" Câu Lạc Bộ Án Mạng Ngày Thứ Năm PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Câu Lạc Bộ Án Mạng Ngày Thứ Năm PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Thân gửi mẹ tôi, “Brenda cuối cùng còn sống sót,” với thật nhiều tình thương. Giết một ai đó thì rất dễ. Giấu xác, đó mới là phần khó. Đó mới là khâu khiến bạn bị bắt. Tuy nhiên, tôi đã đủ may mắn để tình cờ chọn đúng nơi đúng chốn. Chính xác hơn, là một nơi hoàn hảo. Thỉnh thoảng, tôi sẽ quay lại, để chắc rằng mọi thứ vẫn bình an vô sự. Mọi thứ vẫn luôn vô sự, và tôi cho rằng nó sẽ mãi như vậy. Đôi khi, tôi sẽ hút một điếu thuốc, dù tôi biết không nên làm vậy, nhưng đó là tật xấu duy nhất của tôi. JOYCE Chà, chúng ta sẽ bắt đầu với Elizabeth, được chứ? Và xem chúng ta sẽ đi tới đâu. Tôi biết bà ấy là ai, dĩ nhiên rồi, tất cả mọi người ở đây đều biết Elizabeth. Bà ấy có một căn hộ ba phòng ngủ ở Khu Larkin. Có phải là căn ở góc, với cái hiên rộng không nhỉ? À, tôi cũng từng trong cùng đội giải đố với Stephen, người mà vì một vài lý do, là chồng thứ ba của Elizabeth. Tôi đang dùng bữa trưa, chuyện này xảy ra khoảng hai hay ba tháng trước, và hẳn là vào thứ Hai, bởi hôm đó có món thịt băm nấu với khoai tây hầm. Elizabeth nói rằng bà ấy biết tôi đang dở bữa, nhưng muốn hỏi tôi một câu về vết thương do dao đâm, nếu không quá bất tiện? Tôi đáp rằng, “Không hề, dĩ nhiên rồi, được chứ,” hay mấy điều tương tự. Tôi không hẳn luôn nhớ mọi thứ một cách chính xác, phải nói trước là như thế. Vậy là bà ấy mở ra một tập hồ sơ, và tôi nhìn thấy vài trang giấy đánh máy và phần rìa của thứ gì đó trông như những bức ảnh cũ. Sau đó, bà ấy vào thẳng vấn đề. Elizabeth bảo tôi tưởng tượng ra một cô gái bị đâm bằng dao. Tôi hỏi rằng bị đâm bằng dao loại nào, và Elizabeth nói có lẽ chỉ là một con dao bếp thông thường. Kiểu John Lewis. Bà ấy không nói vậy, nhưng tôi đã mường tượng ra như thế. Rồi bà ấy bảo tôi hình dung ra cảnh cô gái này đã bị đâm, khoảng ba hay bốn lần, ngay bên dưới xương ức. Đâm vào rồi rút ra, lại đâm vào và rút ra, khá là ghê rợn, nhưng không cắt vào động mạch. Bà ấy nói những chuyện này khá thì thầm, bởi vì mọi người xung quanh đang dùng bữa, và bà cũng đủ biết điều. Thế là tôi ngồi đó, hình dung ra những vết thương do dao đâm, và Elizabeth hỏi tôi rằng mất bao lâu để cô gái kia sẽ chảy máu tới chết. Nhân tiện, tôi nghĩ rằng mình nên đề cập đến chuyện tôi từng là một y tá lâu năm, nếu không thì bạn sẽ thấy những điều tôi kể trên thật ngớ ngẩn. Chắc là Elizabeth đã biết được chuyện ấy từ đâu đó, bởi Elizabeth biết mọi thứ. Dẫu sao, đó là lý do mà bà ấy hỏi chuyện tôi. Bạn chắc hẳn đang thắc mắc tôi lải nhải cái quái gì vậy. Tôi sẽ làm rõ những điều tôi đang viết, tôi hứa. Tôi nhớ là mình đã chấm nhẹ miệng trước khi trả lời, giống như đôi khi bạn thấy trên truyền hình ấy. Nó khiến bạn trông có vẻ thông thái hơn, thử mà xem. Tôi hỏi lại rằng, cô gái kia cân nặng bao nhiêu. Elizabeth tìm kiếm thông tin trong tập tư liệu của mình, lần ngón tay và đáp rằng cô gái nặng bốn mươi sáu kilogram. Điều này khiến cả hai chúng tôi bối rối, vì chúng tôi chẳng ai hiểu bốn mươi sáu kilogram là như thế nào. Trong đầu tôi đã nghĩ, hẳn nó tương đương hai mươi ba trọng lượng đá? Tỷ lệ hai trên một, tôi nghĩ vậy. Mặc dù tôi chắc mẩm thế, nhưng tôi cho rằng mình cũng chẳng phân biệt được inch và centimet. Elizabeth khẳng định là cô gái không thể nặng hai mươi ba trọng lượng đá, vì bà ấy có một bức ảnh chụp cái xác của cô gái trong tập hồ sơ. Bà ấy nhìn tôi, gõ gõ tập hồ sơ, trước khi quay đầu lại và nói lớn, “Ai đó hãy hỏi Bernard hộ tôi xem bốn mươi sáu kilogram là nặng như thế nào được không?” Bernard luôn ngồi một mình, tại một trong những chiếc bàn nhỏ gần sân. Đó là bàn số 8. Bạn không cần biết điều đó, nhưng tôi sẽ nói cho bạn biết một chút về Bernard. Bernard Cottle rất tử tế với tôi khi tôi mới tới Coopers Chase. Ông ấy đã cho tôi một mầm hoa clematis, và giải thích cho tôi về quy trình vứt rác tái chế. Ở đây, người ta có những thùng rác với bốn màu khác nhau. Tận bốn! Nhờ ơn Bernard, tôi biết được là màu xanh lá để vứt thủy tinh, và màu xanh dương dành cho giấy và bìa. Còn màu đỏ và đen, bạn có cố đoán cũng chỉ như tôi thôi. Tôi đã nhìn thấy đủ thứ trên đời được vất vào đó khi đi loanh quanh. Có lần, ai đó còn bỏ vào một chiếc máy fax. Bernard là một giáo sư khoa học gì đó, và đã công tác ở khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả Dubai từ khi mà chưa ai biết tới nơi này. Rất chuẩn chỉnh ngoại hình, ông ấy đang mặc một bộ suit kèm cà-vạt để ăn trưa, và không thể thiếu, đang đọc một tờ Daily Express. Mary ở Khu Ruskin, người ngồi bàn kế, làm ông chú ý và hỏi ông bốn mươi sáu kilogram tương đương với bao nhiêu. Bernard gật đầu và nói vọng đến chỗ Elizabeth, “Bảy phẩy ba trọng lượng đá, hơn một chút.” Đó, Bernard của bạn đó. Elizabeth cảm ơn ông ấy và nói rằng nghe có vẻ hợp lý, và Bernard quay trở lại với trò chơi giải ô chữ của mình. Sau đó, tôi có tìm tòi lại về inch và centimet, và ít nhất là tôi đã đúng về các đơn vị này. Elizabeth quay trở lại với câu hỏi của bà ấy. Cô gái bị đâm bởi con dao bếp có thể sống được bao lâu? Tôi không để tâm lắm, đoán là cô ấy sẽ chết trong khoảng bốn mươi lăm phút. “Chà, khá sát, Joyce,” bà ấy nói, và rồi đặt một câu hỏi nữa. Nếu như cô gái kia có được sự hỗ trợ y tế thì sao? Không phải từ một bác sĩ, mà từ một ai đó có thể băng lại vết thương. Có thể là ai đó từng trong quân ngũ. Người nào đó đại loại vậy. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều vết đâm trong đời. Công việc của tôi không hẳn chỉ có xử lý mấy vụ bong gân cổ chân. Nên tôi đáp rằng, cô ấy sẽ không chết. Nhưng mà rõ là cô ấy đã chết. Chuyện hẳn không vui vẻ gì với cô gái đó, nhưng đúng ra thì vết thương khá dễ băng bó. Elizabeth gật gù, bảo rằng đó chính xác là những gì bà ấy đã nói với Ibrahim, mặc dù tôi lúc đó chưa biết Ibrahim. Như tôi đã nói, chuyện xảy ra vào vài tháng trước. Nhưng chuyện dường như chưa đủ để khiến Elizabeth hài lòng, và quan điểm của bà ấy là chính người bạn trai đã giết cô gái kia. Tôi biết rằng những chuyện như vậy vẫn thường xảy ra. Bạn hẳn đã từng đọc thấy những vụ na ná. Tôi cho rằng, trước khi chuyển tới đây, hẳn tôi sẽ nghĩ cuộc trò chuyện như thế này thật bất thường, nhưng thực ra nó khá là bình thường nếu như bạn đã quen với những người dân nơi này. Tuần trước, tôi đã gặp một anh chàng phát minh ra kem Mint Choc Chip, hoặc đó là những gì mà anh ta nói. Tôi chẳng có cách nào kiểm chứng. Tôi rất vui lòng giúp đỡ Elizabeth một chút theo cách của mình, vì vậy, tôi quyết định sẽ nhờ bà ấy một việc. Tôi hỏi liệu tôi có thể xem bức ảnh chụp cái xác. Chỉ vì nổi hứng chuyên môn một chút. Elizabeth cười rạng rỡ, theo cái cách mà người dân quanh đây sẽ nở nụ cười khi mà bạn hỏi xem bức ảnh chụp đứa cháu của họ trong buổi lễ tốt nghiệp. Bà rút một bản photocopy cỡ A4 khỏi tệp hồ sơ và đặt úp nó xuống, ngay trước mặt tôi và nói rằng tôi có thể giữ nó, vì tất cả bọn họ đều đã có một bản. Tôi cảm ơn sự tử tế của bà ấy, rồi bà ấy nói đừng khách sáo, nhưng rồi lại thắc mắc liệu có thể hỏi tôi thêm một câu cuối cùng. “Dĩ nhiên rồi,” tôi đáp. Rồi bà ấy nói, “Bà rảnh vào các hôm thứ Năm chứ?” Và đó, dù bạn có tin nổi hay không, là lần đầu tiên tôi nghe tới Thứ Năm. Hạ sĩ Donna De Freitas muốn có một khẩu súng. Cô ấy muốn được rượt đuổi những kẻ giết người hàng loạt vào một kho chứa bỏ hoang, hoàn thành nhiệm vụ một cách dứt khoát, dẫu cho trên vai cô có thêm một vết thương do đạn bắn. Có lẽ sau đó cô sẽ uống một ly whisky và tình tứ với cộng sự. Nhưng tới giờ, hai mươi sáu tuổi, và đang ăn trưa lúc 11:45 sáng, với bốn người hưu trí mà cô chỉ vừa mới gặp, Donna hiểu rằng cô còn phải cố gắng nhiều hơn mới có thể đạt được những điều cô muốn. Bên cạnh đó, cô cũng phải thừa nhận là hơn một tiếng vừa qua khá vui. Donna đã diễn thuyết bài phát biểu Những mẹo thực tiễn cho an ninh tại gia khá nhiều lần. Và hôm nay, vẫn là những khán giả già nua như thường lệ, phủ trùm chăn qua đầu gối, bánh quy miễn phí, và phía sau có những người ngủ gật một cách hạnh phúc. Lần nào cô cũng đưa ra cùng một lời khuyên. Tầm quan trọng tuyệt đối và không thể chối cãi của việc khóa cửa sổ, kiểm tra giấy tờ tùy thân của người lạ và không bao giờ cung cấp thông tin cá nhân cho những kẻ tiếp thị qua điện thoại. Hơn hết, sự hiện diện của cô ở đây được cho là sẽ giúp mọi người an tâm hơn trong thế giới đáng sợ này. Donna hiểu điều đó, và nó cũng giúp cô thoát khỏi đồn cảnh sát lẫn mớ công việc bàn giấy, vậy nên cô đã tình nguyện. Đồn cảnh sát Fairhaven giờ đây nhàm chán và buồn ngủ hơn những gì Donna từng biết trước kia. Nhưng dù sao thì, cô đã xuất hiện ở làng hưu trí Coopers Chase. Mọi thứ dường như vô hại. Tốt lành, không có rắc rối, yên bình, và trên đường lái xe tới đây, cô đã nhìn thấy một quán rượu khá ổn để dùng bữa trưa khi trở về. Vậy nên việc tóm những kẻ giết người hàng loạt trong những vụ rượt đuổi sẽ phải chờ khi khác thôi. “An ninh,” Donna bắt đầu nói, mặc dù điều mà cô thực sự đang suy nghĩ là có nên xăm gì đó lên người không. Một con cá heo ở vùng lưng? Hay như thế thì bình thường quá? Và có đau không nhỉ? Có lẽ, nhưng cô là cảnh sát cơ mà, sợ gì đau cơ chứ? “Chúng ta ngụ ý điều gì khi nói từ an ninh? Chà, tôi nghĩ từ này có những nghĩa khác nhau khi…” Một bàn tay giơ lên ở hàng ghế đầu. Điều này không thường diễn ra trong những buổi diễn thuyết của Donna, nhưng một khi xảy ra thì chẳng còn ai e ngại nữa. Một người phụ nữ độ tuổi tám mươi ăn mặc lịch sự muốn đưa ra quan điểm của mình. “Mọi người thân mến, tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều hy vọng đây không phải lại là một buổi trò chuyện về khóa cửa sổ.” Người phụ nữ nhìn xung quanh, nhận lấy những lời ủng hộ rì rầm. Tiếp theo là một quý ông đứng trong một cái khung nạng tập đi ở hàng ghế thứ hai. “Và làm ơn đừng nói về giấy tờ tùy thân, chúng tôi đều biết cả rồi. Anh tới từ đơn vị cung cấp gas à, hay thật ra anh là một tên trộm đấy? Chúng tôi đều đã nắm rõ, tôi hứa.” Một màn phát biểu tự do rộ lên. “Không còn hãng gas nữa đâu. Giờ phải là nhân viên điện lực,” một người đàn ông mặc suit kèm gi-lê lịch lãm lên tiếng. Người đàn ông ngồi kế bên, mặc quần đùi, đi dép xỏ ngón và mặc áo của West Ham United, nhân cơ hội này đứng lên và chĩa một ngón tay chỉ vào vô định, “Tất cả là do Thatcher, Ibrahim. Chúng ta đã từng sở hữu điện.” “Ôi thôi, ngồi xuống đi, Ron,” người phụ nữ ăn mặc lịch sự nói. Sau đó, bà nhìn Donna và nói thêm, “Rất xin lỗi về Ron,” với một cái lắc đầu chậm rãi. Mọi người tiếp tục ồn ã phát biểu. “Mà tên tội phạm nào mà không biết giả mạo giấy tờ tùy thân cơ chứ?” “Tôi bị đục thủy tinh thể. Chỉ cần cho tôi xem thẻ thư viện là tôi đã cho vào nhà rồi.” “Thậm chí bây giờ người ta còn chẳng kiểm tra công-tơ điện. Tất cả đều có trên web.” “Nó là điện toán đám mây, nàng à.” “Tôi sẽ rất hoan nghênh một tên trộm. Thật vui khi có một vị khách tới thăm.” Bất chợt bầu không khí trở nên yên lặng. Rồi một bản hòa tấu của những tiếng huýt vang lên khi một vài máy trợ thính được bật, trong khi vài cái khác chuyển về trạng thái tắt. Người phụ nữ lớn tuổi ở hàng ghế đầu lại tiếp tục dẫn dắt phong trào. “Vì thế… nhân tiện, tôi là Elizabeth… làm ơn đừng có lại nói về việc khóa cửa sổ và