sản và một vài cải cách chính trị có lợi cho các giai cấp khác ở Nga. Tuy nhiên, giai cấp tư sản Nga nhanh chóng khiến cho các giai cấp, tầng lớp lao động ở Nga thất vọng vì nó không giải quyết được yêu cầu cấp bách của nước Nga là phải thoát khỏi cuộc chiến tranh vô nghĩa mà
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 65
nước Nga đang tham gia. Không những thế nó càng làm bộc lộ rõ hơn và sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, nông dân Nga. Tình thế của nước Nga đòi hỏi phải có một lực lượng khác, một chính sách khác được lòng dân hơn. Lực lượng đó, chính sách đó là những người Bônsêvích do V.I. Lênin lãnh đạo. Cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã nổ ra như một tất yếu là như vậy.
Cách mạng Tháng Mười thành công bởi nước Nga đã hội tụ cả hai nhân tố khách quan và chủ quan mà vào thời điểm đó, không một nước tư bản phát triển nào khác có đủ. Nhân tố khách quan là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã đến mức độ sâu sắc mà cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất càng làm cho nó bộc lộ rõ ràng hơn. Mỹ và các nước châu Âu khác cũng có nhân tố này, nhưng các nước đó không có được nhân tố chủ quan như nước Nga là sự trưởng thành về tư tưởng, chính trị và tổ chức của một đảng cách mạng là đảng Bônsêvích dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin.
Đó là lý do vì sao cho đến khi V.I. Lênin mất (năm 1924) trên thế giới chỉ duy nhất có một nước do đảng theo đường lối mácxít chính thống lãnh đạo làm cách mạng vô sản thành công và chỉ có một nước Nga tuyên bố con đường xã hội chủ nghĩa của mình. Ngay ở châu Âu, tiếp theo Cách mạng Tháng Mười Nga, năm 1918 công nhân Hunggari đã khởi nghĩa thành lập nền cộng hòa Xôviết nhưng sau vài tháng đã bị thất bại. Năm 1919, tại Bavaria (Đức), những người theo đường lối Bônsêvích đã tiến hành cuộc khởi nghĩa để thành lập cộng hòa Xôviết cũng không thành công. Những người cộng sản lãnh đạo như Lúcxămbua, Lípnếch đã bị bắt và bị giết.
Tuy là cuộc cách mạng duy nhất thành công, song Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là sản phẩm của riêng nước Nga mà nó vẫn mang ý nghĩa phổ biến, bởi cả nhân tố khách quan và chủ
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 66
quan mà nước Nga có đều là sản phẩm của thời đại khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản.
Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin, chính quyền Xôviết đã đưa nước Nga thoát khỏi cuộc chiến tranh đế quốc vô nghĩa. Về đối ngoại, nước Nga Xôviết tuyên bố đường lối hòa bình. Về đối nội, thực hiện chính sách tịch thu tài sản của giới tư bản giao cho công nhân, tịch thu đất đai của địa chủ giàu có chia cho nông dân như là một bước đi thực hiện công bằng xã hội, đưa người lao động trở thành người chủ của đất nước.
Với những việc làm như vậy, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một con đường mới, mô hình mới cho việc thực hiện lý tưởng, khao khát hàng nghìn năm của loài người tiến bộ là công bằng, bình đẳng, tự do, hạnh phúc.
2. Những thành tựu không thể lãng quên về công bằng, bình đẳng của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Trong suốt hơn 70 năm tồn tại, trong đó có hơn 30 năm chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống (tính từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến khi sụp đổ), Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm nên nhiều thành tựu to lớn. Trong đó, thành tựu đáng kể nhất là đã đem đến cho người lao động - bộ phận đông đảo nhất trong xã hội quyền bình đẳng và công bằng chưa từng có.
