🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Chân Dung Các Nguyên Thủ Pháp
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
Chân dung các nguyên thủ Pháp
Lời giới thiệu
Lời giới thiệu
Cuộc Kiếm Tìm Người Đứng Đầu Nền Cộng Hòa (1848 - 1879)
- 1 - Louis-napole'on Bonaparte: Nền Cộng Hòa Và Ông Hoàng
- 2 - Ngài Thiers, Một Tổng Thống Nghịch Lý Cho Một Nền Cộng Hòa Lâm Thời - 3 - Trong Khi Chờ Đợi Đức Vua...nguyên Soái Mac-Mahon Xuất Hiện Thời Của Hoa Cúc?
- 4 - Jules Gre'vy: Vị Tổng Thống Cộng Hòa Đầu Tiên!
- 5 - Sadi Carnot, Hiện Thân Của Nh{ Nước Cộng Hòa
- 6 - Casimir-périer Không Thể Chung Sống
- 7 -fe'lix Faure, "tổng Thống Mặt Trời"
- 8 - Émile Loubet, Đỉnh Cao Của Thời Kì Vàng Son
- 9 - Armand Fallières, Nhà Hiền Triết Của Điện Élysée
- 10 - Raymond Poincaré, Tổng Thống Của Liên Minh Thần Thánh
- 11 - Paul Deschanel, Giấc Mơ Không Th{nh
- 12 - Alexandre Millerand, Hoặc Sự Ham Muốn Quyền Lực
- 13 - Gaston Doumergue, T{i Năng Hùng Biện Cánh Tả Ủng Hộ Đường Lối Chính Trị Của Cánh Hữu
- 14 - Paul Doumer, Vị Tổng Thống Xấu Số
- 15 - Albert Lebrun, Kêt Thúc Những Ảo Tưởng
- 16 - Vincent Auriol, Vị Tổng Thống Bất Hạnh Của Lực Lượng Thứ Ba - 17 - René Coty, Buổi Chiều Tàn Của Một Chế Độ
NỀN QUÂN CHỦ CỘNG HÒA
- 18 - Charles De Gaulle, Khẳng Định Vai Trò Tổng Thống - 19 - Georges Pompidou, Hay Sựu Kế Thừa Bị Ngắt Quãng - 20 - Valéry Giscard D'estaing, Nhà Quân Chủ Tự Do - 21 - Francois Mitterrand, Nhà Quân Chủ Xã Hội
- 22 - Jacques Chirac: Người Cuối Cùng Của Nhiệm Kỳ 7 Năm Kết Luận. Năm 2002, Nền Cộng Hòa Đệ Lục?
Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/
Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi
SERGE BERSTEIN
CHÂN DUNG CÁC NGUYÊN THỦ PHÁP Bản quyền tiếng Việt © Công ty Sách Alpha
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
LỜI GIỚI THIỆU
(cho bản tiếng Việt)
Cộng hòa Pháp là một nước dân chủ theo thể chế Cộng hòa Tổng thống Trung ương tập quyền. Trong khu vực cũng như trên thế giới, nước Pháp luôn có vị trí rất đặc biệt: là một trong các quốc gia sáng lập Liên minh châu Âu EU, là thành viên sáng lập của tổ chức NATO và Liên Hiệp Quốc, một trong năm th{nh viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ngoài việc nắm giữ vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế - chính trị toàn cầu, Pháp còn là một trong những cái nôi của văn minh thế giới, có tầm ảnh hưởng văn hóa rộng lớn, v{ l{ quê hương của các triết gia Khai sáng.
Mặc dù là một trong những dân tộc được “khai s|ng” đầu tiên của nhân loại với những triết gia và lý thuyết gia về chính trị như Montesquieu v{ Rousseau, từng trải qua cuộc Cách mạng Tư sản đầu tiên trên thế giới năm 1789, nhưng con đường tiến đến nền Cộng hòa Pháp không hề dễ d{ng, đơn giản. Chế độ chính trị Ph|p trước năm 1789 l{ một chính thể Quân chủ thế truyền chuyên chế, mọi quyền lực đều nằm trong tay Nhà Vua. Ngày 3/9/1791, Bản Hiến ph|p đầu tiên được Quốc hội Ph|p thông qua đ~ mở đầu một thời đại mới: Thời đại Hiến trị th{nh văn, thời đại mà Quyền lực Nh{ nước được qui định rõ ràng trong văn bản chính thức.
Giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị Cộng hoà Pháp là các Tổng thổng. So với các nước châu Âu khác, chức vụ Tổng thống ở Pháp có lịch sử tồn tại l}u đời hơn cả và là một vị trí có nhiều quyền lực thực sự, có quyền chọn Thủ tướng và thành viên chính phủ.
Trong số hơn 20 vị nguyên thủ của quốc gia rộng lớn này, có nhiều Tổng thống rất nổi tiếng, vang danh lịch sử nước Pháp và thế giới như: Louis-Napoléon Bonaparte (1848-1852) (tự phong l{m Ho{ng Đế năm 1852, cai trị đến năm 1870 thì nền Cộng hòa thành lập); Charles de Gaulle, người giải phóng nước Pháp khỏi ách phát xít, lập nên nền Cộng hòa đệ Ngũ; Georges Pompidou (1969-1974); Valéry Giscard d'Estaing (1974-1981); François Mitterrand (1981-1995); Jacques Chirac (1995-2002)… Nhưng cũng có những Tổng thống hầu như vô danh, không mấy ai biết đến.
Trải qua hơn hai thế kỷ với nhiều biến động thăng trầm diễn ra trong phạm vi nước Pháp do các tranh chấp quyền lực nội bộ, các chế độ chính trị kh|c nhau đ~ liên tiếp được thiết lập trên đất Pháp, mỗi chế độ được thể hiện bằng một Hiến ph|p qui định chức năng của c|c cơ cấu nắm giữ Quyền lực Nh{ nước.
* * *
Thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam từ ng{y 12/4/1973 nhưng thực ra, nước Pháp có một mối quan hệ, gắn bó và ràng buộc với dân tộc Việt Nam từ hơn 150 năm trước. Những mối quan hệ về lịch sử dẫn tới những mối quan hệ về văn ho|, chính trị… v{ ng{y nay, trên đất nước Việt Nam, trong suy nghĩ của con người, trong đời sống văn hóa văn
học nghệ thuật cũng như c|c thể chế chính trị vẫn mang những dư }m v{ ảnh hưởng của nền văn hóa Ph|p.
Chính vì lẽ ấy, việc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử, văn hóa v{ d}n tộc Pháp có vai trò quan trọng đối với người Việt Nam. Cuốn Chân dung các Nguyên thủ Ph|p (Chef de L’Etat) m{ AlphaBooks xuất bản cũng phần nào thể hiện mối quan t}m đó. Với cuốn sách này, lần đầu tiên, chân dung toàn bộ 22 nguyên thủ Pháp - những bức chân dung không thể thiếu trong bức tranh lịch sử nước Pháp - được giới thiệu chi tiết, sống động đến c|c độc giả Việt Nam.
Chúng tôi tin rằng cuốn sách sẽ mang lại những thông tin hữu ích và hấp dẫn, những bài học về cuộc đời, sự nghiệp của những người đứng đầu nước Ph|p v{ qua đó, giúp độc giả hiểu sâu sắc hơn những đặc điểm văn ho|, lịch sử và chính trị của nước đất Ph|p, con người Pháp.
Xin trân trọng giới thiệu với c|c độc giả.
Tháng 12/2006
NGUYỄN CẢNH BÌNH
LỜI GIỚI THIỆU
Năm 2002, người dân Pháp tham gia bỏ phiếu bầu ra vị Tổng thống thứ 23 của nền Cộng hòa. Đ}y l{ hoạt động chính trị quan trọng nhất vì từ năm 1958 theo tinh thần Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Ngũ, Tổng thống trở thành hiện thân của đất nước, đồng thời l{ người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p, nói c|ch kh|c l{ hiện thân cao nhất của hệ thống thể chế của nước Pháp. Tuy nhiên, qua thực tế năm nền Cộng hòa v{ sau c|c xung đột đối kháng liên tiếp, người ta vẫn chưa đưa ra được một ý nghĩa thật sự phù hợp với vị trí này, một vị trí m{ người ta vẫn gọi l{ “quan to{ tối cao”.
Ngay từ khi ra đời, nền Cộng hòa Ph|p đ~ gặp phải khó khăn nan giải trong việc x|c định vị trí và vai trò của người đứng đầu Nh{ nước, hiện thân của nước Ph|p dưới con mắt của dân Ph|p v{ nước ngoài. Làm sao một thể chế chính trị m{ ngay khi ra đời đ~ l{ một phản đề của chế độ quân chủ lại có thể đặt vào vị trí tối cao của đất nước một người thay thế quân vương, một người chỉ mang tính tạm thời, được chỉ định không phải theo luật thần thánh m{ do người dân bầu chọn v{ l{ đại diện cho họ? Tuy nhiên, văn hóa chính trị theo đa số của nước Pháp những năm thuộc thế kỷ XIX, XX, vốn mang nặng dấu ấn của cuộc cách mạng được định nghĩa l{ “nhằm chặt đầu một vị vua để thách thức ch}u Âu”, chỉ có thể chấp nhận một người đứng đầu tối cao. Theo hướng đó, cơ quan h{nh ph|p buộc phải có quyền hạn thực thi luật n{y dưới sự kiểm tra của những người đại diện của một dân tộc có chủ quyền. Và nếu cơ quan h{nh ph|p có bất cứ biểu hiện n{o vượt quá giới hạn này thì sẽ được xem là có biểu hiện “qu}n chủ chuyên chế”, lạm dụng quyền lực cá nhân, vốn là phản đề của nền Cộng hòa.
Chính vì thế, sự cảnh gi|c đối với một cơ quan h{nh ph|p thực sự hùng mạnh đ~ trở thành truyền thống của nền Cộng hòa kể từ sau cuộc Cách mạng Pháp. Khi hạ lệnh treo cổ Vua Louis XVI, c|c đại biểu hội nghị quốc ước đ~ loại trừ nguyên tắc hợp thức hóa quyền hành dựa trên luật thánh thần để thay thế bằng nguyên tắc khác phù hợp hơn với văn hóa của họ, nhưng lại không thuận với tinh thần mong muốn tự do của người d}n, đó l{ nguyên tắc độc tài tập thể của các nhà lập pháp thông qua Hội đồng Cứu thế - nhóm của những dân biểu được c|c Thượng nghị sĩ của phe mình chỉ định và có trách nhiệm đảm bảo chủ quyền lãnh thổ trong thời gian có chiến tranh. Trong Hiến ph|p năm 1795 của nền Cộng hòa đệ Nhất, ta có thể thấy biểu hiện không chấp nhận nền Chuyên chế quân chủ và sự độc tài tập thể qua việc định rõ ranh giới tuyệt đối giữa cơ quan lập ph|p v{ h{nh ph|p cũng như việc phân định quyền lực rõ ràng trong từng cơ quan n{y. Đứng đầu nền Cộng hòa là Hội đồng Tổng thống gồm 5 th{nh viên, được gọi là Nội các chấp chính do Quốc hội lập hiến bầu ra và 1/5 số th{nh viên được bầu mới lại h{ng năm. Có một trò chơi c}n bằng lực lượng phức tạp giữa hai hội đồng, Hội đồng 500 Nghị sĩ đề nghị một danh sách gồm ứng viên cho mỗi chỗ trống của Nội các chấp chính, và Hội đồng Phái cựu chọn trong danh s|ch đó một người, đảm bảo rằng đó l{ những người đại diện cho toàn thể nh}n d}n khi người dân làm chủ (hay chí ít là của bộ phận dân chúng tham gia bầu cử bởi vì dân phải đóng khoản thuế bầu cử khi tham gia bỏ phiếu). Là bộ phận đứng đầu Nh{ nước và Chính phủ, trên lý thuyết, 5 thành viên của Nội các chấp chính có phạm vi quyền lực đ|ng kể nhưng thực tế lại khó sử dụng những quyền h{nh đó vì mỗi khi cần đưa ra quyết định thì phải có ít nhất 3 phiếu
thuận. Cơ chế này dẫn đến hậu quả là những mánh khóe, thủ thuật, kéo bè kéo cánh, phát triển trong khi tập thể 5 thành viên của Nội các chấp chính phải cùng tồn tại với hai hội đồng lập pháp (mà giữa hai hội đồng này vốn đ~ có sự phân chia quyền lực). Kết quả là một chế độ bất lực và hỗn loạn ra đời phó mặc nền Cộng hòa đệ Nhất cho những trận đ|nh của một vị tướng ham mê chiến thắng.
Ra đời v{ th{nh hình theo c|ch đó nên trong suốt hai thế kỷ XIX, XX, nền Cộng hòa bị giằng xé giữa hai hình th|i tr|i ngược nhau mà không hình thái nào thực sự thỏa mãn ý nguyện của dân chúng: hình thái chính trị thứ nhất với một Tổng thống l{ đại diện quốc gia nhưng không có thực quyền, quyền lực thật sự được giao cho các Nghị sĩ do d}n bầu ra và chính phủ do đa số Quốc hội chọn ra; hình thái thứ hai là có một Tổng thống thực quyền, l{ người đứng đầu Nh{ nước và Chính phủ, có những quyền hành quan trọng, đảm nhiệm đồng thời chức năng đại diện và chỉ đạo, có khả năng duy trì trật tự v{ l~nh đạo đất nước, nhưng lại có nguy cơ lạm dụng phần nào chủ quyền dân tộc để phục vụ lợi ích riêng của mình. Hình thái thứ nhất l{m người ta nuối tiếc một quyền lực thực sự hiệu quả, có tính giám hộ và là cái cớ cho những lời chỉ trích nền Cộng hòa từ phía những người quân chủ khi họ ví nền Cộng hòa như hình ảnh “một người phụ nữ không đầu”; Hình th|i thứ hai lại khơi dậy sự phản đối chống lại chuyên chế độc quyền, hình ảnh gợi nhớ đến chế độ quân chủ.
Nền Cộng hòa đệ Nhị lưu ý để không phạm phải cùng một sai lầm của nền Cộng hòa đệ Nhất bằng cách làm tê liệt bộ máy hành pháp. Lo lắng l{m sao để đảm bảo trật tự xã hội đ~ khiến họ cần tìm ra một người đứng đầu có khả năng l{m được điều đó. Vì vậy, họ đ~ giao cho Tổng thống quyền hành thật sự của một người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p v{ đ~ chọn Louis-Napoléon Bonaparte, người thừa kế ngai vàng của vương quyền để đóng vai n{y. Tuy nhiên, ông đ~ đóng qu| tốt vai của mình. Sau ba năm cầm quyền, ông đ~ đặt dấu chấm hết cho nền Cộng hòa bằng cuộc đảo chính ngày 2/12/1851 và thiết lập quyền hành riêng trước khi tái thiết Đế chế… Sự sụp đổ của Đế chế đệ Nhị ngày 4/9/1870 kéo theo sự tuyên bố chế độ Cộng hòa một cách bất ngờ nhưng Quốc hội được bầu v{o th|ng 2/1871, sau đó đ~ vội vàng soạn thảo bản Hiến pháp, thì chủ yếu lại do những người quân chủ lập nên. Với mong muốn tái thiết nền quân chủ, Quốc hội n{y đ~ tạo lập nên vị trí Tổng thống mà thực chất ẩn sau đó l{ những quyền lực của một qu}n vương. Điều đó giải thích tại sao vị Tổng thống đầu tiên thực thi quyền hành của mình trong khuôn khổ Hiến pháp mới, thống chế Mac-Mahon đ~ h{nh xử như một vị nhiếp chính. V{ cũng chính vì vậy mà mọi cố gắng của phe Cộng hòa, vốn là một bộ phận cơ bản của chế độ chính trị mà họ đang x}y dựng, đều nhằm vào việc tước bỏ của Tổng thống những quyền lực mang tính quân chủ mà Hiến pháp đ~ trao cho ông. Vì vậy, lịch sử của nền Cộng hòa đệ Tam là câu chuyện về sự suy thoái liên tiếp quyền lực của Tổng thống, điều m{ đa số các Tổng thống thời kỳ đó chấp nhận, chỉ một vài Tổng thống phản kh|ng nhưng vô ích. Kế thừa quan điểm đó, nền Cộng hòa đệ Tứ bộc lộ trong bản Hiến pháp của mình sự cảnh giác với quyền lực cá nhân, thực chất chỉ là một sự tiếp tục truyền thống của nền Cộng hòa đệ Tam.
Nền Cộng hòa đệ Ngũ mở ra một giai đoạn mới cắt đứt hoàn toàn với những nền Cộng hòa trước. Tướng De Gaulle, người sáng lập chế độ mới, chưa bao giờ che giấu quan điểm ủng hộ một quyền hành pháp mạnh do Tổng thống đảm nhiệm. Nội dung bản Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Ngũ phản |nh rõ quan điểm n{y, tuy nhiên, cũng đ~ được c|c đảng phái chính
trị cùng kết hợp soạn thảo sửa đổi những nội dung gợi nhắc đến quyền lực c| nh}n. Nhưng thực tế áp dụng hiến pháp và việc sửa đổi hiến ph|p v{o mùa thu năm 1962 cũng đ~ nhanh chóng vượt quá giới hạn mỏng manh của những điều luật cho phép người đứng đầu Nhà nước l{ người điều hành duy nhất đời sống chính trị nước Pháp. Kết quả l{ đặc quyền của Tổng thống được tiếp tục duy trì và mở rộng dưới thời của Tướng De Gaulle và những người kế nhiệm ông.
Tuy nhiên, những thể chế qui định quyền lực của Tổng thống có vẻ như đ~ bị thay đổi về cơ bản kể từ khi xảy ra tình trạng chung sống chính trị năm 1986, lúc đó vốn chỉ được coi như một giải pháp tình thế tạm thời nhưng đ~ được lặp lại nhiều lần và tồn tại suốt 9 năm trên chính trường giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2002, sau đó l{ việc khôi phục v{o năm 2001 thời hạn nhiệm kỳ Tổng thống l{ 5 năm thay vì 7 năm. Những thay đổi này tạo nên hình thái chính thể tay đôi cho vị trí đứng đầu Nh{ nước, hình thành sự ph}n đôi quyền hành pháp giữa một bên là Tổng thống - trọng tài với vai trò mang tính đại diện và một bên là Thủ tướng đứng đầu chính phủ thuộc về đa số của Nghị viện, đảm nhiệm vai trò “x|c định và dẫn dắt hoạt động chính trường của đất nước”, theo điều 20 Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Tứ. Mặt khác, việc đồng nhất thời hạn nhiệm kỳ Tổng thống theo thời hạn bầu cử cơ quan lập ph|p đ~ l{m mất đi tính đặc trưng của việc bầu cử Tổng thống vốn đ~ được x|c định từ năm 1965. Điều có thể nhận thấy rõ ràng là từ sau những lần sửa đổi như vậy, Tổng thống thứ 23 của nước Cộng hòa Pháp sẽ đảm nhiệm những chức năng đ~ được đổi mới (có thể là hạn chế hơn). Liệu có phải ông sẽ l{ người khởi đầu của nền Cộng hòa đệ Lục mà hiện chúng ta (người Pháp - ND) đang chớm bước v{o ngưỡng cửa của nó, theo như c|c nh{ b|o v{ gi|o sư luật vẫn đua nhau khẳng định?
Sau những tìm hiểu về quyền lực được qui định theo thể chế của 22 vị Tổng thống của nền Cộng hòa, chúng ta nhận thấy sau đó l{ lịch sử của 22 con người đ~ đảm nhiệm theo những cách khác nhau vai trò của mình dựa trên cá tính, kỳ vọng và tham vọng của từng người. Tính xảo quyệt của kẻ mưu phản như của Louis-Napoléon Bonaparte, sự đơn giản và tính thẳng thắn của người miền Nam của Fallières, tính nghiêm khắc tuân thủ luật pháp và những hi vọng thầm kín của Raymond Poincaré, thiên hướng thích độc quyền của Mitterrand, sự kín đ|o đến gần như tự giấu mình của Lebrun và Coty, sự tỏa sáng của Charles De Gaulle… mỗi người mỗi cách, tất cả dệt nên một bản tiểu sử của 22 người Pháp đ~ từng là hiện thân của đất nước trong v{i năm, v{i th|ng hoặc vài tuần. Điều đó c{ng cho thấy lịch sử của thể chế Tổng thống không thể tách rời lịch sử của những nhân vật nắm giữ chức vụ quan trọng và tế nhị này.
CUỘC KIẾM TÌM NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU NỀN CỘNG HÒA (1848 - 1879)
Tháng 2/1848, cuộc cách mạng đột ngột của người d}n Paris đ~ ph| bỏ nền Quân chủ tháng Bẩy , kết thúc giai đoạn thử nghiệm chế độ Quân chủ hiến định tại nước Pháp. Trong không khí sục sôi và bối rối, các nhà báo và nghị sĩ đối lập đ~ lập danh sách các Bộ trưởng cho một
chính phủ tạm thời của nền Cộng hòa đệ Nhị trong khi không ai biết chế độ mới sẽ như thế nào, sẽ được l~nh đạo ra sao. Kinh nghiệm duy nhất về chế độ Cộng hòa m{ nước Ph|p đ~ từng trải qua là nền Cộng hòa đệ Nhất ra đời th|ng 9/1792 nhưng phải 3 năm sau mới có
Hiến pháp và thực chất chỉ l{ để trấn an giai cấp tư sản và tầng lớp nông d}n đang khao khát ổn định và trật tự. Đối với phần lớn người d}n Ph|p lúc đó, nền Cộng hòa mới chỉ được biết đến qua một thời kỳ của nỗi kinh hoàng, tiếp sau đó l{ thời kỳ hỗn loạn của Nội các chấp chính và kết thúc bằng chế độ độc tài quân sự kiểu Napoléon. Không có hình thái chính trị nào có thể thỏa nguyện ước của d}n chúng lúc đó - những người vừa mong muốn phát triển thành tựu của tư tưởng cuộc cách mạng 1789, vừa muốn phát triển nền kinh tế hưng thịnh qua sự phát triển của giai cấp tư sản, không thực hiện giải phóng ruộng đất vừa sợ hãi sự nổi dậy của nông dân hoặc nổi loạn ở thành thị lại vừa sợ mất tự do của chính mình.
Để x|c định bản chất của nền Cộng hòa và hình thức dẫn dắt nền Cộng hòa đó v{ nhằm thỏa mãn những mong muốn nêu trên một cách toàn diện nhất, những nhà sáng lập nền Cộng hòa đệ Nhị v{ đệ Tam đ~ từng bước kế tiếp nhau áp dụng chế độ Cộng hòa. Sự lựa chọn của họ nhằm mục tiêu chủ yếu là gây dựng một chế độ chính trị với một Tổng thống có quyền lực rộng lớn đủ để l~nh đạo một đất nước vốn đ~ bất ổn từ cuộc cách mạng 1848, từ sự thất bại và biến động xã hội năm 1871 một c|ch cương quyết và cứng rắn. Khả năng thứ nhất là lựa chọn hi sinh tự do để đổi lấy trật tự. Khả năng thứ hai là sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng mà kết thúc bằng việc xem xét lại vai trò của Tổng thống được qui định trong Hiến pháp, Tổng thống có thể phải chịu lép vế trước Nghị viện. Nền Cộng hòa đệ Nhị bị vị Quân vương-Tổng thống l|i th{nh Đế chế đệ Nhị, }m mưu của nền Cộng hòa đệ Tam muốn gọt giũa Tổng thống thành một nhà quân chủ tương lai sẽ toàn quyền trị vì v{ l~nh đạo, hai trải nghiệm đó đ~ l{m tiền đề về l}u d{i cho ý tưởng về một Tổng thống mạnh trong nền Cộng hòa. Kể từ những năm 1880, truyền thống nền Cộng hòa đ~ coi như l{ có sự đối kháng cơ bản giữa nền Cộng hòa v{ người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p mạnh, và chỉ những Tổng thống chịu giữ vai trò mang tính đại diện hình thức v{ không có ý định mở rộng quyền lực của mình mới xứng đ|ng được công nhận là những nhà Cộng hòa.
- 1 - LOUIS-NAPOLE'ON BONAPARTE: NỀN CỘNG HÒA VÀ ÔNG HOÀNG
(10 th|ng 12 năm 1848 - 2 th|ng 12 năm 1851)
“C|c ng{i có chắc rằng trong số tất cả những người sẽ nối tiếp kế vị chức vụ Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm n{y thì không một ai có tham vọng ở mãi vị trí đó không? Nếu đó là con cháu của một trong những dòng họ đ~ từng cai trị nước Ph|p, v{ con người này thực tế chưa từng bao giờ vứt bỏ hoàn toàn những thứ mà ông ta gọi là quyền lợi của mình? Và nếu nền kinh tế của đất nước đang trong tình trạng trì trệ, d}n chúng đang đói khổ, người đó biết rằng trách nhiệm trước sự nghèo đói v{ thất vọng này thuộc về chính những người đang ngầm có kế hoạch chống lại tự do của ông ta sau những lời hứa của mình. Trong hoàn cảnh đó, c|c ng{i thử trả lời xem liệu con người tham vọng đó có lật đổ được nền Cộng hòa không?”
Chúng ta đang ở vào thời điểm ngày 8/10/1848, Quốc hội Lập hiến, được bầu ra sau ngày lật đổ vua Louis-Philippe, đang thảo luận bản Hiến pháp của nền Cộng hòa đệ Nhị lúc đó không còn ở giai đoạn tốt đẹp đặc trưng của thời kỳ đầu nữa. Các vấn đề xã hội đ~ g}y rạn nứt giữa những nhà Cộng hòa trung lập chiếm đa số tại Quốc hội và tầng lớp công nhân mà việc kiếm miếng cơm manh |o h{ng ng{y đ~ trở thành vấn đề ám ảnh.
Th|ng S|u năm đó, Quốc hội đ~ quyết định chấm dứt hoạt động của những ph}n xưởng quốc gia (một tập hợp những xí nghiệp xây dựng các công trình công cộng do Chính phủ đầu tư nhằm giải quyết việc l{m cho người thất nghiệp). Những ph}n xưởng n{y đ~ từng giúp công nhân không bị chết đói. Trước quyết định n{y, người lao động Paris đ~ nổi dậy phản đối. Tướng Cavaignac , một người Cộng hòa đ~ đ{n |p cuộc biểu tình “những ngày th|ng S|u” n{y trong biển máu. Với h{nh động này, nền Cộng hòa đ~ chính thức tự tước bỏ đi điểm tựa của mình vào dân chúng. Từ thời điểm đó, nền Cộng hòa dần chuyển sang phe tả và những người theo chủ nghĩa qu}n chủ, những người đ~ từng khiếp sợ sau cuộc Cách mạng tháng Hai nay bắt đầu lấy lại hi vọng. Những người này tập hợp trong Đảng Trật tự Xã hội , được chỉ đạo một cách chắc chắn từ những cựu Bộ trưởng của chế độ Quân chủ tháng Bảy như Thiers, Molé, Broglie, Barrot, họ đang chờ thời cơ của mình. Giữa những nhà quân chủ và những người Cộng hòa trung lập, sau cuộc thảm s|t d}n chúng “những ngày th|ng S|u” thì chỉ có một lực lượng có thể thay thể được, đó l{ qu}n đội. Nhưng người ta vẫn chưa biết qu}n đội sẽ theo Cavaignac và phe Cộng hòa trung lập hay tướng Changarnier và những người thuộc Đảng này.
Chính trong hoàn cảnh đó, Quốc hội tiến hành thảo luận đề ra những thể chế cho nền Cộng hòa v{ đặc biệt về khả năng đặt vào vị trí đứng đầu nền Cộng hòa một vị Tổng thống theo kiểu Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nghị sĩ Cộng hòa Jules Grévy (người sau này trở thành Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Tam) vừa đưa ra lời cảnh báo tới đồng nghiệp của mình, phần đông những người này ủng hộ việc bầu Tổng thống theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Trong suốt bài diễn văn n{y, mọi cặp mắt đổ dồn về phía người đ{n ông có gương mặt gầy
gò, vừa khẽ xoắn ria mép vừa quan sát cuộc tranh luận với cặp mắt lơ đễnh, không biểu hiện một chút xúc động hay một chút hứng thú n{o, đó l{ ông ho{ng Louis-Napoléon Bonaparte. Ông hoàn toàn không có ý ngắt lời Grévy. Chẳng phải ông đang tỏ rõ mình là người Cộng hòa một cách rõ ràng sao? Vả lại, một người khác sẽ trả lời giúp ông. Quốc hội có vẻ xáo động do lời cảnh báo của Grévy khi thấy bước lên trước bục thuyết trình là con người có khả năng hùng biện hay nhất của phe Cộng hòa trung t}m, nh{ thơ Alphonse de Lamartine, người cha đỡ đầu của nền Cộng hòa, như l{ người khơi m{o cho Chính phủ lâm thời. Tài hùng biện của ông sẽ làm xoay chuyển Quốc hội: “Chúng ta sợ rằng sự cuồng tín v{o người thừa kế dòng họ sẽ đưa đất nước vào tình trạng nguy hiểm […] V{ đ}y, tôi khẳng định rằng những nhóm người, những bọn phiến loạn đ~ từng }m mưu chiếm đoạt địa vị sẽ chỉ tự lừa dối mình trong hi vọng hão huyền. Tôi khẳng định rằng để lại có một biến cố ngày 18 th|ng Sương mù nữa trong hoàn cảnh hiện nay cần có hai điều kiện: có trong quá khứ nhiều năm trường đen tối v{ trong tương lai nhiều chiến thắng Marengo . […] Người ta có thể bỏ độc một cốc nước nhưng không thể bỏ độc cả một dòng sông. Đ}y đúng l{ một cuộc hội họp đ|ng ngờ một quốc gia không thể bị biến chất do nó rộng lớn như đại dương vậy […] Tôi tin v{o độ chín của một quốc gia vốn đ~ có 55 năm hoạt động chính trị để tập quen với tự do”.
Vẫn ở tư thế bất động, Louis-Napoléon Bonaparte chứng kiến việc Quốc hội quyết định cần có một Tổng thống cho nền Cộng hòa v{ người đó sẽ được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Nhưng thế vẫn chưa hết. Ngày hôm sau, ngày 8/10, một Nghị sĩ c|nh hữu là Thouret, đưa ra đề nghị những đại diện của các dòng tộc đ~ từng cai trị nước Pháp không được quyền tham gia cuộc tranh cử Tổng thống.
Trong buổi tranh luận này, một diễn giả đ~ quay về phía ông Hoàng chất vấn: “Về con người có thể g}y t|c động đến những }m mưu thiết lập vương quyền, người đó đang ở đ}y, ông ta cần phải giải thích!”.
Chịu sức ép từ nhiều phía, Louis-Napoléon Bonaparte quyết định bước lên bục phát biểu. Trong tâm trạng bối rối, vừa nói vừa tìm từ diễn đạt, ông ta đ~ đưa ra một lời tuyên bố thật thảm hại: “Thưa c|c đại biểu công d}n, tôi không lên đ}y để phản đối những sửa đổi của ngài Thouret. Chắc chắn rằng tôi đ~ xứng đ|ng được hưởng lại quyền của một công dân và không còn có bất cứ tham vọng kh|c n{o. Tôi cũng không lên đ}y để bày tỏ sự khiếu nại của tôi đối với những điều vu khống hay }m mưu m{ người ta g|n cho tôi. Nhưng nh}n danh 300.000 cử tri đ~ bầu tôi m{ tôi lên đ}y để tố c|o v{ lên |n c|i }m mưu ngấp nghé vương quyền m{ người ta g|n cho tôi”. Sự tuyên bố rút lui thận trọng, lời lên án một cách chính thức mọi }m mưu chiếm đoạt vương quyền, lại thêm vẻ mặt đ|ng thương của một kẻ “ngấp nghé” đ~ g}y cười nhiều hơn l{ lo lắng. Giữa lúc đó, ông Thouret đ~ rút lại đề nghị sửa đổi của mình. Quốc hội thì không còn quan t}m đến nhân vật đ|ng thương vốn là hậu duệ của một ho{ng đế vĩ đại.
“Kẻ đần độn bị dắt mũi”
Charles-Louis-Napoléon Bonaparte (tên gọi n{y do chính Ho{ng đế Bonaparte chọn) sinh ng{y 20 th|ng 4 năm 1808 tại Paris. Theo hộ tịch, ông là con trai của Louis Bonaparte, em út của Ho{ng đế Bonaparte, Vua Hà Lan - và Hoàng hậu Hortense con gái với người chồng đầu của Hoàng hậu Joséphine. Nhưng gia đình Vua Louis đ~ trải qua nhiều giông b~o đến
mức sống ly thân, trừ giai đoạn hòa giải ngắn và Hoàng hậu thì đã có nhiều nh}n tình đến mức nhiều nghi ngờ về tính hợp pháp của Louis-Napoléon còn lưu m~i về sau. Sau khi đế chế sụp đổ, Hoàng hậu Hortense chính thức rời bỏ vĩnh viễn chồng mình v{ đến sống lưu vọng tại Thụy Sĩ với người con út Louis-Napoléon trong khi người con trai cả là Napoléon Louis sống cùng bố. Hoàng tử Louis đ~ sống thời tuổi trẻ của mình tại Thụy Sĩ, nơi ông đ~
v{o qu}n đội và thậm chí đ~ trở thành Thiếu uý trong qu}n đội Thụy Sĩ sau đó ông rong ruổi khắp ch}u Âu. Năm 1830, người ta thấy ông xuất hiện ở Italia v{ cùng người anh trai tham gia hoạt động chống lại Giáo hoàng Grégoire XVI, những người Romagnol nổi loạn. Sau cuộc thập tự n{y, người anh cả là Napoléon-Louis chết vì bệnh sởi. Hai năm sau, Công tước Reichstadt, con trai của Napoléon và Hoàng hậu Marie-Louise, l{ người thừa kế ngôi vị, cũng qua đời. Từ đó, Louis-Napoléon được đưa lên vị trí người thừa kế và ngay lập tức đ~ có vụ tai tiếng với người trưởng họ Joseph - anh cả của Napoléon và là cựu Ho{ng đế của T}y Ban Nha. Joseph đ~ ho{i công khi lưu ý với Louis rằng danh hiệu của ông ta không hợp lệ chừng nào ông ta còn sống. Nhưng Louis không bận lòng đến lời n{y cũng như những lời khuyên phải thận trọng của những th{nh viên kh|c trong gia đình như Lucien, vua cũ của Westphalie JeRoma và con trai ông.
Được một v{i người thân thích khích lệ trong đó phải kể đến Persigny, một sĩ quan đ~ bị đuổi khỏi qu}n đội năm 1832 do có những tư tưởng Cộng hòa, sau đó từ năm 1834 đ~ trở thành một trong những người ủng hộ trung thành của Louis-Napoléon, người thừa kế đ~ hai lần thử thực hiện những cuộc viễn chinh tại Ph|p. Năm 1836, ông cố gắng đ|nh đuổi qu}n đồn trú tại Strasbourg nhưng thất bại thảm hại. Lo sợ có thể dẫn đến cảnh tử vì đạo, Chính phủ của Louis-Philippe đ~ trục xuất ông sang châu Mỹ. Năm 1840, một lần nữa cố gắng thực hiện ý đồ của mình nhưng lại thất bại, lần này là tại Boulogne. Ông đ~ bị bắt và bị kết án chung thân và giam tại ph|o đ{i Ham. Tại đ}y, ông đọc rất nhiều v{ đ~ viết một vài cuốn sách. Vì việc n{y, ông đ~ tự hào rằng đ~ từng sống ở “Trường Đại học Ham” để hoàn thiện vốn văn hóa của mình.
Năm 1846, ông trốn sang Anh v{ hai năm sau, ông biết một cuộc nổi dậy ở Paris vừa lật đổ vua Louis-Philippe. Ngay lập tức, ông trở lại Pháp và sẵn sàng nắm lấy thời cơ của mình. Nhưng chính phủ nghi ngờ sự có mặt của ông nên ông phải trở lại nước Anh. Tại Pháp, một nhóm nhỏ những người ủng hộ ông, đứng đầu l{ Persigny, đ~ không ngồi yên và thực hiện một đợt tuyên truyền mạnh mẽ ủng hộ ông hoàng của mình. Trước ngày diễn ra cuộc thảm sát Những ng{y th|ng S|u, ông đ~ có được ghế cử tri trong vòng bầu cử địa phương. Bốn tỉnh của nước Ph|p đ~ bầu cho ông, và với sự dẫn dắt của Persigny, một ngọn lửa ủng hộ dòng họ Bonaparte đ~ lan khắp nước Pháp: diễu hành, báo chí ngợi ca và ủng hộ người kế vị. Từng đó đủ để Quốc hội phản đối và phủ nhận kết quả bỏ phiếu. Ông ho{ng để cơn sốt đó lắng xuống và chờ đến tháng Chín ra tranh cử lại một lần nữa v{ được năm tỉnh bầu. Quốc hội do không thể phủ nhận giá trị của bầu cử phổ thông đầu phiếu đ~ phải thừa nhận kết quả bầu cử lần này. Louis-Napoléon bắt đầu tìm cách xóa bỏ sự hằn thù của các nghị sĩ trong Quốc hội bằng cách tạo dựng trong mắt họ một hình ảnh mới về bản thân mình.
Người cùng thời miêu tả người kế vị là một người có ngoại hình rất xấu với một c|i đầu quá to, ngực lép, chân ngắn, khuôn mặt như bị hàng ria nặng nề nuốt mất, nhất là cặp mắt vô hồn với một vẻ lờ đờ th}m căn. Những từ miêu tả kém tính ca ngợi nhất xuất hiện ngày càng nhiều: “kẻ ngu xuẩn bị dắt mũi”, nói như Thiers hay “một loại ngu đần”, theo cách nói của Lammenais. Đó l{ người được Đảng Trật tự Xã hội chọn làm ứng cử viên cho cuộc bầu cử Tổng thống Cộng hòa vào tháng 11/1848.