giấy tờ tùy thân nữa, và cũng không cần phải nhắc nhở về việc chúng tôi không được cung cấp mã PIN ngân hàng cho đám người Nigeria bên kia đầu dây điện thoại. Nếu như tôi vẫn được phép gọi họ là người Nigeria.” Donna De Freitas đã tập trung trở lại, nhưng nhận ra rằng cô không còn nghĩ về việc ăn trưa ở quán rượu hay những hình xăm nữa—giờ cô đang nghĩ về một khóa huấn luyện chống bạo động, hồi xa xưa tốt đẹp khi cô còn ở Nam London. “Vậy thì, chúng ta nên nói về cái gì?” Donna hỏi. “Tôi phải làm chuyện này ít nhất bốn mươi lăm phút nếu không sẽ không được nghỉ hết ca.” “Sự phân biệt giới tính ở cấp tổ chức trong lực lượng cảnh sát chẳng hạn?” Elizabeth gợi ý. “Tôi muốn nói về vụ xả súng phi pháp của Mark Duggan, bị chính quyền xử phạt và—“ “Ngồi xuống, Ron!” Vậy là bài diễn thuyết tiếp tục một cách vui vẻ và dễ chịu cho đến khi hết giờ. Donna được cảm ơn nồng nhiệt, được cho xem những bức ảnh của đám con cháu và sau đó được mời ở lại ăn trưa. Và thế là cô ấy đang ở đây, với món salad của mình, tại một tiệm ăn được mô tả trong thực đơn là một nhà hàng cao cấp đương đại. Mười hai giờ kém mười lăm là hơi sớm để dùng bữa trưa, nhưng sẽ thật chẳng lịch sự chút nào nếu từ chối lời mời. Cô còn để ý rằng, bốn người mời cô bữa này không chỉ gọi bữa trưa thịnh soạn mà còn mở thêm một chai rượu vang đỏ. “Bài nói thật tuyệt vời, Donna,” Elizabeth nói. “Chúng tôi rất thích.” Trong mắt Donna, Elizabeth giống như bà giáo viên khiến bạn sợ chết khiếp suốt cả năm nhưng sau đó lại cho bạn điểm A và khóc tiếc khi bạn rời đi. Có lẽ cảm giác đó đến từ chiếc áo khoác tweed của bà. “Thật là chói sáng, Donna,” Ron lên tiếng. “Tôi có thể gọi cháu là Donna chứ, cháu thân yêu?” “Ông có thể gọi là Donna, nhưng xin đừng gọi cháu là thân yêu,” Donna đáp. “Đúng đấy, cục cưng,” Ron đồng ý. “Nhớ rồi. Kể câu chuyện về người Ukraina với vé phạt đỗ xe và cái cưa máy, thì sao? Cháu nên buôn chút chuyện phiếm sau bữa ăn, một nghề ra tiền đấy. Tôi biết một người, cháu có muốn lấy số không?” Món salad rất ngon, Donna nghĩ thầm, và cô cũng không thường nghĩ vậy. “Tôi nghĩ tôi có thể trở thành một kẻ buôn lậu ma túy sành sỏi.” Người vừa phát biểu là Ibrahim, người trước đó đã nêu ý kiến về nhân viên điện lực. “Chỉ là vấn đề vận chuyển, lưu kho rồi xuất nhập hàng, đúng chứ? Còn có cả những trò cân đo, điều mà tôi rất thích, sự chính xác. Và họ có máy đếm tiền. Tất cả các trang thiết bị hiện đại. Cô đã bao giờ bắt được một tay buôn ma túy chưa, hạ sĩ De Freitas?” “Chưa ạ,” Donna thừa nhận. “Nhưng đây là dự định của cháu.” “Nhưng tôi nói đúng về chuyện có máy đếm tiền chứ?” Ibrahim hỏi. “Đúng vậy, có máy đếm tiền,” Donna đáp. “Tuyệt vời,” Ibrahim reo lên, và uống cạn ly rượu vang. “Chúng tôi nhanh chán lắm,” Elizabeth nói chen vào, cũng uống cạn ly rượu. “Ôi, đã quá đủ với mấy cái khóa cửa sổ, nữ hạ sĩ De Freitas à.” “Ngày nay người ta chỉ gọi là hạ sĩ thôi,” Donna nói. “Tôi hiểu,” Elizabeth gật gù, mím môi lại. “Và nếu tôi vẫn muốn gọi là nữ hạ sĩ thì sao? Sẽ có lệnh bắt giữ tôi ư?” “Không, nhưng cháu sẽ ít thích bà đi một tí,” Donna trả lời. “Bởi gọi cho đúng là một điều rất đơn giản, và nó thể hiện là bà tôn trọng cháu.” “Chà! Trúng phóc. Được rồi,” Elizabeth nói, và thôi mím môi. “Cảm ơn bà,” Donna nói. “Hãy đoán thử tôi bao nhiêu tuổi?” Ibrahim đột nhiên thách đố. Donna chần chừ. Ibrahim có một bộ suit rất đẹp, và ông ấy có làn da hoàn hảo. Mùi hương tỏa ra từ ông cũng rất thơm. Chiếc khăn tay được gấp một cách nghệ thuật và nhét trong túi áo ngực. Tóc hơi thưa, nhưng vẫn còn đó. Không bị phệ bụng, và không có nọng cằm. Và đằng sau tất cả những thứ đó? Hừmmmm. Donna nhìn vào tay Ibrahim. Sẽ luôn luôn có dấu hiệu nào đó. “Tám mươi?” cô đánh liều. Cô thấy Ibrahim tiu nghỉu đi. “Đúng vậy, nhưng tôi trông trẻ hơn. Tôi trông chỉ như khoảng bảy mươi tư thôi. Mọi người đều đồng ý là vậy. Bí quyết là tập pilates.” “Còn câu chuyện của bà là gì, Joyce?” Donna hỏi thành viên thứ tư của nhóm, một phụ nữ nhỏ nhắn, tóc trắng trong chiếc áo cánh màu hoa oải hương và cardigan màu hoa cà. Bà ấy đang ngồi rất vui vẻ, lắng nghe tất cả. Miệng ngậm chặt, nhưng mắt sáng bừng. Giống như một chú chim lặng lẽ, không ngừng tìm kiếm thứ gì đó lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. “Tôi ư?” Joyce nói. “Chẳng có câu chuyện nào cả. Tôi làm y tá, rồi làm mẹ, rồi lại làm y tá. Tôi e là chẳng có gì thú vị để kể cả.” Elizabeth khịt mũi. “Đừng để Joyce lòe, hạ sĩ De Freitas. Bà ấy là tuýp người hoàn thành mọi thứ.” “Tôi chỉ là một người có tổ chức thôi,” Joyce đáp. “Cách sống này giờ đã lỗi thời lắm rồi. Nếu tôi nói là mình sẽ tập zumba, thì tôi sẽ tập zumba. Tôi là người như vậy đấy. Con gái tôi mới là người thú vị trong gia đình. Nó điều hành một quỹ đầu cơ, nếu cô biết đó là cái gì.” “Không hẳn ạ,” Donna thừa nhận. “Tôi cũng chẳng hiểu,” Joyce đồng tình. “Tập zumba trước pilates,” Ibrahim chen vào. “Tôi không thích tập cả hai cùng lúc. Chúng tác động trái ngược nhau tới những nhóm cơ chính.” Có một câu hỏi đã luẩn quẩn trong đầu Donna suốt bữa trưa. “Vậy thì, nếu mọi người không phiền thì, cháu biết tất cả mọi người đều sống ở Coopers Chase, nhưng làm thế nào mà bốn người lại trở thành bạn của nhau?” “Bạn bè ư?” Elizabeth có vẻ thích thú. “Ồ, chúng ta không phải là bạn, cháu thân yêu.” Ron cười khùng khục. “Chúa ơi, thân mến, không, chúng ta không phải là bạn. Bà có muốn uống thêm không, Liz?” Elizabeth gật đầu và Ron rót đầy. Họ đã uống tới chai thứ hai. Bây giờ là 12 giờ 15. Ibrahim đồng ý. “Tôi không nghĩ bạn bè là từ chính xác. Chúng tôi đáng ra chẳng giao lưu với nhau đâu, vì sở thích của chúng tôi khá khác biệt. Tôi đoán là mình khá thích Ron, nhưng ông ấy có thể hơi khó tính.” Ron gật đầu, “Tôi rất khó tính.” “Và cách cư xử của Elizabeth thì thật là khó mà chấp nhận.” Elizabeth gật đầu, “Tôi e là đúng vậy. Tôi vẫn luôn là một người cá tính. Từ hồi đi học.” “Tôi thích Joyce, chắc vậy. Tôi nghĩ là tất cả mọi người đều thích Joyce,” Ibrahim nói. Ron và Elizabeth lại gật đầu bày tỏ sự đồng tình. “Cảm ơn, chắc rồi,” Joyce đáp, chơi trò đuổi bắt với mấy hạt đậu quanh cái đĩa. “Mọi người có nghĩ là người ta nên phát minh ra những hạt đậu dẹp không?” Donna cố gắng xua đi sự bối rối của mình. “Vậy nếu mọi người không phải là bạn bè, vậy thì là gì?” Donna nhìn thấy Joyce ngước lên, và hất đầu về phía những người khác, cái băng nhóm khác thường này. “Chà,” Joyce nói. “Thứ nhất, chúng tôi là bạn bè, dĩ nhiên rồi, mấy người này hơi bị lề mề trong việc ý thức được điều đó thôi. Và điều thứ hai, nếu nó chưa được đề cập trong lời mời cô đến ăn trưa hôm nay, hạ sĩ De Freitas, đó là do tôi vô ý. Chúng tôi là Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm.” Đôi mắt Elizabeth lóng lánh bởi rượu vang đỏ, Ron đang gãi gãi hình xăm West Ham trên cổ và Ibrahim đang đánh bóng cái khuy manchette vốn đã sáng bóng. Nhà hàng đông kín khách xung quanh họ, Donna không phải người đầu tiên tới Coopers Chase và nghĩ rằng đây không phải một nơi quá tệ để sinh sống. Cô thèm muốn chết một ly rượu vang và có thể nghỉ làm buổi chiều. “Ngoài ra, tôi cũng bơi mỗi ngày,” Ibrahim kết luận. “Nó giúp cho da được săn chắc.” Nơi này là thế quái nào vậy? Nếu bạn có ý định đi đường A21 để ra khỏi Fairhaven và đi vào trung tâm của Kentish Weald, cuối cùng bạn sẽ đi qua một bốt điện thoại cũ ở một khúc cua bên trái, và nó vẫn còn hoạt động. Đi tiếp khoảng một trăm thước cho đến khi bạn nhìn thấy biển báo Whitechurch, Abbots Hatch và Lents Hill, sau đó rẽ phải. Đi qua Lents Hill, băng qua Blue Dragon và cửa hàng bán đồ trang trại với mô hình quả trứng lớn bên ngoài, cho đến khi bạn đến cây cầu đá nhỏ bắc qua Robertsmere. Về lý thuyết mà nói thì Robertsmere là một con sông, nhưng đừng nhầm tưởng và mong đợi bất cứ điều gì vĩ đại hay to lớn ở nó. Rẽ phải theo con đường một lần ngay bên kia cầu. Bạn sẽ nghĩ rằng mình đang đi sai đường, nhưng lối này nhanh hơn so với con đường thông thường, và khung cảnh cũng rất nên thơ nếu bạn thích những hàng rào bằng cây bụi lốm đốm những vạt nắng. Cuối cùng, con đường mở rộng, và lấp ló giữa những tán cây cao, bạn sẽ bắt đầu thấy những dấu hiệu của sự sống đang trỗi dậy trên vùng đất đồi phía bên trái của bạn. Ở phía trước, bạn sẽ thấy một bến xe bus nhỏ, được ốp gỗ, cũng vẫn hoạt động, nếu như việc mỗi chiều có đúng một chuyến bus chạy trong ngày cũng tính là có hoạt động. Ngay trước khi đến bến xe bus, bạn sẽ thấy biển báo lối vào Coopers Chase ở bên trái. Người ta bắt đầu xây dựng Coopers Chase khoảng mười năm trước, khi Giáo hội Công giáo bán mảnh đất này. Những cư dân đầu tiên, trong đó có Ron, đã chuyển đến sau ba năm. Nó được gọi là Ngôi làng Hưu trí Sang trọng Đầu tiên của Anh quốc, mặc dù theo Ibrahim, người đã kiểm tra thông tin, nó thực ra là ngôi làng thứ bảy. Hiện ở đây có khoảng ba trăm cư dân. Bạn không thể chuyển đến đây cho đến khi bạn trên sáu mươi lăm tuổi. Và ở đây có rượu vang được giao bằng những chiếc xe tải giao hàng của siêu thị Waitrose, những chai rượu va vào nhau kêu leng keng mỗi lần xe đi qua những tấm lưới gia súc. Tu viện cũ là trung tâm của Coopers Chase, với ba khu nhà hiện đại mọc lên theo hình xoắn ốc từ điểm chính giữa này. Trong hơn một trăm năm, tu viện là một tòa nhà kín mít, chứa đầy những thói quen hối hả khô khan, cùng với sự tĩnh lặng của những lời cầu nguyện được dâng lên và được đáp lại. Bước dọc theo hành lang tối, bạn sẽ thấy một số phụ nữ hài lòng với sự trầm lắng của mình, một số phụ nữ sợ hãi với thế giới xoay chuyển chóng mặt, một số phụ nữ ẩn mình, một số phụ nữ cố chứng tỏ một quan điểm mơ hồ đã bị lãng quên từ lâu, và một số phụ nữ vui lòng vì được phục vụ cho một mục đích cao cả. Bạn sẽ tìm thấy những chiếc giường đơn, được sắp xếp trong ký túc xá; những bàn ăn dài, thấp; một nhà nguyện tối tăm và yên tĩnh, đến mức bạn thề rằng bạn nghe thấy tiếng thở của Chúa. Nói tóm lại, bạn sẽ thấy các vị nữ tu của Nhà thờ Thần thánh, một đội ngũ sẽ không bao giờ từ bỏ bạn, cho bạn cái ăn, cái mặc, tiếp tục khát cầu và trân trọng bạn. Tất cả những gì họ cần từ bạn là một đời dâng hiến, và vì sẽ luôn có người đứng ra yêu cầu điều đó, nên luôn có những người tình nguyện. Và rồi một ngày, bạn sẽ có chuyến hành trình ngắn lên ngọn đồi, xuyên qua đường hầm của những tán cây, tiến đến Khu vườn của Sự An nghỉ Vĩnh hằng. Những cánh cổng sắt và những bức tường đá thấp của Khu vườn nhìn bao quát tu viện và vẻ đẹp bất tận của Kentish High Weald phía xa xa, cơ thể của bạn nằm trên một chiếc giường đơn khác, bên dưới một phiến đá giản dị, bên cạnh Sơ Margaret và Sơ Mary của các thế hệ trước bạn. Nếu bạn từng có những ước mơ thì giờ đây chúng sẽ trải dài trên những ngọn đồi xanh tươi, và nếu bạn có bí mật thì chúng sẽ được giữ an toàn bên trong bốn bức tường của tu viện mãi mãi. Chà, chính xác hơn, chỉ là ba bức tường, vì mặt quay về phía tây của tu viện giờ đây đã được lắp kính hoàn toàn để phù hợp với khu hồ bơi của cư dân. Nó nhìn ra sân chơi bóng gỗ, và xa hơn là bãi đậu xe của du khách, các ô đỗ xe được phân bổ dày đặc đến mức Ủy ban Đỗ xe là tổ chức quyền lực nhất tại Coopers Chase. Bên cạnh hồ bơi là một hồ trị liệu viêm khớp cỡ nhỏ, trông giống như một bể sục. Phần lớn lý do khiến nó giống đến vậy là bởi nó chính là một bể sục. Bất cứ ai được chủ sở