Vào thập niên 20 thế kỷ XX, không ở đâu ngoài nước Nga, trong phạm vi một quốc gia, đã không còn sự phân biệt đẳng cấp giữa người giàu và người nghèo, giữa thiểu số bóc lột, và đa số bị bóc lột, giữa ông chủ và người làm thuê. Không ở đâu ngoài nước Nga, mọi người không phân biệt nam nữ, màu da, tất cả đều có địa vị pháp lý là người làm chủ xã hội, có quyền bình đẳng cầm lá phiếu bầu cử, được hưởng các chế độ giáo dục, y tế không mất tiền và các phúc lợi khác như nhau.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 67
Đó phải gọi là những ưu việt của chế độ và nó chính là nguồn động lực xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp của đất nước trước những thử thách gay go nhất, đưa Liên Xô trở thành cường quốc quân sự, cường quốc trong nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ, sánh ngang với Mỹ trong nhiều thập niên.
V.I. Lênin từng khái quát rằng, chiến tranh là “thuốc thử” về tính ưu việt của một chế độ chính trị. Liên Xô đã vượt qua cuộc can thiệp của 14 nước đế quốc, vượt qua thời kỳ nội chiến khắc nghiệt, vượt qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống phát xít Đức. Sự ưu việt của chế độ đã góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh cho phép Liên Xô vượt qua những thử thách vô cùng khắc nghiệt như vậy.
Trong các thập niên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mô hình tổ chức xã hội và sự tiến bộ vượt bậc của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã là hình mẫu để nhiều đảng cộng sản, nhiều phong trào cải cách xã hội trên thế giới mơ ước và noi theo, trong đó có Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã trở thành một lực lượng chính trị to lớn đối trọng với các thế lực hiếu chiến của chủ nghĩa tư bản đế quốc; là hậu thuẫn to lớn cho các phong trào hòa bình, dân chủ, tiến bộ và phong trào giải phóng dân tộc của thế kỷ XX, trong đó có Việt Nam.
Người ta sẽ không thể hình dung mức độ tiến bộ của loài người trong thế kỷ XX sẽ ra sao nếu không có chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu. Liệu chủ nghĩa phát xít có bị đánh bại không và nếu không bị đánh bại thì nó sẽ tồn tại và giam hãm thế giới trong vòng quân phiệt đến mức nào? Liệu Liên hợp quốc có ra đời và trở thành tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng như ngày nay hay không? Nếu không có mô hình Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, liệu các thành quả tiến bộ xã hội ở các nước
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 68
tư bản châu Âu, châu Mỹ có thể dễ dàng đạt được và đến với hàng triệu người lao động không? Liệu những người dân chủ xã hội ở các nước Bắc Âu và nhiều nước khác có thể dễ dàng nắm chính quyền trước các thế lực tư bản bảo thủ trong nước để từ đó tiến hành các cải cách xã hội như nửa thế kỷ qua không?
Cho dù đã không còn tồn tại từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, song chắc chắn trong sự trưởng thành của loài người về nhận thức và thực tiễn tổ chức đời sống xã hội tương lai của mình, mô hình, thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu vẫn sẽ là một kinh nghiệm hữu ích, không bao giờ bị lãng quên. Ngay cả những thất bại của nó cũng là những bài học bổ ích cho loài người trên con đường đạt được khát vọng về một xã hội ngày càng tự do, bình đẳng, công bằng, hạnh phúc của mình.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu xác nhận một chân lý là sự tiến bộ của loài người ngay cả khi có một khởi đầu tốt cũng không phải theo con đường thẳng tắp mà không có bước thụt lùi, khúc quanh. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực là một bước thụt lùi của lịch sử. Nhưng thực tiễn 30 năm sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, lý tưởng và nỗ lực xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn được duy trì ở một số nơi, mặc dù chưa thực sự rõ hình hài. Tương lai của chủ nghĩa xã hội vẫn ở phía trước và là con đường dài lâu của loài người. Cách mạng Tháng Mười Nga và các cuộc cách mạng theo gương nó ở thế kỷ XX không thể bị coi là những sai lầm của lịch sử loài người.
