🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chân Dung Cát
Ebooks
Nhóm Zalo
CHÂN DUNG CÁT
---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Inrasara
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap
Nguồn text: Waka
LỜI GIỚI THIỆU
Chắc hắn quý vị và các bạn đã từng có lần tự hỏi "Chúng ta tìm điều gì ở một cuốn tiểu thuyết? Hoặc một truyện ngắn (có dung lượng của cuốn tiểu thuyết, được cô đặc)?"
Câu hỏi đó có thể được trả lời: "Chúng ta tìm sự đồng cảm với những nỗi niềm của thân phận, chúng ta chia sẻ một thái độ đối với đời sống và sự sống, thông qua việc đón nhận những tình tiết sống động quyến rũ, những xúc cảm tinh tế hay dữ dội của con người... Để từ đó nhìn ra nét đặc thù tinh thần của thời đại hay cảm quan độc đáo của người viết (lúc đó có thể đã là của cả chúng ta – người đọc) về những vấn đề "mãi mãi" của con người.
Điều chúng ta băn khoăn cũng ở đó: liệu có tìm được điều chúng ta muốn trong cuốn sách này? Người viết đưa chúng ta tới cái đích đó bằng con đường nào, và ta sẽ đi trên con đường ấy ra sao?
Sự thú vị của việc đọc cũng nằm ở quá trình đó.
Tác giả Inrasara được biết tới như một nhà nghiên cứu văn hoá - xã hội Chăm, một nhà thơ quen biết vừa giành giải thưởng văn học ASEAN 2005 (với tập thơ Lễ Tẩy trần tháng Tư). Ông cũng vừa cho ra mắt bạn đọc tập phê bình - tiểu luận Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo.
Dễ dàng nhận thấy trong thơ của Inrasara dòng xúc cảm chắt lọc, tiết chế, và chứng nghiệm minh bạch làm lộ diện tâm trạng của đời sống Chăm xáo trộn, xô lệch thời hiện tại; xa xôi hơn, hướng tới nỗi buồn Chăm, và sự bí ẩn Chăm. Với một ngôn ngữ đậm và sáng, nhiều sự chuyển đổi cảm giác, liên tưởng; không thiếu ngọt ngào bay bổng.
Ngòi bút phê bình Inrasara bước đầu đi vào những biến chuyển của cảm hứng và lối viết trong sáng tác trong nước đương đại, với con mắt của người trong cuộc. Ông tập trung phân tích những kỹ
thuật sáng tác hậu hiện đại, xem đó như phương tiện thích hợp biểu hiện cảm quan nghệ thuật trong sắc thái mới mẻ.
Trong dòng sáng tạo đó, tiểu thuyết Chân dung Cát của Inrasara được chúng tôi trân trọng giới thiệu tới độc giả, là nỗ lực mới của ông trong việc khắc hoạ diện mạo Chăm và cố gắng chinh phục thể loại; để có một ý niệm "tiểu thuyết" độc đáo của riêng mình. Chân dung Cát hay Chân dung Chăm?
Nghèo khổ, phôi pha, lạc hậu, gần như bị thế giới văn minh bỏ quên, đó là hình dung của hầu hết mọi người về đời sống Chăm. Ngược lại, tháp Chàm, Katê, Baranưng, Ginang... lại gợi tò mò của nhiều người; nhưng là sự hiếu kỳ chốc lát về kỳ quan huy hoàng xưa, nay chỉ còn phế tích – một cảm giác tàn lụi.
Ngay từ chương đầu tiên, nhân vật của Inrasara đã chết hoặc rõ hồi kết thân phận!
Không tập trung vào những biểu hiện cụ thể, theo tiến trình, của sự kiện đời sống, tính cách, thân phận..., Inrasara khắc hoạ chân dung Chăm bằng lát cắt bén ngọt: khắc hoạ tinh thần Chăm. Mỗi nhân vật hiện lên chủ yếu trên góc độ tinh thần; để làm nên diện mạo "lập thể" tinh thần Chăm. Cái nhìn hóm hỉnh, châm biếm thực sự đắc dụng trong trường hợp này.
Đó là Thuman - "nông dân - thi sĩ", vác giạ lúa cuối cùng trong nhà đi đổi rượu, gầy cuộc nhậu thuyết về trường thơ hậu hiện đại tận trời Tây (!) với "định mức tinh thần" mỗi ngày phải sản sinh một ý tưởng mới.
Jaklan - "nhà ngôn ngữ học cấp xã", cử nhân xuất sắc, đùng đùng bỏ ngang việc "nhồi chữ vào bụng trẻ" nuôi vợ con, dành cả sự nghiệp nghiên cứu "mối quan hệ lịch đại giữa âm vị tiếng Chăm và tiếng Ch'ru", cuối cùng thành danh với học vị "nghiên cứu sinh" vĩnh viễn...
Pathit, "nhà kinh tế học vĩ mô" với những dự án khổng lồ đã và chưa thực hiện, may thay còn được nhờ cơm mắm muối của "mẹ thằng Klu".
Chế Khan, sẵn sàng biến cuộc sống và bản thân thành con số "O" để theo đuổi và đắm chìm trong những "trường ca bỏ hoang" phiêu diêu, vô định.
Văn Khâm, bỏ vợ con lên Sài Gòn tìm sinh kế cho cả gia đình, cuối cùng chịu cảnh sống mòn nơi đô hội, hết đường trở về, đành chịu "phụ ngãi" vợ con.
Chăm kiều Đàng John Thak hồi hương, mang theo tư tưởng thành lập cộng đồng Chăm trên... mạng (Internet) (!) với tất cả những ai tự nguyện gia nhập. Cộng đồng mở, phi thường!
Thông minh, nhiều phát kiến, đầy khát vọng và mạnh mẽ; nhưng cũng viển vông, ngớ ngẩn, phi thực tế tới mức rồ dại, bế tắc; xuôi tay bất lực không còn đường tìm về với cổ nhân – "buồn đến muốn tìm gò mối lủi đầu vào"... đó là tinh thần Chăm đương đại được khắc hoạ qua loạt chân dung hoạt kê; thông điệp ở tầng ngữ nghĩa thứ nhất của Chân dung Cát.
Tiểu thuyết trong tiểu thuyết?
Đó là việc nhà văn để xuất hiện trong tác phẩm một (hoặc vài) tiểu thuyết, nhân vật người viết và thuật lại việc tiến hành tiểu thuyết đó, nhằm mở rộng chủ đề tác phẩm, phát biểu gián tiếp quan điểm sáng tác văn chương của mình. Nếu được dùng như một kỹ thuật sáng tác hậu hiện đại; "tiểu thuyết trong tiểu thuyết" đối chiếu các câu chuyện và điểm nhìn với nhau, tạo hiệu quả cộng hưởng hay tương phản*.
Inrasara đã viết tiểu thuyết này theo cách của một bài thơ. Chân dung Cát có nhân vật nhà thơ J'Man, tự xưng "tôi", viết tiểu thuyết Chân dung Cát; đồng thời là người kể chuyện chính của toàn tác phẩm.
Bên cạnh J'Man, có loại nhân vật chỉ hiện lên qua "hồ sơ", hoặc trí nhớ của J'Man, người kể chuyện; như hình bóng của quá khứ hay một hiện tại đã trở thành quá khứ.
Có loại nhân vật va chạm trực tiếp với người kể chuyện (J'Man), cùng tham dự các sự kiện đời sống, tranh biện về tư tưởng... Câu chuyện khi thì do nhân vật "tôi" (J'Man) kể, khi thì được "cắt dán" bởi "hồ sơ bệnh án" (đồng thời là hồ sơ nhân thân, con người), những đoạn trích sổ ghi chép, lịch làm việc, một bài thơ ngẫu hứng hay những suy tưởng rời rạc... của các nhân vật. Bàn tay sắp xếp của nhà văn cố tình lộ liễu ở các thao tác này; nhằm khách quan hoá tới mức tối đa những điểm nhìn khác trong
tác phẩm, nới rộng không - thời gian về nhiều chiều kích; đồng thời chia cắt nó ra từng mảnh nhỏ.
Không đơn thuần là trò chơi của lối sáng tác hậu hiện đại, với từng mảnh nhỏ bị cắt rời của "không - thời gian", nhà văn gắng sức truyền tải từng cảm nhận trọn vẹn, từng tâm trạng trọn vẹn, khi rã rời hoang mang, lúc can đảm ngậm ngùi hay sôi nổi vô nghĩa... chen chúc giữa muôn vàn hỗn độn những đứt vỡ, xáo trộn, xô lệch khác. Cũng bằng cách này Inrasara tạo một không khí "Chẳng có gì nghiêm trọng cả": ngẫu hứng, không chủ đích, dung dị đời thường; viết văn để quên văn.
Chủ đề của tác phẩm không hề bí ẩn, nó được hiển thị ngay từ chương đầu tiên. Quan trọng hơn là những lối xúc cảm, nắm bắt khác nhau, nhiều chiều, vươn từ hiện tại tới quá khứ, tương lai, về hiện thực như một tổng thể đồ sộ. Với cái nhìn đó Inrasara đã tìm thấy điểm gặp nhau giữa tiểu thuyết và thơ. Đó là nói lên trực tiếp xúc cảm và chứng nghiệm hiện thực của mình trong một hình thức tổ chức tác phẩm đặc biệt.
Trong phạm vi cuốn sách này, cảm nghiệm thơ đã bao hàm, tiếp biến hiện thực tiểu thuyết tới đâu, xin để bạn đọc tuỳ quyền thưởng thức và đánh giá.
Một tiểu thuyết bao gồm hầu hết những chân dung hoạt kê, châm biến nhưng lại đượm nét đằm thắm, sâu lắng – đó là nét duyên riêng của Chân dung Cát. Ngay cả khi trào lộng không nương nhẹ, tác giả vẫn giữ được niềm cảm thông. Những cực đoan, huyễn tưởng, rồ dại... trong tác phẩm, vẫn được nhìn nhận như sự sẻ chia gánh nặng buồn thương định mệnh của con người. Và một vẻ đẹp Chăm đậm tính nữ, thuần khiết, phồn thực, ẩn hiện, quyến rũ trong tác phẩm, vừa như một sự cứu rỗi, vừa như một nỗi ngậm ngùi...
Nỗi buồn Chăm, bí ẩn Chăm, có lẽ đó là điều mỗi người đọc có thể hướng tới và sẻ chia với tác giả Chân dung Cát! Trần Vũ
1
NHỮNG NGHỆ SỸ DÂN GIAN
Làng tôi tên Chăm Chakleng. Người Việt gọi nó Nha Tranh. Làng của vua Rồng, nên chúng tôi hãnh diện nhận mình con dân vua Rồng. Truyền thuyết kể Ong Paxa Muk Cakling, ông bà già nghèo khổ không con, may nhặt được bé gái đang khóc lúc trời chạng vạng trong đám bọt nước ở cửa biển về nuôi. Qua tuổi đôi mươi, một hôm nàng theo ông bà lên rừng chặt rào ngẫu nhiên uống phải mạch nước thiêng mang thai rồi sinh Ja Kataul. Sau đó, nàng biến mất. Để lại đứa con trai mình đầy ghẻ lác cùng mặc cảm không cha không mẹ. Lớn, chàng kết bạn với Klaung Can đi buôn trầu. Trưa nọ, hai bạn ngủ say dưới tán rừng thì bỗng có con rồng trườn tới LIẾM sạch ghẻ lác trên thân Kataul. Chàng thức giấc, vươn vai và đẹp lạ thường. Rồi chiến công tiếp chiến công, chàng dụng mưu đánh bại các sứ giả Tàu qua cuộc thi chọi trâu, dùng trí chiến thắng các quan trong triều, mang quân dẹp tan mấy đoàn quân Khmer trong cuộc chiến trăm năm. Lên ngôi vua, cho dân đắp đập Nha Trinh, khai Mương Đực Mương Cái dẫn nước tưới cho chục ngàn mẫu ruộng khô cằn vùng Pandurangga. Cuối cùng, Ngài đi về đất Bắc, bặt tăm. Tháp Po Klaung Girai dựng lên trên Đồi Trầu sau đó để tưởng nhớ công ơn Ngài.
Đấy là thời xưa, 1000 năm - tôi nhớ mù mờ qua kí ức ông ngoại. Một ngàn, chứ không đùa. Có thể 200 năm trước ông cố ngoại kể cho cha tôi nó đã ngàn năm rồi, 50 năm sau cháu tôi kể lại nó cứ ngàn năm. Chỉ thế kỉ sau thôi nó nhảy phóc sang hai ngàn năm là chuyện thường tình. Ý thức lịch sử chúng ta ăn gian thời gian tài là thế. Nha Tranh cách tháp Po Klaung Girai 15 cây số đường chim bay hướng đông nam.
Ngàn năm – hãy tưởng tượng nó nhộn nhịp như thế nào. Nhưng mới ba mươi năm trước thôi: không đường, không cầu. Ngay Phú Quý cạnh đó chưa tới nồi cơm chín mà đi chợ, mẹ tôi phải lụy đò chở chưa tới mươi người lớn không đính kèm trẻ em. Thuở tôi còn bé, Nha Tranh sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Người bỏ rơi, lịch sử bỏ quên. Ba bề với hơn trăm mẫu ruộng, lại là ruộng các nơi khác xâm canh. Nguyên phía nam là khoảng rừng thưa, đất cằn chả trồng được thứ gì, chỉ mọc các loại dây leo có loài dê chăn thả là khoái.
Vậy là làng tôi chủ yếu sống bằng nghề mơ mộng.
Chính thứ ghẻ lác mơ mộng này làm thành địa phương tính dân làng. Mọi người sinh ra, lớn lên và đợi… con rồng liếm. Qua tuổi hai mươi, ai cũng nghĩ mình đã được liếm một lần, không trúng khúc này cũng dính phần kia.
Mà đã liếm trúng thật.
Thời đầu chế độ họ Ngô, làng tôi 400 dân sống khép nép dưới trăm nóc tranh, khiêm cung và câm lặng. Sau 40 năm, con số tăng vọt 02957, thì chả con rồng liếm là gì. Bà nội tôi đóng góp phần đáng kể vào công cuộc. Mẹ góp tám nhận khẩu, dì Tư tôi đẻ chẵn chục mười hai, rụng rơi đâu hết còn chín. Mẹ nói dì may phước nhờ xin chị cả về nuôi mới níu được mấy mạng ở trần đời. Rồi dì Sáu, dì Bảy nữa, cứ là hơn đầu ngón tay trở đi. Chưa đầy góc tư thế kỉ riêng Nội cũng đã tạo lập nên một liên gia, rất oách. Mẹ còn nói thêm giá mà cậu Út mầy chịu con Tám Xóm Dưới, Ciet prauk 1* dòng họ này đâu kém cạnh ai mủng nào.
1 Ciet Prauk: chi họ trong tộc họ mẹ.
Năm cuối cùng của thiên niên kỉ thứ hai sau Công nguyên, Nha Tranh tìm đỏ con mắt không thấy đâu mái tranh để chụp ảnh hoài cổ. Thế hệ này sang thế hệ khác, dân làng tôi mỗi sáng thức giấc, vươn vai lớn dậy để mấy bộ phận được liếm mặc sức nở nang, thây kệ nó dẫn mình tới đâu thì dẫn. Gì thì gì chứ tôi gọi đó là thứ nghệ sĩ tính khó chữa trị của công dân cái làng cá biệt này. Tính cách không là gì không vì đâu, vô tích sự, mỏng manh và vô danh còn hơn hạt bụi bay cồn cát ngoài trưa kia. Nó chỉ gánh đặc mệnh duy nhất: làm cho Chakleng được là Chakleng. Để làm gì cũng chả ai thèm cất công nghiên cứu nữa!
Tất cả chúng tôi không chừa ai hãnh diện, vụ đó thì chả bàn rồi. Phiền nỗi là mỗi đơn vị kiêu hãnh mỗi kiểu khác nhau, yêu Chakleng mỗi cách khác nhau và, không bao giờ thiếu phân tấc nào cái đậm đà bản sắc… Nên mới có chuyện. Những mảnh đời, những định mệnh chả ra thể thống gì, phi lôgic, các phân mảnh được chắp vá vội vã của ngẫu nhiên. Vươn lên và té ngã cũng chẳng giống ai. Ngay câu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không đâu vào đâu cả. Kể cho vui. Nghe để cười, rồi quên.
Chẳng có gì trầm trọng cả.
BA KHUÔN MẶT CŨ
Dhan Than, ông họ nội tôi, quanh đi quẩn lại mấy ngón tuyệt chiêu đem lòe thiên hạ. Ông có thể ngồi kiết già, tay này nắm lấy ngón cái chân kia, vụt cái nhảy phốc qua cán cuốc cao cả tấc trước mặt.
Một tay Đại Lãn cừ khôi. Suốt đời không chịu làm ra đồng tiền hạt gạo. Mỗi sáng thứ Ba hàng tuần, ông chống cây trượng đứng nhìn mặt trời cùng tâm linh ông thức dậy, đọc lời thần chú không ma nào hiểu nổi. Ngay Ciet 2* sách ông cũng gây khiếp hãi cho thành phần có chữ nghĩa trong làng. Không ai dám đụng tới nó nói chi đến chuyện tò mò dòm xem thứ gì ghi trong đó. Thi thoảng bọn trẻ chúng tôi đánh cắp được vài tờ rời lúc ông ngồi lim dim tham thiền nhập định trên tảng đá sau làng quanh đó có mấy bụi trâm bầu cái đám thanh niên ưa đến phóng uế bất kể trưa tối nắng mưa. Mớ dụng ngữ đặc kì Dhan Than vũ trụ dị dạng, âm tiết độc, hạt bụi nở trên lá chết, gió từ đỉnh đầu… hay những triết lý của loài ruồi nhiệt đới, mùi hôi nách thượng đế, Po Nagar bị đẻ ngược… mà ông thường sử dụng xen kẽ lúc cãi nhau với các dì tôi, được chép bằng chữ hoa mỹ trên mặt giấy ximăng, mặt kia viết ngoằn ngoèo thứ ông gọi là thi ca của cõi chết được ngâm nga bằng giọng ngâm buổi tận thế khi ông đang trong thế trồng chuối mỗi chiều cuối tuần lúc trời sâm sẫm tối. Thử trích dẫn một bài:
2 Ciet: như loại giỏ được đan bằng chiếu cót, dùng đựng sách hay bánh trái.
KẺ ĐÁNH THỨC CÁNH ĐỒNG TRƯA
Ra đời
Thế giới lệch
Lịch sử không có quỹ đạo
Lối độc lên đồi
Hắn có thể bị thiêu trụi dưới trưa
Sống và chết
Đỉnh cao như là hố thẳm
Chân dung phù thuỷ có khuôn mặt buồn
Đám nhà thơ ù lì chết nhát
Bí ẩn về chùm hoa lửa của loài xương rồng
Có lẽ nắng không còn đâm chồi nữa, ngày mai
Bữa tiệc trưa cùng lũ dế
Chúng ta có quyền hát bằng giọng khác
Hãy bắt đầu từ đường cày này
Những con trâu không sợ sống
Buổi cày cuối cùng
Giã từ
Không vợ không con không gia đình không tổ quốc. Ở tuổi 70 gặp dịp, ông sẵn sàng xuống tấn, thách bọn thanh niên song phi vào ngang vai. Trăm lần như một, chẳng hề hấn gì ông cả. Rồi không hiểu can cớ gì, vào ngày xuân đẹp trời năm 1979, ông bỏ làng ra đi, mất tiếng lục lạc ngựa.
Trong minh triết đến tối ám mang đậm màu sắc Chakleng làng Chăm nghèo mà bữa cơm cha mẹ cậu dì anh chị em tôi cùng là các anh chị em họ tôi trả bằng mồ hôi nước mắt, ông Dhan Than như loài ma trơi nằm vắt ngang cái ngàn năm mãi dật dờ, sẵn sàng nằm vắt qua ngàn năm tiếp theo mặc kệ năm tôi sinh mẹ bảo mười lăm tháng trời không mưa lấy một giọt, anh tôi chăn trâu khát túng quá uống đại nước đái trâu hay năm chị cưới trộm chồng đập Nha Trinh vỡ cuốn trôi cả mấy trăm mẫu lúa đang thời làm đòng dù Tết Mậu Thân hoặc Hiệp định Paris hay nhà văn vĩ đại giải Nobel văn chương tương lai Lâm Màng tạ thế, sự minh triết của ông mãi ấp ủ thuyết lý cao đẳng nào đó sẵn sàng vỡ hạt giống lạ biệt trên đất Chakleng thiên thu vạn đại này.
Hathaw, đóa hoa rừng giữa plây. Nụ cười man dại của chị làm xiêu đổ quý ông làng khác chả chừa ai có việc ghé sang tình cờ nhìn thấy. Trách gì tay cố vấn Philipine, Indonesia ở tỉnh hồi trước bị nụ cười ấy đánh gục. Thích ư? Thì đây. Nhan sắc trời cho, chị rộng lượng ban phát, sạch sẽ và lịch sự, không cầu một xu, bất kể miệng lưỡi siêng năng của bà con dân làng. Mười đứa con không biết mặt mũi cha đủ nói lên cái bao dong vô bờ bến của chị. Không ít kẻ đạo đức thật và giả đánh tiếng phải chi chị lấy hẳn ngoại kiều để mà lên
mệnh phụ, đếm đô gởi về xây phòng học cho con cháu nhờ thì có hay hơn không. Chị nghe thấy mà cười (vẫn thứ nụ cười man dại ấy). Khoản này thì tớ khôn hơn kẻ dạy tớ nhiều lăm lắm. Mà có lẽ chị khôn thật!
Vào Hợp tác xã, phát ruộng khoán, nhà chị lĩnh nguyên mẫu hai. Nhưng cả chị với hai thằng lớn dân nhà quê chính hiệu có cầm tới cày cuốc bao giờ đâu. Thế là xuất hiện anh lực điền kém chị những năm tuổi nghe đâu từ Malâm lạc tới. Chỉ qua tối, hợp đồng miệng đã được phác: anh đảm nhận mọi khoản sinh hoạt kinh tế gia đình, chị lo coi sóc mấy đứa nhỏ và dĩ nhiên, cắt đứt ban phát hương trời cho người thiên hạ.
– Ừ, thì cắt, chứ em có ham hố đâu. Anh thấy dân Chakleng này vợ hai chồng ba bao giờ?
Ông Malâm, ở đây người ta gọi ông thế, được cái khéo tay. Rảnh, ông đóng Ginang, Baranưng 3*, vót Xaranai... Tối tối nhà chị ò e tiếng kèn, trống. Rồi đùng cái, hội diễn văn nghệ huyện, chị thay mặt xã nhà dẫn nguyên dàn con cái lên sân khấu múa, hát dân ca và ẵm về gần chục cái bằng khen đóng dấu đỏ. Hoạt động văn nghệ plây cứ là không thể thiếu chị em nhà Hathaw. Chị mất cách đây 5 năm. Nhẹ nhàng thanh thản, như người đẹp đang ngủ – một cụ già nói thế. Đúng một tháng cô Út được một Chăm kiều (lúc này đang lên giá) dạm hỏi. Amen!
3 Baranưng: trống đơn một mặt của Chăm
Dân nhập cư, ốm yếu đến gió có thể thổi bay được. Chakleng nặn ông thành đại sư môn thả diều. Ông xin nghỉ hưu thư kí xã cũng chỉ được thoải mái thả diều. Nghe kể ông phải dùng giấy ba cái bao ximăng cắt ghép mới làm nổi cái diều. Còn dây diều to bằng ngón tay út cuộn lại bỏ bao thằng Klai con ông vác đến ngoẹo cổ. Diều ông bay vi vu trong mây suốt mùa hè cùng tuổi thơ chúng tôi. Nó chỉ bị đứt khi lũ chúng tôi nghịch ngợm muốn thi với ông, và diều cháu chắt đu bám đến mấy chục khiến nó hết chịu nổi. Chính mắt tôi thấy nó bị đứt một lần. Trông nó như con rồng ngã bệnh thu mình vào mây xa dần xa rồi mất hẳn.
Lần đó ông phải đạp xe đạp đời Bảo Đại cả ngày mới tìm có lại. Ông mất. Đám thiêu, người ta đốt theo ông chiếc diều với lỉnh kỉnh phụ tùng. Diều to tướng ôm lấy thân xác bé nhỏ ông. Nó cháy
còn lâu hơn đống củi tagalau xếp dưới thi thể ông nữa. Phải chi nó được giữ lại trong bảo tàng để đời sau còn chiêm ngưỡng. Nhưng người Chakleng mong sống mà không để lại dấu vết! Cho đi hết thịt da xương cốt mình và không để dấu vết bé con nào trên mặt đất trần gian.
Ba khuôn mặt với tính cách kì đặc. Với bộn giai thoại oanh liệt khác nữa đọng mãi trong kí ức tuổi thơ tôi. Chúng nuôi nấng và gây hưng phấn bao ước vọng tuổi trẻ lứa chúng tôi – những chàng trai sinh năm Đinh Dậu, đang là chủ nhân ông của Chakleng hôm nay, như người đời cho là thế.
Thuman, người nông dân-thi sĩ
Hắn cao đúng thước tám. Bắp chân nông dân, bộ ngực lực sĩ thể hình, khuôn mặt triết gia lúc cười lập tức hóa mặt trẻ con non choẹt. Lập một quán thơ có gác hẳn hoi ngay giữa đồng với một tay vô công rồi nghề sang thường trực thơ mỗi ngày. Mùa lễ lạc, bạn thơ và bọn ăn theo thơ các plây đổ đến đọc thơ cho hắn nghe và nghe hắn đọc thơ. Tính xuề xòa của hắn dung chứa tất cả bọn họ và thơ bọn họ. Cả vợ con cũng lây tính hắn, bỏ qua mọi rắc rối đám văn nhân nghiệp dư này mang tới cho gia đình.
