"Câu Chuyện Cuối Cùng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Câu Chuyện Cuối Cùng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tác phẩm: CÂU CHUYỆN CUỐI CÙNG Tác giả: Cecelia Ahern Người dịch: Thái An Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn 12/2018 ebook©vctvegroup Dành tặng cậu Robert (Hoppy) Ellis. Cả nhà rất yêu và nhớ cậu, cảm ơn cậu vì những kỷ niệm. CHƯƠNG MỘT B iệt danh của bà là Nghĩa Địa. Mọi bí mật, mọi thông tin mật, dù cá nhân hay gì khác, đều chỉ có đường vào mà không có đường ra. Ta biết mình được an toàn; ta biết mình không bị phán xét, mà nếu có thì cũng âm thầm thôi, nên ta chẳng hay đâu. Bà mang một cái tên khai sinh hoàn hảo với ý nghĩa kiên định và ngoan cường, và cái biệt danh người ta đặt cho bà cũng hợp như thế; bà cứng rắn, bền bỉ và vững vàng, khắc kỷ nhưng lại khiến người khác an lòng lạ thường. Bởi thế thật đau đớn biết mấy khi phải thăm bà ở chốn này. Và quả thật là đau đớn, không phải chỉ là thử thách tinh thần; Kitty thật sự thấy nhói đau trong lồng ngực, cụ thể hơn là ở con tim, cơn đau nhen nhóm bởi ý nghĩ cô phải đi, tăng dần lên cùng thực tế là cô đã đến nơi, và tệ hơn khi cô nhận ra đây không phải giấc mơ, không phải báo động giả, mà đây chính là bản chất trần trụi của cuộc đời. Một cuộc đời trải qua bao thử thách, để rồi cuối cùng chỉ có một kẻ thắng, cái chết. Kitty băng qua các lối đi trong bệnh viện tư, chọn thang bộ trong khi có thể đi thang máy, cố tình rẽ sai hướng, luôn sẵn lòng nhường lối cho người khác đi trước mình, đặc biệt với những bệnh nhân chống khung tập đi lê từng bước chậm chạp hay đẩy gậy chống gắn ống dẫn ven. Cô nhận thấy những ánh nhìn dành cho mình, chúng là hậu quả của cơn khủng hoảng cô đang rơi vào, và một phần cũng do cô đã đi lòng vòng quanh khu này nãy giờ. Cô luôn sẵn lòng tiếp chuyện ít nhiều với bất kỳ ai có ý muốn trò chuyện với cô, cô làm tất cả và bất cứ điều gì có thể để kéo dài quãng đường đến phòng của Constance[1]. Cuối cùng thì chiến thuật trì hoãn của cô cũng phải kết thúc khi cô đến cuối con đường: bốn cánh cửa tạo thành hình bán nguyệt. Ba cánh cửa đã mở sẵn, từ chỗ mình đứng Kitty có thể thấy những người trong phòng và khách thăm mà không cần phải nhòm vào trong. Không nhìn số phòng, cô cũng biết được căn phòng nào có người bạn và cũng là người thầy của cô đang nằm. Cô cảm thấy biết ơn cánh cửa đóng kín đã trì hoãn thêm chút ít thời gian nữa cho mình. Cô khẽ gõ cửa, rất lưỡng lự, muốn cố gắng vào thăm nhưng thực tình chỉ mong đừng ai nghe tiếng, để cô có thể đi về, để cô luôn có thể nói rằng mình đã cố, để cô có thể an lòng, không thấy tội lỗi. Một góc nhỏ trong cô vẫn hiểu đúng đắn rằng chuyện này không thực tế, rằng như thế không đúng. Tim cô đập mạnh, giày cô cọ xuống sàn kin kít trong khi chân cô không ngừng cục cựa, mùi ở đây làm cô phát bệnh. Cô ghét mùi bệnh viện. Cơn buồn ói dâng lên, cô hít thật sâu, cầu trời để trấn tĩnh được, và để bất cứ ích lợi nào mà sự trưởng thành có thể mang lại xuất hiện giúp cô vượt qua thời khắc này. Trong khi Kitty đang mải nhìn xuống chân và hít thở sâu, cánh cửa bật mở và cô bất ngờ đối mặt, hoàn toàn thiếu chuẩn bị, với một y tá cùng Constance yếu ớt thảm thương. Cô chớp mắt một lần, hai lần, rồi đến lần thứ ba thì cô nhận ra mình phải giả vờ, vì nếu để Constance nhìn thấy phản ứng thật của khách đối với bộ dạng của bà thì sẽ không tốt chút nào. Thế là cô cố nghĩ ra cái gì đó để nói, nhưng tắc tị. Chẳng có gì hài hước, chẳng có gì bình thường, chẳng có gì cô có thể nghĩ ra để nói với người bạn đã quen biết mười năm. “Đời tôi chưa thấy cô này bao giờ,” Constance nói, giọng Pháp vẫn còn dù bà sống ở Ireland đã hơn ba mươi năm. Ngạc nhiên thay, giọng bà vẫn khỏe và rõ ràng, đầy tự tin và không run rẩy, như xưa nay vẫn vậy. “Gọi bảo vệ, kêu họ tống cô ta ra khỏi đây ngay.” Cô y tá mỉm cười, mở cửa rộng ra và quay trở lại cạnh Constance. “Em có thể quay lại sau vậy,” rốt cuộc Kitty nói. Cô quay đi nhưng lại thấy mình đối mặt với nhiều trang thiết bị y tế hơn nên đành trở lại, cô tìm thứ gì đó bình thường, thứ gì đó thường gặp mỗi ngày để cô có thể tập trung nhìn vào và tự hão bản thân rằng không phải cô đang ở trong bệnh viện, cái nơi tràn ngập thứ mùi này, nơi có người bạn cô bệnh tật đã ở giai đoạn cuối. “Tôi sắp xong rồi. Chỉ còn đo nhiệt độ cho bà nữa thôi,” y tá nói, đặt nhiệt kế vào tai Constance. “Lại đây. Ngồi đi.” Constance chỉ chiếc ghế cạnh giường. Kitty không thể nhìn vào mắt bà. Cô biết vậy là khiếm nhã, nhưng mắt cô như bị nam châm hút vào những thứ không mắc bệnh và không nhắc cô nghĩ tới người bệnh, vậy là cô tập trung vào món quà trên tay. “Em mang hoa cho chị.” Cô nhìn quanh tìm nơi đặt hoa. Constance ghét hoa. Bà thường để chúng chết úa trong lọ mỗi khi có ai mang đến hòng mua chuộc, xin lỗi hay chỉ thuần túy muốn văn phòng của bà sáng sủa lên. Dù biết thế, mua hoa vẫn là một phần trong chiến thuật trì hoãn của Kitty, đặc biệt khi có cả một hàng người dài nôn nóng chờ tính tiền tại quầy trước cô. “Ôi trời,” y tá