3. Những bài học về công bằng, bình đẳng của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu
Câu hỏi vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sau hơn 70 năm tồn tại và đạt được không ít thành tựu to lớn đã
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 69
sụp đổ khá nhanh chóng dù đã có nhiều lý giải nhưng cho đến nay vẫn là vấn đề đáng suy nghĩ và cần tiếp tục lý giải. Liệu đó là sự sụp đổ tất yếu hay là sai lầm nhất thời của những người cầm quyền? Phải chăng không còn một phương án nào khác cho sự đổi mới và tiến lên của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu?
Sau đây xin nêu lên một số bài học xung quanh vấn đề bình đẳng, công bằng rút ra từ những nguyên nhân góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu:
Thứ nhất, bài học về tổ chức nền sản xuất có năng suất cao, làm cơ sở kinh tế cho bình đẳng và công bằng xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin từng khẳng định: suy cho cùng sự chiến thắng của một chế độ xã hội này với một chế độ xã hội kia là ở chỗ nó tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn.
Đúng là đã có thời kỳ Liên Xô tạo nên kỳ tích trong phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước. Đó là thời kỳ Liên Xô bằng cơ chế mệnh lệnh tập trung và động viên được lòng yêu nước trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa phát xít mà đạt được năng suất lao động cao hơn hẳn so với thời kỳ trước cách mạng, từ đó đạt được những thành tựu về phát triển cơ sở vật chất của đất nước và sức mạnh quân sự.
Tính ưu việt của một chế độ bình đẳng, công bằng, dân chủ hơn trong những năm đầu của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là nguồn động lực to lớn đối với hàng triệu người lao động trong các công xưởng, trên các cánh đồng và cả giới trí thức xuất thân từ giai cấp lao động.
Tuy nhiên, bước vào thập niên 1970, trong điều kiện phát triển hòa bình, thậm chí trong hoàn cảnh quốc tế rất thuận lợi cho chủ nghĩa xã hội khi các thế lực đế quốc, đứng đầu là Mỹ
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 70
đang sa lầy trong chiến tranh tại Việt Nam, nền sản xuất của Liên Xô và các nước Đông Âu đã ngày càng bộc lộ rõ tình trạng thiếu động lực phát triển và giảm dần sự năng động. Những dấu hiệu này thực ra đã bắt đầu ở Nam Tư, ở Tiệp Khắc vào những năm 1960, ở Hunggari vào những năm 1970... nhưng không được đánh giá đúng mức.
Nền kinh tế là kế hoạch hóa tập trung quan liêu, mệnh lệnh, không tuân theo quy luật giá trị, phủ nhận lợi nhuận và cạnh tranh, thiếu đổi mới, sáng tạo trong tổ chức sản xuất và áp dụng công nghệ hiện đại làm năng suất lao động ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng suy giảm.
Đối lập lại, nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và lợi nhuận vẫn tạo nên động lực cho sáng tạo khoa học, công nghệ, sự đổi mới trong sản xuất, vừa kích thích vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng mới của người tiêu dùng. Bước vào thập niên 1980, với học thuyết Tự do mới, Mỹ, Anh và các nước tư bản khác đã tạo nên một sự bứt phá về kinh tế, kèm theo đó là tiến bộ về khoa học công nghệ được áp dụng vào sản xuất các sản phẩm phục vụ đời sống. Trong lúc đó, người dân ở các nước xã hội chủ nghĩa đã thấy ngày càng rõ tác dụng của sự đổi mới liên tục của nền kinh tế thị trường, mong ước được hưởng thụ những sản phẩm tiêu dùng của các nước tư bản chủ nghĩa tạo ra và không còn thỏa mãn với nền sản xuất của chính mình.