hữu, Ian Ventham, dẫn đi tham quan xung quanh, thì sau đó sẽ được chiêm ngưỡng phòng tắm hơi. Ian sẽ luôn hé mở cánh cửa và nói, “Trời ơi, chỗ này như một phòng tắm hơi vậy.” Đó chính là Ian. Tiếp theo là đi thang máy lên các phòng giải trí khác. Có các phòng tập thể dục, nơi cư dân có thể vui vẻ nhảy điệu Zumba cùng các bóng ma của những chiếc giường đơn. Sau đó, có Phòng Ghép tranh Jigsaw dành cho các hoạt động nhẹ nhàng hơn và các hội nhóm. Tại đây có thư viện và sảnh khách cho các cuộc họp mặt ngày càng đông người tham dự và nảy sinh nhiều tranh cãi, hoặc để xem bóng đá trên TV màn hình phẳng. Sau đó lại đi xuống tầng trệt, nơi có những chiếc bàn dài và thấp của tu viện, mà hiện là nhà hàng cao cấp đương đại. Ở ngay trung tâm của ngôi làng, liền với tu viện, là căn nhà nguyện cũ. Bên ngoài nhà nguyện trát vữa màu kem nhạt, tạo nên phong cách Địa Trung Hải, đối lập với các gam màu tối dữ dội kiểu Gothic của tu viện. Nhà nguyện vẫn còn nguyên vẹn và không thay đổi, đó là do một trong số ít các giao ước được quy định bởi những người đại diện cho các nữ tu của Nhà thờ Thần thánh, khi họ bán nơi này mười năm trước. Các cư dân thích sử dụng nhà nguyện. Đây là nơi có những bóng ma, nơi những thói quen vẫn hối hả và nơi những lời thì thầm đã chìm vào trong các phiến đá. Đó là nơi khiến bạn cảm thấy mình là một phần của điều gì đó chậm rãi và dịu dàng hơn. Ian Ventham đang xem xét những lỗ hổng trong hợp đồng, để ông ta có thể xây sửa nhà nguyện thành tám căn hộ nữa. Ngay cạnh phía bên kia của tu viện—cũng chính là lý do mà tu viện tồn tại—là Willows. Willows giờ đây là viện dưỡng lão của làng. Nó đã được các Sơ thành lập vào năm 1841 như một bệnh viện tự nguyện, chăm sóc một cách ân cần cho những người bệnh và những người khốn khổ không còn sự lựa chọn nào khác. Trong những năm cuối cùng của thế kỷ trước, nó đã trở thành một nhà dưỡng lão, cho đến khi luật pháp vào những năm 1980 khiến những cánh cửa cuối cùng cũng phải đóng lại. Sau đó, tu viện chỉ đơn giản trở thành một phòng chờ cho các vị khách, và khi nữ tu cuối cùng qua đời vào năm 2005, Giáo hội không muốn lãng phí thời gian đổ tiền vào nữa và rao bán toàn bộ nơi này như một lô hàng thanh lý. Tất cả sự phát triển này thu gọn trong mười hai mẫu đất rừng và sườn đồi rộng mở tuyệt đẹp. Có hai hồ nước nhỏ, một là thật, còn một hồ là do nhà thầu xây dựng của Ian Ventham tên Tony Curran và nhóm của anh ta tạo ra. Nhiều con vịt và ngỗng đã coi Coopers Chase là nhà dường như thích cái hồ nhân tạo hơn. Vẫn còn những con cừu được chăn ở trên đỉnh đồi, nơi sạch bóng rừng cây, và trên đồng cỏ ven hồ là một đàn hai mươi con lạc đà. Ian Ventham vốn ban đầu chỉ mua hai con để các bức ảnh quảng cáo bán hàng trông đặc sắc hơn. Tóm lại, tất cả những thứ đó tạo nên nơi này. JOYCE Lần đầu tiên tôi viết nhật ký đã cách đây nhiều năm, tôi vừa xem lại nó và tôi không nghĩ rằng nó có thể khiến bạn hứng thú. Trừ khi bạn quan tâm đến Haywards Heath vào những năm 1970, điều mà tôi cho rằng bạn không quan tâm. Nói vậy không có ý xúc phạm đến Haywards Heath hay những năm 1970, tôi thích cả hai điều này vào thời điểm đó. Nhưng vài ngày trước, sau khi gặp Elizabeth, tôi đã đến buổi họp mặt đầu tiên của mình ở Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm, và tôi nghĩ rằng viết về buổi họp có lẽ sẽ rất thú vị. Giống như ai đó đã viết nhật ký về Holmes và Watson ấy? Mọi người thích mấy vụ án giết người, bất kể họ có dám thừa nhận điều đó hay không, vậy nên tôi sẽ thử xem sao. Tôi biết Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm sẽ có Elizabeth, Ibrahim Arif, người sống ở Wordsworth, với cái căn hộ có ban công bao quanh các mặt, và Ron Ritchie. Vâng, chính là Ron Ritchie đó. Vậy là cũng có một điều thú vị khác. Bây giờ, khi tôi biết rõ ông ấy hơn một chút, ánh hào quang từ ông đã giảm đi phần nào, nhưng dù là vậy cũng không kém phần gây hứng thú. Penny Gray cũng từng là thành viên của câu lạc bộ, nhưng bà ấy hiện đang ở Willows, đó là viện dưỡng lão. Nghĩ lại, tôi thật vừa khéo. Tôi cho rằng họ trống một chỗ, và tôi là Penny mới. Dù vậy, tôi đã rất lo lắng vào lúc đó. Tôi nhớ là vậy. Tôi mang theo một chai rượu ngon (8,99 bảng, để bạn hình dung), và khi tôi bước vào, ba người họ đã ở trong Phòng Ghép tranh Jigsaw, đặt những bức ảnh trên bàn. Elizabeth đã thành lập Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm cùng với Penny. Penny từng là thanh tra của Cảnh sát Hạt Kent trong nhiều năm, và bà ấy sẽ mang theo hồ sơ của những vụ án giết người chưa được giải quyết. Bà ấy đáng ra không nên có những tập hồ sơ ấy, nhưng ai mà biết được? Sau một độ tuổi nhất định, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn thích. Không ai khiển trách bạn, ngoại trừ các bác sĩ và con cái của bạn. Tôi không nên nói về công việc mà Elizabeth từng làm kiếm sống, mặc dù đôi khi bà ấy vẫn tự nói về điều đó. Chỉ có thể nói là, những vụ giết người và điều tra và bất kể thứ gì bạn cảm thấy xa lạ, thì đều thu hút sự quan tâm của bà. Elizabeth và Penny sẽ xem qua từng hồ sơ, từng dòng, nghiên cứu từng bức ảnh, đọc mọi lời khai của nhân chứng, tìm kiếm bất cứ điều gì đã bị bỏ sót. Họ cảm thấy khó chịu khi nghĩ rằng có những kẻ tội lỗi vẫn vui vẻ tiếp tục cuộc sống của chúng. Ngồi trong vườn, chơi một ván sudoku, biết rằng chúng đã thoát khỏi tội danh giết người. Hơn nữa, tôi nghĩ Penny và Elizabeth đang tận hưởng việc này. Một vài ly rượu vang và một câu đố bí ẩn cần giải. Một hoạt động rất xã giao, nhưng cũng rất máu me. Đó là một thú vui hay ho. Họ sẽ gặp nhau vào thứ Năm hằng tuần (đó là lý do của cái tên). Chọn ngày thứ Năm bởi hôm đó Phòng Ghép tranh sẽ còn trống hai giờ đồng hồ, giữa giờ Lịch sử Nghệ thuật và Tiếng Pháp Hội thoại. Vậy nên họ đã đặt trước căn phòng, và vẫn luôn đặt trước cho mỗi thứ Năm, dưới cái tên Thảo luận về Opera Nhật Bản. Cái tên này đảm bảo cho họ luôn được riêng tư, vì sẽ chẳng có ai mò tới nghe cái chủ đề đó. Cả hai người đều có thể nhờ vả đến những sự giúp đỡ nhất định, vì những lý do khác nhau, và đủ loại người đã được gọi đến để trò chuyện thân thiện trong nhiều năm. Các nhân viên pháp y, kế toán và thẩm phán, người tỉa cây, người chăn nuôi ngựa, người làm thủy tinh—tất cả họ đều đã đến Phòng Ghép tranh. Bất cứ ai mà Elizabeth và Penny nghĩ rằng có thể giúp họ tìm hiểu một số nghi ngờ hoặc những thứ khác. Ibrahim đã sớm gia nhập với họ. Ông ấy từng chơi bài bridge với Penny và đã giúp họ một hoặc hai lần bằng kỹ năng của mình. Ông là một bác sĩ tâm lý. Hoặc từng là. Hoặc giờ vẫn là, tôi không chắc lắm. Khi gặp ông ấy lần đầu tiên, bạn hoàn toàn không thể nhận ra, nhưng một khi đã quen với ông ấy, bạn sẽ nhận thấy ngay. Tôi sẽ không bao giờ sử dụng mấy cái liệu pháp tâm lý, bởi ai lại muốn gỡ bỏ tất cả các nút thắt ẩn mật nhất của bản thân chứ? Thôi cảm ơn, không đáng để liều. Con gái tôi, Joanna, thì lại thuê một chuyên gia trị liệu, mặc dù bạn sẽ rất khó hiểu lý do tại sao, nếu bạn nhìn thấy ngôi nhà của con bé to cỡ nào. Dù thế nào thì Ibrahim cũng không còn chơi bridge nữa, tôi thấy thật đáng tiếc về điều đó. Ron đã tự mời chính mình tham gia, điều này sẽ không làm bạn ngạc nhiên. Ông ấy chưa bao giờ tin vào cái chủ đề Opera Nhật Bản, và ông bước vào phòng Ghép tranh vào một ngày thứ Năm đẹp trời, muốn biết điều gì đang diễn ra. Elizabeth ngưỡng mộ sự nghi ngờ đó hơn tất thảy và mời Ron xem qua hồ sơ của một người dẫn đầu đội hướng đạo sinh, người này được tìm thấy bị thiêu chết vào năm 1982, trong khu rừng ngay gần A27. Bà ấy sớm nhận ra sức mạnh then chốt của Ron, cụ thể là ông ấy không bao giờ tin một lời nào mà bất cứ ai nói với mình. Elizabeth nói rằng, khi đọc hồ sơ của cảnh sát với những hiểu biết nhất định rằng cảnh sát đang nói dối, thì bạn sẽ đạt được những hiệu quả không ngờ. Nhân tiện, nó được gọi là Phòng Ghép tranh, bởi đây là nơi hoàn thành các bộ tranh ghép hình lớn, trên một chiếc bàn gỗ dốc nhẹ ở giữa phòng. Khi tôi lần đầu tiên bước vào, có một bức tranh hai nghìn mảnh ghép của bến cảng Whitstable, thiếu một mảng bầu trời. Tôi đã từng đến Whitstable, chỉ là chuyến đi trong ngày thôi, nhưng tôi thực sự không thể hiểu được vì sao ở đó lại nhộn nhịp tới vậy. Sau khi bạn đã mua hàu, không có điểm mua sắm nào khác thực sự đáng kể. Dù sao thì, Ibrahim đã đặt một tấm nhựa dày trong suốt lên trên bức tranh ghép hình, và đây là nơi ông ấy, Elizabeth và Ron đang đặt những bức ảnh khám nghiệm tử thi của cô gái tội nghiệp. Người mà Elizabeth nghĩ rằng đã bị giết bởi bạn trai của cô. Người bạn trai này đã rất cay cú khi bị cho giải ngũ vì vấn đề sức khỏe, nhưng ai mà chẳng có vấn đề gì đó, phải không? Tất cả chúng ta đều mang trong lòng một câu chuyện buồn đau thổn thức, nhưng không phải tất cả chúng ta đều đi loanh quanh để giết người. Elizabeth bảo tôi đóng cửa lại và đến xem vài bức ảnh. Ibrahim tự giới thiệu, bắt tay tôi và bảo với tôi là chỗ này có bánh quy. Ông ấy hướng dẫn rằng hộp bánh quy có hai tầng, nhưng họ luôn ăn hết lớp trên cùng rồi mới chén tới lớp bánh bên dưới. Tôi đáp lại rằng ông ấy đang truyền giáo cho một người đã theo đạo sẵn rồi đấy. Ron cầm lấy chai rượu của tôi và đặt nó bên cạnh chỗ bánh quy. Ông gật gù khi quan sát nhãn chai và nhận xét rằng nó là một chai vang trắng. Sau đó ông ấy hôn lên má tôi, khiến tôi phải ngừng để suy nghĩ. Tôi biết bạn có thể nghĩ rằng một nụ hôn trên má là bình thường, nhưng từ những người đàn ông ở độ tuổi bảy mươi thì không. Ở độ tuổi ấy thì những người đàn ông duy nhất hôn lên má bạn là con rể bạn hoặc những người như thế. Vì vậy, tôi đã coi Ron là một tay đào hoa. Tôi phát hiện ra nhà lãnh đạo công đoàn trứ danh của vùng, Ron Ritchie, sống trong làng, khi ông ta và John—chồng của Penny, chăm sóc cho một con cáo bị thương khỏe mạnh trở lại, rồi gọi nó là Scargill. Câu chuyện đã xuất hiện trong bản tin làng khi tôi mới đến. John từng là bác sĩ thú y và Ron, chà, tôi ngờ rằng John đã lo luôn công việc chăm sóc và Ron chỉ đơn giản là làm nhiệm vụ đặt tên. Nhân tiện, bản tin được gọi là Săn tin vùng Chase, một cách chơi chữ. Tất cả chúng tôi xúm quanh tấm ảnh chụp khám nghiệm tử thi. Cô gái tội nghiệp, với vết thương mà lẽ ra không bao giờ giết chết cô ấy, kể cả từ những ngày xửa xưa. Người bạn trai đã tẩu thoát khỏi xe của đội Penny, ngay trên đường tới đồn cảnh sát để thẩm vấn, và không ai nhìn thấy gã kể từ đó. Gã ta cũng đã tấn công Penny vì bà cố ngăn hắn lại. Không có gì bất ngờ. Một khi đã đánh phụ nữ, sẽ có lần tiếp theo. Ngay cả khi gã không chạy trốn, tôi cho rằng gã ta cũng sẽ thoát tội. Tôi biết bạn vẫn đọc tin về những điều này suốt, nhưng hồi đó thì mấy vụ như thế này được xử trắng án thậm chí còn nhiều tệ hơn. Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm không sinh ra để đưa gã bạn trai đó ra trước công lý một cách thần kỳ, tôi nghĩ rằng mọi người đều hiểu điều đó. Penny và Elizabeth đã giải quyết đủ loại án để tự thỏa mãn bản thân, nhưng cũng chỉ làm được tới vậy mà thôi. Vì vậy, tôi nghĩ bạn có thể nói rằng, Penny và Elizabeth không bao giờ thực sự đạt được mong muốn của họ. Tất cả những kẻ sát nhân đó vẫn không bị trừng phạt, tất cả vẫn nhởn nhơ bên ngoài, ngồi nghe dự báo thời tiết hàng hải ở đâu đó. Tôi e rằng những kẻ ấy đã thoát tội, như nhiều kẻ khác. Bạn càng lớn tuổi, bạn càng phải đối mặt với sự thật ấy. Dù sao, tôi chỉ đang ra vẻ triết học, điều này sẽ không giúp chúng ta đi đến đâu. Thứ Năm tuần trước là lần đầu tiên đông đủ bốn người chúng tôi. Elizabeth, Ibrahim, Ron và tôi. Và, như tôi nói, chuyện ấy có vẻ diễn ra rất tự nhiên. Như thể tôi đang hoàn thiện bức tranh ghép của họ một lần nữa. Giờ thì tôi sẽ để cuốn nhật ký sang một bên. Có một buổi gặp mặt trọng đại trong làng vào ngày mai. Tôi giúp chuẩn bị ghế ngồi cho mấy dịp kiểu này. Tôi tình nguyện, bởi vì (a) nó giúp tôi có vẻ là một người hữu ích và (b) nó cho phép tôi được ưu tiên lựa đồ trước ở quầy giải khát. Buổi gặp mặt là cuộc tham vấn về một bước phát triển mới tại Coopers Chase. Ian Ventham, ông chủ lớn, sẽ nói chuyện với chúng tôi. Tôi đang cố gắng trung thực hết mức có thể, vì vậy tôi hy vọng bạn không phiền, khi tôi nói rằng tôi chẳng ưa gì ông ta. Ông ta là tập hợp của những hậu quả có thể xảy ra với một người đàn ông nếu bạn để anh ta thích làm gì thì làm. Đã có vài lời xôn xao về sự phát triển mới này, bởi người ta đang chặt cây và di dời một nghĩa địa, và có tin đồn về các turbine gió. Ron đang mong đợi được gây ra một chút náo động, và tôi rất mong đợi được nhìn thấy ông ta làm điều đó. Từ bây giờ, tôi hứa sẽ cố gắng viết một chút thông tin mỗi ngày. Tôi hy vọng là sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Cửa hàng Waitrose ở Tunbridge Wells có một quầy cà phê. Ian Ventham đỗ chiếc Range Rover của mình vào ô trống cuối cùng dành cho người khuyết tật phía bên ngoài, không phải vì ông ta bị khuyết tật, mà vì nó gần cửa nhất. Bước vào, ông nhìn thấy Bogdan bên cửa sổ. Ian nợ Bogdan bốn ngàn bảng. Ông ta đã chây ì một thời gian, với hy vọng rằng Bogdan sẽ bị tống khứ khỏi đất nước, nhưng cho đến nay, may mắn đó vẫn chưa đến. Dù sao, bây giờ ông đã có một công việc thực sự dành cho anh ta, nên chắc mọi việc sẽ đâu vào đấy cả. Ông vẫy tay với gã đàn ông người Ba Lan và tiến về quầy. Ông lướt nhìn bảng đen, tìm một ly cà phê. “Tất cả cà phê của cô đều là bình đẳng thương mại à?” “Vâng, tất cả đều là Thương mại Bình đẳng,” người phụ nữ trẻ phục vụ mỉm cười. “Chán thật,” Ian nói. Ông ấy không muốn phải trả thêm mười lăm xu để giúp một người nào đó mà ông ấy sẽ không bao giờ gặp ở một đất nước mà ông ấy sẽ không bao giờ đến. “Vậy cho tôi một tách trà. Với sữa hạnh nhân.” Bogdan không phải là nỗi lo lắng lớn nhất của Ian ngày hôm đó. Nếu cuối cùng ông phải trả tiền cho anh ta, thì đành chấp nhận thôi. Nỗi lo lớn nhất của Ian là bị Tony Curran giết. Ian bưng cốc trà ra bàn, quan sát bất cứ ai trên sáu mươi tuổi trong lúc ông bước đi. Hơn sáu mươi tuổi và làm việc ở Waitrose? Cùng lắm là chỉ còn sống được mười năm, ông nghĩ thầm. Ông ấy ước mình đã mang theo một số tài liệu quảng cáo. Ian sẽ đối phó với Tony Curran khi nào chuyện tới, nhưng ngay bây giờ, ông ấy phải đối phó với Bogdan. Tin tốt là Bogdan không muốn giết ông ta. Ian ngồi xuống. “Có chuyện gì mà cứ ầm ĩ với hai ngàn bảng vậy, Bogdan?” Ian hỏi. Bogdan đang uống từ một chai Lilt hai lít mà anh ta đã mang trộm vào. “Là bốn ngàn. Giá khá rẻ để lát lại một bể bơi. Tôi không rõ ông có biết điều đó không?” “Chỉ rẻ nếu cậu hoàn thành tốt công việc, Bogdan,” Ian nói. “Lớp vữa bị đổi màu. Xem này. Tôi đã yêu cầu màu trắng san hô.” Ian lấy điện thoại ra, lướt tìm một bức ảnh về hồ bơi mới của ông ấy và cho Bogdan xem. “Không đúng, đó là hiệu ứng màu ảnh, hãy bỏ hiệu ứng đi.” Bogdan nhấn một nút và hình ảnh ngay lập tức sáng lên. “Màu trắng san hô. Ông biết mà.” Ian gật đầu. Dù sao cũng đáng để thử. Đôi khi bạn phải biết khi nào nên trả hết nợ. Ian lấy trong túi ra một chiếc phong bì. “Được rồi, Bogdan, huề cả làng. Đây là ba ngàn. Cậu đồng ý chứ?” Bogdan trông mệt mỏi. “Ba ngàn, thôi được rồi.” Ian đưa phong bì sang. “Thực tế là hai ngàn tám trăm, nhưng chừng đó cũng là gần đủ rồi, giữa những người bạn thì không nên tính toán chi li quá. Bây giờ, tôi muốn hỏi cậu về một số thứ.” “Chắc chắn rồi,” Bogdan nói, bỏ tiền vào túi. “Cậu có vẻ là một chàng trai sáng dạ, Bogdan?” Bogdan nhún vai. “Chà, tôi nói thành thạo tiếng Ba Lan.” “Bất cứ khi nào tôi yêu cầu cậu làm điều gì đó, nó đều được hoàn thành, khá tốt và khá rẻ,” Ian nói. “Cảm ơn ông,” Bogdan đáp lời. “Vì vậy, tôi chỉ đang tự hỏi. Cậu có nghĩ là mình đã sẵn sàng cho điều lớn lao hơn?” Bogdan nói: “Chắc chắn rồi.” Ian nói: “Lớn hơn rất nhiều?” “Chắc chắn rồi,” Bogdan nói. “Lớn cũng giống như nhỏ. Chỉ là nhiều hơn một chút.” “Tốt lắm anh bạn,” Ian nói và uống cạn cốc trà. “Tôi đang định sa thải Tony Curran. Và tôi cần ai đó bước lên và thế chỗ anh ta. Cậu quan tâm chứ?” Bogdan khẽ huýt sáo. Ian hỏi: “Quá sức cậu ư?” Bogdan lắc đầu. “Không, không quá sức đối với tôi, tôi có thể làm được việc đó. Tôi chỉ nghĩ rằng nếu ông sa thải Tony, có thể anh ta sẽ giết chết ông.” Ian gật đầu. “Tôi biết. Nhưng hãy để tôi lo chuyện đó. Và ngày mai, công việc ấy là của cậu.” Bogdan nói: “Nếu ông còn sống, thì chắc chắn rồi.” Đã tới lúc phải đi. Ian bắt tay Bogdan và chuyển suy nghĩ của mình sang việc báo tin xấu cho Tony Curran. Có một buổi gặp mặt tư vấn ở Coopers Chase, và ông ấy phải lắng nghe mấy người già cả lảm nhảm. Gật đầu lịch sự, đeo cà-vạt, gọi họ bằng tên. Mọi người thích những thứ kiểu như thế. Ông đã mời Tony đi cùng, vì vậy ông có thể sa thải anh ta ngay sau đó. Ngoài trời, với nhân chứng xung quanh. Có 10% khả năng Tony sẽ giết ông ngay tại chỗ. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là 90% khả năng anh ta sẽ không làm vậy, và với số tiền mà Ian sẽ kiếm được từ chuyện này, ông ta cảm thấy thoải mái với tỷ lệ cược. Rủi ro và phần thưởng xứng đáng. Khi Ian ra ngoài, ông ta nghe thấy tiếng bíp và nhìn thấy một người phụ nữ trên chiếc xe điện ba bánh đang giận dữ chỉ gậy vào chiếc Range Rover của ông. Tôi đã tới trước, cưng à, Ian thầm nghĩ khi ông ta bước vào xe. Một số người bị làm sao vậy nhỉ? Khi lái xe, Ian nghe một cuốn sách nói, chủ đề về động lực, có tên Giết hay bị giết—Sử dụng các bài học Chiến trường trong Phòng họp. Rõ ràng nó được viết bởi một người nào đó trong Lực lượng Đặc nhiệm Israel, và nó đã được một huấn luyện viên cá nhân tại Virgin Active ở Tunbridge Wells giới thiệu cho ông. Ian không chắc liệu tay huấn luyện viên đấy có phải là người Israel hay không, nhưng nhìn bề ngoài thì có vẻ như anh ta đến từ đấy hoặc quanh đấy. Khi ánh nắng giữa trưa bất lực trong việc chiếu qua cái cửa sổ dán kính tối màu bất hợp pháp của chiếc Range Rover, Ian lại bắt đầu nghĩ về Tony Curran. Họ vẫn rất ổn với nhau trong nhiều năm qua, Ian và Tony. Ian mua lại những ngôi nhà cũ nát và hư hại, những ngôi nhà lớn. Tony sẽ rút ruột chúng, phân tách chúng, lắp vào đó các đường dốc và tay vịn, rồi họ sẽ chuyển đến ngôi nhà tiếp theo. Việc kinh doanh dịch vụ nhà dưỡng lão ngày một bùng nổ và Ian gây dựng được khối tài sản ra trò. Ông ta giữ một ít, ông ta bán một ít, ông ta mua thêm một ít. Ian lấy một ly sinh tố từ thùng đá của chiếc Range Rover. Hộp đá này là phụ tùng được lắp thêm. Một thợ cơ khí ở Faversham đã lắp nó cho ông ta, trong lúc ông ta mạ vàng hộp đựng găng tay. Đây là món sinh tố thường ngày của Ian. Một quả mâm xôi, một nắm rau bina, sữa chua Iceland (hoặc sữa chua Phần Lan, nếu không mua được loại của Iceland), tảo xoắn, cỏ lúa mì, bột anh đào acerola, tảo tiểu cầu chlorella, tảo bẹ, chiết xuất acai, ca cao ngòi, kẽm, tinh chất củ dền, hạt chia, vỏ xoài và gừng. Đó là phát minh của riêng ông ta, và ông đặt tên cho thức uống này là Đơn Giản Thôi. Ông kiểm tra đồng hồ. Còn khoảng mười phút nữa sẽ tới Coopers Chase. Hoàn thành cuộc họp mặt, sau đó báo tin cho Tony. Sáng nay, ông ấy đã tìm áo vest chống dao đâm trên Google, nhưng không có nơi nào giao hàng trong ngày cả. Còn mua trên Amazon Prime ư? Họ hẳn sẽ nghĩ ông là một thằng ngốc. Ông ấy chắc chắn rằng chuyện sẽ ổn thôi. Và tin tuyệt vời là Bogdan sẽ tiếp quản. Một quá trình chuyển đổi liền mạch. Và rẻ hơn, tất nhiên, đó là điểm mấu chốt. Ian đã sớm nhận ra rằng, ông ấy cần phải nâng tầm công việc kinh doanh của mình lên hạng sang nếu ông ấy muốn kiếm tiền thực sự. Điều tồi tệ nhất là khi có khách hàng chết. Các phòng lúc ấy bị bỏ trống và không kiếm được đồng nào cho tới khi tìm thấy khách hàng mới, và tệ nhất là bạn phải đối phó với đám người nhà. Bây giờ, khách hàng càng giàu thì họ càng sống lâu. Ngoài ra, họ càng giàu, gia đình họ càng ít đến thăm, vì họ có xu hướng sống ở London, New York, hoặc Santiago. Vì vậy, Ian chuyển sang phân khúc hạng sang, chuyển đổi công ty của mình, từ Nhà dưỡng lão Hoàng hôn Mùa thu, thành Quần thể Biệt thự An dưỡng, tập trung vào một số ít bất động sản nhưng quy mô hơn. Tony Curran đã vô cùng chuyên chú. Những gì Tony không biết thì anh ta sẽ nhanh chóng học được, và không một phòng tắm có vách ngăn kính, thẻ khóa từ hay bếp thịt nướng cỡ đại nào có thể khiến anh ta lúng túng. Thực sự sẽ khá đáng tiếc khi để anh ta rời đi, nhưng chuyện phải thế. Ian đi qua bến xe bus dựng bằng gỗ ở bên phải và rẽ ở lối vào Coopers Chase. Như thường lệ, ông ta gặp phải một chiếc xe tải giao hàng, theo sau nó đi qua lưới gia súc, và bị mắc kẹt phía sau nó suốt dọc con đường dài. Ngắm nhìn khung cảnh trên đường đi, ông lắc đầu. Quá nhiều lạc đà. Càng sống càng học được nhiều điều. Ian đỗ xe và đảm bảo rằng giấy phép đậu xe của ông ta được bày ra chính xác và nổi bật, ở phía bên trái của kính chắn gió, với số giấy phép và ngày hết hạn hiển thị rõ ràng. Ian đã phải đối mặt với đủ loại nhà chức trách trong những năm qua, và hai nơi duy nhất từng khiến ông ta thực sự lo lắng là Cơ quan Điều tra Thuế Nhập khẩu Nga và Ủy ban Đỗ xe Coopers Chase. Dẫu vậy, vẫn đáng giá. Bất kể trước đây ông kiếm được bao nhiêu tiền, khoản thu từ Coopers Chase thuộc về một tầm cao mới. Ian và Tony đều biết điều đó. Một dòng thác tiền. Và đó, chính là nguồn gốc của vấn đề hôm nay. Coopers Chase. Vùng nông thôn xinh đẹp rộng mười hai mẫu Anh, được phép xây dựng tới bốn trăm căn hộ hưu trí. Không có gì ở đó ngoài một tu viện trống và những con cừu của ai đó trên ngọn đồi. Vài năm trước, một người bạn cũ của ông ta đã mua lại mảnh đất từ một linh mục, sau đó người này lại đột nhiên cần nhanh chóng có một khoản tiền mặt, để chống lại các thủ tục dẫn độ do một sự hiểu lầm. Ian đã tính toán và nhận ra đây là một bước nhảy vọt đáng để thực hiện. Nhưng Tony cũng không chậm chân và quyết định thực hiện cú nhảy của riêng mình. Đó là lý do tại sao Tony Curran hiện sở hữu 25% mọi thứ mà anh ta đã xây dựng tại Coopers Chase. Ian cảm thấy bắt buộc phải đồng ý với các điều khoản, bởi Tony vẫn luôn trung thành với ông ta, và cũng bởi Tony đã nói rõ rằng, anh ta sẽ bẻ gãy cả hai cánh tay của Ian nếu ông từ chối. Ian đã từng chứng kiến Tony bẻ gãy tay người khác, và vì vậy, họ trở thành đối tác của nhau. Tuy nhiên, không kéo dài bao lâu. Chắc chắn Tony cũng biết họ không thể kéo dài như vậy mãi? Thực sự là bất cứ ai cũng có thể xây một căn hộ sang trọng—cởi trần, nghe đài Magic FM, đào vài cái móng hoặc hét vào mặt một người thợ nề. Công việc dễ dàng. Nhưng không phải ai cũng có tầm nhìn để giám sát một ai đó xây dựng những căn hộ cao cấp. Với kế hoạch mở rộng mới sắp bắt đầu tại nơi này, còn thời điểm nào tốt hơn để Tony nhận ra giá trị thực của mình? Ian Ventham cảm thấy bạo gan hơn. Giết hoặc bị giết. Ian bước ra khỏi xe, và khi chớp mắt trước ánh nắng chói chang bất ngờ chiếu đến, dư vị của tinh chất củ dền chợt ợ lên—đó là một trong những trở ngại chính khiến ông chưa thể tung ra Đơn Giản Thôi ra thị trường. Ông có thể bỏ đi tinh chất củ dền, nhưng nó rất cần thiết cho sức khỏe tuyến tụy. Đeo kính râm lên. Và cũng giống như với doanh nghiệp của ông ta, Ian không định chết vào hôm nay. Ron Ritchie, như mọi khi, không dễ dàng tin người. Ông ta đang thọc ngón tay vào bản sao hợp đồng thuê nhà của mình. Ông ấy biết nó trông có vẻ ổn thỏa, vẫn luôn như vậy, nhưng Ron có thể cảm thấy ngón tay mình đang run, và hợp đồng thuê cũng rung lên. Ông ấy vẫy vẫy hợp đồng trong không khí để che giấu sự run rẩy. Dù vậy, giọng nói của ông ấy không hề mất đi sức mạnh. “Có đây một câu trích dẫn. Và đó là lời của ông, ông Ventham, không phải lời của tôi. ‘Tập đoàn Đầu tư Coopers Chase bảo lưu quyền phát triển thêm quỹ căn hộ, với sự tham vấn của cư dân hiện tại.’ ” Dáng vóc to cao của Ron gợi ý về sức mạnh thể chất mà ông ta hẳn đã từng có. Khung gầm vẫn còn đó, giống như một chiếc xe tải đầu kéo đang rỉ sét trên cánh đồng. Khuôn mặt của ông ấy, hết sức thẳng thắn, sẵn sàng trở nên tức giận hoặc hoài nghi, hoặc bất cứ cảm xúc cần thiết nào khác. Bất cứ điều gì có thể giúp ích. “Chính là điều chúng ta đang làm lúc này,” Ian Ventham lên tiếng, như thể đang nói chuyện với một đứa trẻ. “Đây là cuộc họp tham vấn. Ông là cư dân. Hãy đưa ra bất kỳ ý kiến nào mà ông muốn trong hai mươi phút tới.” Ventham ngồi trên một chiếc bàn đặt ở đầu Phòng khách của cư dân. Ông ta có làn da rám nắng, thư thái và gài kính râm lên trên mái tóc của mình—mái tóc có kiểu cách như trên một catalogue những năm 1980. Ông ta đang mặc một chiếc áo thun polo đắt tiền, và đeo trên tay một chiếc đồng hồ lớn đến mức nó cũng có thể làm một chiếc đồng hồ treo tường. Ông ấy có vẻ sở hữu mùi hương tuyệt vời, nhưng bạn sẽ không thực sự muốn tới đủ gần để tìm hiểu điều đó đâu. Ngồi hai bên Ventham là một phụ nữ trẻ hơn ông khoảng mười lăm tuổi, và một người đàn ông xăm trổ mặc vest không tay, đang lướt điện thoại. Người phụ nữ là kiến trúc sư cho kế hoạch mở rộng, còn người đàn ông có hình xăm là Tony Curran. Ron đã từng nhìn thấy Curran, cũng đã nghe về anh ấy. Ibrahim đang ghi lại mọi từ được phát biểu khi Ron tiếp tục công kích Ventham. “Tôi cóc bị lừa đâu, Ventham. Đây không phải là một cuộc tham vấn, đây là một cuộc phục kích.” Joyce quyết định chen vào. “Nói cho ra lẽ đi, Ron.” Ron rõ ràng đang có ý định làm vậy. “Cảm ơn, Joyce. Ông gọi khu đó là Woodlands, mặc dù ông đang chặt bỏ tất cả cây cối. Nghe sang mồm đấy, con trai. Ông cho mọi người xem những bức ảnh dựng phối cảnh nhỏ xinh của mình, tất cả đã được hoàn thiện, mặt trời chiếu sáng, những đám mây bông xốp, những chú vịt nhỏ tung tăng trong ao. Ông có thể chứng minh đủ điều với ảnh dựng trên máy tính, con trai à, nhưng chúng tôi muốn thấy một mô hình chuẩn chỉnh theo tỷ lệ chính xác. Với những cái cây mô hình và những người mô hình nhỏ xíu.” Những lời này nhận được một tràng pháo tay. Rất nhiều người muốn xem một mô hình cụ thể, nhưng theo như Ian Ventham thì người ta giờ đây chẳng làm như vậy nữa. Ron tiếp tục. “Và ông đã chọn, cố ý chọn, một kiến trúc sư nữ, vì vậy tôi không được phép to tiếng.” “Tuy nhiên, ông vẫn đang to tiếng đấy, Ron,” Elizabeth lên tiếng, bà ngồi cách đó hai ghế, đang đọc một tờ báo. “Tôi chưa to tiếng đâu, Elizabeth.” Ron hét lớn. “Người đàn ông kia sẽ biết nếu tôi to tiếng thật. Nhìn ông ta kìa, ăn mặc như thể Tony Blair. Sao ông không tiện tay ném bom dân Iraq luôn đi, Ventham?” Ron nghĩ rằng mình đã có một câu thoại hay, khi Ibrahim nghiêm túc chép lại nó vào hồ sơ. Quay trở lại những ngày mà ông còn xuất hiện trên các tờ báo, ký giả gọi ông là Ron Đỏ, mặc dù mọi người vào thời ấy đều có một chút Đỏ trong người. Hình ảnh của Ron hiếm khi xuất hiện trên các báo mà không kèm theo chú thích cuộc đàm phán giữa hai bên đã sụp đổ vào đêm qua. Ông là một người đã quen mặt với những dòng người biểu tình và phòng giam của cảnh sát, với những kẻ chân đen, những vụ phá hoại và các danh sách đen, với các cuộc biểu tình ngồi và các sự vụ nhân viên cố tình giảm năng suất làm việc, với những cuộc đình công tự phát và việc người lao động đồng loạt rời khỏi nơi làm việc. Ron đã ở những sự kiện đó, làm ấm bàn tay mình trên một bếp than, với anh em cũ ở vùng Leyland nước Anh. Ron đã tận mắt nhìn thấy ngày tàn của những người bốc xếp ở bến tàu. Ron cũng đã tham gia vụ biểu tình của công nhân ngành in tại Wapping, khi chứng kiến chiến thắng của Rupert Murdoch và sự sụp đổ của ngành in truyền thống. Ron đã dẫn những người thợ mỏ Kent đến A1 và bị bắt tại Orgreave khi sự phản kháng cuối cùng ở ngành than bị tiêu diệt. Trên thực tế, nếu Ron không phải là một người cực kỳ kiên trì đấu tranh, ông sẽ tự nghĩ bản thân là một gã xúi quẩy. Nhưng đó là số phận của những kẻ yếm thế, và Ron chỉ đơn giản là thích làm một kẻ yếm thế. Nếu ông ở trong một tình huống mà mình không phải là kẻ yếu hơn, ông ấy sẽ xoay chuyển tình huống đó cho đến khi ông ấy thuyết phục được mọi người rằng, ông thuộc phe chiếu dưới. Nhưng Ron luôn thực hiện những gì ông truyền giảng. Ông luôn lặng lẽ giúp đỡ bất cứ ai cần trợ giúp, những người cần thêm một ít tiền trợ cấp vào dịp lễ Giáng sinh, cần một bộ suit hay một cố vấn pháp luật để chuẩn bị ra tòa án. Bất cứ ai, vì bất kỳ lý do gì, nếu như cần một chiến sĩ giúp sức, thì họ sẽ luôn được an toàn trong vòng tay xăm trổ của Ron. Những hình xăm giờ đã mờ dần, đôi tay đã run rẩy nhiều hơn, nhưng ngọn lửa thì vẫn rực cháy. “Ông biết làm thế nào để thúc đẩy chúng tôi chấp thuận hợp đồng thuê này, đúng không, Ventham?” Ian Ventham nói: “Hãy khai sáng cho tôi đi.” Ron sau đó bắt đầu nói về David Cameron và cuộc trưng cầu dân ý của Liên minh Châu Âu, nhưng lại đi lạc khỏi chủ đề chính. Ibrahim đặt tay lên khuỷu tay của ông. Ron gật đầu, cái gật đầu của một người đàn ông đã hoàn thành nghĩa vụ của mình ở đây, và ông ngồi xuống, đầu gối kêu răng rắc như tiếng súng nổ. Ông ấy hạnh phúc. Và ông ấy nhận thấy rằng cơn run rẩy của mình đã dừng lại, chỉ trong lúc này. Trở lại cuộc chiến. Chẳng có gì sánh được điều này. Khi Cha Matthew Mackie khẽ bước vào cuối phòng, một người đàn ông to lớn mặc áo West Ham đang hét gì đó về Tony Blair. Có một lượng lớn người tham dự, như ông ấy đã hy vọng. Điều này rất hữu ích, rất nhiều người phản đối dự án phát triển Khu Woodlands. Không có phục vụ buffet trên chuyến tàu đi từ Bexhill, vì vậy ông ấy rất vui khi thấy có bánh quy. Ông vơ lấy một mớ bánh khi không có ai để ý, lấy một chiếc ghế nhựa màu xanh ở hàng sau và ngồi vào chỗ. Người đàn ông mặc chiếc áo bóng đá bó sát người giờ đã hết hơi và khi ông ta ngồi xuống, những cánh tay khác giơ lên. Hy vọng rằng đây chỉ là một chuyến đi thừa thãi, nhưng tốt hơn là nên đến cho chắc. Cha Mackie biết rằng mình đang lo lắng. Ông chỉnh lại cổ áo, đưa tay vuốt qua mái tóc trắng như tuyết và thọc tay vào túi tìm một miếng bánh quy. Nếu ai đó không hỏi về nghĩa trang, có lẽ ông nên đứng lên hỏi. Phải can đảm lên. Hãy nhớ rằng ông có việc phải làm. Thật kỳ lạ khi ở trong căn phòng này! Ông rùng mình. Có lẽ chỉ do không khí lạnh. Buổi tham vấn kết thúc, Ron ngồi với Joyce bên cạnh sân bóng gỗ, những chai bia lạnh lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Ông giờ đang bị phân tâm bởi một thợ kim hoàn đã nghỉ hưu cụt một bên tay. Người này đến từ Khu Ruskin, tên là Dennis Edmonds. Dennis, người mà Ron chưa từng nói chuyện trước đây, muốn chúc mừng Ron về những điểm nổi bật mà ông ấy đã đưa ra trong cuộc họp tham vấn. “Kích thích tư duy, Ron, rất kích thích tư duy. Còn rất nhiều thứ để nghiền ngẫm.” Ron cảm ơn Dennis vì những lời tử tế của ông ấy, và chờ đợi động thái mà ông biết là sẽ tới. Cái động thái sẽ luôn xuất hiện. “Và đây chắc là con trai anh?” Dennis nói, quay về phía Jason Ritchie, cũng đang cầm một chai bia. “Anh chàng vô địch!” Jason mỉm cười và gật đầu, lịch sự như mọi khi. Dennis đưa tay ra. “Chú là Dennis. Chú là bạn của bạn bố cháu.” Jason bắt tay người đàn ông. “Cháu là Jason. Chú khỏe không. Dennis?” Dennis nhìn chằm chằm một nhịp, chờ Jason bắt chuyện, sau đó nhiệt tình gật đầu. “Chà, rất vui được gặp cháu, chú là một người hâm mộ cuồng nhiệt, đã xem tất cả các trận đấu của cháu. Chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau chứ, chú hy vọng vậy?” Jason gật đầu lịch sự một lần nữa và Dennis thong thả rời đi, thậm chí còn quên giả vờ tạm biệt Ron. Hai cha con, đã quen với những sự gián đoạn thế này, tiếp tục cuộc trò chuyện của họ với Joyce. Jason nói: “Vâng, chương trình được gọi là Gia phả Nổi tiếng. Họ đã nghiên cứu lịch sử của gia đình và họ muốn đưa con đi tham quan nhiều nơi khác nhau, kể cho con nghe một chút về lịch sử gia đình. Bà cố từng là gái điếm và tất cả những chuyện kiểu vậy.” “Bố chưa từng xem bao giờ,” Ron nói. “Nó có phải là của kênh BBC không?” “Đó là kênh ITV; nó thực sự khá hay, Ron,” Joyce nói. “Tôi đã xem một tập gần đây. Cháu đã xem chưa, Jason, tập có cậu diễn viên đó? Cậu ấy là bác sĩ trong phim Holby City, nhưng bác cũng đã từng nhìn thấy cậu ta đóng trong Poirot.” Jason nói: “Cháu chưa xem, bác Joyce.” “Nội dung rất thú vị. Hóa ra là ông của anh ta cũng chính là kẻ đã sát hại người yêu của anh ta. Và đó là một người tình đồng tính. Khuôn mặt anh ta đẹp như tranh. Ôi, cháu nên đồng ý đi, Jason.” Joyce vỗ tay. “Hãy tưởng tượng nếu Ron có một người ông đồng tính. Tôi sẽ rất khoái.” Jason gật đầu. “Họ cũng muốn nói chuyện với bố, bố ạ. Có máy quay. Họ hỏi rằng bố có sẵn sàng không, và con chúc họ may mắn trong việc bắt bố ngừng nói.” Ron cười. “Nhưng con thực sự cũng sẽ tham gia cái gì mà Người nổi tiếng Trượt băng?” “Con nghĩ là có thể sẽ vui.” “Ồ, tôi đồng ý,” Joyce nói, uống hết chai bia và với lấy thêm một chai khác. Ron nói: “Con đang làm rất nhiều thứ vào lúc này, con trai. Joyce nói rằng bà ấy đã nhìn thấy con trên Vua Đầu bếp.” Jason nhún vai. “Bố nói đúng. Con nên quay trở lại với quyền Anh.” “Bác không thể tin rằng cháu chưa bao giờ làm bánh macaroon,” Joyce lên tiếng. Ron uống nhanh một chút bia, sau đó cầm chai bia chỉ về phía bên trái. “Bên cạnh chiếc BMW, Jase—đừng có nhìn—đó là Ventham, người mà bố đã nói với con. Tôi đẩy ông ta vào thế khó, phải không, Joyce?” “Ông ấy không biết mình đang làm gì, Ron,” Joyce đồng ý. Jason ngả người ra sau và vươn vai, ánh mắt thản nhiên liếc về bên trái. Joyce di chuyển ghế để có tầm nhìn tốt hơn. “Ừ, tinh tế đấy, Joyce.” Ron nói. “Jase, người đang đi với ông ta là Curran, tay nhà thầu xây dựng. Con đã bao giờ gặp anh ta trong thị trấn chưa?” “Một hai lần gì đó,” Jason đáp. Ron nhìn lại lần nữa. Cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông đó có vẻ căng thẳng. Nói nhanh và thấp giọng, những cánh tay giơ lên, vừa có ý công kích lẫn ý phòng vệ, nhưng vẫn ở mức kiềm chế. “Họ đang tranh cãi, con có nghĩ vậy không?” Ron hỏi. Jason nhấp một ngụm bia và lướt nhìn qua bãi đậu xe một lần nữa, quan sát những người đàn ông. “Họ trông giống như một cặp đôi đang hẹn hò, nếu như ta bỏ qua chuyện là họ đang tranh cãi,” Joyce nhận xét. “Cuộc hẹn trong một quán Pizza Express.” “Bác nói đúng đó, Joyce,” Jason đồng