nói. “Đúng ra bảo vệ phải cho em biết không được phép mang hoa vào đây chứ.” “Ồ. Ừm, không sao đâu, để em đem vứt ngay.” Kitty cố che giấu vẻ nhẹ nhõm khi cô đứng lên toan bỏ trốn. “Đưa tôi,” y tá nói. “Tôi sẽ để nó ở quầy tiếp tân cho em mang về. Không nên lãng phí một lẵng hoa đẹp thế này chứ.” “Cũng may em có mang theo bánh bông lan.” Kitty lấy chiếc hộp trong túi ra. Y tá và Constance lại đưa mắt nhìn nhau. “Chị đùa? Bánh cũng không được luôn sao?” “Bếp trưởng ở đây muốn bệnh nhân chỉ ăn thức ăn do nhà bếp của mình nấu.” Kitty nộp món hàng cấm cho y tá. “Em cũng có thể mang nó về nhà,” y tá cười, xem kết quả nhiệt kế. “Ổn rồi,” cô ta mỉm cười với Constance. Hai người trao nhau ánh nhìn đầy ẩn ý trước khi cô y tá rời đi, như thể những lời này mang một ý nghĩa hoàn toàn khác - hẳn là thế - bởi vì bà không ổn. Khối u đang gặm nhấm Constance. Tóc bà đã bắt đầu mọc lại sau xạ trị, nhưng lởm chởm lộn xộn quanh đầu, xương sườn lồi rõ dưới tấm áo choàng thẳng đuột của bệnh viện, hai cánh tay xương xẩu nhằng nhịt dây nhợ với ống dẫn, tím bầm vết tiêm và truyền dịch. “May mà em chưa khoe với cô ấy đống ma túy để trong túi,” Kitty nói ngay khi cánh cửa vừa đóng lại sau lưng y tá, và họ nghe tiếng cô ta cười rộ ngoài hành lang. “Em biết chị ghét hoa hoét nhưng mà em quýnh quá. Em định mang cho chị sơn móng tay vàng, nén nhang với cả gương, bởi em nghĩ như thế sẽ rất buồn cười.” “Sao em không mang?” Mắt Constance vẫn xanh lấp lánh đầy sức sống, nếu Kitty chỉ chăm chăm nhìn vào đó, cô gần như có thể quên đi tấm thân gầy mòn kia. Gần như, chứ không hẳn. “Bởi vì em nhận ra là nó không buồn cười.” “Chị sẽ cười đấy.” “Vậy lần tới em mang.” “Lần tới thì buồn cười gì nữa. Chị biết trước hết rồi. Em này…” Bà với ra và siết chặt bàn tay Kitty trên giường. Kitty không thể nhìn đôi tay ấy, chứng thật khổ sở và gầy gò. “Gặp em thật tốt quá.” “Em xin lỗi vì đến muộn.” “Quả là lâu thật.” “Kẹt xe…” Kitty định đùa nhưng lại thôi. Cô đã muộn hơn một tháng. Im lặng. Kitty nhận ra khoảng lặng này là để chờ lời giải thích vì sao cô không đến sớm hơn. “Em ghét bệnh viện.” “Chị biết. Nosocomephobia,” Constance nói. “Gì thế?” “Chứng sợ bệnh viện.” “Em không biết là nó có cả tên đấy.” “Cái gì cũng có tên cả. Chị không ị được hai tuần rồi; người ta gọi đấy là táo bón.” “Có thể viết bài về chuyện đó,” Kitty nói, đầu óc để ở nơi khác. “Thôi em. Chuyện nhuận tràng của chị chỉ thuộc về riêng chị, em, Bob và cái cô tốt tính chăm sóc cửa sau của chị.” “Ý em là cái tin về chứng sợ bệnh viện kìa. Có vẻ như là một câu chuyện hay.” “Vì sao thế?” “Giả dụ em phát hiện một người bệnh nặng, nhưng không thể đi chữa trị.” “Thì điều trị tại nhà. Có gì đâu.” “Hay một thai phụ sắp sinh? Cô ta cứ đi tới đi lui ngoài đường mà không thể ép mình bước qua cánh cổng bệnh viện được.” “Thì sinh trên xe cấp cứu, hay ở nhà, hay ở trên đường luôn.” Constance nhún vai. “Có lần chị đã làm bài về một phụ nữ sinh con trong khi đang lẩn trốn ở Kosovo. Cô ấy hoàn toàn tự xoay xở, mà đó còn là đứa con đầu lòng nữa. Phải hai tuần sau người ta mới tìm thấy cô ấy, hai mẹ con hoàn toàn khỏe mạnh và hạnh phúc bên nhau. Đàn bà châu Phi đẻ con khi làm việc ngoài đồng, rồi trở lại tiếp tục công việc ngay sau đó. Đàn bà các bộ lạc nhảy nhót và sinh con. Phương Tây sinh đẻ theo kiểu cách thật ngược ngạo,” bà nói, xua tay gạt đi, dù chính bà không hề có con. “Chị từng viết bài về việc này rồi.” “Một bác sĩ không thể đến chỗ làm…” Kitty tiếp tục với ý tưởng của mình. “Ngớ ngẩn. Thế thì hắn sẽ bị tước giấy phép.” Kitty cười. “Chị lúc nào cũng thẳng thắn, em cảm ơn chị.” Rồi nụ cười của cô dần tắt và cô nhìn chăm chú vào bàn tay Constance đang nắm lấy tay mình. “Hoặc một cô gái ích kỷ có bạn thân đang bệnh và cô ấy không thể đến thăm?” “Nhưng bây giờ em đã đến và chị rất vui vì gặp em.” Kitty nuốt khan. “Chị chưa hề nhắc gì tới chuyện kia.” “Chuyện gì?” “Chị biết mà.” “Chị không biết liệu em có muốn nhắc đến không.” “Thực sự là không.” “Vậy thì thôi.” Họ ngồi im lặng. “Em đang bị xâu xé trên báo, đài, khắp mọi nơi,” Kitty nói, vẫn lái về chủ đề ấy. “Ở đây chị không có báo.” Kitty ngó lơ đống báo trên bệ cửa sổ. “Cả tuần nay, bất cứ nơi nào em đi, ai cũng nhìn em, chỉ trỏ, thì thầm như thể em là một mụ đàn bà cướp chồng.” “Đó là cái giá phải trả khi đứng dưới ánh đèn sân khấu. Giờ em là ngôi sao truyền hình rồi.” “Em không phải ngôi sao truyền hình, em là một con ngốc đã tự bôi tro trát trấu vào mặt mình trên truyền hình. Khác nhau rõ ràng.” Constance lại nhún vai như thể chuyện đó chẳng có gì to tát. “Chị chưa từng muốn em phơi mặt làm show. Sao giờ chị không nói ‘Chị đã bảo rồi’, và ta cho qua chuyện?” “Chị không nói thế bao giờ. Những lời ấy không ích lợi gì” Kitty gỡ tay khỏi tay Constance, hỏi khẽ, “Liệu em có còn việc làm ở đây không?” “Em chưa nói chuyện với Pete à?” Bà có vẻ giận dữ với thư ký tòa soạn của mình. “Em nói rồi. Nhưng em cần nghe chính chị nói. Quan trọng hơn hết là em được nghe chính chị nói.” “Etcetera sẽ không thay đổi lập trường về việc