5 triệu phiếu bầu cho người kế vị dòng họ Bonaparte
Sự lựa chọn này có thể gây ngạc nhiên khi người ta biết được sự đ|nh gi| đ|ng thương về người kế vị từ phía những người l~nh đạo Đảng Trật tự Xã hội. Chúng ta sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng đó l{ ý kiến của ông Thiers, người vốn nổi tiếng là không thể bị đ|nh ngã. Chúng ta có thể hiểu rõ hơn sự lựa chọn này khi nhớ lại những mục đích của Đảng này và nhân cách của những th{nh viên trong Đảng.
Đảng Trật tự Xã hội luôn nghĩ đến việc đặt dấu chấm hết cho một nền Cộng hòa yếu ớt đ~ tồn tại quá lâu. Hiện nay, khi dân chúng không còn là chỗ dựa cho nền Cộng hòa nữa thì việc cần làm là loại bỏ những người Cộng hòa ôn hòa đang chiếm vị trí cao trong xã hội: vì vậy cần bầu ra một ứng cử viên là một người bảo thủ kỳ cựu. Trong Đảng không thiếu những người như vậy v{ chính Thiers cũng mơ rằng một lúc n{o đó mình sẽ được bầu vào vị trí n{y. Nhưng những sự kiện vừa diễn ra trong thời ngự trị của Louis-Philippe còn quá mới để mà một trong số các vị Bộ trưởng của thời Louis-Philippe, với một chút may mắn, được ủng hộ rộng khắp nhằm được bầu vào vị trí người cầm quyền hành pháp của nền Cộng hòa. Mặt khác, Thiers nhanh chóng nhận thấy rằng nếu người dân Pháp hoàn toàn không biết về tính c|ch v{ con người của ông hoàng Louis thì họ lại thấy cái tên của ông ta rất thân thuộc, thân thuộc với hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Không một ứng cử viên nào khác tỏ ra thích hợp hơn con người lu mờ n{y. Đảng đ~ quyết định tận dụng tính quần chúng của cái tên của ông ta rồi sau đó sẽ điều khiển ông ta theo ý của mình.
Và từ đó đ~ bắt đầu các cuộc thảo luận không ngừng giữa Louis-Napoléon và những người l~nh đạo Đảng. Trong những cuộc thảo luận đó, Louis-Napoléon biết cách tỏ ra mình là một người mềm tính, phục tùng và dễ thương. Từ đó ông tổ chức một chiến dịch, phần lớn do chính ông điều hành, mang tính chuyên nghiệp trong việc lấy lòng cử tri. Mỗi cử tri đều có thể tìm thấy lợi ích của mình; từ những người công gi|o được hứa hẹn “sẽ được tự do tế lễ và tự do giảng đạo” cho đến những người công nh}n như nhìn thấy hình ảnh một “nền Cộng hòa rộng lượng”; hay những người chủ sở hữu tài sản với lời hứa “bảo vệ quyền sở hữu… l{ đảm bảo độc lập và tự do sở hữu, cơ sở không thể thiếu cho tự do công d}n”; cũng như vậy với qu}n đội, nông d}n…
Đối thủ có trọng lượng nhất l{ tướng Cavaignac, người thuộc phe Cộng hòa ôn hòa. Ông là người được gắn liền với nền Cộng hòa, v{ l{ người “cứu vớt trật tự” trong cuộc đ{n |p “Những ng{y th|ng S|u”. Ông hi vọng có được sự ủng hộ của phe Bảo thủ nếu phe này không trao số phiếu của mình cho đối thủ của ông. Nhưng những ký ức về “Những ngày th|ng S|u” lấy mất của Cavaignac sự ủng hộ ở những thành phố có tầng lớp công nh}n đông
đảo. Điều này tạo cơ hội chiến thắng cho Ledru-Rollin, ứng cử viên của những người “miền núi”, những người Cộng hòa cấp tiến, v{ cơ hội cho Raspail, đại diện của Đảng Xã hội. Cuộc bầu cử ngày 10/12/1848 mang lại chiến thắng cho người cháu của Ho{ng đế Bonaparte với 5,5 triệu phiếu bầu từ mọi miền của nước Ph|p: Tư sản thủ cựu bầu cho người theo Đảng Trật tự Xã hội, đối thủ của nền Cộng hòa; nông dân với những kỷ niệm sống động về vị Ho{ng đế trong quá khứ, công nhân do thất vọng với nền Cộng hòa đ~ bầu cho người mang cái tên gợi cho họ nhớ đến thời kỳ Cách mạng 1789. Những đối thủ của ông ta không chỉ thất bại mà còn hoàn toàn bị đè bẹp. Cavaignac, người đứng cao nhất cũng chỉ có 1,5 triệu phiếu bầu; Ledru-Rollin được 370.000 phiếu; Raspail được 36.000 phiếu và Lamartine, không phải là ứng cử viên được 17.000 phiếu.
Được bầu theo phổ thông đầu phiếu, vị “Qu}n vương-Tổng thống” n{y liệu có l{m như Thiers mong muốn, làm một tù binh của Đảng Trật tự Xã hội không? Trong một năm, người ta nghĩ l{ có thể.
Cuộc đảo chính tháng 10/1849
Vào thời điểm Louis-Napoléon lên nắm quyền, Hiến pháp thừa nhận những đặc quyền nào cho Tổng thống? Tổng thống mới đắc cử l{ người nắm quyền hành pháp: Tổng thống có qu}n đội nhưng không thể điều h{nh nó nh}n danh c| nh}n; được quyền bổ nhiệm và bãi miễn các Bộ trưởng và viên chức, ký hiệp ước và tuyên bố chiến tranh, nhưng chỉ có thể thực thi những quyền hạn này nếu có sự đồng thuận của Quốc hội. Tổng thống chịu trách nhiệm về những hành vi của chính phủ của mình, nhưng tr|ch nhiệm n{y không được thực thi trước Quốc hội và Quốc hội không thể lật đổ Tổng thống. Đổi lại, Tổng thống không thể can thiệp vào Quốc hội ngay cả khi có sự phản bội nghiêm trọng, không thể giải t|n, đình hoãn hoạt động hay thu ngắn nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội. Trong trường hợp có sự phản bội nghiêm trọng, phải có sự thừa nhận của một tòa án tối cao.
Một bản Hiến ph|p như vậy làm cho quyền lực của hai cơ quan ph|p quyền quá xa cách nhau, cơ quan h{nh ph|p v{ lập pháp không có quyền can thiệp lẫn nhau. Điều đó có thể dẫn đến một tình huống nguy hiểm: trong trường hợp nảy sinh mâu thuẫn giữa hai cơ quan này thì giải pháp duy nhất l{ đảo chính và chúng ta sẽ còn nghe nói nhiều đến điều này trong sự tồn tại ngắn ngủi của nền Cộng hòa đệ Nhị. Tuy vậy, những th|ng đầu tiên Tổng thống mới hành xử theo như lời hứa với Thiers. Tổng thống tỏ ra l{ người phục vụ ngoan ngoãn của Đảng Trật tự Xã hội. Ông hoàn toàn bị cách biệt. Ngoài một v{i người thân cận như Persigny, ông không thể trông cậy vào bất cứ một lực lượng n{o kh|c trong nước Pháp: không một lực lượng chính trị nào hỏi đến ông, hầu hết tất cả đều rất cảnh giác với ông, còn Đảng Trật tự Xã hội thì sử dụng ông. Qu}n đội lưỡng lự trong việc lựa chọn Cavaignac hay Changarnier, nếu danh tiếng của một vị qu}n vương gần gũi với qu}n lính v{ đội ngũ hạ sĩ quan thì giới quan chức đang mơ ước tạo lập sự nghiệp lại hoàn toàn không muốn gắn mình với một người có một vị trí mong manh như ông. Chính vì lẽ đó m{ Louis-Napoléon tỏ ra thận trọng. Ông yêu cầu Ordilon Barrot - một người của chế độ Quân chủ tháng Bảy, người được đa số Quốc hội tin cậy - thành lập một bộ và bằng cách không can thiệp vào công việc của bộ, ông để Odilon Barrot điều hành. Vậy l{ khi đ~ lên được vị trí tối cao, ông kiên nhẫn chờ đợi thời cơ để mình có thể tồn tại ở vị trí đó vĩnh viễn trong lúc tạm nén những tham
vọng của mình v{ để những nhân vật còn lại tự tìm hiểu nhau. Bằng chứng xác thực nhất cho chính sách của ông là cuộc viễn chinh Roma.
Năm 1848, một cuộc cách mạng đ~ đuổi Giáo hoàng Pie IX ra khỏi giáo phận của ông. Giáo ho{ng đ~ kêu gọi sự trợ giúp của các quốc gia Công giáo. Trong cuộc bầu cử, Louis Napoléon đ~ cam kết chính thức với những người Công giáo thuộc Đảng Trật tự Xã hội rằng ông sẽ duy trì quyền thế tục của Gi|o ho{ng. Hơn nữa vị Qu}n vương - Tổng thống lo ngại rằng Áo sẽ nhân dịp n{y mượn cớ giành lại quyền thế tục của Giáo hoàng, sẽ can thiệp vào Italia và thiết lập tại đất nước này chế độ bảo hộ. Với hai lý do đó, ông đ~ quyết định cử sang Roma một đội quân viễn chinh do tướng Oudinot cầm đầu. Nhưng nhiều nghị sĩ tại Hội đồng lập hiến, vốn phản đối quyền thế tục đ~ tỏ ra phẫn nộ khi thấy Cộng hòa Pháp can thiệp chống lại Cộng hòa Italia. Để trấn an họ, Oudinot đ~ giải thích mục đích của cuộc viễn chinh là nhằm hòa giải những người Cộng hòa và Giáo hoàng. Tuy nhiên, những người Cộng hòa Italia đ~ đ|p lại sự “hòa giải của Ph|p” bằng qu}n đội. Với lý do nhằm bảo vệ danh dự qu}n đội Pháp, Louis-Napoléon đ~ gửi tới Oudinot một l| thư qu}n sự nói rằng Oudinot là đại diện cho những người bảo vệ sự vinh quang của Tổ quốc. Thật là một động thái tuyên truyền khéo léo mà những người công giáo của Quốc hội không thể không thừa nhận vì nó có lý lẽ chính đ|ng. Thêm nữa, cuộc bầu cử Quốc hội lập ph|p ng{y 13/5/1849 đ~ loại bỏ mọi lo lắng của Tổng thống về cuộc viễn chinh Roma: Đảng Trật tự Xã hội đ~ chiến thắng trong cuộc bầu cử này. Ngày 3/7/1849, tướng Oudinot chiếm Roma. Bất chấp nhiều cố gắng của Louis-Napoléon nhằm hướng Giáo hoàng theo thế ôn hòa nhưng sự trở lại của Giáo hoàng Pie IX vẫn được dọn đường bằng cuộc trấn |p đầy bạo lực.
Nhưng Louis-Napoléon còn có những mối lo khác. Chiến thắng của Đảng Trật tự Xã hội trong cuộc bầu cử Quốc hội đ~ đặt ông ở thế mặt đối mặt với những người thuộc Đảng này, những người đ~ bầu ông là ứng cử viên cho họ. Nhưng họ lại không đồng ý để ông cầm quyền l~nh đạo theo cách không phục vụ lợi ích của họ. Vì vậy, Tổng thống v{ đa số Quốc hội chỉ thống nhất do cùng lo ngại trước một mối nguy hiểm chung, đó l{ sự nổi dậy của dân chúng. Chừng nào mối nguy hiểm n{y qua đi thì họ sẽ tách rời nhau.
Những cuộc bầu cử một mặt ghi nhận chiến thắng của Đảng Trật tự Xã hội, mặt kh|c đ|nh dấu những tiến bộ lớn của phe Cộng hòa cấp tiến, phe Dân chủ xã hội ủng hộ Ledru-Rollin. Những người này, do phản đối quyết liệt cuộc viễn chinh Roma, đ~ quyết định kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng. Ngày 13/7/1849, một cuộc biểu tình đ~ diễn ra ở Paris. Những nhóm qu}n do Changarnier, người chỉ huy Vệ quốc qu}n điều khiển đ~ giải tán cuộc biểu tình và buộc Ledru-Rollin v{ c|c tướng “người miền núi” phải rời khỏi nước Pháp. Tổng thống và Quốc hội đ~ kết hợp thống nhất nhằm ngăn chặn mối nguy hiểm này: báo chí bị bịt miệng, các cuộc hội họp bị cấm đo|n v{ Chính phủ đ~ nhận được những quyền lực ngoại lệ để đấu tranh chống lại những người Cộng hòa cấp tiến.
Nếu Tổng thống v{ đa số Quốc hội nhất trí với nhau trong việc chống lại những người Cộng hòa để tiến hành cuộc viễn chinh Roma v{ sau đó l{ dẹp tan bạo loạn của dân chúng thì họ lại bất đồng với nhau trong nhận định về những sự việc n{y. Phe đa số trong Quốc hội tỏ rõ th|i độ hài lòng, thỏa m~n (điều đó được tuyên truyền qua Thiers) về việc thiết lập chế độ chuyên chế tại Roma. Về phần mình, Tổng thống vì cho rằng “danh dự chính trị” của cuộc
viễn chinh đ~ bị nhạo báng bởi các cuộc đ{n |p nên đ~ gửi thông điệp đến Quốc hội để tỏ rõ ý kiến của mình. Nhưng Odile Barrot, do ngại sự phản đối của các Nghị sĩ nên đ~ từ chối đọc thông điệp đó trước Quốc hội. Louis-Napoléon nhân chuyện n{y đ~ thực hiện một hành động táo bạo: ông đ~ giải tán Bộ của Odile Barrot. Đ}y có thực là một cú táo bạo? Không đến mức như vậy! Tổng thống không phải không biết rằng Quốc hội vốn vẫn cho là Odile Barrot l{ người quá ôn hòa và không muốn n}ng đỡ ông ta.
Cú thực sự táo bạo nằm ở một h{nh động kh|c. Đó l{ việc lẽ ra thay Odile Barrot bằng một trong những thủ lĩnh của Đảng Trật tự Xã hội thì Tổng thống lại gọi đến một người ở vị trí thứ yếu, đó l{ tướng Hautpoul. Ngày 31/10/1849, Hautpoul (với sự trợ giúp đắc lực của một người đầy quỷ kế tên là Morny, em cùng mẹ khác cha của Tổng thống ) đ~ th{nh lập cho Tổng thống Bộ của những quan chức cấp cao. Từ đó, Tổng thống nền Cộng hòa thực sự điều hành theo một chính sách riêng của mình.
Tổng thống của tầng lớp bình dân, Quốc hội của tầng lớp quí tộc
Từ ngày Louis-Napoléon thành lập Bộ của những quan chức cấp cao tận tụy với mình (sau này còn thêm những người kh|c), thì hai đường lối chính trị được tạo ra tồn tại song song, đi theo hai đường hướng khác nhau và không có mục đích chung. Chính s|ch của Quốc hội là chính sách của phe cánh hữu, thực sự mang tính phản động nhằm mục tiêu bảo tồn phân
cấp xã hội và buộc dân chúng phải phục tùng.
Chính s|ch n{y đ~ l{m tiền đề cho sự ra đời của hai bộ luật đặc trưng: Luật Falloux ngày 15/3/1850, theo đó tăng lữ được quyền tự do giảng dạy và nắm quyền kiểm soát cao nhất trong bộ máy giáo dục của nh{ nước; và luật ng{y 31/5/1850, để đ|p lại việc bầu nhà tiểu thuyết Eugène Sue vào ghế nghị sĩ phe X~ hội, đ~ quyết định “sửa đổi hình thức phổ thông đầu phiếu”. Những người phản chính trị (những người thuộc cánh tả) và tất cả những ai không có một chỗ ở ổn định ít nhất trong ba năm (đa số là công nhân, thời đó họ thường xuyên phải thay đổi chỗ ở) sẽ không được tham gia bỏ phiếu.
Tổng thống thông qua những biện pháp này mà không ngờ vực gì, tuy nhiên nhưng ông để Quốc hội gánh trách nhiệm và chịu tiếng không mang tính quần chúng từ việc ra hai bộ luật này. Thật vậy, chúng ta thấy rằng ông đ~ không sử dụng quyền được qui định trong hiến ph|p theo đó ông có quyền cùng với các nghị sĩ thực hiện những thay đổi nhỏ với những luật quá phản động; ông cũng không sử dụng quyền đòi hỏi phải xem xét lại những luật này. Đó l{ bởi chính sách riêng của Qu}n vương - Tổng thống được đi theo một hướng hoàn toàn kh|c. Chính s|ch đó nhằm mục tiêu thiết lập trước hết trong nước một “đảng của Tổng thống” v{ sau đó buộc Đảng Trật tự Xã hội duy trì quyền lực của Tổng thống và Tổng thống sẽ không bị ngay lập tức bầu lại sau khi hết nhiệm kỳ 4 năm. Trong phạm vi nước Pháp, việc n{y không qu| khó vì ông đi lại rất nhiều. Trong những lần đó ông không bỏ lỡ một dịp nào để nói trực tiếp với công chúng về sự quan tâm, lo lắng chân thành của ông đối với họ, không qua c|c Đại biểu quốc hội. Bằng c|ch đó, một hình ảnh mới về vị Tổng thống đ~ được dựng lên: một người gần gũi với quần chúng, quan t}m đến các vấn đề của họ, tách biệt với Quốc hội của những thân hào quyền thế vốn phản động và thù nghịch với mọi hoạt động của quần chúng. Tuy nhiên, Quốc hội cũng không non nớt đến nỗi không nhận ra chính sách
đó. Nhưng để chống lại ông, họ lại không thể đưa ra một đề nghị thay thế do chính những mâu thuẫn nặng nề giữa c|c phe ph|i trong Đảng Trật tự Xã hội.
“Vương quyền đ~ được thiết lập!”
Mặt kh|c, đa số th{nh viên Đảng Trật tự Xã hội đang bị ru ngủ trong sự an toàn giả tạo từ những lời đảm bảo của Tướng Changarnier, người được cử làm chỉ huy đội quân ở Paris và nắm giữ toàn bộ lực lượng quân sự của thủ đô. V{o thời gian Quốc hội Hợp hiến, ông đ~ không ngừng đề nghị cùng Qu}n vương thực hiện đảo chính tái thiết Vương quyền. Do vấp phải sự từ chối của Tổng thống, người lúc đó không muốn đồng loã với một nhân vật nhiều quyền lực và thiếu tin cẩn, nên Changarnier đ~ ra mặt chống lại Tổng thống và tuyên bố với đa số rằng ông đủ mạnh để một ngày hạ gục Louis-Bonaparte.
Đầu năm 1851, ta có thể thấy rằng trong nước Pháp có một sự chia rẽ ý kiến nghiêm trọng, một bên cho rằng Tổng thống l{ người rất quần chúng, bên kia cho rằng ông ta bị cô lập về mặt chính trị. Tuy nhiên, đ}y sẽ l{ năm đ|nh dấu những ảnh hưởng qua lại giữa Tổng thống và Quốc hội. Và những mâu thuẫn đó sẽ kết thúc bằng cuộc đảo chính của Tổng thống, chính thức đặt dấu chấm hết cho một nền Cộng hòa mới được thử nghiệm. Sự có mặt của Tướng Changarnier đứng đầu các lực lượng quân sự ở thủ đô g}y một mối nguy hiểm thường trực đến Tổng thống. Nhưng rất khó để thoát khỏi vị tướng-nghị sĩ hùng mạnh và vốn có sự ủng hộ mạnh mẽ từ đa số Nghị sĩ quốc hội này. Chính vì vậy, Louis-Napoléon đ~ h{nh động với một sự thận trọng mềm mỏng và nham hiểm. Ông chậm rãi rình những sai lầm của Changarnier, đợi cho đến lúc ông này tự vướng vào rắc rối để rồi sẽ thoát khỏi ông ta một cách an toàn.
Th|ng 10/1850, Qu}n vương-Tổng thống đi kiểm tra h{ng ngũ duyệt binh ở trại Satory. Bộ trưởng chiến tranh, Tướng Hautpoul, đ~ thông b|o rằng Tổng thống sẽ đón nhận với ân huệ chiếu cố sự tung hô của qu}n đội. Nhưng Changarnier đ~ ra lệnh cấm mọi lời tung hô đón tiếp với lí do trái nguyên tắc quân sự. C|c sĩ quan dưới quyền, tuỳ vào việc nghe theo Hautpoul hay Changarnier đ~ cho phép hoặc cấm qu}n sĩ của mình tung hô đón tiếp Tổng thống. Ng{y hôm đó người ta đ~ nghe thấy những tiếng hô “Napoléon muôn năm” v{ cả “Ho{ng đế muôn năm!”.
Sự đối đầu chính thức được mở ra giữa Tổng thống và Quốc hội. Changarnier chuẩn bị một }m mưu thực sự để lật đổ Tổng thống. Về phía mình, Tổng thống nghĩ đến việc cách chức Changarnier. Nhưng cuối cùng cả hai đều lưỡng lự. Tổng thống ra lệnh thuyên chuyển trợ lý của Changarnier, Tướng Neumayer, người đ~ ra lệnh cho binh sĩ không được tung hô chào đón Tổng thống. Changarnier phản ứng lại bằng một nhật lệnh trong đó ông viện dẫn rằng quân lệnh cấm binh sĩ có những h{nh động biểu tình. Tổng thống nuốt nỗi nhục này một c|ch bình tĩnh. Nhưng đầu năm 1851, ông ta đột nhiên ra lệnh cách chức Changarnier. Phe đa số trong Quốc hội mất quá nhiều thời gian để tìm ra cách trả đũa v{ ngập trong một biển lớn những cuộc tranh luận để rồi kết thúc bằng cách phản ứng không gì khác ngoài một bài phát biểu hùng hồn của Thiers: “Hiện nay nh{ nước có chỉ hai quyền lực, quyền hành pháp
và quyền lập pháp. Nếu Quốc hội nhường một bước ng{y hôm nay […] thì chỉ còn một […] việc phải đến sẽ đến […] Vương quyền đ~ được thiết lập!”
Vậy là Quốc hội đ~ chịu nhường bước. Rút gươm ra khỏi phe đa số tại Quốc hội, vị Quân vương - Tổng thống đ~ phó mặc họ tự khu xử.
“Tôi chỉ thấy một sự ì trệ”
Tuy nhiên, vị Qu}n vương-Tổng thống dự tính giải quyết mâu thuẫn giữa ông v{ phe đa số trong Quốc hội một cách hòa bình. Có thể do ông nghĩ rằng mọi diễn biến xung quanh đều đang thuận lợi. Thật vậy, từ khắp đất nước đều có những dấu hiệu củng cố cho điều này: phe Dân chủ-xã hội, Cộng hòa cấp tiến không ngừng đạt được những tiến bộ trong chiến dịch bầu cử bất chấp những cố gắng của các Tỉnh trưởng vốn được trang bị những đặc quyền qui định từ những bộ luật năm 1849. Khẩu hiệu và tuyên truyền rộng khắp đ~ giúp họ giành kết quả trong những chiến dịch tranh cử, giống như chiến dịch tranh cử đ~ mang lại đa số ghế trong Quốc hội lập hiến cho Đảng Trật tự Xã hội năm 1849. V{ sẽ là hợp lý khi cho rằng chiến dịch bầu cử năm 1852 n{y sẽ mang lại cho họ đa số trong Quốc hội dù rằng luật phổ thông đầu phiếu chặt chẽ hơn. Như vậy, mọi thành tựu của Đảng Trật tự Xã hội từ năm 1848 có nguy cơ sẽ bị xem xét lại.
Lo lắng như vậy nên vị Qu}n vương-Tổng thống h{nh động một cách khéo léo. Nếu chiến dịch bầu cử có nguy cơ đảo lộn phe đa số trong Quốc hội thì theo qui định của Hiến pháp, ông sẽ phải kết thúc nhiệm kỳ của mình mà không thể tái tranh cử. Vậy phải tr|nh nguy cơ nào? Hiểu rất rõ điều này và ý thức được vị thế của mình trong lòng người dân Pháp nên Louis-Napoléon tuyên bố rằng để trật tự được duy trì trong khi diễn ra cuộc bầu cử vào năm 1852, Quốc hội hủy bỏ điều lệ hiến ph|p qui định Tổng thống không được tái tranh cử trước thời hạn 4 năm.
Nhưng sẽ không có gì được hợp ph|p khi không được Quốc hội thông qua. Ngay trong Quốc hội, nhiều người thuộc phe đa số dù không có cảm tình đặc biệt gì với Louis-Napoléon cũng thừa nhận rằng đòi hỏi của ông không phải không có lý. Hơn nữa, Tổng thống không chỉ dừng lại ở việc nói lý lẽ mà ông còn sử dụng cả biện ph|p đe dọa. Nếu Quốc hội không chịu khuất phục, ông có thể sẽ kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng. Trong bài diễn văn tại Lyon vào th|ng 6/1851, ông đ~ đập tan chính sách phản động của Quốc hội: “Từ ba năm nay, người ta có thể nhận thấy rằng tôi chỉ đứng hàng thứ yếu mỗi khi phải tổ chức trấn áp ổn định trật tự bằng c|c phương ph|p đ{n |p bạo lực. Nhưng mỗi khi tôi muốn l{m điều tốt đẹp, thực hiện thuế đất, áp dụng những giải ph|p để cải thiện số phận người dân thì tôi chỉ gặp phải một sự ì trệ”.
V{ khi nói bóng gió đến cuộc tranh luận tới của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến ph|p, ông đ~ kết luận bằng lời đe dọa rõ r{ng: “Nếu người dân Pháp nhận thấy rằng người ta không có quyền quyết định số phận của họ m{ không tính đến họ thì chỉ cần nói ra điều đó; tôi có đủ dũng cảm và nghị lực dành cho họ”. Nhưng để sửa đổi Hiến pháp có hiệu lực cần có sự đồng ý của ba phần tư Đại biểu quốc hội, cho dù họ đồng ý vì sợ hãi hay do thực sự tin tưởng. Ngày 19/7/1851, khi kiểm phiếu, có 446 Nghị sĩ đồng ý sửa đổi, 278 phản đối. Như vậy còn
thiếu 100 phiếu thuận nữa để có đa số. Louis-Napoléon đ~ sẵn sàng thực hiện cuộc đảo chính.
Một Tổng thống dân chủ, một Quốc hội phản động?
Để thực hiện cuộc đảo chính như trù tính, Tổng thống có thể sử dụng vô số kinh nghiệm về mưu phản mà ông tích luỹ được trong suốt thời tuổi trẻ của mình. Ông biết rõ rằng không được xem nhẹ bất cứ yếu tố chuẩn bị nào, cả về quân sự cũng như t}m lí. Sau khi Quốc hội
từ chối thông qua sửa đổi Hiến pháp, không còn ai nghi ngờ khả năng Tổng thống sẽ kêu gọi sự ủng hộ của d}n chúng nhưng Quốc hội vẫn không có khả năng tho|t khỏi sự ì trệ của mình. Vả lại nếu muốn thì họ sẽ dựa v{o đ}u? V{o d}n chúng chăng? chính s|ch phản động của họ đ~ đẩy họ xa rời d}n chúng. Hơn nữa, Louis-Napoléon, sau khi để họ tự khôi phục lại đ~ dùng mọi cố gắng để cắt đứt mối quan hệ của Quốc hội với dân chúng và không bỏ lỡ cơ hội n{o để làm mất uy tín của các Nghị sĩ quốc hội.
Tháng 10/1851, Qu}n vương-Tổng thống đ~ đề nghị Quốc hội bãi bỏ luật ngày 31 tháng 5 năm 1850, nghĩa l{ khôi phục lại quyền bầu cử cho tất cả mọi người dân. Dù nhận thức được tình hình nhưng Quốc hội vẫn không thể xoay chuyển gì được. Và ngày 12/12, chỉ với 7 phiếu đa số, họ đ~ từ chối bãi bỏ luật này. Với người dân cả nước, sự thể đ~ rõ r{ng: Tổng thống l{ người dân chủ và Quốc hội thì phản động. Quốc hội liệu chí ít cũng có thể nhờ cậy v{o qu}n đội, người bảo vệ trung thành truyền thống của bộ máy cầm quyền? Changarnier tuyên bố rằng ông ta có thể dẫn dắt qu}n đội đến bất kỳ đ}u m{ ông ta muốn. Nhưng Quốc hội bắt đầu nghi ngờ những lời khoác lác của ông ta. Tháng 11/1851, Quốc hội thảo luận dự thảo luật theo đó cho phép Chủ tịch quốc hội quyền triệu tập qu}n đội trong trường hợp cần thiết. Một dự thảo luật gây nguy hiểm cho Tổng thống đến mức m{ ông đ~ trù tính phải thúc đẩy nhanh mọi việc trong trường hợp dự thảo luật n{y được thông qua. Thorigny, Bộ trưởng thân cận Tổng thống không lưỡng lự cảnh báo với Quốc hội rằng Chính phủ của ông đ~ “sẵn sàng cho bất cứ việc gì”.
Lời đe dọa n{y đ~ ph|t huy t|c dụng. Quốc hội do quá lo sợ một cuộc chính biến sẽ xảy ra ngay tức thì nên đ{nh hủy bỏ dự thảo luật v{ như vậy tự tước bỏ biện pháp bảo vệ chính mình. Khi Quốc hội làm những việc chứng tỏ sự bất lực của mình thì Tổng thống tiến hành chuẩn bị cho cuộc đảo chính. Ông sử dụng vị trí “nhạc trưởng” đối với người anh em cùng cha khác mẹ của mình, B| tước Morny, một người nổi tiếng là máu lạnh và thẳng tay. Tập hợp quanh ông ta là một bộ tham mưu m{ th{nh phần không thể thiếu là Persigny, Rouher, người tỉnh Orléan vốn thân cận với Qu}n vương v{ nắm nhiều vị trí trong bộ và cảnh sát trưởng Cartier.
Thêm vào những nhân vật ít mang tính đại diện đó cần phải có những người chủ chốt. Tổng thống không phải không biết rằng một số đông th{nh viên Đảng Trật tự Xã hội sẽ liên kết với ông nếu cuộc đảo chính th{nh công. Nhưng ông chỉ có thể dùng đến họ để hoàn tất cuộc chính biến m{ thôi. Điều mà ông cần đó l{ những người của qu}n đội. Trong năm 1851, Tổng thống đ~ tìm kiếm những người n{y v{ đặt họ vào những vị trí chủ chốt. Đó l{ Magnan, một trong những người đồng mưu cũ của ông trong sự kiện Boulogne trước đ}y, một sĩ quan nghèo túng v{ nợ chồng chất, được giao việc chỉ huy qu}n đội ở Paris. Tướng
De Saint-Arnaud, người vừa ghi dấu ở Ch}u Phi, người nổi tiếng là sẵn sàng thực hiện mọi phiêu lưu để th{nh công, được giao chức Bộ trưởng chiến tranh. Mọi nhân tố đ~ được sắp đặt sẵn sàng. Ngày 2/12/1851, kỉ niệm ngày lên ngôi của Napoléon đệ Nhất và kỉ niệm chiến thắng Austerlitz, Qu}n vương-Tổng thống sẽ chuyển sang bước thực hiện đảo chính.
Cuộc đảo chính ngày 2/9/1851
Tối ngày 2/12, Tổng thống tổ chức một buổi tiệc long trọng tại Điện Élysée. Khoảng 11 giờ đêm, ông rút v{o phòng l{m việc của mình và gặp gỡ những người đồng mưu chủ chốt. Tại đ}y, mỗi người xem xét lại những việc mình phải làm trong cuộc đảo chính. Khoảng nửa đêm, Maupas, cảnh s|t trưởng mới đ~ cho bắt 78 nhân vật được cho là có thể là những người chủ chốt kháng trả cuộc đảo chính: Tướng Changarnier và Cavaignac, Nghị sĩ Thiers có mặt trong số đó. Khắp Paris, người ta cho dán áp-phích báo cho dân chúng biết Louis Napoléon thực hiện cuộc đảo chính chủ yếu nhằm chống lại một Quốc hội không thuộc về người dân:
“Nh}n danh d}n chúng Ph|p,
Tổng thống ra sắc lệnh:
Điều 1. - Giải tán Quốc hội.
Điều 2. - Thiết lập lại hình thức bầu cử phổ thông đầu phiếu. Bãi bỏ luật 31/5.
Điều 3. - Toàn bộ người d}n Ph|p được triệu tập đến c|c đại hội tuyển cử từ ng{y 14 đến 21 tháng Mười hai tới”.
Người d}n Paris đón nhận tin về cuộc đảo chính không một chút xúc động. Họ thậm chí còn biểu lộ sự hài lòng khi biết rằng một vài Nghị sĩ tham gia cuộc đ{n |p Những ngày tháng Sáu đ~ bị bắt giam. Một vài kháng cự lẻ tẻ của nghị sĩ Cộng hòa không kéo d{i được bao lâu, người dân từ chối tham chiến cho một nền Cộng hòa vốn đ~ trở nên xa lạ với họ từ sự kiện Những ng{y th|ng S|u. Hơn nữa, ngày 4/12, trên một số đại lộ, qu}n đội đ~ bắn v{o đ|m đông khi thấy xuất hiện những tiếng kêu chống đối. Phản ứng mạnh mẽ n{y tương phản rõ rệt với th|i độ bị động của người d}n Paris đến mức người ta tự hỏi liệu đ}y có phải là một h{nh động hăm dọa do Morny quyết định một cách lạnh lùng để trấn áp mọi phản kháng có thể xảy ra tiếp theo. Tại các tỉnh, một số phong trào phản kháng diễn ra mạnh và nguy hiểm hơn tại vùng núi Massif Central và vùng Tây Nam. Tại những nơi đó, qu}n đội cũng lập tức trấn áp. Ngày 21/12/1851, theo hình thức phổ thông đầu phiếu, người d}n đ~ bỏ phiếu thừa nhận cuộc đảo chính với 7,5 triệu phiếu thuận, 650000 phiếu chống, và từ đó trao quyền thành lập Hiến pháp mới cho Tổng thống. Hiến ph|p n{y đảm bảo cho Louis Napoléon Bonaparte, Tổng thống trong 10 năm, có quyền lực thực sự v{ ngay sau đó, ông chỉ việc thay cách gọi Tổng thống bằng Hoàng đế để bản Hiến ph|p đó trở thành bản Hiến pháp của Đế chế II.
Ng{y 2/12 đ|nh dấu nền Cộng hòa đệ Nhị bị chính vị Tổng thống Cộng hòa đầu tiên bóp nghẹt! Trong suốt cuộc đọ sức giữa ông và những người được bầu l{ đại diện dân tộc, Tổng
thống luôn thể hiện l{ người được bầu ra qua hình thức phổ thông đầu phiếu ngày 10/12/1848, chủ yếu là nhờ vào danh phận của ông, để rồi một năm sau đó ông l{m ph}n t|n hơn 700 Nghị sĩ Quốc hội. Hai mươi năm sau, những nhà sáng lập nền Cộng hòa đệ Tam vẫn sẽ còn rút ra từ kinh nghiệm này bài học về sự thận trọng sâu sắc trong bầu cử Tổng thống theo hình thức phổ thông đầu phiếu và trong việc chọn Tổng thống l{ người do giới quí tộc thế bầu ra.
Nhưng nếu nền Cộng hòa đệ Nhị đ~ phải chịu khuất phục trước vị Tổng thống của mình, người được củng cố sức mạnh hơn nữa qua phổ thông đầu phiếu thì nó lại bị diệt vong do chính những lỗi lầm nội tại. Ngay từ cuộc Cách mạng th|ng Hai, nó đ~ cho thấy sự bất tin của nền Cộng hòa vào dân chúng lớn đến mức nào. Khi thực hiện cuộc tàn sát Những ngày tháng Sáu, nền Cộng hòa đ~ đ~ chính thức tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng, m{ đó lại là chỗ dựa vững chắc cơ bản cho chế độ Cộng hòa. Từ đó trở đi, nền Cộng hòa bị phó mặc cho một kẻ tham vọng. Sự ngẫu nhiên muốn rằng con người này, vốn là người thừa kế của dòng họ trị vì sẽ được bầu làm Tổng thống nhờ vào ân huệ của một trong những đảng phái mạnh nhất. Nhưng Tổng thống, người không khéo léo, không nổi tiếng v{ không được dân chúng biết đến nhiều như một Changarnier hay một Cavaignac lại không đời nào bỏ lỡ cơ hội giành lấy một nền Cộng hòa không có khả năng phòng vệ. Thêm nữa, trong mọi tình huống, nhân dân, lực lượng duy nhất có thể chống lại qu}n đội lại không cảm thấy có liên quan đến những tính toán lợi lộc đang g}y đối đầu giữa những kẻ gây ra cuộc đ{n |p Những ngày tháng Sáu.