ý, quay lại với bố và uống hết chai bia của mình. “Chiều nay chúng ta sẽ chơi bi-a chứ, con trai?” Ron nói. “Hay là con phải đi luôn?” “Con rất muốn chơi, nhưng con có một chút việc vặt.” “Bố có giúp gì được không?” Jason lắc đầu. “Mấy chuyện nhàm chán thôi, sẽ không mất nhiều thời gian đâu.” Anh đứng lên và vươn vai. “Bố chưa bị nhà báo nào gọi tới vào hôm nay, phải không?” “Thế đáng ra phải có hả?” Ron hỏi. “Có chuyện gì vậy?” “Không có gì, bố biết bọn nhà báo mà. Nhưng không có cuộc gọi, không email hay bất cứ điều gì chứ?” “Bố nhận được một catalogue quảng cáo bồn tắm có cửa ra vào,” Ron đáp. “Con có muốn cho bố biết tại sao con lại hỏi vậy không?” “Bố biết con mà, họ luôn theo đuổi điều gì đó.” “Thật thú vị!” Joyce nói. “Hẹn gặp cả hai người sau,” Jason chào. “Đừng say xỉn và đập phá nơi này nhé.” Jason rời đi. Joyce quay mặt về phía mặt trời và nhắm mắt lại. “Chà, thật tuyệt đúng không, Ron? Tôi chưa bao giờ biết tôi thích bia. Hãy tưởng tượng nếu tôi chết ở tuổi bảy mươi? Tôi sẽ không bao giờ biết được là mình thích uống bia.” “Uống mừng vì điều đó, Joyce,” Ron nói và xử lý nốt chỗ đồ uống của mình. “Bà nghĩ Jason có vụ gì vậy?” “Có thể là có một người phụ nữ,” Joyce đáp. Ron gật đầu. “Ừ, có lẽ.” Ông nhìn con trai mình rời đi ngày càng xa. Ông ấy lo lắng. Nhưng chưa bao giờ có ngày nào, dù là khi ở trên võ đài hay ngoài đời, mà Ron ngừng lo lắng về Jason. Buổi tham vấn diễn ra tốt đẹp. Ian Ventham không còn lo lắng về Khu Woodlands, thỏa thuận đó đã hoàn thành. Gã ồn ào trong cuộc họp ấy hả? Ông đã gặp những kiểu người như vậy trước đây. Hãy cứ để gã ta nổ. Ông cũng đã nhìn thấy một linh mục ở cuối phòng. Nghĩa là gì chứ? Vì vụ nghĩa trang, ông đoán vậy, nhưng tất cả đều đã xong xuôi, ông ta đã có tất cả giấy phép cần thiết. Hãy cứ để họ cố gắng ngăn chặn ông đi. Và sa thải Tony Curran? Chà, anh ta không vui vẻ gì, nhưng cũng không giết ông. Ian chiếm thượng phong. Vì vậy, Ian Ventham suy nghĩ về tương lai. Sau khi Khu Woodlands đi vào hoạt động, sẽ tiến vào giai đoạn phát triển cuối cùng, Khu Hillcrest. Ông đã lái xe năm phút trên con đường gồ ghề từ Coopers Chase và hiện đang ngồi trong gian bếp truyền thống của Karen Playfair. Cha của cô ấy, Gordon, sở hữu mảnh đất nông nghiệp trên đỉnh đồi, liền kề Coopers Chase, và ông ta dường như không có ý định bán. Không thành vấn đề, Ian có cách của mình. “Tôi e rằng không có gì thay đổi cả, Ian,” Karen Playfair nói. “Bố tôi sẽ không bán và tôi không thể bắt ông ấy làm vậy.” “Tôi nghe rồi,” Ian nói. “Cần thêm tiền.” “Không, tôi nghĩ—” Karen ngập ngừng, “và tôi nghĩ ông đã biết điều này rồi. Tôi nghĩ rằng bố tôi không thích ông.” Gordon Playfair chỉ liếc nhìn Ian Ventham một cái rồi biến mất lên lầu. Ian có thể nghe thấy ông ta giậm chân qua lại, chứng minh bất cứ quan điểm nào ông ta đang cố chứng minh. Ai thèm quan tâm chứ? Đôi khi mọi người không thích Ian. Ông ấy chưa bao giờ tìm hiểu lý do tại sao, nhưng qua nhiều năm, ông đã học cách sống chung với nó. Chắc chắn, đó là vấn đề của họ. Gordon Playfair chỉ là một người khác trong hàng dài những người không hiểu ông. “Nhưng nghe này, hãy để việc này cho tôi,” Karen nói. “Tôi sẽ tìm ra cách. Sẽ làm hài lòng tất cả mọi người.” Karen Playfair thì hiểu ông ta. Ông đã nói chuyện với cô về số tiền mà cô có thể nhận được nếu có thể thuyết phục cha mình bán đi mảnh đất. Chị gái và anh rể của cô có công việc kinh doanh riêng, sản xuất nho khô hữu cơ ở Brighton, và Ian đã thử tác động qua họ nhưng không thành công. Trông chờ vào Karen Playfair thì tốt hơn nhiều. Cô ấy sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất, và cô ấy làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chỉ cần nhìn là biết. Cô ấy đang trang điểm, theo một cách tinh tế nhẹ nhàng, nhưng thành thật thì, Ian không thể hiểu trang điểm nhạt như thế thì để làm gì. Ian tự hỏi, chính xác thì Karen đã từ bỏ cuộc đời kia của mình từ khi nào, để bắt đầu mặc vào những bộ quần áo dài rộng thùng thình. Và bạn nghĩ rằng, nếu cô ấy làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, cô ấy có thể đã tìm kiếm trên Google từ Botox. Ian nghĩ cô ấy phải năm mươi tuổi, bằng tuổi ông. Tuy nhiên, đối với phụ nữ thì tuổi tác thể hiện ra theo một cách khác. Ian sử dụng rất nhiều ứng dụng hẹn hò và đặt ra giới hạn tuổi tối đa là 25. Ông ấy thấy các ứng dụng hẹn hò rất hữu ích, vì ngày nay khó có thể gặp chính xác mẫu phụ nữ phù hợp. Họ cần hiểu rằng thời gian của ông ấy là có hạn và công việc của ông thì rất bận rộn, và gắn bó lâu dài là một điều khó khăn đối với ông. Theo kinh nghiệm của ông, phụ nữ trên 25 tuổi dường như không hiểu được những điều đó. Họ làm sao vậy, ông tự hỏi. Ông ấy cố gắng tưởng tượng tại sao ai đó lại chọn hẹn hò với Karen Playfair, nhưng chịu, chẳng thể nghĩ ra nổi. Để trò chuyện với nhau? Sẽ sớm chán thôi, phải không? Tất nhiên, cô ấy sẽ sớm giàu có khi Ian mua lại mảnh đất. Điều đó sẽ giúp ích cho cô ấy. Hillcrest cũng sẽ là yếu tố thực sự thay đổi cuộc đời cho Ian. Nó sẽ tăng gấp đôi quy mô của Coopers Chase, và do đó, lợi nhuận của Ian cũng tăng gấp đôi. Nếu điều đó có nghĩa là phải tán tỉnh một cô nàng năm mươi tuổi trong vài tuần thì hãy cứ làm vậy đi. Vào những buổi hẹn hò, Ian áp dụng những kinh nghiệm đã được kiểm chứng hiệu quả của mình. Ông ấy sẽ gây ấn tượng với những phụ nữ trẻ bằng mấy bức ảnh về hồ bơi của ông, và cái lần ông được phỏng vấn trên Kent Tonight. Ông ấy cũng đã cho Karen xem bức ảnh hồ bơi, nhưng cô ấy chỉ mỉm cười lịch sự và gật đầu. Thảo nào cô ấy lại độc thân. Tuy nhiên, ông ấy có thể bàn chuyện làm ăn với Karen. Cô ấy biết những ưu điểm của thỏa thuận, và cô ấy cũng biết những trở ngại, và họ kết thúc cuộc trò chuyện bằng một cái bắt tay và một kế hoạch hành động. Khi bắt tay Karen, Ian nghĩ rằng thỉnh thoảng dùng một chút kem bôi tay thì có chết ai cơ chứ. Năm mươi! Ông ấy thật chẳng muốn cái sự khô nứt kia xảy ra với bất cứ ai. Ian thoáng nghĩ rằng, người phụ nữ duy nhất trên hai mươi lăm tuổi mà ông chấp nhận dành ra chút thời gian là vợ của ông. Ồ, đến lúc phải đi rồi. Còn nhiều việc cần làm. Tony Curran đã quyết định. Anh ta dừng chiếc BMW X7 của mình trên con đường nóng nực. Có một khẩu súng được chôn dưới gốc cây sung dâu ở vườn sau. Hay là nó nằm dưới cây sồi nhỉ? Ở một trong hai nơi thôi, anh có thể nhớ ra nơi nào với một tách trà ngon. Và nhân đó, anh ta có thể cố nhớ vị trí chiếc xẻng của mình. Tony Curran sẽ giết Ian Ventham, rõ ràng rồi. Chắc chắn Ian cũng biết vậy? Việc tự tung tự tác cũng chỉ có giới hạn, cho đến khi ngay cả người bình tĩnh và lý trí nhất cũng hết chịu nổi. Tony huýt sáo bài nhạc trong một đoạn quảng cáo và đi vào nhà. Anh ta chuyển đến căn nhà này khoảng mười tám tháng trước, với khoản lãi đúng nghĩa đầu tiên từ Coopers Chase. Đó là kiểu nhà mà anh hằng mơ ước. Một ngôi nhà được xây dựng nhờ làm việc chăm chỉ, đưa ra những lựa chọn đúng đắn, quyết định phù hợp và bằng tài năng của chính mình. Một tượng đài vinh danh cho những gì anh đã đạt được, làm bằng gạch, kính và gỗ óc chó tôi luyện. Tony bước vào và thả lỏng. Ventham đã liên hệ vài gã anh em của ông ta để thế chỗ anh hồi tuần trước. Người Ba Lan, tất cả bọn họ, nhưng ngày nay ai mà chẳng là dân Ba Lan? Tony nhập đúng mã khóa bốn chữ số ngay từ lần thử thứ ba. Một kỷ lục mới. Tony Curran luôn coi trọng vấn đề an ninh của bản thân. Trong nhiều năm, công ty xây dựng của Tony thực ra chỉ là bình phong cho việc kinh doanh ma túy của anh ta. Một cách để giải thích thu nhập. Một cách để rửa tiền. Nhưng công ty đó dần dần trở nên lớn mạnh, chiếm nhiều thời gian của anh ta hơn, mang lại ngày càng nhiều tiền hơn. Nếu bạn nói với Tony thời trẻ rằng anh ta cuối cùng sẽ sống trong ngôi nhà này, anh sẽ không ngạc nhiên chút nào. Nhưng nếu bạn nói rằng anh ta sẽ mua nó bằng tiền hợp pháp, thì anh ấy sẽ chẳng đời nào tin. Vợ anh ta, Debbie, vẫn chưa về, nhưng vậy thì tốt hơn cho anh ta lúc này. Cho anh ta thời gian tập trung, thực sự suy nghĩ thấu đáo. Tony tua lại cuộc trò chuyện với Ian Ventham, và cơn thịnh nộ của anh ta lại bùng lên. Ian đang đá anh ta ra khỏi dự án Khu Woodlands? Đơn giản vậy thôi à? Một cuộc trò chuyện ngắn trên đường ra chỗ đỗ xe của ông ta? Giữa nơi công cộng, để đề phòng Tony vung một cú đấm vào mặt ông ta. Anh ta rất muốn đấm ông ta một cú ngay tại đó, vào lúc đó, nhưng ấy là Tony của ngày xưa rồi. Vậy nên, họ chỉ có một cuộc tranh luận nhỏ, tử tế và yên tĩnh. Hẳn là không ai chú ý, và điều đó tốt cho Tony. Khi Ventham chết, không ai có thể nói rằng họ đã thấy Tony Curran và Ian Ventham từng va chạm. Giúp anh ta không bị nghi ngờ. Tony ngồi trên ghế cao, quay ra quầy bếp trong phòng ăn rộng lớn của mình và mở một ngăn kéo. Anh ta cần phải viết kế hoạch lên giấy. Tony không tin vào vận may, mà chỉ tin vào sự chăm chỉ. Nếu không chuẩn bị đàng hoàng, tức là đang chuẩn bị để thất bại. Một giáo viên tiếng Anh từng nói với anh ta điều đó và anh ta sẽ không bao giờ quên. Một năm sau, anh ta đã đốt cháy chiếc xe của chính vị giáo viên kia, sau một cuộc tranh cãi về bóng đá, nhưng Tony vẫn thừa nhận những gì người ấy nói. Nếu không chuẩn bị đàng hoàng, nghĩa là đang chuẩn bị để thất bại. Hóa ra là không có giấy trong ngăn kéo, vì vậy, Tony quyết định vạch ra kế hoạch trong đầu. Tối nay thì không có gì cần làm. Hãy để thế giới tiếp tục vận hành trong một khoảng thời gian, để những con chim tiếp tục hót trong vườn, hãy để Ventham nghĩ rằng ông ta đã chiến thắng. Và sau đó tấn công. Tại sao lại có người muốn gây sự với Tony Curran chứ? Đã bao giờ có kẻ nào nhận được kết cục có hậu chưa? Tony nghe thấy tiếng động khi đã quá muộn, chỉ chậm một giây. Anh ta quay lại và nhìn thấy chiếc cờ-lê khi nó lao về phía mình. Một chiếc cờ-lê lớn, kiểu rất truyền thống. Không có cách nào tránh khỏi cú đánh này, trong khoảnh khắc nhận thức ngắn ngủi mà anh ta có được, Tony Curran đã nhận ra điều đó. Mày không thể luôn thắng, Tony. Anh ta nghĩ, phải thôi, phải thôi. Cú đánh bổ vào thái dương bên trái của Tony và anh ta gục xuống sàn đá cẩm thạch. Những con chim trong vườn ngừng hót trong vài khoảnh khắc ngắn ngủi, và sau đó tiếp tục giai điệu vui tươi của chúng. Hót vang khi đậu trên những cành cây sung dâu. Hay là cây sồi nhỉ? Kẻ giết người đặt một bức ảnh lên mặt quầy, khi máu tươi của Tony Curran bắt đầu lan ra quầy bếp làm bằng gỗ óc chó của anh ta. Coopers Chase luôn thức dậy sớm. Khi những con cáo kết thúc chuyến du hành hằng đêm và những con chim bắt đầu điểm danh, những chiếc ấm siêu tốc đầu tiên kêu rít và những chiếc đèn bàn bắt đầu được bật sáng trong ô cửa sổ phủ rèm che. Buổi sáng cựa mình chào mừng một ngày mới. Không ai ở đây vội vã vớ lấy miếng bánh mì nướng trước khi bắt chuyến tàu sớm đến văn phòng, hay phải đóng gói hộp cơm trưa trước khi đánh thức bọn trẻ, nhưng dù sao thì cũng có nhiều việc để làm. Nhiều năm trước, mọi người ở đây có lẽ thường thức dậy sớm vì có rất nhiều công chuyện và số giờ trong ngày chỉ có hạn. Bây giờ, họ dậy sớm vì có rất nhiều việc để làm và số ngày trên đời chỉ có hạn. Ibrahim luôn thức giấc trước sáu giờ. Hồ bơi không mở cửa nếu chưa đến bảy giờ, vì lý do sức khỏe và an toàn. Ông đã lập luận, nhưng không thành công, rằng nguy cơ chết đuối khi bơi mà không có người giám sát vẫn thấp hơn nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch hoặc bệnh hô hấp hay tuần hoàn do không tập thể dục thường xuyên. Ông thậm chí còn đưa ra một thuật toán chứng minh rằng, việc giữ cho hồ bơi mở cửa hai mươi tư giờ mỗi ngày sẽ giúp cư dân an toàn hơn ba mươi mốt phẩy bảy phần trăm, so với đóng cửa qua đêm. Ủy ban Tiện nghi Giải trí và Thư giãn vẫn không bị lay động. Ibrahim có thể thấy họ bị vướng mắc bởi nhiều luật lệ khác nhau và vì vậy cũng không có ác cảm. Thuật toán đã được lưu lại một cách gọn gàng, phòng trường hợp cần sử dụng lại. Luôn luôn có rất nhiều việc để làm. “Tôi có việc cho ông, Ibrahim,” Elizabeth nói, nhấp một ngụm trà bạc hà. “Chà, đúng hơn là một việc dành cho cả ông và Ron, nhưng tôi giao cho ông phụ trách.” “Rất khôn ngoan,” Ibrahim nói, gật đầu. “Nếu tôi có thể nói vậy.” Elizabeth đã gọi cho ông ấy vào đêm hôm trước để kể về vụ Tony Curran. Bà đã nghe tin từ Ron, người đã nghe tin từ Jason, người đã nghe được từ một nguồn chưa được ghi lại. Chết trong bếp, bị đánh mạnh vào đầu, được vợ tìm thấy. Ibrahim thường thích dành khoảng thời gian này để xem qua các ghi chú về những bệnh án cũ, và đôi khi là cả những bệnh án mới. Ông ấy vẫn có một vài khách hàng và nếu họ có nhu cầu, họ sẽ đến Coopers Chase và ngồi trên chiếc ghế cũ dưới bức tranh vẽ thuyền buồm—cả hai thứ ấy đều đã gắn bó với ông gần bốn mươi năm nay. Hôm qua, Ibrahim đã đọc thông tin về trường hợp của một khách hàng cũ, một quản lý Ngân hàng Midland tại Godalming, người đã nhận nuôi những con chó hoang và tự sát vào một ngày Giáng sinh. Ibrahim nghĩ mình không có được may mắn tận hưởng khoảng thời gian của bản thân như thường ngày vào sáng nay. Elizabeth đã đến ngay khi mặt trời mọc. Ông thấy khá khó khăn khi thói quen thường nhật bị phá vỡ. “Tất cả những gì tôi cần ông làm là nói dối một sĩ quan cảnh sát cấp cao,” Elizabeth nói. “Tôi có thể tin tưởng ông được không?” “Từ khi nào mà bà không thể tin tôi vậy, Elizabeth?” Ibrahim đáp. “Tôi đã khi nào khiến bà thất vọng chưa?” “Chà, chưa bao giờ, Ibrahim,” Elizabeth đồng ý. “Đó là lý do tại sao tôi muốn giữ ông ở gần bên. Ngoài ra, ông pha trà rất ngon.” Ibrahim biết bản thân ông là một người đáng tin cậy. Trong những năm qua, ông đã cứu nhiều mạng sống và cứu rỗi nhiều linh hồn. Ông làm tốt công việc của mình, và đó là lý do mà tới tận bây giờ, một số người vẫn sẽ lái xe nhiều dặm, qua bốt điện thoại cũ và cửa hàng bán đồ trang trại, rẽ phải ngay sau khi qua cây cầu và rẽ trái ở bến xe bus bằng gỗ, chỉ để nói chuyện với một bác sĩ tâm lý tám mươi tuổi, đã nghỉ hưu từ lâu. Đôi khi ông thất bại—trên đời này có ai mà không thất bại cơ chứ?—và thất bại lưu trong những tập hồ sơ mà Ibrahim sẽ đọc vào mỗi buổi sáng sớm. Vị quản lý ngân hàng từng ngồi khóc mãi trong chiếc ghế cũ kỹ kia đã không thể được cứu rỗi. Nhưng sáng nay, có những chuyện khác cần ưu tiên, ông ấy hiểu. Sáng nay, Câu lạc bộ Án mạng ngày thứ Năm có một vụ án thực sự. Không chỉ là những trang giấy ố vàng lem nhem từ đời thuở nào. Một vụ án thực sự, một xác chết thực sự và, ở đâu đó ngoài kia, một kẻ giết người thực sự. Sáng nay, có người cần Ibrahim. Đó chính là mục đích sống của ông. Hạ sĩ Donna De Freitas mang một khay trà vào phòng sự vụ. Một nhà thầu xây dựng ở địa phương, Tony gì đó, đã bị sát hại, và đánh giá theo quy mô của nhóm sĩ quan đã được tập hợp thì đây có vẻ là một vấn đề lớn. Donna tự hỏi tại sao. Nếu kéo dài thời gian đưa trà, có thể cô ấy sẽ nghe lỏm được đáp án. Chánh thanh tra Chris Hudson đang phát biểu với cả đội. Anh ấy luôn có vẻ tử tế. Anh từng mấy lần mở mấy cánh cửa đôi cho cô mà không có vẻ là muốn được trao tặng huân chương cho việc ấy. “Có rất nhiều máy camera theo dõi tại nhà nạn nhân. Hãy lấy những đoạn phim ghi hình. Tony Curran rời Coopers Chase lúc 2 giờ chiều, và anh ta qua đời vào 3 giờ 32 phút, theo đồng hồ Fitbit của anh ta. Đó chỉ là một khung thời gian nhỏ để tìm kiếm.” Donna đặt khay trà lên bàn để khom lưng buộc dây giày. Cô ấy nghe thấy cái tên Coopers Chase được đề cập, thật thú vị. “Ngoài ra còn có các máy quay trên A214, cách nhà Curran khoảng 400 mét về phía nam và nửa dặm về phía bắc, vì vậy cũng hãy thu thập các đoạn ghi hình ở đó. Mọi người đã biết khung thời gian.” Chris dừng lại một chút và nhìn sang nơi Donna De Freitas đang cúi xuống. “Mọi thứ ổn chứ, hạ sĩ?” Anh hỏi. Donna đứng thẳng dậy. “Vâng, thưa ngài, tôi vừa buộc dây giày. Tôi không muốn trượt chân với một khay trà trên tay.” “Rất khôn ngoan,” Chris đồng ý. “Cảm ơn vì mấy tách trà. Giờ thì cô có thể quay lại với công việc của mình.” “Cảm ơn ngài,” Donna nói, và đi về phía cửa. Cô nhận ra rằng Chris—một thanh tra—có lẽ đã phát hiện ra đôi giày của cô không có dây buộc. Nhưng chắc chắn anh ấy sẽ không trách tội một cảnh sát trẻ vì một chút tò mò lành mạnh, phải không? Khi mở cửa để rời đi, cô nghe thấy Chris Hudson tiếp tục. “Chừng nào chúng ta chưa có được tất cả những cảnh quay đó, manh mối lớn nhất chính là bức ảnh kẻ giết người đã để lại bên cạnh thi thể. Hãy nhìn đây.” Donna không thể cưỡng lại việc quay người và liếc qua, hình một bức ảnh cũ đang được chiếu lên tường, ba người đàn ông trong quán rượu, cười nói và nhâm nhi đồ uống. Chiếc bàn họ ngồi được bao phủ bởi tiền giấy. Cô chỉ có một khoảnh khắc, nhưng cô nhận ra một người đàn ông trong nhóm ấy ngay lập tức. Mọi chuyện sẽ rất khác nếu Donna là thành viên tổ chuyên án, rất khác. Không cần phải đến các trường tiểu học để viết số serial lên xe đạp bằng mực vô hình. Không cần phải lịch sự nhắc nhở các chủ cửa hàng địa phương rằng các thùng rác đầy ứ thực sự là một tội ác— “Hạ sĩ?” Chris lên tiếng, kéo Donna ra khỏi dòng suy nghĩ. Donna rời mắt khỏi bức ảnh và nhìn Chris. Một cách kiên quyết, nhưng tử tế, anh tỏ ý rằng cô có thể rời đi được rồi. Donna mỉm cười với Chris và gật đầu. “Đầu óc trên mây một chút. Xin lỗi sếp.” Cô mở cửa, bước ra ngoài, trở lại với đời sống chán nản. Cô cố gắng nghe từng từ cuối cùng trước khi cánh cửa rốt cuộc cũng đóng lại. “Vậy là, có ba người đàn ông, đều là những người mà chúng ta biết rất rõ. Chúng ta sẽ triệu tập từng người một chứ?” Cánh cửa đóng sập lại. Donna thở dài. JOYCE Tôi hy vọng bạn không phiền lòng khi đọc tin này khi mới là nhật ký buổi sáng, nhưng Tony Curran đã chết. Tony Curran là người xây dựng nên nơi này. Có lẽ anh ta thậm chí còn đặt những viên gạch trong lò sưởi của tôi? Ai biết được? Ý tôi là, có lẽ là không. Có lẽ một ai khác đã làm điều đó thay cho anh ấy, phải không? Và cả những việc trát vữa và mọi thứ khác. Tôi cho rằng anh ấy chủ yếu phụ trách việc giám sát. Nhưng tôi cá là dấu vân tay của anh ta vẫn ở đâu đó quanh đây. Khá rùng mình khi nghĩ như vậy. Elizabeth đã gọi cho tôi vào đêm qua để báo tin. Tôi sẽ không bao giờ miêu tả Elizabeth là người có lúc thở không ra hơi, nhưng thành thật mà nói, bà ấy gần như vậy đấy. Tony Curran đã bị đánh bằng một vật nặng, bằng một tay hay cả hai tay, không rõ. Tôi kể lại với bà ấy những gì tôi đã nhìn thấy cùng Ron và Jason, về cuộc cãi vã giữa Curran và Ian Ventham. Bà ấy nói rằng bà ấy đã biết, vậy hẳn là bà ấy đã nói chuyện với Ron trước khi nói chuyện với tôi, nhưng bà ấy đủ lịch sự để lắng nghe khi tôi đưa ra quan điểm của mình. Tôi hỏi xem liệu bà ấy có đang ghi chú lại không, và bà ấy nói rằng mình sẽ nhớ kỹ. Dù sao, Elizabeth dường như có một kế hoạch nào đó. Bà ấy nói rằng sẽ đến gặp Ibrahim sáng nay. Tôi hỏi là tôi có thể giúp gì không, và bà ấy nói rằng có việc muốn nhờ. Vì vậy, tôi hỏi bà ấy muốn tôi làm gì, và bà nói rằng, nếu tôi bình tĩnh một chút thì tôi sẽ sớm nhận ra thôi. Vậy chắc tôi sẽ ngồi chờ chỉ dẫn nhỉ? Tôi chuẩn bị đón chiếc xe bus nhỏ để tới Fairhaven, nhưng tôi sẽ luôn mở sẵn điện thoại di động để đề phòng. Tôi đã trở thành một người cần phải luôn bật điện thoại di động. “Vậy ai đã giết Tony Curran, và chúng ta làm cách nào để bắt được hắn?” Elizabeth hỏi. “Hoặc bắt hắn hoặc ả, tôi biết tôi nên nói thế, nhưng có thể là hắn. Loại phụ nữ nào lại bổ đầu ai đó cơ chứ? Một phụ nữ Nga, tôi chỉ có thể nghĩ ra mỗi thế.” Sau khi chỉ dẫn cho Ibrahim những việc cần làm trong ngày, Elizabeth đã đi thẳng đến cuộc trò chuyện này. Bà ấy đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc của mình. “Anh ta có vẻ là kiểu người dễ gây thù chuốc oán, có nhiều kẻ thù. Vest không tay, ngôi nhà lớn, nhiều hình xăm hơn Ron, vân vân và mây mây. Cảnh sát sẽ lập danh sách những kẻ tình nghi ngay bây giờ và chúng ta sẽ phải có được danh sách đó. Tuy nhiên, trong trường hợp không có danh sách nghi phạm, tại sao chúng ta không nghĩ xem liệu Ian Ventham có giết Tony Curran hay không? Mọi người còn nhớ Ian Ventham chứ? Ventham và Tony Curran đã tranh cãi một chút. Ron đã nhìn thấy, tất nhiên—có khi nào ông ấy bỏ lỡ điều gì không? Và Joyce đã nói điều gì đó về Pizza Express, nhưng tôi hiểu ý của bà ấy.” Elizabeth cố gắng đề cập đến Joyce thường xuyên hơn trong những ngày này, bởi vì tại sao không chứ? “Chúng ta sẽ đưa ra một số giả định hợp lý nhé? Giả sử là Ventham không hài lòng với Curran, hay là Curran không hài lòng với Ventham nhỉ? Điều đó không quan trọng. Họ có điều gì đó để thảo luận, nhưng họ lại nói chuyện ở một nơi công cộng, điều này thật kỳ lạ.” Elizabeth kiểm tra đồng hồ của mình. Bất chấp tất cả, bà làm điều đó khá kín đáo. “Vì vậy, giả sử rằng ngay sau cuộc họp tham vấn, Ventham có tin xấu cần thông báo. Ông ta lo sợ phản ứng của Curran đến mức phải hẹn gặp anh ta ở nơi công cộng. Ông ấy hy vọng sẽ xoa dịu anh chàng. Nhưng theo quan điểm của Ron, ông ấy đã không thành công. Đấy là tôi đang diễn giải lại lời của Ron.” Đặt ở cạnh giường là một chiếc que có gắn miếng bọt biển nhỏ ở đầu. Elizabeth nhúng nó vào một bình nước và thoa lên đôi môi khô nẻ của Penny. Âm thanh từ máy theo dõi nhịp tim của Penny lấp đầy không gian im lặng. “Vậy trong kịch bản đó, Ventham sẽ phản ứng như thế nào, Penny? Đối mặt với một Curran đã mang hiềm khích? Chuyển sang kế hoạch B? Theo Curran đến nhà của anh ta? Cho tôi vào, chúng ta hãy nói về chuyện này, có lẽ tôi đã quá vội vàng rồi? Và sau đó, vụt!, đơn giản như vậy thôi, bà có nghĩ vậy không? Ông ta giết Curran trước khi Curran kịp giết ông ta?” Elizabeth nhìn quanh để tìm túi của mình. Bà ấy đặt tay lên thành ghế, chuẩn bị rời đi. “Nhưng tại sao? Đó là câu hỏi mà tôi biết bà sẽ hỏi. Tôi sẽ thử xem xét mối quan hệ tài chính của họ. Lần theo những đồng tiền. Có một người đàn ông ở Geneva vẫn nợ tôi một ân huệ, vì vậy chúng ta có thể nhận được hồ sơ tài chính của Ventham vào tối nay. Dù thế nào thì nó cũng có vẻ thú vị phải không? Một cuộc phiêu lưu. Và tôi nghĩ rằng, chúng ta sở hữu một vài mánh khóe mà cảnh sát không có. Tôi chắc chắn là họ sẽ đánh giá cao một chút giúp đỡ và đó là nhiệm vụ của tôi vào sáng nay.” Elizabeth ra khỏi ghế và đi đến bên giường. “Một vụ giết người thực sự cần được điều tra, Penny. Tôi hứa sẽ không để bà bỏ lỡ điều gì đâu.” Bà hôn lên trán người bạn thân nhất của mình, rồi quay sang chiếc ghế phía bên kia giường và nở một nụ cười nhẹ. “Anh có khỏe không, John?” Chồng của Penny đặt sách xuống và nhìn lên. “Ồ, bà biết mà.” “Tôi biết. Anh luôn hiểu tôi, John.” Các y tá nói rằng Penny Gray không thể nghe thấy gì nữa, nhưng ai dám chắc được? John không bao giờ nói chuyện với Penny khi Elizabeth ở trong phòng. Ông ấy