Cuộc chạy đua vũ trang ở thập niên 1980, đặc biệt là chạy đua chế tạo các vũ khí chiến lược và đối phó với chủ trương “đưa chiến tranh lên các vì sao của Mỹ”, đã khiến Liên Xô phải sử dụng một phần quan trọng tiềm lực kinh tế, tài chính của mình cho mục đích quân sự, bộc lộ rõ hơn thế yếu của một nền sản xuất đang dần mất đi động lực sáng tạo và tăng năng suất.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 71
Có thể khái quát hai sai lầm lớn của chủ nghĩa xã hội hiện thực góp phần tạo nên một nền sản xuất thiếu động lực là: Thứ nhất, không thấy hết các động cơ thúc đẩy người lao động, trong đó có động cơ lợi nhuận, tư hữu và những gì được gọi là quyền con người; Thứ hai, đánh giá sai vai trò của cơ chế thị trường trong nền sản xuất, ngược lại đề cao quá mức vai trò điều hành của nhà nước.
Từ thực tiễn đó cần rút ra bài học: Trong thời đại ngày nay, cơ chế thị trường vẫn là cần thiết, bởi nó tạo nên động lực cho sự sáng tạo, tăng năng suất và đổi mới của nền sản xuất xã hội. Vấn đề là nhà nước xã hội chủ nghĩa cần sử dụng những công cụ phù hợp để khắc phục “những thất bại” của nó và hướng nền sản xuất theo cơ chế thị trường tới việc phục vụ con người, bảo đảm hạnh phúc hơn cho mọi người.
Thứ hai, bài học về bảo đảm bình đẳng, công bằng trên tất cả các lĩnh vực.
Trong thời kỳ đầu thành lập chế độ Xôviết, nước Nga và sau này là Liên Xô đã đem lại một chế độ bình đẳng giữa người với người, trong đó mọi người đều không bị phân biệt đối xử, đều có quyền làm chủ xã hội, được đối xử công bằng hơn. Đó là sự ưu việt chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm trước đó.
Tuy nhiên, những vấn đề về bình đẳng, công bằng cũng dần bộc lộ và ngày càng rõ hơn dưới những hình thức mới diễn ra chính trong thời kỳ hòa bình xây dựng và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Dưới nền chuyên chính vô sản và sự thống trị của kinh tế nhà nước, các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa” bị phân biệt đối xử, thậm chí bị thủ tiêu. Giới chủ doanh nghiệp tư nhân bị loại khỏi đời sống chính trị và xã hội. Con em họ cũng bị phân biệt đối xử như thành phần “không cơ bản”. Đó là một biểu hiện của bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và xã hội.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 72
Về mặt chính trị, những đảng phái không cộng sản bị triệt tiêu, nếu còn tồn tại chỉ là hình thức (ví dụ Đảng Nông dân thống nhất Ba Lan).
Trong suốt 3 thập niên kể từ khi trở thành hệ thống, ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu không có một cuộc trưng cầu ý dân nào. Các cuộc bầu cử vào cơ quan đại biểu từ trung ương tới địa phương đã được sắp đặt, người dân không có sự lựa chọn khác, phản ánh rõ sự bất bình đẳng giữa người trong Đảng và người ngoài Đảng.
Là đảng duy nhất cầm quyền, song quyền lực chính trị của Đảng không được giám sát, kiểm soát, trách nhiệm chính trị không tương ứng với quyền hạn. Những biểu hiện của bất bình đẳng về mặt chính trị như thế đã không làm cho nhân dân hài lòng.
Về mặt công bằng, nhà nước thực hiện chế độ phân phối chủ yếu dựa trên nguyên tắc “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng”, nhưng với sự chênh lệnh rất ít, không phản ánh đúng sự chênh lệch giá trị sức lao động của các cá nhân. Nó đã trở thành chủ nghĩa bình quân trong phân phối chính thức. Các chế độ phúc lợi đồng đều với mọi người cũng đem lại mặt trái tương tự. Đối với những người đóng góp thực sự cho xã hội bằng công sức, trí tuệ, kể cả của cải của mình, chế độ phân phối và phúc lợi đó trở nên bất công bằng, đúng như Arixtốt từng nói từ gần 200 năm trước Công nguyên: “Công bằng quá cũng là mất công bằng”.