nhận em làm phóng viên,” Constance quả quyết. “Cảm ơn chị,” Kitty lí nhí. “Chị ủng hộ em làm chương trình Ba Mươi Phút vì chị biết em là một phóng viên giỏi và em có tố chất để trở thành một phóng viên tầm cỡ. Chúng ta ai cũng mắc sai lầm cả, có người lớn có người nhỏ, nhưng rõ ràng không ai hoàn hảo. Chúng ta nhờ những lúc như thế để trở thành một phóng viên tốt hơn và, quan trọng hơn hết, một người tốt hơn. Em có nhớ bài em muốn viết cho chị mười năm trước khi chị phỏng vấn em không?” Kitty cười và rùng mình. “Không,” cô nói dối. “Dĩ nhiên là em nhớ. Chà, nếu em không chịu nói, vậy chị sẽ nói. Chị đã hỏi nếu em muốn viết một bài cho chị về bất cứ thứ gì ngay lúc đó, thì em sẽ viết gì?” “Thực tình là ta không cần tua lại chuyện ấy đâu. Em cũng ở đó mà, chị nhớ chứ?” Kitty đỏ mặt. “Và em nói,” Constance tiếp tục như thể Kitty chưa từng lên tiếng, “là em có nghe chuyện về một chú sâu không thể hóa thân thành bướm…” “Vâng, vâng, em biết.” “Và em muốn tìm hiểu cảm giác khi bị khước từ một điều đẹp đẽ nhường ấy. Em muốn biết cảm giác của chú sâu ấy khi nhìn những con sâu khác hóa thân trọn vẹn và biết rằng mình sẽ không bao giờ có được cơ hội đó. Ngày ta phỏng vấn cũng là ngày diễn ra lễ bầu cử tổng thống Mỹ, và hôm ấy một chiếc thuyền du lịch đã đắm cùng hơn bốn ngàn năm trăm con người trên đó. Trong số mười hai người chị phỏng vấn hôm ấy, em là người duy nhất không nhắc đến chuyện chính trị, chuyện con thuyền, hay cả chuyện mong ước được một ngày gặp Nelson Mandela. Điều khiến em quan tâm nhất là chú sâu tội nghiệp kia.” Kitty mỉm cười. “Vâng, ừ thì, lúc đó em chỉ vừa ra trường. Em nghĩ mình vẫn còn ngây thơ non trẻ lắm.” “Không,” Constance thì thầm, lại nhoài ra nắm tay Kitty. “Trong buổi phỏng vấn ấy em là người duy nhất thực sự nói với chị rằng mình không ngại bay, rằng điều em lo sợ hơn cả là mình không bay được.” Kitty nuốt khan, chực bật khóc. Rõ ràng cô vẫn chưa bay được, và bây giờ cô cảm thấy chuyện đó dường như ngày càng xa vời hơn. “Vài người nói rằng em không nên làm việc tại một nơi đầy nỗi sợ,” Constance tiếp tục, “nhưng nếu không có nỗi sợ, làm sao có được thử thách? Khi chị làm được một bài viết xuất sắc, lý do thường là vì chị đã đương đầu nỗi sợ hãi và thử thách chính mình. Chị nhìn thấy cô gái này lo rằng mình sẽ không bay được và chị nghĩ, à ha, cô gái của chúng ta đây rồi. Và đó là tất cả những gì Etcetera muốn truyền tải. Dĩ nhiên, chúng ta cũng viết về chính trị, nhưng là chuyện về những con người phía sau đó. Chúng ta quan tâm những cung bậc cảm xúc của họ, không chỉ vì chúng ta có thể nghe về đường lối của họ mà vì ta còn nghe được lý do của những đường lối ấy. Chuyện gì xảy ra khiến họ tin vào điều này, chuyện gì xảy ra khiến họ cảm thấy theo cách này? Dĩ nhiên, đôi khi ta cũng nói về chuyện ăn uống, nhưng không phải về chất hữu cơ hay bột mì nguyên cám này nọ, mà là chuyện vì sao và ai. Chúng ta nói về con người, về cảm xúc, về tình cảm. Chúng ta có thể bán kém đi một chút nhưng chúng ta có ý nghĩa hơn - dù đây chỉ đơn thuần là quan điểm của chị, dĩ nhiên. Etcetera vẫn sẽ tiếp tục in các phóng sự của em, Kitty, miễn là em viết những điều chân thật với lòng mình và hoàn toàn không phải những thứ mà người khác bảo với em là hay là tốt. Không ai biết được người khác muốn đọc hay nghe hay xem gì. Con người hiếm khi tự biết; họ chỉ nhận ra khi được trải nghiệm. Cốt lõi để tạo nên cái gì đặc sắc là ở đó đấy. Phải tìm kiếm cái mới, không được xào xáo lại cái cũ và đem mớm cho thị trường.” Bà nhướng mày. “Bản tin đó là của em,” Kitty nói khẽ. “Em không thể đổ tội cho ai cả.” “Có nhiều người can dự vào quá trình thực hiện bản tin chứ không chỉ người viết, chính em cũng biết mà. Nếu em trình cho chị câu chuyện đó, ừ thì, chị sẽ không duyệt đâu, nhưng giả sử nếu chị có duyệt, chị cũng sẽ chặn nó lại trước khi quá trễ. Có những dấu hiệu và đáng lý cấp trên của em phải có ai đó nhìn ra được, nhưng nếu em muốn gánh hết mọi tội lỗi về mình, thì thôi, em cứ hỏi bản thân mình vì sao lại muốn theo câu chuyện đó đến cùng đi.” Kitty còn phân vân không biết mình có phải trả lời không thì Constance lại lấy sức nói tiếp, “Chị từng phỏng vấn một người dường như vô cùng hứng thú với các câu hỏi của chị. Khi chị hỏi có gì mà thú vị thế, ông ta nói với chị rằng ông ta nhận thấy những câu hỏi người phỏng vấn đặt ra tiết lộ nhiều điều về người đó hơn cả những câu trả lời của ông ta tiết lộ bản thân ông ta. Trong suốt buổi phỏng vấn ông ta biết được nhiều điều về chị hơn chị biết về ông ta. Chị thấy như thế rất hay và ông ta nói đúng, ít ra là vào dịp đó. Chị nghĩ một bài báo được viết ra thường tiết lộ về tác giả của nó nhiều hơn là về chính bản thân câu chuyện. Những lớp học báo chí dạy ta rằng phải tách biệt bản thân mình ra khỏi câu chuyện khi viết bài để tránh thành kiến, nhưng lẽ thường ta phải bước vào câu chuyện đó để hiểu, để gắn kết, để giúp khán giả đồng cảm chứ nếu không thì cảm xúc không tồn tại; như thể một con rô bốt kể chuyện, ai thèm quan tâm. Và như thế không có