Hãy tưởng tượng anh nhà quê Chăm đầu tắt mặt tối lam lũ vác giạ thóc cuối cùng ra quán đổi lấy rượu gầy cuộc nhậu và thuyết về trường thơ hậu hiện đại tận trời Tây! Riêng khoản thuốc hút, trà sáng với giấy làm thơ thì hắn cực kì khó tính. Các tứ thơ đại loại:
Những đường cày trầm mặc cơn mưa
nắng hát vào thớ đất
bác nông dân vô ngôn ngồi rách buổi chiều.
Dứt khoát phải viết trên giấy A4 loại Ford trắng bóc gập đôi. Và dĩ nhiên chúng phải được cuộc hỗ trợ đắc lực của loại trà xanh Thái Nguyên với hương thơm của Mạc-râu chính hiệu!
Ông già hắn hiền Phật đất, bực quá lên tiếng rủa thằng này phải bị tù một lần cho chừa cái tật. Lời rủa hóa thiêng: năm sau hắn bị dẫn về trại bởi liên hệ vụ vượt biên. May hồn cho nước Mỹ! Tầm nghệ sĩ mươi đứa như hắn mà qua lọt sẽ nhũng nhiễu văn đàn Mỹ như bỡn. Nhưng rồi đâu vào đấy, cô gái rượu bác cấp dưỡng nhà giam mê tít hắn để hắn tiếp tục có ấm trà Bắc với gói Mạc-râu phả
khói dài dài suốt cả tháng nằm đếm lịch. Còn chuyện thơ phú thì cô nàng mặc sức chép qua cửa sổ.
Có lẽ nhận thấy hắn vô hại cộng thêm cái khéo nói của cô gái, hắn được mãn hạn sớm. Hắn quên phắt cô nàng ngay khi bước chân khỏi cổng trại. Quán thơ tiếp tục rôm rả. Chả có gì trầm trọng cả. Không vì hắn ở tù 30 ngày chẵn mà tận thế.
Hiện hắn có năm tập bản thảo thơ và một chồng dễ đến ngàn trang chi chít chữ bản hiệu đính Ariya Glang Anak 3a* chưa tới trăm câu lục bát Chăm. Dẫu thế nào đi nữa cũng phải sống và sáng tạo. 3a Ariya Glang Anak: một trường ca Chăm
Jaklan, nhà ngôn ngữ học cấp xã.
Không ai biết hắn là nhà ngôn ngữ. Hắn dạy ở Kunhuk cách Chakleng cả giờ đạp xe. Cái sự vụ hắn tình nguyện lên làng Raglai này gây xôn xao dư luận nông thôn, bởi hắn ra trường Sư phạm hạng ưu. Kẻ xấu miệng bảo hắn ý đồ kín đáo. Suốt 12 năm hắn sáng đi chiều về. Mỗi lần hắn thồ những măng, bắp, gà, củi… tất tần tật gì có thể mang về được trên chiếc xe đạp cà tàng, thì kẻ ghét hắn càng có cớ xầm xì. Nhưng hắn kể gì đến phát ngôn chỉ lấy được cái phát âm của bọn xấu máu này. Cái duy nhất hắn cần biết: mối liên hệ có tính lịch đại giữa âm vị tiếng Chăm và tiếng Churu. Mười năm, trăm năm sau, thế giới có muốn hiểu sợi dây liên hệ kia xanh đỏ thế nào thì dứt khoát phải biết mà tìm đến Jaklan này. Bởi ngoài giờ đứng lớp, đến mỗi mùa rẫy hắn rạc chân truy đuổi theo đám nhóc tản mác khắp rừng núi đem mớ chữ nhét vào cái bụng kẹp lép của chúng. Thứ lớp học du cư này làm khốn đốn hắn không ít. Thương tình, cha mẹ chúng mừng thầy cặp gà, gùi măng. Cũng tạm để bà vợ với sáu đứa con thôi rên rỉ ỉ ôi hắn. Nghĩa là cũng kì công!
Không ai biết hắn là nhà ngôn ngữ học. Cả khi hắn đĩnh đạc đường hoàng đọc tham luận về ngữ âm tiếng Churu trong hội thảo khoa học tại một viện nghiên cứu. Hắn khả năng chẻ sợi tóc làm tám ngay thuở tấp tểnh lấm lét dòm mấy đứa nữ sinh lớp khác trường Pô-Klong chúng tôi hầu như mê, say, tụng Điêu tàn của Chế Lan Viên, chỉ mỗi hắn suy nghĩ bạo phổi khi khăng khăng cáo giác nhà thơ họ Chế đậm máu a-pa-thai qua từ Hời dùng quá liều trong tập thơ bằng trường phái ngôn ngữ học thống kê!
Lối tư duy trật dây cương này ngày càng lậm vào máu. Đi điền dã, hắn cãi lại đối tượng hắn nghiên cứu, hùng hồn và kịch liệt. Cho họ bớt ngu đi, hắn nói. Làm khoa học đồng thời phải gánh vác trách nhiệm phổ biến khoa học xuống tận quần chúng. Nhưng thiện chí này của hắn không được đền đáp xứng đáng. Không ai công nhận hắn là nhà ngôn ngữ. Cả khi hắn tự phong nghiên cứu sinh, cũng không ai buồn cãi hắn lấy một lần.
Trời sập rồi! Tất cả mất gốc rồi! Bọn thanh niên hôm nay lao vào tiếng Anh như giặc. Không mống nào còn nghĩ đến chuyện chăm chút tiếng mẹ đẻ nữa. Hắn nói như mếu, vẫn giữ lối phát âm chuẩn cố hữu p ra p, b ra b không độn tiếng u tiếng tây như cơm độn khoai mì thời 79, từng âm từng từ tan chảy giữa hai môi sớm thâm của hắn. Nghe hắn nói, tưởng đâu thế giới này mỗi tiếng Chăm cùng sợi dây kia là độc nhất, không có nó nhân loại tận diệt mất. Dù gì thì gì cũng đáng nể trọng sự vụ kẻ lớn tiếng tuyên bố ngôn ngữ Chăm hôm nay đủ sức chuyển tải tư tưởng từ Long Thọ, Platon, Kant, Marx đến tận Nietzsche, Heidegger…
Cuối cùng, như không chịu nổi cái thiếu sáng suốt của thế hệ, hắn bỏ làng đi, đùm đề cả gia đình bảy miệng ăn vào Phan Thiết sống. Nghe tin hắn dạy tiếng Chăm cho một cha xứ nào đó với ngấp nghé dắt tay vợ con vô đạo, kẻ cạn bụng nói ra miệng đích thị lần này hắn tơ hào rồi. Tôi thì hiểu hắn, nghĩ hắn chưa đến dại dột thế. Ngôi nhà Chăm phải được làm từ nóc xuống, hắn bảo vậy vào mùa Ramưwan năm ngoái. Vì dẫu sao đi nữa, rủi ro hắn trúng gió chết, bà con cũng phải tìm bằng được xác hắn về làm đám thiêu đưa vào Kut. Không thì hắn hóa ma về quậy. Phiền hà lắm!
Pathit, nhà kinh tế tầm vĩ mô
Đang học năm ba Đại học Âm nhạc tại Hà Nội, hắn đột ngột bỏ về, khi tin sông Lu được khai thông. Với đồng Chakleng, sông Lu như thần Shiva vừa bồi phù sa đồng thời tàn phá. Lúa sắp tới miệng vẫn mất trắng như chơi. Chiều ngày còn thấy hàng trăm mẫu lúa làm đòng đứng nghiêm chỉnh, chỉ qua đêm, sáng mở mắt dậy lũ trắng xóa.
Hắn về, thật đột ngột! Suốt mươi chiều liền, hắn thả bộ dọc bờ sông Lu và hát vang ca khúc hắn vừa sáng tác: Sông Lu cùng tôi thức đêm nay. Khối kẻ bảo hắn bị chạm. Chạm cái khỉ mốc! Hắn vừa
bắt gặp một ý tưởng vĩ đại: hắn phải giàu. Top ten thành phố lớn trên thế giới phải có villa của hắn. Để mỗi Chăm khi xuất ngoại có nơi chốn đàng hoàng tạm trú. Nhưng Chăm lấy đâu tiền mà du với lịch, trong khi lúc này họ ăn bữa nay lo bữa mai? Phải biến Chakleng thành miền đất trù phú thôi. Như là một làng điểm. Cứ thế mà nhân điển hình.
Vứt mẹ văn chương, hát hò đi. Mấy thứ mơ mộng hão huyền này quăng cho bánh xe lịch sử nghiền nát đi là vừa. Phải thực tế, thực tiễn. Hắn gần như lôi tôi lên một mô đất phía nam làng, xưa là khu rừng thưa, đã hóa bãi trắng. Cần có cái nhìn tổng quan, hắn nói. Hắn phóng cặp mắt sáng quắc nhìn khắp xung quanh hỏi tôi khu đất này của ai, ai sở hữu, tên gọi, đã trồng những thứ gì mà thất bại... rồi ghi ghi vẽ vẽ. Tối, hắn thức suốt đêm phác họa sơ đồ nuôi trồng dán đầy tường. Hắn phán: dứt khoát phải thuê khu đất này, sau đó làm bàn đạp phát triển tới. Còn cả vùng phía đông nam sẽ được tiếp tục lên kế hoạch phủ xanh ba năm sau. Nữa: khu trung tâm khoanh vùng cho du lịch sinh thái rừng nhiệt đới, hốt bạc là cái chắc. Ngay trong năm phải lên vạn cây nho, ngàn heo thịt, trăm heo nái và vân vân. Trước mắt phải giải quyết khâu tưới: hơn 800 mét với độ dốc nhìn lút đầu đưa nước từ nhánh sông Lu lên. Tôi há mồm nghe hắn, trong lúc chúng tôi không xu lép dính túi! Dĩ nhiên thao tác đầu tiên là qua gặp chủ đất. Ngay tức khắc chúng tôi như bị tông vào tường gạch. Chưa nghe hắn thao thao hết về kế hoạch vĩ mô của mình, bà chủ đất nhìn hắn như nhìn người đâu từ Camơrun đến, sau đó bà vỡ ra cười ngất rồi vỗ vai hắn rất bà nội. Chán ơi là chán!
Hắn đùng đùng bỏ đi. Tháng sau hắn lấy vợ làng bên. Đột ngột không kém. Dân Nha Tranh thì chẳng bao giờ có nổi tầm nhìn kinh tế. Bầu Trúc cũng chẳng khá hơn. Làm gốm có mỗi cái bàn xoay mà không nghĩ ra. Cứ đi vòng rồi đi vòng, muôn đời như thế ngàn sau mãi thế. Không hiểu hắn mò đâu ra ý tưởng, dân Chakleng chỉ ly hương mới ăn nên làm ra. Thế là hắn qua Bầu Trúc công ty với anh bạn học cũ bỏ trường từ lớp Sáu, ra tay cải tiến nó. Như thần, chỉ hơn tháng, hắn làm đẹp gấp hai, tăng năng suất gấp bảy. Rồi thì đất Bầu Trúc rộng rinh thế kia bỗng chốc ngập tràn những gốm là gốm, nào lu, nồi, trã, lò nấu,… đủ cỡ đủ kiểu mọc đầy sân nhà hắn, nhà bà con hắn, nhà láng giềng hắn, tràn ra ngõ lan tới tận con lộ xếp hàng đứng ngay ngã ba chờ vẫy xe đò vào Sàigòn, ra Hà Nội. Ngồi
ghế tre ọp ẹp, hắn rung đùi đợi bạc tỉ phất phới bay về (phải biết móc túi dân giàu, chỉ nó thôi mới có cơ vực xã hội tù đọng này dậy, hắn tuyên). Nhưng chờ, chờ mãi đến mỏi mòn cái nỗi đợi mà chẳng thấy bạc cắc nào lăn tới.
Dân nhà quê chộp ngay cơ hội phát triển thói tật cười thiên hạ. Hắn nhìn vợ con rồi nhìn đống hàng xuất lò hàng ngày mà ngán ngẩm. Chợt hắn nẩy cái ý làm ăn xa, quyết một phen hành phương Nam. Nghĩ là làm. Hắn vào Trà Vinh khai hoang trăm mẫu đất trồng đào rồi xuống Hà Tiên dựng vựa mắm, hắn viết cho tôi thế vài lần rồi bặt tin. Hồn xác mắm, đào đâu không biết, chỉ thấy năm năm sau hắn quy hồi cố hương với thần xác phờ phạc.
Tôi nghe tin hắn về, đến thăm. Hắn bảo cuộc sống nhiêu khê lắm, bao la lắm. Lối làm ăn cò con nông dân đã làm dự án của mình ùn tắc. Vả lại xa Chakleng hầu như mình mất cuống rốn truyền dưỡng chất, thứ dưỡng chất mà mình chưa biết gọi tên. Hắn nói, liếc liếc bà vợ dọn mâm cơm cà pháo mắm nêm lên. Dẫu sao cái cò con của bà xã cũng đã nuôi sống mình với ba nhóc ngày ba bữa.
– Dạ, con chào bác. Con trai lớn độ mươi tuổi chạy tới. – Nhìn lại, dân plây mình muôn đời vẫn cứ nòi mơ mộng. Nhưng mình thích thế. Mấy thằng Klu mình mang nửa dòng máu Chakleng, không biết lớn lên chúng còn biết mơ mộng và dám mơ mộng không?
– Em thì cứ muốn mời ông thầy lang nào mát tay nhể lấy thứ máu ấy bỏ đi. Vợ hắn lấy tay che miệng cười. Thôi mời bác và cha nó dùng cơm mắm muối lấy thảo với em.
– Mẹ thằng Klu miễn lo, dưới Chakleng các anh, không thiếu vị uống nước lã với trăng trừ bữa được mà. Tôi nói và cười. Mọi người cùng cười theo. Hắn thì to hơn cả.
Ba khuôn mặt Chakleng cùng Đinh Dậu với tôi mãi ám tôi, thôi thúc tôi viết về. Tôi đã thể hiện đầy đủ chưa? Chưa gì cả. Vài nhà văn viết truyện rất ưa phụ đề: ghi từ câu chuyện có thật. Tôi nghĩ chỉ một góc đời thật của Jaklan, Thuman hay Pathit thôi cũng thừa tư liệu cho tôi khai thác rồi. Nói chi đến Javơng, từ anh y tá quèn làng quê chưa đầy mười năm sau đã nắm nguyên công ty lớn của một quận ở Sài Gòn. Văn Na, giảng viên đang tiếng như cồn ở Đại học Đà Lạt mà lí lịch trích ngang từ ông cụ tổ muôn đời khai làm nông,
không chút phiền hà con mắt siêng năng của mấy chú công an xã nhiệt tình. Một Jakliu – trùm vé số tỉnh Đồng Nai thành phần xuất thân là giáo viên tiểu học dạy hợp đồng, ăn đứt các vị giám đốc, sẵn sàng bo cho các em nửa triệu chả chút run tay.
Tôi có cần kể thêm không? Giáo sư Trần Hùng dân Sài Gòn chính hiệu ma đưa lối quỷ dắt đường sao dính với đất Chakleng không tài nào rẩy ra được. Bác San sống đời lang thang như con gió cứ đến Katê bay về mang theo câu chuyện dưới biển trên trời như trận mưa lũ tháng Mười của quê hương không ai kiểm chứng hay kiểm soát nổi. Mưlan, cô gái nhà quê học vừa đủ đọc thư người yêu với hát bài ca ướt nhão của những năm 60 đã lang bạt tận trời Tây, Đông quy hồi cố hương làm cuộc cách mạng thổ cẩm đưa các vị phu quân Chakleng mãi sống trên mây trở lại với đời thực. Trong đó có tôi, tay nhà nông-thi sĩ-trí thức hỏng chân lênh đênh đầu thôn cuối phố sống trên mây quá kẻ sống trên mây. Vân vân và vân vân.
Là công dân Chakleng. Và luôn luôn bắt đầu bằng con số không, từ con số âm – có lẽ.
Như luôn luôn được con rồng liếm trúng.
Ồ, như vậy thì nhân vật của tôi lộ diện hết rồi còn gì. Còn đâu nút thắt với mở cho tiểu thuyết. Vô hình chung ngay vừa khởi sự tôi đã tự đánh mất mánh khoé lôi kéo người đọc ở lại trên trang văn để dõi theo câu chuyện của mình. Nhưng các nhân vật của tôi (tôi là một trong những) có cần phải dựa hơi ăn theo cái thủ thuật kia [nếu có] của tôi không? Hay để cho bất kì tay nhà văn lười nhác nào cầm tay dẫn dắt cuộc đời mình không? Chắc chắn là không rồi. Bởi đằng sau định mệnh của họ luôn có định mệnh khác, những định mệnh khác lồng vào, chồng lên, bí ẩn, ngẫu hứng và bấp bênh khôn lường.
2
BẢN TRƯỜNG CA BỎ HOANG
(Hay Huyền thoại nàng Mưhuê)
Những trận đi vô định gần như vô tận của Chế Khan dễ gợi cho ta xem nó như cú chơi khăm của định mệnh lên cuộc sống ru rú của hắn suốt 20 năm ròng từ khi anh rời Chakleng lên Playku học cho đến có hai mặt con với Lâm làng Văn Lâm con gái Bàni 4* đầu tiên cưới chồng Chăm Bà-la-môn mà kẻ độc miệng bảo đó là nỗi đày đọa mang tính tổ tông vô phương cứu vãn. Trong lúc Chế Khan phát biểu về vụ này chỉ bằng hai tiếng cụt ngủn đồ bhut mà âm gió phụt ra từ đôi môi dày chu lại nghe phát ngán nhưng may được vớt vát bằng cái nhìn trên ngó xuống đầy vẻ kẻ cả, sẵn sàng tha thứ cho kẻ ở dưới mình, rất dưới mình. Kẻ bất ngờ bàn giao công việc tại Phòng Nông nghiệp huyện sau sáu năm gắn bó nhiệt tình rồi đột ngột từ bỏ gia đình yên ấm với bà vợ cùng hai đứa con, rời làng đi biệt hai tháng, trở về một năm rồi lại biệt tăm, nếu không chập thì cũng bị ám bởi cái gì đó vượt ngoài tầm suy đoán của người đồng loại, dù là ông láng giềng trà tối hay cô thư kí thường trực Phòng mà câu chuyện thường ngày không bao giờ việt vị khỏi vũ trụ tem phiếu, lên lương, biên chế, tâm tính đồng chí thủ trưởng; hay cả tôi mà hắn xem như bạn tâm giao độc nhất vô nhị trong các cơn bình phẩm hiếm hoi không đầu không đũa tổ tiên ngàn đời chẳng để lại gì ngoài gia tài rách rưới cho những tâm hồn rách rưới trong cuộc sống rách rưới này.
4 Bàni: bộ phận Cam Awal, người Chăm Hồi giáo cũ, hay Hồi giáo đã bản địa hóa (phân biệt với Cam Asulam - Chàm mới) chiếm khoảng 1/3 dân số Chăm tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
Nên, dù chương Bản trường ca bỏ hoang viết xong và đã đăng báo như một truyện ngắn trong mắt xích liên hoàn của tiểu thuyết
Chân dung cát để giới thiệu nhân vật đặc kì này, tôi nghĩ một sản phẩm lỡ tay của thượng đế, kẻ cư trú ngay đường biên bóng tối và ánh sáng, ru rú và lang bạt, nhát hèn và bạt mạng; kẻ dám đánh liều cuộc sống mình để làm cuộc truy đuổi bản trường ca bỏ hoang tưởng tượng hay có thật thì không chịu bó gối trong một thể loại văn chương nào bất kì.
Tôi đã xóa nó đi.
Vẫn không từ chối hắn được. Dẫu sao hắn cũng là bạn tâm đắc hiếm hoi trong các cơn của tôi. Thứ tình bạn không xây dựng trên cái gì cả ngoài ngộ nhận và lập dị, lập dị hắn với lập dị tôi. Lập dị tôi thì còn có chút gì đó kẻ dễ tính bỏ qua chứ của hắn thì không ma nào chịu thấu.
Ngộ nhận với lập dị của chúng tôi thật không đáng cho Dhan Than ném tới nửa cái nhìn quan tâm. – Văn chương chữ nghĩa ông khá lắm, hắn nói. – Chỉ khá thôi à? – Mức đó thôi. Ông sẽ dậm chân tại chỗ (1-2-3 dậm chân – dậm, như lính tráng tập ấy) nếu ông không đủ dũng khí vứt chúng đi. – Vứt ở đâu? – Đống rác lịch sử ấy. Hãy viết như công dân thế giới. – Ông mới học sách nào thế? Vậy thôi, hắn gườm gườm tôi rồi bỏ đi. Hơn tháng sau, thấy tôi ngồi cheo leo trên tảng đá lơ đễnh xem đám thanh niên làng dượt banh, hắn đi tới, hất hàm hỏi: – Đã tìm ra sọt rác chưa? – Rồi, và vứt rồi, qua đó mà nhặt. – Hãy để bọn giữ kho truyền thống thu lượm. Sứ mệnh của tôi và ông là làm mới. Viết như là nhà văn toàn cầu. Tôi cười hô hố, tụt xuống tảng đá, đi thẳng. Hôm sau, hắn sang nhà tìm tôi nhưng làm như thể đi ngang luôn tiện tạt vào. – Vô đây, vô đây. Tôi nói khi thấy hắn muốn bỏ đi. Hắn vẫn đứng tại bậc cửa: – Tao rất thất vọng với lối nghĩ nhỏ con của Chăm, do không rặn nổi một giọt tiểu ý tưởng mới nên cứ nghĩ mọi người cũng hệt họ. Mầy khá hơn nhưng không may lỡ đạp cứt họ. – Vào uống miếng trà đã rồi phán sao thì phán. – Ông nhớ, chủ nghĩa dân tộc là thứ rác rưởi nhất trong các thứ rác rưởi, cả chủ nghĩa dân tộc lớn, dân tộc bé hay chủ nghĩa dân tộc không có dân tộc. Hitler bị lịch sử cho cái bạt tai như thế nào ông thấy rồi, cả tay Cao Xuân Hoang nhà ta cũng thế, bị đá đít đáng đời một ngày không xa. Tôi không nói gì. – Ông và tôi rủi ro là Chăm. Nhưng cái đáng nói là hãy dám sống như một đơn vị Chăm, một đơn vị Chakleng càng tốt, nhưng khi sáng tạo phải với tư
cách công dân thế giới. Công dân thế giới, – ông hiểu không, chỉ chúng ta mới có may mắn đó.
Đối thoại vô bổ dễ tạo ô nhiễm môi trường nông thôn này dù không làm sứt mẻ ai nhưng đã gây hứng thú không ít cho đồ đệ thâm niên của Dhan Than trong đó có Cao Xuân Hoang trang trọng ghi nó vào mục tư tưởng mới lạ cần chào hàng trong chương trình xuất khẩu ý tưởng của anh mà chúng ta sẽ thấy ở một chương sau.
Hắn bỏ đi, đống thịt đựng ý tưởng toàn cầu ấy.
Dẫu chung làng nhưng chúng tôi chưa khi nào nói chuyện với nhau quá dăm phút. Gặp ngoài đường, tôi chào hắn lấy lệ: – Đi đâu? – Camơrun. Hai, ba lần như thế, sau đó (nghĩa là có thể ba, bốn tháng sau bởi tôi tháng ngày lang thang bờ sông ruộng lúa, còn hắn cắm cúi đạp xe lên huyện đúng ngày giờ) không đợi tôi hỏi, hắn cứ: – Camơrun, Camơrun! Hắn áp dụng chiến thuật quá ư bất lịch sự này với tất cả mọi người bất kể chú bác lớn tuổi hay thằng bé mũi thò lò. Và luôn đầy hiệu quả. Để khỏi tốn thì giờ mình lẫn thiên hạ, hắn bảo. Từ đó tôi đi qua hắn như không có, không hề có hắn trên trần đời. Lối ứng xử như thế dễ làm tái mặt bọn đạo mạo quan trọng với trịnh trọng vặn cổ gà không gãy, những kẻ Nietzsche muốn cho vài cái đạp. Kẻ nào ngã thì đạp cho nó ngã hẳn, hắn nói, với vẻ chán chường chạy tràn mắt, cái đầu bờm lắc qua lắc lại chục lần mới chịu lụm khụm bước đi.
Kẻ tôn sùng Heidegger và Derrida, đã phê phán xã hội Chakleng chỉ là đống bầy nhầy của thứ thịt trâu già không gì hơn tập hợp những tâm hồn bệnh hoạn kiêu hãnh hão về đất văn vật nghìn năm duy nhất có tên trên bia kí cứ tưởng là ngon lành mà không rặn nổi mục tiêu thực tế bé con nào để phấn đấu và tạo dựng lại từ đổ nát, – bỗng nhiên bị sự vụ vô bổ hơn đánh đổ sau chuyến đi ngắn ngày qua làng Mali, mảnh đất cuối cùng của vùng đất cuối cùng của Champa. Ông không tưởng tượng nổi đâu, hắn nói, môi dưới trề xuống đẩy môi trên run lên và giật giật đến phát khiếp.
HUYỀN THOẠI 1
Mùa Katê trước năm chế độ mở cửa. Không mưa. Nhóm bạn làng xa ngồi lai rai dưới giàn nho trơ cành ngoài sân tán dóc chuyện đông tây kim cổ. Khuya. Vài vị ốm đòn nằm lăn mặc lũ muỗi đói từ đám rau muống xáp tới dự tiệc khắp chân cẳng. Riêng anh kẻ lạ người Bal Riya, Khan giới thiệu tôi quên bẵng tên, huyên thuyên về huyền thoại nàng Mưhuê. Anh bảo đã rùng mình khi bà cụ nắm cứng lấy hai tay anh hồi lâu rồi vuốt lần ngược lên tận bả vai anh, bà lắc mạnh làm cái đầu mình muốn văng ra khỏi cổ.