- 2 - NGÀI THIERS, MỘT TỔNG THỐNG NGHỊCH LÝ CHO MỘT NỀN CỘNG HÒA LÂM THỜI
(17 th|ng 2 năm 1871 - 24 th|ng 5 năm 1873)
Ngày 17/2/1871, tại Nhà hát lớn của Bordeaux, trang trí theo phong cách thế kỉ XVIII, Quốc hội, mới được bầu ra trước đó ít ng{y trong ho{n cảnh nước Pháp bị quân Phổ chiếm đóng đ~ bầu Adolphe Thiers l{ “người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p của Cộng hòa Ph|p”. Do c|c Nghị sĩ Cộng hòa tại Paris thành lập ngày 4/9/1870 tiếp sau tuyên bố thất thủ tại Sedan và tuyên bố cầm tù Napoléon III, nền Cộng hòa lúc đó chỉ là một chế độ lâm thời. Ngày 31/8 cùng năm, theo yêu cầu của Thiers, Quốc hội đ~ trao cho ông danh hiệu “Tổng thống nước Cộng hòa” thay vì c|ch gọi “Trưởng phụ tr|ch hay Người đứng đầu” (c|ch gọi mà theo ông là không xứng đ|ng với vị trí của ông vì nó giống cách gọi d{nh cho người bếp trưởng). Xét về hình thức, mọi việc có vẻ rõ r{ng. Nhưng trong thực tế thì vẫn còn đầy những điểm mập mờ, nước đôi. Nước Cộng hòa chỉ là cái tên tạm thời cho một thể chế chưa định hình. Cuộc bầu cử tháng 2/1871 diễn ra xung quanh sự lựa chọn chủ hòa hay chủ chiến. Cử tri đ~ lựa chọn chủ yếu những người theo phái Bảo hoàng hoặc phái Bonaparte, những người chủ hòa và gạt bỏ những người phái Cộng hòa mà một bộ phận nhỏ do Gambetta đứng đầu bảo vệ đến cùng chính sách chủ chiến. Trong hoàn cảnh ra đời như vậy, đa số Quốc hội là phe bảo hoàng, những người chỉ có duy nhất một suy nghĩ l{ khôi phục chế độ Quân chủ và Adolphe Thiers được coi là một người trung thành của những hoàng tử Orléans. Tuy vậy, Quốc hội quân chủ này, phần lớn nhờ vào những động thái của cá nhân Adolphe Thiers lại sẽ xây dựng được một chế độ Cộng hòa ổn định nhất kể từ trước tới thời điểm đó, một chế độ mà tuổi thọ đ|ng kể của nó đ~ đ|ng được coi như một ngoại lệ thực sự của nước Pháp kể từ khi chế độ Quân chủ chuyên chế sụp đổ.
Một quá khứ quân chủ
Tháng 9/1821, Adolphe Thiers, một luật sư 24 tuổi đ~ “khăn gói” lên Paris tạo lập sự nghiệp. Vốn l{ đứa con ngoài giá thú trong một gia đình tiểu tư sản, từ bé Thiers đ~ mang nặng mặc cảm về thân phận mình trong một xã hội quí tộc thời Phục hưng. Anh đ~ có được một học bổng cho phép theo đuổi con đường học h{nh. Khi đến Paris, anh nhận thấy rằng con đường duy nhất có thể dẫn anh đến th{nh công l{ chính trường, trong h{ng ngũ những người thuộc Đảng Tự do, một đảng mang đậm dấu ấn những tư tưởng thời cách mạng 1789 đang đấu tranh chống lại sự phục hưng chế độ Quân chủ và bảo vệ quyền lợi giai cấp tư sản. Khi còn l{m b|o, anh đ~ l{ biên tập viên tờ Constitutionnel (Lập hiến) v{ đ~ tạo lập danh tiếng của mình trong giới tự do khi cho xuất bản cuốn Lịch sử Cách mạng Ph|p năm 1827. Năm 1830, dưới sự che chở của Talleyrand, cùng với Carrel v{ Mignet, Thiers đ~ th{nh lập tờ Le National (Quốc gia) tuyên truyền cho Công tước Orléans, anh họ của vua Charles X, người làm ra vẻ một hoàng tử tư sản chấp nhận di sản thời Cách mạng. Thiers giữ vị trí chủ chốt trong cuộc cách mạng 1830. Đầu tiên, ông đ~ thảo lời phản đối của báo giới Paris
chống lại những mệnh lệnh của phe Bảo hoàng đòi xem xét lại các quyền tự do qui định trong Hiến chương năm 1815, đòi giải tán Nghị viện, tước bỏ quyền bầu cử của tầng lớp tư sản buôn bán. Tiếp theo ông vận động cho việc cử Công tước Orléans làm Quan phụ chính v{ sau lên ngôi dưới tên Louis-Philippe đệ Nhất.
Dưới thời Quân chủ tháng Bảy, Thiers là một nhân vật quan trọng h{ng đầu. Cố vấn chính phủ, Nghị sĩ vùng Aix-en-Provence, ngay sau đó l{ Phó tổng trưởng phụ trách tài chính và là Bộ trưởng Bộ Nội vụ năm 1832 v{ từ năm 1834 đến 1836 đó l{ những chức vụ m{ khi đảm nhiệm ông luôn đảm bảo theo sát cả phe Cộng hòa lẫn phe chính thống. Năm 1836 ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; năm 1840, ông đ~ bị mất quyền do có chính sách hiếu chiến với Anh quốc, một đối thủ cạnh tranh của Pháp tại Ai Cập. Vua và các Nghị sĩ đ~ lo lắng về chính sách hiếu chiến n{y. Hơn nữa, Louis-Philippe, do rất hám quyền lực không thể chấp nhận Thiers, người mang học thuyết hình thành thời Phục hưng chủ trương “vua lên ngôi nhưng không thực thống trị”. V{ vì vậy, từ năm 1840 đến 1848, dưới danh nghĩa điều hành của Thống chế Soult, người gọi Thiers l{ “một tên quèn”, chính l{ Guizot đ~ điều h{nh đất nước cùng với sự kết hợp hoàn hảo của nhà vua, người vốn có đồng quan điểm chính trị với ông. Tuy nhiên, Thiers cố nén giận và nuôi mối hận với Louis-Philippe và Guizot. Một thời gian sau, ông mới trả thù: Ngày 23/2/1848, khi cuộc nổi dậy lan khắp Paris, Louis-Philippe đ~ đề nghị Thiers giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chấp nhận, dù không, muốn việc bổ nhiệm những Bộ trưởng khác theo ý của Thiers. Tuy nhiên, nh{ vua đ~ từ chối bản kế hoạch của Thiers m{ sau n{y đ~ được Thiers dùng lại v{o năm 1871: cho qu}n đội v{ cơ quan quyền lực công sơ t|n khỏi Paris, trao thủ đô cho phía nổi dậy để sau đó chiếm lại bằng qu}n đội v{ để tránh cạm bẫy của công sự mà quân nổi dậy dựng lên trên đường phố. Sự thoái vị của nh{ vua đ~ lấy đi quyền lực có được muộn màng của Thiers. Nhưng sự nghiệp chính trị của ông vẫn còn rất dài.
“C|c ng{i đừng nói đến danh dự nữa”: đ{m ph|n khó khăn với nước Đức chiến thắng
Nền Cộng hòa đệ Nhị được thành lập, những biến động xã hội trong những tuần đầu tiên tạo cơ hội cho Thiers trở lại vị trí h{ng đầu trên chính trường. Sau việc đ{n |p đẫm máu những cuộc biểu tình Những ngày tháng Sáu, ông trở thành một trong những người có uy quyền nhất của Ủy ban đường phố ở tỉnh Poitiers, nơi có mặt những thủ lĩnh của Đảng Trật tự Xã hội. Ông thuộc h{ng ngũ những người bảo thủ chống lại nền Cộng hòa xã hội và giữ vai trò chủ chốt trong việc lựa chọn Louis-Napoléon Bonaparte làm ứng cử viên của Đảng Trật tự Xã hội vào ghế Tổng thống nước Cộng hòa. Ông đ~ nghĩ rằng sự non yếu của vị qu}n vương này sẽ tạo điều kiện dễ d{ng để biến ông ta trở th{nh món đồ chơi trong tay mình. Nhưng ông đ~ phải nhanh chóng xuống nước. Ngay từ cuối năm 1849, ông đ~ cắt đứt quan hệ và trở th{nh đối đầu với Tổng thống. Sự chống đối này mạnh đến mức vào cuộc đảo chính năm 1851, ông đ~ bị bắt và phải lưu vong tại Thụy Sĩ. Nhờ có lệnh }n x|, ông đ~ được trở lại nước Pháp và không tham gia đời sống chính trị cho đến năm 1863, khi ông được bầu l{ đại biểu quốc hội của phe đối lập tự do tại Paris. Một năm sau đó, ông đọc trước bộ máy lập pháp bài phát biểu gây tiếng vang lẫy lừng về “những quyền tự do thiết yếu” v{ nó đ~ trở thành Hiến chương của chủ nghĩa tự do chống lại chủ nghĩa độc tài quân phiệt Bonaparte. Sau sự việc n{y, ông đ~ tập hợp được sau mình những người theo chủ nghĩa qu}n chủ và những người Cộng hòa trung lập. L{ người phản đối quyết liệt đường lối chính sách của
vương triều, ông đ~ phê ph|n không thương tiếc chính s|ch đối ngoại của Napoléon III. Ông lên án cuộc viễn chinh Mexico, chống lại việc ủng hộ quân Phổ trong cuộc chiến Áo-Phổ và nhất là việc tuyên chiến với quân Phổ năm 1870. Sự phản đối cuối cùng n{y đ~ tạo nên những làn sóng hận thù dồn dập đổ lên người ông trong không khí sô-vanh sục sôi vào thời gian đó tại Pháp. Ba tuần sau, thất bại tại Sedan đ~ tạo lý lẽ hậu nghiệm cho ông. Được đ|nh gi| l{ nh{ tiên tri trên chính trường, sự sáng suốt v{ đầu óc thực tế của ông được xem như phẩm chất của một nh{ l~nh đạo có năng lực, th|ng 2/1871, ông được 26 tỉnh bầu l{m Đại biểu tại Quốc hội và chỉ v{i ng{y sau đó l{ Tổng thống của nước Cộng hòa lâm thời thành lập ngày 4/9 tại Paris.
Cách thức mà Thiers chủ trương l~nh đạo đất nước gây những lo ngại đầu tiên cho những đại biểu quân chủ trong Quốc hội và họ đặt câu hỏi về quan điểm chính trị thực sự của Thiers. Họ đ~ ngạc nhiên khi nhận thấy rằng rất nhiều các Bộ trưởng l{ người của phe Cộng hòa (Jules Favre, Jules Simon v{ Ernest Picard), đó l{ chưa kể đến 2 sĩ quan thuộc bộ Chiến tranh và Hải qu}n cũng l{ những người theo tư tưởng Cộng hòa. Phe đa số của Quốc hội chỉ cảm thấy thực sự được đại diện qua sự có mặt của Nam tước Larcy, liệu hai người vùng Orléans liệu có thể được coi là những người bảo hoàng không khi họ được nhận xét là trung thành với Thiers hơn l{ với những hoàng tử Orléans? Có phải Bộ trưởng tài chính Pouyer Quertier được đ|nh gi| l{ có khả năng trở th{nh người Cộng hòa dưới chế độ Cộng hòa hoặc người quân chủ dưới chế độ Quân chủ hơn l{ một người theo Bonaparte? Quốc hội nhăn tr|n suy nghĩ, nhưng l{m gì để chống lại Thiers khi ông chính l{ người đang rời Bordeaux để đi đ{m ph|n hòa bình với Hoàng tử của Bismarck?
Thật vậy, những cuộc thương thuyết đ~ bắt đầu từ ngày 21/2. Dù có mặt Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jules Favre, Thiers vẫn l{ người trực tiếp đ{m ph|n. Từng bước v{ bướng bỉnh, dù biết rằng mình không có phương thức gì để chống lại kẻ chiến thắng, ông vẫn cố gắng nh}n nhượng ít nhất có thể được. Ông biết rằng Alsace đ~ mất rồi thì trận đ|nh ở Metz chỉ l{ tượng trưng. Mọi cố gắng nỗ lực đ{m ph|n sẽ dành cho Belfort, tỉnh chỉ bị mất sau đình chiến v{ người d}n Ph|p nhìn đó như một biểu tượng cho ý chí chiến đấu của dân tộc. Nhưng cố gắng chủ yếu vẫn là về vấn đề bồi thường chiến tranh. Vốn l{ nh{ tư sản dè xẻn, ông đấu tranh để có thể giảm thiểu khoản bồi thường này với lí lẽ rất đặc trưng của mình: “C|c tỉnh đ~ mất chúng ta có thể giành lại lúc n{y hay lúc kh|c nhưng h{ng tỷ quan ra đi sẽ không bao giờ trở lại”. Về hai điểm n{y, đối với người Pháp thì chẳng gì gây mất mát lớn bằng việc mất Alsace Lorraine nhưng đối với Thiers thì điểm đ{m ph|n thứ hai là quan trọng nhất. Thiers có thể khoe khoang l{ đ~ đạt được th{nh công trong đ{m ph|n; để đổi lấy sự hài lòng của quân Phổ được tiến vào Paris trong vài giờ, Bismarck đ~ để lại Belfort: đối với ông trận chiến sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu để lỡ cơ hội được thấy người dân Paris cảm thấy thế n{o khi đối mặt với thực tế này?
Số tiền bồi thường được rút từ 6 tỷ theo mức đề nghị của Bismarck xuống còn 5 tỷ. Khi đó, Thiers nhận được lời đảm bảo của Chủ ngân hàng Alphonse de Rosthschild rằng nước Pháp hoàn toàn có thể trả khoản tiền này nếu Nh{ nước ph|t h{nh công tr|i. Còn đối với những điều khoản khác thì Thiers chấp nhận một cách không thoải mái: quân Phổ sẽ ở lại Pháp cho
đến khi khoản bồi thường được thanh toán hết (nhiều nhất l{ 5 năm), ông định tính sao cho việc này kết thúc nhanh nhất có thể được; còn vấn đề Alsace-Lorraine, đó l{ c|i gi| của một cuộc chiến tranh mà việc ph|t động và thất bại đều do những người khác chịu trách nhiệm chứ không phải ông.
Khi đặt ch}n đến Bordeaux để đ{m ph|n s|ng ng{y 28/2, Thiers chỉ có một suy nghĩ: kí kết được hiệp ước hòa bình với quân Phổ nhanh nhất có thể vì ông cho rằng nền hòa bình này l{ điều tốt nhất m{ nước Pháp có thể hi vọng. Với những Đại biểu quốc hội của Alsace và Lorraine phản đối việc thỏa hiệp “đ|ng xấu hổ” n{y, Thiers phản bác lại: “Nếu có ai đó phải cảm thấy xấu hổ thì đó chính l{ những người của tất cả các thời kỳ từ trước tới nay, ở mọi tầng lớp đ~ phạm những sai lầm dẫn đến tình trạng n{y”. Người ta không thể thoát khỏi trách nhiệm một c|ch hay hơn: Thiers thuận theo thoả ước này vì ông cho rằng người ta không thể qui trách nhiệm cho ông được. Còn lại sự phản đối của những người Cộng hòa không nh}n nhượng, ông Gambetta nóng nẩy, ông Hugo có tài hùng biện, ông Edgar Quinet liêm khiết, họ cũng không phải chịu trách nhiệm hơn Thiers về thất bại trước quân Phổ nhưng cũng không chấp nhận thoả hiệp của Thiers. Đ}y l{ một lời kêu gọi hãy sáng suốt và thận trọng trước những kẻ “mị d}n”, được nhìn nhận từ phe Bảo thủ trong Quốc hội: “L{m sao c|c ng{i d|m nói đến lòng tự trọng trước những người dân này? Sự thật là họ cũng tự trọng không kém c|c ng{i nhưng họ biết đặt nó sang bên để không mạo hiểm mất nước chỉ vì cố bảo vệ cái tính quần chúng sai lầm m{ c|c ng{i đang xun xoe ca ngợi ở đ}y (…C|c ng{i h~y nghe sự thật; nếu các ngài không muốn nghe và không muốn tin, các ngài có thể ca ngợi tương lai của đất nước nhưng chỉ là vô ích; các ngài sẽ mất nước ngay vào thời điểm m{ c|c ng{i đang ca ngợi nó!”).
Quốc hội lắng nghe Thiers và chấp nhận kế hoạch của ông: các Nghị sĩ của Alsace và Lorraine rời phòng họp và thật có lợi cho Thiers vì Gambetta, người đại diện cho vùng Bas Rhin cũng ra đi cùng họ và mang cùng với ông ra khỏi Quốc hội sự phản đối mạnh mẽ chính sách mà Tổng thống đang theo đuổi cùng với sự ủng hộ của Quốc hội. Theo gương Gambetta, những Nghị sĩ phe Cực tả cũng từ chức.
Thiers ngày càng nhận thấy rằng không ở đ}u để phát huy tốt những kế hoạch của ông hơn là một chính thể Cộng hòa. Còn hơn cả với thể chế Quân chủ, chế độ Cộng hòa có thể thỏa m~n cơn kh|t quyền lực của ông, với điều kiện là nền Cộng hòa đó không bị phe cánh tả thao túng. Được những người ôn hòa ủng hộ, Thiers mơ ước tái lập nền Cộng hòa năm 1848 như của Đảng Trật tự Xã hội, tất nhiên lần này nhất quyết không để xuất hiện một Bonaparte mới nữa. So với trước đ}y, ông cũng sẽ phải thực hiện việc đ{n |p như sự kiện Những ngày tháng Sáu và sẽ phải đ{n |p cuộc nổi dậy của dân chúng: ngày 18/3/1871 nổ ra cuộc nổi dậy của Công xã.
“Lời nói của một người chính trực”: hiệp ước Bordeaux
Vào thời điểm xảy ra cuộc nổi dậy, người “đứng đầu cơ quan h{nh ph|p” vừa được đảm bảo về sự ủng hộ của một Quốc hội lúc đó đang quan t}m đến vấn đề chọn hình thái chính trị nào. Câu hỏi đầu tiên đặt ra l{ c|c cơ quan quyền lực sẽ được đặt ở đ}u; Louis Blanc , người theo phe Xã hội đề nghị chuyển Quốc hội về Paris. Nhưng đề nghị này ngay lập tức bị bác bỏ
vì Quốc hội sợ rằng như vậy chẳng khác gì phó mặc số phận của mình cho những cuộc bạo động của dân chúng và luôn phải chịu sức ép đó như những Quốc hội cách mạng trước đ}y. Đó l{ điều gây sợ hãi cho những nhà bảo thủ vùng nông thôn lúc đó đang chiếm đa số trong Quốc hội.
Họ muốn chuyển đến một thành phố cách xa Paris và sẽ xây dựng tại đó thủ đô mới, một thủ đô không còn bóng d|ng những chiến luỹ trên đường phố của những cuộc nổi dậy, nó sẽ nằm ở trung tâm của nước Pháp nông nghiệp và quân chủ: Bourges, Orléans hoặc ít ra là ở Fontainebleau. Nhưng Thiers nhìn thấy ở đó mối hiểm họa: tách khỏi d}n chúng Paris, đồng nghĩa với việc khuyến khích sự phát triển phong trào ly khai của dân thành thị, từ đó sẽ nảy sinh một thế lực cách mạng mới cạnh tranh do các Nghị sĩ Cộng hòa mới từ chức tại Quốc hội hậu thuẫn. Thiers đ~ th{nh công trong việc |p đặt cho Quốc hội một giải pháp trung hạn: dời về Versailles để vừa có thể rút lui an toàn khi có nổi dậy vừa không mất Paris, điều đương nhiên l{m c|c nh{ Cộng hòa an tâm.
Một vấn đề khác mà Thiers còn dè dặt, đó l{ chọn hình thái chính trị nào cho chế độ mới? Ông không đủ tự tin để một lần nữa đối chọi với phe đa số trong Quốc hội; việc tổ chức cơ cấu lại bộ m|y nh{ nước được đặt ra một cách cấp bách và cần phải tr|nh sao cho đa số Quốc hội thúc ép ông tái lập chế độ Quân chủ, bởi vì như vậy sẽ buộc ông phải tự lộ mình trước thời điểm dự tính của ông. Vì vậy, trước khi rời Bordeaux về Versailles, ông đ~ đề nghị Quốc hội điều m{ người ta gọi l{ “Hiệp định Bordeaux”: “Chúng tôi sẽ chỉ quan t}m đến việc tổ chức lại đất nước… Khi đất nước đ~ được tổ chức ổn định rồi chúng tôi sẽ đến nói với các ngài rằng: đất nước khi được các ngài giao cho chúng tôi vốn đang cảnh đầu rơi m|u chảy, thương vong khắp nơi, chỉ còn thoi thóp sống; nay chúng tôi đ~ làm nó sống trở lại; bây giờ là thời điểm tạo cho nó một thể chế chính trị ổn định, và tôi hứa với các ngài trên danh dự của tôi là không một vấn đề nào trong số những vấn đề còn phải để lại chưa giải quyết ngay hôm nay lại sẽ bị làm sai lệch đi do sự bất trung thành của chúng tôi”. Phe đa số mừng rối rít: họ tin rằng một khi đất nước đ~ tho|t khỏi khó khăn thì Thiers sẽ rút lui v{ để cho một người khác làm công việc tái lập nền Quân chủ. Chắc chắn rằng, nhìn từ một số khía cạnh n{o đó, b{i ph|t biểu của Thiers cũng đ~ g}y lo lắng cho họ. Chẳng phải ông đ~ tuyên bố với phe thiểu số trong Quốc hội: “Nếu chúng ta thành công trong việc tổ chức lại đất nước, nó sẽ được xây dựng theo chế độ Cộng hòa và phục vụ lợi ích của chế độ n{y?”. Tuy nhiên, phe đa số do thấy thỏa mãn với lời hứa của Thiers nên đ~ chấp nhận Hiệp ước Bordeaux. Khi đạt được kết quả duy trì tạm thời chế độ Cộng hòa, Thiers đ~ tạo được thế mạnh trong cán cân lực lượng: thế mạnh của một sự đ~ rồi.
“Tôi sẽ không thương xót”: cuộc đ{n |p Công x~
Phe đa số của Quốc hội không bận t}m đến tính trung thực của Thiers trong việc giữ lời hứa của ông; họ chỉ mong ông giải thoát họ khỏi mối nguy hiểm cận kề, đó l{ Công x~.
Người dân Paris, là những người đ~ chống lại kẻ thù, bảo vệ thủ đô đ~ coi việc ký kết đình chiến của Bộ Quốc phòng là một sự phản bội. Hiệp ước hòa bình của Thiers cũng không được ch{o đón gì hơn, nhất là họ không thể chấp nhận việc Chính phủ lại cho phép quân
Phổ tiến vào Paris. Về điểm n{y, Thiers đ~ liên tiếp ra những quyết định thiếu khôn ngoan khi ra lệnh hủy bỏ lệnh gia hạn thanh toán nợ, hủy bỏ lương của vệ quốc qu}n trong khi đó là nguồn sinh kế duy nhất của phần lớn những gia đình người dân Paris. Bị đẩy đến đường cùng, người d}n Paris đ~ di dời khỏi những quận phía T}y, nơi qu}n Phổ sẽ tiến vào chiếm
đóng, 200 khẩu pháo lấy được trong thời gian vây hãm với lý do là mang cất giấu chúng đến khu bình dân Monmartre và Belleville. Những khẩu pháo này làm giới thương nh}n v{ c|c chủ nh{ băng lo lắng nên họ giục Thiers mau chóng lấy lại chúng để thiết lập lại lòng tin. Trước tình thế đó, một người như Thiers không thể dửng dưng: ng{y 18/3 ông ra lệnh cho một đội qu}n đi tìm mang về những khẩu pháo này. Ông cho rằng dân chúng sẽ phải khuất phục? Giả thuyết này là huyễn hoặc: kỉ niệm của Những ngày tháng Sáu vẫn còn in đậm trong trí nhớ của ông. Cũng có thể là bằng cách lặp lại cách xử lý của Đảng Trật tự Xã hội, ông hi vọng tạo ra cuộc nổi dậy m{ sau đó ông sẽ đ{n |p nó. V{ như vậy ông sẽ thoát khỏi quyền cầm cố của “nền Cộng hòa đỏ”, sẽ là người cứu tinh của Đảng Trật tự Xã hội sau khi đ~ l{ cứu tinh của nước Ph|p, v{ như vậy sẽ l{ người duy nhất xứng đ|ng được giao trọng trách thiết lập chế độ chính trị cho đất nước.
Khi cuộc bạo loạn xảy ra, kế hoạch của ông đ~ sẵn s{ng: đó chính l{ kế hoạch m{ ông đ~ bị Louis-Philippe từ chối năm 1848. Ông ra lệnh cho qu}n đội rút khỏi Paris; còn bản thân ông và chính phủ rời thủ đô về Versailles để thành phố lại cho những người nổi dậy. Những người này, nổi dậy do phản ứng vô thức của những người bị đẩy v{o đường cùng của nghèo đói v{ giận dữ vì thua trận đ~ mau chóng rơi v{o thế lưỡng lự. Những biện ph|p “c|ch mạng” m{ họ sử dụng còn rất dè dặt. Khi đ~ rút về Versailles, Thiers hoàn toàn có thể thực thi ý định “khuất phục Paris” m{ ông đặt ra trước khi cuộc nổi dậy xảy đến. Vì thiếu quân nên đ}y l{ một cơ hội tốt để yêu cầu Bismarck trả lại những tù binh trong chiến tranh. Với đội quân mới thiết lập n{y, ông đ~ ngay lập tức đ|nh tan ý nghĩ trốn thoát mới manh nha của người d}n Paris. Ngay sau đó, ông bắt đầu thiết lập căn cứ thứ hai tại Paris ngay trong khi nh{ riêng cũ của ông tại thủ đô, một số công trình có tính biểu tượng của Paris như cột Vendôme với tượng của Napoléon trên đỉnh vẫn đang bị những người nổi dậy đập phá theo lệnh của Công xã. Ngày 21/5, những đội quân của Tướng Gallifet vào Paris, một cuộc nội chiến không chút thương xót bắt đầu và kéo dài trong một tuần sau đó.
Từ trên đỉnh của Montretout, với chiếc ống nhòm trong tay, Thiers theo dõi những đợt tấn công đầu tiên và trở về Versailles ăn tối một cách vui nhộn. Tuần lễ “đẫm m|u” được đ|nh dấu bằng một loạt c|c h{nh động tàn sát dã man: Galliffet ra lệnh cho lính không cần bắt tù binh và số các cuộc hành quyết ngày càng tăng; những người nổi dậy đ|p trả bằng việc bắn
chết con tin, nhất l{ c|c gi|o sĩ. “Tôi sẽ không nương tay!” Thiers g{o lên, “Chúng sẽ phải đền tội đến nơi đến chốn và luật pháp sẽ không nương nhẹ”.
Sau chiến thắng này, mặc dù Thiers đ~ có tính to|n sẽ kiềm chế những người ủng hộ mình, nhưng ông vẫn ra lệnh hành quyết: hơn 20000 cuộc hành quyết chớp nhoáng diễn ra đ~ đ|nh dấu chiến thắng của trật tự xã hội trước “bọn kẻ cướp và bất lương” trong x~ hội, một cuộc đ{n |p d~ man v{ sự sợ hãi mà nó tạo ra cũng lớn tương xứng. Hòa bình được thiết lập, cuộc nổi dậy bị đè bẹp, Thiers có thể xem như đ~ ho{n th{nh những h{nh động tiền đề cho những dự định của ông. Tuy nhiên, trước khi bộc lộ rõ ý đồ của mình v{ đặt ra câu hỏi
về chế độ chính trị cần thiết lập, ông còn phải tận dụng quyền lực của mình để thực hiện thành công công cuộc tái thiết m{ ông đ~ cam kết.
Nền độc tài của Ngài Thiers
Trở thành vị cứu tinh của tầng lớp tư sản, Ngài Thiers cuối cùng cũng có thể tận hưởng niềm vui trọn vẹn khi có một quyền lực không thể chối cãi. Khi bầu ông l{m người đứng đầu bộ máy hành pháp, Quốc hội đang lúng túng không hề nghĩ đến việc hạn chế quyền lực của ông, và Thiers, lóa mắt bởi vầng hào quang từ chiến thắng vừa qua của mình, đ~ thực thi quyền hành của mình một cách khá độc tài. Phe Quân chủ, vẫn vừa gây sức ép vừa xun xoe nhằm mong chờ sự tái thiết nền Quân chủ; phe Cộng hòa cư xử một cách nể nang dù biết việc ông đ{n |p Công x~ vì họ nghĩ rằng trong lời phát biểu của mình, Thiers đ~ dùng những từ ngữ cho thấy ý muốn duy trì nền Cộng hòa. Quyền lực của Thiers như vậy được dựng lên trong vị trí nước đôi, nhưng chính c|i thế nước đôi n{y tạo nên sức mạnh cho ông, và chừng n{o ông còn duy trì được nó, chừng đó quyền lực của ông còn bền vững. Thiers sử dụng quyền lực đầu tiên vào công cuộc tái thiết m{ ông đ~ cam kết. Đầu tiên là việc giải phóng những vùng lãnh thổ đ~ bị mất. Ngay từ năm 1871, đợt công tr|i đầu tiên được phát hành đ~ cho phép nước Pháp thanh toán 2 tỷ quan đầu tiên trong khoản nợ bồi thường chiến tranh. Năm 1872, đợt phát hành công trái thứ hai, lần n{y Thiers đ~ có thời gian chứng tỏ rằng dưới sự l~nh đạo của chính phủ của ông, trật tự đ~ được thiết lập.
Tầng lớp tư sản, được trấn an sau vụ đ{n |p Công x~, đ~ chi một khoản tiền gấp 14 lần giá trị đợt phát hành công trái thứ hai. Nhờ đó, nước Ph|p đ~ thanh to|n xong khoản nợ 3 tỷ quan còn lại. Điều n{y đặt ra cho ng{nh t{i chính nh{ nước gánh nặng lớn nhưng lại cho phép nhanh chóng giải phóng những vùng đất bị chiếm đóng. Ng{y 15/3/1873, Thiers ký với Đức bản hiệp ước về việc qu}n Đức rút hoàn toàn khỏi nước Pháp. Song song với công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh đó l{ việc đảm bảo an ninh trong nước trong tương lai. Sau cuộc t{n s|t năm 1870, nhiệm vụ đặt ra bây giờ là cải c|ch qu}n đội. Với hình thức cải c|ch đưa ra, Thiers đ~ vấp phải sự phản đối của đa số trong Quốc hội, nhưng cuối cùng ông cũng đ~ |p đặt được quan điểm của mình: qui định thời hạn nghĩa vụ quân sự bắt buộc là 5 năm, có nhiều trường hợp được miễn. Việc cơ cấu tổ chức lại cơ quan t{i chính cũng được đặt ra cấp bách, càng cấp b|ch hơn sau khi ph|t h{nh công tr|i th{nh công. Trong việc này, Thiers cũng đ~ vấp phải sự phản đối của Quốc hội và một lần nữa ông lại chiến thắng trong việc |p đặt quan điểm của mình. Trong khi Quốc hội đề nghị đ|nh thuế thu nhập, Thiers, vốn l{ người đại biểu hoàn hảo của tầng lớp tư sản đ~ gạt bỏ và buộc Quốc hội thừa nhận rằng những nguồn thu cần thiết sẽ được lấy từ nguồn thuế gián tiếp được áp cho tất cả công dân Pháp nhằm tr|nh nguy cơ dồn gánh nặng tài chính lên vai những người có thu nhập cao.
Sở dĩ Thiers có thể tiến h{nh chính s|ch kh| độc t{i đó l{ vì những quyết định của ông cuối cùng đều đi theo tinh thần của chính sách dẫn đến vụ tàn sát Công xã và bởi vì những chính s|ch đó không thật sự làm tổn thương phe nào thuộc đa số trong Quốc hội. Nhưng đồng thời phe đa số này vẫn gây sức ép để người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p phải sớm thiết lập nền Quân chủ.
Tổng thống của một nền Cộng hòa lâm thời
Ngay từ mùa xu}n năm 1871, Thiers đ~ tốn nhiều công sức để đối phó lại sức ép của phe đa số mà không làm lộ kế hoạch của mình, đó l{ điều tất yếu gây nên sự thất bại của ông. Đầu tiên là cuộc tranh cãi về tính hợp lệ của việc bầu Công tước Aumale và Joinville, con trai của Louis-Philippe vào ghế Nghị sĩ quốc hội. Thiers không dám từ chối các hoàng tử Orléans nhưng “ông như đang đi trên d}y”, như ông nói với một người thân cận. Vì vậy, để làm hài lòng phe đa số, ông đ~ b~i bỏ luật cho lưu đ{y những hoàng tử có gốc gác thuộc về một dòng họ đ~ trị vì đất nước; v{ khi đạt được th{nh công n{y, ông đ~ đón v{o Vesailles Công tước Aumale, sau đó l{ người ngấp nghé ngôi vua Orléans, B| tước Paris do Công tước Broglie hộ tống, người được coi như người l~nh đạo của phe đa số trong Quốc hội, cũng l{ người mà Thiers không ưa gì. L{m ra vẻ không nản lòng vì thất bại, Thiers buộc phải làm mặt vui vẻ với những người mà từ hôm đó ông ta coi như kẻ thù. Lại một ông vua nữa! Lại phải thuyết phục trước sự ngập ngừng, không dứt khoát của nhà vua, của các cận thần của ông ta, của gia đình ông ta trong khi Thiers đ~ có dưới tay mình một Quốc hội hoàn toàn trong khả năng điều khiển của mình! Thay đổi này Thiers không muốn một chút n{o. Nhưng phải làm sao để ngăn chặn nó?
Ngay từ tháng 8/1871, Quốc hội, dù vẫn khẳng định sự tin tưởng vào Thiers, cũng đ~ muốn đề ra những giới hạn trong quyền lực của ông. Ngày 31/8, Quốc hội đ~ thay đổi tên gọi chức danh của Thiers “Tổng thống nước Cộng hòa”, chức danh n{y không có ý nghĩa gì vì thực tế nền Cộng hòa vẫn đang chỉ là tạm thời. Quốc hội vừa cam chịu sử dụng từ ngữ, c|ch nói đối nghịch vừa thận trọng nhắc rằng Thiers chịu trách nhiệm trước Quốc hội và ông phải thông
qua Quốc hội, và sẽ chỉ có Quốc hội được sử dụng quyền lập hiến, biểu tượng chính của quyền tối cao. Rõ ràng là Tổng thống mới, vì cho rằng không Hiến pháp nào hạn chế theo pháp luật khả năng thực thi quyền lực của ông nên đ~ tự mở rộng quyền lớn nhất có thể được. Cũng bởi vì trong khi chờ đợi tái thiết nền Quân chủ, Quốc hội đ~ để cơ hội cho Thiers sử dụng danh tiếng và quyền lực của mình để sắp đặt nền Cộng hòa.
Việc khôi phục chế độ Quân chủ gặp nhiều khó khăn. Mọi người đều nhận thấy rằng nó chỉ có thể thực hiện được khi đạt được sau một sự thỏa thuận: bởi vì B| tước Chambord, người kế vị hợp ph|p không có con nên người kế thừa ông ta sẽ là B| tước Paris, người kế vị thuộc dòng họ Orléans. Nhưng Chambord lại không mong muốn một sự khôi phục nền Quân chủ một cách mập mờ, không muốn một ngai vàng chỉ mang tính hình thức, v{ để chứng tỏ những đòi hỏi của mình, ông đ~ b{y tỏ trong một thông cáo khi trở về nước Pháp rằng ông sẽ không chấp nhận bất cứ một điều kiện nào cho việc khôi phục vương quyền. Chính ông sẽ đưa ra c|c điều kiện của mình và sẽ thực hiện đ{m ph|n với người đứng đầu.
Phe Bảo hoàng rụng rời, phe Cộng hòa mừng rỡ v{ Thiers cũng thầm tận hưởng niềm vui này. Việc khôi phục vương quyền vì vậy đ~ bị lùi lại, không ai trong số những người bảo hoàng, trừ một số rất ít những người quá khích cho rằng những điều kiện của Chambord là chấp nhận được. Trong khi phe quân chủ lo tính đến những phương kế gây bất ổn cho nền Cộng hòa lâm thời để đợi đến khi Chambord không còn và dòng tộc Orléans kế vị thì Thiers
lo tính đến việc tận dụng sự khủng hoảng này của phe Bảo ho{ng để sớm củng cố nền Cộng hòa.
“Nền Cộng hòa đang tồn tại, chúng ta không nên để mất cơ hội tuyên bố sự tồn tại n{y”
Cho đến năm 1872, Thiers vẫn làm mọi người nghi ngờ tính chân thật trong nhận định của ông về vấn đề thể chế chính trị. Bằng một c|ch đưa đẩy khéo léo, ông đ~ l{m hết sức để trấn an tất cả mọi người. Đối với những người theo phe Bảo hoàng, ông viện dẫn Hiệp định Bordeaux cho phép ông giữ quan điểm trung lập tối đa v{ căn cứ vào những gì ông đ~ l{m trong quá khứ thì mọi nghi ngờ rằng ông theo chủ nghĩa Cộng hòa đều tan biến. Đối với những người Cộng hòa, ông đưa ra lời thách thức: “C|c ông muốn thử xây dựng nền Cộng hòa một cách chân chính, các ông có lý, cần phải làm một cách chân chính. Không nên giả vờ diễn kịch l{ ta đang thử xây dựng một thể chế mà thực ra là vẫn ngấm ngầm muốn nó thất bại…”.
Thành thật với tất cả mọi người, nhưng ông Thiers vẫn làm những người quân chủ lo ngại qua những lời tâm sự riêng của ông: “Ngai v{ng thì chỉ có một, không thể n{o m{ ba người cùng ngồi v{o đó được” hoặc “Nền Cộng hòa là thể chế nh{ nước gây chia rẽ ít nhất giữa chúng ta”. Ông quên không thêm vào rằng ông cho rằng nền Cộng hòa là thể chế duy nhất có thể thỏa mãn tham vọng vô bờ bến của ông, một thể chế mà ở đó, trước quyền lực của những nghị sĩ đại biểu được bầu luôn là những người thuộc giới tư sản, ông có thể dựng lên cho mình quyền lực của một qu}n vương m{ như đối với Louis-Philippe trước đ}y, người đó sẽ bị quyến rũ bởi quyền lực cá nhân.