nghĩa đưa quan điểm của mình vào trong bài viết, Kitty, chị cũng ghét điều đó. Chị không thích phóng viên dùng bài báo để nói cho ta biết họ cảm thấy như thế nào. Ai quan tâm một con người nghĩ gì? Một đất nước? Một bức tranh đời sống? Một giới tính? Chị quan tâm điều đó hơn. Ý chị muốn nói đến việc thể hiện sự hiểu biết ở mọi góc độ của bài viết, cho công chúng thấy có cảm xúc nằm bên dưới câu chữ.” Kitty không muốn nghĩ đến việc thực hiện bản tin đó đã tiết lộ điều gì về cô - cô không bao giờ muốn nghĩ đến hay nói về nó lần nữa - nhưng chuyện đó là bất khả vì đài của cô đang bị kiện và chỉ còn một ngày nữa là bước vào phiên xử tội vu khống. Đầu óc cô rã rời, cô mệt mỏi vì phải nghĩ đến nó, mệt mỏi vì phải phân tích xem chuyện quái gì đã xảy ra, nhưng đột nhiên cô cảm thấy mình cần thú tội, cần xin lỗi vì tất cả những sai lầm cô đã gây ra chỉ để một lần nữa cảm thấy mình xứng đáng. “Em muốn thú nhận điều này.” “Chị thích những lời thú nhận.” “Chị biết không, khi chị nhận em vào làm, em đã rất phấn khích, bài báo đầu tiên em muốn viết cho chị chính là chuyện về chú sâu bướm ấy.” “Thật ư?” “Dĩ nhiên em không thể phỏng vấn một con sâu bướm, nhưng em muốn lấy nó làm nền cho câu chuyện về những con người không thể bay lên trong khi họ thực sự muốn, về cái cảm giác bị kìm giữ, cắt cánh.” Kitty nhìn bạn mình nhòa đi trên giường bệnh, đôi mắt to chăm chăm vào cô, và cô kìm nén không bật khóc. Cô chắc chắn Constance hiểu rõ điều mình muốn nói. “Em bắt đầu tìm hiểu câu chuyện… em xin lỗi…” Cô lấy tay che miệng và cố gắng bình tĩnh lại nhưng không kìm được, rồi nước mắt trào ra. “Hóa ra em đã sai. Con sâu bướm em kể với chị, loài Oleander, hóa ra cuối cùng nó cũng bay được. Chỉ là nó hóa thân thành con ngài.” Kitty thấy ngớ ngẩn làm sao khi bật khóc lúc đó nhưng cô không kìm lại được. Không phải tình cảnh của con sâu bướm khiến cô buồn, mà sự việc cô tìm hiểu được khi đó quá kinh khủng, và giờ một chuyện tương tự đã đẩy cô vào rắc rối nghiêm trọng hiện tại. “Nhà đài đình chỉ em rồi.” “Họ làm thế là tốt cho em đấy. Chờ mọi chuyện lắng xuống rồi em có thể quay lại tiếp tục tường thuật những bản tin của em.” “Em không biết tường thuật gì nữa bây giờ. Em sợ em lại làm sai nữa.” “Em sẽ không làm sai nữa đâu, Kitty. Em biết không, kể một câu chuyện - hay, theo cách chị thích dùng - tìm kiếm sự thật, không nhất thiết là phải lăn xả vào dưới mưa bom bão đạn hòng vạch trần điều gian dối. Cũng như không nhất thiết phải long trời lở đất. Chỉ đơn giản là đi được đến cùng sự thật thôi.” Kitty gật đầu và sụt sịt. “Em xin lỗi, chuyến thăm này lẽ ra không phải để nói chuyện về em. Em rất xin lỗi.” Cô cúi gập người trên ghế và gục đầu xuống giường, xấu hổ vì Constance trông thấy bộ dạng này của mình, xấu hổ vì cư xử như thế này khi bạn cô đang bệnh đến vậy và có nhiều chuyện quan trọng hơn cần phải lo lắng. “Nín đi,” Constance an ủi, khẽ vuốt tóc Kitty. “Đó là một kết thúc còn tốt hơn cả những gì chị hằng ao ước. Chú sâu bướm tội nghiệp của chúng ta cuối cùng cũng được bay.” Khi Kitty ngẩng đầu lên, Constance bỗng có vẻ mệt mỏi. “Chị có sao không? Em gọi y tá nhé?” “Không… không. Thi thoảng chị vẫn bị vậy,” bà nói, mi mắt bà trĩu nặng và hấp háy. “Chị ngủ một tí là lại ổn ngay. Chị không muốn em đi. Có nhiều chuyện để nói lắm. Chẳng hạn về Glen,” bà mỉm cười yếu ớt. Kitty nặn ra một nụ cười đáp lại. “Vâng. Chị ngủ đi,” cô thì thầm. “Em ở ngay đây.” Constance lúc nào cũng có thể đọc biểu cảm của cô, có thể bóc trần lời nói dối của cô ngay tức khắc. “Dù gì chị cũng không thích anh ta lắm.” Vài giây sau đó Constance nhắm mắt lại. Kitty ngồi trên bệ cửa sổ trong phòng bệnh của Constance, nhìn xuống những con người đi qua bên dưới, cố gắng suy tính xem con đường nào thưa người nhất để về nhà. Một tràng tiếng Pháp kéo cô ra khỏi dòng suy nghĩ và cô quay lại nhìn Constance đầy ngạc nhiên. Ngoại trừ những lúc chửi thề, trong suốt mười năm cô biết Constance, Kitty chưa từng nghe bà nói tiếng Pháp. “Chị nói gì thế?” Constance thoáng bối rối. Bà đằng hắng và bình tĩnh lại. “Trông em xa xăm quá.” “Có một câu em luôn muốn hỏi chị,” Kitty dịch ghế lại cạnh giường Constance. “Ồ, thế hử? Tại sao Bob và chị không có con phải không?” Bà ngồi dậy trên giường và với tay lấy nước. Bà nhấp một chút qua ống hút. “Không, chị biết tuốt ạ. Chị để chết rũ mọi cây cỏ chị có, em không tưởng tượng nổi chị sẽ làm gì với một đứa bé. Không, em muốn hỏi chị, có câu chuyện nào chị ước mình đã viết nhưng vì sao đó mà chưa từng viết ra không?” Mắt Constance sáng lên. “Ồ, câu hỏi hay đấy. Chuyện đó có lẽ đã là một câu chuyện rồi.” Bà nhướng mày nhìn Kitty. “Bài phỏng vấn của em với những cây bút về hưu về đề tài không được viết ra, ha? Em nghĩ sao? Chị nên nói với Pete về chuyện này. Hay là ta liên hệ với những cây bút về hưu và đề nghị họ viết câu chuyện mà họ chưa từng viết ra, đặc biệt dành cho tạp chí. Những người như Oisín O’Ceallaigh và Olivia Wallace. Cho họ cơ hội được kể. Đó có thể là một số đặc biệt.” Kitty cười. “Chị có bao giờ nghỉ không vậy?” Có tiếng gõ nhẹ lên cửa và chồng Constance, Bob, bước vào. Trông ông mệt mỏi, nhưng ngay khi mắt ông nhìn thấy Constance, ông dịu đi. “Chào, bà xã. À, xin chào, Kitty. Có em ghé chơi thật hay quá.” “Kẹt xe,” Kitty nói, ngượng nghịu. “Anh biết cảm giác đó,” ông mỉm cười, đi vòng qua và hôn lên trán cô. “Đôi khi xe cộ cũng làm anh bị chậm, nhưng muộn còn hơn không, nhỉ?” Ông nhìn Constance, mặt bà nhăn nhó vì tập trung. “Bà đang cố ị hả, bà xã?” Kitty cười. “Kitty hỏi tôi câu chuyện nào tôi luôn muốn viết nhưng chưa từng viết ra đấy.” “Ồ. Đừng bắt bà ấy phải suy nghĩ, bác sĩ dặn rồi,” ông đùa. “Nhưng câu hỏi hay đấy. Để anh đoán. Có phải hồi xảy ra vụ tràn dầu mà bà có được buổi phỏng vấn độc quyền với một con cánh cụt đã chứng kiến mọi việc không?” “Tôi đâu có phỏng vấn độc quyền con cánh cụt nào,” Constance cười, rồi cau mày vì đau. Kitty trở nên lo lắng nhưng Bob, đã quen với việc này, tiếp tục. “Ồ, thế thì là con cá voi rồi. Con cá voi đã chứng kiến mọi việc. Đã kể cho tất tật các sinh vật bên cạnh nó những điều nó thấy.” “Là ông thuyền trưởng,” bà gườm Bob, nhưng đầy âu yếm. “Tại sao chị không phỏng vấn ông ta?” Kitty hỏi, bị cuốn hút bởi tình yêu của hai người dành cho nhau. “Chuyến bay của chị bị hoãn,” bà nói, chỉnh lại tấm ra giường. “Bà ấy không tìm được hộ chiếu,” Bob bật mí. “Em biết căn hộ của bọn anh giống cái gì rồi đấy, có khi mấy cuộn sách Biển Chết[2] vùi ở đó mà mình không hay nữa. Rốt cuộc là bọn hộ chiếu định cư trong máy nướng bánh mì luôn, cho bọn anh khỏi quên. Đại khái bà ấy lỡ chuyến bay nên thay vì Constance có bài phóng sự siêu độc quyền, ông thuyền trưởng trả lời ai đó khác mà chúng ta sẽ không nêu tên.” Ông quay sang Kitty, thì thầm, “Dan Cummings đấy.” “Ôi, ông nói lộ rồi, tôi chết mất,” Constance rền rĩ, vật ra vờ chết. Kitty che tay lên mặt, cảm thấy không phải lắm nếu cô bật cười. “Ái chà, cuối cùng chúng ta cũng thoát được bà ấy,” Bob khẽ trêu. “Vậy câu trả lời là gì, bà xã? Tôi cũng hồi hộp đây.” “Anh thật sự không biết sao?” Kitty hỏi Bob. Ông lắc đầu, và họ cùng nhìn Constance suy nghĩ, nom khá khôi hài. “À,” đột nhiên bà nói, mắt sáng rỡ, “Chị nghĩ ra rồi. Thực ra, đó không phải một ý tưởng xưa cũ gì lắm, một thứ chị nghĩ đến từ năm ngoái trước khi… ừm, đại loại là một thử nghiệm thôi, nhưng luôn khiến chị bận tâm kể từ lúc vào đây.” Kitty ghé sát hơn để nghe. Constance khoái chí vì bắt Bob và Kitty chờ đợi. “Có khi là một trong những ý tưởng tuyệt nhất chị có.” Kitty nôn nóng rên rỉ. “Chị nói nhé, tập hồ sơ đó ở nhà. Trong phòng làm việc của chị. Teresa sẽ cho em vào nếu bà ấy không quá bận xem Jeremy Kyle. Trong xấp ‘T’. Nhan đề ‘Tên’. Em lấy mang qua đây cho chị, rồi chị sẽ nói cho nghe.” “Không!” Kitty cười. “Chị biết em thiếu kiên nhẫn thế nào mà. Làm ơn đừng bắt em chờ.” “Nếu chị nói luôn cho em, em có thể sẽ không quay lại.” “Em hứa sẽ quay lại.” Constance cười. “Được rồi, em lấy tập hồ sơ, và chị sẽ kể em nghe chuyện.” “Hứa nhé.” Họ bắt tay nhau. CHƯƠNG HAI C họn con ngõ sau vắng vẻ hơn, cảm thấy mình như con chuột nhắt chui nhủi trong ống máng, Kitty đạp xe về nhà trong trạng thái rã rời. Sau cảm giác lâng lâng khi ở bên một người bạn, giờ cô lại đắm chìm trong tuyệt vọng, khi thực tại trải ra trước mắt cả hai người thực sự hiện rõ. Ba Mươi Phút, chương trình truyền hình Kitty bắt đầu tham gia năm ngoái, chương trình đã đem lại cho cô đột phá lớn và tréo ngoe thay cũng chính nó là thứ quật cô xuống, chương trình có lượng theo dõi lên đến nửa triệu, một con số ấn tượng đối với quốc gia có dân số năm triệu người, nhưng chưa đủ để biến Kitty thành Katie Couric[3] thứ hai. Giờ đây, nhờ bản tin thảm họa của mình, cô bị đình chỉ tường thuật trên truyền hình và phải ra tòa đối mặt với cáo buộc vu khống. Bản tin được phát sóng bốn tháng trước, vào tháng Một, nhưng chính phiên xét xử sắp đến, giờ chỉ còn cách không đầy một ngày nữa, mới là thứ tràn ngập mặt báo. Gương mặt cô, tội của cô, và tên cô giờ được biết đến bởi hơn nửa triệu con người. Cô biết công chúng rồi cũng sẽ sớm quên cô, nhưng tiếng tăm nghề nghiệp của cô sẽ chịu tổn hại lâu dài; nó đã bị hủy hoại hoàn toàn. Cô biết mình may mắn vì Etcetera, tờ tạp chí Constance sáng lập và làm tổng biên tập, vẫn tiếp tục dùng cô, dẫu lý do để cô còn việc chỉ là sự chống lưng lớn nhất của Constance. Hiện tại không còn mấy người ủng hộ cô nữa, và dù có Bob là phó tổng biên tập cũng như một người bạn tốt, cô không chắc mình có thể giữ được việc bao lâu khi không còn Constance ở đó để chống đỡ cho cô. Kitty sợ cái ngày người thầy của cô không còn hiện diện trong cuộc đời cô nữa, chứ đừng nói đến trong sự nghiệp của cô. Constance đã bên cô từ buổi đầu, hướng dẫn cô, khuyên bảo cô và đồng thời đã để cô tự do tìm tiếng nói của riêng mình cũng như tự mình đưa ra các quyết định, có nghĩa là Kitty sở hữu thành công của riêng cô, nhưng cũng có nghĩa là tên cô gắn với mọi sai lầm cô mắc phải, mà chuyện vừa qua là minh chứng rõ ràng nhất. Điện thoại cô lại rung lên trong túi và cô mặc kệ như