đến Willows lúc bảy giờ sáng và rời đi lúc chín giờ mỗi tối, trở lại căn hộ mà ông và Penny từng sống cùng nhau. Trở về với những món đồ lưu niệm từ các kỳ nghỉ, những bức ảnh cũ và những kỷ niệm mà ông ấy và Penny đã chia sẻ trong năm mươi năm. Elizabeth biết rằng ông ấy nói chuyện với Penny khi bà không có ở đó. Và mỗi khi bà bước vào, luôn luôn gõ cửa trước, bà nhận thấy những dấu tay trắng mờ của John trên tay Penny. Tay ông ấy đặt trở lại cuốn sách của mình, mặc dù ông ấy dường như luôn mở cùng một trang. Elizabeth để cặp tình nhân lại với nhau. JOYCE Mỗi thứ Tư, tôi đều bắt xe bus cư dân đến Fairhaven để mua sắm. Vào các ngày thứ Hai thì xe đi đến Tunbridge Wells, chỉ cách nửa giờ theo hướng ngược lại, nhưng tôi thích cảm giác trẻ trung của Fairhaven. Tôi thích quan sát xem mọi người đang mặc gì và tôi thích nghe tiếng chim mòng biển. Tên người lái xe là Carlito và anh ta thường bị tưởng nhầm là người Tây Ban Nha, nhưng tôi đã trò chuyện với anh ta nhiều lần và hóa ra anh là người Bồ Đào Nha. Dù vậy, anh ấy không có vấn đề gì với sự nhầm lẫn đó. Có một quán cà phê thuần chay, ngay gần bờ biển. Tôi đã tìm thấy nó cách đây vài tháng và tôi hiện đang chờ người phục vụ mang ra một ly trà bạc hà hấp dẫn với một chiếc bánh brownie làm từ bột hạnh nhân. Tôi không phải là người ăn chay trường và cũng không có ý định đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy đó là điều cần được khuyến khích. Tôi đọc rằng nếu nhân loại không ngừng ăn thịt, nạn đói trên diện rộng sẽ nổ ra vào năm 2050. Tôi đã gần tám mươi và vì vậy, đây không phải là vấn đề của tôi, nhưng tôi hy vọng người ta sẽ giải quyết được vấn nạn ấy. Con gái Joanna của tôi ăn chay và một ngày nào đó tôi sẽ đưa nó đến quán. Chúng tôi sẽ ghé qua một cách tình cờ, như thể việc tôi ngồi vào một quán cà phê thuần chay là điều tự nhiên nhất trên thế giới. Đám đông có mặt trên xe bus vẫn luôn là những gương mặt quen thuộc. Có những vị khách quen, Peter và Carol, một cặp đôi tốt bụng từ Ruskin, họ đi xe bus tới thăm con gái. Tôi biết là họ không có cháu, nhưng dù sao thì có vẻ như cô con gái có mặt ở nhà vào ban ngày. Chắc là có một câu chuyện nào đó ở đây. Trên chuyến xe có Ngài Nicholas, người giờ đây chỉ lên xe đi dạo loanh quanh khi người ta không để ông tự lái xe nữa. Có Naomi với cái hông mà không ai có thể xớ rớ và một người phụ nữ đến từ Wordsworth mà tôi chưa bao giờ biết tên, và bây giờ thì tôi quá ngại phải hỏi, mặc dù bà ấy khá thân thiện. (Elaine chăng?) Tôi biết rằng Bernard sẽ ngồi vào vị trí quen thuộc của ông ấy ở phía sau. Tôi luôn cảm thấy muốn ngồi cạnh ông ấy, vì ông là một người đồng hành vui vẻ khi ông chú tâm. Nhưng tôi biết ông ấy đến thăm Fairhaven vì người vợ quá cố, vì vậy, tôi để ông ấy được yên tĩnh một mình. Đó là nơi họ gặp nhau và cũng là nơi họ từng sống trước khi chuyển đến đây. Ông ấy bảo với tôi rằng, kể từ khi bà ấy qua đời, ông ấy đôi khi đến khách sạn Adelphi mà người vợ từng làm việc, để uống cạn vài ly rượu và ngắm nhìn biển. Đó là lần đầu tiên tôi biết về chiếc xe bus cỡ nhỏ này, thành thật mà nói, quả là giá trị. Họ đã biến Adelphi thành Travelodge vào năm ngoái, vì vậy giờ đây, Bernard chỉ ngồi ở cây cầu tàu hướng ra biển. Nghe thì có vẻ buồn, nhưng thực ra gần đây họ đã sửa sang lại và nơi này đã giành được một số giải thưởng. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ ngồi cạnh ông ấy ở chiếc ghế chỗ đuôi xe bus, tôi đang chờ đợi gì nữa cơ chứ? Tôi vẫn đang đợi trà và miếng bánh hạnh nhân của mình, và tôi cũng mong được hưởng một chút yên bình và tĩnh lặng. Cả Coopers Chase vẫn đang đồn thổi về Tony Curran tội nghiệp. Ở nơi này thường có rất nhiều cái chết, nhưng kể cả vậy đi nữa. Không phải tất cả mọi người đều bị phang vào đầu, phải không? Đúng, tôi là kiểu người như thế này đấy. Nếu có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ báo cáo lại. Trên chiếc xe bus nhỏ chuẩn bị rời đi, cánh cửa mở ra lần cuối và Elizabeth bước vào. Bà ấy ngồi xuống ghế cạnh Joyce. “Chào buổi sáng, Joyce,” bà nói và mỉm cười. “Chà, lần đầu tiên đấy nhỉ?” Joyce nói. “Thật tuyệt vời!.” Elizabeth nói: “Tôi đã mang theo một cuốn sách, nếu bà không muốn nói chuyện trong chuyến đi.” “Ồ không, hãy trò chuyện đi chứ.” Joyce đáp. Carlito cho xe lăn bánh, sau khi hoàn thành các thông lệ dặn dò hành khách trước khi khởi hành. “Tuyệt!” Elizabeth vui mừng. “Vì tôi thực sự không mang theo quyển sách nào cả.” Elizabeth và Joyce bắt đầu trò chuyện. Họ rất cẩn thận để không nói về vụ Tony Curran. Một trong những điều đầu tiên bạn học được ở Coopers Chase là một số người ở đây vẫn còn khả năng nghe. Thay vì chuyện đó, Elizabeth kể cho Joyce về lần cuối cùng bà đến Fairhaven, khi ấy là vào khoảng những năm 1960 và mục đích di chuyển của bà liên quan đến một món đồ trôi dạt vào bãi biển. Elizabeth từ chối đi sâu vào chi tiết, nhưng nói với Joyce rằng, gần như chắc chắn chuyện hồi đó giờ đã được công khai khắp các nơi, và có lẽ bà ấy có thể tra cứu ở đâu đó nếu quan tâm. Chuyến đi trôi qua một cách dễ chịu. Mặt trời dần lên cao, bầu trời trong xanh và án mạng lớn vởn trong không khí. Như mọi khi, Carlito dừng xe bus bên ngoài cửa hàng Ryman. Mọi người đều biết sẽ tập trung lại ở đây sau ba giờ nữa. Carlito đã làm công việc này hai năm nay và chưa một ai đến muộn. Ngoại trừ Malcolm Weekes, người hóa ra đã chết bên dãy bày bán bóng đèn trong cửa hàng thiết bị Robert Dyas. Joyce và Elizabeth để những người khác xuống xe trước, chờ đám đông những gậy chống và khung nạng tản đi. Bernard ngả mũ chào những người phụ nữ khi ông ra khỏi xe, và họ nhìn theo khi ông lững thững tản bộ về phía bờ biển, tờ Daily Express được ông ấy kẹp vào nách. Khi họ bước xuống xe bus và Elizabeth cảm ơn Carlito vì đã ân cần lái xe, bằng tiếng Bồ Đào Nha hoàn hảo, Joyce lần đầu tiên nghĩ rằng mình nên hỏi xem Elizabeth định làm gì ở Fairhaven. “Cũng như bà thôi, bạn thân yêu à. Chúng ta đi chứ?” Elizabeth bắt đầu đi bộ rời khỏi khu vực bờ biển và Joyce chọn đi theo. Joyce nổi hứng phiêu lưu, nhưng bà ấy vẫn hy vọng mình có thời gian để thưởng thức trà và bánh brownie. Cách đó một đoạn đi bộ ngắn là đường Western và những bậc thang lớn được lát đá của Đồn Cảnh sát Fairhaven. Elizabeth quay người lại nhìn Joyce, khi cánh cửa tự động mở ra trước mặt bà. “Đây là cách nhìn nhận của tôi, Joyce. Nếu chúng ta sẽ điều tra vụ giết người này…” “Chúng ta sẽ điều tra vụ giết người ư?” Joyce hỏi. “Tất nhiên rồi, Joyce,” Elizabeth mỉm cười. “Còn ai tốt hơn chúng ta nữa? Nhưng chúng ta không có quyền chạm tay vào bất cứ hồ sơ án mạng nào, bất cứ lời khai nào của nhân chứng, hay mọi bản báo cáo pháp y… và chúng ta sẽ phải thay đổi điều đó. Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây. Tôi biết tôi không cần phải nói điều này, Joyce, nhưng bà chỉ cần hỗ trợ tôi, dù cho có chuyện gì xảy ra.” Tất nhiên, Joyce gật đầu, tất nhiên rồi. Họ bước vào. Khi đã vào bên trong, hai người phụ nữ bước qua cửa quét an ninh để vào khu vực lễ tân công cộng. Joyce chưa bao giờ vào đồn cảnh sát trước đây, mặc dù đã xem mọi bộ phim tài liệu mà ITV đang chiếu, và bà thất vọng rằng không có ai bị vật xuống đất và bị lôi vào phòng giam, với những lời tục tĩu được chèn tiếng lên một cách ly kỳ. Thay vào đó, chỉ có một trung sĩ trẻ tuổi ngồi ở bàn giấy, giả vờ như anh ta không chơi điện tử trên máy tính công vụ của mình. “Tôi có thể giúp gì, thưa các bà?” Anh ta hỏi. Elizabeth bắt đầu khóc. Joyce cố gắng kiềm nén sự bất ngờ của mình. “Ai đó vừa lấy trộm túi của tôi. Bên ngoài Holland & Barrett,” Elizabeth sụt sịt. Vậy ra, đó là lý do tại sao bà ấy không mang theo túi bên mình, Joyce nghĩ. Điều đó khiến bà ấy khá bồn chồn khi ngồi trên xe bus. Joyce choàng tay qua vai bạn mình. “Thật khủng khiếp.” “Hãy để tôi cử một sĩ quan lấy lời khai từ bà và chúng tôi sẽ xem có thể làm được gì.” Trung sĩ trực ban ấn một chiếc còi trên mặt tường bên trái anh ta, và trong vài giây, một cảnh sát trẻ đi vào, qua một cánh cửa an ninh khác phía sau bàn tiếp tân. “Mark, quý bà này vừa bị trộm túi xách trên đường Queens. Cậu có thể lấy lời khai chứ? Tôi sẽ lấy trà cho mọi người.” “Chắc chắn rồi. Thưa bà, bà đi theo tôi được chứ?” Elizabeth đứng yên tại chỗ, từ chối di chuyển. Bà ấy lắc đầu, đôi má ướt đẫm nước mắt. “Tôi muốn nói chuyện với một nữ cảnh sát.” “Tôi chắc chắn Mark có thể giải quyết vấn đề này cho bà,” trung sĩ trực ban nói. “Làm ơn!” Elizabeth kêu lên. Joyce quyết định đã đến lúc cần giúp bạn mình. “Bạn của tôi là một nữ tu, trung sĩ.” “Một nữ tu sĩ?” Trung sĩ trực ban hỏi lại. “Vâng, một nữ tu sĩ,” Joyce đáp chắc nịch. “Và tôi chắc rằng mình không cần phải giải thích thêm cho anh hiểu điều đó có nghĩa là sao, phải không?” Trung sĩ trực ban thấy rằng đây là một cuộc thảo luận có thể kết thúc tồi tệ theo nhiều cách, anh quyết định chọn một phương án dễ dàng. “Nếu bà cho tôi một chút thời gian, tôi sẽ sắp xếp được người cho bà.” Anh ta theo Mark bước vào trong, qua cửa an ninh, bỏ lại Elizabeth và Joyce ở một mình trong một phút. Elizabeth dừng công việc xả nước qua tuyến lệ và nhìn sang Joyce. “Một nữ tu? Cái cớ hay đấy.” “Tôi không có nhiều thời gian để suy nghĩ.” Joyce đáp. “Nếu buộc phải bịa lý do, tôi sẽ nói rằng ai đó đã đụng chạm tôi,” Elizabeth nói. “Bà biết vấn đề đó nóng hổi như thế nào ngày nay mà. Nhưng một nữ tu thì vui hơn nhiều.” “Tại sao bà muốn gặp một nữ sĩ quan?” Joyce hiện có một số câu hỏi khác, nhưng đây là thắc mắc đầu tiên trong danh sách. “Nhân tiện, không dùng chữ nữ hạ sĩ là rất tốt đấy. Tôi tự hào về bà.” “Cảm ơn, Joyce. Tôi chỉ nghĩ rằng, đằng nào thì cũng tới Fairhaven rồi, thì chúng ta nên đến thăm hạ sĩ De Freitas.” Joyce chậm rãi gật đầu. Trong thế giới của Elizabeth, điều đó hoàn toàn hợp lẽ. “Nhưng nếu cô ấy không đi làm thì sao? Hoặc rằng cô ấy có đi, nhưng vẫn còn những nữ cảnh sát khác thì sao?” “Liệu tôi có đưa bà đến đây nếu tôi chưa kiểm tra điều đó không, Joyce?” “Làm thế nào bà kiểm tra—“ Cửa an ninh mở ra và Donna De Freitas bước qua. “Bây giờ, thưa bà, tôi có thể—” Donna nhận ra những người đang ở trước mặt mình. Cô ấy nhìn từ Elizabeth sang Joyce và nhìn lại lần nữa, “—giúp gì cho bà?” Chánh thanh tra Chris Hudson đã nhận được một tập tài liệu về Tony Curran. Tài liệu dày đến nỗi nó sẽ tạo ra một tiếng thịch êm tai nếu bạn thả rơi nó xuống bàn làm việc. Và đó chính xác là điều mà anh ấy vừa làm. Chris uống một ngụm Coca-Cola, loại ăn kiêng. Đôi khi anh ấy sợ mình bị nghiện. Anh từng đọc được một tít báo về Coca-Cola ăn kiêng, và nó khiến anh lo lắng đến nỗi quyết định không đọc bài viết đó. Anh ta mở tập tài liệu. Hầu hết những cuộc gặp gỡ giữa Tony Curran với đội cảnh sát Kent đều vào khoảng thời gian trước khi Chris tới Fairhaven. Các tội danh về hành hung ở tuổi hai mươi, tiền án lặt vặt liên quan đến ma túy, lái xe nguy hiểm, nuôi chó dữ, sở hữu vũ khí trái phép. Một tội nhẹ về trốn thuế. Đái đường. Sau đó đến câu chuyện đáng kể này. Chris mở ra một hồ sơ. Có những bản ghi lại một số cuộc thẩm vấn Tony Curran trong nhiều năm, với cuộc thẩm vấn cuối cùng được thực hiện sau một vụ xả súng ở quán rượu Cầu Đen, khiến một tên buôn ma túy trẻ tuổi thiệt mạng. Một nhân chứng nhận ra Tony Curran đã bắn phát súng chí mạng và Phòng Điều tra Hình sự Fairhaven đã gọi Curran đến để """