Tháng 11/1872, ông cuối cùng cũng lột mặt nạ khi tuyên bố ủng hộ nền Cộng hòa v{ đưa ra những nội dung nhằm mục đích thuyết phục tầng lớp tư sản: “Nền Cộng hòa đang tồn tại, nó là chính phủ hợp pháp của đất nước: thiết lập một thể chế kh|c đồng nghĩa với việc châm ngòi cho một cuộc cách mạng mới v{ đó l{ điều nguy hiểm nhất trong những điều nguy hiểm. Đ~ đến lúc chúng ta tuyên bố nền Cộng hòa và chúng ta hãy xây dựng một nền Cộng hòa như chúng ta mong muốn như chúng ta thấy cần thiết. Mọi chính phủ đều cần phải bảo thủ (duy trì trật tự xã hội), không một xã hội nào lại có thể tồn tại nếu không có một chính phủ như vậy. Nền Cộng hòa sẽ bảo thủ hoặc sẽ không có nền Cộng hòa”.
Broglie sửng sốt, phe Bảo ho{ng coi như Thiers đ~ ph| vỡ hiệp ước Bordeaux. Phe đa số trong Quốc hội quyết định sẽ từ bỏ ông và nhất định sẽ ngăn chặn không cho ông phá hoại thêm. Bởi vì nếu giai cấp tư sản càng nhìn nhận thấy ở ông người cầm đầu cho giai cấp của mình thì phe đa số trong Quốc hội lại càng lo lắng về lý thuyết về tính “bảo thủ” của nền Cộng hòa như Thiers đ~ từng tuyên bố. Có vẻ như lý thuyết đó của ông là nhằm thu hút những người Orléans đi theo Thiers vì họ, do đ~ qu| mệt mỏi vì sự tranh cãi giữa những người được quyền kế vị, sẽ sẵn sàng chấp nhận một nền Cộng hòa mang lại cho họ những đảm bảo về trật tự xã hội và chủ nghĩa tự do chính trị. Nhằm ngăn chặn nhanh chóng những động th|i đó của Thiers, những người đứng đầu phe đa số trong Quốc hội chọn giải pháp sẽ giữ im lặng để sau đó tước bỏ quyền lực của ông.
Quốc hội loại bỏ Tổng thống
Sở dĩ Thiers chấp nhận đ|nh b{i ngửa như vậy là vì ông cho rằng Quốc hội sẽ không dám loại bỏ ông do không có được người thay thế vị trí đó. Đó chính l{ điều ông nói với Jules Simon v{o th|ng 3/1873 khi ông n{y lưu ý với Thiers rằng trách nhiệm của Thiers đ~ được hoàn thành, ông giờ đ}y có thể trao trả vị trí m{ mình đang ngồi :
- Nhưng họ không có một người nào.
- Họ có thống chế Mac-Mahon.
- Mà với ông này, tôi có thể trả lời rằng ông ta sẽ không bao giờ chấp nhận.
Tuy nhiên, hai ng{y trước đó, Quốc hội đ~ ra quyết định rằng Thiers chỉ có thể liên lạc với Quốc hội bằng thông điệp, còn nếu ông muốn trực tiếp can thiệp thì ông phải b|o trước 24 giờ. Thiers phản đối nhưng vô ích, Quốc hội quyết không chịu nhường bước. Từ đó bắt đầu cuộc chạy đua giữa phe đa số trong Quốc hội muốn hi sinh vị Tổng thống và ngài Tổng thống luôn tin tưởng vào vị trí vững chắc và vai trò cần thiết của mình: đó l{ vì ng{y có c{ng nhiều người trong phe đa số tin theo quan niệm về tính chất của nền Cộng hòa bảo thủ như Thiers đề ra. Đối với Broglie , thời gian đ~ rất gấp. Ng{y 18/5/1873, trong khi Thiers đang thay thế các Bộ trưởng thuộc phe Quân chủ bằng những đồng minh mới của nền Cộng hòa thì Broglie triệu tập cuộc họp c|c nh{ l~nh đạo của phe đa số trong Quốc hội: ông muốn chỉ ra lợi ích thật sự trong chiến thắng của phe Cộng hòa trong cuộc bầu cử tới đ}y, v{ rằng hẳn đó phải là kết quả của chính sách của Thiers. Từ đó, ông đ~ l{m cho đa số Quốc hội chống lại việc bầu thống chế Mac-Mahon thay cho Thiers - người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p. Ng{y 24/5/1873, Broglie chất vấn Thiers và mời ông “tuyên bố trong chính phủ một chính sách thật sự bảo thủ”. Sự hăng hái của Broglie trong bài phát biểu làm Thiers ngạc nhiên, nhưng ông còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết rằng Quốc hội đ~ bỏ phiếu cho chương trình nghị sự bất tín nhiệm với 344/360 phiếu.
Thiers đ~ bị đ|nh bại. Ngày 23, sau bài diễn văn của Broglie, Thiers đ~ yêu cầu Quốc hội nghe mình trình bày trực tiếp theo đúng quyền lợi hợp pháp của ông. Ng{y 24, người đứng đầu bộ m|y h{nh ph|p đ~ cất tiếng. Trong bài phát biểu n{y, ông đ~ đưa ra những lời ca tụng khéo léo trong biệc hoàn thành sự nghiệp từ sự kiện Bordeaux nhờ vào sự thống nhất m{ ông đ~ tạo ra xung quanh mình, ông cũng kết tội Broglie đ~ ph| vỡ một cách có chủ ý sự thống nhất này về vấn đề chọn hình thái chính trị. V{ Thiers, khi không còn gì để mất, đ~ tuyên bố công khai quan điểm của mình ủng hộ chế độ Cộng hòa: “Tôi có ý kiến riêng về vấn đề nền Cộng hòa. Tôi đ~ quyết định và các ngài hiểu tại sao. Bởi vì một chế độ Quân chủ về mặt thực tế là không thể tồn tại… Hơn nữa trong đa số d}n chúng, xin c|c ng{i đừng nhầm lẫn nền Cộng hòa chiếm số |p đảo!”
Chuyển từ thế phòng thủ sang tấn công, Thiers dành lời chất vấn sau cho Broglie: “Tôi |i ngại cho ông ta! Về mặt đại diện cho đa số, ông ta sẽ không hơn chúng ta; nhưng ông ta sẽ chỉ là một kẻ tay chân, tôi sẽ nói với ông ta là công cụ của ai… của một người che chở mà Bá tước đ~ qua đời của Broglie đ~ từng chối bỏ với sự kinh tởm: ông ta sẽ là tay chân của Quốc vương!” Nỗ lực này thất bại: Quốc hội đ~ quyết; họ nghe Thiers phát biểu trong im lặng nhưng lại để cho Chủ tịch Quốc hội Buffet, người đ~ bị Broglie phỉnh phờ, yêu cầu Thiers rời khỏi đó trước khi phiên họp bắt đầu lại. Vào buổi chiều, khi đ~ theo dõi kịp thời kết quả bỏ
phiếu Thiers đ~ nghĩ đến việc tiếp tục cuộc chiến vì không có điều luật nào buộc ông phải chấp nhận như vậy. Nhưng b{ Thiers đ~ không nghe ông: “Người ta đ~ xúc phạm, lăng nhục ông, họ sẽ phải đẩy sự bạc bẽo thành sự cô lập và ông sẽ phải đ~ chịu như vậy!”.
“Chỉ có b{ l{ người đúng m{ thôi”, Thiers nói lại và thảo đơn từ chức. Vị Tổng thống đầu tiên của nền Cộng hòa thứ 3 đ~ bị Quốc hội loại bỏ như vậy khi chính Quốc hội n{y đ~ đưa ông lên chiếc ghế quyền lực một cách vẻ vang trước đó hai năm. Vậy có thể tóm lược những h{nh động của ông như thế nào?
Nhìn lại thành quả của một kỳ Tổng thống ngắn ngủi: Nền Cộng hòa đ~ trở thành một thể chế chính đ|ng
Năm 1871, Thiers được bầu vào vị trí người đứng đầu cơ quan h{nh ph|p do đa số người của phe Bảo hoàng hi vọng tận dụng thế được lòng dân chúng của ông để tái thiết chế độ Quân chủ tại Pháp; quá khứ đ~ từng l{ người phục vụ trung thành của các hoàng tử Orléans của Thiers làm họ yên lòng. Tuy nhiên, dần dần Thiers đ~ thay đổi ý kiến. Ông muốn |p đặt cho nền Cộng hòa m{ trước đ}y ông đ~ từng kinh sợ một đa số Quốc hội cũng không ưa gì nó, và bằng cách tận dụng sự chia rẽ của phe Bảo hoàng, ông có thời gian để xây dựng một chính phủ của mình và từ đó chuyển nó th{nh “chính phủ hợp pháp của đất nước”.
Đối với nền Cộng hòa thì ông còn l{m được hơn thế: ông đ~ cho nó một diện mạo mới tạo niềm tin đối với những người tư sản từ trước đó luôn nhìn nhận nền Cộng hòa dưới hình ảnh của chế độ 1893, với những hình ảnh của Những ngày tháng Sáu hoặc của Công xã. Bằng cách trấn an tầng lớp tư sản, vốn là một tầng lớp xã hội l~nh đạo, và khiến họ chấp nhận chế độ Cộng hòa, Thiers đ~ tự đảm bảo tương lai của ông. Không phải vô tình mà Thiers khẳng định quan điểm ủng hộ nền Cộng hòa. Khi khẳng định một lần nữa niềm tin của ông vào một “nền Cộng hòa bảo thủ”, ông đ~ rời ghế Tổng thống và trở thành thủ lĩnh đảng Cộng hòa, tách ông khỏi những Đảng viên cấp tiến vốn làm giai cấp tư sản rất lo lắng. Bù nhìn của giai cấp n{y l{ Léon Gambetta, đ~ ngay lập tức không có tham vọng nào khác ngoài việc trở thành phó cho Thiers. Chính nhân vật này sẽ dẫn dắt cuộc đấu tranh thầm lặng của phe Cộng hòa chống lại nền Quân chủ của những người chiến thắng ngày 24/5/1873. Ông qua đời bốn năm sau đó, thọ 80 tuổi, giữa lúc ông đang dẫn dắt cuộc đấu tranh của phe Cộng hòa đến chiến thắng.
Có thể giải thích sự thay đổi này của vị cựu Bộ trưởng của vua Louis-Philippe như thế nào? Tham vọng ư? Có thể. Dưới chế độ Cộng hòa, Thiers l{ người đứng đầu trong khi ông đ~ chỉ có thể là một Bộ trưởng của nh{ vua dưới chế độ Quân chủ. Và nếu chỉ đơn giản cho là do ông l{ người ham muốn được đóng một vai trò năng động, ông cũng đ~ gặp phải nhiều cuộc tranh đấu gây hao tâm tổn trí. Nhưng điều chủ yếu l{ Thiers, đi trước thời của mình đ~ hiểu rằng chính thể n{y không quan t}m đến những lợi ích cơ bản của tầng lớp tư sản mà ông đại diện, rằng vào thời điểm mà ông có thể tuyên bố một cách xứng đ|ng sự ra đời của nó, khi những nguyên tắc của cuộc cách mạng 1789 được tôn trọng và những người tư sản bảo vệ hình ảnh của ông có thể điều hành nền Cộng hòa “bảo thủ”. Hình thức này của nền Cộng hòa làm hài lòng dân chúng. Chỉ còn phụ thuộc vào việc nó sẽ sử dụng tầng lớp tư sản vào việc phục vụ đồng thời những lợi ích của nó. Như vậy, Adolphe Thiers đ~ tạo dựng trong
dân chúng hình ảnh của nền Cộng hòa Bảo thủ, đó cũng l{ tính chất của nền Cộng hòa đệ Tam. Nhưng v{o thời điểm ông từ chức, ông mới chỉ tạo lập nó trên ph|p lý vì ông đ~ nhường chỗ cho phe Bảo hoàng. Còn một việc nữa cần phải l{m đó l{ x|c định vị trí của Tổng thống trong nền Cộng hòa vì dù sao Thiers cũng chỉ làm Tổng thống không chính thức. Việc không ph}n định rõ vị trí đứng đầu nh{ nước hay đứng đầu chính phủ của ông cũng đ~ có thể dẫn đến việc có một Tổng thống theo kiểu Mỹ, nếu việc từ chức của ông, giả sử tiềm ẩn phần nào nguyên tắc qui định Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội thì đ~ phần nào khẳng định tính chất của chế độ Đại nghị mới.
- 3 - TRONG KHI CHỜ ĐỢI ĐỨC
VUA...NGUYÊN SOÁI MAC-MAHON XUẤT HIỆN
(24 th|ng 5 năm 1873 đến 30 th|ng 01 năm 1879)
Ngày 24/5/1873, sau khi lật đổ chính quyền của Thiers, Quốc hội đ~ đưa Nguyên so|i Mac Mahon, người vốn không có đối thủ, lên làm Tổng thống của nền Cộng hòa với 390 phiếu thuận trong tổng số 721 phiếu. Từ 6 ng{y trước đó, phe đa số đ~ quyết định đưa Mac Mahon lên nắm quyền nhưng không thông b|o cho nh}n vật chính n{y, người đ~ nhiều lần khẳng định sự trung thành của mình với chính quyền Thiers. Tuy nhiên, chính gia đình Mac Mahon đ~ thuyết phục người lính già này không tham dự vào phiên họp ngày 24/5. Và trong khi phiên họp diễn ra với sự vắng mặt của Thiers, Nguyên soái Mac-Mahon đ~ đến thăm cựu Tổng thống để thuyết phục ông rút lại đơn xin từ chức. Còn Thiers, vì biết rõ ý định của Quốc hội nên muốn đặt phe đa số vào thế bí bằng cách thuyết phục Mac-Mahon từ chối vị trí mà Quốc hội sẽ d{nh cho Nguyên so|i: “Ngôi vị Tổng thống quả là một địa ngục, tôi sẽ không trở lại vị trí đó đ}u. Và cả ông nữa, vị Nguyên so|i đ|ng kính của ta, đừng có dấn thân vào chốn đó. Hiện nay quyền lực đang l{ một cái tổ ong bò vẽ mà với bản tính quân nhân của mình, chắc hẳn ông sẽ không giữ nổi bình tĩnh trong vòng 48 giờ đ}u”.
Không hiểu được hàm ý chính trị sâu xa của Tổng thống, Nguyên soái Mac-Mahon nghĩ rằng Thiers đ~ thực sự chán ngán và từ bỏ quyền lực, nên tối ng{y 24/5, khi văn phòng Quốc hội vừa thông báo Mac-Mahon được bầu làm Tổng thống thì giới thân cận của vị Nguyên soái n{y đ~ không mấy khó khăn thuyết phục ông rằng điều cần l{m l{ ông không được né tránh trọng trách này.
Mac-Mahon trước tiên là một người lính
Nhân vật mà những người thuộc phe Bảo hoàng vừa đưa lên l{m Tổng thống chắc hẳn là người ít phù hợp nhất để đảm nhận vị trí này. Ông tự hào là một người lính mà sự nghiệp chỉ có được nhờ v{o lòng dũng cảm chứ không phải là nhờ vào những mưu mô chính trị.
Ông bắt đầu binh nghiệp của mình dưới nền Quân chủ tháng Bảy v{ lòng can đảm, tinh thần dũng cảm của ông đ~ được tôn vinh tại Algérie. Tiếng tăm về lòng dũng cảm của ông bắt đầu từ cuộc chiến tranh trên b|n đảo Crimée (Ukraina). Nền Đế chế đ~ tạo điều kiện đưa vị tướng lĩnh qu}n đội hăng h|i v{ nhiệt tình n{y đạt được mọi đỉnh cao. Đầu tiên là ngôi vị Công tước Magenta sau chiến tranh với Italia năm 1859, rồi đến chức Nguyên so|i nước Pháp, và ở vị trí này, Mac-Mahon đ~ đạt được mọi tước hiệu danh phẩm cao quí. Năm 1861, ông đảm nhận vai trò đại sứ đặc mệnh bên cạnh vua Guillaume nước Phổ. Năm 1864, Mac Mahon giữ vị trí Toàn quyền ở Algérie. Năm 1870 thì ông thôi chức Toàn quyền trở về chỉ huy qu}n đội ở vùng Alsace. Tuy nhiên, quân của Mac-Mahon đ~ thua v{ thủ thế ở vùng lòng chảo Sedan, nơi trận chiến kết thúc ngày 1/9 khi Mac-Mahon bị bắt làm tù binh với vết thương nhẹ ở đùi.
Bị giữ làm tù binh ở Đức cho đến mùa xu}n năm 1871, Mac-Mahon trở về Ph|p để chỉ huy qu}n đội Versailles đang tập trung nhằm trấn |p phong tr{o Công x~ Paris. Nhưng Mac Mahon lo sợ rằng những thất bại trước đó sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của mình. Và ông rất nhạy cảm với nhận xét này của Thiers: “Hết rồi… hết tất cả rồi!”.
Đứng đầu nền Cộng hòa là một người theo chủ nghĩa chính thống
Nguyên soái Mac-Mahon đ~ l{m tất cả h{i lòng khi ông l{ người chiến thắng trong cuộc đ{n áp Công xã Paris, và ông rất có thể sẽ trở th{nh người giương cao ngọn cờ của phe đa số - những người muốn loại Thiers ra khỏi cuộc chơi của họ - bởi vì những tư tưởng chính trị của ông chỉ biến ông thành kẻ phục vụ những nhà quân chủ mà thôi.
Trên thực tế, Nguyên soái Mac-Mahon được biết đến như một người theo chủ nghĩa chính thống. Hơn nữa, chủ nghĩa chính thống đối với ông là một truyền thống gia đình hơn l{ một tư tưởng chính trị. Mac-Mahon sinh năm 1808 trong một gia đình luôn lưu giữ một cách trung thành những hồi ức về các thế hệ các lãnh chúa Bourbon , những hồi ức đầu tiên của Mac-Mahon bắt đầu từ thời kỳ Vương quyền phục hưng m{ cha mẹ ông đ~ đón nhận như một sự giải phóng. Kể từ khi Louis-Philippe lên ngôi, Mac-Mahon đ~ nghĩ đến việc từ bỏ qu}n đội; nhưng gia đình ông ngăn cản ông làm việc đó: vậy là ông phục vụ cho “vị ho{ng đế của những rào cản” v{ nhanh chóng trở th{nh người được những người con của ho{ng đế che chở và bảo vệ. Trong cuộc Cách mạng 1848, ông l{ sĩ quan cận vệ của Công tước Nemours và thích nghi rất nhanh với chế độ mới. Cần phải l{m gì trước sự sụp đổ của Louis-Philippe? Một lần nữa, ông lại nghĩ đến việc rút lui khỏi qu}n đội, nhưng Cavaignac, Bộ trưởng chiến tranh đ~ kêu gọi ông ra phục vụ: ngài Bộ trưởng cần ông để giữ gìn an ninh trật tự.
Vì vậy, Mac-Mahon đ~ chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa cũng giống như ông đ~ từng phục vụ nền Quân chủ tháng Bảy… Cuối cùng, mọi việc đ~ được giải quyết giống như trước kia: an ninh quốc gia yêu cầu cần có Mac-Mahon đứng ra bảo vệ. Từ năm 1858, Mac-Mahon trở th{nh Thượng nghị sĩ đế chế. Người ta cho rằng Mac-Mahon chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa đệ Tam với tư c|ch l{ một trong những người bảo vệ an ninh trật tự giống như ông đ~
từng phục vụ nền Cộng hòa đệ Nhị. Việc không can dự vào chính trị cũng như những tư tưởng theo chủ nghĩa chính thống này ở Mac-Mahon có thể dung hòa được với mọi chế độ chính trị rất kh|c nhau v{ điều n{y đ~ nhanh chóng g}y được sự chú ý của Công tước Broglie khi phe đa số trong Quốc hội muốn tìm người thay thế Thiers. Trước đó, những người theo chủ nghĩa chính thống đ~ từ chối chỉ định vị Tổng thống mà Broglie mong muốn: Công tước Aumale , Đại biểu quốc hội và là con trai của Louis- Philippe; những người này sợ rằng nếu bầu vị Công tước đó lên ngôi Tổng thống thì trước những khó khăn của triều đình, dòng quí tộc hoàng gia ở Orléans, dù đ~ có những cam kết trước đó vẫn sẽ tìm cách giành lại quyền lực từ tay dòng tộc con trưởng.
Một ứng cử viên khác cho chức Tổng thống: tướng Changarnier . Nhưng với tính c|ch độc đo|n, vị Tướng già 80 tuổi n{y l{m người ta sợ rằng đến một lúc n{o đó, ông sẽ không chấp nhận rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho người khác. Mac-Mahon thì khác, ông sẽ phục vụ tận t}m v{ trung th{nh “nền Cộng hòa lâm thời” v{ sẽ cũng rút lui một c|ch đ{ng
ho{ng trước người thay thế ông sau này khi ông được yêu cầu l{m điều đó, v{ trong thời gian chờ đợi, ông sẽ để cho phe đa số tha hồ tự giải quyết các vấn đề liên quan đến chế độ mà không can thiệp vào những cuộc xung đột cãi vã giữa c|c Đại biểu trong Hạ viện. Chính vì lý do đó m{ sau khi đ~ phục vụ 3 chế độ cách mạng, Mac-Mahon lại trở thành thủ lĩnh của chế độ chính trị thứ tư. Hơn thế, thời gian làm Tổng thống sau này của Mac-Mahon còn là điều quan trọng giúp người ta thấy rõ vị thế của Tổng thống trong các thể chế chính trị của nền Cộng hòa.
“Thiết lập lại Trật tự Đạo đức”
Tối ng{y 24/5, khi Công tước Broglie đến thăm Tổng thống mới tại nhà riêng, ông thấy Tổng thống đang ngồi cùng với Chủ tịch Quốc hội, ng{i Buffet. Hai người vừa soạn thảo xong l| thư chấp nhận chức vụ Tổng thống của Mac-Mahon sẽ gửi cho c|c Đại biểu Quốc hội đ~ bầu ông:
“Kính thưa c|c quí vị đại biểu,
Tôi xin tuân theo quyết định của Hạ viện, cơ quan đại diện cho chủ quyền quốc gia, và xin nhận nhiệm vụ được giao là giữ vai trò Tổng thống của nền Cộng hòa. Đ}y l{ một trách nhiệm nặng nề d{nh cho lòng yêu nước của tôi. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa và sự tận tâm của qu}n đội chúng ta - một đội quân của pháp luật, với sự trợ giúp của tất cả những con người chân chính, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sự nghiệp giải phóng lãnh thổ và thiết lập lại trật tự đạo đức ở đất nước chúng ta, chúng ta sẽ gìn giữ nền hòa bình trong lãnh thổ và giữ vững những nguyên tắc cơ bản của xã hội chúng ta. Tôi xin nói tất cả những lời đó với quí vị với danh dự của một con người trung thực, chân chính và danh dự của một người lính”.
Broglie cảm thấy rất phấn chấn: người ta không thể đưa ra những nguyên tắc l~nh đạo nào tốt hơn thế cho phe đa số trong Quốc hội và ông sẽ điều khiển để bức thông điệp đó không chỉ được gửi tới từng Đại biểu quốc hội mà còn được dán ở khắp nơi trên nước Pháp. Theo c|ch đó, một chính phủ của “Trật tự Đạo đức” sẽ bắt đầu dưới sự bảo hộ của Mac-Mahon.
Công tước Broglie, vị nguyên thủ giấu mặt
Ngày 25/5/1873, chính phủ “Trật tự Đạo đức”, như những người Cộng hòa vẫn nói đùa, đ~ được thành lập. Theo luật pháp, Mac-Mahon sẽ điều h{nh v{ l~nh đạo bộ m|y n{y, nhưng việc Tổng thống còn thiếu kinh nghiệm chính trị cộng thêm với điều luật mà Quốc hội thông qua v{o th|ng 3 đ~ hạn chế khả năng can thiệp của Tổng thống khiến cho việc thành lập chính phủ phải dựa trên sự hợp tác chặt chẽ của c|c nh{ l~nh đạo trong phe đa số của Quốc hội. Cho nên, chính Broglie đ~ th{nh lập chính phủ này thể theo yêu cầu của Mac-Mahon; ông l{ người điều khiển chính với chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chức năng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, tất cả thống nhất là Broglie sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ chế độ chính trị trước Quốc hội bởi vì, khác với Mac-Mahon, Broglie hoàn toàn tự do trước cơ quan đại diện n{y. Như vậy, việc Quốc hội vẫn không tin tưởng vào Tổng thống giống như trường hợp của Thiers trước đ}y đ~ l{m nảy sinh một vấn đề cơ bản m{ người ở vị trí quyền lực tối cao sẽ gặp phải trong suốt nền Cộng hòa đệ Tam: sự khác xa nhau giữa lý
thuyết (Tổng thống phải là vị nguyên thủ có thực quyền tối cao) và thực tế (Tổng thống buộc phải nhường phần lớn quyền lực cho một người kh|c ban đầu xuất hiện với tư c|ch l{ trợ lý của Tổng thống); sự khác nhau giữa lý thuyết và thực tế này xảy ra trước khi logic của sự phát triển khiến cho Tổng thống thực sự l{ người có quyền lực tối cao; vai trò cá nhân của Mac-Mahon trong logic phát triển này là không thể phủ nhận được.
Kể từ năm 1873, Broglie l{ người l~nh đạo thực sự của đất nước, ngay cả khi Mac-Mahon điều hành Hội đồng Bộ trưởng và luôn tìm cách nắm được mọi thông tin. Nếu quả thực Mac Mahon l{ người quyết định cuối cùng thì chính Công tước Broglie l{ người đ~ chuẩn bị sẵn những quyết định trước đó.
“Dưới tên gọi Cộng hòa, thực chất là một nền quân chủ”
Thiers đ~ bị đẩy đi, Mac-Mahon trung th{nh đ~ có vị trí của mình, Broglie đang nắm quyền lực, trong tình cảnh ấy, những người bảo hoàng thực sự là chủ cuộc chơi. Họ định thừa cơ hội n{y để cố gắng một lần nữa giành lại nền Quân chủ phục chế. Ngay bản thân Mac-Mahon cũng không ngần ngại tuyên bố một cách công khai rằng việc B| tước Chambord lên ngôi là “kh|t khao ch|y bỏng nhất” m{ ông chưa bao giờ nói đến. Nhưng v{o năm 1871 lại nảy sinh vấn đề gây tranh cãi gay gắt về quốc kỳ, vì thế, vị thế của Chambord cũng không l{m thay đổi được gì.
Một lần nữa, phe Quân chủ lại cử một ph|i đo{n đến để thuyết phục “Người kế vị ngai v{ng” từ chối “l| cờ của Henri IV”. Ph|i đo{n n{y có thể vận dụng những lời khuyên của Tổng thống, người đ~ từ chối việc đích th}n mình viết cho Chambord để không đi ngược với cam kết mà ông đ~ hứa trước đó l{ giữ quan điểm trung lập. Tổng thống muốn Chambord biết rằng không thể |p đặt qu}n đội phải chấp nhận một lá cờ nào khác ngoài quốc kỳ tam tài. Thay vào những lời lẽ bóng bẩy của các nhà sáng tạo ngôn ngữ lịch sử: “Chỉ cần nhìn thấy lá quốc kỳ màu trắng thì những tay súng sẽ tự bỏ đi”, Mac-Mahon tuyên bố rằng: “Qu}n đội sẽ quyết sống chết với lá cờ tam tài; nếu lá cờ bị vò nát thì chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ xảy ra những xung đột khủng khiếp”. Nhưng Chambord không có ý định bắt đầu ngôi vị cai trị đang rất gần của mình bằng những gì mà vị B| tước này cho là một h{nh động thấp hèn. Khi Chesnelong, người dẫn đầu ph|i đo{n Qu}n chủ đến thuyết phục Chambord vụng về kể lại chuyến đi của mình cho bạn bè trong chính giới rằng B| tước Chambord sẵn s{ng nhượng bộ thì vị B| tước đ~ đưa ra một lời cải chính gay gắt, lời phủ nhận này có thể cắt đứt mọi cầu nối và làm cho việc phục chế nền quân chủ m{ chính B| tước sẽ l{ người hưởng lợi trở thành một điều không thể: “Một khi những hiểu lầm ngày càng chồng chất làm lu mờ chính sách của ta trước bầu trời rộng mở thì ta phải cảm ơn xứ sở n{y, đất nước này vì tất cả sự thật được phơi b{y, nơi ta có thể không được biết đến và không là gì cả… Hôm nay người ta yêu cầu ta hãy vứt bỏ danh dự của mình… Ta không thể đồng ý bắt đầu một vương triều mới bằng một h{nh động đê hèn… Ta muốn luôn là chính mình. Nếu ngày hôm nay ta mềm yếu nhượng bộ, ngày mai ta sẽ hoàn toàn bất lực (…) Bản thân ta không là gì cả, nguyên tắc sống của ta mới là tất cả. Nước Pháp sẽ nhìn thấy kết cục những thử thách của mình khi nước Pháp muốn hiểu nguyên tắc đó của ta”.
Những người Cộng hòa do Thiers và Gambetta dẫn dắt thì mừng quýnh bởi chừng nào việc phục chế nền Quân chủ bị chậm lại thì chừng đó nền Cộng hòa còn giữ được. Phe Bảo hoàng bị giáng một đòn mạnh. Việc họ đặt niềm tin vào những người con của Ho{ng gia đang theo
đuổi chính sách của phe đa số đ~ khiến cho tình đo{n kết thống nhất giữa c|c gia đình vương tôn vốn rất khó khăn mới xây dựng được nay lại bị đe dọa nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải chờ cho Chambord biến khỏi chính trường, nhưng l{ chờ đợi trong khi vẫn để mọi điều diễn ra theo chiều hướng thuận lợi như hiện nay. Chính Hoàng tử Joinville, con trai của Louis Philippe đ~ |p đặt quan điểm của mình cho phe đa số: “Nước Pháp có Nguyên soái; cần phải giữ gìn và bảo vệ Nguyên soái, bản thân ta và tất cả chúng ta đều phải là những người theo và ủng hộ Mac-Mahon”. Quan điểm n{y đ~ chiến thắng dù cho một số người, ví dụ như Công tước Broglie, ngay lúc đó đ~ hiểu rằng tính không nhượng bộ của Chambord đ~ đặt cơ hội phục hồi nền Quân chủ vào thế hoàn toàn tiêu cực và nguy hiểm. Trong hoàn cảnh đó, giải pháp tối ưu chính l{ giải ph|p m{ Thiers đ~ chủ trương theo đuổi v{ Broglie đ~ gọi tên giải ph|p đó như sau: “Biến Mac-Mahon trở thành một vị nguyên thủ lâm thời thực sự dưới chức danh Tổng thống và biến nước Ph|p đang núp dưới cái tên Cộng hòa trở thành một nền Quân chủ không có Vua m{ thôi”. Nhưng vì mưu đồ chính trị này rất ít có cơ hội th{nh công nên phe đa số đ~ quyết định cải biến vị trí nguyên thủ quốc gia lâm thời. Vì vậy, dù lúc đó chưa có một văn bản n{o qui định về chế độ chính trị của nước Pháp, ngày 18/11/1873, theo yêu cầu của Broglie, Quốc hội vẫn quyết định kéo dài thời hạn quyền lực của Nguyên soái Mac-Mahon bằng việc thông qua luật “nhiệm kỳ 7 năm”.
Trong khi các cuộc tranh luận đang diễn ra ở Quốc hội thì Tổng thống lại có viên sĩ quan tuỳ tùng của B| tước Chambord đến thăm v{ b|o với ông rằng người kế vị ngai v{ng đang ở Versailles, muốn gặp Tổng thống để bàn bạc v{ đưa ra những điều kiện để Nguyên soái có thể nhường lại quyền lực của mình cho Chambord, bất chấp ý kiến của Quốc hội. Mac Mahon rất hoảng hốt đ~ từ chối thẳng thừng cuộc gặp với B| tước vì cho rằng như thế là người ta đ~ ép ông phản bội lại lòng tin của Quốc hội đối với ông. Một lần nữa, “người lính trung th{nh” lại đặt nghĩa vụ của mình lên trên những tham vọng chính trị cá nhân, còn Chambord vô cùng thất vọng, sau này khi rời khỏi nước Ph|p sang lưu vong hẳn ở Áo, vị Bá tước đ~ chua ch|t nói về Mac-Mahon: “Ta cứ tưởng rằng mình đ~ gặp được viên sĩ quan qu}n đội h{ng đầu của nước Ph|p, nhưng không ngờ ta chỉ gặp một tên “cớm” chỉ huy mà thôi”.
Trở th{nh người đứng đầu nền Cộng hòa với nhiệm kỳ 7 năm, Mac-Mahon sau đó đ~ tham gia tích cực vào việc củng cố thể chế chính trị n{y. Cũng trong khoảng thời gian đó, với chính s|ch m{ mình theo đuổi, Broglie đ~ vô hình chung giúp những người Cộng hòa đứng lên dù đó không phải l{ điều Công tước mong muốn.
Quân chủ hóa xã hội, Cộng hòa hóa dư luận
Dù không hề ảo tưởng về ý thức và tinh thần của Nguyên soái, những người Cộng hòa lúc đầu vẫn tỏ ra sẵn sàng chấp nhận Mac-Mahon: “Có ông ta thì chúng ta vẫn còn nền Cộng hòa”. Đó l{ một nền Cộng hòa khá lạ lùng m{ sau n{y Công tước Broglie đ~ nhanh chóng chỉ ra cho những người Cộng hòa thấy bằng việc áp dụng chính sách Trật tự Đạo đức, cái làm nên ngọn cờ tiên phong trong chiến dịch rầm rộ chống lại những người Cộng hòa, nhằm hất
họ ra khỏi vị trí h{nh động và nhằm chuẩn bị điều kiện cho nền Quân chủ phục chế. Xét một cách tổng thể, những thành viên Cộng hòa đ~ bị thanh trừ khỏi các cấp chính quyền, một đạo luật thì qui định Chính phủ có quyền chỉ định chức Thị trưởng cho c|c địa phương còn những chức danh Cộng hòa trong Toà thị chính lại do một đạo luật kh|c qui định. Không có bất cứ một dấu tích nào của nền Cộng hòa được thể hiện trong c|c văn bản nh{ nước.
Chính phủ kiểm duyệt gắt gao việc in ấn v{ ph|t h{nh b|o chí. Ngược lại, mối quan tâm của Chính phủ là làm thế nào truyền bá lại v{o tư tưởng của quần chúng Pháp những khái niệm đ~ biến mất như việc tôn thờ và kính trọng giới chính quyền đ~ được tạo lập, tầng lớp thống trị và giáo hội có quyền lực trong xã hội. Giới tăng lữ được c|c nh{ l~nh đạo của phe đa số nhìn nhận như một trợ thủ đắc lực và tầng lớp n{y cũng d{nh được mọi sự quan tâm của Chính phủ; những người biểu tình chống lại tầng lớp tăng lữ bị truy đuổi, việc chôn cất dân thường bị cấm đo|n, v{ “b|o chí có t}m” thì nhận được sự trợ giúp từ các cấp chính quyền. Phe đa số và các tổ chức đ~ giúp đỡ nhiệt tình cho việc khánh thành Nhà thờ Sacré Coeur với tuyên bố rằng đó l{ “vì lợi ích công chúng”; sự trợ giúp của Chính phủ chủ yếu dành cho những cuộc h{nh hương ở Lourdes, Chartres và Paray-le-Monial, và tất cả cùng h|t: “H~y cứu lấy th{nh Roma v{ nước Pháp nhân danh Sacré-Coeur”. V{i năm sau đó, những người Cộng hòa thắng thế đ~ bắt giới tăng lữ phải trả gi| đắt cho những mối quan hệ liên lụy trước đó của mình.
Trong khi công tác tuyên truyền đang lan rộng thì chính quyền Cộng hòa không ngừng có những tiến triển tích cực ở trong nước, đặc biệt là nhờ vào những hoạt động không mệt mỏi của Gambetta. Cuộc bầu cử chính quyền các cấp năm 1874 l{ một thắng lợi của nền Cộng hòa. V{ ngay sau đó, phe đa số đ~ chia rẽ rất nhanh; những người theo chủ nghĩa chính thống, mặc dù trước đó đ~ thông qua luật về nhiệm kỳ 7 năm của Tổng thống, mặc dù không d|m nói ra nhưng vẫn thầm trách Broglie và Mac-Mahon về thất bại của người kế vị ngai vàng Chambord; nhất là phái giữa trong Quốc hội - những người ủng hộ dòng Orléans - đang lo sợ về một nguy cơ mới m{ người ta nghĩ rằng nó đ~ biến mất: chủ nghĩa Bonaparte. Rouher , vị “Ho{ng đế đệ Nhị”, c|i tên đệm mà mọi người đặt cho ông, đ~ tụ tập những người đi theo v{ ủng hộ nền Đế chế v{o Đảng “Kêu gọi d}n chúng” v{ bắt đầu một hoạt động tuyên truyền tích cực nhằm ủng hộ cho con trai của Napoléon III, vị Thái tử vương triều. Trước nguy cơ xuất hiện một chế độ độc tài mới, những thành viên thuộc phái trung tâm trong Quốc hội vốn nghiêng về chủ nghĩa tự do hơn l{ chủ nghĩa qu}n chủ đ~ tính ngay thấy mối nguy hiểm m{ nước Ph|p đang phải đối đầu, đó l{ tính bấp bênh không ổn định của chế độ lâm thời. Rất nhiều người đ~ ngả theo lối nghĩ của Broglie rằng thà duy trì một nền Cộng hòa bảo thủ, trong đó Tổng thống nắm mọi quyền hành của một vị vua cai trị theo hiến ph|p v{ được sự trợ giúp của Thượng viện, cơ quan đại diện cho quyền lợi của phe Bảo thủ và có trách nhiệm ngăn chặn mọi động th|i kích động của Hạ viện - cơ quan được thành lập do bầu cử - còn hơn l{ để xuất hiện một nền chính trị chuyên chế. Nhưng sự hiện hữu của phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đ~ ngăn cản phái giữa nêu ý kiến của mình.
Th|ng 5/1874, khi Công tước Broglie trình b{y trước Quốc hội chương trình Thượng viện của mình, lập tức một liên minh chính trị giữa những người Cộng hòa, người theo chủ nghĩa
chính thống và những người theo chủ nghĩa Bonaparte đ~ lật đổ chính phủ: phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đ~ tan t|c; nền Cộng hòa được giải cứu.