vẫn làm suốt tuần nay. Các nhà báo gọi cho cô khi lộ tin vụ này bị đưa ra tòa, những kẻ cô từng xem là bạn thiếu điều quấy rối cô chỉ để xin một câu phát ngôn. Ai cũng có chiến thuật riêng. Một số hỏi thẳng cô, những người khác lại chọn khổ nhục kế: “Em thấy rồi đó, Kitty, bọn anh đang bị gí quá đây. Sếp biết bọn mình là bạn bè, lão muốn anh phải có cái gì đó.” Vài người tự dưng mời cô ăn tối, uống nước, mời đến dự tiệc kỷ niệm đám cưới của bố mẹ họ hay tiệc mừng thọ tám mươi tuổi của ông họ, không hề đả động đến vấn đề kia. Cô không gặp hay nói chuyện gì với bất kỳ ai trong đám nhưng cô đã học được rất nhiều và từ từ gạch tên họ khỏi danh sách gửi thiệp Giáng Sinh của mình. Người duy nhất chưa gọi tới chính là anh bạn Steve của cô. Họ cùng học báo chí ở đại học và là bạn bè với nhau từ đó. Khát khao duy nhất của anh là được viết bài về thể thao, nhưng đến giờ chỉ mới tới được đoạn viết về chuyện đời tư của đám cầu thủ bóng đá trên báo lá cải. Chính anh là người gợi ý cho cô đi làm ở Etcetera. Anh đã đọc một số của tờ tạp chí này trong phòng chờ bác sĩ khi cô vào hỏi xin thuốc ngừa thai khẩn cấp sau cái đêm mây mưa duy nhất của hai người, và từ đó họ nhận ra định mệnh chỉ cho phép họ là bạn của nhau. Suy nghĩ về Steve cùng cái điện thoại đang kêu trong túi khiến cô có linh cảm nên dừng xe lại lấy điện thoại ra. Đúng là anh. Cô thực sự cân nhắc việc không trả lời. Cô thực sự nghi ngờ anh. Hậu quả của bản tin phát trên chương trình Ba Mươi Phút đã đập tan tành khả năng chọn người để tin tưởng của cô. Cô trả lời điện thoại. “Không ý kiến,” cô độp ngay. “Gì cơ?” “Tôi bảo là, không ý kiến. Ông có thể nói sếp ông rằng ông không nói chuyện với tôi, rằng hai đứa mình rã đám rồi, thực ra tôi thấy dám có vụ đó lắm vì tôi không ngờ ông có gan gọi cho tôi và phá hoại tình bạn cái kiểu này.” “Bà hút cần à?” “Hả? Không. Chờ tí, đây là một phần của câu chuyện à? Bởi vì nếu bây giờ cái đám đó còn dám nói tôi là con nghiện nữa thì chúng nó đi mà…” “Kitty, im đi. Tôi sẽ báo sếp tôi là bà, Kitty Logan, người mà đằng nào lão cũng chưa từng nghe tới, không có ý kiến gì về dòng sản phẩm mới của Victoria Beckham cả bởi nguyên ngày hôm nay tôi chỉ được nói với người khác về mỗi vụ đó thôi. Không phải trận đấu sắp tới giữa Carlow với Monaghan, một trận đấu siêu quan trọng vì Carlow chưa từng vào đến chung kết toàn Ireland từ 1936 và Monaghan chưa từng vào đến chung kết từ 1930, nhưng có ai thèm quan tâm đâu. Không phải trong cơ quan tôi. Không. Tất cả những gì bọn tôi quan tâm là liệu dòng sản phẩm mới của V.B. xuất sắc hay xấu hoắc, chất chơi hay dở hơi, hay bất cứ hai từ nào trái nghĩa nhau miễn vần là được, còn tôi thì đang bị bắt phải nghĩ thêm mà bí đây.” Anh làm một tràng và Kitty phá lên cười, trận cười đã đời đầu tiên trong cả tuần nay của cô. “Ờ, tôi mừng là một trong hai ta thấy nó buồn cười.” “Tôi tưởng giờ ông được viết bài về bóng đá rồi?” “Bà đó cưới David Beckham, chắc vậy được coi là viết bài về bóng đá rồi đó. Ngoài việc tôi cần bà giúp viết cái thứ nhảm nhí kia, tôi gọi để xem bà có đang rữa xác trong nhà không.” “Ờ, ông đúng rồi đó. Tôi đang rữa xác ra đây nhưng phải tạm dừng để đi thăm Constance. Giờ thì tôi đang về nhà để rữa tiếp.” “Tốt, lát tôi gặp bà. Tôi đang đứng trước cửa nhà bà đây. À, mà Kitty này,” giọng anh trở nên nghiêm trọng, “tôi đề nghị bà mang về ít thuốc tẩy với một cái bàn chải chà sàn nào tốt tốt nhé.” Bụng Kitty quặn lên. • • • Dòng chữ “Con Điếm Lều Báo” sơn ngang cửa nhà là thứ Kitty nhìn thấy sau khi leo lên đỉnh cầu thang với chiếc xe đạp ôm trong tay. Căn hộ nhỏ nằm ở Fairview, Dublin và nhờ ở khá gần trung tâm thành phố, cô có thể đạp xe, đôi khi còn đi bộ vào trung tâm. Cô thuê được nó cũng do nó nằm ngay trên một tiệm giặt là. “Có khi bà nên chuyển chỗ đi,” Steve nói trong lúc cả hai quỳ xuống và bắt đầu chà cửa. “Miễn đi. Tôi không thuê nổi chỗ nào khác đâu. Trừ phi ông biết có căn hộ trống nào ở trên đầu một tiệm giặt là.” “Điều kiện của bà là thế hả?” “Khi tôi mở bất cứ cái cửa sổ nào trong nhà dù ngày hay đêm, tôi đều được tắm mình trong thứ hóa chất giặt tẩy gọi là tetrachloroethylene, còn được gọi là perchloroethylene, PCE hay, thường gặp nhất, PERC. Nghe qua bao giờ chưa?” Steve lắc đầu và xịt thêm thuốc tẩy lên cánh cửa. “Nó được dùng trong giặt quần áo cũng như tẩy nhờn các bộ phận kim loại. Tổ chức Y tế Thế giới công nhận nó là một chất gây ung thư. Các nghiên cứu cho thấy việc tiếp xúc ngắn hạn trong tám tiếng hay dưới bảy trăm ngàn microgram trên mét khối không khí có thể gây ra các triệu chứng thần kinh trung ương như chóng mặt, buồn ngủ, đau đầu, mê sảng và mất thăng bằng. Cái chỗ đỏ đỏ này khó tẩy quá nhỉ?” “Bà làm chỗ xanh đi, chỗ đỏ tôi lo.” Họ đổi chỗ. “Tiếp xúc với ba trăm năm mươi ngàn microgram trong bốn tiếng ảnh hưởng tới hệ thần kinh thị giác.” Kitty nhúng miếng xốp vào xô nước của mình và tiếp tục chà cánh cửa. “Việc tiếp xúc lâu dài của những người thợ giặt là cho thấy các thay đổi sinh học trong máu và nước tiểu. PERC có thể đi