Chủ nghĩa bình quân đã làm nảy sinh và khuyến khích thói lười biếng, ỷ lại của một bộ phận người lao động, tác động ngược lại làm suy giảm sự nhiệt tình, hăng hái phấn đấu của một bộ phận còn lại. Để bù đắp cho sự thiếu công bằng về mặt phân phối chính thức, một bộ phận có quyền lực, địa vị xã hội tìm cách thiết lập những đặc quyền, đặc lợi, kể cả tham nhũng công khai dưới nhiều hình thức.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 73
Sự bất công không chỉ giữa cá nhân và cá nhân mà còn giữa cộng đồng và cộng đồng. Sự điều tiết theo yêu cầu chính trị của chính quyền trung ương đã khiến cho nhiều vùng, nhiều nước cộng hòa của Liên bang Xôviết vốn giàu có, đóng góp phần lớn của cải cho quốc gia nhưng không được nhận lại những lợi ích kinh tế, chính trị tương xứng. Đó là một trong những lý do góp phần thúc đẩy xu hướng ly khai sau này của một số nước trong Liên bang Xôviết.
Những vấn đề bất công bằng, bất bình đẳng trên đã góp phần làm mất dần sự ủng hộ của nhân dân đối với chế độ, là nguồn gốc của những bất bình âm ỉ, chỉ cần có sự kích động từ bên ngoài là có thể biến thành xung đột giữa người dân và chính quyền. Sự ra đời và xung đột quyết liệt của Công đoàn Đoàn kết với chính quyền và Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan những năm 1980 là một ví dụ. Đây là tác nhân chính trị chủ chốt trực tiếp dẫn đến sự mất quyền lãnh đạo của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan.
Bài học rút ra từ đây là: Không thể thỏa mãn với những thành tựu về bình đẳng, công bằng đạt được trong những năm tháng sau cách mạng mà cần phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao hơn nữa, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người dân về công bằng, bình đẳng trong môi trường hòa bình, hội nhập quốc tế.
Thứ ba, bài học về công bằng, bình đẳng trong đảng cộng sản cầm quyền.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đều thực hiện nguyên tắc độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là biểu hiện tập trung của chuyên chính vô sản mà tính ưu việt của nó đã được thể hiện trong những hoàn cảnh khó khăn của đất nước sau cách mạng hoặc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, sự kết tinh trí tuệ và đức hy sinh của giai cấp công nhân tạo cho Đảng bản lĩnh, năng lực và uy tín
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 74
dẫn dắt dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách và mối đe dọa từ bên ngoài.
Tuy nhiên, chính thời kỳ hòa bình lại là môi trường làm bộc lộ nguy cơ tiềm ẩn bên trong Đảng, trong đó có vấn đề bất công, bất bình đẳng giữa bộ phận đảng viên này với bộ phận đảng viên kia.
Trong thực tế, khoảng cách về hưởng thụ giữa bộ phận lãnh đạo cao cấp với đa số đảng viên bình thường ngày càng xa. Không có cơ chế hữu hiệu để đông đảo đảng viên giám sát, kiểm soát người nắm các chức vụ cao cấp của chính quyền. Nhiều kẻ cơ hội chui vào Đảng và bằng nhiều thủ đoạn luồn lách lên vị trí ngày càng cao, không ít trường hợp đảng viên cao cấp tham nhũng không bị xử lý hoặc xử lý không thích đáng. Những điều này gây nên bất bình ngay trong nội bộ Đảng.