Sửa đổi Hiến pháp của Wallon, bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam
Quốc hội của những đại biểu quân chủ ra đời sau cuộc bầu cử năm 1871 đ~ không thể tìm ra một vị vua và chính họ lập ra nền Cộng hòa. Kể từ sau thất bại của Broglie, rất nhiều đại biểu phe trung hữu bắt đầu ngả sang cánh trung-tả, bao gồm những người Cộng hòa ôn hòa theo tư tưởng của Thiers. Léon Gambetta đ~ từ bỏ tư tưởng không nhượng bộ của mình và sự lớn mạnh của Gambetta đ~ thúc đẩy việc thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng n{y. Phe đa số dễ dàng tan rã trong cuộc bỏ phiếu về những sửa đổi Hiến pháp: những sửa đổi nào có chứa từ “Cộng hòa” đều bị loại bỏ nhưng với số phiếu ngày càng ít; rõ ràng, việc tiến hành lật đổ phe đa số là không thể chậm trễ. V{ cũng đ~ đến c|i ng{y Đại biểu Quốc hội Wallon, người công giáo theo chủ nghĩa tự do, vừa hôm qua thôi h~y còn l{ người của ph|i Orléans, đ~ đưa ra cho Quốc hội thống nhất với đa số đối với sửa đổi hiến pháp có thể được coi là bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam: “Tổng thống nền Cộng hòa được bầu theo đa số phiếu trong Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội. Tổng thống được bầu với nhiệm kỳ 7 năm và có thể được tái cử”. Vậy là chức vị Tổng thống cá nhân của Mac-Mahon được thay bằng khái niệm mới về một vị Tổng thống vô danh, có thể được tái cử và những điều kiện bầu cử được chỉ ra trong một văn bản có giá trị liên tục. V{ điều sửa đổi này của Wallon đ~ đ|nh dấu bước thắng lợi hoàn toàn của nền Cộng hòa sau 4 năm tồn tại một cách bấp bênh.
Phe Cộng hòa đ~ gi{nh được thắng lợi, công việc còn lại chỉ là phải qui hoạch và xây dựng chế độ mới. Hiến ph|p năm 1875 đ~ đ|p ứng đòi hỏi n{y. Nhưng vì hiến pháp phải do Quốc hội phê duyệt và sửa đổi cuối cùng nên bản hiến pháp phải chịu sự chi phối của các thành phần khác nhau trong Quốc hội. Có nghĩa l{ bản hiến ph|p được thông qua phải là kết quả của một thỏa thuận giữa những người thuộc phái Orléans luôn theo dõi sát sao xem hiến pháp có phù hợp với một nền Quân chủ mà họ vẫn chưa hết hi vọng sẽ phục hồi sau này không - với phái trung-tả gồm những người đ~ từ bỏ ý định về một sự phục hồi nền Quân chủ nhưng ít nhất vẫn muốn các quyền lợi của phe Bảo thủ mà họ đại diện được bảo vệ, và những người Cộng hòa ôn hòa luôn có tham vọng vĩnh cửu hóa chế độ Cộng hòa, tất cả được tiến h{nh trên cơ sở những nhượng bộ về thể chế. Bên cạnh Hạ nghị viện được thành lập sau cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu trực tiếp, một Thượng viện cũng được thành lập tương tự với một bộ phận nhỏ gồm 75 Thượng nghị sĩ không thể bị bãi miễn, lúc đầu do Quốc hội bầu ra v{ sau đó được các Nghị sĩ trúng cử bầu bổ sung, và một phần lớn gồm 225 nghị sĩ do Ban bầu cử gồm chủ yếu l{ đại diện các Hội đồng thành phố và tỉnh bầu ra, nghĩa l{ c|c Thượng nghị sĩ được bầu ở nơi quyền lực thuộc về những người bảo thủ địa phương. Tuy vậy, Thượng nghị viện cũng sẽ được hưởng những quyền lực tương tự như Hạ nghị viện (thông qua các luật và ngân sách, giám sát hoạt động của các bộ) và có thể làm tê liệt những ý kiến do c|c đại biểu được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu đưa ra.
Mối quan tâm của phe đa số cũng được thể hiện qua một điều khoản khác trong Hiến pháp. Điều khoản n{y qui định Hiến pháp có thể được sửa đổi bởi một thủ tục rất dễ dàng và do hai Viện thông qua tại Hội nghị nhóm họp c|c đại biểu, qui định n{y được đưa ra bất kể những phản ứng của phe Cộng hòa - những người cho rằng điều đó có thể tạo điều kiện cho
việc phục hồi nền Quân chủ - v{i năm sau đó, để đề phòng nguy cơ nói trên, c|c đại biểu đ~ quyết định rằng thể chế Cộng hòa không thể bị đem ra l{m đối tượng của việc sửa đổi Hiến pháp.
Quyền của Tổng thống trong Hiến ph|p năm 1875
Trước hết, bản Hiến ph|p năm 1875, vốn vẫn giữ nguyên tư tưởng bảo thủ và chủ nghĩa Quân chủ, đ~ qui định mọi quyền lực của Tổng thống nền Cộng hòa. Những quyền lực này đ~ đi ngược với mối quan tâm của hai phái chính trị: những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn trang bị cho Tổng thống những quyền mà sau này có thể chuyển giao cho Vua nếu nền Quân chủ được phục hồi, và những thành viên của phe trung hữu muốn biến Tổng thống th{nh con người của những kẻ có thế lực chứ không phải do bầu cử phổ thông đầu phiếu vì họ sợ rằng sẽ lại phải chứng kiến những biến cố như trong nền Cộng hòa đệ Nhị. Điều n{y cũng giải thích vì sao Tổng thống không do dân chúng bầu ra như năm 1848 mà do hai Viện nhóm họp tại Hội nghị. Tổng thống chỉ đạo v{ điều khiển những buổi lễ trọng thể của quốc gia, cắt cử người đảm nhận những vị trí quân sự và dân sự, Tổng thống là vị l~nh đạo tối cao của qu}n đội. Về mặt tư ph|p, Tổng thống có quyền ân xá. Tổng thống cũng l{ người đảm bảo chính s|ch đối ngoại của nước Pháp vì Tổng thống l{ người đ{m phán, phê chuẩn các hiệp ước và giám sát luôn quá trình áp dụng các hiệp ước đó (nhưng trong trường hợp này, hai Viện phải phê chuẩn).
Liên quan đến chính s|ch đối ngoại, Tổng thống cũng có những quyền rất quan trọng: chỉ Tổng thống mới có quyền đưa ra c|c dự luật (quyền này mang tính cạnh tranh với hai Viện) v{ trong trường hợp không đồng ý với một trong hai Viện, Tổng thống có thể đề nghị Viện đó xem xét thảo luận lại về một dự luật. Tổng thống có quyền triệu tập hai Viện họp, có quyền hoãn lại cuộc họp sau một th|ng nhưng nhiều nhất là hai lần trong vòng một kỳ họp. Và cuối cùng, một điều khoản quan trọng trong Hiến pháp nữa đó l{ Tổng thống có thể liên hệ với những nhân vật quan trọng để làm cho cuộc bầu cử thất bại, vì Tổng thống có quyền giải tán Hạ nghị viện sau khi có sự đồng ý của Thượng nghị viện. Những người theo chủ nghĩa chính thống đ~ lên tiếng phản đối việc Tổng thống buộc phải tham khảo ý kiến của Thượng nghị viện thì mới có thể quyết định giải tán Hạ nghị viện. Nhưng phe trung hữu trong Quốc hội, đại diện cho những người có thế lực và vẫn còn nhớ th|i độ của Charles X khi một mình quyết định giải tán Hạ nghị viện năm 1830, thì không phản ứng gì trước quyết định trên.
Tuy nhiên, c|c bên đều dễ d{ng đi đến thống nhất quyết định rằng Tổng thống sẽ không phải chịu trách nhiệm trước hai Viện: về phía những người thuộc chủ nghĩa chính thống, họ không thể chấp nhận việc một vị Vua phải sử dụng đến uy tín của mình để phân bua, giải thích những việc làm của mình trước hai Viện; còn phe trung hữu thì muốn rằng thực quyền phải được trao cho một vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được giới quí tộc tin tưởng. Như vậy, điều khoản miễn tr|ch n{y đ~ kho|c tr|ch nhiệm lên một nhân vật mà Hiến pháp không hề đề cập. Vì vậy, phải lấy thực tế hoạt động của chế độ đại nghị để giải quyết những vấn đề chưa được qui định trong Hiến ph|p. V{ như vậy, sau hai năm, quyền lực của Mac Mahon mới được x|c định một cách hợp pháp. Tuy nhiên, chính sách của Tổng thống lại đặt Hiến ph|p trước thách thức. Sau khi hết nhiệm kỳ của Mac-Mahon, những hậu quả do thái
độ ứng xử v{ h{nh động trước đó của Tổng thống mang lại đ~ cho thấy rõ trong thực tế những mặt hạn chế của chức danh Tổng thống.
Mac-Mahon trở th{nh người tiên phong giương cao ngọn cờ của Đảng Bảo thủ như thế nào?
Sau thất bại của Broglie, Mac-Mahon đ~ th{nh lập một chính phủ gồm những kĩ thuật viên do người bạn cũ của ông l{ tướng Cissey điều khiển. Sau đó, đến lượt phe đa số thành lập một chính phủ Buffet mờ nhạt nhưng kể từ sau khi bỏ phiếu thông qua luật hiến pháp thì đời sống chính trị dường như đ~ chỉ còn mối quan tâm duy nhất đó l{ viễn cảnh phân chia
Quốc hội đang đến rất gần khi m{ nó đ~ ho{n th{nh nhiệm vụ của mình. Đằng sau những lời phát biểu trước công chúng, mỗi đảng ph|i đều đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử sắp tới, ngầm hi vọng có thể thao túng nền Cộng hòa non trẻ vừa mới thành lập. Những người Cộng hòa hi vọng sẽ thắng trong cuộc bầu cử và họ đặt niềm tin vào hoạt động kép của hai thủ lĩnh của mình, hai người trước đ}y từng l{ đối thủ của nhau nhưng nay đ~ hòa hợp trở lại, đó l{ Thiers v{ Gambetta. Gambetta trong một bài diễn văn rất hùng hồn đ~ công bố sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới: “những tầng lớp xã hội mới xuất hiện từ sau cuộc Cách mạng Pháp và bầu cử, đ~ hòa hợp với tầng lớp tiến bộ của xã hội cũ, như vậy, cuối cùng chúng ta sẽ có thể kết thúc cuộc cách mạng vĩ đại bắt đầu diễn ra từ năm 1789 bằng một liên minh chặt chẽ và ngày càng rộng khắp giữa tầng lớp tư sản và tầng lớp vô sản”. L{ đại diện cho tầng lớp tư sản đó, Adolphe Thiers l{ gương mặt đ|ng tin cậy của đảng Cộng hòa, Đảng có phương ch}m m{ người ta thường nhắc đến: “Nền Cộng hòa hoặc sẽ là bảo thủ hoặc sẽ không còn là nó nữa”.
Đối lại Đảng Cộng hòa, phe đa số cũng xuất hiện trước cử tri với bản tổng kết những kết quả to lớn m{ mình đ~ đạt được từ năm 1871, với uy tín lẫy lừng của Mac-Mahon nhưng đồng thời cũng thể hiện khiếm khuyết nặng nề của phe n{y, đó l{ việc chia rẽ nội bộ. V{ để lảng tr|nh điều n{y, phe đa số sau đó đ~ nhấn mạnh v{ đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến thuật của mình hình ảnh Nguyên soái - Tổng thống Mac-Mahon. Phe n{y đ~ tư vấn Mac-Mahon ký vào một lời kêu gọi “sự đo{n kết của những người luôn đặt sự bảo vệ trật tự xã hội, sự tuân thủ pháp luật, sự tận tụy hết lòng vì Tổ quốc lên trên những hồi ức quá khứ, những ham muốn và những mục tiêu của đảng mình”. Điều đó đ~ l{m cho Tổng thống trở th{nh người giương cao ngọn cờ tiên phong của Đảng Bảo thủ và khiến đảng này bị thất bại trong cuộc bầu cử. Và cuộc bầu cử 2/1876 đ~ đem lại thắng lợi cho những đại biểu Cộng hòa khi phái này trở th{nh đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện.
Jules Simon, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: khủng hoảng thể chế bắt đầu
Cuộc bầu cử năm 1876 đ~ buộc người ta phải lựa chọn giữa hai quan niệm về chức danh Tổng thống nền Cộng hòa, một vị trí m{ theo qui định của Hiến ph|p đ~ bị đặt dưới ảnh hưởng kép của những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn có một Tổng thống nắm trong tay nhiều quyền lực và những cựu thành viên của phái Orléans vẫn luôn rất gắn bó với chế độ đại nghị. Hai quan niệm này chỉ có thể cùng tồn tại nếu phe đa số trong Quốc hội và Tổng thống hoàn toàn thống nhất với nhau, còn nếu có xung đột xảy ra thì người ta buộc phải chọn một trong hai quan điểm đ~ nêu. Liệu Tổng thống có phải là vị nguyên thủ thực
sự nắm quyền h{nh ph|p không hay đó chỉ là một nhân vật có tính chất trang trí, còn thực quyền thì lại trao cho một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Quốc hội tin tưởng?
Vấn đề n{y chưa được đặt ra ngay lập tức khi Mac-Mahon đ~ tìm được một cách cho phép ông vẫn tôn trọng được ý kiến quần chúng trong cuộc bầu cử mà không mất đi niềm tin của mình. Ông chỉ định một người bạn của Thiers là Dufaure lên nắm quyền, Dufaure vốn là người gia nhập muộn v{o Đảng Cộng hòa v{ l{ người đại diện cho cánh ôn hòa nhất trong Đảng Cộng hòa. Dufaure muốn l~nh đạo trong hòa khí với Hạ nghị viện của những người Cộng hòa, Thượng nghị viện của phe bảo thủ và với Tổng thống không kém bảo thủ. Nhưng đó l{ điều không thể v{ Dufaure đ~ trở nên suy yếu dần: Mac-Mahon không tin tưởng chính sách của Dufaure, ông tức giận khi thấy người l~nh đạo mới này, vì chịu sức ép của Quốc hội mà hi sinh những tỉnh trưởng đ~ phục vụ rất trung thành cho chính phủ “Trật tự Đạo đức”; về phần mình, phe đa số mới trong Quốc hội cũng nổi c|u trước tính nhút nhát của Dufaure v{ th|i độ nể nang Tổng thống quá rõ ràng của ông ta. Tháng 12/1876, Dufaure rút khỏi chính trường và Mac-Mahon lại gọi Jules Simon lên thay. Jules Simon, một người Cộng hòa ôn hòa nhưng lại đối đầu với Gambetta, là kẻ đ|ng sợ nhất đối với những lãnh tụ phe đa số dù rằng thiên hướng chính trị của Jules Simon đang ng{y c{ng chuyển rõ sang ôn hòa. Tuy nhiên, khác với Dufaure, Jules Simon l{ Đảng viên Cộng hòa đ~ từ lâu và nhân vật này không muốn phải đóng vai trò l| chắn giữa Tổng thống và Quốc hội giống như người tiền nhiệm của mình đ~ chấp nhận: “Nội c|c m{ c|c ng{i đang có trong tay l{ một nội các và luôn muốn là một nội các theo chế độ nghị viện. Cho nên nhiệm vụ của chúng ta chỉ còn là việc làm theo những gì mà vị quan chức cao nhất của nền Cộng hòa chỉ ra, vị l~nh đạo này trong mọi điều kiện luôn cố gắng tuân theo nguyên tắc của một chính phủ h{nh động theo hiến ph|p”. Với lời tuyên bố trên trước Hạ nghị viện, Jules Simon vừa vẽ ra chính s|ch lý tưởng của mình vừa đồng thời gửi thông điệp đến Tổng thống rằng ông ta chỉ chấp nhận điều h{nh đất nước trong trường hợp hoàn toàn thống nhất với Tổng thống và Quốc hội: từ đó, khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
Cuộc khủng hoảng ngày 16/5/1877
Giữa Tổng thống và Quốc hội có một vấn đề tạo hố s}u ngăn c|ch, đó l{ vấn đề tôn giáo. Bản th}n Jules Simon đ~ từng cấm đo|n việc thông qua một đơn kiến nghị đòi ngăn chặn chính sách chống tầng lớp tăng lữ của chính phủ Italia v{ điều n{y đ~ bị những tín đồ Thiên chúa giáo trong Hạ nghị viện lên án kịch liệt. Jules Simon đ~ trả lời một cách ôn hòa và kiên quyết và chỉ ra sự thái quá của một “thiểu số” c|c tín đồ Thiên chúa gi|o, đồng thời tuyên bố rằng nước Pháp sẽ không can thiệp vào các vấn đề ho{n to{n riêng tư của Italia. Tổng thống Pháp khen ngợi Jules Simon về bài diễn văn, nhưng phe đa số của những người Cộng hòa, với chất kết dính duy nhất là việc chống lại chủ nghĩa tăng lữ, thì hi vọng Chính phủ sẽ xem xét một cách nghiêm khắc những người theo chủ nghĩa tăng lữ. Và ngay từ ngày 4/5/1876, Gambetta cũng đ~ bước lên diễn đ{n ph|t biểu một bài diễn văn hùng hồn, ông nói: “Một người Thiên chúa gi|o m{ có lòng yêu nước, điều này thật hiếm có biết bao!” v{ ông kết thúc bài diễn văn của mình bằng một câu nói nổi tiếng sau đó đ~ trở thành một lời kêu gọi liên kết của phe Cộng hòa: “Chủ nghĩa tăng lữ, đó l{ kẻ thù!”
Sau đó, một chương trình nghị sự đ~ được thông qua, chương trình n{y lên án những âm mưu của thế lực ủng hộ quyền lực Gi|o ho{ng. Sau khi đọc bản báo cáo các cuộc tranh luận, Tổng thống vô cùng tức giận. Tổng thống không còn l{ người ng}y thơ về chính trị như người ta vẫn thường đồn đại nữa, ông hiểu rằng việc chỉ trích chủ nghĩa tăng lữ chính là việc kết tội chính sách của Trật tự Đạo đức; nhất là ông không thể chấp nhận việc Jules Simon bỏ qua mà không phản bác câu nói của Gambetta khi ông này nghi ngờ chủ nghĩa yêu nước của những người theo Thiên chúa giáo, câu nói mà Tổng thống cho rằng đ~ nhằm thẳng vào ông. Tổng thống tìm cách thoát ra khỏi tình huống khó xử đó. Nhưng Broglie thì hiểu rằng cắt đứt quan hệ với chính phủ Trật tự Đạo đức có nghĩa l{ sẽ đối đầu với Hạ nghị viện, sẽ buộc phải tiến hành giải t|n v{ như vậy sẽ phải chấp nhận cuộc bầu cử để giải quyết vấn đề tôn giáo theo chiều hướng không có lợi cho phe Bảo thủ. Vì vậy, Broglie đ~ khuyên Mac-Mahon hãy kiên nhẫn chờ thời. Ngày 15/5, thời cơ đ~ đến; Hạ nghị viện sau khi bãi bỏ một đạo luật của thời kỳ Trật tự Đạo đức, đ~ b|o c|o lên c|c thẩm phán nhân dân thông tin về những vi phạm pháp luật về báo chí mà Chính phủ của Broglie đ~ trao cho to{ hình sự trước đó. Jules Simon đ~ phớt lờ đạo luật mà không can thiệp vào việc này. Ngày hôm sau, 16/5, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nhìn thấy trên bàn của mình một bức thư của Tổng thống:
“Thưa Ng{i Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Tôi vừa mới đọc được trong Công báo bản báo cáo về phiên họp hôm qua. Tôi đ~ rất ngạc nhiên khi thấy rằng cả Ngài và Ngài Bộ trưởng Bộ Tư ph|p đều không ai đứng trên diễn đ{n để nêu lên và nhấn mạnh những lý do chính có thể đ~ g}y nên việc bãi bỏ đạo luật về báo chí đ~ được thông qua c|ch đ}y gần hai năm […]
Mọi người có thể đ~ rất ngạc nhiên khi thấy Hạ viện thông qua một v{i điều khoản của một đạo luật địa phương trong những phiên họp vừa qua - đạo luật mà ngay chính bản thân ngài, trong cuộc họp với Hội đồng Bộ trưởng, đ~ thừa nhận tính nguy hiểm của nó […] dù Ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ đ~ không tham gia thảo luận trong phiên họp này.
Th|i độ này của người đứng đầu nội các khiến người ta tự hỏi liệu người đó có dùng ảnh hưởng cần thiết đối với Hạ nghị viện để |p đặt quan điểm của mình hay không.
Việc này cần phải được giải thích; bởi vì, nếu tôi không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội như Ng{i thì tôi lại phải có trách nhiệm với nước Ph|p, điều mà hiện nay, hơn lúc n{o hết, tôi đang phải quan t}m…”
Với l| thư trên, Tổng thống muốn khẳng định rằng nhân danh trách nhiệm của mình với nước Pháp, Tổng thống có quyền khiển trách một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Hạ nghị viện tin dùng. Jules Simon và các Bộ trưởng trong nội các của ông từ chức ngay lập tức và Mac-Mahon đ~ bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng một nhân vật mới l{ Công tước Broglie, người này chắc chắn sẽ chỉ đối đầu với phe đa số của Đảng Cộng hòa trong Hạ viện. Ngày 18/5, Broglie đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống. Trong bức thông điệp này, Tổng thống đ~ tuyên bố rằng hai Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với tham vọng l~nh đạo cùng với những người Cộng hòa ôn hòa đều đ~ phải chịu kết cục thất bại trước những thành viên của Đảng Cấp tiến; rằng trong những điều kiện này, một chính phủ bền vững, ổn định
chỉ có thể được hình thành nếu những Đảng viên Đảng Cấp tiến được mời ra nắm quyền để thực hiện những ý tưởng của họ: “Thế nhưng, Tổng thống đ~ tuyên bố, lương t}m của tôi cũng như lòng yêu nước trong tôi đều không cho phép tôi gắn mình với chiến thắng của những ý tưởng đó, dù chỉ là từ xa v{ trong tương lai m{ thôi. Tôi không tin rằng những ý tưởng đó hợp với thời đại ngày nay cũng như sau n{y. Nếu ở vào thời đại n{o đó m{ những ý tưởng trên được coi là có giá trị thì nó cũng sẽ chỉ tạo nên sự lộn xộn và suy yếu của nước Pháp mà thôi. Bản thân tôi không muốn thử áp dụng những ý tưởng đó v{ cũng không khuyến khích những người kế cận tôi áp dụng nó. Chừng n{o tôi còn l{ người nắm quyền, chừng đó tôi còn sử dụng khả năng mình có, với tất cả những hạn chế do pháp luật qui định về quyền Tổng thống, để chống lại những gì mà tôi cho là làm tổn hại đến quốc gia”.
Mac-Mahon đ~ sử dụng những điều khoản trong Hiến ph|p qui định Tổng thống là vị lãnh đạo nắm quyền h{nh ph|p để đòi hỏi quyền được đưa ra chính s|ch riêng của mình và chống lại chính sách của Hạ nghị viện nếu Tổng thống thấy chính s|ch đó l{ nguy hiểm và có hại. Đối với Hiến pháp vừa mới được thông qua, chẳng có gì cần nói ngoài việc bản Hiến pháp rất đúng luật, nhưng khi Tổng thống khiến người ta nghi ngờ về những tư tưởng Cộng hòa của ông ta và khi Tổng thống đối đầu với phe đa số Cộng hòa trong Hạ nghị viện thì vấn đề lại trở nên kh|c đi. Khi Tổng thống đòi hỏi một số quyền của mình thì người ta nhận thấy đó l{ một cố gắng cuối cùng để cáo giác nền Cộng hòa theo nguyện vọng của phe Quân chủ giấu mặt. Đ}y l{ điều tối quan trọng trong cuộc khủng hoảng ngày 16/5 và những hậu quả của nó.
Cuộc bầu cử năm 1877: “Cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”
Sau khi đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống, Broglie lại cho đọc một sắc lệnh về việc hoãn họp Quốc hội sau 1 tháng. Khoảng thời gian này sẽ cho phép Chính phủ có thể chuẩn bị cho cuộc bầu cử sẽ diễn ra sau khi giải tán Hạ nghị viện. Và thực tế, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cựu thành viên của chủ nghĩa Bonaparte, ông Fourtou, đ~ c|ch chức hơn 200 công chức l{ người Cộng hòa và thay thế họ bằng những người theo chủ nghĩa Bonaparte vốn đ~ quen với việc xử lý đ|m đông bằng những cú đấm và giúp cho những ứng cử viên là quan chức thắng cử.
Về phần mình, những người Cộng hòa bắt đầu tập hợp và tổ chức công việc. Ý thức rõ về vai trò của cuộc bầu cử, những người này chủ trương không coi nhẹ bất cứ điều gì để có thể giành thắng lợi v{ đảm bảo quyền của Hạ nghị viện trong nền Cộng hòa. 363 Đại biểu Cộng hòa trong Hạ nghị viện đ~ nhóm họp bất chấp sắc lệnh hoãn họp và công bố bản tuyên ngôn do một người bạn của Gambetta là Eugène Spuller soạn thảo: “Nước Pháp muốn có nền Cộng hòa, nước Ph|p đ~ tuyên bố như vậy ng{y 20/2/1876, v{ nước Pháp còn tiếp tục khẳng định điều đó… Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy lên tiếng thể hiện quan điểm và sự lựa chọn của mình giữa một bên là chính sách phản động đầy mạo hiểm sẽ phá huỷ một cách tàn nhẫn những gì m{ chúng ta đ~ vất vả mới gi{nh được từ 6 năm nay, v{ một bên là chính sách khôn ngoan và kiên quyết, vì hòa bình và phát triển mà các bạn đ~ thấy… Nền Cộng hòa sẽ ra đời từ những hòm phiếu nhân dân và lớn mạnh hơn bao giờ hết”. V{ v{o ng{y 16/6/1877, khi Hạ nghị viện tụ họp một lần nữa thì c|c bên đều đ~ sẵn sàng cho cuộc chiến. Fourtou tuyên bố trước phe đối lập: “Chúng tôi không có cùng niềm tin với các ngài và các
ng{i cũng không có cùng niềm tin với chúng tôi…”. Hạ nghị viện đ~ đ|p trả bằng cách thông qua một chương trình nghị sự trước những đòi hỏi của Mac-Mahon nhằm khẳng định nguyện vọng của mình là Hiến pháp phải được áp dụng theo chế độ đại nghị: “Xét thấy Chính phủ […] đ~ được huy động để giải quyết các vụ việc trái với luật đ~ được các kỳ Quốc hội thông qua - đạo luật đóng vai trò l{ nguyên tắc h{nh động của Chính phủ theo chế độ đại nghị, đồng thời cũng thấy rằng Chính phủ chỉ đại diện cho liên minh chính trị giữa c|c đảng thù địch với nền Cộng hòa, một liên minh được dẫn dắt bởi những người khởi xướng các hoạt động biểu tình của giới tăng lữ đ~ bị Hạ nghị viện lên |n […], Hạ nghị viện tuyên bố Chính phủ không được sự tín nhiệm của c|c Đại biểu quốc hội đại diện cho quốc gia…”.
Ng{y 25/6/1877, được sự đồng ý của Thượng nghị viện, Mac-Mahon đ~ giải tán Hạ nghị viện: chiến dịch tranh cử quan trọng nhất trong lịch sử nền Cộng hòa bắt đầu. Tướng Mac Mahon liên tục gửi đi những thông điệp, thay đổi cách xử lý việc ứng cử của quan chức (“Chính phủ của tôi sẽ chỉ ra trong số các ứng cử viên những ai tôi có thể trông cậy được”), ông cũng xuất hiện ở hầu hết các vùng của Pháp với một niềm hạnh phúc không giống nhau ở từng nơi: nếu chuyến đến thăm nơi h{nh hương Saint-Anne d’Auray của vùng Bretagne là một thắng lợi thì ở Bordeaux lại là cảnh những g~ ranh con đu mình trên những c}y đèn đường hay bủa kín lấy xe của Mac-Mahon m{ hét lên: “Nền Cộng hòa muôn năm!”. Khi đó, những người Cộng hòa vốn tỏ ra chỉ đối đầu với Chính phủ và còn nể nang Tổng thống thì nay vội thoát ra khỏi vỏ bọc ôn hòa của họ. Ở Lille, Gambetta đ~ đọc một bài diễn văn c|o giác Mac-Mahon: “Khi h{ng nghìn người Pháp phải lên tiếng thì sẽ không ai, dù ở vị trí nào, bậc nào trong nấc thang chính trị, có thể chống lại được. Một khi nước Pháp muốn nói lên tiếng nói độc lập chủ quyền của mình thì xin c|c ng{i h~y tin điều này: cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”.
Chính phủ truy cứu Gambetta vì những lời lăng mạ Tổng thống, điều n{y đ~ khiến những gì ông nói được lan truyền rộng r~i v{ hơn nữa còn làm hại thanh danh của Nguyên soái. Không gì có thể có lợi hơn thế cho những người Cộng hòa. Nếu thắng cuộc, phe Cộng hòa đ~ có nhân vật để thay thế Tổng thống, nhân vật đó chỉ có thể l{ người biết trấn an tầng lớp tư sản thương nh}n: Adolphe Thiers. Người này thực sự là thủ lĩnh của Đảng Cộng hòa, đ~ có những cố gắng lớn và là ứng cử viên tại hòm phiếu ở quận IX của Paris. Ông đang chuẩn bị một bản tuyên ngôn để đọc trước cử tri. Tham gia vào cuộc bầu cử lần này, ông muốn phục thù cho thất bại ngày 24/5/1873.
Mac-Mahon chịu nhượng bộ
Điều kiện thuận lợi trên đ~ không ph|t huy t|c dụng với Thiers: một th|ng trước khi diễn ra cuộc bầu cử, Thiers chết vì chứng sung huyết. Bị mất đi người tiên phong, những người Cộng hòa rất lo lắng: họ sẽ lấy ai thay thế Thiers? Họ sẽ thay Thiers bằng Gambetta, một người quá gần gũi v{ quen thuộc với quần chúng ư? Như vậy chẳng phải là họ mạo hiểm làm cho tầng lớp tư sản khiếp sợ vì tầng lớp này luôn thấy Gambetta là một tông đồ của cuộc Cách mạng xã hội? Cẩn trọng hơn, họ chọn nhân vật máu lạnh Jules Grévy , người mà Thiers tin tưởng từ năm 1871. Sự lựa chọn này kết thúc một cách tốt đẹp: cuộc bầu cử đ~ đem lại chiến thắng cho 315 Đảng viên Cộng hòa v{ 199 đảng viên đảng bảo thủ. Dĩ nhiên l{
phe đa số Đảng Cộng hòa đ~ giảm đi nhưng chắc chắn nó vẫn còn l{ đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện.
Bị đ|nh bại, Mac-Mahon sẽ chấp nhận nhượng bộ hay từ chức? Ông ta sẽ lần lượt làm từng bước một. Trước khi nhượng bộ, ông còn cố lần chần né tránh. Broglie chỉ quyết định từ chức hai tuần sau cuộc họp của Hạ nghị viện mới. Vì vậy, Tổng thống đ~ chỉ định một trong những người thân cận của mình l{ Tướng Rochebouet ra l~nh đạo chính phủ, vị Tướng này thành lập một chính phủ gồm những người không có chân trong Quốc hội. Nhưng Quốc hội từ chối không quan hệ với vị Tướng này. Mac-Mahon không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào: Broglie, vị cố vấn mà Tổng thống vẫn nghe lời nhất thì khuyên ông nên từ chức nếu không muốn trở thành thứ đồ chơi trong tay những người Cộng hòa; nhưng Công tước Audiffret-Pasquier, Chủ tịch Thượng nghị viện thì lại khuyên Tổng thống nên nhượng bộ và ông này tuyên bố rằng Thượng nghị viện sẽ không tán thành việc giải tán Hạ nghị viện một lần nữa.
Đ~ nhiều lần, Mac-Mahon định làm theo ý kiến của Broglie v{ định dứt khỏi quyền lực. Nhưng Tổng thống bị giới cận thần gồm những người theo chủ nghĩa chính thống và những sĩ quan qu}n đội ngăn cản vì những người này lo sợ hậu quả sẽ xảy ra nếu Tổng thống từ chức nhường lại l~nh địa của mình cho phe Cộng hòa. Cuối cùng, Mac-Mahon triệu tập Đảng viên Cộng hòa ôn hòa nhất m{ người ta có thể tìm thấy, đó l{ Dufaure. Nhưng nh}n vật này, do đ~ qu| thấu hiểu sự tình nhờ những sự kiện vừa xảy ra, nên không muốn một lần nữa dấn thân làm mồi cho những sự chỉ trích và trách cứ m{ trước đ}y người ta đ~ l{m với mình, không muốn mình bị coi là hình nộm của Tổng thống nên trước khi nhận lời, Dufaure đặt ra một số điều kiện. Chính phủ mới được thành lập sẽ chỉ gồm Dufaure và những người Cộng hòa mà bản thân ông sẽ chọn, chính phủ sẽ ho{n to{n độc lập với Điện Élysée và Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký một bức thông điệp công khai trong đó Tổng thống khẳng định sẽ một mực tôn trọng những qui định của Quốc hội. Vậy l{ Nguyên so|i đ~ nhượng bộ, và theo sự dẫn dắt của Dufaure, ông đi từ sự phục tùng này sang sự nhượng bộ kh|c: trước tiên ông sẽ phải xa rời viên Cảnh s|t trưởng Voisin, rồi sau đó l{ một số người cộng tác thân cận của mình như Hầu tước Harcourt vì người ta cho rằng vị Hầu tước n{y đ~ khởi xướng cho Tổng thống chính sách chống lại nền Cộng hòa; cuối cùng, Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký vào một bức thông điệp nổi tiếng có sửa đổi chút ít để khỏi quá làm mất thể diện: “Hiến ph|p năm 1875 đ~ lập ra một nền Cộng hòa đại nghị với điều khoản miễn trách cho tôi trong khi nó lại đòi hỏi sự đồng trách nhiệm của các Bộ trưởng. Vì vậy m{ nghĩa vụ và quyền lợi của chúng ta được thiết lập lần lượt. Sự độc lập của các Bộ trưởng l{ điều kiện để qui trách nhiệm cho họ. Những nguyên tắc được rút ra từ Hiến pháp này là những nguyên tắc điều hành của tôi”.
Do vậy Dufaure rất bằng lòng về mọi phương diện: về mặt chính trị, Tổng thống hầu như không còn quyền lực. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Marcère đ~ miêu tả th|i độ của Tổng thống cho Hội đồng Bộ trưởng đầu tiên được thành lập sau khi thành lập chính phủ của Dufaure: “Nguyên so|i bước v{o. Ông đỏ mặt, rất xúc động và gần như cảm thấy nhục nhã; ông giống như một tên lính phải hạ vũ khí. Ông nói một vài lời ngắn gọn và không giấu nổi việc ông đ~
phải cố gắng kìm nén như thế n{o trước mặt chúng tôi. Ông nói ông phải thành lập một chính phủ không như mong muốn mà bị bắt buộc, rằng đ|ng ra ông đ~ có thể rút lui cùng với những người cùng ông l{m nên ng{y 16/5; nhưng sở dĩ ông không l{m như vậy là vì cảm thấy đó l{ một nghĩa vụ; ông đồng ý rằng sự hiện hữu của mình với tư c|ch l~nh đạo chính phủ là cần thiết cho nước Ph|p trên phương diện ngoại giao […] giọng ông rất xúc động […] gương mặt ông run lên”.
Mac-Mahon từ chức
Nếu Mac-Mahon đ~ từng chấp nhận ở lại vị trí Tổng thống là bởi vì Thượng nghị viện với phe đa số thuộc Đảng Bảo thủ cũng có những phương tiện h{nh động như Hạ nghị viện nên có thể giúp Nguyên so|i đưa ra những lý lẽ đủ mạnh trước Chính phủ. Thực tế, Chính phủ cảm thấy bị buộc phải nương nhẹ với Mac-Mahon v{ đặc biệt l{ để cho Tổng thống theo dõi một cách sát sao những sự vụ trong qu}n đội; Tổng thống đ~ yêu cầu cử Tướng Borel, sĩ quan tuỳ tùng cũ của mình làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh cho dù Dufaure không dám phản đối việc n{y. Dường như đ~ có v{i th|ng đình chiến chính trị giữa Tổng thống v{ phe đa số vì một sự kiện diễn ra: ngày 1/5/1878, Mac-Mahon được khánh thành Cuộc triển lãm Quốc tế Paris và tổ chức những buổi lễ xa hoa tại Điện Élysée, nơi tụ họp những vị vua chúa châu Âu; đặc biệt, Tổng thống được điều khiển những cuộc duyệt binh ho{nh tr|ng. Nhưng đó l{ những đốm lửa cuối cùng của Mac-Mahon ở cương vị Tổng thống.