– Cháu của bà, các cháu còn ư ? Hai môi khô rúm của bà cụ giật giật, giọt nước từ hai hốc mắt nhỉ ra rồi chảy dài xuống gò má xanh bợt.
– Chúng ta còn ư? Bà cụ nghĩ sau biến cố Thak Wa Chăm không còn mống nào hoặc đã đi hết rồi. Còn chăng chỉ là mảnh vụn còi cọc, loắt choắt chứ đâu đẹp trai cao ráo như Tây này. Rồi bà lại nắn. Và lắc.
Mình đã không mở miệng nổi để nói, dù một từ, một phát âm vô nghĩa. Hôm trước có tin bà cụ nằn nì được gặp, phải gặp mình một lần, khi biết mình từ Phanrang xa xôi ghé đất Mali nghèo cằn bốn mùa hanh mù gió cát này. Ông giáo làng bảo thế. Mình nghe lạ, nghĩ ông đùa. Nhưng không, mình đường đường cán bộ Phòng xuống kiểm tra dạy tiếng Chăm lớp duy nhất của làng.
Rất sớm, bà cụ đến. Bà ngoài bảy mươi nhưng dáng đi nhanh, thanh thoát. Hôm qua ông giáo làng cho mình hay làng có cô gái, lai lịch bí ẩn, từ nhỏ sống với bà nội, nết na và xinh đẹp cực kì nhưng phải tội kén nên thành quá lứa. Hai lăm, phụ nữ ở đấy ít nhất cũng vài lần nằm lửa rồi. Kiếm tấm chồng cho cháu gái không xong, bà cụ có rút ruột thương cũng đành phó mặc cho số trời. Hay nghe danh đồng chí thủ trưởng, cô nàng muốn kiếm mụn con chăng. Chính câu cuối này mà mình nghĩ ông giáo làng đùa. Nhưng ánh mắt ông cực nghiêm, anh bạn kể.
Sáng hôm sau xong việc, khi mò đánh vần không trôi thi phẩm cổ ông trưởng lão mượn, mình lủi thủi về. Buồn muốn tìm gò mối lủi đầu vào, các bạn ạ. Mình với ông giáo làng ngậm cám suốt đường đạp xe ngược lên thị xã hơn chục cây. Câu hỏi ám mình mấy năm nay.
– Lâu chưa? Khan hỏi.
– Năm 80, năm ta trường kì ăn độn đó mà.
Tôi nghĩ anh kẻ lạ có đầu óc lãng mạn, thêu dệt. Kẻ đi xa về tha hồ khoác lác, chả chết chóc ai, lại được vui cuộc. Nhưng với Khan thì không. Hắn sốc dữ, như bị chớp xẹt. Vợ hắn bảo mấy tháng nay ảnh ra ra vào vào Malâm làm gì chả hiểu, như loài ma xó ấy!
Cuối năm đó, Khan được phân công hướng dẫn đoàn nghiên cứu Liên Xô (đang bờ tan rã) xuống các plây Chăm điền dã điều tra ngôn ngữ học. Nhưng các nhà nghiên cứu Nga với mấy ông làm hành chính Tỉnh vào Bình Thuận ngon lắm quanh quẩn Ủy ban xã đã là khá. Hắn xuống Mali cùng chàng thanh niên địa phương, cộng tác viên ngắn hạn.
Trong thứ triết lý đen tối gần như là bệnh hoạn, Chế Khan tin rằng chỉ khi nào ai đó đột hứng đào mồ chôn phắt quá khứ đi thì xã hội Chăm mới nhúc nhích lên được, thứ niềm tin cứng đầu khiến hắn dù trong cộng đồng nhưng đã không mẫu số chung với cộng đồng hắn cho là phiền toái đến hết thuốc chữa, và tốt hơn cả là đi trước nó. Kẻ đã khăng khăng rằng chỉ có tôi mới đủ tầm để hiểu hắn đồng lúc chửi rủa triết lý giải-truyền thống của tôi – thuyết lý tôi kì công bỏ cả thời tuổi trẻ dựng lên như là lối thoát cho lối thoát của truyền thống văn hóa dân tộc bị hắn cho không gì hơn một ý tưởng thời thượng khác thêm vào đống cụm từ thời thượng sáo mòn lâu nay thiên hạ bôi bẩn quanh vấn đề quá cũ rích này: đậm đà, bảo tồn bản sắc, tiếp thu sáng tạo, truyền thống ngàn năm, nét đẹp quốc hồn quốc túy, phát huy vốn văn hóa vân vân ôi là vân vân – hắn cười vào mũi nó, cho tôi là đồ nhiễm trùng máu theo voi ăn bã mía chỉ đợi ngày cắp nón ăn mày. Còn kẻ tự nhận cải biên hay phát triển truyền thống này nọ chỉ là thứ lấy đầu này đắp đầu nọ hổ lốn vô trật tự chẳng lừa nổi ai ngoài bọn con nít đầu óc không thể nghĩ cao hơn hàng rào nhà chúng. Phát biểu khơi khơi ngỡ là tầm phào sau dáng vẻ phớt đời này của hắn cũng đã gây náo loạn xã hội Chakleng lâu
nay quen thói nghe theo, tin theo cũng đã mở mắt ngộ ra hay chí ít biết xấu hổ cho cái tin theo của mình. Kẻ chưa một lần biết yêu phụ nữ dù đó là bà hay mẹ, cô dì, chị, em gái hoặc vợ gì gì hắn cũng cho chỉ đáng thương hại mà thôi, lại bị câu chuyện một cô gái vớ vẩn tại một làng xa xôi diệu vợi khỉ ho cò gáy làm cho điên đảo.
Hắn bỏ làng ra đi.
HUYỀN THOẠI 2
(Chuyện Kể Của Anh Thanh Niên)
Mưhuê không cha, đúng hơn cha nàng đi khi bà mẹ mang thai ba tháng. Vội vã. Để lại xấp bản thảo chép trên lá buông với lời dặn: đứa con trai (ông đoan chắc thế) lớn, đọc sách để tìm cha. Rồi bà mẹ bị trận dịch dắt đi lúc nàng lên tám, giao tập sách cho nàng. Nàng giữ rịt nó bên mình, không cho nội mó tới, dù nhà chỉ hai bà cháu với nhau. Nàng từ giọt sương, bọt nước lớn lên qua bàn tay gầy que gỗ của bà.
– Mẹ cha ơi, đời em chưa nhìn thấy người nào đẹp thế đâu. Không bao giờ đâu…
Lạ, nàng không hề biết đến nương rẫy. Tên hạt bắp, củ đậu cũng không. Sáng, nàng giúp nội đan khăn, xế chiều thơ thẩn đi xuống bãi biển mãi sẫm tối mới về. Kẻ bảo nàng nhớ cha, các cụ nghĩ nàng con nhà trời mơ về thiên xứ, bọn trẻ thì cho nàng hâm. Nói gì chứ, lối nàng vừa đi qua, mùi trầm thoang thoảng.
À, chuyện này anh đừng nói ra ngoài: người ta đồn bắt đầu tuổi 15 cái bướm của nàng nở hoe lạ lắm. Nó bắt đầu dậy hương. Và vẫy mời. Mỗi chiều nàng đi xuống bãi là để gió biển át bớt nó đi, không thì có quý ông nào mà chịu cho thấu. Cứ thế đến khi đứa con đầu lòng ra đời, cái bướm kia từ từ khép lại, mãi mãi. Như của em bé ấy. Ông chồng cũng bỏ đi, vĩnh viễn. Nó có chịu mở ra nữa đâu mà ở lại! Tiếp nhé:
Chẳng hâm là gì khi nàng khôn khéo từ chối mươi đám có ý cùng nàng nên nghĩa vợ chồng. Bảy đứa giỏi lam giỏi làm nhất làng ưng, rồi thì hai đám rất khá làng bên nữa. Cả cậu sinh viên Kinh sau hai ngày xuống làng, điền dã như anh ấy mà cũng bị cái nở hoe ấy bắt mất hồn, đòi rước nàng về thị xã. Nàng Mưhuê đưa bản viết tay, nhờ họ đọc và giảng cho nghe: mẹ bảo cha nói đó là bản trường ca mà một chữ được đo bằng cả dặm cha đi, xa và dài. Thế là chả cu cậu nào với tới. Nàng buồn lắm, mắt thâm lại. Ước mơ được gặp
mặt cha như muốn làm mất hút. Hôm ông Phanrang ghé làng, người ta thấy nàng Mưhuê tươi tỉnh, một mình xuống suối tắm. Có chị còn nói như bắt được rằng đã ngửi thấy mùi lạ kia nữa. Nhưng ông quan nghe đồn hay chữ này nửa ngày trời mới đọc hết bốn lá. Từ đó, không ai còn thấy bóng dáng nàng Mưhuê ra khỏi nhà.
Người lưu lạc xô văn chương lưu lạc.
Bản trường ca bỏ hoang. Chắc chắn không chỉ có một. Dân tộc đồ sộ trong kiến trúc và điêu khắc như thế kia không thể không là gì cả trong văn chương được, hắn tin thế. Thứ niềm tin sâu thẳm tối tăm đến phi nhân ám hắn như loài hoa độc, gặm nhấm linh hồn hắn suốt một năm hơn khi hắn từ Mali trở về, thứ niềm tin quái quỷ khiến một công chức đầy công thức sáng xách cặp đi chiều đạp xe về họp hành lương bổng, vụt cái như thiền sư ngộ đạo, giũ bỏ tất cả.
Đi.
HUYỀN THOẠI 3
Rời quán nước ven đường, hắn cùng thằng bé dẫn đường còng lưng đạp xe ngược gió trồi sụp trên đường bụi mù. Bên cạnh nhà tranh, tôn rỉ sét, Mali đã mọc lơ thơ vài mái ngói mới đỏ chói dưới nắng nhiệt đới. Chế Khan cảm giác dân ở đây sống tạm bợ. Như sẵn sàng lên đường đi tới vùng đất mơ hồ nào đó, xa xôi. Nghèo. Cực. Và tạm bợ. Ánh sáng văn minh quên ném những mảnh vụn của nó sang nơi xó xỉnh này của trái đất.
Hôm sau, Chế Khan tìm đến nàng. Ra cửa đón hắn vẫn là bà cụ năm xưa. Gầy, dáng đi thẳng, thanh thoát nhưng âm u, bí hiểm. Ngoài nụ cười. Một nguồn sáng kì lạ lóe lên từ hốc mắt khi bà cụ đưa hai tay quờ nắm cánh tay Chế Khan, thật chặt. Hắn rùng mình. Bà cụ mời họ vào nhà. Nàng đang ngủ trên giường tre được đóng cầu kì.
– Mưhuê bà bệnh. Bà cụ nói. Chế Khan nhìn nàng, nghĩ nàng còn quá trẻ, như mới hai mươi. Không tìm thấy ghế, Chế Khan nhẹ nhàng ghé ngồi vào góc giường. Người bệnh mở mắt ngó Chế Khan, chậm. Đôi mắt sáng, gầy, buồn và cực đẹp. Hắn choáng.
– Chúng tôi sang xem bệnh cho em. Chế Khan dồn hết sức nhìn vào mắt nàng.
– … có thể xem… nhưng không được đâu… Chế Khan nắm lấy tay nàng xem mạch, cảm nghe luồng gió lạnh thổi rát vào tim. Bàn tay tuyệt quý phái – hắn chỉ có thể nói thế. Thon dài và ấm. Hậu duệ vương triều sót lại chăng? Nàng để yên nó trong tay người lạ. Xanh xao, tím tái. Cả khuôn mặt nàng tái nhợt. Nàng đang chết, cái chết chậm. Chỉ có đôi mắt là sống, rất sống.
– Chúng tôi sẽ trở lại.
Trưa hôm sau, Chế Khan đến. Nàng đang ngủ.
– Phúc đức nhà cháu! Mưhuê đỡ nhiều, vừa tắm xong, mới vào giường. Chế Khan ra hiệu bảo đừng đánh thức nàng và xin mượn bà tập sách. Bà cụ nhìn sang cháu gái, ngần ngừ, rồi đi bằng những
đầu ngón chân sang bên kia giường, bê từ đáy Ciet cái bọc khá lớn đưa cho người khách. Chế Khan đưa cả hai tay đỡ lấy, bước vội ra phòng ngoài ngồi lần giở. Hắn quên đất, trời, quên cả mâm cơm trưa đã nguội. Đọc và đọc.
Hoàng thân Chăm yêu say đắm cô gái Islam từ Mưkah. Cô gái đáp trả chừng mực, cho việc truyền bá đạo Hồi vào vương quốc Bà la-môn được thuận lợi hơn. Mối tình trái ngang đổ vỡ kéo theo cuộc chiến tranh huynh đệ. Sau đó là tan rã quê hương, ly tán của cả dân tộc. Kế hoạch thất bại, nàng lên tàu trở về cố quốc.
Buồm mỏng manh theo sóng nước trôi xa
Ôi cánh buồm như cánh mối mờ xa
Đùm bọc người tình ta đi mất
Đi mất hút khỏi tầm nhìn đất nước
Chàng ngồi đó, một mình trên bờ biển vắng lạnh: trước mặt là trùng khơi với bọt sóng trắng xóa, sau lưng là núi rừng đang trỗi khúc nhạc buồn. Ngày đang tắt.
Than ia rabbah ke tawak takai nai
Phận quê hương đau khổ khôn cầm bước em.
Chàng quay ngựa trở về.
Ngựa đưa chàng qua Tánh Linh, ngang Châu Hanh đến tháp Po Dam. Vị hoàng thân bắt đầu giục ngựa đi nhanh: Thanh Kiết, Lâm Giang, Phanrí để cuối cùng, ngựa dừng chân ở Chung Mỹ quê chàng. Kinh đô Debare 5* vừa trải qua một tàn phá. Phế tích ngổn ngang. Vài cơn mưa nhiệt đới đầu mùa ban cho mầm sống trong đất những giọt nước hiếm hoi cơ hội trỗi dậy. Rong rêu. Cây cỏ.
5 Debare: một thủ đô Champa, theo truyền thuyết
Cấu trúc tác phẩm dời bình diện: từ thực tế-hồi tưởng sang kí ức-hồi tưởng. Nơi quê nhà, vị hoàng thân Chăm hồi tưởng (hơn ba phần tư tác phẩm) chàng đã theo đuổi nàng công chúa xa lạ ấy thế nào, ôm ấp trong vòng tay mình tấm thân ngọc ngà ấy thế nào. Và đã khốn đốn thế nào suốt chặng đường đi dọc miền đất quê hương như đi xuyên qua lịch sử đau buồn của dân tộc. Để đến lúc này, chàng mới biết mình vừa đánh mất tất cả: bạn bè, cha mẹ, người tình, và lớn hơn cả – Tổ quốc:
Kuw yuw urang lihik phik
Abih tamư sang mưgik gilac duh bimong yang
Tanưh riya kuw Pangdarang
Calah grơp jalan dhwan baul bhap uranơm
Kuw dauk hagait dalam tangin
Yaum sa drei ciim pơr tamư lawah
Ta như kẻ mất hồn
Hết vào thánh đường lại lên đồi tháp
Pandarang ôi đất nước
Tan nát rã rời, con dân lưu lạc
Khắp phương trời
Ta còn lại gì trong tay?
Một con chim cô đơn bay vào vô tận.
Một con chim cô đơn với trái tim rớm máu hát lên khúc kêu thương. Con chim chết đi tiếng hát lưa lại, lưa lại với dư âm trầm buồn trải dài, khi bắt đầu, xuyên suốt tác phẩm để cuối cùng chín rụng ở câu sau cùng: Một con chim cô đơn bay vào vô tận.
– Dứt khoát là có một trường ca khác. Tui phải tìm ra nó! Chế Khan đột ngột kết luận. Có phải thâm ý của cha Mưhuê là muốn con trai ông truy tìm bản trường ca này, như trối trăng của vị hoàng thân kia không?
– Nhưng làm sao ông quyết đoán thế khi chỉ dựa trên tâm trạng? Tôi hỏi.
– Này nhé: Biết rằng, ngay từ thế kỉ XVI, khi đất nước đang thời nguy khốn sau biến cố Vijaya 6*, khi đã chán ngấy tinh thần văn hóa Ấn Độ, Champa dõi mắt sang nền văn hóa mới, niềm tin mới: Islam. Để đến đầu thế kỉ XVII, vua Po Rome phải hối hả xắn quần vượt biển Đông qua Kalentan mong bốc đơn thuốc cho sinh mệnh dân tộc. Nhưng Hồi giáo, như cô gái xinh đẹp, đến quá muộn màng. Định mệnh đã xuống tay. Thực tế, Hồi giáo cũng không cứu vãn nổi nguy cơ đang ập đến. Chẳng những thế, Hồi giáo hầu như – qua tiếp xúc và va chạm – còn góp ngón út đẩy cho đại bi kịch xảy ra nhanh hơn:
6 Biến cố Vijaya: 1471. Lê Thánh Tôn đánh vào thành Đồ Bàn và tuyên bố Champa từ nay là một tỉnh của Đại Việt
Dalam nưgar Debare karen karang
Bini sucam dom thun talah
Limưn kanai dơng sa gah
Asaih kuw sa gah, ia tanưh lir tapir
Jaguk ba baul pabblaung kalin
Cam tagok Mưdren, Bini tamư Caraih
Darah xwa nhjom kađwơl asaih
Limưn bak glaih dac ngauk hahuw paran
Trong xứ Dedare loạn lạc lan tràn
Bàni với Bà Chăm bao năm ròng rã
Voi em đứng một bên, ngựa anh về một ngả
Đất nước ngập chìm trong tối tăm
Thừa cơ giặc mang quân xâm lăng
Chăm lên Dilinh, Bàni vào Phanrí
Máu trôi thấm dầm gót ngựa
Voi mệt nhoài ngơ ngác giữa đầu lâu
– Qua cuộc tình một chiều này, ở chiều sâu của thi phẩm, thi sĩ hé lộ cho chúng ta thấy phương thức truyền Islam vào Champa, tâm lý Chăm khi đón nhận nó và ảnh hưởng của nó trong Vương quốc – những sự kiện không tư liệu lịch sử nào ghi nhận.
– Dĩ nhiên thi ca đã mang chở nó rất tình cờ. Lúc sau, hắn nói, không nhìn tôi:
– Trước và sau biến cố Lê Văn Khôi, có hàng loạt tác phẩm thế sự lớn ra đời. Lẽ nào trước đó chưa đầy thế kỉ, với biến động quyết định như thế lại chỉ đẻ ra một trường ca trữ tình-thế sự?
– Nhưng bản Ariya Bini - Cam 7* mà chúng ta biết là bản chưa trọn vẹn…
7 Ariya Bini - Cam: một trường ca Chăm
– Không. Nó là một trong ít văn bản hiếm hoi còn tồn tại và là văn bản hoàn chỉnh.
Im lặng.
– Phải có vài trường ca khác đang lưu lạc, chắc chắn. Chế Khan. Tôi chưa bao giờ nghĩ hắn rành rọt thế, chắc nịch thế, kẻ luôn suy tư mù mờ và khoái hoạt để cho cái mù mờ được là thế, cứ là thế; kẻ đã phát biểu lạnh như dao cắt rằng chớ khờ khạo
tin vào xã hội Chăm ngày mai không lây nhiễm đĩ điếm cướp của giết người, xã hội mẫu hệ tan rã làm phân mảnh tất cả những gì gọi là cố kết vững bàn thạch ngàn năm; kẻ ngay sau đó tuyên ngôn lớn tiếng rằng giải thoát không là chạy trốn như loài chuột nhắt hay chúi nhủi đà điểu mà là đi trước, tan rã trước cái tan rã. Kẻ từng nhận định triết lí Chăm là thứ triết lí hỏng chân nhất trong các thứ hỏng chân, hỏng chân đầu tiên và cuối cùng. Suốt 20 năm. Đột ngột hôm nay nổi hứng bốc một phương thuốc tối hậu chữa trị căn bệnh xã hội đó khi lập ngôn độc địa rằng nó xứng đáng là lý tưởng sống của thanh niên Chakleng thế kỉ 21: triết lý hỏng chân. Hãy tái khám phá nó, yêu thương nó, bảo tồn và phát huy nó, bởi chính nó chứ không phải gì gì khác sẽ cứu vớt chúng ta, ngày mai. Chân lý vừa tìm thấy như thọc lét hắn khiến hắn vỡ cười làm lồng ngực rung lên ùng ục. Nhưng xã hội Chăm hậu-mẫu hệ, hậu-rã đám sẽ như thế nào thì hắn lí giải rất mù mờ. Cái hắn biết chắc bây giờ là hắn đã đi trước, dzọt trước để khoanh tay nhìn nó xảy ra. Làm cái gì hắn thích, hắn thấy nó có ý nghĩa hoặc chính hắn ban ý nghĩa cho nó. Chấm hết. Hắn không rung đùi, nhưng qua giọng nói đầy âm sắc thanh thoát tôi biết hắn đang rất khoái hoạt.
HUYỀN THOẠI 4
Mưhuê đứng sau mình có lẽ đã khá lâu. Mãi lúc nàng đặt bàn tay ấm lên cánh tay mình khiến mình giật thót, ngước lên. Nụ cười. Ánh sáng! Đôi môi, ánh mắt, khuôn mặt và cả người nàng tràn trào ánh sáng. Lúc đó mình chỉ muốn chết, cậu ạ.
– Em đợi chàng hai mươi năm nay.
Mình im lặng nhìn Mưhuê.
– Chàng dùng cơm đi. Đã nguội rồi.
Như tên nô lệ của ánh sáng kia, mình răm rắp làm theo, không một lời.
Xế chiều, nàng rủ mình đi xuống bãi biển, giờ nàng thường dạo bước năm xưa. Người làng nhìn nàng, lặng lẽ mỉm cười, gật đầu chào. Tụi mình đến ngồi lên một bãi cỏ khô nhìn ra biển. Nàng nắm bàn tay trái mình, kéo tới vuốt vuốt và cắn nhẹ vào đầu những ngón. Tay kia mình vẫn nắm chặt tập sách như muốn bóp nát nó ra. Mình không nói gì, ngây ngất chìm vào mùi hương từ người nàng thoang thoảng.
– Cha đã đi về hướng ấy. Nàng trỏ về phía ngọn sóng. Nhưng từ nay em không còn mong cha nữa. Em đã có chàng. – Anh đã có vợ con. Mình nói. Nàng nhìn mình mỉm cười. Buồn, bí ẩn. Nói thật với ông đến chết mình cũng không thể nào quên nổi cái mỉm cười kia. Tối, tụi mình đi vào khoảng rừng thưa bên kia đụn cát. Nhiều đống lửa được đốt lên suốt đêm hôm ấy. Nhiều, rất nhiều tiếng sóng vỗ bờ.
Một tuần sau, Chế Khan rời Mali. Hôm từ biệt, hắn trả lại nàng Mưhuê tập trường ca.
– Biết đâu con trai chúng mình lại cần đến nó để tìm cha. Hắn đi. Mười năm qua nhanh như thổi.
Dân Văn Lâm, Chakleng không còn thấy Chế Khan về làng vào những dịp Ramưwan hay Katê nữa. Không ai biết hắn làm gì, ở đâu.
Mãi khi ngài giáo sư Trần Hùng nhắc tên hắn vào một sáng kia...
3
NGÀI GIÁO SƯ TRẦN HÙNG
Trước khi xe con quẹo vào khu nhà khách Ủy ban tỉnh, ngài giáo sư Trần Hùng nhắc tài xế lái tạt qua bưu điện. Anh chạy vào quày báo mua giúp tờ Văn nghệ, Văn nghệ Trung ương nhé, ngài nói với theo. Ngài giáo sư cần thể hiện với các nhà khoa học, lãnh đạo tỉnh và giới trí thức Chăm, dù nghiên cứu khoa học kiến thức đầy mình nhưng ngài chưa bao giờ quên văn nghệ, theo sát sườn phong trào sáng tác văn chương nước nhà. Nghĩa là tâm hồn vẫn bay bổng lãng mạn. Chính nó làm bật nổi ngài lên trong giới. Và cũng có nghĩa là toàn diện. Ngài giáo sư khoái nỗi toàn diện. Nghiên cứu tổng thể để có cái nhìn toàn diện. Con người toàn diện. Với cánh chữ nghĩa Chăm thì ngài phát lời khuyên: phải đi vào chuyên môn, chuyên môn hẹp, thật hẹp mới có đóng góp. Cấu trúc nhà cửa Chăm ư? Hãy biết đến nó, chỉ nó thôi; nếu cần thì nhà Yơ chuyên biệt, khảo tả nó, đặt nó trong tổng thể cấu trúc nhà Chăm, đối sánh nó với cái đồng dạng của các dân tộc trong nước và trên thế giới. Ai nhân loại muốn hiểu nhà Yơ Chăm, muốn hiểu đúng nó thì phải tìm đến ta. Bằng lối lập ngôn như thế, ngài đã thu phục bao nhiêu là trí thức Chăm tin theo, làm theo. (Ồ, không khéo ngài dạy họ nghiên cứu mỗi cột nhà Yơ quá! Bên phải, bên trái, chính giữa … ôm rịt nó mà nghiên cứu). Như vậy mới gọi là biết. “Thà chẳng biết gì cả còn hơn biết nhiều thứ nhưng chỉ biết nửa vời. Thà làm tên điên cho riêng mình còn hơn làm anh hùng dưới mắt người thiên hạ”, ngài giáo sư dẫn Nietzsche. Giọng trầm, vang, có nhấn với cạnh bàn tay chém xuống. Để ý, người nghe thấy ngài không hề chịu để hở hàm dưới, cái hàm đã văng đâu trong đấu tranh chống độc tài Ngô Đình Diệm thời ngài lãnh đạo sinh viên Phật giáo Huế xuống đường. Và bảo vệ quyền lợi sắc tộc thiểu số Tây Nguyên. Ngài bảo thế, thực hư ra sao chỉ có ma
mới hiểu. Qua quá trình tập luyện, ngài khéo ngụy trang để thính giả không một lần nhìn thấy nó.