xuyên qua cửa, trần và các vật liệu xây tường, và có một nghiên cứu trên mười bốn người trưởng thành khỏe mạnh sống trong những căn hộ gần các tiệm giặt là cho thấy kết quả những bài kiểm tra hành vi của họ thấp hơn so với mặt bằng chung của những người không tiếp xúc.” “Vậy đây là vấn đề của bà à? Theo những gì bà huyên thuyên nãy giờ thì tôi hiểu là bà đã làm một bài phóng sự về PERC chứ gì.” “Không hẳn. Tôi nghiên cứu nó, rồi tôi nói với ông chủ nhà tầng dưới là tôi đang làm một bài phóng sự về nó và tôi sẽ lan truyền vụ này ra cho cả làng cả xóm biết và tôi sẽ nói với nhân viên về những ảnh hưởng khi làm việc với PERC, thế là lão giảm tiền thuê xuống còn một trăm euro.” Steve nhìn cô, sững sờ. “Họ có thể cho người khác thuê mà.” “Tôi nói với họ là tôi sẽ kể với người tiếp theo tới thuê và tất cả những người thuê khác mà họ tìm được. Họ hoảng luôn.” Anh lắc đầu. “Bà thật là…” “Khôn?” cô mỉm cười. “Một con điếm lều báo,” anh nói. “Có khi ta nên nghỉ không chà chỗ này nữa, họ viết đúng rồi.” Anh vẫn nhìn chăm chăm vào cô như thể đột nhiên không còn nhận ra cô nữa. “Này! Mấy người kia mới là bọn dùng PERC mà!” “Vậy chuyển chỗ ở đi.” “Thế thì đắt lắm.” “Kitty, bà không thể cứ đe dọa người khác như vậy được. Bà không thể lấy công việc của mình ra để đạt được điều mình muốn. Như thế gọi là bắt nạt đấy, biết không.” “Ù ôi.” Cô đảo mắt, nhưng vẫn tức tối thả miếng xốp xuống xô và mở cửa vào nhà. Cô để cửa ngỏ, ngồi bên bàn bếp và chờ anh vào theo. Cô cắn một miếng bánh vừa mang về. Steve đóng cánh cửa lại sau lưng nhưng không ngồi xuống. “Có điều gì ông muốn xổ ra không, Steve?” “Tôi ghé qua để xem liệu bà có ổn không trước phiên tòa ngày mai, nhưng bà càng nói, tôi càng không thể thông cảm cho bà được.” Cô thấy miếng bánh trong miệng như hóa sỏi. Cô nuốt nhanh. Và rồi, cuối cùng, anh cũng trút xuống. “Một thầy giáo thể dục đáng kính, có vợ, có một gia đình trẻ, và bà buộc tội người ta đã lạm dụng tình dục hai học sinh và có một đứa con. Trên truyền hình. Trước cả nước. Và bà đã sai.” Cô nhìn anh, mắt đỏ hoe. Cách anh nói với cô khiến tim cô đau nhói, và dù cô biết mình đã làm sai, đã phạm lỗi, cô vẫn thấy mình không đáng bị nói vào mặt như thế. “Tôi biết hết rồi, tôi biết mình đã làm gì,” cô nói, nghe tự tin hơn cô cảm thấy. “Và bà có hối hận không?” “Dĩ nhiên là có chứ,” cô bùng nổ. “Sự nghiệp tôi tiêu tùng. Chắc chắn chả ma nào thèm nhận tôi nữa. Tôi làm thiệt hại cho nhà đài thế nào ai mà tính nổi, một khi anh ta thắng kiện, mà chắc chắn là thắng rồi, và có trời mới biết án phí là bao nhiêu, rồi còn danh tiếng của họ nữa. Tôi tiêu rồi.” Thấy mình yếu đuối, Kitty nhìn cậu bạn vốn thường bình tĩnh giờ đang cố gắng kiềm chế. “Bà thấy đó, tôi thấy khó chịu chỗ này, Kitty.” “Gì?” “Giọng điệu của bà, bà rất… xấc xược với tất cả chuyện này.” “Xấc xược ư? Tôi đang lo đây, Steve!” “Lo cho bản thân bà thôi. Cho ‘Katherine Logan, phóng viên truyền hình’,” anh nói, ngoáy ngoáy mấy ngón tay làm dấu ngoặc kép. “Không chỉ thế,” cô nuốt khan. “Tôi cũng thật sự lo cho công việc của mình ở Etcetera nữa. Có rất nhiều thứ bị đe dọa, Steve.” Anh bật cười nhưng không phải vì vui. “Đó chính là điều tôi muốn nói đấy, bà lại thế nữa. Tất cả những gì tôi nghe từ miệng bà chỉ là tên của bà, danh tiếng của bà và công việc của bà bị hủy hoại như thế nào. Tất cả chỉ xoay quanh bà. Khi tôi nghe bà kể là bà làm những trò ngu ngốc như sẽ viết bài để dọa ông chủ nhà, nó khiến tôi khó chịu. Bà khiến tôi khó chịu.” Anh thôi bước tới bước lui và nhìn chăm chăm vào cô. “Bà làm tôi thấy như thế suốt cả năm qua.” “Cả năm qua? Ồ, ô kê, có người đang thù tôi vụ gì rồi đây,” cô trả lời, kinh ngạc. “Tôi phạm sai lầm với bản tin của mình. Còn vụ căn hộ ư? Chuyện đó vô hại! Chờ đó, tôi nhớ ông có lần giả vờ phát hiện ra một cọng lông mu trong cái burger ăn gần hết của ông chỉ để được đền cho một cái khác miễn phí. Và ông cũng thành công mà. Ông quản lý tội nghiệp đó, ông làm người ta xấu hổ muốn chết trước mặt những khách hàng khác, làm ông ta không còn lựa chọn nào khác.” “Lúc đó tôi mười tám tuổi,” anh khẽ nói. “Bà ba mươi hai rồi.” “Ba mươi ba. Ông lỡ sinh nhật vừa qua của tôi,” cô thêm vào như trẻ con. “Tôi là như thế đó; đi đâu tôi cũng thấy có tin tức cả.” “Tin tức để lợi dụng người khác.” “Steve!” “Tin bài của bà từng rất hay, Kitty. Rất tích cực. Chúng chứa đựng khát khao được kể những câu chuyện hay. Không vạch trần, hay gài bẫy người khác.” “Tôi xin lỗi vì không nhận ra tin về dòng sản phẩm mới của Victoria Beckham ông viết sẽ thay đổi thế giới,” cô nanh nọc. “Ý tôi muốn nói là, tôi từng thích đọc chúng, nghe nói về chúng. Giờ bà chỉ là…” “Giờ tôi là gì?” Mắt cô ngấn nước. “Thôi không có gì.” “Không, xin ông đấy, làm ơn nói tôi biết tôi là cái gì, bởi vì cả tuần qua tôi chỉ mới nghe thấy nó trên mọi bản tin truyền hình, đọc thấy nó trên mọi trang Internet và còn được vẽ graffiti lên cửa nhà tôi thôi, và tôi thật sự rất muốn biết người bạn thân nhất của tôi nghĩ gì về mình bởi vì đó cũng chỉ giống như phết thêm kem