Ngay sau khi cuộc triển lãm kết thúc thì cuộc hưu chiến chính trị cũng đến hồi kết. Tháng 1/1879 đ~ diễn ra cuộc bầu cử bầu lại một phần ba số đại biểu trong Thượng nghị viện; những bước tiến lớn của Đảng Cộng hòa trong các chiến dịch tranh cử được minh chứng bằng kết quả bầu cử cấp quận năm 1877 v{ bầu cử cấp x~ năm 1878 v{ điều n{y đ~ có tiếng vang lớn đến cuộc bầu cử Thượng nghị viện; thắng lợi của những người Cộng hòa khiến cho trước đ}y họ chỉ chiếm thiểu số trong Thượng nghị viện thì nay họ đ~ có 60 phiếu đa số. Hiện tại, Mac-Mahon không còn quyền lực về chính trị, và những người Cộng hòa biết rất rõ điều đó, họ bèn từ bỏ những nương nhẹ, nể nang mà họ vẫn buộc phải dành cho Tổng thống cho đến tận thời điểm đó. Dưới sức ép của Hạ nghị viện, Dufaure yêu cầu tướng Borel phải từ chức, nhưng Nguyên so|i ngay lập tức lại thay Borel bằng một Tướng tin cẩn khác của mình. Bị vượt quyền, Tổng thống phải ký sắc lệnh cách chức rất nhiều quan chức cấp cao đ~ từng giúp đỡ các nhân vật của ngày 16/5 và phải hi sinh nhiều tổng kiểm s|t trưởng, trưởng khu giáo dục, tỉnh trưởng, quan chức cấp cao trong ngành tài chính, những người đ~ từng phục vụ chính phủ của ông v{i th|ng trước đó. Nhưng ng{y 28/1/1879, Bộ trưởng mới phụ trách Bộ Chiến tranh yêu cầu Tổng thống ký một sắc lệnh quyết định thuyên chuyển 5 Tư lệnh qu}n đội và cho nghỉ việc 5 người khác thì Mac-Mahon rất giận dữ và từ chối ký. Các Bộ trưởng đều đ~ có vị trí của mình, còn Mac-Mahon vì không muốn chấp nhận sự nhượng bộ cuối cùng n{y nên đ{nh phải dùng giải ph|p “từ chức”. Ng{y 30/1, Tổng thống gửi cho các Chủ tịch Thượng nghị viện và Hạ nghị viện bức thông điệp sau:
“Thưa Ng{i Chủ tịch,
Ngay từ khi khai mạc phiên họp này, Chính phủ đ~ trình lên quí Ng{i chương trình về các dự luật của mình, những dự luật n{y, vì để l{m h{i lòng dư luận, nên có thể sẽ được thông
qua mà không nguy hại gì cho an ninh quốc gia và việc điều h{nh đất nước. Không kể đến mọi ý kiến c| nh}n kh|c, tôi đ~ đồng ý với chương trình trên, bởi vì tôi không bỏ qua bất cứ một nguyên tắc n{o m{ lương t}m mình bảo mình phải trung thành với nó.
Hôm nay, vì tin rằng sẽ được đa số các đại biểu của hai Viện ủng hộ, Chính phủ yêu cầu tôi phải thực hiện một số biện ph|p đối với c|c tướng lĩnh qu}n đội mà tôi cho rằng những biện ph|p đó đ~ x}m hại đến danh dự và an ninh của qu}n đội cũng như của quốc gia. Tôi không thể nhượng bộ chuyện này.
Với lời từ chối này, Chính phủ sẽ ngãng ra. Thực ra thì bất kỳ một chính phủ n{o được hình thành từ những thành viên của hai Viện đều sẽ |p đặt những điều kiện tương tự với tôi.
Cho nên tôi tin rằng mình cần phải rút ngắn nhiệm kỳ mà Hạ nghị viện đ~ tin tưởng trao trách nhiệm cho tôi. Tôi xin đệ đơn từ chức Tổng thống nền Cộng hòa.
Khi từ bỏ quyền lực, tôi muốn khẳng định rằng trong suốt 53 năm phục vụ đất nước mình với tư c|ch l{ một người lính, và một công d}n, tôi chưa bao giờ để mình bị chi phối bởi bất cứ thứ tình cảm nào khác ngoài ý thức về danh dự v{ nghĩa vụ cũng như một lòng tận tụy với Tổ quốc…”.
Một nhân vật bù nhìn trong vai trò vật trang trí
Vậy là, gần hai năm sau sự kiện ngày 16/5, Mac-Mahon đ~ rút ra những bài học logic về thất bại của mình. Nhưng v{o thời điểm rút lui khỏi vị trí Tổng thống, người từng theo chủ nghĩa Quân chủ này, dù không muốn, đ~ vô hình chung cho người ta thấy rõ những đặc tính của chức danh Tổng thống trong suốt giai đoạn tồn tại của nền Cộng hòa đệ Tam. Trong hai cách hiểu về vai trò Tổng thống mà Hiến ph|p năm 1875 đưa ra thì cuộc khủng hoảng ngày 16/5 đ~ khiến người ta thấy cách hiểu có giá trị thực tế là: Tổng thống chỉ như một nhân vật để trang trí và bị tước mọi thực quyền. Chắc chắn nếu như Mac-Mahon bị buộc phải nhượng bộ thì đó l{ bởi vì phe đa số của những người Cộng hòa hoàn toàn có quyền nghi ngờ chính sách ủng hộ chủ nghĩa Qu}n chủ của Tổng thống. Nhưng khi Mac-Mahon ra đi, những người Cộng hòa kế nhiệm ông được thừa hưởng từ Tổng thống một thứ quyền lực mà thực tế 4 năm qua đ~ cắt xén mất. Từ nay trở đi, Tổng thống nền Cộng hòa có thể đưa ra một chính sách khác với chính sách của phe đa số trong Quốc hội, Tổng thống cũng có thể điều hành chính phủ một cách thực sự dù điều đó không đúng ho{n to{n với câu chữ trong Hiến pháp. Sử dụng những vũ khí hợp pháp mà pháp luật trao cho có nghĩa l{ Tổng thống lựa chọn các Bộ trưởng, chỉ định hoặc tự mình cách chức các quan chức hay sĩ quan, yêu cầu hai Viện tiến hành thảo luận lại các dự luật; còn nếu h{nh động như Mac-Mahon có nghĩa l{ đ~ h{nh động như một kẻ đi ngược với nền Cộng hòa.
Cũng theo logic trên thì thấy rằng sử dụng quyền giải tán Quốc hội như Mac-Mahon đ~ l{m ng{y 16/5 có nghĩa l{ đưa ra một chính sách cá nhân; và nếu như vậy thì quyền giải tán Hạ nghị viện sẽ bị bỏ xó, dù đó l{ một vũ khí cơ bản của Tổng thống, một đối trọng không thể thiếu để chống lại quyền lực tuyệt đối của Quốc hội theo tinh thần của Hội đồng lập hiến năm 1875. Sau ng{y 16/5, không một Tổng thống nào của nền Cộng hòa đệ Tam còn dám giải tán Hạ nghị viện.
Từ đó, c|c vị Tổng thống đều sẽ xóa đi dấu ấn của mình đằng sau vị trí Tổng thống. Sẽ không có gì là thái quá khi nói rằng chính sự kiện ngày 16/5 chứ không phải là Hiến ph|p năm 1875 đ~ tạo nên chức danh Tổng thống trong giai đoạn nền Cộng hòa đệ Tam.
THỜI CỦA HOA CÚC?
(1879 - 1958)
Trong suốt gần 80 năm nền Cộng hòa sống trên di sản thể chế do cuộc khủng hoảng 16/5 để lại (trừ những năm gi|n đoạn từ năm 1940 - 1946 khi nước Pháp bị chiếm đóng, chế độ độc tài Vichy và các chính phủ lâm thời nối tiếp nhau đ~ bỏ qua các qui tắc của nền chính trị dân chủ ở Ph|p). Điều n{y có nghĩa l{ Tổng thống của nền Cộng hòa tuy vẫn giữ vai trò đại diện
chính trị nhưng chỉ còn là Tổng thống trên danh nghĩa. Sự thất bại trong cuộc chiến cộng với việc Mac-Mahon từ chức đưa chức vụ Tổng thống đến gần với vai trò mà phe Cộng hòa, lúc đó đang chiếm đa số trong cả hai Viện, dành cho ông ta. Vai trò của Tổng thống trong tình thế như vậy được Tướng De Gaulle gọi một cách cay nghiệt l{ ‘’khai mạc những bông hoa cúc ‘’. V{ trên thực tế, đúng l{ dù Tổng thống có là Chủ tọa của Hội đồng Bộ trưởng thì cũng không còn l{ người l~nh đạo nền Cộng hòa nữa. Những quyền quan trọng mà bản Hiến ph|p năm 1875 trao cho Tổng thống từ nay sẽ do chủ tịch của Hội đồng Bộ trưởng đảm nhiệm. Nhân vật này không tồn tại về mặt thể chế nhưng lại đảm nhiệm những vai trò chính trị mà thực tế không còn cho phép Tổng thống thực hiện nữa, chẳng hạn như th{nh lập chính phủ thông qua việc chỉ định các vị Bộ trưởng dựa trên hai tiêu chí l{ năng lực (có thể có) và khả năng thích nghi của họ để có thể thành lập một đa số tại nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tam, tại Hạ nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tứ; xác lập v{ l~nh đạo chính sách của quốc gia, bảo vệ hoạt động của chính phủ trước hai Viện… Về phần mình, Tổng thống phải từ chối sử dụng những vũ khí m{ c|c văn bản hiến ph|p đ~ d{nh cho mình vì sợ bị kết tội phá hoại nền Cộng hòa. Các quyền này là: quyền giải tán nghị viện, quyền yêu cầu thảo luận lại một lần nữa các dự thảo luật đ~ được thảo luận tại nghị viện nếu như Tổng thống không đồng ý với nội dung của các dự thảo đó. Dưới con mắt của người dân Pháp, một Tổng thống tốt l{ người vượt lên trên các vấn đề chính trị, đại diện cho đất nước một cách hoàn thiện, l{m vinh danh đất nước bằng sự oai vệ, bằng tài hùng biện, thậm chí là bằng sự lịch lãm của mình. Nói c|ch kh|c l{ khi người ta được bầu vào Viện công tố tối cao, người ta phải rời bỏ chính trường năng động để đi v{o trường danh vọng không quyền lực.
Trong tình hình như vậy, nhắc đến hàng loạt đời Tổng thống Pháp từ Jules Grévy đến René Coty (d}n chúng Ph|p đ~ quên phần lớn các nhân vật này) có vẻ như l{ một việc l{m đẹp đẽ nhưng vô nghĩa. Vấn đề là ở chỗ, trong chính trị, có được sự trùng hợp giữa một bên là vẻ bề ngo{i mang tính đại diện và một bên là thực tế không hề dễ dàng. Bị bó buộc bởi sức nặng của hoàn cảnh, rồi truyền thống chính trị sau ngày 16/5, bởi sự khiêm tốn đến mức xóa nhòa chính mình, các vị Tổng thống của nền Cộng hòa không phải vì thế mà không có vai trò quan trọng gì. Về điểm này, tính cách riêng của từng người là một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua. Bên cạnh những Tổng thống như Sadi Carnot hay Albert Lebrun muốn tự giới hạn mình bởi những đặc quyền mà truyền thống Cộng hòa trao cho họ thì có những Tổng thống kh|c như Casimir-Périer hay Alexandre Millerand muốn tìm lại những quyền lực mà bản Hiến ph|p đ~ thừa nhận cho họ. Những vị Tổng thống n{y đ~ cố gắng tới mức phải chịu nhiều thua thiệt. Bỏ ngoài tai sự mỉa mai chua cay của Clemenceau, người khuyến cáo là cần phải dồn phiếu một cách có hệ thống cho một nhân vật không tầm cỡ làm Tổng thống, người sẽ để mặc cho nghị viện l~nh đạo, các vị Tổng thống của Cộng hòa đệ Tam và
đệ Tứ không hề là những con rối: nhiều người trong số họ đ~ biết sử dụng những lợi thế mà hệ thống chính trị Pháp dành cho mình một c|ch kín đ|o v{ khéo léo.
Trước hết, đó l{ quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Không giống như ở Anh, nơi có chế độ lưỡng đảng trong đó thủ lĩnh của phe đa số đương nhiên chiếm cương vị Thủ tướng. Ở Pháp, trong một chế độ đa đảng, quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không hề mang tính chất thủ tục. Điều n{y được thể hiện qua việc Jules Grévy muốn tách nhân vật có cá tính mạnh như Gambetta xa rời quyền lực càng lâu càng tốt; việc Vincent Auriol đ~ chỉ định Antoin Pinay vào chức vụ Thủ tướng Chính phủ vào tháng 3/1952, hay René Coty bổ nhiệm Guy Mollet vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chứ không bổ nhiệm Pierre Mendès France v{o năm 1956. Đó l{ những h{nh động chính trị quan trọng kéo theo nhiều hệ quả lớn. Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thường đảm nhiệm vai trò của mình trong một khoảng thời gian ngắn, Tổng thống có thời gian làm việc rất dài cho phép ông hiểu biết rất rõ các vấn đề cần giải quyết v{ do đó, họ trở th{nh người cố vấn quí gi| v{ kín đ|o cho người đứng đầu chính phủ ngay cả khi những người này chẳng buồn nghe những lời khuyên ấy. Cuối cùng, Tổng thống là biểu tượng v{ đại diện cho cả đất nước. Điều này làm Tổng thống có vai trò quốc tế nếu như ông n{y muốn v{ điều khiển nó trong các cuộc công du chính thức ở nước ngoài hay tiếp đón c|c nguyên thủ quốc gia. Điều này đem lại cho Tổng thống vai trò thực sự trong chính sách ngoại giao. Tổng thống còn là người ký kết c|c điều ước quốc tế nh}n danh nước Pháp, bổ nhiệm đại sứ ở nước ngo{i, đôi khi Tổng thống có thể |p đặt sự lựa chọn của mình. Ông ta không phải là kẻ chỉ khoanh tay đứng xem trong lĩnh vực ngoại giao và trên thực tế, Jules Grévy hay Poincaré đều biết giữ một vai trò quan trọng v{ đôi khi chính yếu trong lĩnh vực này.
Như vậy, người ta không thể cười nhạo một cách dễ d{ng, như thường vẫn thấy dưới thời Cộng hòa đệ Ngũ, những vị Tổng thống thời n{y. Đó thực ra là những nhân vật thường có một nhân cách lớn và họ luôn cố gắng, đặc biệt với những người mạnh nhất trong số họ, phục vụ đất nước mà cuộc bầu cử đ~ chọn họ l{m đại diện cho đất nước ấy, trong khuôn khổ gò bó của truyền thống Cộng hòa. Nhất là trong hoàn cảnh đất nước ấy lại không trao cho họ những phương tiện h{nh động cần phải có để hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị của họ.
- 4 - JULES GRE'VY: VỊ TỔNG THỐNG CỘNG HÒA ĐẦU TIÊN!
(30 th|ng 01 năm 1879 - 3 th|ng 12 năm 1887)
Jules Grévy l{ người Pháp thứ tư mang danh hiệu Tổng thống nền Cộng hòa nhưng ông l{ người Cộng hòa đầu tiên nắm giữ cương vị này. Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Nhị là một người rắp t}m lên l{m Ho{ng đế. Còn Quốc hội đầu tiên của nền Cộng hòa đệ Tam muốn đưa một người lên l{m vua nước Pháp. Trong lúc chờ đợi tìm ra người thích hợp, Quốc hội đ~ bổ nhiệm một Tổng thống đến từ vùng Orléan và khi ông này bộc lộ dù là một cách muộn m{ng khuynh hướng Cộng hòa, nghị viện đ~ bổ nhiệm một vị Nguyên soái theo phái chính thống vào vị trí này. Những người theo phái Cộng hòa, chiếm đa số ở hai Viện, và vừa đẩy Mac Mahon khỏi vị trí Tổng thống đ~ có thể đưa một người trong phe của mình vào Viện công tố tối cao. Ngày 30/1/1879, hai Viện đ~ nhóm họp ở Versailles sau khi đ~ nghe bản từ chức của Mac Mahon. Kết quả bầu cử 563 phiếu thuận trên 713 phiếu bầu đ~ đưa nh}n vật l~nh đạo phe Cộng hòa Jules Grévy lên nắm quyền Tổng thống.
‘’Tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí quốc gia”
Vẻ bề ngoài của vị Tổng thống này là một lợi thế của ông: một dáng vẻ đầy tư thế với bộ râu ngắn ôm trọn những đường nét hài hòa trên khuôn mặt. Grévy l{ người tiêu biểu của tầng lớp tư sản, đạo mạo, nghiêm túc, l{ người giàu có nhờ công việc l{m ăn của chính mình, tôn trọng luật pháp, cần kiệm v{ cương nghị. Ai có thể tốt hơn trong việc đại diện cho những người Cộng hòa vốn gắn bó với việc làm yên lòng tầng lớp tư sản Ph|p hơn Grévy? Sinh ở Mont-sous-Vaudrey (Jura) ngày 15/8/1807, Jules Grévy xuất thân từ một gia đình nông thôn trong vùng, nằm giữa Dole và Poligny. Cách mạng 1848 làm ông trở thành một thành viên đại diện cho phe Cộng hòa. Vốn ôn hòa, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa đủ sức l{m nh}n d}n yên lòng. Trong lĩnh vực lập hiến, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa không có Tổng thống…Dưới thời Đế chế đệ Nhị, vai trò của ông hết sức mờ nhạt. Chỉ đến năm 1868 vai trò n{y mới thay đổi khi ông là thành viên của Đo{n lập ph|p. Được bầu lại v{o năm 1871, Grévy hợp tác với Thiers và với phái Orléans. Với vị trí người hòa giải, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Nghị viện Cộng hòa năm 1876 chọn ông làm Chủ tịch một lần nữa cùng với người đồng cấp Thiers. Sau khi Thiers mất năm 1877, Grévy trở thành thủ lĩnh phe Cộng hòa. Sau khi Mac Mahon từ chức, việc bầu Grévy vào chức Tổng thống đ~ được b{n định từ lâu; chính vì thế việc Grévy trở thành Tổng thống không làm bất cứ ai ngạc nhiên, thậm chí đến cả ông cũng vậy.
Được bầu làm Tổng thống trong những điều kiện như thế, Grévy không thể l{m gì kh|c hơn l{ đảm nhiệm cương vị của mình theo đúng những gì phe Cộng hòa mong đợi, phe vừa buộc vị Nguyên soái già nua phải từ chức. Ngay từ khi nhậm chức, ông đ~ rút được kinh nghiệm từ bài học n{y v{ đưa nó th{nh học thuyết mà các nhà làm luật gọi một cách châm biếm là ‘’Hiến ph|p Grévy”. “Thần phục một cách chân thành luật pháp của chế độ nghị viện, tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí của quốc gia do c|c cơ quan hiến pháp thể hiện’’.
Nền chính trị Pháp là nền chính trị của Jules Grévy
Liệu tuyên bố trên có đồng nghĩa với việc người l~nh đạo nh{ nước thừa nhận rằng phe chiếm đa số trong Nghị viện l{ người l~nh đạo nền chính trị Pháp và rằng Tổng thống phải từ bỏ những vũ khí m{ bản Hiến pháp trao cho ông ta? Liệu Tổng thống còn có thể biến thành một cực đối trọng của Nghị viện trong trường hợp cần thiết như Hiến ph|p đ~ định hay không? Liệu có phải Grévy cam chịu trở thành một Tổng thống bù nhìn? Phe Cộng hòa cho l{ như vậy v{ chưa bao giờ họ thấy ở ông hình ảnh của một nhà làm luật đ|ng kính cả. Đó l{ bởi vì Grévy đ~ biết khéo léo giấu kín tính tình độc đo|n v{ niềm say mê quyền lực ở ông, điều làm phe Cộng hòa rất lo ngại như trường hợp của thành viên Viện Dự luật Gambetta.
Nhưng trong suốt 9 năm l{m Tổng thống (ông được t|i đắc cử năm 1855), Grévy đ~ có ảnh hưởng kín đ|o nhưng s}u sắc. Ông chấp nhận không đưa ra một chính sách của riêng mình nhưng lại sử dụng hai trong các quyền của Tổng thống, như sau n{y Poincaré sẽ làm, và làm cho hai quyền ấy được chấp nhận rộng rãi nhất có thể được: ông coi mình như người đảm bảo của chính sách ngoại giao của Pháp và từ vị trí ấy ông không ngần ngại can thiệp vào các sự vụ quốc tế nhân danh quyền lợi quốc gia mà ông cho rằng mình l{ người đại diện. Ông có quyền lựa chọn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và trong một chế độ đa đảng, ông có thể sử dụng quyền n{y để đòi đưa một nhân vật mà ông thấy h{i lòng v{ người đó không nhất thiết cứ phải là thủ lĩnh của phe đa số. Điều n{y đ~ có thể là một sự bắt buộc nếu như nước Pháp muốn bắt chước mô hình của Anh theo hệ thống lưỡng đảng. Như vậy, từ năm 1879 đến 1887, nền chính trị Pháp trong một chừng mực n{o đấy đ~ l{ nền chính trị của Jules Grévy ngay cả khi nó được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Sử dụng quyền của Tổng thống đ~ được công nhận là chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Grévy sẽ đặc biệt chú ý để không chọn những người quá nổi bật khiến ông ta bị nấp bóng. Nỗi lo lắng lớn nhất của ông trong thời gian đầu làm Tổng thống là tách một nhân vật tầm cỡ ra xa quyền lực: Léon Gambetta.
Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Bộ trưởng do Grévy chọn l{ người nổi tiếng trung thực: Waddington, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Mac Mahon v{ l{ người được Grévy giữ lại để l{m an lòng c|c nước ch}u Âu. Nhưng người được Tổng thống yêu quí lại là Charles de Freycinet . Ông n{y l{ người mềm mỏng và khiêm tốn, biết xóa nhòa sự hiện diện của mình và tỏ ra rất chú ý đến công việc chung bằng cách nhận trách nhiệm về c|c h{nh động quyền lực. Khi một ‘’người cánh tả’’ trở nên cần thiết cho mình, Grévy đ~ sử dụng Jules Ferry, người đã trở nên bảo thủ trong lĩnh vực xã hội dưới thời Công x~ nhưng nổi tiếng bởi quyết tâm chống chủ nghĩa tăng lữ một cách sâu sắc. Một v{i năm sau, khi Jaurès yêu cầu Grévy phải nói rõ các mục tiêu của mình, Grévy nói:
- Mục tiêu của tôi là xây dựng loài người không có Chúa và không có Vua. - Nhưng không phải là không có ông chủ, Jaurès đ~ thêm v{o.
Grévy đ~ l~nh đạo đất nước với nhóm cộng sự là những người mềm mỏng và có cùng niềm tin với ông. Tuy nhiên, năm 1881, ông phải buộc lòng viện tới Gambetta. Nhưng cựu thành viên Viện Dự luật đ~ gi{ trước tuổi và mệt mỏi; quyền lực của ông đ~ suy giảm sau những
cuộc tranh đấu liên miên tại Nghị viện. ‘’Nội các lớn’’ m{ ông th{nh lập với những nhân vật mờ nhạt chỉ kéo d{i được 3 tháng. Vài tháng sau, ông này mất và Grévy có thể một lần nữa mời Freycinet rồi Jules Ferry ra giúp sức. C|c đời Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lâm thời kế
tiếp nhau thực hiện một nền chính trị mà Grévy mong muốn đều có tính cách yếu hơn Grévy. Như vậy, ông đ~ giữ một vai trò hi hữu trong giai đoạn lịch sử n{y đó l{ trong số những người quyết định nền chính trị Ph|p, ông l{ người duy nhất có lợi thế to lớn m{ dưới thời Cộng hòa đệ Tam v{ đệ Tứ tất cả c|c nh{ l~nh đạo nh{ nước Ph|p mơ ước có được: liên tục tại quyền.
Về mặt chính trị, bản tổng kết thời kỳ làm Tổng thống của Grévy sẽ như thế nào? Có thể nói là những người Cộng hòa đ~ sắp xếp lại nền Cộng hòa với nhiều cải c|ch như luật giáo dục qui định phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc cho trẻ em từ 6 đến 13 tuổi; giáo dục phải miễn phí và trung lập về mặt tôn giáo; áp dụng luật đương thời chống lại c|c gi|o đo{n; thiết lập tự do hội họp và tự do báo chí ; cho phép thành lập hội đo{n nghề nghiệp; quyền cho Hội đồng thành phố được bầu Thị trưởng; bỏ chức Thượng nghị sĩ suốt đời, phát triển hệ thống xe lửa Pháp với mục tiêu chính yếu là giải toả nông thôn và mở cửa nông thôn cho tiến bộ v{ như thế là làm cho nền Cộng hòa tiến bộ. Đ}y l{ c|c chương trình của giới tư sản Cộng hòa, chống chủ nghĩa tăng lữ, tự do, tin vào tiến bộ v{ văn hóa được tiến hành dưới sự lãnh đạo tư sản của Tổng thống Grévy.
Grévy liên kết với Bismarck chống lại tư tưởng phục thù
Ảnh hưởng của Grévy lên chính s|ch đối ngoại chắc chắn còn rõ nét hơn nữa. Sử dụng các đặc quyền mà Hiến pháp trao cho mình, Tổng thống không ngừng can thiệp vào việc lựa chọn c|c đại sứ của Pháp ở nước ngo{i v{ v{o chính s|ch đối ngoại. Ông không giấu giếm đ~ tuyên bố rằng ông muốn có một chính s|ch đối ngoại hòa bình. Ông cho rằng nước Pháp không được lợi lộc gì trong một cuộc chiến mới với nước Đức; cần phải bỏ hi vọng chiếm lại Alsace-Lorraine; cần phải giữ mối quan hệ hòa hảo với kẻ chiến thắng. Quan điểm này khá kỳ lạ ở thời kỳ đó khi ‘’phục thù’’ l{ chủ đề phổ biến nhất trong nền chính trị Pháp thời đó, một chủ đề đ|ng được nhấn mạnh; nhất l{ khi đó không chỉ là một quan điểm mang tính nguyên tắc. Phần lớn quyền lực của Grévy dựa trên niềm tin mà ông cho rằng mình có được ở châu Âu. Một trong những người ủng hộ Tổng thống Pháp mạnh mẽ nhất là thủ tướng Đức Bismarck. Nhưng ông n{y ủng hộ Grévy không phải để Grévy được lòng các nghị viên Pháp, mà thực ra, niềm tin mà Thủ tướng Đức trao cho Tổng thống Pháp là vì chế độ mà ông đại diện chứ không phải là sự khôn ngoan của ông. Ý tưởng lớn của Bismarck, một ý tưởng theo thời gian đ~ trở thành một sự ám ảnh, là tránh một sự trả thù n{o đó từ nước Pháp khi nước Pháp bị cô lập. Vì thế, ông lo lắng rằng, sau khi Thiers đổ, khả năng nước Pháp có quay lại chế độ Quân chủ. Thủ tướng Đức lo rằng nền Quân chủ với một chính phủ mạnh sẽ kéo nước Ph|p v{o con đường ‘’phục thù’’. Về điểm này, chiến thắng của nền Cộng hòa (tức là theo quan điểm của Bismarck là chiến thắng của một chính phủ bất lực) làm ông ta yên tâm nhất là khi nền Cộng hòa được những kẻ cơ hội chủ nghĩa l~nh đạo, những người này cam tâm với tình trạng hiện tại, chứ không phải những người cấp tiến như Clemenceau. Những người theo Clemenceau luôn dán mắt v{o ‘’đường kẻ xanh của d~y núi Vosges’’.
Nhưng năm 1885, những người cấp tiến đ~ thắng trong cuộc bầu cử và theo lời khuyến cáo của Clemenceau, một trong những người có uy tín nhất trong số họ l{ Tướng Boulanger đ~ trở thành Bộ trưởng Bộ Chiến tranh. Ông n{y đ~ biết lấy lòng qu}n đội bằng những biện ph|p n}ng cao đời sống qu}n nh}n nhưng nhất là với sự kiên quyết mà ông thể hiện trong vụ Schnaebelé (Cảnh s|t trưởng của Pháp, bị qu}n Đức bắt cóc ở Pagny-sur-Moselle vì bị tình nghi l{ gi|n điệp) đ~ biến ông th{nh ‘’vị Tướng b|o thù’’ trong mắt dư luận. Nhưng với Grévy và những thành viên trong chính phủ của ông, Boulanger đ~ tỏ ra hớ hênh và thiếu trách nhiệm v{ đó l{ sự nguy hiểm với nước Ph|p. Grévy đ~ nhấn mạnh v{o điểm yếu này để Boulanger bị gạt khỏi quyền lực nhất l{ khi ông n{y đang ng{y c{ng được lòng những người đối nghịch với chính quyền đương thời.
Vì những lý do này mà Boulanger bắt đầu trở thành người l~nh đạo của những người bất mãn. Sau khi chính phủ được sắp xếp lại, Boulanger đ~ bị tách ra khỏi quyền lực v{ được bổ nhiệm về Clermont-Ferrand, nơi người ta hi vọng là ông sẽ bị rơi v{o quên l~ng. Ng{y Boulanger ra đi, một cuộc biểu tình của quần chúng đ~ nổ ra ở nhà ga Lyon nhằm ngăn cản chuyến lưu đ{y. Cuộc biểu tình này cho thấy sự suy giảm lòng tin m{ sau v{i năm cầm quyền, nền Cộng hòa cơ hội chủ nghĩa phải hứng chịu trong một số lĩnh vực. Điều n{y được thể hiện qua việc phong trào quốc gia chủ nghĩa lên cao. Phong tr{o n{y mơ ước có một người mạnh mẽ đứng đầu nền Cộng hòa. Đối diện với cuộc khủng hoảng n{y, Grévy đ~ biết tỏ ra l{ người bình tĩnh v{ từ chối không nhượng bộ bất kỳ yêu cầu nào của những người theo chủ nghĩa Sô-vanh hiện đang kích động.
Như vậy là với Jules Grévy, chế độ Tổng thống của nền Cộng hòa đ~ mất đi một v{i đặc điểm cố hữu của nó. Từ nay, người ta phải công nhận là về mặt nguyên tắc, Tổng thống để người đứng đầu chính phủ, người được ông lựa chọn, nhưng có sự tin tưởng của Nghị viện, quyết định nền chính trị Ph|p. Nhưng Tổng thống về mặt luật pháp vẫn l{ người đứng đầu quyền
lực hành pháp và hoạt động như một người hướng dẫn, một vị trọng tài. Nếu tính cách của Tổng thống mạnh, đặc biệt là mạnh hơn tính c|ch của người đứng đầu chính phủ, thì không gì có thể ngăn được việc Hội đồng Bộ trưởng quan t}m hơn đến ý kiến của Tổng thống với điều kiện là một vị Bộ trưởng phải có trách nhiệm ký nháy vào tất cả c|c văn bản được thảo ra theo cảm hứng của ông.
Một nh{ tư sản ở Điện Élysée
Như vậy, th|i độ của Grévy sẽ định ra cách ứng xử của các nhà chính trị Pháp mong muốn đóng vai trò nổi trội: vì sợ bị tách ra khỏi quyền lực bởi Tổng thống qu| độc đo|n, họ sẽ ủng hộ một Tổng thống kém nổi trội, mang tính chất trang trí nhiều hơn l{ hiệu quả. Jules Grévy cũng đ~ mở đầu cho một truyền thống mới trong phong cách của Tổng thống. Mong muốn đóng một vai trò thực tế mà không bị bao trùm bởi cái bóng của c|c nh{ l~nh đạo phái Cộng hòa. Grévy đ~ hiểu rằng sự khiêm tốn trong phong cách sống và ngoại hình của mình l{ điều không thể thiếu được trong sự thành công của các dự |n m{ ông đưa ra; chắc chắn là sở thích của một nh{ tư sản nghiêm túc và cần kiệm sẽ thuận lợi cho toan tính chính trị của ông.
Với Grévy, Điện Élysée đ~ mất đi tính chất hào nho|ng m{ Ng{i đại quí tộc Mac-Mahon đ~ mang lại trong thời gian trước đó: rất ít các buổi tiếp tân, không có những chuyến du lịch; giới tư sản đ~ thay thế giới quí tộc trong l}u đ{i Tổng thống tráng lệ. Giới quí tộc trả thù bằng c|ch đưa ra nhiều giai thoại về tính bủn xỉn của Grévy. Henri Rochefort, nhà tranh luận đang tìm lý do cho một trận khẩu chiến đ~ thuật lại câu chuyện này: một chàng trai bị bắt khi anh ta đang ăn trộm b|nh mì. Khi được thả ra anh ta tiết lộ rằng mình vừa ra về sau bữa ăn tối ở điện Élysée! Khiêm tốn, cẩn trọng, quan t}m đến hiệu quả nhiều hơn l{ những chuyện vặt v~nh, an ninh hơn l{ danh vọng, thực tế hơn l{ những lời đao to búa lớn: ở Grévy, giới tư sản Pháp thế kỉ XIX thừa nhận ông l{ người trong giới của họ; ông ta có nhiều phẩm chất nhưng cũng có nhiều điểm xấu và thậm chí có một số tật. Đ|ng chú ý l{ quyền lực thực tế m{ Gvévy có, nhưng trong bóng tối, bị xóa đi bởi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đầu tiên mà nền Cộng hòa gặp phải trong những năm 1886 - 1887.
“Tai hại thay khi có một thằng con rể!”: Vụ tai tiếng hu}n chương
Tháng 9/1887, cảnh sát phát hiện một ổ buôn b|n hu}n chương. B{ chủ của ổ này là Limouzin có quan hệ với tướng Caffarel, Phó tham mưu trưởng qu}n đội Pháp. Cả hai bị bắt và vụ việc liên quan tới nhiều nhân vật quan trọng trong đó có Nghị sĩ Daniel Wilson, con rể của Jules Grévy. Tai tiếng của nhân vật này càng làm cho vụ việc trở nên không có gì ngạc nhiên. Sau khi sống bê tha dưới thời Cộng hòa đệ Nhị, Wilson dấn th}n v{o chính trường. Được bầu là Nghị sĩ, chuyên gia về các vấn đề t{i chính v{ đặc biệt nổi tiếng là một Nghị sĩ m|nh khoé, Wilson đ~ dính líu đến tất cả các vụ móc nối bí mật, liên quan đến tất cả các vụ việc ít nhiều mờ ám.
Năm 1881, Wilson l{m một phi vụ đặc biệt khi cưới cô Grévy. Ông Tổng thống, vốn là một người cha yếu đuối nay lại là một người bố vợ biết thông cảm đ~ đưa con rể v{o Điện Élysée làm việc. Do đó Wilson đ~ biết được các bí mật của Hội đồng Bộ trưởng. Ông ta có ảnh hưởng trực tiếp đến những người cao cấp nhất của Nh{ nước, nhiều người tỏ ra không lo lắng về đường quan lộ của mình khi làm mất lòng một nhân vật rất gần gũi với Tổng thống. Đ}y thực sự là một cơ hội tuyệt vời để l{m gi{u đối với một nhân vật vốn không ngại bất cứ việc gì! Vậy là hết rồi thời của những vụ l{m ăn cỏn con, những phi vụ nực cười! Wilson bắt đầu dùng ảnh hưởng để l{m ăn ngang tầm vị trí mới của mình. Wilson cần nhiều phòng làm việc, một bộ phận của Élysée sẽ cung cấp cho ông ta. Wilson cần người giúp ư? Chỉ cần lấy trong đ|m nh}n viên của Phủ Tổng thống. Nanh vuốt của Grévy là tài sản lớn của Wilson; c|c đơn đặt hàng của nh{ nước cho phép các tờ báo và nhà in mà Wilson gợi ý l{m ăn ph|t đạt; những chiếc Hu}n chương bắc đẩu bội tinh được phân phát một cách tự do để làm phần thưởng cho lòng yêu nước của các nhà cung cấp đủ yêu nước để thể hiện mình chiều lòng con rể của Tổng thống.
Khi vụ việc bị phát giác, vụ tai tiếng nổ ra trên diện rộng. B|o chí v{ dư luận xúc động và yêu cầu Grévy không được bênh vực con rể. Tổng thống mời Wilson ra khỏi Điện Élysée. Nhưng theo nguyện vọng của phe đối lập, vụ việc nay lại mang tính chất chính trị. Clemenceau đ~ chất vấn nội các về vụ việc này; chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Rouvier, người đ~ thử hoãn lại các phiên thẩm vấn, đ~ bị lật đổ. B|o chí v{ dư luận sôi sục chống lại Grévy, người cho rằng mình vô tội và bảo lưu ý kiến của mình. Người ta thấy có một bức biếm họa
trên đó Tổng thống Grévy đang khoan kho|i bên b{n ăn trong một nhà hàng, mồm ngậm xì gà, nở một nụ cười mỉa mai trong khi con rể của ông ta trả tiền mua một tấm Hu}n chương bắc đẩu bội tinh! “Ôi, có một thằng rể mới tai họa l{m sao!’’ đó l{ tiêu đề một bài hát nhanh chóng trở nên phổ biến. Một người khác trả lời cho b{i h|t đó: “Ôi, có một ông bố vợ mới
hạnh phúc l{m sao!” B{i h|t thứ ba kết luận: “Chúng ta h~y ôm hôn nhau đi, ôi con rể quí hóa của ta!’’ Rất nhanh, dưới mắt công chúng Grévy l{ người liên quan trong các hoạt động của con rể. Qua Tổng thống, phe Cộng hòa tin rằng người ta đang |m chỉ nền Cộng hòa. Sau khi mong muốn cho sự việc trôi qua, họ muốn rằng vụ việc phải được thảo luận nơi công cộng và Grévy, thủ phạm của việc thiếu cảnh giác gây tác hại đến chế độ phải từ chức.
Jules Grévy từ chức: một trường hợp điển hình cho thấy chức vị Tổng thống thật dễ lung lay
Tổng thống Grévy, người được làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ 7 năm nữa v{o năm 1885, không hề muốn rời bỏ cương vị này. Vốn là một luật gia tinh tế, ông tranh luận về việc ông có vô trách nhiệm hay không v{ không đồng ý từ chức; ông nhấn mạnh với các Nghị sĩ về sự nguy hiểm đ~ xảy ra trước đ}y khi một vị Tổng thống bị buộc phải từ chức. Và khi đ|m đông h|t b{i h|t Tổng thống - kẻ cố vị thì các Nghị viên Cộng hòa tự hỏi làm thế n{o để buộc một vị Tổng thống vô trách nhiệm từ chức. Khi Rouvier đ~ từ chức, Grévy đ~ tuyên bố ý định kêu gọi một vị Chủ tịch mới của Hội đồng Bộ trưởng. Giải pháp này sẽ cho phép Grévy thực hiện quyền lực của mình v{ qua đó giữ nguyên quyền lực, điều mà Nghị viện không muốn để xảy ra bằng bất kỳ giá nào.