Chỉ tội thỉnh thoảng miểng nước bọt bất tuân ý ngài cứ bắn xuống trang giấy đang viết (hay đọc). Lúc đó để ý không thấy ai dòm, ngài nhanh tay phi tang chúng đi.
Ngài giáo sư Trần Hùng vẫn chưa chịu bước xuống, khi xe ngừng ngay bãi đậu. Đại biểu các tỉnh về dự Hội thảo văn hóa Chăm khá đông. Xe con thứ trưởng cũng đang án ngữ dưới bóng me tây cao. Chính lúc này ngài giáo sư cần ra mắt nhất.
Khốn nỗi! Ngài muốn anh tài quành xe qua ngả bồn hoa để vài bước lên ngay tiền sảnh, nhưng cả khoảng sân rộng đã tràn những cúp là cúp. Anh tài xuống mở cửa xe, đứng đợi. Ngần ngừ giây lát, cuối cùng Ngài giáo sư bước xuống, đĩnh đạc. Có vài tiếng gọi ngài: những người quen. Ngài đưa tay vẫy, kiểu vẫy của Clinton. Thay vì băng qua sân lát đá xanh đến thẳng bậc thang dẫn vào Hội trường nơi đám đông đang tụ tập, ngài vòng qua ngả sau hàng chậu cây cảnh. Bằng dáng đi nặng, hơi khum và bước chữ bát! Phiền hà chính tại chỗ đó. Bước chữ bát, ngài không tài nào khuất phục được và ngày càng phát triển theo chiều hướng bất lợi nghiêm trọng. Hôm nay trước mặt bá quan, nhất là trước hàng trăm trí thức Chăm tinh tuyển từ các nơi đổ tới thì thật đại bất tiện. Tệ hơn nữa, tối qua Hà Vân đến chào ngài tận khách sạn.
Thôi, hãy dẹp qua bên hồ sơ nhỏ con này hậu xét. Bây giờ ngài giáo sư đang đưa bàn chân phải đặt lên bậc thang cuối cùng rồi. Tôi bước nhanh tới.
– Chào thầy.
Ngài giáo sư chuyển tờ báo sang tay trái đang cầm cái cặp đen (là cặp ngài ưa dùng) chìa ra bắt tay tôi hờ hững, trong lúc mắt vẫn hướng phía đám đông và gật, liên tục gật. Khác hẳn ứng xử mới tháng trước thôi ngay tại góc rất thoáng của Hội trường Viện nghiên cứu cấp Quốc gia, ngài một tay nắm chặt tay tôi tay kia vỗ vai tôi dặn dò thân mật đẫm chất ước lệ. Hay tầm của tôi chỉ có thể ở mức đó trước mặt nghiên cứu sinh? Còn lúc này, trước ngàn con mắt bá quan, ngài phải giữ phong thái.
Phong thái – quan trọng cực kì! Nó là tiêu chí phân biệt ông Clinton với dân ăn mày, nó đặt vị bộ trưởng đúng vị trí bộ trưởng,
anh cuốc đất là anh cuốc đất, không thể lẫn lộn. Chứ không phải thứ bản lai diện mục mà Đức Phật Như Lai đã nỗ lực uổng công nhằm đưa sinh linh khốn khổ đạt tới. Thật vô ích. Phong thái, chỉ cần phong thái thôi là đủ. Cả khởi đầu lẫn chung cuộc. Như lúc này, ngài giáo sư đang ngồi trên chiếc ghế người quen vừa nhường lại kia – hoạt bát nhưng nghiêm trang, hòa nhã mà tự tin đúng mức. (Ngoại trừ dáng của ngài lúc đi, tất tần tật tư thế còn lại luôn đầy phong thái có khả năng dọa nạt đối phương buộc họ cụp đuôi hay ít ra phải lộ khiêm tốn cần thiết).
Chợt mặt ngài tím tái khi liếc thấy Hà Vân đang sải bước dài đi tới. Ngài giáo sư hơi chồm tới để đưa tờ Văn nghệ cho cô sinh viên cũ, sắc mặt trở lại ngay trạng thái ban đầu, quay sang tiếp tục câu chuyện dang dở với nhóm trí thức Chăm bu quanh.
– Các anh chị là tinh hoa của dân tộc, ngài giáo sư thuyết. Nhưng mình mong từ anh chị phải bật lên vài khuôn mặt, như là tinh hoa của tinh hoa. Viết ít thôi. Khoa học quý hồ tinh. Anh chẳng cống hiến gì được cho khoa học nếu anh cứ tham lam ôm đồm.
Ngài liếc nhanh sang tôi. Mấy năm qua ngài thôi mặn mà với tôi, dù không lộ ra mặt. Không phải tôi được lăng xê (như ngài nghĩ) cũng chẳng phải tôi hết trung thành với ngài (như ngài hiểu) mà bởi tôi đi chệch quỹ đạo ngài muốn mỗi trí thức Chăm phải thế: chuyên môn, chuyên môn và chuyên môn. Đằng này hắn vừa cho ra đời tập Triết lí trong văn chương Chăm gì đó. Khái với chả luận – chả ra hồn gì đâu, ngài phán. Lại làm thơ nữa chứ!
– Làm việc trong bóng tối, đào thật sâu vào.
Đương ngon trớn, chợt ngài giáo sư ngưng, ngẩng lên nhìn Hà Vân đang ngó chằm chằm ngài. Hà Vân tủm tỉm cười, rồi như không nhịn được nữa, nàng bật cười thành tiếng và, kéo dài. Ngài giáo sư đẩy ghế đứng dậy, đi bằng bước chân chữ bát vào Hội trường.
Cái cười tủm của Hà Vân thật đáng phiền. Tôi quá quen với nó. Đó là thứ tiếng cười làm phật ý kẻ đã hết còn quyền hành trên mình. Không khiêu khích nhưng rất cần kẻ đồng lõa bên cạnh. Nàng đã như vậy, khi vừa trình xong luận án phó tiến sĩ mà ngài là giáo sư hướng dẫn với lời căn dặn: Hãy đi vào chuyên môn, cực hẹp, đào thật sâu vào. Ngưng một lát: Tất cả là ở đó.
– Chỉ vậy thôi à? Nàng hỏi. Nhưng em thấy thầy cũng chưa đào thật sâu lắm. Nàng nhấn mạnh thật sâu, che miệng tủm tỉm cười, liếc sang tôi. (Ngài biết nàng nắm đủ kĩ bí mật của ngài và muốn ngài hiểu đến mấy nghĩa). Ngay tức thì, ngài bước ra khỏi phòng khách, không một lời.
Nhưng ngài giáo sư Trần Hùng không phải kẻ dễ bị nốc-ao chỉ bằng một đòn, dù là đòn búa tạ. Ngài giành lại phong thái nhanh chóng ngay khi ngồi xuống hàng ghế đầu dành cho cử tọa thuộc lãnh đạo. Phong thái thành cấp số nhân lúc ngài được mời lên dãy bàn chủ tịch đoàn. Tôi tìm cho mình cái ghế ở hàng áp chót nơi cửa lớn để còn tiện ra ngoài gặp người quen tán dóc hay chỉ để thở không khí phi hội nghị, khi cần. Ngài giáo sư khá gay tôi thói đó. Từ trên dãy ghế chủ tịch đoàn liếc thấy tôi, ngài vẫn cố giữ khuôn mặt tỉnh bơ.
Vừa lúc ngài giáo sư lên bục gỗ có gắn ba cái micro đọc tham luận thì Hà Vân từ đâu trờ tới chiếm ngay ghế trống anh bạn cũ ở Phanrí vừa bỏ lại để lên hàng trên.
– Ngồi cạnh anh nghe ngài mới khoái.
– Kính thưa các vị lãnh đạo, kính thưa Hội nghị…. Giọng ngài giáo sư vang lên sang sảng rồi ngưng bặt.
– Giọng trời cho. Hà Vân bình luận.
– Đừng đùa. Chí ít ngài cũng không kính thưa anh Hai, anh Sáu đại cà sa như các vị nhà ta.
– Biết bao nhiêu lần tôi từng đứng trước cử tọa là các nhà bác học, các chuyên gia, nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới trong các hội trường, phòng khánh tiết sang trọng vào bậc nhất nhì thế giới, nhưng không nơi đâu, không lần nào khiến tôi xúc động như lần này trước bà con đại biểu trí thức Chăm chúng ta, và ở đây nơi miền sóng gió Phanrang từng nuôi dưỡng tâm hồn tôi khôn lớn, bay cao. Để bày tỏ lòng biết ơn từ sâu thẳm tâm hồn tôi, tôi xin nhiệt liệt gởi tới Hội nghị, tới bà con Chăm thương yêu của chúng ta lời chào trân trọng nhất, lời chúc nồng nàn nhất.
N-h-ấ-t. Ngài nhấn mạnh nhất to, vang và kéo dài.
Tiếng vỗ tay rào rào.
– Vỗ to lên! Hà Vân thúc cùi chỏ vào mạn sườn tôi. Vỗ tay ăn theo chiến công đầu của ngài giáo sư khả kính của chúng ta.
Đợi cho tiếng vỗ tay hoàn toàn lắng xuống, ngài tiếp: – Như bác nông dân tốt bụng kia (tôi vốn xuất thân thành phần nông dân, ngài nhấn mạnh) đã không dành cho người bạn khốn khổ con cá, cái tôm mà là cách câu con cá, lối bắt cái tôm. (Im lặng). Tôi không cung cấp cho các vị một khám phá mới nào, tri thức mới lạ nào. Mà là một phương pháp để khai phá, con đường để đi tìm tri kiến. (Im lặng).
Ngài giáo sư luôn có cái khoảng lặng đầy chất kĩ thuật giữa câu nói, đủ lâu nhưng không quá dài, ngay sát sườn ý chính muốn triển khai, như miếng mồi giăng ra đúng lúc để giựt mấy con cá ngờ nghệch. Không lần nào ngài không thành công. Cả hội trường nín lặng (điều mà hội trường chúng ta hiếm khi được hân hạnh) dỏng tai nghe.
– Chúng ta bắt đầu từ đâu? Các vị và tôi, đâu là vạch xuất phát? Khó không phải biết mức đến (khoa học làm gì có mức đến) mà là hiểu được điểm xuất phát. Các vị khổng lồ nào chịu cho chúng ta đứng lên vai? Chúng ta chưa đặt câu hỏi đó với mình. Và (để tăng phần long trọng lần nữa, ngài giáo sư lại im lặng) chúng ta cũng không ngạc nhiên vì chưa đặt câu hỏi đó ra nữa.
– Thôi xổ ra đi, mở máy đi cha nội. Hà Vân nóng ruột. – Ngay diễn đàn này, có ai đã liệt kê những gì các nhà nghiên cứu, các bác học gia từ hàng trăm năm nay về nền văn hóa Champa, nền văn hóa mà cái vĩ đại của nó vẫn còn giấu mặt, đã làm được? Và tôi có nên làm tổng thuật thành tựu dù to lớn đến mấy vẫn chỉ là phần nổi của rặng núi văn hóa bí ẩn kia không? Về văn học - nghệ thuật, về tôn giáo - phong tục, về ngôn ngữ - chữ viết… với những tên tuổi đáng cho chúng ta nghiêng mình kính trọng: Aymonier, Cabaton, Maspéro, Leuba, Parmentier, Nghiêm Thẩm, Nguyễn Bạt Tụy,…
– (Im lặng). Không, tôi không muốn làm mất thì giờ quý báu của quý vị (có vài tiếng thở phào nghe khá rõ). Quý vị đang có trong tay mình tập kỉ yếu của Hội thảo. Bài “Vấn đề nghiên cứu văn hóa Champa – hiện trạng và giải pháp” đã hệ thống rất chi tiết. Đó chính là điểm xuất phát, xuất phát từ trên đôi vai các ngài khổng lồ. Chúng ta – các vị và tôi, bao giờ chúng ta cất cánh?
– C-ấ-t c-á-á-nh! Vâng, thưa Hội nghị. Không phải nơi ánh sáng vinh quang của Hội trường, nơi lộ thiên trên trang đầu tờ nhật báo, nơi có treo băng-cờ-rôn, nơi luôn chực sẵn tiếng hoan hô… mà là chốn đèo heo hút gió nhất, khỉ ho cò gáy nhất, nơi ánh sáng văn minh bỏ quên một cách ngoan cố nhất, oan uổng nhất (im lặng). Tôi biết con người đó. Cực hiếm. Khiêm cung và lặng lẽ, anh không cần tới báo chí ca ngợi, lăng xê mình.
– Thằng cha khá thù dai. Hà Vân bình luận.
– Làm việc, và làm việc trong bóng tối (Hà Vân liếc sang tôi, tủm tỉm). Đi vào chuyên môn hẹp. Và có được thành tựu đáng cho tôi phải nghiêng mình. (Im lặng) Hội trường im phăng phắc. Tôi muốn nói đến anh bạn trẻ của tôi – Chế Khan, người vô cùng khiêm tốn có khả năng đọc hiểu thông thạo chữ Chăm trên hai thế kỉ. (Im lặng).
Thật bất ngờ, mọi người nín lặng chờ đợi. Tôi nhìn thẳng lên ngài giáo sư, chờ đợi. Hà Vân bất cần là thế, cũng thôi đùa cợt. – Người đó không có mặt ở đây, nơi ánh sáng của hội trường này, ngài giáo sư tiếp – dù nói một cách nghiêm túc, anh là một trong vài kẻ xứng đáng nhất. Một chuyên gia thượng thặng hôm nay, và tiểu thuyết gia Chăm lớn tương lai.
Đột ngột, ngài giáo sư khựng lại. Lần này không phải bởi sự dàn xếp quen thuộc của lý trí: Ngài biết mình hớ, ngay tức thì liền xoay chuyển tình thế có lợi cho mình.
– Chúng ta những nhà khoa học, chúng ta hy vọng đón nhận con người đó vào một ngày không xa. Bao giờ cũng là hy vọng. Xin chúc mừng niềm hy vọng! Chúc mừng Hội nghị…
Cả Hội trường đồng loạt vỗ tay kéo dài, to và dài rất bất bình thường. Dù không lê thê như thời học sinh chúng tôi đón Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xuống máy bay trực thăng về đặt viên đá đầu tiên xây Đại học tổng hợp tại quê hương (trường này bị dang dở khi bộ đội tràn vào Ninh Thuận), không ồn ào loạn xị như dân hâm mộ tỉnh lẻ đón Chế Linh ở rạp cinéma Thanh Bình, nhưng chắc chắn nó hơn hẳn cái vỗ tay thường lệ. Đăng đàn kì này, ngài giáo sư Trần Hùng thành công vượt kế hoạch, đến nỗi các tham luận sau đó trở thành những tiếng pháo nhỏ đì đẹt tội nghiệp.
*
Giờ nghỉ giải lao, chúng tôi ùa đến chúc mừng ngài giáo sư.
– Số dzách, thầy ơi, thầy đã đánh văng tất cả. Hà Vân kêu lên, nắm lấy cánh tay ngài lắc lắc.
– Chế Khan, dân Chakleng đấy thầy ạ. Tôi nói hùa theo. – Mình rành anh ta còn hơn ba người các cậu cộng lại. Ngài làm vẻ không chú ý đến Hà Vân, nhìn tôi, sẵn tay lôi từ cặp da đen ra tập vở học sinh loại 50 trang.
– Đọc thử một chương đi để biết. Đấy mới là sáng tạo, là thứ văn chương đích thực.
Tôi chộp lấy tập vở, lật vài trang lướt qua, nói cám ơn rồi đút nhanh nó vào túi thổ cẩm đeo vai và vọt ra cửa.
– Tôi cần gặp cô. Ngài giáo sư nói, Hà Vân cố ý không nghe thấy, tay vẫn cầm tờ báo, quay ngoắt đi.
– Đồ đĩ! Ngài giáo sư bật ra, giọng nén lại, đanh và sắc vừa đủ để cô nghiên cứu sinh cũ nghe. Hà Vân hơi chựng lại, chợt nàng lấy tay che miệng, tủm tỉm cười rồi bước nhanh theo tôi.
Không thể trị con mẹ đỏng đảnh này được, ngài đứng đực ra nhìn theo sau lưng nàng. Ngài thấy mình bất lực. Vừa từ đỉnh cao vinh quang, ngài giáo sư bị cô học trò cũ hất xuống vực, chỉ bằng cái ngoáy mông đầy khiêu khích, cái mông tròn lẳn ngài từng làm chủ bấy lâu hôm nay trở ngọn giáo khống chế lại ngài.
Nghe tin ngài ra Phanrang sớm một ngày, nàng từ Nha Trang bảo tài xế xách xe con xịt đến tìm ngài tận phòng khách sạn vào loại sang nhất Ninh Thuận, tối qua. Như cách đây năm năm, nàng tìm đến ngài. Khác điều là bấy giờ nàng đang trong những ngày cuối cùng để hoàn chỉnh luận án. Ngài nói ba hôm sau em hãy đến để cùng thầy xuống plây Chăm điền dã kiểm tra lại vài luận chứng. Nhưng nàng một mực bám lấy ngài. Ngài đã có cuộc bế tinh kéo dài hơn thường lệ để lên kế hoạch tác chiến ở tỉnh lẻ. Phải mất cả năm và vận dụng linh hoạt nhiều phương sách hỗn hợp, ngài giáo sư mới
tiếp cận được mục tiêu: Hathaw.
Nghe danh nhà Hathaw đã lâu, bao lần ghé Chakleng và loáng thoáng thấy dáng chị từ đằng xa, nhưng hội ngộ thì chưa một lần. Chả ngán là khẩu ngữ Nam bộ ngài giáo sư thích nghĩ và nói ra miệng. Nhưng với tình yêu, bước chân phải thật nhẹ nhàng. Đi rất êm bước êm nữa người ơi. Không biết ngài thuyết phục sao mà tay kỹ sư Chăm đang ghế thư kí công ty tại Sài Gòn chịu tin rằng đứa
con trai ra đời từ bản hợp đồng giữa ngài và chị Hathaw sẽ là nhân tố đóng vai trò nổi bật dắt tay các thế hệ Chakleng thế kỉ XXI. (Dù đã qua tuổi 55 đồn rằng chị Hathaw vẫn còn khả năng sinh đẻ). Rồi chính ngài mớm ý cho tay này dùng miệng lưỡi khiến đóa hoa rừng đang hồi vào thu này ưng thuận. Tối trước buổi tối giờ G, Hà Vân đột ngột đến. Vòm vú căng với cặp mông săn chắc đầy ngẫu hứng qua cầu của cô nghiên cứu sinh khiến ngài hết chịu nổi. Vả lại, mấy hôm trước ở Sài Gòn cô nàng đi với tôi nên ngài sinh nghi và muốn giành quyền lực tuyệt đối trên nàng. Ngài tấn công nàng, nàng phản ứng lại. Ồ, nếu Hà Vân đừng động tĩnh gì cả, chân theo chân và hồn lại theo hồn đi, thì coi như đã xong rồi. Đằng này chính bởi động thái này của nàng cuốn ngài làm tới: nó khiêu khích và kích thích ngài. Ngài vật nàng ra, trườn tới, nằm đè lên nàng ngay trên sàn gạch bông Trung Quốc trơn láng. Đến lúc nàng kêu ư hử thì ngài giáo sư chợt dừng và thở dốc. Ngài thấy mình đang đuối (chục chai mật ong rừng ngâm rượu nhất không thiếu hai năm cộng luôn cả tháng trời chịu nhịn cũng không cứu vãn nổi tình hình). Trong khi cô học trò thúc: xíu nữa anh, mạnh lên anh! Không thể cầm cự nữa rồi, ngài nghiêng mình thả cả tấm thân nặng trịch lăn ra sàn, mắt nhim nhim, cố nén hơi thở. Ngài nghe cô học trò quay sang vuốt ve ngực, tóc mình, hôn lên má mình (Hà Vân kể chưa bao giờ hôn môi ngài giáo sư). Mươi phút trôi qua. Thật bất ngờ: ngài bật dậy. Hay nói cho công bằng, của quý của ngài cương cứng đã nâng ngài bật dậy. Nhưng khi ngài vừa nằm đè lên nàng và làm thao tác đầu tiên thì thằng nhỏ bỗng xìu đi không cách nào gượng dậy được. Ngài toan sử dụng đòn thế khác hỗ trợ thì Hà Vân kêu “Đừng cố gắng, đừng cố gắng” rồi dùng bắp tay đẩy ngài ra, rất dứt khoát. Không thể làm gì hơn, ngài đứng dậy, lượm cái quần lót đi vào toilet.
Cô học trò đi rồi, ngài giáo sư Trần Hùng ném tấm thân mệt rã lên giường nệm rộng rinh, suy nghĩ về sự cố vừa rồi. Nó xảy ra nhanh, quá nhanh khiến ngài nghĩ nó là giấc mơ, một cơn ác mộng hơn là thực tại thù lù.
Tối hôm sau, y hẹn, chị Hathaw gõ cửa. Bằng bàn tay run run, ngài vặn nắm đấm. Cánh cửa từ từ hé mở: Hathaw hiện ra như thứ ánh sáng cuốn hút, doạ nạt. Ngài nghe tim mình đập rất thiếu trật tự (tình tiết sao mà giống tiểu thuyết diễm tình ăn khách).
– Mừng là em đến. Ngài nói, giọng lạc đi. Ngài ra hiệu mời chị vào. Chị bước vào, ngài theo sau. Bằng cử chỉ tay lật ngửa, ngài mời chị ngồi, long trọng. Ngài ngồi về phía ghế đối diện và, rót rượu.
– Em không uống, thưa anh (lối xưng hô này ngài đã mớm trước – để tránh cụt hứng).
Ôi thôi trời đã không chiều lòng người. Tất cả đã đổ vỡ, sụp đổ hoàn toàn, thất bại toàn diện. Biết bao công lao, biết bao chuẩn bị bố trí để tiêu tán đường trong sát-na. Ngài thầm oán con mẹ Hà Vân đã hại ngài. Ngài thù nó, căm nó.
Đúng mười giờ ngài cho chị Hathaw về, không quên gói quà kỉ niệm. Quà làm gì kia chứ, cho nàng nhớ mãi cái đêm nhược dương ô nhục này? Đuổi theo đòi lại ư? Không. Ngài dự định sẽ cùng chị phơi phới suốt đêm. Với uy tín của ngài giáo sư Trần Hùng thì quản lý khách sạn gắt mấy cũng nhắm mắt cho qua. Nhưng chị đã về. Ngài nằm đó, bất động như khúc gỗ mục, trừng trừng ngó lên trần khách sạn xanh toát. Lúc này, ngài chỉ còn biết trách mình. Ngài nghĩ Chăm khá lạ. Về vụ ấy, họ không chuẩn bị, không bố trí, không ám ảnh, họ dùng khi cần, và luôn luôn đi tới nơi về tới chốn. Sau đó, họ ngủ, thức dậy, ăn, làm việc, tán phét… Không có vấn đề gì cả. Sạch sẽ và khoẻ mạnh. Ngài luôn theo dõi rất hào hứng (dù ngoài mặt vẫn giữ vẻ như nghe để nghiên cứu, nghiên cứu theo chiều sâu) thành tích của quý ông Chăm. Ngài nghĩ có lẽ quý ông dân tộc thiểu số này dùng loại thuốc bí truyền nào đó, như người Raglai độc quyền thứ thuốc cho sản phụ đứa con vừa lọt lòng liền đứng dậy bế nó xuống suối rửa ráy, trở lại làm việc như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
Chả có vấn đề gì trầm trọng cả.
Một tháng sau sự cố, đồn rằng chị Hathaw kể ngài giáo sư làm chị nhột. Thằng nhỏ của ngài đã không chịu cương lên. Thà nó như con đỉa đói đi, đằng này nó dùng dằng, lờ nhờ, lưng chừng, xương không ra xương, bầy nhầy chả ra bầy nhầy. Như đỉa trâu no máu cựa quậy. Ờ, chỉ đến mức đó rồi dậm chân tại chỗ. Ngài cho nó đung đưa (dĩ nhiên có trợ lý tích cực của tay) qua lại như con đỉa lăn trở giữa cái đò bằng thân chuối mà trẻ con thường chơi của chị – không hơn không kém. Trước cái hang động sâu hun hút của chị, thằng nhỏ của ngài đang đứng bên bờ tuyệt vọng, như thiên hạ nói.
Chị cũng đã nhiệt tình vỗ vai khích lệ song nó cứ ỳ ra đấy. Nó bỗng thấy cái của chị mênh mông quá, thăm thẳm lắm. Cuối cùng chị bảo chị đã kêu nhột. Thế là ngài giáo sư chống tay ngồi dậy, nói: ta xin lỗi nàng, thật trang trọng.
Chợt ngài thấy căm ghét cay đắng Hà Vân phản bội với cái ngoáy mông phi lôgic, hôm qua. Rất căm. Không dứt ra được, dù ngài tự kỉ ám thị bằng câu phù chú ngài hay lẩm bẩm khi tâm thức bị xao động: Chả có gì trầm trọng cả.