Những khuyết tật và nguy cơ tiềm ẩn của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu không phải không được nhiều đảng viên cộng sản nhận thức từ sớm. Nhưng sự hạn chế dân chủ trong Đảng đã khiến các đảng cộng sản bỏ qua các cơ hội sửa chữa, để cho những bất bình nhỏ tích tụ thành bất bình lớn, tới mức vào những thời điểm sống còn, người dân và cả đảng viên đã thờ ơ hoặc quay lưng với Đảng, với chế độ như ở Liên Xô vào tháng 8/1991 là ví dụ điển hình.
Bài học cần rút ra là: Một mặt giữ gìn kỷ cương, kỷ luật; mặt khác phải có cơ chế bảo đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng trong Đảng. Một mặt coi trọng đạo đức đảng viên, nhất là những người lãnh đạo Đảng; mặt khác phải xây dựng nhà nước pháp quyền, đặt Đảng trong khuôn khổ chế độ pháp trị, sự giám sát và kiểm soát của nhân dân, sự phán xử công bằng của xã hội. Có như thế mới có thể khắc phục được nguy cơ suy thoái của Đảng độc quyền lãnh đạo.
V.I. LÊNIN VÀ VIỆC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ BỘ MÁY ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
SAU CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA*1
Là người trung thành với C. Mác và Ph. Ăngghen, ngay sau
Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã vận dụng tư tưởng của các ông vào xây dựng, củng cố Đảng và chính quyền Xôviết. Về Đảng, đi đôi với củng cố các tổ chức đảng ở các cấp, hình thành các cơ quan lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, là xây dựng bộ máy tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp ủy đảng. Về Nhà nước, một mặt duy trì và tăng cường quyền lực của các Xôviết, mặt khác hết sức chú trọng xây dựng các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng Dân ủy (Chính phủ). Đặc biệt, Người đã sớm phát hiện và tìm cách đấu tranh chống căn bệnh quan liêu, cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả đang nảy nở trong bộ máy chính quyền non trẻ.
Đó là những bài học quý mà ngày nay chúng ta cần học tập.
1. V.I. Lênin vận dụng và phát triển lý luận của C. Mác vào xây dựng, củng cố bộ máy của Đảng Cộng sản sau Cách mạng Tháng Mười
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản không có gì khác ngoài lao động của mình.
* Bài viết đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11-2017, tr.16-20.
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 76
Do vậy, trong cuộc đấu tranh cách mạng giành chính quyền, giai cấp vô sản không có sức mạnh nào khác ngoài sức mạnh của tổ chức thống nhất và chặt chẽ từ trên xuống dưới. Muốn vậy, toàn thể giai cấp phải tổ chức nên đội tiền phong chính trị và chiến đấu của mình và tuân theo sự lãnh đạo của đội ngũ tiền phong chiến đấu ấy, đó là Đảng. Đến lượt mình, Đảng của giai cấp công nhân cũng phải thống nhất chặt chẽ từ trên xuống dưới cả về tư tưởng và tổ chức. Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là thể hiện yêu cầu này đối với một đảng công nhân dân chủ.
Ph. Ăngghen đã đấu tranh để bảo vệ quan điểm về đảng của giai cấp công nhân phải có kỷ luật và toàn đảng phải tuân theo kỷ luật chung. Trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp công nhân ở các nước thì các đảng ở mỗi nước phải tuân theo ý chí chung của tổ chức quốc tế của mình. Đó là yêu cầu Ph. Ăngghen đặt ra khi thành lập Quốc tế II (năm 1889).
Kế thừa các tư tưởng này, V.I. Lênin đấu tranh mạnh mẽ trong Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga và sau này là Đảng Bônsêvích để củng cố sức mạnh của Đảng. V.I. Lênin khẳng định “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức”1.
Ngay từ năm 1904, nguyên tắc tập trung dân chủ với tư cách là nguyên tắc cơ bản của tổ chức và hoạt động của đảng mácxít chân chính đó được V.I. Lênin khẳng định trong tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi. Theo đó:
Mỗi đảng viên phải đứng trong một tổ chức đảng cụ thể và chịu sự kiểm soát của tổ chức đảng.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.8, tr.490.