Như vậy giữa Tổng thống và các nghị sĩ xảy ra một cuộc chạy đua hi hữu trong đó Grévy phát hiện ra rằng mình có tính kiêu ngạo và một sự bướng bỉnh của tuổi gi{. Ông đ~ đề nghị một cách không mệt mỏi, hết lần n{y đến lần kh|c trao cương vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho những người l~nh đạo phái Cộng hòa để cứu vãn tình thế. Nhưng những người n{y đều lần lượt từ chối: Freycinet, Goblet, Brisson, Ribot và thậm chí là cả Clemenceau, người m{ Grévy đ~ dùng thủ đoạn để cắt đứt quyền lực cho đến lúc đó. Nhưng đến khi cả Clemenceau cũng đ~ từ chối, thì Grévy bèn thử dùng mẹo. Ông cam kết từ chức với hi vọng rằng lời hứa của mình sẽ làm dịu tình hình ở Nghị viện và Nghị viện sẽ chấp nhận việc ông đưa ra một nội các mới. Nhưng Grévy đ~ lần lữa mãi và ngấm ngầm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía những người bảo thủ vì cả những người cấp tiến v{ cơ hội chủ nghĩa đều đ~ chối từ giúp đỡ. Mệt mỏi bởi những lần không giữ lời hứa của vị Tổng thống già, Nghị viên hai Viện đ~ quyết định vào ngày 1/12/1887 sẽ quyết định không rời nghị viện để đợi Tổng thống nói lời từ chức. Vì vậy, Grévy đ{nh phải rút lui. Vào 6h30 tối, thông điệp từ chức của Tổng thống đ~ được đọc trước hai Viện. Tổng thống nói đến sự bế tắc của c|c văn bản pháp lý, thanh minh hùng hồn cho th|i độ của mình, một sự chỉ trích nặng nề những người đảm nhiệm việc bức ông phải từ chức:
“Thưa c|c Quí Ng{i Nghị sĩ,
Khi tôi chỉ phải đối đầu với những khó khăn chồng chất trong thời gian gần đ}y trên con đường của tôi như: b|o chí công kích, những người mà nền Cộng hòa kêu gọi phải ở bên tôi thì không thấy đ}u, không thể thành lập được nội c|c,… tôi đ~ đấu tranh và ở lại ở nơi m{ phận sự của tôi gắn bó với nơi ấy. Nhưng khi công luận được soi s|ng hơn đ~ l{m tôi hi
vọng thành lập được một chính phủ mới, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đ~ bỏ phiếu cho một nghị quyết kép. Nghị quyết n{y, dưới dạng một tr|t đòi v{o một giờ cố định để đợi một thông điệp đ~ được hứa có giá trị như việc thúc nợ Tổng thống của nền Cộng hòa buộc phải rời bỏ quyền lực.
Nghĩa vụ của tôi và quyền lợi của tôi có lẽ là phải chống lại điều ấy nhưng trong ho{n cảnh của chúng ta hiện nay, một cuộc tranh chấp giữa quyền hành pháp và Nghị viện có thể kéo theo những hậu quả làm tôi phải dừng lại. Sự thông thái và lòng ái quốc buộc tôi phải nhượng bộ.
Tôi để lại cho những ai chịu trách nhiệm về một tiền lệ như thế này và những hậu quả mà nó có thể kéo theo. Như vậy, tôi bước xuống mà không hối tiếc nhưng không phải là không buồn về quyền lực m{ tôi đ~ được đưa lên hai lần m{ không đòi hỏi phải có quyền lực ấy và ở vị trí đó tôi ý thức được rằng mình đ~ l{m tròn nghĩa vụ của mình. Tôi gửi lời kêu gọi tới nước Pháp!
Nước Pháp nói với tôi rằng trong suốt 9 năm, chính phủ của tôi đ~ đảm bảo hòa bình, trật tự và tự do cho người; rằng chính phủ của tôi đ~ l{m cho thế giới phải tôn trọng Người; rằng chính phủ ấy đ~ l{m việc không ngơi nghỉ cho sự phục hồi của nước Pháp và giữa một châu Âu đầy vũ khí thì nước Ph|p đ~ được gìn giữ và hoàn toàn có khả năng bảo vệ danh dự và quyền lợi của mình. Và cuối cùng, trong nội bộ đất nước, chính phủ của tôi đ~ biết giữ cho nền Cộng hòa đi đúng trên con đường thông thái mà quyền lợi và ý chí của đất nước đ~ vạch ra.
Nước Pháp nói rằng đổi lại, tôi đ~ bị buộc rời khỏi cương vị mà niềm tin của nước Ph|p đ~ trao cho tôi. Khi rời bỏ đời sống chính trị, tôi chỉ có một mong muốn: đó l{ nền Cộng hòa không bị tổn hại bởi những }m mưu chống lại tôi v{ nước Pháp sẽ hân hoan thoát khỏi những nguy hiểm m{ người ta đang đe dọa…’’.
Thực ra, c|c điều kiện của việc Grévy từ chức đ~ l{m thay đổi chiều hướng của nhiệm kỳ Tổng thống. Từ nay, Tổng thống vô trách nhiệm sẽ không được chống đối ý chí của Nghị viện. Chức vị Tổng thống được những nhà lập hiến năm 1875 lập ra như một đối trọng với Nghị viện trong trường hợp cần thiết sẽ chỉ còn là một cơ quan phụ thuộc vào Nghị viện. Vị trí ấy như vậy đ~ mất một chút cái bóng của quyền lực mà cuộc khủng hoảng ng{y 16/5 để lại.
- 5 - SADI CARNOT, HIỆN THÂN CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA
(3 th|ng 12 năm 1887 - 25 th|ng 6 năm 1894)
“H~y bỏ phiếu cho người kém nhất”
Jules Grévy vẫn cố ở lại vị trí Tổng thống trong khi đa số những người theo đảng Cộng hòa muốn gạt bỏ ông. Lí do là ông biết chắc các Nghị sĩ sẽ không đồng ý người sẽ kế nhiệm. Tình trạng này hoàn toàn khác với trước đ}y, khi đảng Cộng hòa đ~ biết trước từ lâu rằng ông sẽ kế nhiệm Mac-Mahon. Liệu có phải đảng Cộng hòa thiếu những thủ lĩnh đủ khả năng giữ cương vị l~nh đạo tối cao? Chắc chắn l{ không! Đ~ có một nhân vật nổi bật nhất m{ ai cũng nói đến, người sẽ tiếp tục chính sách của Grévy, nổi tiếng về nghị lực, quyền lực và trí tuệ. Trong khi chính phủ Cộng hòa bị dư luận kết |n l{ tham nhũng v{ bất lực thì đ}y lại là một người hoàn toàn trung thực và có tất cả các phẩm chất cần thiết của một chính khách. Người đó l{ Jules Ferry ! Nhưng chỉ cần nhắc đến cái tên này thôi l{ cơn b~o phản đối nổi lên; bất kỳ ai cũng đều có một lý do để căm ghét người mà hoàn cảnh |p đặt.
Vậy Ferry đ~ l{m gì để đến nỗi bị phản đối như vậy? Cánh tả nhắc nhở rằng khi làm Tỉnh trưởng Paris thời Công x~, ông đ~ ra lệnh đ{n |p sau cuộc bao vây và từ đó không ngừng chống lại quyền tự chủ của các thành phố. Người ta còn chê trách ông về chính sách thuộc địa, về những cuộc viễn chinh đầy phiêu lưu ở Tunisie và ở Viễn Đông m{ từ đó ông được đặt biệt danh l{ “người Bắc Bộ”. Ông được coi l{ người đ~ hướng nước Pháp khỏi ý nghĩ phục thù, người không đội trời chung với “Tướng Phục thù” ; còn những người theo chủ nghĩa cấp tiến thì không tha thứ cho ông vì đ~ tuyên bố rằng “mối nguy hiểm ở bên cánh tả”. Nếu Ferry ở vị trí Tổng thống, điều đó có nghĩa l{ cánh cửa đến với quyền lực của Đảng Cấp tiến sẽ bị đóng lại trong 7 năm v{ lợi ích cá nhân gắn liền với lý do chính trị sẽ chặn con đường đến với chức Tổng thống của tác giả các luật giáo dục. Clemenceau dường như có mặt ở khắp nơi, thậm chí có lúc đ~ nghĩ đến chuyện giúp Grévy thành lập vào phút cuối một nội c|c để tránh mối nguy hiểm Ferry. Xung quanh cung điện Bourbon liên tiếp diễn ra những cuộc biểu tình của Đảng Xã hội do Auguste Blanqui đứng đầu. Họ đến để la ó Ferry, kẻ thù của Công xã; rồi đến những cuộc biểu tình của Hội ái quốc, một nhóm nhỏ cực hữu, để thể hiện lòng hận thù đối với nhân vật Cộng hòa, đối thủ của Boulanger. Chính viên Tướng n{y cũng muốn lợi dụng tình trạng lộn xộn lúc đó v{ trong một lần đi qua Paris, ông đ~ có những cuộc tiếp xúc có ích trong bối cảnh tình hình tiến triển thuận lợi.
Đêm ng{y 2 rạng ngày 3/12, tức là ngay sau khi Jules Grévy từ chức, là một đêm đầy biến động: biểu tình diễn ra khắp nơi; có tin đồn rằng những người theo Blanqui chuẩn bị khởi nghĩa v{ một chế độ Công xã mới sẽ được thiết lập nếu Ferry thắng cử. Đảng Cộng hòa lo lắng, không dám dồn phiếu cho Ferry. Ở vòng bầu cử đầu tiên, Quốc hội họp ở Versailles s|ng ng{y 3/12 đ~ ph}n chia số phiếu cho ba người: Ferry, Freycinet , người được coi là ứng cử viên của Đảng Cấp tiến và của phái Boulanger, và ứng cử viên ôn hòa Sadi Carnot. Sau khi vòng bầu cử thứ hai cũng cho kết quả tương tự, Clemenceau cảm nhận được mối
nguy hiểm và hoài nghi về một Tổng thống là nhân vật quá nổi bật. Ông đ~ tìm ra c|ch loại bỏ Ferry mà vẫn tr|nh được nguy cơ bỏ trống chức Tổng thống, một tình huống đ|ng sợ đối với nước Pháp, bằng cách kêu gọi một cách giễu cợt: “H~y bỏ phiếu cho Carnot, ông ta không có năng lực lắm, nhưng mang dòng m|u Cộng hòa”.
Lời kêu gọi n{y đ~ có t|c dụng, vì ở khía cạnh n{o đó l{ đúng đắn. Nếu tóm tắt lời nói, hoặc ít nhất l{ suy nghĩ của Clemenceau, thì c}u đó trở th{nh: “H~y bỏ phiếu cho người kém nhất!”. Bằng c|ch đó, Ferry v{ Freycinet thôi ứng cử, và Sadi Carnot trở thành Tổng thống Cộng hòa Pháp với 616 phiếu so với 184 phiếu của viên tư lệnh qu}n khu Paris, người không phải là ứng cử viên. Giờ đ}y người ta muốn biết về ứng cử viên mà mình vừa bầu.
“Liệu đ}y có phải là một nh{ thơ Ba Tư không?”
Theo dư luận thì đó l{ c}u hỏi m{ người Pháp tự đặt ra cho mình khi nghe tên của Tổng thống mới. Trên thực tế, mặc dù không nổi tiếng lắm, nhưng Sadi Carnot cũng không đến nỗi mờ nhạt như đối thủ của ông vẫn nghĩ. Như Clemenceau đ~ nói, ông mang dòng m|u Cộng hòa: ông là cháu nội của Lazare Carnot, “Nh{ tổ chức Chiến thắng” thời Cách mạng Ph|p. Năm 1848, bố ông, Hippolyte Carnot, đ~ từng là thành viên Chính phủ lâm thời và được các Nghị sĩ nhiệt tình ủng hộ sau khi thắng cử.
Sadi Carnot tốt nghiệp Trường Đại học B|ch khoa, được Chính phủ Vệ quốc chỉ định làm tỉnh trưởng Havre. Sau cuộc đình chiến, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình. Là một người Cộng hòa hoàn hảo, nhưng theo Clemenceau, ông cũng l{ một kẻ phản động không
kém phần hoàn hảo. Ông đ~ giữ các vị trí Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Công chính và tỏ ra rất có năng lực, trong khi những nhân vật nổi tiếng lúc đó đang chia nhau c|c chức Bộ trưởng các bộ mang tính chất “chính trị”. Ông tỏ ra thanh liêm và Quốc hội rất hài lòng ghi nhận rằng ông đ~ biết chống lại sức ép của Wilson. Tính trung thực này là một yếu tố không thể bỏ qua, nhưng chắc chắn l{ không đủ che lấp việc ông không nổi tiếng. Thông qua ví dụ của Jules Grévy, l~nh đạo của Đảng Cộng hòa đ~ chỉ ra mọi bất lợi khi một nhân vật nổi bật lên làm Tổng thống: do muốn điều khiển nền chính trị của đất nước, nhân vật này sẽ loại bỏ những người l~nh đạo được cho là cạnh tranh với mình và lựa chọn những người kém hơn hoặc dễ sai khiến. Lời đ|p lại (và một người như Clemenceau ph}n biệt điều đó rất nhanh) là nên bầu vào chức Tổng thống một nhân vật ở hàng thứ hai, v{ như vậy chắc chắn là ám chỉ Sadi Carnot.
“Chỉ cần đi ăn tối ở tiệm m{ không ăn trộm b|t đĩa mang về là có thể ra ứng cử Tổng thống được hay sao?” Một tờ báo Thiên chúa giáo phản đối nền Cộng hòa đ~ đưa ra c}u hỏi này sau khi Carnot đắc cử. Câu hỏi này tương đối tiêu biểu cho c|ch m{ dư luận ch{o đón Tổng thống mới. Trung thực, quyết tâm tôn trọng nội dung và tinh thần của Hiến ph|p, nhưng khi nền Cộng hòa bị khủng hoảng, Carnot vẫn phải thực hiện trọng trách của mình một cách nghiêm túc, điều mà nền Cộng hòa rất cần trong những năm đó.
Carnot chống lại Boulanger
Thực ra, Carnot được bầu vào lúc cuộc khủng hoảng Boulanger đ~ lên đến đỉnh điểm. Khi Tướng Boulanger phải nghỉ hưu v{o th|ng 3/1888, những người không đồng tình (Đảng
Cấp tiến, đảng dân tộc chủ nghĩa, ph|i Qu}n chủ, phái Bonaparte) vốn ủng hộ ông ta từ lâu, lấy ông ta l{m người dẫn đầu chiến dịch chống Đảng Cộng hòa. Bằng cách kết tội những người Cộng hòa tham nhũng, họ đưa Boulanger ra ứng cử ở bất cứ nơi n{o có chỗ trống trong Quốc hội. Tính chất biểu quyết trực tiếp của c|ch l{m n{y qu| rõ r{ng v{ người ta đ~ nghĩ đến một mưu toan đảo chính khi Boulanger thắng cử ở Paris ngày 27/1/1889.
Nhưng viên Tướng này vẫn còn do dự, v{ Đảng Cộng hòa đ~ trấn tĩnh lại. Khi cuộc khủng hoảng nội các xảy ra rất không đúng lúc v{o đầu tháng 2/1889, Carnot nhận thấy mối nguy hiểm nên không chần chừ thâu tóm mọi việc. Ông gọi một người bạn là Tirard vào Chính phủ và cùng ông này chủ trì các cuộc thương lượng để thành lập nội các, trực tiếp can thiệp để thuyết phục những người còn lưỡng lự rằng nền Cộng hòa cần sự giúp đỡ của họ. Ông đ~ chọn đúng thời cơ để làm việc cần phải làm: chấp nhận Constans, một người rất khôn khéo, làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Constans nổi tiếng xấu về đạo đức, nhưng với năng lực v{ đầu óc mưu mẹo của mình, ông ta trở th{nh người duy nhất có khả năng xóa bỏ nền Cộng hòa của Boulanger. Trên thực tế, Constans đ~ th{nh công khi l{m cho Boulanger tưởng là sắp bị bắt và do sợ phải xa c|ch người tình nên đ~ chọn cách bỏ trốn khỏi nước Pháp, vì thế phong tr{o do ông ta đứng đầu cũng tan r~.
Panama
Năm 1893, khi những t{n dư cuối cùng của cuộc khủng hoảng Boulanger vừa mới được xóa bỏ thì một vụ tai tiếng lại bao trùm bóng đen lên nền Cộng hòa. Tờ báo Tiếng nói tự do (La libre parole) do Drumont theo chủ nghĩa b{i Do Th|i l{m gi|m đốc, tiết lộ rằng giới tài phiệt đ~ mua phiếu của một số Nghị sĩ để thông qua bộ luật cho phép vay mượn theo lô, nhằm cứu một công ty thương mại đang gặp khó khăn, đó l{ Công ty Kênh đ{o Panama do Ferdinand de Lesseps thành lập. Việc Công ty này bị phá sản chứng tỏ rằng một số nghị sĩ, Thượng Nghị sĩ, Gi|m đốc một số tờ b|o đ~ nhận hối lộ từ công ty. Đ}y l{ một vụ tai tiếng lớn, liên quan tới 104 Nghị sĩ, trong đó có những thủ lĩnh của phe Cộng hòa chiếm đa số trong Quốc hội. Một làn sóng chống chế độ đại nghị xảy ra dồn dập trong cả nước.
Nhưng nếu như chế độ lại một lần nữa bị lung lay vì một vụ tai tiếng thì lần này ít nhất là người đứng đầu không bị kết tội: Carnot đ~ giúp nền Cộng hòa tr|nh được một vụ kiểu Wilson và vào năm 1893, không một ai nghĩ đến chuyện nghi ngờ Tổng thống. Trong những ng{y đen tối này, tính cách trung thực của ông là một thế mạnh của nền Cộng hòa. Nếu như dưới thời Tổng thống Carnot, nước Pháp Cộng hòa phải trải qua những thử thách ghê gớm, thì về mặt ngoại giao, nước Pháp lại gi{nh được thắng lợi to lớn, trong đó không thể không nhắc đến vai trò của Tổng thống.
Liên minh Pháp-Nga
Từ khi thua trận năm 1870, nước Pháp bị cô lập hoàn toàn về ngoại giao. Sự cảnh giác của Bismarck đ~ l{m cho Ph|p không có đồng minh, còn các cuộc viễn chinh thuộc địa do Quan chưởng ấn khởi xướng đ~ khiến Pháp bị cô lập khỏi những nước mà nó có thể dựa vào. Việc Pháp chiếm Tunisie đ~ g}y ra l{n sóng phản đối Pháp ở Italia, v{ nước n{y đ~ liên kết với Đức v{ Áo để tạo thành Liên minh ba nước. Sự cạnh tranh giữa Pháp và Anh ở Ai Cập làm cho Anh có th|i độ thù địch với Pháp; cuối cùng, nước Nga cũng liên kết với Đức bằng một
loạt hiệp ước với mục đích hướng nước Nga khỏi liên minh với Pháp, một liên minh có thể dẫn đến kết quả bao v}y Đế chế Đức.
Bismarck từ chức năm 1890 đồng nghĩa với việc từ bỏ chính sách cô lập nước Pháp, một chính s|ch khôn khéo nhưng khó thực hiện. Ho{ng đế Guillaume II từ chối ký tiếp các hiệp định Đức-Nga. Do lo sợ bị cô lập, nước Nga nghĩ tới những liên minh kh|c để thay thế. Carnot đ~ nhìn ra cơ hội trong tình thế đó để đưa nước Pháp thoát ra khỏi thế bị cô lập, vì vậy ông đứng ra làm cho Pháp và Nga xích lại gần nhau. Việc này trở nên dễ d{ng hơn khi Pháp cho phép bán trái phiếu Nga cho người Pháp. Từ đó, Carnot lựa chọn các Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chỉ định các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện liên minh với Nga. Carnot hẳn rất hài lòng vì liên minh mà ông mong muốn dần dần được hình thành: Hạm đội Ph|p được mời đến Cronstadt năm 1891 v{ Hạm đội Nga được mời đến Ph|p năm 1893. Năm 1892, một Thoả ước quân sự Pháp-Nga, bộ phận chính của liên minh tương lai, đ~ được ký kết. Chính Carnot cũng đóng góp bằng cách tiếp đón rất long trọng ở Điện Élysée Đô đốc Avellan, Đô đốc hạm đội Nga, vào tháng 10/1893. Th|ng 3 năm 1894, hai quốc gia n{y đ~ phê chuẩn hiệp ước liên minh. Tổng thống Ph|p đ~ có thể tự chúc mừng mình: chính sách mà Bismarck bền bỉ theo đuổi trong suốt 20 năm đ~ thất bại và giờ đ}y nước Ph|p đ~ thoát ra khỏi thế bị cô lập.
Ba tháng sau, Tổng thống mất.
Ngày 24/6/1894, Tổng thống mẫu mực bị sát hại
Trong những năm 1890, ở Pháp diễn ra một l{n sóng mưu s|t của phái vô chính phủ. Với quyết tâm phá hoại xã hội tư sản, chúng thực hiện “tuyên truyền bằng h{nh động” v{ gia tăng c|c hoạt động gây ấn tượng mạnh. Ravachol đ~ đặt bom trong các tiệm ăn. Th|ng 12/1893, Vaillant ném bom vào phòng bán nguyệt của Hạ nghị viện nhưng không g}y thương vong. To{ |n phản ứng mạnh mẽ v{ đ~ kết án tử hình nhiều tên vô chính phủ. Carnot cho rằng đ}y l{ những kẻ không thể tu tỉnh được nữa nên từ chối ân xá cho chúng, cụ thể l{ ông đ~ không }n x| cho Vaillant. Ng{y 24/6/1894, Tổng thống đang trên đường tới Lyon để khai mạc một cuộc triển lãm thì bị một người lao nhanh vào ô tô rồi dùng dao đ}m. Kẻ ám sát là một tên vô chính phủ người Italia tên là Caserio, hắn muốn trả thù cho Vaillant. Sadi Carnot qua đời đêm hôm đó sau nhiều giờ hấp hối.
Ông để lại hình ảnh một Tổng thống chu đ|o, có ảnh hưởng thực sự đến chính sách của nhà nước Pháp, tuy ảnh hưởng đó không phải lúc n{o cũng mang tính quyết định, v{ được yêu mến nhờ những đức tính tốt chứ không phải nhờ vai trò thực tế của ông. Là một nhân vật đại diện hơn l{ l~nh tụ chính trị, hiện thân của nh{ nước hơn l{ người đứng đầu nh{ nước, Carnot là vị Tổng thống mẫu mực trong lòng những người Cộng hòa.
- 6 - CASIMIR-PÉRIER KHÔNG THỂ CHUNG SỐNG
(25 th|ng 6 năm 1894 - 15 th|ng 1 năm 1895)
Đa số Nghị sĩ muốn bầu một người giống Sadi Carnot. Có thể do vô tình, họ đ~ lựa chọn một người mà những động thái chính trị gần đ}y vừa mới đưa lên h{ng đầu của tình hình thời sự: đó l{ Jean Casimir-Périer. Ngày 26/6/1894, thông qua một cuộc bỏ phiếu không mấy nhiệt tình, Quốc hội bầu ông làm Tổng thống 6 tháng sau, ông từ chức. Nhiệm kỳ ngắn ngủi này cho thấy những hạn chế của chức Tổng thống khi người giữ cương vị đó không khéo léo, đồng thời cũng chỉ ra khoảng cách giữa những đòi hỏi của các Nghị sĩ v{ sự mong đợi của dư luận.
Casimir vùng Anzin, “người bốn mươi triệu”
Hiếm khi một Tổng thống lại gặp nhiều sự thù địch ngay từ khi mới đắc cử như trường hợp của Casimir-Périer. Được bầu ngay sau vụ ám sát do phái vô chính phủ thực hiện, sự kiện cho thấy mức độ lộn xộn của nước Ph|p, ông được chọn vì nổi tiếng l{ người của trật tự và quyền lực. Sự nổi tiếng này không phải l{ vô căn cứ: Năm 1893, khi còn là Chủ tịch Hội đồng, ông đ~ cho bỏ phiếu thông qua “đạo luật bỉ ổi” chống lại những kẻ vô chính phủ. Bằng những từ ngữ không rõ r{ng, đạo luật này cho phép truy tố cả Đảng Xã hội đối lập, bởi vì thực tế mục đích của Đảng này là lật đổ xã hội đang tồn tại. Ngay cả vẻ bề ngoài của ông (các họa sĩ biếm họa thường vẽ ông dưới hình dạng chó bundoc) cũng thể hiện tính cách của một “người của quyền lực”.
Một yếu tố khác chắc chắn cũng đóng vai trò quan trọng: Casimir-Périer tỏ ra không tham danh vọng. Ông có vẻ trốn tránh trách nhiệm, thích thú với vai trò danh dự là Chủ tịch Hạ nghị viện và chỉ chấp nhận một cách miễn cưỡng chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng năm 1893. Đảng Cộng hòa cho rằng với ông, sẽ không sợ quyền lực cá nhân. Nếu như tiếng tăm là người của quyền lực l{m cho ông không được lòng dư luận lắm thì gia đình v{ t{i sản lại là thế mạnh của ông. Ông nội của Casimir làm Bộ trưởng dưới thời vua Louis-Philippe và nổi tiếng tàn nhẫn khi đ{n |p c|c cuộc biểu tình của quần chúng, đồng thời rất khéo quản lý tài sản của riêng mình. Bố của Casimir làm Bộ trưởng dưới thời Tổng thống Thiers. Ông đến với nền Cộng hòa cùng với phái ủng hộ dòng họ Orléans và tán thành trật tự của những người chiến thắng ở Công xã.
L{ người con xứng đ|ng của một gia đình tư sản giàu có và có uy quyền, Jean Casimir-Périer là một trong những mục tiêu được chú ý nhất của Đảng Xã hội đối lập khi tố cáo sự thông đồng giữa giới kinh doanh và giới quan chức l~nh đạo nh{ nước. Đối với họ, ông l{ “Casimir vùng Anzin”, cổ đông chính của các mỏ ở Anzin, “người bốn mươi triệu” đ~ l{m gi{u trên mồ hôi của thợ mỏ, bóc lột họ v{ đ{n |p khi họ d|m đòi hỏi. Báo chí chỉ trích dữ dội nhân vật tượng trưng khó chịu này. Nhiều vụ kiện tụng để “lăng nhục Tổng thống” liên tục diễn ra, làm cho uy tín của Casimir-Périer ngày càng giảm sút và tạo cơ hội cho luật sư của các bị cáo kết tội Tổng thống v{ đảng phái của ông. Khi đứng ra bảo vệ nhà báo Gérault-Richard
(người sau đó được cử tri Paris bầu làm Nghị sĩ), Jaurès đ~ so s|nh Điện Élysée dưới thời Casimir-Périer với “một nh{ băng cho vay nặng lãi mờ |m, nơi danh dự của nước Cộng hòa Ph|p đang hấp hối”.
Ngoài việc bị báo chí công kích mạnh mẽ, Casimir-Périer còn rất bực tức khi các Bộ trưởng cố tình không cho ông biết những biện pháp quan trọng mà họ thực hiện. Nguyên nhân là do ông không thể dựa vào một vị thế chính trị vững chắc như Grévy v{ cũng không có được uy tín đạo đức như Sadi Carnot. Mặt kh|c, vì không được lòng dân nên ông không thể phản ứng chống lại tình thế này. Casimir-Périer là Tổng thống đầu tiên bị tách một cách có hệ thống khỏi việc soạn thảo chính s|ch đối ngoại của Ph|p. Đ}y l{ một sự đổi mới nguy hiểm trong qu| trình tước bỏ dần dần những quyền mà Hiến ph|p đ~ trao cho Tổng thống để chuyển cho các Bộ trưởng có trách nhiệm. Casimir-Périer nhanh chóng hối tiếc vì đ~ chấp nhận chức Tổng thống - cương vị này chỉ đem lại cho ông những thất vọng mà thôi. Ông cho là mình sẽ bị |m s|t v{ không đủ sức tiếp tục chịu trách nhiệm tinh thần về một chính sách mà ông không tham gia soạn thảo. Ông quyết tâm từ chức ngay khi có cớ.
Casimir-Périer từ chức: do tính c|ch hơn l{ do tình thế bất lực của chức Tổng thống
Tháng 1/1895, trong một cuộc khủng hoảng nội các, Casimir-Périer đột ngột tuyên bố từ chức và gửi đến hai Viện một bức thư nói về nỗi oán giận đối với những nh{ b|o đ~ chỉ trích ông, đối với Đảng Xã hội đối lập, cũng như tình trạng bất lực của Tổng thống. “ Do bị tước bỏ mọi phương tiện hành động và kiểm soát, Tổng thống chỉ còn biết lấy sức mạnh tinh thần từ lòng tin của dân tộc, nếu không có sức mạnh đó, Tổng thống không là gì cả. Tôi không nghi ngờ gì về lương tri và sự công bằng của nước Pháp, nhưng người ta đã làm cho dư luận bị lầm lạc… Từ 6 tháng nay diễn ra một chiến dịch vu khống và bôi xấu quân đội, toà án, người đứng đầu nhà nước không quyền hành và quyền tự do gây hận thù trong xã hội đó vẫn tiếp tục được gọi là quyền tự do suy nghĩ. Lòng tôn trọng và mong muốn của tôi đối với đất nước không cho phép tôi chấp nhận rằng người ta có thể lăng mạ những đầy tớ tốt nhất của Tổ quốc và người đại diện cho đất nước trong con mắt người nước ngoài. Tôi không cam chịu so sánh trọng lượng của trách nhiệm tinh thần đang đè nặng lên tôi với tình thế bất lực mà tôi bị dồn vào” . Cả nước đón nhận tin Casimir-Périer từ chức với th|i độ dửng dưng, còn hai Viện thì đ|nh gi| khắt khe sự việc này. Không phải ho{n to{n vô lý khi người ta nhận xét rằng Casimir-Périer đ~ biết tất cả những hạn chế của chức Tổng thống từ ng{y ông được chỉ định. Người ta cũng sẵn s{ng so s|nh th|i độ của Casimir-Périer với th|i độ của Sadi Carnot, người đ~ thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ bằng ảnh hưởng tinh thần của mình.
Khi Casimir-Périer từ chức, người ta kết án tình trạng của chức Tổng thống ít hơn kết án tính cách của Tổng thống. Việc từ chức cho thấy rằng Tổng thống không thể đóng vai trò tinh thần mà phải đóng vai trò chủ chốt, Tổng thống phải l{ người có tính c|ch, đủ khả năng bỏ qua những sở thích cá nhân, thậm chí cả lòng tự |i để thực hiện các nhiệm vụ của mình vì lợi ích quốc gia và mặc dù có quyền h{nh, nhưng vẫn nhận lỗi về mình và dành vinh quang cho người kh|c. Như vậy, Casimir-Périer ho{n to{n không đủ năng lực và việc từ chức là phù hợp với tính cách của ông.
- 7 -FE'LIX FAURE, "TỔNG THỐNG MẶT TRỜI"
(15 th|ng 1 năm 1895 - 16 th|ng 2 năm 1899)
6 tháng sau khi bầu Casimir-Périer làm Tổng thống năm 1894, Quốc hội của cánh hữu lại phải tìm người kế nhiệm. Phe cấp tiến tiếp tục điềm nhiên giới thiệu một ứng cử viên rất ít khả năng trúng cử l{ Henri Brisson, người đ~ thua trước Sadi Carnot và Casimir-Périer, vì thế ghế Tổng thống chỉ có thể thuộc về một người ôn hòa có những đảm bảo đối với phe đa số mà lại không gây thù hận như Casimir-Périer. Sự lựa chọn tương đối hẹp vì chỉ có hai ứng cử viên ôn hòa: Waldeck-Rousseau, luật sư vùng Nante với tính cách lạnh lùng, khô khan, được coi là một chính khách thực sự, và Félix Faure, một doanh nhân ở Havre, dễ mến hơn, nhưng không phải là chính trị gia h{ng đầu.
Cuối cùng, Félix Faure có lợi thế hơn khi dư luận cho rằng ông sẽ là một Tổng thống mềm dẻo hơn Waldeck-Rousseau. Trong sự lựa chọn này, có lẽ còn phải nhắc đến vai trò của các đại biểu Thiên chúa giáo ủng hộ nền Cộng hòa, yếu tố quan trọng của phe đa số. Họ không muốn một người theo đạo Tin l{nh như Waldeck-Rousseau lên làm Tổng thống. Tổng thống mới không được biết đến nhiều vì chưa bao giờ giữ một chức vụ chủ chốt. Là con trai của một thợ thủ công ở Paris, Félix Faure thành công trong kinh doanh và trở thành chủ của một cửa hiệu rất ph|t đạt ở Havre. Tuy nhiên, khác với Casimir-Périer, ông không được thừa hưởng tài sản từ gia đình m{ tự làm ra và giống như Grévy trước đ}y, ông được cho là mẫu người tiêu biểu của giới tư sản Pháp thế kỉ XIX, coi sự th{nh đạt trong xã hội là một tiêu chí giá trị tinh thần.
Mặt khác, Félix Faure rất giỏi mị dân. Trong các bài phát biểu của mình, ông ta không bỏ qua một cơ hội n{o để nhắc đến gốc gác tầm thường của mình và tuyên bố rất tự hào về nó. Đối với người nghe, chức Tổng thống như l{ phần thưởng to lớn nhất cho đức tính cần cù lao động, tiết kiệm, nghiêm túc m{ s|ch đạo đức dành cho trẻ em trong nh{ trường thường nói đến.
Xa hoa và nghi thức: người kế vị những vị qu}n vương của Chế độ cũ
Vị trí của Félix Faure trong giới tư sản Havre làm cho ông liên tục có mặt trong các nhiệm kỳ của Quốc hội. L{ người đại diện cho ph|i ôn hòa, ông chưa bao giờ thực sự tỏ rõ quan điểm đối với những vấn đề chính trị lớn nhưng đ~ thực hiện một cách xuất sắc nhưng hầu như không được ai biết đến c|c cương vị danh dự không quan trọng: Phó Chủ tịch Hạ viện, Phó Quốc vụ khanh phụ trách Hàng hải, cuối cùng là Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trước khi từ chức, Casimir-Périer đ~ nói ý định của mình với Félix Faure v{ được Félix Faure nhiệt tình ủng hộ với lý do là những quan niệm của Casimir-Périer không thích hợp với thực tế cương vị của ông. Người ta cho rằng nhân vật mang tính trang trí và không hề nổi bật về chính trị này có thể được coi là xứng đ|ng trở th{nh người đứng đầu nh{ nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, quan niệm của Félix Faure có thể thích hợp với cái gọi là chức Tổng thống, bởi vì sau khi khuyên Casimir-Périer từ chức, ông ta vội v~ đồng ý kế nhiệm.
Nếu như tất cả các Tổng thống liên tiếp kế nhiệm nhau ở Điện Élysée, kể từ Thiers, đều ít nhiều xem xét khía cạnh chính trị của h{nh động của mình và cho dù vui vẻ hay không, đều cố gắng sử dụng hành lang mà Hiến ph|p đ~ d{nh cho họ trong lĩnh vực n{y, thì ngược lại Félix Faure lại chú trọng đến khía cạnh biểu thị của chức vụ của mình. Trước hết, ông là Tổng thống của những nghi lễ trang trọng quốc gia. Đúng l{ c|c cuộc khủng hoảng nội các buộc ông phải đưa ra những lựa chọn chính trị, nhưng ông thể hiện chúng ở mức thấp nhất. Vốn l{ người ôn hòa, ông tìm c|ch để giữ bạn bè của mình ở chính quyền, điều n{y tương đối dễ d{ng do có đa số ở c|c đại hội đồng. Nếu như ông nhiều lần kêu gọi các Chủ tịch Hội đồng thuộc Đảng Cấp tiến thì mục đích luôn luôn l{ để chứng tỏ họ không có khả năng điều h{nh. Nhưng Félix Faure không lựa chọn người đứng đầu chính phủ m{ đề nghị l~nh đạo của các nhóm chính trị chủ yếu lựa chọn hộ ông. Các cuộc khủng hoảng đ~ được giải quyết sau nhiều cuộc tham vấn rộng rãi mà kết quả là bãi bỏ quyền lựa chọn người đứng đầu chính phủ của Tổng thống. Đ}y l{ một giai đoạn mới trong việc giảm quyền của Tổng thống, vấn đề n{y được một Tổng thống quan tâm tới hình thức nhiều hơn tới quyền hành thực tế chấp nhận. Tuy nhiên, sau khi đ~ giải quyết được các cuộc khủng hoảng, Faure để cho Chủ tịch Hội đồng toàn quyền l~nh đạo công việc nh{ nước.
Vai trò thực tế của ông trong chính s|ch đối ngoại cũng bị giảm sút. Mặc dù phản đối liên minh Pháp-Nga ngay từ khi ký kết nhưng ông lại ủng hộ liên minh này khi hiểu rằng nó được lòng dư luận, tuy ông không để lại dấu ấn ở đ}y như Sadi Carnot. Trong mọi lĩnh vực, Félix Faure giao cho các Chủ tịch Hội đồng l~nh đạo nước Pháp. Nổi tiếng và tiêu biểu nhất l{ Méline, người đ~ vạch ra chính s|ch theo đúng ý của Félix Faure. L{ người bảo vệ giới kinh doanh, bênh vực chủ nghĩa bảo hộ, Méline tìm cách dựa vào các thế lực bảo thủ của nước Pháp những năm cuối thế kỉ XIX để thực hiện chính s|ch n{y. Nhưng muốn chinh phục được hai trong số những lực lượng đó l{ Gi|o hội v{ Qu}n đội thì cần phải bãi bỏ chính sách chống lại quyền lực của Giáo hội, yếu tố gắn kết những người theo Đảng Cộng hòa vào thời kỳ đầu của chế độ. Méline không hề do dự: để hòa giải với c|c tín đồ Thiên chúa giáo chấp nhận ủng hộ nền Cộng hòa, do Albert de Mun đứng đầu, ông khuyến khích làm dịu những cuộc tranh luận về tôn giáo, với sự đồng ý của Félix Faure. Và thế là Tổng thống rất hài lòng khi thấy trong chính thể Cộng hòa liên minh của tất cả những người theo Đảng Bảo thủ quan t}m đến việc phát triển đất nước.