Năm năm đã là dài. Dài để vết thương cũ lành lặn. Ngài cần gặp lại người cũ, dù ngài biết chị Hathaw không còn là thiếu phụ mặn mà năm xưa (khi xưa háo hức thế nào ấy ngài quên chưa ngửi cái mùi thơm nách nổi tiếng của chị). Để chuyện vui thôi (ngài nói với tôi thế) nếu tiện, gỡ gạc lại phong thái đã mất. Rút kinh nghiệm bản thân, con mẹ Hà Vân chớ hòng láng cháng, lần này.
Suốt buổi chiều và cả sáng hôm sau, không thấy ngài giáo sư ở hội trường. Vài phóng viên địa phương dáo dác tìm ngài làm cái phỏng vấn cũng không. Nghe nói ngài có việc quan trọng ở một làng người Raglai trên Ninh Sơn. Mãi chiều, chủ tịch tỉnh sắp phát biểu, ngài kéo bước chân chữ bát, đến. Cô dẫn chương trình lần nữa xin lỗi quý đại biểu bởi sự vắng mặt rất đáng tiếc của nhà nghiên cứu lá cờ đầu và mời ngài tiếp tục lên bàn chủ tịch đoàn, song ngài một mực từ chối, khá trịnh trọng. Cần khiêm cung đúng lúc, đúng nơi.
Chiều, trước giờ liên hoan chia tay, ngài giáo sư ngoắt tôi. – Cậu không từ chối gặp tôi chứ? Ngài hỏi, vẫn trang trọng cố hữu, nhưng chất giọng đã thiểu não, như van lơn.
– Dạ thầy cứ cho cái hẹn.
– Tối nay, bảy giờ ở khách sạn.
Tôi đến trễ mười lăm phút. Ngài giáo sư có vẻ sốt ruột. Ngài rót rượu Napoléon vào chung nhỏ.
– Thưa thầy không nhấp?
– Cậu uống đi.
– Em xin, tôi học giọng Bắc khá nhuyễn. Tôi làm một hơi cạn. Ngài nói trong khi tôi dõi theo cái nóng chảy tan vào người, rồi thì vị đắng đọng đầu lưỡi.
– Bỏ qua chuyện Hà Vân. Hãy quên ngữ ấy đi lúc này. Cả hôm sau và sau nữa, cậu nên vứt cô ả đi là vừa.
Im lặng. Phía dưới, ngoài đường có tiếng cãi vã (hình như là vợ chồng) xen lẫn tiếng còi ôtô.
– Nhân loại muôn năm mãi thế, sẽ lặp lại cảnh ấy đến muôn đời. Ngài nói, ý tưởng chẳng ăn nhập gì với chuyện thuốc bí truyền tăng lực ngài sắp đưa ra bàn.
– Người Chăm quan niệm thế nào về đời sống tình dục? Ngài mở đầu bất ngờ và khá không thông minh, dù ngài chuẩn bị rất kĩ, tôi biết. Ngài biết tôi biết, nên ngưng bặt.
– Họ không quan niệm, thầy ạ.
– Điều làm mình ngạc nhiên là trong các dịp lễ Rija Praung, không ai xem vật biểu trưng cho bộ phận sinh dục nam nữ với các thao tác như giao hợp là hình ảnh tục tĩu hay kích dục cả.
– Thầy có nhận xét rất tinh tế. Người Chăm xem đó là lễ vật biểu trưng huyền nhiệm.
– Nhưng làm thế nào khi ông Mưdwơn, chủ lễ với Bà Rija đắp chăn ngủ trong tối Đih swa lại không xảy ra chuyện ngoài lề. Bởi da thịt đụng da thịt nhân lên bằng tưởng tượng vốn bệnh hoạn của hai sinh thể khác phái?
– Nhưng đấy là hành vi linh thánh của lễ.
– Cậu tin chắc đã không có sự cố?
– Có, dù sao họ vẫn là con người. Và hãn hữu lắm mới xảy ra chuyện sau lễ Rija Praung, Muk Rija mang cái bầu tâm sự không phải của chồng mình. Em nghe kể từ nghe kể thế.
– Người Chăm rất kị chuyện đó. Bà không bị gọt đầu bôi vôi hay kết bè trôi sông à?
– Không, nói như ngôn ngữ hiện đại, đó chỉ là tai nạn nghề nghiệp. Mà họa hoằn lắm, tôi lặp lại. Muốn gì hỏi thẳng ra đi cha nội. – Mình nghĩ các ông phải tìm ra loại thuốc tiết dục chứ. Biết mình dùng chữ có chuẩn không, thứ thuốc khuất phục sự cương cứng tạm thời. Như các cha cố trẻ hay làm. (Lúc này ngài giáo sư tránh nhìn tôi mà nhìn ra ngoài cửa sổ, xa xăm).
– Không, em không nghe nói thầy ạ.
– Cả thuốc kích dục cũng không à? Ngài liếc nhanh tôi rồi tiếp tục nhìn xa xăm, đăm chiêu lung lắm. Tôi nghĩ ngài giáo sư chuyển ý khá tài tình. Ngài đang đợi câu trả lời: đấy chính là cao trào. Đứng
trước nút gordien, loay hoay bấy lâu ngài như sắp tìm ra manh mối. Ngài không dám chặt đứt nó như ngày xưa Alexandre đã làm. Sĩ diện chăng? Nhưng trong trò chơi này sĩ diện là thứ thừa nhất trong mọi thứ thừa trên trần đời. Chăm thích thì cho, thì làm. Sau tảng đá ngoài rừng, ngay gốc cây trong vườn … Kỹ thuật (hay nghệ thuật) tự nó sản sinh, sau đó.
– Không, em không tin họ có.
Nút thắt bỗng dưng tự bung ra. Tôi thấy các cơ đang căng trên khuôn mặt ngài giáo sư giãn nở khiến da mặt ngài bợt đi, bợt chả thua kém gì thằng bạn nhà văn của tôi không đọc thấy tên mình trong Danh sách hội viên mới.
– Họ không bao giờ cố gắng. Đó là một thứ quan điểm không quan điểm, quan điểm phi quan điểm. Tôi thấy người đối thoại giật mình. (“Đừng cố gắng, đừng cố gắng” điệp khúc xưa của Hà Vân bám cứng ngài, đã hành hạ ngài, muốn xé vụn ngài. Từ năm năm nay, chắc thế).
– Chứ huyền thoại về các cụ bảy mươi hành sự suốt đêm chỉ là chuyện kể cho vui thôi ư?
– Thầy biết ông Dhan Than chứ?
– Mình có nghe.
– Đó là một yogi siêu hạng nhưng lại lệch lạc. Cuộc đời tu luyện của ông là bài học (tiêu cực lẫn tích cực) tốt lành.
Tôi kể cho ngài giáo sư nghe chuyện ông già bảy mươi xuống tấn thách đám thanh niên song phi mà chúng ta được nghe ở phần đầu tiểu thuyết, từ các câu chuyện vụn như: uống nước đái trẻ, hút tẩu chỉ thở bằng một lỗ mũi, nửa đêm dậy xông hơi bằng thứ lá cây mà mùi hôi bốc ra ma quỷ cũng phải chạy, dọa phụ nữ bằng đứng một chân, chân kia vắt lên cổ, tay chỉ thẳng trời vào đầu hôm. Vân vân. Hàng trăm mảnh vụn tính cách lạ lẫm nối đuôi nhau trùng điệp xuất hiện giữa cuộc sống nông thôn Chăm bình lặng và nhàm chán ấy đã góp công sức đẩy ông đến chỗ mất vợ rồi mãi mãi không vợ để làm trò đàm tiếu cho thiên hạ thừa giờ. Ông vừa đúng vừa sai. Nhà yogi chân truyền chỉ làm tình tháng một đêm, nhưng phải là một đêm tuyệt diệu và linh thánh, nó thăng hoa thân xác ông đưa tâm linh ông tiếp cận với cảnh giới siêu nhiên bất khả tư nghì. Rất trần gian mà không trần tục – tất cả là ở chỗ đó. Ông toan lôi kéo bà vợ
mù chữ của ông đến cửa cảnh giới ấy mà quên đi tâm lý tối thiểu muôn đời của phụ nữ: tình yêu và sự chăm bón hàng ngày. Nên mặc dù bà vợ ông không thể nào quên những đêm cháy bỏng hiếm hoi trong chưa tròn năm vợ chồng, đành phải xa ông.
– Ông vẫn giữ phong độ như thế cho đến thất thập? – Trong kinh doanh, tích lũy vốn là khâu rất quan trọng. Tích lũy để tái sản xuất mở rộng. (Im lặng. Tôi sử dụng chính đòn thế của ngài giáo sư). Tuyệt không để bị cạn vốn (không cố gắng). Nếu anh để lưng vốn cạn kiệt tới cả chục lần thì anh phải trả giá, trời không cho anh cơ hội quật khởi trở lại. Luyện tập yoga là phương pháp nạp năng lượng hiệu quả lâu bền nhất phụng sự khả năng tính dục. (Tôi làm bộ rất trịnh trọng như thể đang cùng ngài giáo sư nghiên cứu vấn đề nghiêm trọng, sâu xa).
Ngài giáo sư Trần Hùng im lặng nghe tôi thuyết giáo, trường hợp mà xưa nay tôi nghĩ mãi đến tận thế cũng không bao giờ xảy ra, với ngài.
– Hà Vân nó thích cậu đấy. Ngài nói, đúng giọng tổng thống Dương Văn Minh lúc tuyên bố đầu hàng.
– Tốt hơn cả là chớ nên để cạn vốn, dẫu chỉ một lần. Tôi nôn nóng kết thúc cuộc tra tấn để còn dzọt về đọc phần tiểu thuyết của Chế Khan. Tôi nói với ngài giáo sư: dạ em xin phép để thầy nghỉ.
Xuống đến bậc thang cuối cùng, tôi chợt nhớ ngài vừa nói Hà Vân nó thích cậu đấy, và nghĩ ngài phát ngôn chẳng đúng nơi, đúng lúc chút nào. Thừa ơi là thừa. Tuyên bố của Victor Hugo “Thanh niên thì đẹp trai, người già thì vĩ đại” mà ngài thường lấy đó làm châm ngôn khi chinh phục chị em mất linh rồi chăng?
NHỮNG SUY TƯỞNG RỜI
Trích Dịch.
(Trà Chân viết bằng tiếng Chăm)
*
Logic hình thức ngôn ngữ luôn quy định tư duy, từ đó sai khiến hành động con người. Lối phát biểu rất lạ của chúng ta: người Chăm - người Bàni (làm như người Bàni không thuộc tộc Chăm!), chữ Chăm - chữ Bàni (làm như chữ Chăm không phải là của Chăm Bàni), Trường ca Chăm - Bàni… khuôn định đầu óc chúng ta ngày này qua ngày khác đã tạo cho chúng ta các hành vi, ứng xử phân biệt. Hay khi dùng thuật ngữ: Akhar Cham klak - Chữ Chăm cổ thay vì Akhar thrah - chữ truyền thống để chỉ thứ chữ đang được dạy cho con em học thì vô hình chung đặt nó ở phía đối trọng với chữ Chăm mới - mà mới chắc chắn tiến bộ hơn rồi - mặc dù chúng ta không bao giờ muốn vậy. Hoặc khi cứ lải nhải mãi Chăm mất đoàn kết, Chăm đố kị là chúng ta đang tự ám thị mình và rồi sẽ như thế thật.
Nhưng có thực sự Chăm mất đoàn kết hay đố kị?
*
Mặc cảm Ywơn/Cham bao giờ vẫn có. Cũng hành vi, thái độ đó, lời nói đó… nếu là Chăm với nhau thì không ai đoái tới cả. Nhưng nếu Kinh thì vấn đề dân tộc được đặt ra và làm rùm beng lên. Cả mình cũng thế, mặc dù trên phương diện cá nhân mình không bao giờ để bị mặc cảm này chi phối – nó quá nhỏ bé với mình. Tình tự dân tộc, ai có thể vượt qua?
Người ta có thể từ chối nó, cho nó là không có, giả vờ tự lường gạt, nhưng đó là cái có thật, dù phi nhân bản.
Trong hôn nhân dị chủng, phần thiệt luôn thuộc phía kẻ yếu. Kẻ yếu bị mặc cảm dày vò: khi đối tượng to tiếng, khi đứa con bất trị, khi cha mẹ vợ (hay chồng) có thái độ hất hủi thường tình và muôn ngàn hệ hụy khác. Chăm nào hoàn cảnh đó đã vượt qua?
*
Người Khmer được đẩy vào chùa Phật giáo ngay từ bé rèn luyện cho đến lúc trưởng thành. Tại đây, có hai lối đi chọn lựa: hoặc trở thành thầy tu chuyên nghiệp hoặc tự tin đi vào đời, dựng nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái.
Chăm cổ điển thì ngược lại, ông bị ném thẳng vào trường đời để ngụp lặn, tôi luyện trong nó. Rồi ở tuổi đứng bóng mặt trời, khi đã có cơ nghiệp vững chãi, ông cũng có hai con đường để chọn lựa: hoặc ông chìm nghỉm trong nó hoặc ông bứt ra khỏi nó, để đi trên con đường trầm tưởng của riêng ông.
Như vậy, nếu lề lối Khmer có lợi cho tổ chức xã hội, khuôn phép nhân quần thì con đường Champa khai mở sáng tạo thi ca, phát kiến suy tưởng.
Trắng tay và trắng hồn, ông đi vào đời với bàn chân mới lạ và cái nhìn tinh khôi. Cuộc đời với ông đầy bất trắc nhưng huyền nhiệm. Nó có thể đè bẹp thân ông hoặc đập vỡ tim ông để tâm hồn ông bật lên tiếng hát đau thương linh thánh. Rồi khi ông đã thấm đẫm nỗi đời, đã vượt qua được dòng sông cuồn cuộn đau khổ của cuộc đời, lòng ông đã lắng, nhìn trở lại con sông, ông suy nghiệm cuộc đời.
Con mắt cuộc đời sâu thẳm nhìn ông: con mắt hà khắc đầy trìu mến yêu thương. Cuộc đời với ông là Một. Một duy nhất, hiểm nguy, bỏng cháy và lôi cuốn.
*
Có một trò chơi thanh thoát phiêu lãng hơn cả trò chơi trẻ con, đồng thời nghiêm trọng bức bách mươi lần công tác người lớn. Không những chỉ ngu xuẩn và hèn nhát, mà ngay cả yếu đuối bạc nhược cũng phải chịu trách nhiệm trước trốn chạy của con người trước bước đạp tới của định mệnh trước ngưỡng cửa hiện sinh - một trốn chạy tước mất của con người chốn lưu trú đầy bất trắc đồng thời cao cả và mầu nhiệm.
Con người không phải đến trần gian này để đùa chơi - đùa chơi như niềm ngây thơ vô lự. Con người đến trần gian để tẩm nhiễm khói bụi của trần gian, thụ độc bằng cú sốc của cảm giác và tư tưởng, vươn dậy và té ngã của hy vọng và hoài vọng, chất đầy gánh nặng mặt đất và trườn lướt qua nỗi nhọc nhằn của ngày tháng.
Không phải để thành tựu cái gì cả mà là để được vươn lên và vượt qua mãi mãi. Đó là ý nghĩa của ra đi và trở về, của ôm ghì níu giữ và lên đường ly biệt, của sống và chết. Nó làm nên ý nghĩa hiện sinh con người - chính định mệnh của nó: Một trò chơi. Con đường.
*
Thật hiếm hoi con người tuổi trẻ hôm nay chịu nghe trong im lặng hơn là ba hoa ồn ào. Càng hiếm hoi hơn nữa con người tuổi trẻ của ngày hôm nay chịu suy tư trong cô độc hơn là thích làm nổi bật mình nơi đám đông.
Nếu có con người tuổi trẻ như thế, chắc chắn không phải là quái thai của tuổi trẻ mà là tuổi trẻ cư trú trong chiều kích sâu thẳm hơn.
Các ý tưởng được ghi từ những đêm cô độc hắn đi đi lại lại hầu như vô tận trên căn gác xép, là việc làm trung thành nhất trong tất cả việc trung thành ghi trong chương trình làm việc được hắn viết bằng nét chữ đầy tính mỹ thuật treo cẩn trọng trước bàn viết, bên cạnh việc nuôi vợ con đâu vào đấy, rất đâu vào đấy, không chê vào đâu được.
Cứ thế, hồ sơ bệnh án dày lên dưới tay ông Malâm, để khi xong người cuối cùng của dân Chakleng thì chúng được chất đầy tủ lớn choán cả góc Nhà truyền thống. Sau đó chẳng ai quan tâm đến chúng mãi khi bộ đội tràn vào Ninh Thuận sáng 16-4-1975 tất cả công sức của con người nhiệt tình này đã biến thành tro bụi. Nhìn công trình đồ sộ kia, vài bệnh nhân xưa của ông đồ rằng ông còn điên hơn cả những kẻ điên nhất làng nữa – một đại bệnh nhân chính hiệu không sai!
Vụ dịch điên ở Chakleng tiệt nọc hơn ba mươi năm mầm nó mới có cơ hội tái phát qua hiện tượng các cô choai choai bỗng chốc tuần tự bị ma ám từ hành vi đến phát ngôn kì quặc như khi không ngã lăn sùi bọt mép phải giở ngói réo ơi hỡi mới tỉnh lại hoặc giữa trưa nắng tháng Tư kéo nhau chơi mấy điệu múa cổ đã thất truyền đâu từ thế kỉ XVII. Năm, sáu đứa liên tù tì. Bác sĩ Phanrang về khám lâm sàng chẳng thấy gì lạ, bộ thần kinh vẫn cứ cấp tiêu chuẩn quốc tế. Giữa ban mặt ban ngày, ma quỷ thách thức kiến thức khoa học cả chục bác sĩ trong plây. Thế là thậm thụt rủ nhau qua Văn Lâm, Palau tị nạn. Lạ! Bước chân khỏi làng là tịt. Ai đời giữa kỉ nguyên vi
tính ma quỷ lại rắp tâm sanh sự. Tin đồn từ đâu cứ lan ra: Ong Paxa Muk Cakling hành để cảnh báo người Chakleng đang mở ngõ tâm linh cho tôn giáo lạ nhập cư. Rồi thật bất ngờ, vị Cả sư với lễ vật ba trứng gà một xị rượu đại diện Họ Anak, mở cửa Kut làm lễ chuộc tội. Con cháu lục tục trở về bình an vô sự. Hú vía!
Câu chuyện về ông Malâm và nạn dịch điên sẽ kết thúc có hậu nếu vào năm 1985 Chakleng đã không nẩy nòi cuộc cách mạng đệ nhị kì mà dân ở đây mệnh danh là cuộc cách mạng hạ tầng do ông khởi xướng. Đối trọng với nó là cuộc cách mạng trung tầng do Mưlan phát động mười năm sau đó đã tạo một bước ngoặt nữa, dứt điểm phải lôi cánh đàn ông con trai vào làm việc dù nhỏ vụn đến đâu chăng nữa lao động là vinh quang mơ màng là chết đói hay nói thì ở tù lù đù mới vô đại học. Nhưng chúng ta hãy cho vào ngoặc cuộc này cho các chương tới của tiểu thuyết.
Định kì mười năm, tại đất lắm sự này bùng lên cuộc thay đổi lớn sẵn sàng đưa dân Chakleng sa vào những cơn lốc bất ngờ, bấp bênh không thần yang nào níu lại nổi. Cei Halim Mưh 8* báo mộng sắp tới xảy ra một cuộc nữa mà kẻ nắm ngọn cờ đầu lúc này mới còn là thằng nhóc mặc xà lỏn. Thế nên vài kẻ tinh ý thấy cu cậu hiện ngồi ghế trường trung học cơ sở rục rịch vắt óc tìm món nào cu cũ để làm cuộc cách mạng cho đáng đồng tiền bát gạo.
8 Cei Halim Mưh: người có khả năng đoán biết quá khứ, tương lai. Trở lại với câu chuyện của chúng ta.
Trong khi lập hồ sơ bệnh án, Ông Malâm bất ngờ phát hiện thêm thứ bệnh lạ lẫm dẫu không làm sứt mẻ ai nhưng lậm đời nối đời và đã mãn tính – loại bệnh y học rất lúng túng đặt tên. Với tám mươi mẫu ruộng trên hai nghìn khẩu nhưng dân ở đây sau vụ gieo, vội vã lùa trâu bán đứng cho trời nuôi trên rừng, rồi sau khi gặt chở bó lúa về cứ chất bỏ đó cả tháng đá banh, tán dóc đã đời mới vào rừng tìm trâu về đạp ra hạt. Ngoài ra không làm gì cả. Gánh hàng rong, làm rau muống, thả lưới cá bán ư? Hãy để mấy thứ lẻ tẻ đó cho ba Tàu với Ywơn lo. Cả làng có bốn quán tạp hóa nhưng là của người Hoa. Hớt tóc ư, đám con trai phải đạp xe hơn cây số lên Phú Quý, rủi xe có xì bánh thì chịu dắt bộ chứ đừng hòng tìm thấy thợ vá bánh là Chăm tại quê. Thợ rèn, thợ hồ, thợ đập đá, bà bán mắm, chị bán bong bóng cho trẻ con… tất tần tật là người đàng quê phương
nào lưu lạc tới và luôn được người làng nhìn bằng con mắt cha nội trên ngó xuống.
Thế là, cách không chính thức, ông phát động cách mạng với tuyên ngôn:
Hãy bắt đầu từ bạc lẻ!
Đến lúc này dân Chakleng cười thẳng vào mũi ông chẳng kiêng dè gì nữa. Họ rung đùi tiên đoán đó là cuộc cách mạng xì hơi sớm nhất trong mọi cuộc cách mạng tại đất nghìn năm này. Nhưng Ông Malâm đâu phải tay vừa: chưa đầy nửa tháng sau người ta thấy nàng Hathaw kiêu sa là thế, ngồi ngay giữa chợ đằng sau giỏ cà xế rau muống to đùng, chả ăn khớp chút nào với nụ cười man dại lãng đãng của chị cả. Hãy cho tôi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn thế giới – ông bảo chính Lênin nói thế. Mà gia đình ông cũng đủ làm nên tổ chức ra trò.
Anh cả thôi học: đứng tiệm hớt tóc; thằng nhỏ nhất một buổi nghỉ: bán cà rem; cô gái lớn: giúp mẹ bó rau; cô Sáu lanh lẹ hơn: phụ trách rổ tạp phẩm gồm đủ kim, chỉ, trâm, lông não… Nghĩa là ông quyết dàn quân khắp mặt trận. Phần ông nối thêm chái, thu thập cả đống nguyên vật liệu cho công cuộc sản xuất hàng loạt trống Ginang, Baranưng. Căn bệnh dân Chakleng vẫn chưa chịu thuyên giảm sau thành công mấy năm đầu của ông: họ vẫn chưa thôi cười giiễu con người nhập cư tàng tàng này. Tiếc rằng các vị cười to hơn cả đã không sống dai để thấy tận mắt mười năm sau khi trong kí ức mọi người hình ảnh ban đầu về cuộc cách mạng bạc lẻ đã mờ nhạt, người phụ nữ danh giá nhất làng biết sản xuất kem bán sỉ và một kĩ sư nổi tiếng không kém cũng vừa mở ngay đầu làng quán cà phê đủ khả năng cạnh tranh cái mã với bất kì quán nào dưới thị xã Phanrang. Còn mấy chục bộ trống xuất chái ông đã bay đi khắp mọi miền đất nước trong đó không ít bộ đứng chễm chệ trong viện bảo tàng sang trọng bậc nhất tận Pháp, Nhật.
4
GIÓ CỨ THỔI QUA ĐỒI TRỌC
Gió cứ thổi qua đồi trọc, ngọn đồi không còn cành cây cọng cỏ nằm phơi xương dưới nắng Phanrang phải chịu thêm ba tháng gió Xalatan miệt mài thổi quyết làm chai lì lớp da vốn đã chai lì của những đồi chết ở phía đông nam làng trong đó ngọn duy nhất nơi có rẫy bắp nhà Saman với cái chòi chỏng chơ được bao bọc bởi mấy khóm trâm bầu cái là còn mang vẻ sống động.
Tôi không có ý làm văn chương tả cảnh, thứ văn sau thành tựu oanh liệt của Tự Lực văn đoàn ít có nhà nào đầu tư thêm, nhất là trong thời buổi tốc độ này. Dù từ chòi này, người ta có thể nhìn lên núi Chàbang lởm chởm đá trắng chất chồng hay quay lại phóng tầm mắt ra phía sau cả trăm mẫu ruộng khô trắng như muốn đe nạt đè bẹp năm sinh thể nhỏ bé đang chụm đầu quanh mâm khô thỏ rừng với mấy két bia, thật đáng để ghi nhận.
Đây là chòi lừng tiếng trong vùng, không phải bởi mình nó dám chống chọi gió Xalatan cuồng nộ suốt mười năm ròng mà bởi hai năm sau bị chính chủ nhân của nó là anh giáo dạy văn cấp II thất bại qua một trận ra quân đánh lớn cuồng nộ nổi lửa đốt trụi.