Phần thứ nhất: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH... 77
Mỗi tổ chức đảng được thành lập ở đơn vị cơ sở, có ban chấp hành do các đảng viên bầu lên.
Tổ chức đảng cấp dưới tuân theo tổ chức đảng cấp trên, và tuân theo Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng bầu ra.
Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách.
Trong Đảng tự do thảo luận, song khi đã có nghị quyết thì mọi đảng viên phải nói và hành động theo nghị quyết. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917, trong điều kiện đã có chính quyền, Đảng hoạt động công khai, nguyên tắc trên được kiểm nghiệm trong quá trình lãnh đạo đất nước chống sự can thiệp của các nước đế quốc cấu kết với các lực lượng thù địch trong nước.
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1917), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (phái Bônsêvích) đã tuyên bố phái đối lập thiểu số trong Đảng (Đinôviép và Camênép) phải tuân theo mọi nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, hoặc phải rời khỏi Đảng. Cũng như vậy, V.I. Lênin phê phán mạnh mẽ và đòi kỷ luật Tơrốtxki vì không chấp hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc ký kết hòa ước với Đức nhằm chấm dứt chiến tranh giữa Nga và Đức, bảo vệ chính quyền Xôviết non trẻ.
Đại hội lần thứ VII Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (năm 1918) đã đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản (b) Nga. Sau đó, tại Đại hội VIII (tháng 3/1919), Đảng ra nghị quyết về tổ chức của đảng, theo đó đảng gồm ba cấp: thấp nhất là các chi bộ được tổ chức ở nhà máy, xí nghiệp, địa bàn khu phố. Nhiều chi bộ hợp
CHÂN LÝ VÀ SỰ THẬT 78
thành đảng bộ như Đảng bộ Mátxcơva, Đảng bộ Pêtơrôgrát... Các đảng bộ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương.
Từ Đại hội lần thứ VIII (năm 1919), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga lập ra Bộ Chính trị và Bộ Tổ chức với tư cách là cơ quan thường trực của Ban Chấp hành Trung ương.
Tại Đại hội lần thứ IX toàn Nga của Đảng (tháng 9/1920), V.I. Lênin yêu cầu thành lập Ban Kiểm tra do Đại hội Đảng bầu ra, song song với Ban Chấp hành Trung ương để thu nhận đơn khiếu tố, xem xét các đơn đó và trao đổi với Ban Chấp hành Trung ương, trong trường hợp cần thiết thì họp liên tịch với Ban Chấp hành Trung ương hoặc chuyển vấn đề cho Đại hội Đảng giải quyết.
Cũng tại Đại hội IX, Đảng Cộng sản (b) Nga quyết định lập ra Ban Bí thư như một cơ quan điều hành công việc hằng ngày của Đảng.
Để lãnh đạo chính quyền, những ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga được phân công nắm các chức vụ nhà nước quan trọng nhất, đặc biệt, V.I. Lênin là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Dân ủy (tức là Thủ tướng Chính phủ).
Trong Xôviết toàn Nga, do có nhiều thành phần chính trị, xã hội đa dạng, đảng đã lập ra Đảng đoàn và coi là nòng cốt để lãnh đạo Xôviết.
Ở các địa phương (tỉnh, vùng...), người đứng đầu cấp ủy đảng Bônsêvích cũng đồng thời là người đứng đầu Xôviết địa phương. Điều này giúp cho ý chí của Đảng ngay lập tức biến thành hành động của chính quyền.
V.I. Lênin cũng yêu cầu tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trong Hồng quân và Hải quân thông qua sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương với tổ chức đảng trong các lực lượng này. Trong thời kỳ nội chiến, ở các đơn vị Hồng quân thực hiện