Nếu những người kh|c l~nh đạo thì Félix Faure lại l{ người rất có tư thế và về mặt này ông không cho phép bất kỳ ai che lấp mình. Félix Faure điển trai, rất chăm chút hình thức, trang phục, qui định nghi thức trong các buổi lễ ở Điện Élysée (người phụ trách lễ tân trở thành nhân vật thân cận của Tổng thống), thích thú với các nghi lễ.
Đối với những người đương thời, ông l{ “Tổng thống - Mặt trời”, bản th}n ông cũng nghĩ mình l{ người kế nhiệm các Nhà vua Pháp. Liệu ông có dựa vào thông lệ của triều đình Ph|p hay không khi giải thích với một Công chúa Nga rằng Tổng thống được phục vụ đầu tiên trong các bữa tiệc ở Élysée l{ bình thường? Nếu những chuyện n{y l{m người ta buồn cười thì Félix Faure lại biện hộ rằng đó không phải là lòng tự kiêu cá nhân mà là mong muốn thể hiện đất nước một cách xứng đ|ng. Một vài khía cạnh khác của nhân vật này kém thiện cảm hơn: khi vừa mới đắc cử, ông đ~ yêu cầu bạn bè không được xưng hô th}n mật nữa; nhưng sự thật l{ đ~ có một người trong số họ đ~ nh}n dịp này tự cho phép mình ăn nói suồng sã
lần cuối cùng để cho Tổng thống biết ý kiến của mình đối với th|i độ mới của Tổng thống. Trong suốt 4 năm, người dân Pháp thấy Félix Faure trong các cuộc diễu binh, các buổi lễ, các chuyến đi. Chuyến thăm nước Pháp của Sa hoàng Nicolai II và vợ là dịp để phô trương
sự xa hoa đặc biệt. Năm tiếp theo, Félix Faure đến thăm Sa hoàng trên một chiếc tuần dương hạm treo cờ riêng của ông, được trang bị một tủ quần áo sang trọng và bằng lòng nhân từ giả tạo pha lẫn sự giản dị hạ cố, ông đ~ g}y được ấn tượng mạnh cho phía chủ nhà. Nói tóm lại, người Ph|p thường giễu cợt Tổng thống mà không có |c ý, nhưng rõ r{ng l{ Tổng thống rất được lòng dân. Tuy nhiên, vụ Dreyfus và vai trò của Félix Faure trong vụ việc đó đ~ l{m giảm đ|ng kể uy tín của ông.
Tổng thống và vụ Dreyfus
Vụ Dreyfus, đối với dân chúng Pháp vào cuối thế kỷ XIX sẽ là một sự vụ không hơn không kém, ban đầu chỉ là một sai lầm bình thường trong xét xử. Năm 1894, một hoạt động gián điệp bị phát hiện v{ người ta nghi ngờ Đại uý người Do Thái tên là Alfred Dreyfus. Ngay khi biết được mối nghi ngờ này, nhà báo bài Do Thái Edouard Drumont lập tức bắt đầu một chiến dịch báo chí ác liệt nhằm kết tội “tên Do Th|i”. Khía cạnh chính trị của vụ việc đ~ bị lợi dụng dẫn đến việc Dreyfus bị đưa ra xét xử và bị kết án tù khổ sai. Lúc đó, ngo{i một vài người thân và bạn bè, ai cũng nghĩ l{ Dreyfus có tội. Nhưng h{nh động của Mathieu Dreyfus, anh của Alfred Dreyfus, dần dần làm cho một số người có trách nhiệm phải suy nghĩ lại về một v{i cơ sở của vụ việc. Năm 1895, Trung t| Picquart, người phụ trách mới của Cơ quan tình báo thuộc Bộ Tham mưu, lật lại hồ sơ v{ tìm thấy bằng chứng về nguyên nhân hành động của Dreyfus. Ông tin rằng kẻ có tội thực sự không phải là Dreyfus mà là Esterhazy, một sĩ quan gốc Hungary, người thường xuyên liên hệ với Đại sứ qu|n Đức. Từ đó, giới sĩ quan biết được những khuôn khổ mới của vụ việc, nhưng niềm tin chính trị vững chắc của phần lớn sĩ quan v{ những nhân vật hành chính và chính trị cao cấp làm cho họ vẫn nghĩ kẻ có tội phải l{ người Do Thái.
Thế là một sự thông đồng im lặng thực sự được dựng lên quanh vụ Dreyfus. Picquart bị chê trách; Bộ trưởng Méline vin vào cớ vụ việc đ~ được xét xử để từ chối xem xét lại trường hợp của Dreyfus: uy tín của qu}n đội, danh dự của toà án trở thành ngôn từ chủ yếu của ph|i “chống Dreyfus”; Nh}n danh lợi ích quốc gia, họ muốn giữ một người vô tội trong nhà tù khổ sai. Phái chống Dreyfus sau đó hầu như đồng tình với phái Bảo thủ đang nắm quyền ở Ph|p: c|c tín đồ Thiên chúa giáo ủng hộ hoặc không ủng hộ nền Cộng hòa đứng ở hàng đầu giữa họ và tờ La Croix (Thập tự), báo của Gi|o đo{n Đức Mẹ đồng trinh qui thiên, tổ chức một chiến dịch chống lại Dreyfus và những người bảo vệ anh ta; Bên cạnh đó, Đảng Dân tộc chủ nghĩa thuộc Hội ái quốc, những người không bao giờ h{i lòng như Rochefort, phái Bảo ho{ng đối địch với nền Cộng hòa, sát cánh với đảng Cộng hòa ôn hòa như Méline, người coi việc bảo vệ trật tự xã hội là trên hết. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng Félix Faure có thiện cảm với phái chống Dreyfus. Khi Thượng nghị sĩ vùng Alsace Scheurer Kestner đến để thuyết phục Tổng thống xem xét lại vụ án, Tổng thống đ~ trả lời tránh né: “Tính trung lập của tôi là tính trung lập của luật ph|p”.
Trung lập giữa công bằng và phủ nhận công bằng! Nhưng liệu có phải Tổng thống không được tự do lựa chọn? Ít nhất thì phe bảo vệ Dreyfus cũng nói bóng gió như vậy. Trên thực
tế, xung quanh Félix Faure bao phủ một bóng đen của một vụ bê bối. Năm 1895, Drumont phát hiện ra rằng bố vợ của Tổng thống, vốn là một công chứng viên, đ~ bị kết tội biển thủ và phải trốn chạy để tránh bị tù khổ sai. Sau đó, Drumont nói có những bí mật khác bị phát hiện nhưng lại không bao giờ tiết lộ chúng; Từ đó, người ta có thể nghĩ rằng Drumont đ~ đe dọa Tổng thống v{ đổi lại sự im lặng của ông ta, Tổng thống sẽ phản đối việc xem xét lại vụ án Dreyfus. Chỉ có Jean Jaurès vượt qua được một bước trong b{i đăng trên b|o Petite République (Nền Cộng hòa nhỏ): “ Tổng thống hãy cẩn thận! Nếu nước Pháp vì tôn trọng bản thân mà quên đi một vài cuộc phiêu lưu của những người thân cận của Tổng thống thì nước Pháp cũng có quyền yêu cầu chính Tổng thống quên chúng đi. Nước Pháp đã sẵn sàng, nếu để chống lại Tổng thống, những kẻ đe dọa muốn đào một số tử thi lên để cùng chôn vào một hố cùng những chuyện buồn này và những người khuấy động chúng. Nhưng nước Pháp muốn Tổng thống không vì sợ mà dính líu vào những việc đã qua, những việc mà chính nước Pháp đã giải thoát cho Tổng thống bằng lựa chọn của mình”.
Dù sao thì có một việc đ~ qu| rõ r{ng: vụ Dreyfus có động chạm đến Félix Faure. Ngày 14/1/1898, trên tờ Aurore (Rạng đông) của Clemenceau, Émile Zola đ~ gửi một bức thư ngỏ tới Tổng thống dưới nhan đề: “Tôi buộc tội…!” trong đó ông lên |n tất cả những người, bằng mưu mô hoặc im lặng, đ~ cho phép kết án một người vô tội và giữ người đó lại trong tù vì lo lắng đến lợi ích quốc gia. Các Bộ trưởng, c|c sĩ quan, các thẩm phán quân sự đều bị Émile Zola kết án, và bản thân Tổng thống, người đ~ không l{m gì để ngăn chặn mưu đồ đó, cũng bị liên lụy vì vụ bê bối đó một cách gián tiếp (nhưng bằng lời lẽ rất kính trọng). Zola bị truy tố, nhưng tiếng đồn về sai lầm trong xét xử được chấp nhận một cách có cân nhắc và bắt đầu len lỏi từ giới sĩ quan ra dư luận rộng rãi và uy tín của Félix Faure bắt đầu giảm sút trong công chúng. Một cái chết đột ngột nhưng không tế nhị lắm đ~ giúp ông tr|nh mất thanh danh hơn nữa khi ở phe chống Dreyfus, nhưng cũng bộc lộ tính phóng đ~ng của người luôn muốn tỏ ra là một Tổng thống có uy tín v{ được tôn trọng.
Cuộc hẹn cuối cùng với bà Stenheil
Là một người điển trai, Félix Faure không ngần ngại t|n dương những cuộc chinh phục của mình, còn những người thân cận thì độ lượng chấp nhận những c|ch cư xử khác biệt của Tổng thống. “Phòng bạc” của Điện Élysée l{ nơi thường diễn ra những cuộc hẹn hò tình cảm của Tổng thống. Ngày 16/2/1899, tại đ}y Félix Faure hẹn gặp bà Stenheil, vợ một họa sĩ hạng xo{ng. Lúc đó, Tổng thống đang bị kích động, ông vừa mới tiếp Hoàng thân Monaco. Vừa từ Đức trở về, Ho{ng th}n đến để khẳng định rằng đích th}n Ho{ng đế đ~ nói cho ông biết bằng chứng Dreyfus vô tội và Esterhazy mới là kẻ có tội. Quá bực tức, Tổng thống đ~ tiếp đón Ho{ng th}n rất tồi và ông vẫn còn bị sốc vì cái tin không mấy dễ chịu này.
Vào khoảng 6 giờ chiều, Ch|nh văn phòng Tổng thống v{ c|c sĩ quan phục vụ nghe thấy tiếng phụ nữ kêu thất thanh. Họ vội chạy vào Phòng bạc và thấy Tổng thống đang bất động do bị xuất huyết não. Sau 3 giờ hấp hối và không hề tỉnh lại, Félix Faure qua đời. Cái chết của ông l{m cho người ta kinh ngạc nhiều hơn thương tiếc. Hoàn cảnh chết của Tổng thống không được công bố nên sự kiện này bị khai thác về mặt chính trị. Drumont, người phát ngôn của phái chống Dreyfus, buộc tội người Do Th|i đ~ g}y ra c|i chết của Tổng thống, vì Tổng thống phản đối việc xem xét lại vụ |n: “Dalila đ~ l{m tay sai cho người Do Th|i”.
Nhanh ch}n hơn, thay mặt những người bảo vệ Dreyfus, Clemenceau thở phào lật sang trang mới: “Sự việc này chỉ làm bớt đi một người ở nước Pháp… Tôi bỏ phiếu cho Loubet”.
Bốn năm ở cương vị Tổng thống của Félix Faure đ~ góp phần l{m thay đổi bộ mặt của chức Tổng thống ở nền Cộng hòa đệ Tam. Ông là Tổng thống đầu tiên đ~ tự nguyện từ bỏ vai trò chính trị để chỉ tập trung vào khía cạnh danh dự của chức vụ. Đ}y l{ một tiền lệ nguy hiểm bởi vì ông tham gia vào quá trình làm suy giảm tầm quan trọng của chức Tổng thống và
đ|nh mất vai trò đối trọng của Tổng thống trước quyền tuyệt đối ng{y c{ng tăng của Quốc hội: tính phô trương kiểu trẻ con của Félix Faure đ~ thúc đẩy quá trình suy yếu của quyền h{nh ph|p trước quyền lập pháp.
- 8 - ÉMILE LOUBET, ĐỈNH CAO CỦA THỜI KÌ VÀNG SON
(16 th|ng 2 năm 1899 - 18 th|ng 2 năm 1906)
Một người thuộc phái bảo vệ Dreyfus đắc cử
Émile Loubet sinh năm 1838 ở Marsanne, tỉnh Drôme, trong một gia đình nông d}n. Vì học luật nên ông đến với chính trị một cách tự nhiên. Dưới thời Đế chế thứ Hai, tất nhiên là ông ở phe đối lập. Chiến thắng của Đảng Cộng hòa đ~ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp chính trị của ông. Ông thuộc giới trí thức tiểu tư sản, nơi cung cấp cho nền Cộng hòa những cán bộ khung cần thiết. Loubet đ~ trải qua con đường công danh cổ điển nhất; ông lần lượt là thị trưởng, Ủy viên đại hội đồng, Nghị sĩ rồi Thượng nghị sĩ. Thắng lợi chính trị đ~ đưa ông đến Paris, nhưng ông vẫn rất gần gũi với các nhân vật quan trọng của tỉnh thuộc giới tiểu tư sản, nơi ông bắt đầu sự nghiệp của mình.
Khác với Félix Faure chỉ nhắc đến nguồn gốc xuất thân tầm thường để tự hào về sự thăng tiến xã hội của mình, Émile Loubet tự cảm thấy l{ người của nh}n d}n v{ th|i độ khiêm tốn của ông không bao giờ thay đổi. Đó chính l{ một tiêu chuẩn tuyệt vời để tiến tới cương vị tối cao: Émile Loubet nằm trong số những người mà tính cách bảo đảm cho sự cẩn trọng trong l~nh đạo chính trị sau này. Sau khi Félix Faure chết, Đảng Cộng hòa quay sang phía ông. Năm 1896, ông được bầu làm Chủ tịch Thượng viện và trở thành nhân vật thứ hai của Nhà nước. Mặc dù ông không bao giờ tỏ rõ th|i độ trong vụ Dreyfus, nhưng dư luận biết rằng ông không đồng tình với Bộ tham mưu v{ c|c thẩm phán quân sự, và khác với Félix Faure, ông sẽ không cản trở việc xem xét lại bản án. Lẽ ra Loubet có thể được bầu không gặp trở ngại gì nếu như không bị bài báo bất cẩn của Clemenceau làm tổn hại trong con mắt những người chống sự xét lại.
Trên thực tế, lời giới thiệu của Clemenceau hoàn toàn không có liên quan gì: sau khi bị Paul Déroulède, người đứng đầu Hội ái quốc, buộc tội có nhúng tay vào vụ bê bối Panama mặc dù không có chứng cứ gì, Clemenceau thấy sự nghiệp chính trị của mình đ~ hết. Vì thế, ông hăng h|i lao v{o vụ Dreyfus nhằm lấy lại uy tín. Đối với rất nhiều người, Clemenceau tỏ ra là thủ lĩnh thực sự của phái bảo vệ Dreyfus và ông ta tin chắc rằng đ~ đưa Émile Loubet ra l{m ứng cử viên của ph|i n{y, nhưng việc đó lại vô tình làm tổn hại đến một chính khách mà cho đến lúc đó chưa tỏ rõ th|i độ trong vụ việc gai góc này. Lập tức Đảng Dân tộc chủ nghĩa nổi giận chống lại Chủ tịch Thượng nghị viện. Người ta lại bới móc những chuyện cũ: l{ Chủ tịch Hội đồng khi xảy ra vụ bê bối Panama, Loubet đ~ l{m mọi việc để dập tắt vụ này, thậm chí người ta còn nói rằng ông không còn liêm chính sau vụ n{y. Để đối lại với Loubet, phái chống xét lại muốn đưa Méline ra làm ứng cử viên vì ông này tham gia nhiều hơn v{o c|c cuộc đấu tranh chính trị, là thủ lĩnh thực sự của phái ôn hòa và kịch liệt phản đối xét lại vụ |n Dreyfus. Nhưng những lời buộc tội v{ }m mưu n{y không g}y được t|c động đến các Nghị sĩ.
Cuộc đảo chính của Déroulède, những cú gậy của Christiani: sự khởi đầu không may mắn của một nhiệm kì Tổng thống
Ngay sau khi đắc cử, Émile Loubet rời Versailles đi Paris bằng xe lửa. Khi vừa tới ga Saint Lazare, ông bị đón tiếp bằng một cuộc biểu tình của phái bảo hoàng và những lời la ó: “Panama! Từ chức”, v{ Tổng thống bước v{o Điện Élysée với đ|m người biểu tình vây quanh. Ông chủ tịch Hội đồng Charles Dupuy vốn phản đối xét lại đ~ không hề l{m gì để ngăn chặn những cuộc biểu tình mà chắc chắn là ông ta dễ d{ng đo|n trước được. Nhiệm kì Tổng thống của Émile Loubet bắt đầu trong hoàn cảnh đ|ng buồn. Trong khi Tổng thống ở trong Điện Élysée còn đang trấn tĩnh lại sau cuộc bầu cử và những sự kiện tiếp theo nó, thì những người biểu tình lợi dụng tình thế có lợi cho họ. Họ tụ tập quanh bức tượng Jeanne d’Arc để cổ vũ cho thủ lĩnh của mình là Déroulède. Khí thế tăng lên rất nhanh. Say sưa với chiến thắng, Déroulède mặc sức diễn thuyết. Ngay sau đó, đ|m người hò hét thúc giục ông ta: “V{o Élysée! Xông v{o Élysée!”
Trước mối nguy hiểm bị rơi v{o tình trạng quá sức do cuộc nổi dậy vốn không được chuẩn bị từ trước, Déroulède tìm cách kéo dài thời gian. Viện cớ tôn trọng thi hài của Félix Faure nên không thể tiến v{o Điện Élysée ngay được, Déroulède hứa sẽ h{nh động vào ngày diễn
ra lễ tang của Tổng thống vừa mất: “V}ng, thưa c|c bạn, chúng ta có thể v{o đó ngay tối nay, nhưng trong đó có một người mới chết! Tôi tôn trọng ông ấy, chính ông ấy chứ không phải kẻ vừa được Quốc hội bầu ra, đối với tôi, hắn không phải là lãnh tụ thực sự của dân tộc. Chúng ta sẽ tổ chức bầu cử phổ thông. Hẹn thứ Năm! Một nền Cộng hòa kh|c muôn năm! Đả đảo nền Cộng hòa n{y!” Trong những ngày tiếp theo, Charles Dupuy, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, vẫn không h{nh động và ngang nhiên chuẩn bị }m mưu của Déroulède }m mưu n{y trở nên phức tạp với h{nh động gay gắt của phái Bảo ho{ng. Không được Déroulède coi trọng, những người ủng hộ Công tước Orléans quyết t}m không để ông ta được hưởng lợi từ chiến thắng dự kiến sẽ xảy ra. Déroulède dường như được Tướng Pellieux, cựu Bộ trưởng Chiến tranh, thuộc phái chống Dreyfus, giúp đỡ. Viên Tướng n{y được giao dẫn đầu đo{n qu}n trong lễ tang Félix Faure.
Ngày 23/2, ngày diễn ra lễ tang, Déroulède v{ người của ông ta tập trung ở Quảng trường Dân tộc để đợi đội quân của Pellieux đi ngang qua sau khi rời nghĩa trang Père Lachaise. Nhưng v{o phút cuối, Pellieux đ~ do dự; ông ta để Tướng Roget thay mình. Khi vừa nhìn thấy đo{n qu}n, Déroulède vội vã chạy về phía ngựa của Roget nhưng Roget đẩy Déroulède ra và cho quân nhanh chóng trở về doanh trại Reuilly. Déroulède hiểu rằng mình đ~ thất bại. Để không bị biến th{nh trò cười, ông ta cũng v{o doanh trại cùng đo{n qu}n v{ yêu cầu qu}n đội bắt giữ mình. Sau đó, ông ta bị buộc tội }m mưu chống lại nền Cộng hòa. Déroulède được một thẩm phán dễ dãi tha bổng v{o th|ng 5/1899, nhưng th|ng 1/1900, ông ta lại bị Toà án tối cao xét xử và kết |n 10 năm biệt xứ. Mặc dù cuộc đảo chính của Déroulède đ~ thất bại, nhưng ph|i Bảo hoàng và dân tộc chủ nghĩa vẫn không nguôi giận và cái tên Émile Loubet vẫn tiếp tục gây thù hận. Phe đối lập n{y cũng có một kết cục không kém buồn cười so với đội quân của Déroulède, cho dù đ~ g}y lo lắng cho phái Cộng hòa.
Ngày 4/6/1899, Tổng thống đến Trường đua Auteuil để xem cuộc đua ngựa lớn được tổ chức h{ng năm. Ông được đón tiếp bằng tiếng hò hét của khoảng 100 người theo phái Bảo
hoàng và Dân tộc chủ nghĩa, họ mang hoa cẩm chướng trắng ở khuyết áo, tập trung quanh kh|n đ{i nơi Tổng thống ngồi. Lực lượng cảnh sát ít ỏi làm cho những kẻ biểu tình thêm liều lĩnh; cuối cùng, một người trong số họ l{ Nam tước Christiani đ~ nhảy lên kh|n đ{i, xô ng~ bà Loubet và dùng gậy đập nhiều lần vào chiếc mũ cao th{nh của Tổng thống. Christiani bị bắt và bị kết |n 4 năm tù, nhưng sau đó nhanh chóng được Loubet ân xá.
Nội các bảo vệ nền Cộng hòa của Waldeck-Rousseau
Không quá lo lắng về }m mưu đảo chính không thành của Déroulède, nhưng nước Pháp nổi giận vì Tổng thống bị lăng nhục qua c|i mũ của ông. Một tuần sau, vào ngày diễn ra giải Grand Prix ở Trường đua ngựa Longchamp, những người thuộc phe bảo vệ Dreyfus, Đảng Xã hội và các nghiệp đo{n tổ chức một cuộc biểu tình chống đối. Với hoa tầm xu}n đỏ cài ở khuyết áo, hàng nghìn công nhân diễu hành từ Quảng trường Concorde đến Trường đua Longchamp. Lần này thì Chủ tịch Hội đồng đ~ dùng lực lượng cảnh s|t đông đảo để cấm đo{n biểu tình có h{nh động qu| đ|ng. Cuối cùng thì Quốc hội cũng thấy rằng Dupuy không phải l{ người thích hợp với tình hình lúc đó nên đ~ b~i nhiệm ông. Sau đó, Loubet tuyên bố ý định thành lập một chính phủ mạnh, đủ khả năng bảo vệ nền Cộng hòa đang bị đe dọa, và sau một loạt tránh né của các thủ lĩnh ôn hòa như Poincaré, người không mấy lo lắng về việc một tương lai đầy hứa hẹn bị tổn hại khi coi trọng những đam mê chính trị, Loubet chỉ định Pierre Waldeck-Rousseau làm Chủ tịch Hội đồng. Waldeck-Rousseau tuyên bố l{ “một người Cộng hòa ôn hòa, nhưng không phải l{ người Cộng hòa theo c|ch ôn hòa”. Ông th{nh lập một nội các bao gồm những người thuộc tất cả c|c đảng ph|i nhưng cùng lo lắng bảo vệ nền Cộng hòa. Bên cạnh Tướng Galliffet nổi tiếng trong vụ đ{n |p Công x~, lần đầu tiên có một Bộ trưởng thuộc Đảng Xã hội, đó l{ Alexandre Millerand.
Waldeck-Rousseau đưa ra chính s|ch m{ một người như Loubet có thể tán thành: bảo vệ nền Cộng hòa bằng cách thẳng tay đ{n |p Đảng Dân tộc chủ nghĩa; đấu tranh chống sự lấn lướt của giới tăng lữ trong lĩnh vực chính trị, nhưng không xử sự theo kiểu bè ph|i m{ đối xử khéo léo với tín ngưỡng của c|c tín đồ Thiên chúa giáo. Rút cục thì Loubet, một người Cộng hòa x|c tín, cũng không thoát ra khỏi vai trò mà Hiến ph|p đ~ qui định cho Tổng thống. Không hơn gì Félix Faure, ông không có ý định l~nh đạo hoạt động chính trị của đất nước và phó thác công việc cho các Chủ tịch Hội đồng được Quốc hội tin tưởng bầu ra. Cũng không khác gì Félix Faure, ông từ bỏ quyền đối với chính s|ch đối ngoại, quyền mà các Tổng thống đầu tiên ra sức giữ lấy.
Cắt đứt quan hệ với Vatican, xích lại gần nước Anh: những bất ngờ trong chính s|ch đối ngoại
Loubet tự đề cao tính trung lập chính trị của mình đến mức rất ít can thiệp vào công việc nh{ nước, ngay cả khi ông không đồng ý với chính s|ch đang được theo đuổi. Cuộc bầu cử năm 1902 l{ một chiến thắng của Đảng Cấp tiến. Do l{ đại diện của phái Ôn hòa nên Waldeck-Rousseau phải rời khỏi chính quyền. Theo lời khuyên của những người đứng đầu phe đa số, Loubet giao chức Bộ trưởng cho Émile Combes, một Thượng nghị sĩ cấp tiến mà ông không biết rõ lắm. Với “đức cha nhỏ Combes”, người từng là học sinh trường dòng, trở th{nh b|c sĩ rồi sau đó l{ chính trị gia, chính sách bảo vệ nền Cộng hòa của Waldeck-
Rousseau biến thành chính sách chống Giáo hội rõ nét và có kèm theo chủ nghĩa bè ph|i. Émile Loubet không tán thành chính sách này vì nó muốn loại bỏ c|c tín đồ Thiên chúa giáo khỏi cộng đồng dân tộc, sau đó phần lớn Đảng Cộng hòa cũng chung ý kiến với ông. Clemenceau, vốn theo Đảng Cấp tiến nhưng chống lại Giáo hội, gọi chính sách của Combes là “dòng Tên lật ngược”, còn Alexandre Millerand phẫn nộ vì chính sách khuyến khích tố giác của Combes nhằm phát hiện những người Thiên chúa giáo trong bộ máy chính quyền và đặc biệt l{ trong qu}n đội, đ~ coi đó l{ “h{nh động ghê tởm”.
Nhưng cũng như phần lớn thành viên của Đảng Cộng hòa, mặc dù trong thâm tâm không đồng ý với chính sách của Combes, nhưng Loubet biết rằng nếu lên án nó trước công luận thì Chính phủ sẽ trở thành mục tiêu của những kẻ phản đối nền Cộng hòa. Vả lại, Tổng thống không nên sử dụng quyền tự do ngôn luận như c|c Nghị sĩ Clemenceau v{ Millerand. Nhưng ít nhất thì trong khả năng của mình Tổng thống cũng cố gắng ngăn chặn chính sách của Combes. Và thế là ông cố tìm cách hoãn chuyến thăm của Vua Italia Victor Emmanuel đến Paris. Loubet biết rằng nếu chuyến thăm n{y diễn ra thì chính ông sẽ phải tới Roma để đ|p lại. Tuy nhiên, các Giáo chủ đều không công nhận Roma thuộc Italia và một h{nh động kiểu như vậy sẽ bị triều chính Tòa thánh coi là sự xúc phạm đối với Giáo hoàng; quan hệ giữa Ph|p v{ Vatican căng thẳng tới mức có thể bị đổ vỡ vì một vụ rắc rối như vậy. Tuy nhiên, từ năm 1900, chính phủ đ~ có nhiều nỗ lực đ|ng kể để tách Italia ra khỏi liên minh Áo-Đức nên ủng hộ chuyến thăm n{y v{ Loubet, một Tổng thống không có thực quyền, chỉ còn biết làm theo. Victor-Emmanuel đến Paris v{ được đón tiếp nồng hậu, Hoàng hậu ôm hôn bà Loubet, và tất nhiên là Tổng thống sẽ phải đến thăm chính thức Roma.
Th|ng 4/1904, Loubet đến thăm Roma. Ông được ch{o đón ở đ}y, nhưng những kẻ chống lại Giáo hội ở Italia lợi dụng chuyến viếng thăm n{y của Tổng thống Pháp. Trên các bức tường của Thành phố Vĩnh hằng (Roma — ND), Hội Tam điểm dán những tấm áp-phích ca ngợi Tổng thống và chỉ trích Giáo hoàng. Vụ rắc rối mà Tổng thống lo sợ đ~ xảy ra. Cả Giáo hoàng Pie X và tổng trưởng ngoại giao, Hồng y giáo chủ Merry del Val đều cố chấp: Văn phòng Tổng trưởng ngoại giao thảo một công hàm phản đối Loubet một cách xúc phạm gửi đến tất cả c|c cường quốc có đại sứ tại Vatican. Combes phải vào cuộc, triệu hồi Đại sứ Pháp tại Vatican và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Vatican. Émile Loubet vốn l{ người ủng hộ hòa giải nhưng đ~ trở thành công cụ ngoài ý muốn trong việc cắt đứt quan hệ giữa Pháp và Giáo hoàng. Vai trò của ông tốt đẹp hơn khi l{m giảm bớt căng thẳng trong mối quan hệ Pháp Anh. Vào những năm cuối của thế kỉ XIX, sự đối đầu Pháp-Anh về vấn đề thuộc địa rất gay gắt v{ đ~ suýt nữa trở th{nh xung đột vũ trang khi Ph|p v{ Anh đối mặt nhau ở Soudan. Nhưng từ đó, Bộ trưởng Ngoại giao Ph|p Delcassé đ~ l{m tất cả để hai nước xích lại gần nhau.
Năm 1901, Nh{ vua mới của nước Anh là Edouard VII quyết t}m đưa đất nước ra khỏi thế bị cô lập về ngoại giao. Vốn là Thái tử xứ Wales, ông rất quen thuộc với giới thượng lưu Paris và một số chính kh|ch Ph|p, trong đó có Loubet. Năm 1903, Nh{ vua Anh liên lạc với Loubet v{ được Loubet mời tới thăm chính thức Paris. Lúc đầu, người d}n Ph|p đón tiếp ông lạnh nhạt, nhưng bằng sự khéo léo, cởi mở, ông đ~ lấy được lòng dân chúng và thậm chí còn được hoan hô nhiệt liệt khi kết thúc chuyến thăm. Nếu như Delcassé l{ người khởi xướng l{m thay đổi th|i độ của công chúng thì chính Loubet, vốn tán thành mọi điểm trong
chính sách của Delcassé, đ~ l{m tất cả để chính s|ch n{y đi tới th{nh công: ông đ~ triệu tập Chủ tịch Hội đồng thành phố Paris, một trong những thủ lĩnh của Đảng Dân tộc chủ nghĩa, để yêu cầu từ bỏ những cuộc biểu tình mà bạn bè của Déroulède định tổ chức. Thế là tháng 7/1903, khi đến thăm London, Loubet được đông đảo d}n chúng đón tiếp nồng hậu v{ được coi là một người có công làm Pháp và Anh xích lại gần nhau. Tuy nhiên, một vụ rắc rối đ~ suýt nữa làm chuyến đi bị hủy bỏ: mặc dù Nhà vua Edouard VII yêu cầu nhưng Loubet cương quyết từ chối mặc quần ngắn để dự buổi khiêu vũ của Triều đình ở Điện Buckingham…
Kết thúc nhiệm kì 7 năm, bắt đầu thời kỳ nghỉ hưu bình lặng
Mặc dù nhiệm kỳ của ông bắt đầu trong những hoàn cảnh đ|ng buồn, nhưng Émile Loubet vẫn là một Tổng thống được lòng dân. Tính tình hiền lành của ông đ~ l{m nên điều huyền diệu, sự giản dị không giả dối của ông được đ|nh gi| cao. Những chuyến đi thăm c|c tỉnh của ông là những thắng lợi vì dân chúng, nhất l{ người nghèo, tự nguyện đến để ch{o đón ông. Loubet cũng được các nhân vật quan trọng ở địa phương, c|c Ủy viên hội đồng thành phố, các Chủ tịch xã ở nông thôn, các ủy viên đại hội đồng xuất thân từ giới tiểu tư sản và tạo nên dư luận ở Pháp trong những năm đầu thế kỉ XX, kính trọng. Ông l{ người của họ, nhờ họ m{ ông được bầu v{o Thượng nghị viện, đại diện cho các tập thể địa phương, rồi được giữ chức Chủ tịch Thượng nghị viện, bước đệm để đến với cương vị tối cao. Loubet được lòng dân chủ yếu là do ông biết giữ vai trò Tổng thống bên trên các cuộc đấu tranh chính trị, bởi vì ông chấp nhận để những người kh|c l~nh đạo đất nước. Ông đ~ ủng hộ Combes mặc dù không tán thành chính sách của Combes; ông ủng hộ Delcassé vì chính sách đối ngoại của Delcassé hợp với ông, nhưng ông bằng lòng giữ vai trò phụ chứ không tham gia lập chính s|ch đó, v{ khi chính phủ Pháp phải hi sinh Delcassé dưới sức ép của Đức, Loubet, vốn bị giới hạn về quyền lực, đ~ không nói lời n{o để bảo vệ Delcassé.
L{ người kế nhiệm Félix Faure, Loubet thực ra cũng có cùng quan niệm với ông ta về vai trò Tổng thống, ngay cả khi ông biết đưa thêm lòng tốt vào phong cách của mình: Tổng thống của những nghi lễ trang trọng quốc gia. Émile Loubet bắt đầu một tiền lệ khác: ông là Tổng thống đầu tiên rời khỏi Điện Élysée sau đúng 7 năm của nhiệm kì để về nghỉ ngơi yên bình ở làng quê, xa các cuộc đấu tranh chính trị.
- 9 - ARMAND FALLIÈRES, NHÀ HIỀN TRIẾT CỦA ĐIỆN ÉLYSÉE
(18 th|ng 2 năm 1906 - 18 th|ng 2 năm 1913)
Một Loubet khác
Émile Loubet sẽ kết thúc nhiệm kỳ v{o th|ng 2/1906 v{ không có ý định tái cử, vì vậy hai viện họp ở Versailles ng{y 17/1 để bầu ra người kế nhiệm ông. Có hai ứng cử viên cạnh tranh nhau: Paul Doumer , Chủ tịch Quốc hội và Armand Fallières, Chủ tịch Thượng nghị viện. Theo logic thì mọi cơ may đều nghiêng về phía Paul Doumer, Đảng viên Đảng Cấp tiến, vì từ năm 1902 thời thế chính trị đ~ biến Đảng Cấp tiến thành nhóm quan trọng nhất của Quốc hội. Tuy nhiên, điểm yếu của Doumer là tham gia tích cực vào chính trường và chuốc lấy nhiều hiềm khích. Năm 1895, với tư c|ch l{ Bộ trưởng Bộ T{i chính, ông đ~ đề nghị thông qua thuế thu nhập, một yêu s|ch cũ của Đảng Cấp tiến. Khi nội các mà ông tham gia bị giải t|n, ông đồng ý không giữ chức Bộ trưởng Tài chính trong nội các mới của Méline. Bù lại, ông được cử giữ chức Toàn quyền Đông Dương, do đó dự định của ông cũng không thành. Cánh tả phàn nàn nhiều về Doumer: l{ người phản đối chính sách của Combes, cũng như nhiều Đảng viên Đảng Cộng hòa khác, ông không ngần ngại công kích Combes và thậm chí bỏ phiếu chống lại ông ta. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi cánh tả thích nhân vật ôn hòa Arman Fallières hơn kẻ phản bộ cấp tiến này.
Tổng thống có nhiều nét giống với người tiền nhiệm Loubet. Cũng như Loubet, ông l{ người miền Nam, sinh năm 1842 ở gần Nérac, vùng Lot-et-Garonne. Cũng như Loubet, ông xuất thân từ một gia đình nông thôn nổi lên chậm chạp: ông nội là thợ rèn, bố là lục sự của toà án. Armand Fallières học ở Trường trung học Angoulême, sau đó trở thành luật sư rồi chính trị gia, theo con đường công danh cổ điển của các nhân vật quan trọng trong nền Cộng hòa đệ Tam. Sau ngày 4/9, ông trở thành Thị trưởng của Nérac, sau đó bị Chính phủ của Trật tự Đạo đức bãi chức. Từ đó, sự nghiệp của ông đi lên theo sự lớn mạnh của nền Cộng hòa. Sau cuộc bầu cử ngày 16/5, ông trở th{nh Đại biểu quốc hội của Nérac và giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Gi|o dưỡng công, Bộ Lễ, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao. Ông cũng l{ Chủ tịch Hội đồng trong giai đoạn bản lề ngắn từ th|ng 1 đến tháng 2/1883. Từ năm 1890, Fallières l{ Thượng nghị sĩ; năm 1899, khi Loubet được bầu làm Tổng thống, Fallières kế nhiệm ông v{o cương vị Chủ tịch Thượng nghị viện.
Năm 1906, ông lại kế nhiệm Loubet ở Điện Élysée với 449 phiếu của cánh tả, còn Doumer được 371 phiếu của cánh trung dung và cánh hữu.
Truyền thuyết và hiện thực về Armand Fallières
Cũng như một số Tổng thống tiền nhiệm, ông chưa được nhiều người biết tới khi được bầu làm Tổng thống, song “Cha Fallières”, như người Pháp vẫn gọi ông một cách thân mật, nhanh chóng trở thành một nhân vật huyền thoại thật sự. Trên thực tế, chẳng có gì trong nhân cách của vị Tổng thống mới khiến người ta phải tôn kính v{ ngưỡng mộ. Người dân