Văn Khâm đang đọc tờ Công an Thành phố, chốc chốc liếc sang bàn điện thoại: Thak vẫn chưa gọi tới. Sân bay báo đúng mười hai giờ trưa chuyến bay từ Mỹ quá cảnh Osaka đáp sân bay Tân Sơn Nhất. Dù thủ tục nhập cảnh của ta rườm rà tới đâu cũng không hơn ba tiếng đồng hồ được. Đã ba rưỡi, Hà Vân bốn lần hỏi thăm nhưng lúc nào anh cũng trả lời: chưa em ạ. Ba hôm trước, thằng bạn từ Mỹ điện báo cho anh biết dứt khoát ghé anh rồi thuê xe mười hai chỗ ngồi cùng ra Phanrang. Gia đình Thak từ quê vào đón chẳng thấy đâu tăm hơi. Hay Thak, sau mười năm xa quê hương, tranh thủ dạo thành phố đổi mới. Có tiếng gõ cửa: Hà Vân. Cô gái Kinh mê
ngôn ngữ Chăm này qua thực tập khi anh lỡ nhận kèm nàng trong cơn ngẫu hứng tại quán bia hơi đường Hai Bà Trưng. Anh cho nàng cạc vizit (lúc này ở ta đang có dịch in cạc vizit). Hôm sau nàng đến. Mang tiếng trí thức Chăm một chữ K đeo lỗ tai không biết: phiền là chỗ đó. Nhưng làm sao có thể chối từ phụ nữ Ywơn mơn mởn hãy còn phòng không này trong khi bà vợ Chăm với ba nhóc ở Krong đã không đoái hoài gì đến anh nữa. Từ ba năm nay. Thế là anh vận dụng kế hoãn binh thứ Bảy sau em lại nhé, anh công tác một tuần về ngay thôi. Tin anh đi. Anh nắm lấy tay nàng thật chặt và lắc lắc: bàn tay mát rười rượi, mèng ơi!
Thế là anh lao sang tôi lúc đó ở khu chung cư Thanh Đa. Tôi ngạc nhiên đến lên tăng-xông trước nhiệt tình quá đáng với tiến bộ nuốt thời gian của anh. Phải học thôi chú nó ạ. Chăm không biết tiếng - chữ Chăm là đồ bỏ đi. Sau này Hà Vân ghé tôi kể nguyên động lực phấn đấu của anh, chúng tôi được một bữa cười rất dễ xa nhau. Vậy đó, thân phận tiếng Chăm tùy thuộc nhiều yếu tố, hoàn cảnh kì lạ trong đó có không ít cái dở mếu dở cười.
Hôm nay nàng cùng anh về quê. Nàng nói nàng đang không việc gì và cần thâm nhập thực tế. Văn Khâm ngồi xích qua bên nhường phần ghế lành cho Hà Vân. Anh đã trao đổi với cửa hiệu bán trả góp cả tuần rồi mà mãi hôm nay họ chưa cho chở bộ bàn ghế mới sang. Ẹ thật!
– Đợi chút nữa em, chắc trục trặc gì đó.
Chuông điện thoại réo. Anh chồm tới chộp lấy ống nghe. Thằng bạn quý với bầy đàn thê tử đã về đến Phan Thiết báo anh biết ông lên xe đò tối nay để mai gặp nhé! Anh tái mặt. Anh không nghĩ Thak tiếc anh chỗ ngồi. Có vấn đề gì đó không ổn. Hắn báo đích xác ngày giờ hắn về đến Sài Gòn, cả ngày giờ lên rẫy Saman nhóm bạn – chỉ ba bạn cũ với nhau cùng đứa lo món nhấp. Đằng này, ví anh giận không đến thì có nhỡ việc rồi sứt mẻ không. Thằng này mãi chưa chừa tật quyết định tréo ngoe, bất tử mà lí thì luôn về hắn.
– Ảnh về chung với gia đình rồi. Anh thở ra một hơi dài, một lát: Chờ anh xíu nhé.
Anh chạy qua nhà ông tổ phó khu phố rồi quay lại bấm số máy Công ty du lịch thành phố.
Gió Xalatan thổi mang từng ánh sóng nắng hất vào đồi tràn qua chòi Saman nấp mình sau vài khóm chùm bầu cái mà lối đi lên anh đã thuộc nằm lòng. Văn Khâm sải bước đi tới, chốc chốc dừng lại chờ Hà Vân để nắm tay nàng kéo lên đoạn dốc. Thak không vồn vã với anh như thường lệ. Và khi ngó sang Hà Vân, hắn cười méo xệch, mặt đỏ như đít ếch.
– Em chào các anh. Hà Vân nói.
– Một nữ phó tiến sĩ ngôn ngữ Chăm và là giảng viên đại học sáng giá. Anh giới thiệu. Khi theo Thak ra sau chòi anh nghe Quân nói to cô nàng có vẻ khoái chàng ra mặt, không biết ông kĩ sư nhà ta đã đè được chưa, anh liền nói to hơn Hà Vân giỏi tiếng Chăm còn hơn tụi mình nữa các vị ơi, đừng hòng nói xấu cô giáo tui đấy nhé. Và cười to.
– Em cũng rất muốn được ông kĩ sư đè lắm nhưng cuộc thi công cũng chưa tới đâu. Nàng nói khi vừa thấy Văn Khâm và Thak quay lại. Mọi người cùng cười. Không khí thân mật hơn.
– Thôi ngồi vào bàn đi các bác. Saman nói. Mời chị… – Chị với má gì, em tuốt, Văn Khâm nói. Lưu lại đồi gió quét này các vị cứ 333 với Mạc-râu thoải mái do Chăm kiều đãi. Hoan hô những Chăm kiều! Hoan hô Chăm kiều Đàng John Thak. Dẫu tương tư đôla tới đâu vẫn luôn nhớ tìm về quê hương, bằng hữu. Tình quê hương và bằng hữu bất diệt muôn năm!
Tất cả cùng cười to. Và Chăm khi vào bàn thì đâu kể trời trăng gì nữa. Nhất là có thêm phụ nữ lại là phụ nữ Kinh tố chất muôn đời kích thích đàn ông Chăm lao tới và lao tới. Dù như anh bạn nhỏ con của tôi nói cả về phương diện lịch đại và đồng (đương) đại, phụ nữ Kinh luôn là mối kinh hoàng cho Chăm qua kinh nghiệm xương da song chúng ta trót mang máu Po Rome rồi. Lên Tây Nguyên, qua Lào, xuống Mã Lai hay lang bạt khắp vùng miền đất nước, chúng ta không quên vãi gieo hạt giống đầy hào phóng. Không nói đất Quảng xa xưa mà gốc rễ chúng ta đâm chồi đến mười mấy thế kỉ, không kể vùng đất Sở ở ngoại thành Hà Nội ngày nay mà các tù nhân (toàn các nghệ nhân kiệt xuất) từ thời nhà Trần, Lý lưu lại lấy vợ sinh con đẻ cháu, ngay xứ Sàigòn mới mẻ kia thôi, hạt giống và dòng máu chúng ta bàng bạc.
Mười lăm năm lang thang hay đóng đô các tỉnh phía Nam luôn cho tôi những bất ngờ không tưởng: cô sinh viên chào hàng bia Foster's trong một quán ăn đã nhận gốc Chăm chính hiệu từ Bình Định với giấy chứng minh khai họ Chế dân tộc Chăm; ông già chài lưới tận Cà Mau lao tới ôm chầm lấy tôi khi biết tôi Chăm Panduranga thuần chủng (?); nhà sử học khuôn mặt bầu bĩnh trắng như Tàu tự nhận cháu bốn đời của Chăm; một gia đình ở Long Khánh khai sinh dân tộc Kinh nhưng lại treo Ciet ngay giữa xà nhà thay vì bàn thờ tổ tiên. Và khi người ta đồn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hay thi sĩ Thanh Thảo mang ít nhiều dòng máu Chăm thì ai dám nói đó chỉ là tin đồn nhảm thất thiệt gây hoang mang?
Thế đấy! Hạt giống chúng ta ban phát khắp trời Đông, hôm nay tiếp tục xuất sang trời Tây tận Âu Mỹ gieo cấy. Nên khi Thak than rằng Chăm kiều ta quá ít không tạo nổi một cộng đồng, đã thế Islam đang lôi kéo Chăm Bàni còn Tin Lành thao túng Chăm Bà-la-môn thì đích thị quê hương tan rã rồi thì Saman bảo cha Haman chớ to cái lo và tuyên bố Cộng đồng Chăm ngày mai không đóng khung bởi đất và nước, không cần khai sinh dân tộc Chăm mà là cái gì vĩ đại hơn, nhân loại hơn. Tôi muốn chính danh: Cộng đồng mở. Nó chỉ chịu thu nhận công dân tự nguyện. Sự liên lạc, sinh hoạt và tình yêu cộng đồng đều vun đắp qua hơi thở trên mạng internet.
– Một sáng kiến vĩ đại vừa khai sinh! Dzô trăm phần trăm để chúc mừng đi. Văn Khâm kêu lên.
– Em sẽ là người đầu tiên làm đơn gia nhập Cộng đồng đó. Hà vân nói.
– Thôi! Tui van quý ông đừng đùa nữa. Ngoài kia đã vậy, trong này chẳng khá hơn. Chiều qua nghe Quân kể tình hình Chăm nội địa mình muốn thúi ruột đây.
– Không đùa đâu. Một ý tưởng đại nghiêm túc đấy.
– Nhưng cho đến khi ý tưởng vĩ mô đại nghiêm túc đó được mang ra thực thi, từ nay chúng ta phải làm gì? Trong khi cả nhân loại đang lao về phía trước bằng những sải bước dài.
– Ngài Chăm kiều đừng lo, quả đất tròn chúng ta cứ thư thả, ngoái lại chắc sẽ thấy họ lọt tọt đằng sau thôi.
– Lại cãi nhau nữa rồi. Mười nhân ba trăm sáu mươi lăm ngày của tháng năm cưỡi lên đầu rồi mà chưa chịu chừa cái tật. Dzô đi!
Vui vẻ đi! Văn Khâm nâng cốc.
– Ờ, sung sướng đi. Saman đồng tình. Đừng dại lây bệnh lo xã hội của dân Chakleng đến nửa làng đi soạn từ điển còn nửa kia nghiên cứu lịch để không mống nào chịu giở nó lên xem cả. Hãy quên quá khứ đi, tất cả cho ngày hôm nay. Quên xã hội đi và hãy lo cho mình thôi! Bởi thế giới chỉ tốt đẹp và trong sạch khi cuộc sống của bản thân chúng ta tốt đẹp và trong sạch. Vivekananda, đại sư Bà-la-môn đấy!
– Dẹp mấy thứ tôn giáo ngu dân kia đi. Thực tế, thực tế và thực tế. Thak hét lên, gõ cộc cộc li lên mặt bàn thô bằng gỗ gụ. – Đừng nóng, đừng nóng. Mình rót đầy cho ngài đây. Văn Khâm nói kéo dài giọng, rót bia. Quay sang Quân:
– Cho thêm đá đi em. Đưa cho Thak: cha Haman cầm lên đi. Thak cầm lên rồi lại để ngay xuống. Ừ, thì thông cảm chú nó về vụ ngăn múi cách giờ. Và để thay đổi bầu không khí …
– Tôi xin trình bày hầu quí vị vài bài … chứ gì. Thak nhại giọng nhạc sĩ Amư Nhân.
– Không, một bài thơ của ông bạn ở Sàigòn, rất ứng hoàn cảnh chúng ta hôm xưa và hôm nay.
KHUÔN MẶT
Ba khuôn mặt như mùa xuân tạc
Mùa xuân ấy xa xôi
Rồi đi - cuốn dòng đời.
Mười năm
Mặt chảy màu bơ mật
Mặt cháy mùi than
Mặt ủ mầm ẩm mốc.
Khuôn mặt nào
Còn đọng chút trời xuân?
– Anh cũng thích thơ à?
– Em làm như anh chỉ biết mê mấy con vít với bù loong. Nên nhớ mỗi Chăm là một nghệ sĩ chưa ló dạng.
– Thi hóa rất ngon lành tư tưởng Vivekananda. Thế giới và cả bản thân chúng ta biến động. Saman này lên rẫy mặt cháy mùi than, anh kĩ sư Văn Khâm suốt ngày ru rú với bàn giấy mặt ủ mầm ẩm
mốc, còn ngài Chăm kiều Đàng John Thak mặt chảy màu bơ mật, ai còn giữ được trong tâm hồn chút nắng xuân, ít mây trời tuổi trẻ? – Mình không ưa thơ. Mình cũng chả ưa gì thơ của tay man mát này.
– Đúng. Sống ở Mỹ mười năm mà ông vẫn bảo tồn được dân tộc tính là rất quý: Chăm có bao giờ ưa nhau đâu!
– Ông đừng chuyện nọ xỏ chuyện kia. Thơ mà giải quyết được quái gì. Thak giận dữ rất kịch. Hắn nói như cãi nhau một nửa thanh niên Thành Tín trôi vào Đồng Nai tìm việc, một phần tư phụ nữ Hữu Đức lên Cao Nguyên đi Cru 9*; dân Hiếu Lễ bỏ trống làng lên Raglai hái bông mướn; hàng ngàn thiếu nữ Chăm kéo nhau vào đạo chỉ với mục đích có nơi nương thân mà học việc… Với cả ngàn vấn đề lớn nhỏ khác nữa. Hỏi chứ tay nhà thơ kia trả lời sao đây?
9 Cru: người Churu. Đi Cru: đi buôn Thượng.
Hắn nói mười năm đổi mới GDP Chăm nhích lên tới đâu, xã hội Chăm nhích lên tới đâu, hay chỉ lẹt đẹt sinh đẻ có kế hoạch: một phó tiến sĩ, một nhạc sĩ, một họa sĩ, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu, một đại biểu quốc hội, một vân vân và vân vân.
– Và Chăm kiều cũng mới đẻ một tiến sĩ, với một tế bào … giống Chakleng. Saman cười to. Tiếng cười dễ khiến mọi ứng viên nghẽn mạch, và làm cho cơn mỉa mai đang ngon trớn của John Thak cụt hứng. Dù sau đó Thak cố gượng gỡ gạc bằng đối sánh (kèm theo nét mặt đưa đám đầy tâm trạng) cái khổ của bà mẹ Chăm cơ cực đủ điều để làm ra đồng tiền hạt gạo trong khi đám con trai cứ phây phây tập tành thuốc Jet gói bằng ba cân gạo, bia năm mươi chai bằng nửa buổi em gái chúng chổng mông nhổ cỏ ngoài nắng, đến khi Saman bảo thằng bạn mình ở Bà Láp nói uống bia mấy ông không bao giờ được ngon miệng thật chí phải thì John Thak mới thật sự tắt tị.
– Quân mầy xuống làng bảo chị giở cơm với mang bình rượu gạo lên đây. Hắn lạng quạng đứng dậy.
Hà Vân uể oải đứng lên.
– Em đi dạo đồi trăng một vòng chị nhé. Mân đang dọn chén dĩa phía sau chòi không thấy trả lời.
– Dùng trà đã chứ phó tiến sĩ gái. Saman nói.
– Để quý ông còn vào hiệp hai. Cho em xin một ly.
Trăng mười hai sáng, chưa bao giờ nàng thấy sáng hơn thế, chiếu sáng cả một khoảng rừng thưa rộng lớn. Và sao chi chít nền trời trong vắt. Gió bớt thổi. Hà Vân tìm đến tảng đá to khá cao khuất với tầm nhìn từ chòi. Có lẽ chủ nhân rẫy hay lên đây: mặt đá mòn và phẳng như có sự gia công không cố ý của con người (vài thế hệ con người) vừa ưu tư vừa mơ mộng. Vào những ngày như ngày này, giờ này, ngồi nơi đây con người Chăm nghĩ gì khi đối diện với khoảng sáng bao la của bầu trời kia, nỗi trơ lì khô khốc gần như vô cảm của đồi kia hay cái hanh hao lởm chởm của vài mảnh rẫy đói mưa kia? Các vùng sắc tộc thiểu số, nàng đã đi nhiều. Cấu trúc văn hóa hay phong thổ khiến các dân tộc như Raglai, Êđê, Bana… ít có khuynh hướng suy tư, trầm mặc. Chăm hầu như ngược lại. Lối trèo lên và bề mặt tảng đá trĩu nặng bao dày vò suy tư và cả nỗi mộng mơ bay bổng chốc lát. Nàng bỗng nhớ đôi giày Van Gogh. Hồi chiều, trả lời câu hỏi của anh Chăm kiều lấp ló học đòi thực dụng Mỹ lúc này ông đang làm gì, Saman bảo hè mình lên rẫy.
– Lên rẫy thôi à? – Ừa – Không làm gì cả cũng lên? – Đâu cần phải làm gì mới lên.
Anh Chăm kiều kia đã không hiểu bạn mình, nhưng Hà Vân hiểu.
Giáo sư Trần Hùng bảo Chăm mang tinh thần ẩn cư. Hơn mười sáu thế kỉ tồn tại, những con người xuất sắc nhất Champa sau thất bại trong đấu tranh giành quyền lực, luôn đi vào rừng. Họ một đi không trở lại, không ngoảnh trở lại. Chúng ta giấu mình là chờ vị minh quân xuất hiện, biết đến mà vời, giấu mình để chờ thời. Dù chán giận thế thái nhân tình đến mấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng ngoảnh lại xã hội bằng ý kiến thức thời đến vua chúa. Đừng mong tìm thấy mẫu người như Nguyễn Công Trứ trong lịch sử Champa, ngay như tinh thần một Nguyễn Trãi cũng không nốt. Dù mỗi người đàn ông Chăm (ít ra là các thế hệ trước 75) luôn mơ một Cộng đồng Chăm thống nhất và nhất quán và chặt chẽ và đầy tính văn hóa với không mãi canh chừng nhau, xấu tâm nóng mắt hay nói lén nói chùng mà yêu thương đùm bọc và không bị mất mát gì nữa. Mơ mộng và mơ tưởng, ở thực tế họ muôn năm có phản ứng hỏng chân. Saman mơ đến một thứ Cộng đồng trên mạng (Văn Khâm đùa là mạng nhện), Thak hùng hổ thế nhưng vẫn là thứ lo hão và hỏng chân có hạng trong các thứ hỏng chân, Văn Khâm hoàn toàn tự
nguyện chìm. Không thể bảo anh hời hợt. Hà Vân nghiệm rằng đôi mắt buồn hiếm khi đi cặp tâm hồn nông cạn. Anh bị tinh thần văn hóa ẩn cư Chăm khuôn định. Anh muốn ẩn mình trong thành phố Sài Gòn hoa lệ, đắm vào cặp mắt của phụ nữ thành thị sắc ngọt hay men bia hơi đắng chát khi bất lực với chương trình ở quê. Đỏ con mắt cũng không tìm thấy tinh thần quật khởi trong thanh niên Chăm. Bước khỏi cổng Đại học, anh phác trong đầu (chỉ trong đầu thôi, chứ chưa xuống trang giấy) cơ man chương trình ngắn và dài hạn với chỉ có rộng mở và xán lạn. Nhưng rồi khi nhắm mắt lao vào cửa hôn nhân hôm trước, hôm sau anh bị dội lại như là tông vào bức tường vô hình rắn quá đá. Chúng rối rắm rậm rịt đến không gỡ ra được, dù thiện chí của anh lẫn bà xã có học. Nàng cũng đang mắc tóc và bám cẳng anh để cả hai cùng níu nhau chết chùm. Cho đến khi nỗi chán nản triền miên biến anh thành loài sứa trơn trợt: anh thoát lọt ra khỏi lưới. Anh thấy mình không còn trong cộng đồng nữa, không là người của cộng đồng nữa. Anh nghe mình cô độc, anh hốt hoảng và muốn khóc (có thể mấy lần anh khóc). Rồi anh giạt xứ mà đi, biệt vô âm tín. Anh giấu mặt và giấu mặt khi gặp Chăm, thấy Chăm – dù anh rất đau khổ, dằn vặt. Có mặt người Kinh, Mông anh nói tiếng Việt với kẻ đồng tộc tội nghiệp, mắt lấm lét như phạm nhân. Có vai vế trong cơ quan, in cạc vizit anh thay họ Đàng, họ Hán… thành Đặng, Hàn hoặc anh chùi tịt nó đi chỉ giữ lại mỗi cái lót: Văn (như thể họ xa với Văn Cao vĩ đại). Thi thoảng ai đó vô ý đụng chạm Chăm, anh nổi cơn tự ái dân tộc muốn xông tới đập vào mặt thằng chó đẻ mặc nó ra sao thì ra, nhưng rồi anh dằn lại được, cười lãng bằng cái miệng rộng như mếu.
Cho đến khi anh gặp Hà Vân.
Nàng mở mắt anh nhìn trở lại chứng minh thư ban đầu của mình – Họ và tên: Đàng Văn Khâm; dân tộc: Chăm ; cha: Đàng Lói; mẹ: Thị Hao. Dù nước da anh trăng trắng (trắng như Kinh) nhưng mái tóc gợn sóng này, lông mày rậm với cái miệng rộng này, nhất là mắt buồn buồn này thì không thể chối Chăm được rồi.
Nàng thấy thương anh, như chị thương em gái ấy, ngủ ngoan akay ơi akay hỡi. Cả người phụ nữ Chăm vợ anh với mấy nhóc đang bị bỏ lại ở Krong. Nàng đã lén anh ra thăm họ vào tháng trước: lam lũ, cơ khổ và chịu đựng.
Lúc này anh đang đi tới với nàng, dáng thịt thà lù lù dưới ánh trăng. Nàng leo xuống.
– Bọn họ lệnh cho anh đi tìm em. Văn Khâm nói, áp sát vào nàng. Nàng nghe lồng ngực mình nóng bừng. Đột ngột anh ôm lấy nàng, cúi xuống tìm môi nàng. Hà Vân đứng lặng không nhúc nhích. Đến khi lưỡi anh quét qua môi nàng thì nàng xô mạnh anh ra: nồng nặc mùi rượu. Nàng bỗng nhớ cái lưỡi trắng nhợt của ngài giáo sư Trần Hùng năm xưa. Anh không tuân theo ý nàng nữa, đẩy nàng tới, ép nàng vào vách đá.
– Anh! Nàng la lên và vùng ra khỏi vòng ôm của anh. Nàng thấy anh mất thăng bằng qua cú đẩy dứt khoát, ngã lăn trên mô đất. – Anh xin lỗi em.
– Không, trời ơi, anh! Nàng dấn tới đỡ anh ngồi dậy. – Mình vào đi em. Văn Khâm cúi xuống phủi bụi.
– Anh đến với họ trước đi, xíu nữa em sang.
Hà Vân nhìn theo cho tới bóng anh lủi thủi khuất sau lùm cây, leo lên tảng đá trở lại. Nàng không muốn cho người phụ nữ Chăm kia đau khổ thêm. Thế nào rồi anh cũng trở về với họ, sớm chừng nào hay chừng nấy. Anh đang ở tuổi đứng bóng mặt trời (cả nàng cũng thế). Sẽ xế chiều nay mai. Nàng muốn anh cống hiến sức lực còn lại cho gia đình. Chứ không đợi lúc tàn chiều mới lê thân rách bươm cho con cái nuôi rồi còn lo chuyện vào Kut. Nàng hiểu phụ nữ Kinh bị dư luận Chăm lên án vắt chanh ông chồng Chăm rồi vứt khi chỉ còn [xác] xơ. Xơ này theo ngọn gió mùa giạt về làng plây không xu dính túi, trí và lực cạn kiệt. Cái án oan cho chị em Kinh không ít. Các đức ông chồng Chăm mang phức cảm tự ti - tự tôn động tí là tự ái, có khi bởi lời nói hay hành vi ôi vu vơ. Càng về chiều tự ái vụn kia càng phồng căng lớn dậy rất dễ xì hơi. Cho đến khi không ai mời mà đến chẳng ai khiến mà đi. Ăn quần ăn áo. Làng xa làng gần với trăm nhân chứng sống lộ thiên như muốn làm nặng thêm bài xã hội học vỡ lòng mà các bạn trẻ không thuộc cứ lao bừa vào.
– Chị Hà Vân ơi!
Mân đang đứng trên mô đất cao ngó quanh. Hà Vân im lặng quan sát: người phụ nữ kia mặn mà biết bao, đẹp huyền ảo dưới ánh trăng rừng, dù chị sắp sửa bốn mươi, và dù bao nhiêu là nắng gió Phanrang hùa với cái đói khổ kinh niên cố tình vùi dập, đến nỗi
không ai biết chị dân nhà quê Chăm nếu không mang trên mình cái váy (Saman chồng chị bảo bạn mình nói Chăm không có tháp Chàm, chữ viết với cái váy thì đã mất đời nảo đời nao rồi, mình cãi lại hắn chỉ đúng ở hình thức nhưng sai nghiêm trọng ở nội dung: Chăm mất suy tư Chăm là mất ráo). Ví nhan sắc kia được tỉa tót ở thành phố thì nó sẽ ra sao: ánh sáng đèn điện tôn nó lên hay tàn phá và làm biến chất nó; còn mấy cô người mẫu thời trang của hôm nay với kiểu đi ỏng à ỏng ượt kia sống lạc thời Pôn Pốt lùa đi nhổ cỏ, gánh thóc?!
– Chị lên đây với em đi.
Mân ừ, rồi đi vòng sang ngả sau.
– Chị làm gì trên ấy? Làm sao lên kia.
– Chị chưa lên đây bao giờ à?
– Dạ chưa.
Hà Vân đưa tay cho Mân nắm.
– Dưới đó thế nào?
– Quý ông ngủ lăn ra cả rồi.
– Không xuống làng à?
– Dạ, ngủ lại rẫy. Mấy ảnh bảo ba ngày đóng đô lại đồi. Trên này xưa cha em hay ngồi nay lại đến chồng em. Chồng em bảo nhà mình cha truyền con nối có mỗi tảng đá trầm tư. Mân cười phô hai hàng răng trắng, đều.
– Chị đẹp lắm.
– Chị khéo khen.
– Em gặp nhiều phụ nữ Chăm rất đẹp, nàng nói.
- Rồi tàn cũng nhanh.
– Không đâu, chị à. Hà Vân nhớ Hathaw, Mưnga… nơi nàng đi qua, xóm làng Chăm luôn sản sinh những người con gái xinh đẹp làm đóa hoa tô thắm đồng nội. Nhan sắc kia tồn tại có khi bất kể năm tháng trong lúc họ muôn năm lam lũ, còn sức chịu đựng thì gần như vô tận.
– Không biết nhận xét thế này có phải không, em thấy các chị làm việc quá nhiều.
– Để các anh lo chuyện xã hội chị ạ, Muk Thruh Palei dạy thế. – Cả mấy thanh niên trai tráng à?
– Em không rành lắm.
– Em thấy dường như con trai ít khi giúp gia đình trong lúc thành tích học cũng chẳng khá hơn.
Mân không nói.
– Sinh viên Chăm chưa có khuôn mặt nào thật xuất sắc bật lên. Danh sách học bổng Nguyễn Thái Bình bói cũng không ra họ Lâm, Phú, Đàng, Lưu…
Mân ngó trân trân người phụ nữ Kinh nổi tiếng khắp vùng Chăm từng nghe chồng nhắc tên nhiều nhưng mới lần đầu gặp mặt. Chị ngạc nhiên thấy phụ nữ ăn nói thẳng thế, nhận xét sắc thế. Hay đó là cái khôn vượt trội của phụ nữ Ywơn so với Chăm mà Saman hay ca cẩm. Ngạc nhiên hơn khi hôm sau xuống làng, giáo viên trường kể Hà Vân đã đốp chát thẳng thừng với ông anh họ là giáo viên cấp III ở thị xã, khi anh này bảo các nhà nghiên cứu giống loài kên kên đói mồi đâu sà tới xác trâu văn hóa Champa rỉa rúc. Nữ phó tiến sĩ này hỏi tại sao các anh không làm loài kên kên thử lấy nửa lần cho đất nước nhờ? Các anh muốn xác trâu văn hóa Champa thối rữa trơ xương văng lạc tứ tán hay rã mục vào lòng đất ư?
– Tôi biết khối vị phó tiến sĩ sinh hạ qua cuộc tình hữu nghị Việt - Xô. Mang tiếng nghiên cứu văn hóa Chăm mà một chữ dân tộc bẻ đôi không biết.
– Ồ, xin lỗi ngài nhé. Một chữ bẻ đôi là của Việt đấy. Ngài có biết thành ngữ Chăm nào tương cận nó không? Chắc là không rồi, phải chứ! Chỉ một phát ngôn thôi cũng đủ tố cáo khả năng tiếng mẹ đẻ của ngài rồi. Hỏi chứ ngài có biết văn học Chăm nó to hay bé thế nào không? Kiến trúc Chăm nó khổng lồ thế nào không? Hay ngài chỉ quanh quẩn ba cái Po Klaung Girai, Po Rome cùng vốn liếng tiếng mẹ đẻ từ thời còn vịn áo mẹ đi yaung. Hà Vân hoàn toàn đẩy anh họ vào thế bí với câu hỏi điểm huyệt liên tù tì đến khi anh trừng mắt: chị đến đây nghiên cứu hay dạy khôn chúng tôi thì ngay tức thời Hà Vân ra tiếp đòn chí tử: anh không biết chữ Chăm phải không? Nếu thế thì mấy đứa con anh đang học nó trong trường tiểu học kẹt bài hỏi bố thì bố cháu trả lời sao đây? Quý phụ huynh mù chữ này có tự đặt câu hỏi đó với mình chưa?
Người phụ nữ này đã vờn anh giáo thành một loài chuột tội nghiệp. Ai khiến!?
Mấy hôm sau xuống rẫy Mân đem chuyện thời sự nông thôn này kể cho Saman nghe và anh kêu cần phải khen thưởng xứng đáng bác nó bởi thành tích đã dũng cảm đối mặt với một phó tiến sĩ Sài thành mà không ngại phơi trần cái dốt của mình ra cho người thiên hạ chiêm bái!
Câu chuyện nghiêm trọng, thà mất đôi trâu còn hơn hổ mặt không hiểu xuất phát từ đâu đồn ra đến không chữa chạy kịp. Có lẽ nó được xé ra thêm từ một đối thoại ngắn khá văn hóa giữa Hà Vân và anh giáo rành rành có cô Sa làm chứng để trêu chọc bác nhà văn cấp hợp tác xã ưa nói sách này chăng. Bởi sau này về Sàigòn, Hà Vân bảo không hề xảy ra chuyện gay cấn ấy. Nàng chỉ lên lớp tay nghiên cứu sinh Chăm là không thể hiểu sâu văn hóa Champa nếu anh không thông thạo ngôn ngữ cổ của dân tộc tài hoa này, rằng chớ dại mà đạp dấu chân các nhà đi trước gì cũng lớt phớt, cũng tán được và bày cho sinh viên tán được.
Sau đó nàng không gặp lại ba ông người Chăm kia. Văn Khâm lỡ bộ với nàng đành hộ tống xe anh bạn Chăm kiều thăm bà con đang ngóng. Nàng đón xe đò vào Krong, Mân với cô con gái lớn lớp chín đi tiễn. Hình ảnh cuối cùng nàng nhìn thấy qua cửa kính chiếc xe là mấy ngọn đồi trọc trắng trong đó đồi có tảng đá trầm tư nàng vừa bỏ lại. Nó nhỏ, càng bé nhỏ hơn đến nàng cứ lo rằng gió nồm sắp thổi nó bay mất.
*
Trích SỔ GHI của Hà Vân
“Văn Lâm - Ram là plây Chăm Bàni nằm cạnh Quốc lộ 1, cách thị xã Phanrang 10 km về hướng nam. Đây là làng toàn Chăm sống xen cư làng người Việt từ gần hai trăm năm nay. Thời Tây Sơn, Văn Lâm tọa lạc miền duyên hải xa hơn plây hiện tại khoảng 15 km đường chim bay. Nơi đây còn lưu lại một nghĩa trang cổ đến bây giờ người Chăm theo tín ngưỡng này vẫn còn thờ phụng.
Lẽ ra Ramưwan (Ramadan: tháng 9 Hồi lịch thường được xem là Tết Bàni) năm nay trùng Tết Nguyên đán, bởi Âm lịch nhuận nên phải tới ngày mãn chay nghĩa là một tháng sau mới đúng 30 Tết. Đây là sự kiện 36 năm mới lập lại một lần.
Chuẩn bị cho Ramưwan, người Chăm Bàni làm lễ tảo mộ trước ngày chính thức từ hai đến năm ngày, tuỳ nghĩa trang xa hay gần.
Ghur Ram thuộc 4 họ lớn, nằm gỏn lọn trong khoảng rừng thưa, bên là núi Chàbang, bên kia là biển với bãi cát vàng trải dài. Xưa, khu nghĩa trang nằm xích phía biển hơn, cách Sơn Hải làng Việt 800 mét. Khi người Việt qua định cư, dân Văn Lâm dời ghur lên, để giữ sự thiêng liêng cần thiết một chốn như thế này.
(…) Năm hạn nên không có bụi cỏ nào mọc để phải giẫy. Người ta chỉ dọn mấy lớp lá rừng khô và phả lại mặt cát cho bằng. Lễ bái được thực hiện khá nhanh - chưa đầy 15 phút. Cấp Acar 9a* đọc kinh, con cháu quỳ lạy, cầu khấn. Thành kính và lặng lẽ. Nhóm này đứng lên, nhóm khác tiếp. Cứ thế, hơn 50 chi họ 7 làng Chăm Bàni - Ninh Thuận qua lễ. Có làng ở xa đến 30 cây số. Họ đi bằng các phương tiên hiện đại. Không năm nào, không một dòng họ nào bỏ quên ngày trọng đại này.
9aAcar hay Thầy Chan: một chức sắc Cam Awal
Hãy tưởng tượng 50 năm trở về trước, khoảng cách này, người Chăm đã phải băng rừng với chiếc xe trâu hoặc lội bộ, để tìm về nguồn cội. Nghĩ đến lòng thành kính họ dành cho tổ tiên mình, tôi thầm cảm phục sự kiên trì thầm lặng ràng buộc họ với quá khứ bằng sợi dây vô hình nhưng bền chặt.
(…) Buổi chiều, chúng tôi đi xuống Thành Tín. Đây là một làng nghèo. Bên là đồng ruộng, còn lại chỉ rừng thưa với đụn cát trắng không cỏ (nên gọi là Cwah Patih). Cát, nắng và gió. Ngột ngạt và khó thở. Vài cây dừa khẳng khiu, thưa thớt. Mấy đứa trẻ bụng ỏng phơi trần dưới nắng. Ba bà già đầu đội thúng đi dọc triền mương. Từ đồi xa, một nhóm cô gái đội bó củi khô hối hả về làng. Ngày mai, bó củi kia được đưa xuống thị xã Phanrang cách plây hai nồi cơm chín. Đàn dê, đàn bò gầy còm kiên trì gặm cỏ khô…
Vẫn cảnh ấy từ ngàn năm qua. Thời gian đứng lại và ánh sáng văn minh như không chịu len lỏi tới xó xỉnh này, ít ra là với đại bộ phận dân làng. Không ít người hiểu biết trách họ và cả trách mình sao không chịu dời đến vùng đất mới, mầu mỡ hơn, dễ thở hơn? Khi ở đây họ phải chịu đựng bụi và cát. Xa rừng, xa biển để có thể cậy nhờ bà mẹ thiên nhiên. Khẩu phần tăng mà ruộng đất thì teo. Trong khi họ không được nuôi heo, nguồn phụ thu quan trọng như các plây Chăm Bà-la-môn.
(…) Tối, chúng tôi vào Sang mưgik. Ông giáo đã hưu nghe tiếng tôi giảng viên Đại học đến tìm gặp tôi ngoài hành lang. Chúng tôi nói tiếng Chăm với nhau. Ông bảo có cô gái út đang học ở Đại học mở và ca tôi hết lời về vụ rành tiếng và chữ Chăm. Thời ngụy tôi chỉ gặp được có một vị là Nguyễn Bạt Tụy, hôm nay cô là thứ hai, ông nói, một mực cho tôi Kanh Cựu. Tôi bảo tôi người Nha Trang. Ông nói vài Chăm lên cao có khuynh hướng giấu tông tích. Nửa chừng câu chuyện một anh trung niên (nghe nói đang công tác ở Phanrang) đến chất vấn tôi những câu rất lửa. Khi tôi thoát ra được cái bẫy anh giăng ra, anh nói Chăm rất thất vọng về các nhà nghiên cứu dân tộc học. Có nhạc sĩ nhờ hai nghệ nhân Chăm hát ơi hỡi dân ca nhưng khi in sách, đã ghi đến hơn chục tên người chỉ với mục đích khỏi trả tiền công hay sách biếu. Một giáo sư nọ nhờ Chăm sưu tầm và dịch hơn mươi bài tụng ca, khi viết thì quên béng tên kẻ cung cấp tư liệu cho mình. Nhiều lắm, kể không xuể đâu. Tôi hỏi anh có chứng cứ không thì anh nói cô dân nghiên cứu thì phải biết chứ. Rồi bỏ đi.
5
VÔ DANH VÀ VINH QUANG
Ở phương Tây, nổi tiếng gây quá ư phiền toái. Marquéz thẳng thừng rằng nổi tiếng làm trở ngại mọi sinh hoạt, ngoại trừ tư thế chính trị của ông. Nổi tiếng hủy hoại siêu sao bóng đá Maradona, đẩy công nương Diana vào cái chết bi thảm và, nổi tiếng khiến cái chết kia càng trở nên nổi tiếng hơn. Camus than phiền nổi tiếng khiến thiên hạ không thèm đọc ông mà chỉ đọc những gì nhà báo không chuyên viết vội vã về ông. Từ đó méo và mó. Có kẻ chuyên sống bằng giai thoại về nhà văn nổi tiếng như loài kí sinh - Nerval trăm năm mươi năm trước nói thế! Nhưng giai thoại không ngừng được sáng tạo xung quanh tên tuổi, ngày càng nhiều hơn, sương khói, lãng đãng hơn đến nỗi người ta yên tâm rằng mình hiểu Rimbaud, có thể nói về Rimbaud thậm chí viết bài về Rimbaud dù cả đời chưa hề đọc bài thơ nào của chàng, chưa hề nhìn thấy mặt mũi tập thơ Une Saison en Enfer nó mỏng dày ra sao.
Đó là bản chất của phần đông nhân loại: muốn dòm qua khe cửa đời tư nhân vật. Và tán. Càng là hiện tượng nổi trội của thời đại chúng ta. Kundera bảo các cuốn sách viết về Hemingway, Goethe thực ra còn hấp dẫn người đọc hơn cả Mặt trời vẫn mọc, Giã từ vũ khí hay Faust, Tình sầu của chàng Werther nữa. Chúng lôi cuốn quần chúng quá cha cuộc đời sôi động (thực) của Hemingway hay Goethe. Rốt cùng, chỉ có nhà chuyên môn mới chịu tìm đọc văn bản (đã không ít “nhà” tự nhận chuyên gia lanh trí bỏ qua thao tác này). Còn thì độc giả văn chương luôn được nuôi dưỡng bằng câu chuyện ngoài lề từ giai thoại hay, mù mờ hơn, huyền thoại.
Âu Mỹ đã thế, phương Đông hay Chăm cũng chả hơn gì, dù biểu hiện hay tác động của nó lên tinh thần cá nhân hoặc cộng đồng có khác, nhưng bản chất vẫn vậy.
Nỗi khuyết danh của tác phẩm cổ Chăm như một phản ứng. Bỏ qua khiêm tốn của tác giả, ám ảnh hãm hại của kẻ thù ngoại bang hay kẻ đố kị cùng máu mủ, thậm chí cả truyền thống văn hóa Chăm chỉ muốn coi chúng như tặng phẩm của thần thánh chứ không phải sáng tác của người phàm trần; hoặc giả sự vụ thiếu tinh thần lưu thủ đan tâm của tu sĩ Bà-la-môn đã dẫn tới tình trạng này, cái đáng nói là: tác gia Chăm muốn thế hệ tới đọc chính văn bản, tác phẩm chứ không phải những gì bao phủ xung quanh nó, cả kẻ mang nặng đẻ đau nó. Lí này của Chế Khan càng vững hơn khi hầu hết sáng tác của thi sĩ Chăm mới đầu thế kỉ XX này như của Mưdwơn Jiaw, Po Thien… nay cũng đã khuyết danh, vô danh rồi. Hôm nay, hắn hành xử hệt vậy: hắn không chịu kí tên mình ở trang bìa cuốn tiểu thuyết (ngài giáo sư Trần Hùng đã sai hết sức sai khi dùng nguyên bút mực đỏ ghi tác giả: Chế Khan).
Tác giả Chăm muốn tác phẩm mình thay vì chính mình sống, cái sống chắc chắn rất mù mờ trong màn sương giai thoại, huyền thoại.
Nhưng đầu óc ngoan cố của quần chúng không chịu thua ý chí một cá nhân dẫu uy tín tới đâu: họ thêu dệt giai thoại bao quanh tác phẩm trong đó tác giả đương nhiên trở thành thứ chất liệu dễ nhào nặn nhất, cấu thành bộ phận gay cấn nhất.
Có lẽ chỉ cần đo mức độ hấp lực của huyền thoại đối với một dân tộc cũng phần nào hiểu được dân tộc tính của dân tộc đó. Công chúng Đức khá thờ ơ với văn hóa dòm khe cửa nên vụ vợ chồng Beckham hay các bức ảnh chộp bắt hoàng gia Anh không đủ lôi cuốn họ, nhanh chóng gây thất nghiệp cho nhà báo lá cải. Dư luận Pháp cũng dễ bỏ qua xì căng đan như Monicagate từng là điểm nóng trên các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ thời gian dài.
Bên cạnh Ariya Glang Anak và Pauh Catwai, Ariya Bini - Cam là tác phẩm được bao bọc bằng nhiều lớp huyền thoại nhất. Chính hấp lực của nó đã bứt Chế Khan khỏi gốc rễ Panduranga để đuổi theo bóng ma ám hắn vào một tối Katê định mệnh kia, không cưỡng lại được.
*
Ông chú họ vào một trưa nắng ghé tôi lúc đó đang ở nhà thuê vùng ngoại vi quận Tân Bình. Đột ngột, đến nỗi tôi không chuẩn bị gì
kịp. Chú điện báo sẽ ghé. Chưa tới mươi phút, chú xuất hiện với dáng vẻ khẩn trương, bí mật. Chú nhìn hai bàn tay tôi đặt trên bàn gỗ tròn rồi ngó thẳng trán tôi, chằm chằm. Thế thôi rồi chú về, đột ngột như lúc đến, sau vài gật gù bí hiểm. Chú bảo vào thăm người bà con bên ngoại đang nằm Chợ Rẫy.
Tháng sau về quê tôi bất ngờ nghe tin đồn – đồn về tôi, rằng tôi được/bị rồng liếm, khá đậm, đậm nhất Chakleng, có lẽ. Như thể vào vòng quay vô hình đến lượt tôi thì bộ máy trục trặc và ngưng. Con rồng không để ý, liếm tới. Và tôi bị dính nước miếng rồng nhiều chỗ, thấm đậm. Bà con hàng xóm nhìn tôi là lạ. Mưlan bảo ông chú hỏi nàng trong mấy cháu ai giống cha nhất được nàng trỏ thằng cả, ông gọi cháu đến, biểu đưa tay ông coi, rồi thì vạch tóc xem xoáy nhưng cũng chẳng thấy phán gì. Chuyện ngỡ vô thưởng vô phạt ai ngờ chuyến về quê lần sau tin đồn lan rộng hơn, táo bạo hơn. Họ đồn Pathit được liếm trúng AND văn chương mà ngỡ đụng phải huyệt kinh tế nên mãi đâm đầu làm kinh doanh với châm ngôn viết chữ to đùng dán tường: làm một mà không thành thì cố gắng mười, làm mười không thành thì nỗ lực trăm, ngàn lần. Lâm Vang đi nghe Cei Harim Mưh phán đã dính một bộ phận lớn huyệt nhà binh nhưng khốn nỗi Chakleng khuyết truyền thống lính tráng nên đã ngần ngừ mãi đến già háp. Tội hơn cả là Jaklan đích thị bị liếm hụt mà cứ đinh ninh trúng nên phí sức đến thân tàn ma dại. Bác Thạch Tìm, nghệ nhân đánh trống Ginang nổi tiếng, hưởng sái từ nước miếng rồng ở đôi tay. Có vị khoe chính ông xem bàn tay bác thấy đủ 36 vân tay tròn trịa. Anh Phú Tâm, từ sự cố ngẫu nhiên trở thành bác sĩ chuyển viện đáng tin cậy của một huyện tận Gia Lai khi quá ngũ thập, chả bằng cấp chuyên môn gì chỉ đậu trung học Pháp vậy mà thân nhân người bệnh rất vững bụng khi có anh đi cùng xe cấp cứu hụ còi dù có hay không có bác sĩ khiến bà cô mãi tiếc biết thế này xưa gắng đầu tư cho nó học ngoại giao: anh được liếm trúng ngay môi trên là điều ngàn năm có một.
Tin đồn cứ thế lan ra. Dù không gây hoảng loạn như đại dịch điên hơn ba chục năm trước nhưng cũng tạo xôn xao ngang bằng. Mọi người tò mò, dò xét vừa kiêu hãnh vừa nghi kị: ai được liếm trúng/ai bị hụt, ai có/ai không, ai nhiều/ai ít, đậm/nhạt, lớn/nhỏ, lâu/mau…
Hôm nay tin đồn lan sang tôi. Mẹ gọi tôi hỏi nhỏ con làm gì đó ở Bai Gaur được giải thưởng có cả đăng báo còn lên tivi nữa làng xóm người ta nói quá đi nói quá không tốt đâu con ông bà ta bảo sống có người có ta, tôi giải thích mãi rằng không sao đâu mẹ, con viết sách cho con nít học thôi mẹ mới ngủ ngon. Ông chú triết gia của tôi thì bảo thẳng tao đồng ý là mày dám đi vào biển cả, đang giữa biển cả dù chỉ mình mầy chèo chống. Chớ trông vào tiếng vỗ tay hoan hô từ tao. Cuộc hành trình muốn vững, nhanh thì cánh buồm phải lớn, cánh buồm lớn thì thuyền phải to. Nhưng tao muốn mày mau cất cái buồm phấp phới ngạo mạn kia đi, hay khôn hơn là phải biết ngụy trang nó để không một ai, khó ai có thể thấy ngọn cờ giong mở của mầy. Hãy lấy ông họ nội mày làm gương: một Yogi ngoại hạng nhưng đã ai biết ông là bậc cao cường ngoài tao.
Tôi muốn nói với chú rằng cả cháu cũng biết nữa nhưng tôi kịp dằn lại. Tôi cũng muốn nói rồi ông đã mang theo lên giàn hỏa các bài Yoga gia truyền chưa kịp dạy cho ai, như ông cha mình ngày xưa vùi chôn bí quyết xây tháp sau màn đêm lịch sử. Tiếp tục chương trình: ông Thành Tín với bài thuốc trị rắn độc sẽ còn chăng, ngày mai? Tôi muốn la lớn lên nếu hôm nay cháu không mòn chân đi lượm nhặt những mảnh vụn ca dao dân ca, tục ngữ…; không mày mò sắp xếp, dịch chúng ra rồi chầu chực nhà xuất bản để được in; chương trình liên tục: mang tặng cho bà con, biếu các thư viện lớn bé thì liệu nó còn có mặt không? Chú có muốn nó hiện diện trên trần đời này không, muốn nhân loại biết tới nó như nó là thế không hay muốn nó xuất hiện thô lậu, méo mó như các ông nhà nghiên cứu bấy lâu làm không? Và khi thấy thiên hạ nói trật lất về dân tộc mình, hiểu quá lệch về văn hóa mình, chú muốn cháu cũng câm như gò mối ở đầu ruộng Hamu Kut kia không? Nữa! Chú có biết thằng cháu cưng của chú bị rồng liếm trúng phần nào của cơ thể nó không? Bộ phận nặng nhọc nhất, cơ khổ nhất và phiền hà nhất: ruột thừa đấy! Tôi muốn la to lên như thế, nói rành mạch đại cà sa như thế. Tôi phải chịu ngậm cám, bởi tôi đã nếm cơn thịnh nộ của ông nông dân triết gia này hơn một lần rồi, thuở ria mép tôi mới lún phún mọc.
Chú tiếp: viết ít, ngắn thôi. Viết những gì cần viết (những gì thật sự cần viết thì rất ít), viết như sẽ chết nếu không viết, như thể sắp chết. Viết như là trối trăng. Như Glang Anak, Pauh Catwai đã trối trăng.
Tôi rùng mình.
Viết để thiên hạ phải tìm chép anh (tôi nhấn mạnh: chép tay) chứ không phải bạ đâu kí tặng đấy. Thời đại này đang làm cuộc diễu hành vĩ đại bôi nhọ thi ca, đầu độc văn chương – chú đang ngon trớn. Tháng trước tôi đi Sài Gòn (xin lỗi không ghé anh) có tạt vào hiệu sách. Tôi bị ngợp, những sách là sách, đủ màu đủ cỡ với những tên tuổi, có tên đẻ đến chục đầu sách, vài chục đầu sách liệt kê ở bìa sau. Cả anh nữa cũng chen chân.
Tôi vẫn không nói gì. Tôi hiểu cái giá phải trả cho nổi tiếng (nổi tiếng còm trong xã hội chật hẹp của chúng ta). Mưlan đùa nếu lúc này anh ra ứng cử đại biểu Quốc hội, chót bảng là cái chắc. Tôi nghĩ cũng có thể ngược lại – nhất bảng. Nhưng tôi hoàn toàn thấy hai vị trí đó như nhau, hệt nhau.
– Anh cãi tôi đi chứ! Tôi hiểu lắm cái kiêu ngạo im im của anh. Anh thừa kiêu ngạo để làm cái việc có ma mới hiểu là đi tìm tư tưởng nền tảng của văn học Chàm hôm qua, thừa kiêu ngạo phát quang cho lối đi vô định cho sáng tác văn chương Chàm hôm nay, nhưng liệu anh có đủ kiêu hãnh từ chối không ghi tên anh dưới tác phẩm? Làm tác giả vô danh như tác giả Ariya Bini - Cam đã làm? Anh vẫn không dứt nổi khỏi ánh sáng nhấp nháy của đủ loại phương tiện thông tin đại chúng hôm nay đang rọi vào anh, vẫn cần tiếng vỗ tay lốp bốp của các mụ đàn bà (chú không ưa Hà Vân và cả Mưlan dù họ xử sự tốt với chú).
– Chú muốn tôi vứt tất cả không, tất cả và ngay bây giờ không? Tôi bỗng hét lớn và bật dậy.
– Hôm nay mày dám với chú mày à! Chú cũng đứng bật dậy: làm loạn à?
Buồn mênh mông đen tối vồ chụp lấy tôi, xuyên thủng lồng ngực, muốn bóp nát trái tim tôi. Cho tới khi tôi như con ma ốm mất dấu đoàn lũ lạc vào nhà người bạn cũ ở Hậu Sanh.
*
Nhà anh bạn nằm mé plây, buổi chiều ngồi trên ván gỗ trông lên tháp Po Rome đứng vững chãi, bí mật và câm lặng. Ngồi với anh bạn có hai người nữa – Thụy, nghe nói đang nghiên cứu cái gì đó, không ưa tôi và có nhiều thành tích xuyên tạc tôi. Vang là bạn học thuở cấp II Trường Pô-Klong hai năm liền ngủ chung giường kí túc
xá, sau hai mươi ba năm gặp lại, chúng tôi nhìn nhau qua lớp sương mù của thời gian và sự nghi ngại nghe nói.
– Ồ, mới nói chuyện về ông đã thấy ông xuất hiện, thần thật! Anh bạn vội đứng lên nắm lấy vai tôi.
– Lại rồng liếm chứ gì. Tôi bắt tay Thụy. Khi tôi đưa tay qua Vang thì anh rụt lại, rồi bất ngờ anh liền đưa hai tay ôm cả bàn tay tôi: anh không quen với phong cách dân thành phố, tôi hiểu. Hoàn cảnh và môi trường phân cách chúng tôi xa quá.
– Tụi này đang mổ xẻ các tác phẩm của tay Inrasara dân Chakleng ông đây. Công nhận nhiều chương cực kì nhưng lầm lẫn cũng lắm.
– Ví dụ?
– Phê Twơn Phauw như thế thật oan cho ông.
– Ồ, hắn biện minh đấy chứ. Chính tác giả Ariya Twơn Phauw mới phê phán qua cái nhìn của các nhân vật phụ. Này nhé: Dom Cru, Raglai, Cam, Kahauw
Nhu chap hatơm Twơn Phauw sunit ginrơh hagait yuw ni Những người Churu, Raglai, Chăm, Kơho
Chửi rủa Twơn Phauw: rằng tài phép sao lại ra nông nỗi này Likuw po jwai pamưtai dahlak yuw asuw
Van lạy ngài đừng giết con như chó.
Phê đâu mà phê! Nhà văn không đóng vai kẻ tụng ca, càng không làm công tố viên buộc tội mà là kẻ biện minh, cũng không như luật sư biện minh mà như một nhà văn. Ở buổi đại khủng hoảng của lịch sử đầu thế kỉ XIX, Chăm đang đứng trước bờ hố. Ba con đường hẹp buộc con người trí thức hôm qua chọn lựa: cố thu xếp hòng cứu vãn số phận hoi hóp của dân tộc (Ariya Glang Anak) để vớt vát mảnh vụn văn hóa nó (Pauh Catwai) hay gồng mình đòi lại vương quốc đã mất bằng trận đánh liều mạng để tất cả cùng tiêu tán đường (Ariya Twơn Phauw)? Ông biết chứ, ông cậu y sĩ của hắn ta ngay trước mặt mình hôm qua bảo cháu tuyệt lắm, lập được thành tích như thế vào Kut cũng vừa. Bà con họ hàng chúc nhau thế đấy: mong nhau sớm cắt khẩu, mặc dù dưới Chakleng lầm lỗi tới đâu cứ đổ bừa cho nước miếng rồng là xong tất. Nhưng dẫu sao cũng lạy ông bà cho hắn sống dai để còn sửa sai tiếp tục hầu quý đồng bào
và các bạn. Tôi thuyết một thôi như thế, nhận thấy mình sôi nổi hơi giả tạo.
– Thôi, thôi đi J’Man ơi! Chăm gặp nhau là gây cấn, không khéo cả trăm ngàn có lẻ Chăm lây bệnh Chakleng bây giờ. – Chí phải! Chí phải! Tôi nói to. Rót đi, chủ nhà muốn đánh lạc hướng cho đỡ tốn bia, dại gì.
– Làm như ông có năm cái bụng.
– Đồng chí cán bộ này không khoái bia à? Tôi quay sang Thụy khi thấy anh cầm ly nhỏ.
– Không. 333, Tiger gì gì cũng không qua rượu gạo, rượu gạo xịn, nặng – dù bao tử nát, gan tan.
Con người hay khuynh hướng gắn mình với cái bên ngoài, một hạt kiến thức lép, một thần tượng hay thói tật. Cao Xuân Hoang nói: mình thấy có tay sinh viên Pháp tôn thờ Zidane, xem mình như thể người nhà Zidane để ăn nhờ ở đậu hơi hướm Zidane, nếu không thế hắn không là gì cả. Ngài giáo sư Trần Hùng gắn mình với văn hóa Chăm tổng quát, Nguyễn Dung phó tiến sĩ dân tộc học, Thụy rượu gạo xịn, nặng. Tôi còn thấy có thanh niên kia luôn hãnh diện về bệnh tim của mình nữa. Anh không là gì cả nếu anh không suy tim, phó tiến sĩ dân tộc học, văn hóa Chăm tổng quát… Không có chúng anh là con số không di động. Anh run lên khi đối mặt với nó: không là gì cả – khiếp quá! Cả tôi cũng thường bị gán nhãn mác chuyên gia triết lí văn chương Chăm. Sự quy chụp mang tính sợ hãi căn nguyên này luôn gây nỗi bất tiện. Gặp tôi, hầu như mọi người luôn tỏ vẻ quan tâm đến sức khỏe triết học Chăm, thể hiện cái hiểu biết về tư tưởng văn học Chăm, lái câu chuyện sang đề tài mà tôi luôn phải trốn chui trốn nhủi khi đứng trước đám đông này. Như ở đầu câu chuyện của chúng ta ngay khi tôi vừa ngồi xếp bằng trên tấm ván nhà anh bạn. Làm như tôi-nhà nghiên cứu-tư tưởng-triết học của-văn học Chăm-và không là gì khác.
– Lúc này ông đang viết gì?
Không phải Vang hay anh bạn chủ nhà mà là Thụy hỏi. Có lẽ do tọc mạch.
– Tiểu thuyết: Chân dung Cát.
– Để đem vài nhân vật ra chế giiễu cho tiện chứ gì.
Hà Vân sâu sắc là thế mà đã khuyên tôi anh sớm kết thúc tiểu thuyết đi để em nhờ cô bạn chuyển thể sang kịch bản phim. Tôi bảo nàng tiểu thuyết anh không phải để mang ra làm phim, anh muốn viết nó sao cho đạo diễn dù thiện chí tới đâu cũng không làm gì được. Bởi tiểu thuyết là tiểu thuyết, dừng lại ở thể loại đó thôi chớ nên biến nó thành gì khác (ý này Kundera nói rồi). Tôi làm thơ cũng chả ý đồ được tuyển vào sách giáo khoa cho học sinh học thuộc hay nhạc sĩ nào đó nổi hứng hoặc chiếu cố mang ra phổ nhạc. Tôi nói ý này cho đồng chí cán bộ Bá Thụy nghe và thêm: văn chương không cúi xuống làm chuyện đó, không tự cho phép mình làm trò lếu láo ba bốn lăng nhăng đó.
Còn nó sẽ làm gì? Ông thật nghiêm túc muốn hiểu?
Tôi nhìn thẳng vào mắt ngài cán bộ Bá Thụy, đầy cải lương nghiêm trọng. Tôi nói: văn chương không ưa nổi trò nghiêm nghị. Nhưng loài người thì nghiêm trang nghiêm trọng hơi bị nhiều. Nghiêm nghị trúng vụ bắp, nghiêm trọng tuổi tên chàng hảng trên trang báo, nghiêm nghị học vị học hàm hay nghiêm trọng trò đọc diễn văn, nghiêm nghị nghiên cứu hay nghiêm trọng một thành tích bé con mới giật được, nghiêm nghị tri kiến tha lâu lưng tổ hay nghiêm trọng trương mục ngân hàng, nghiêm nghị cá tính lẻ loi hoặc nghiêm trọng bản sắc tập thể cộng đồng, nghiêm nghị tôi với nghiêm trọng bác vân vân. Bác cứ tiếp tục kê biên, nếu cảm thấy khoái. Mấy trò nghiêm nghị đó, văn chương cười vào mũi. Cười nhạo thôi. Không mỉa mai sâu cay cũng chả chua chát căng thẳng bật máu mà làm gì cho nhọc cái tâm linh. Nó khoái hoạt. Nghĩa là chính văn chương cũng phải học không tự biến mình thành trầm trọng. Nó có khả năng tự cười mình. Cười mình to hơn cả.
Cái thằng tôi ấy yêu em yêu cả cuộc đời nhưng luôn biết tự nhạo cái tình yêu buồn cười ấy, dù mất em rồi xa em rồi hoa đã tàn tôi về đứng bờ sông Seine đêm nay định nhảy xuống cầu Mirabeau (ôi, ví có thêm đời sống thứ hai hay ba thì tôi đã nhảy cái cho đã đời rồi) nhưng chính cái cười níu tôi lại bên đời quạnh hiu sung ôi S-Ư Ớ-N-G… Cái thằng tôi ấy dù từng nai vai (trâu) ra cày thuê sắm cho được tủ sách mỏng dày, mỏi gối chồn chân đi gõ tìm từng mảnh tư liệu rơi rớt dọc con đường điền dã hay còng lưng (cụ non) ra viết dúm công trình nặng bao tải chở đầy nguy cơ đẩy tuổi trẻ tôi chìm không đáy vào hố nghiêm nghị; lại cái cười lần nữa thòng cọng hành
xuống cứu vớt tâm hồn dại dột tôi sống sót. Cái thằng tôi ấy từng buổi sáng nhấm nháp trà Bắc với nhâm nhi từng giọt lời khen tặng nhiều cố gắng đầy sáng tạo để được bay lâng lâng trên đôi cánh thiên thần của hội viên Hội hội viên Hội của nhà, sĩ, của trân trọng kính ngài lên phát biểu dạ thưa cám ơn, sẵn sàng dồi tung ngài như con rối; cái cười vội túm lấy chòm tóc em ôi sợi ngắn sợi dài giữ lại, vuốt vuốt nó và xoa đầu thôi đủ rồi em ạ chỉ là trò đùa trong điệp điệp muôn trùng trò đùa không hơn thua phân tấc ôi em!
– Văn chương đẩy ta ra xa bãi bờ buộc ta học nhìn mình từ bên ngoài, châm chọc ta cho ta biết mở trí xem nhẹ mình. Chức tước hay tên tuổi. Ria mép hay mụn nhọt. Mái tranh với lâu đài. Cốc bia ngoại hay chén rượu nội, như cái bác đang cầm ấy mà! Văn chương dạy bác xem thường nó, nhẹ hều một kiếp…
– Cái cười giải phóng con người khỏi mọi mê tín. Thình lình tôi ưỡn ngực nghiêm giọng.
Tối hôm ấy tôi đã nốc hết cả két bia Phú Thọ cao cấp, nghĩa là cũng xem xém năm cái bụng, điều mà anh bạn tôi khá cảnh giác. *
Tôi đến Hà Vân ngay khi vào Sài Gòn, được nàng báo cho biết đã gặp Chế Khan. Ông già gân mách em chỗ ở của ảnh trong ý đồ tách hẳn em ra khỏi anh.
– Cá tính lắm.
– Hôm nào mình sang gặp hắn đi.
– Ngài bảo phải tuyệt mật, nhất là với kẻ được cưng chiều như tay J’Man (đây là ngón đòn độc ngài giáo sư dùng đánh sau lưng tôi). Sau Hội thảo hai ngày, chị vợ Chế Khan dắt tay mấy nhóc vào ngồi hầu cả ngày ngài cũng không chỉ cho biết, bảo ảnh đi xa rồi chẳng hiểu đi đâu. Mẹ con lủi thủi dắt nhau về.
Bốn năm chưa phải dài dặc gì nhưng hắn thay đổi đến muốn kêu lên một tiếng: mái tóc muối lấn tiêu, khuôn mặt hốc hác đẩy cặp mắt lồi ra, nước da tái nhợt như chưa ra nắng đến cả năm. Hắn tiếp chuyện chúng tôi nhát gừng. Dù sao trước mặt hắn còn có Hà Vân và hắn không thể không giương ra cái chất cố hữu của giống đực. Qua chuyện kể không đầu đuôi của Chế Khan, tôi tạm đúc kết: Mưhuê có cặp mắt rất giống em họ hắn, mãi sau về Văn Lâm hắn mới nhớ, với cái mỉm cười nhếch môi phải (cả hai ít khi cười). Nó
ám hắn không nguôi. Cùng virut mê văn chương bột phát thôi thúc hắn tìm bản trường ca nàng lưu giữ. Nàng đã đi. Hắn lang thang khắp thôn xóm. Tay Inrasara đã trúng khi bảo không tin rằng mình đang có trong tay được tới một nửa sáng tác văn học Chăm, hắn nói, hắn cũng mót được mấy chục tác phẩm khác nữa nhưng vô ích mong có khám phá sáng tác mới nào khả dĩ vượt được Pauh Catwai, Glang Anak hay Bini - Cam. Hắn ta đã rất tinh với nhận định của mình. Hắn nói, gườm gườm tôi như dám chạy níu lại lời khen lỡ mồm dại dột.
Sống một tháng qua một plây. Cứ thế. Một hôm hắn nhìn thấy một cô gái đội củi trên đường xuống Paplom đang nghỉ trưa dưới cây keo, giống Mưhuê như tạc. Hắn bị chớp giật, chạy òa tới muốn ôm chầm lấy cô gái khiến cô nàng hãi quá bỏ chạy kêu làng. Hắn gọi cô gái lại, nói mãi cô gái mới chịu nghe, đưa hắn về nhà gặp ông chú. Sau khi tự khai lần nữa lí lịch bản thân, ông chú tin tưởng rồi hắn mới được phép gặp riêng cô gái. Mưhao bảo nàng tuổi Chuột, cha mất khi cô còn trong bụng mẹ. Tiếp đến là mẹ mất, lúc đó cô mới lớp Một. Nay đã hai sáu, vẫn chưa chồng. Cô gái như bản đổ khuôn Mưhuê xưa. Hôm sau (thứ Tư ngày lành), sau khi làm lễ rước Ciet sách xuống – Ciet sách cha để lại như gia bảo duy nhất – hắn vã mồ hôi khi ngó vào trang đầu tiên: chính nét chữ của bản trường ca bỏ hoang khi xưa. Thế là các bản thảo như bàn tay định mệnh đóng cứng hắn vào chúng. Chúng đấy, hắn trỏ cái tủ kính bên trong là các tập giấy úa vàng nằm so le.
Hắn xin ông chú mang chúng vào Sàigòn. Nữa: sau khi nhận Mưhao làm em gái (hắn đã mấy ngày nằn nỉ cô gái mới chịu cho xem nốt ruồi lộ hồng giữa ngực, hắn nhắm mắt lại thật lâu: đích thị em ruột nàng rồi). Hắn không đi đâu nữa, suốt ngày nhốt mình trên căn gác xép, đọc và suy tư – vô danh trong một gác xép vô danh trong cái thành phố mênh mông này – ngoại trừ tháng một lần về Paplom mang theo ít tiền làm quà cho Mưhao, món tiền hắn chắt chiu từ thu nhập không lấy gì làm khấm khá bằng việc dịch thư từ tiếng Anh cho vài văn phòng dịch vụ ở dưới phố.
– Anh sẽ trở về khi công thành danh toại? Hà Vân hỏi. – Nỗi đau khổ con người là vô tận. Ít ra hai đứa nhỏ ở quê cũng có mẹ bảo bọc.
– Cách đây một năm nghe nói ông có về?
– Ừa, Hiếu Thiện. Để xem ngực cô em họ.
– Và…
– Không.
– Chí ít ông cũng một lần về thăm họ chứ, rồi thì ông cứ tiếp tục sống kiểu của ông.
– Mầy đạp cứt thằng Tân hồi nào thế? Hắn nhìn tôi, gườm gườm.
– Có gì mới không? Một lát sau tôi hỏi.
– Có đấy. Hắn trờ tới kệ sách rút trong tập hồ sơ, vứt trước mặt tôi bài báo cắt từ tờ Thanh Niên số ra ngày 13.03.1998: Bức màn bí ẩn phủ quanh tháp Campa. Tôi có biết bài viết này nhưng đã quên nó lâu rồi. Tôi đọc lại, chú ý mấy đoạn hắn gạch dưới.
Về nguồn gốc của tháp Campa, cho đến nay chưa có chứng cứ chắc chắn để nói rằng những ngôi tháp Campa cổ là sản phẩm sáng tạo của người Chăm dù họ là chủ lễ các kì cúng bái tại những tháp ở Ninh Thuận, Bình Thuận và vẫn chưa ai đưa ra bằng chứng chứng minh họ là chủ nhân của tháp. Trong cộng đồng Chăm cũng hoàn toàn không có tư liệu riêng về việc xây dựng tháp mà chỉ tồn tại các “huyền thoại”. (…) Điều đặc biệt nhất là những dòng chữ mà chúng tôi đọc được trên văn bia tháp Poklaung Grai (sic) (…) có nội dung lên án, miệt thị những cư dân vùng Panduranga xưa - nơi tập trung chủ yếu là người Chăm. Không có lý nào người Chăm lại tự lên án mình ở những nơi thiêng liêng như thế?
Ghi chú của Chế Khan
Nên nhớ là văn bia được viết vào thế kỉ XI. Champa bao gồm nhiều tiểu vương quốc với chính quyền Trung ương ở Amaravati cai trị. Tháp do triều đình dựng để toàn dân thờ phụng. Giọng văn của hoàng đế quyền uy tối cao với thần dân mình như thế là chuyện rất bình thường. Có lẽ dân Panduranga còn hãnh diện nữa là đàng khác. Vì chỉ có họ mới dám phản kháng lại bất công. Nếu không thế họ phải đập đổ bia đi khi chính quyền Trung ương suy yếu, và nhất là lúc Đồ Bàn sụp đổ và năm 1471, khi chỉ có tiểu vương quốc Panduranga là còn sức mạnh quân sự và văn hóa đáng kể của Champa.
– Thế nào? Hắn hỏi ngay khi mắt tôi rời khỏi trang báo.
– Có vài điều không ổn ở đây. Tôi chuyển tờ báo cho Hà Vân. – Không ổn cái khỉ mốc. Ngu, ngu, ngu. Hắn đập mạnh nắm tay xuống mặt bàn giả mi ca ọp ẹp làm bắn tung nước trà trong li. Thế mà các ông câm miệng à? Hèn, hèn, hèn! Các nhà nghiên cứu tư tưởng Chàm ông, các phó tiến sĩ mấy đứa trốn chui trốn nhủi đâu rồi? Nhà ông nổi tiếng để làm chó gì? Để đưa ảnh bà vợ quý hóa cùng mảnh tình đọc rớt nước dãi lên báo thôi ư? Muốn trở thành ngôi sao à? Hắn cười gằn, nhìn tôi và đung đưa cái đầu bờm qua lại như muốn nói: hết hy vọng ở các ông rồi.
Hà Vân đưa trả Chế Khan tờ báo. Hắn chộp lấy, vẫn đứng đấy, hai tay chống lên bàn.
– Tội cho ông một mình tả xung hữu đột chỗ này nọ. Khoản đó, bọn này lỗi đã không giúp gì được ông, tôi muốn nhắc đến các bài trao đổi của ông. Nhưng khi thấy ông chường đời tư ra mặt báo thì thằng này muốn đâm đầu vào đường ray xe lửa để không phải thấy mặt trời nữa.
– Khoan nói tới chuyện đó. Chí ít ông cho tôi biết ngu thế nào chứ.
– Ông thử đọc qua cái này đi. Chế Khan đưa cho tôi bản dịch Việt ngữ chép tay trên tập học sinh.
– Ông đọc được Phạn ngữ?
– Cứ đọc nó đi đã.
… vì người Chăm vùng Panduranga ngu ngốc, ngang bướng, luôn chống lại hoàng đế tối cao. Cuối cùng ngài phải thân chinh đến. (Họ) muốn tôn người Panduranga lên ngôi vua. Nhưng bằng trí thông minh khôn khéo của mình, ngài đã chinh phục được tất cả…
– Hai vị “học giả” này đã không đặt tinh thần câu văn vào đúng hoàn cảnh sinh đẻ của nó. Đồi Trầu có mặt vài bia kí niên đại khác nhau. Cái được khắc trên một tảng đá nằm bên ngoài tháp chính mang nội dung như hai “học giả” đã khám phá thì niên đại ghi năm 1050, có mặt trước khi tháp Po Klaung Girai được dựng lần cuối cùng đến hơn hai thế kỉ!!! Ẹ thế chứ…
Im lặng nặng và đục.
– Nó thuộc phạm vi chuyên môn rất hẹp, Hà Vân nói. – Các vị còn muốn tôi về nữa không?
Không ai trả lời hắn. Tôi nhìn thấy trong mắt hắn cái quyết tâm gần như phi nhân tính. Tôi muốn hỏi hắn về sách gốc của bản trường ca bỏ hoang, về bản chép tay hắn đang giữ nhưng tôi nghĩ cuộc ghé đã quá đủ. Bỗng dưng tôi có cảm tưởng mình vừa mất một người bạn, ít ra người bạn như tôi đã từng biết.
*
– Đôi khi anh thèm được như Chế Khan. Tôi nói khi Hà Vân đang khúc Ngã Tư Bảy Hiền chợt quẹo qua đường Lý Thường Kiệt. Khác mấy lần ra Hà Nội, ở Sài Gòn tôi hiếm khi được hân hạnh ngồi yên sau mà người cầm lái là phụ nữ.
– Anh thường về mấy giờ, J’Man?
– Trước mười giờ.
– Không phá cách được à?
– Cổ điển luôn tốt hơn.
– Mình cách điệu một lần nhé. Hà Vân nói và ngoặt xe vào con hẽm, thắng kít trước quán cà phê khá sang trọng.
– Anh vừa bảo muốn được …?
– Được vô danh. Có thể làm bất kì gì mình thích, lang thang đến miền không đâu, đi vào nơi chốn không tên ngốc nào cũng có thể khuyên mình nên thế này, không nên thế nọ, như vậy thì đủ rồi hoặc hãy còn thiếu, vân vân. Vô danh không phải là không nổi tiếng, kém nổi tiếng hay ít nổi tiếng hơn mà là vô danh. Bởi nhà bác học có thể vô danh trong khi tay hốt xà bần mình vừa đụng chiều nay vẫn không vô danh trong thế giới của ông ta. “Tôi sợ phải có một tâm hồn cao thượng”. Dos nói thế, anh không nhớ nhân vật nào trong hoàn cảnh nào, nhưng đó chính là ước muốn vô danh. Mình muốn để râu cằm dài hơn xíu thì Mưlan bảo không được, đứng trước cử tọa trông nó kì kì thế nào ấy. Muốn đóng cửa phòng lại suy tư (cũng chả có gì ghê gớm đâu) thì mấy ông bảo thằng cha mới lú đã vênh mặt. Phải nở nụ cười với kẻ mình không ưa, mở cổng đón tên mình không muốn tiếp, lại vân vân. Vì đã lỡ mang tiếng – tiếng người có văn hóa. Anh không dám ôm hôn em say đắm mặc dù anh rất muốn vì trót mang danh – danh trí thức đàng hoàng. Tôi liếc xéo Hà Vân, cười. Nàng cười theo.
– Nhưng ngài cũng đã làm như vậy mà ai dám bảo ngài không trí thức.
– Bởi ngài giáo sư muốn không vô danh ở nhiều lãnh vực, cả trong phạm trù ấy ngài cũng mong được vang tiếng là một giống đực hùng mạnh.
Nàng thôi cười.
– Vô danh như các tác giả Chăm vô danh. Ở ngoài cuộc nhìn người ta bàn về tác phẩm mình, có cái gì đó thú vị. Nếu muốn, mình cùng tham gia. Không ai yêu cầu mình viết hay hơn, khác hơn tác phẩm trước; phải nhất quán không được thay đổi quan điểm. Vô danh như Chế Khan để không phải nơm nớp lo sợ bị dòm ngó.
Im lặng.
– Hắn dám bỏ công việc, bỏ gia đình đã đâu vào đấy, không ai tố cáo hắn. Hắn theo đuổi Mưhuê khi nghĩ đó là định mệnh mình, không ai lên án. Rồi mấy trận truy tìm bản trường ca bỏ hoang, làm quen với ngài giáo sư khi nghĩ ngài là học giả số một về Chăm nhưng sẵn sàng dứt áo rời bỏ ngài khi thực tế lại khác (ngài chưa biết chuyện này hay biết nhưng muốn giấu Hà Vân) mà chẳng chứng mất ngủ nào cắn rách cái lương tâm. Sẵn sàng nuôi một cô em họ tưởng tượng. Lao vào tiếng Phạn và chữ Chăm cổ khi muốn khám phá bí mật đời tháp. Viết tiểu thuyết. Và ngày mai sẽ làm những gì gì nữa, có ma mới biết.
– Nhưng với tính khí như thế em nghĩ tiểu thuyết anh ta sẽ không bao giờ được viết đến trang cuối.
– Em đúng. Luôn luôn dừng lại ở chương đầu. Có lẽ tiểu thuyết chỉ nên dừng lại ở chương đầu như thế. Các chương tiếp theo chỉ là phụ gia cho đủ đầu mình và tứ chi, cho dầy dặn lên không gì hơn là để nhà văn tự huyễn về cái vĩ đại của mình. “Làm con ngựa kéo xe”, ông cụ Henry Miller đấy, kẻ sáng tạo thực sự không bao giờ hành động như vậy. CHƯƠNG Truyền thuyết làng Mali đã là một tiểu thuyết hoàn chỉnh, mở ở hai đầu. CHƯƠNG Bản trường ca bỏ hoang mở ở phần cuối. CHƯƠNG Ngài giáo sư Trần Hùng đóng lại vĩnh viễn cuốn tiểu thuyết. CHƯƠNG Hai chị em có nốt ruồi nổi hồng giữa ngực có thể không cần viết thêm gì nữa ngoài cái tiêu đề. Luôn luôn khởi đầu, tiểu thuyết ngày mai sẽ đi theo con đường của thi ca là vậy.
– Thế thì dự báo của ngài giáo sư về một nhà tiểu thuyết lớn của Chăm cứ mãi là dự báo?
– Có lẽ.
– Và ý đồ ngăn cách đôi ta vẫn mãi dừng lại ở tiền ý đồ? Hà Vân cười, đẩy ghế đứng dậy, đột ngột vòng tay qua cổ tôi, kéo tới hôn lên môi tôi thật nhanh nhưng đủ mạnh.