lên cái bánh thôi mà,” cô hét lên. Anh thở dài và nhìn ra chỗ khác. Hai người không nói gì thật lâu. “Làm sao tôi sửa chữa chuyện này đây, Steve?” cuối cùng cô hỏi. “Tôi phải làm gì để ông và cả phần còn lại của thế giới không ghét tôi?” “Bà nói chuyện với anh ta chưa?” “Colin Maguire? Không đâu. Tụi tôi sắp bắt đầu phiên xử. Nếu tôi lảng vảng gần anh ta có khi tôi còn gặp thêm rắc rối nữa. Bọn tôi đã xin lỗi anh ta ngay lúc mở đầu của Ba Mươi Phút, sau khi phát hiện ra anh ta không phải bố đứa bé. Bọn tôi ưu tiên cho chương trình.” “Bà có nghĩ làm thế thì anh ta thấy ổn hơn không?” Cô nhún vai. “Kitty, nếu bà gây ra cho tôi những gì bà đã gây ra cho anh ta, tôi sẽ làm những chuyện còn kinh khủng hơn là người ta làm với cánh cửa nhà bà đó. Tôi sẽ muốn giết bà đó,” anh lạnh lùng nói. Mắt Kitty mở to. “Steve, đừng làm tôi sợ thế.” “Đây là chỗ bà không hiểu, Kitty. Đây không phải chuyện sự nghiệp của bà. Hay tiếng thơm của bà. Đây không phải là chuyện về bà. Đây là chuyện về anh ta.” “Tôi không biết phải làm gì,” cô bứt rứt. “Có lẽ nếu tôi giải thích được chuyện gì đã xảy ra thì… Hai người phụ nữ đó thuyết phục lắm, Steve à. Câu chuyện của họ khớp nhau, ngày tháng, thời gian, mọi thứ đều rất… thật. Tin tôi đi, tôi dò đi dò lại rất kỹ. Đâu phải tôi thấy thế là nhào vào ngay đâu. Tôi đã mất sáu tháng. Nhà sản xuất hậu thuẫn cho tôi, cả biên tập viên nữa, tôi không phải người duy nhất gây ra chuyện này. Và đây đâu phải chỉ là chuyện về anh ta. Ông không thấy ư? Đây là chuyện về rất nhiều những kẻ ấu dâm và quấy rối tình dục ở Ireland, những kẻ giữ vị trí trong các trường học và làm những công việc khác có liên quan trực tiếp tới trẻ em, những kẻ từng bị báo cáo và cáo buộc vì hành vi quấy rối học sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.” “Ngoại trừ anh ta. Anh ta hoàn toàn vô tội.” “Được rồi! Ngoại trừ anh ta,” cô nói, tuyệt vọng. “Tất cả những tin khác tôi từng làm đều đúng hết cả! Có ai đả động gì tới chúng đâu!” “Bởi vì công việc của bà là vậy, phải đúng. Đâu thể chúc mừng bà vì thế được.” “Bất cứ phóng viên nào trong căn phòng đó đều cũng sẽ làm hệt như vậy, nhưng lá thư lại gửi cho tôi.” “Thư gửi cho bà là có lý do. Mấy người phụ nữ đó gài bà và họ lợi dụng bà để gài anh ta. Khi đó bà chuyên thực hiện những bản tin nhảm nhí nên họ biết là bà sẽ muốn nhảy vào vụ này ngay lập tức, giành lấy vinh quang cho mình.” “Không phải là chuyện tôi có vinh quang hay không.” “Không phải ư? Tất cả những gì tôi biết là tôi chưa từng thấy bà kích động như vậy từ cái ngày bà nhận được việc trong chương trình đó. Và người ta cho bà làm về trà, Kitty. Nếu Constance kêu bà làm một bài về trà, bà hẳn sẽ bảo chị ấy đi chết đi. Truyền hình khiến bà kích động.” Cô cố gắng vờ như đó không phải sự thật nhưng không thể. Anh đã đúng. Ba Mươi Phút gồm một bản tin thời sự điều tra lớn - trọng tâm, tất cả mọi người đều muốn tham gia vào đó - cùng các mẩu tin vắn, ở địa phương, không mấy quan trọng được lót vào để làm đầy chương trình. Bản tin đầu tiên của cô là tìm hiểu xem vì sao người tiêu dùng lựa chọn nhãn hiệu trà họ mua. Mất không biết bao nhiêu chuyến tham quan nhà máy chế biến trà, lượn lờ ở các hàng kệ trong siêu thị, kể cả ghé qua các sự kiện uống trà cộng đồng buổi sáng, cô mới nhận ra người ta đơn giản chỉ chọn theo nhãn hiệu mà bố mẹ mình uống thôi. Một kiểu truyền thống gia đình. Bản tin dài bốn phút năm mươi giây và Kitty tin rằng cô đã có được một thành phẩm tuyệt vời. Cô làm được bốn tháng thì nhận được lá thư đó, nó được gửi đến cho cô, từ hai người phụ nữ muốn tố cáo Colin Maguire, ngay lập tức, cô tin họ sái cổ, thế là cô hợp tác với hai người và giúp họ thu thập thông tin chống lại anh ta. Cô đã mờ mắt bởi những thứ xô bồ, kịch tính, bởi không khí ở văn phòng truyền hình, bởi cơ hội được thoát ra khỏi những mẩu tin ngọt ngào vô hại sang thực hiện những tin tức nghiêm túc hơn, và trong quá trình tìm hiểu sự thật cô đã nói dối, lời nói dối nguy hiểm, và đã hủy hoại cuộc đời một người đàn ông. Steve nhìn quanh căn hộ. “Giờ sao?” cô hỏi, hoàn toàn kiệt sức. “Glen đâu?” “Đi làm.” “Bộ bình thường hắn mang máy pha cà phê đến chỗ làm à?” Cô quay sang nhìn kệ bếp, bối rối, nhưng điện thoại cô bỗng xen ngang. “Chết rồi. Là mẹ.” “Mấy hôm nay bà có nói chuyện với bố mẹ không?” Kitty nuốt khan và lắc đầu. “Trả lời đi,” anh nói, không chịu bỏ đi đến khi cô trả lời. “A lô?” Cô nhả từng từ một để nhấn mạnh và rồi Steve bỏ đi. “Katherine, phải con không?” “Vâng.” “Ôi, Katherine…” Mẹ cô bật khóc nức nở. “Katherine, con không biết đâu…” Bà gần như nói không thành tiếng. “Mẹ, có gì thế?” Kitty ngồi thẳng dậy, hoảng sợ. “Bố bị sao ạ? Mọi người có sao không?” “Ôi, Katherine,” bà Logan sụt sịt. “Mẹ không chịu nổi nữa đâu. Ở đây cả nhà chưa bao giờ thấy nhục nhã như thế. Làm sao con dám làm vậy? Làm sao con dám làm vậy với người thầy tội nghiệp đó hả?” Kitty thả lỏng người chuẩn bị chịu đòn. Ngay lúc đó cô nhận ra cái ti vi plasma của Glen đã biến mất, và sau khi kiểm tra lại, quần áo trong tủ của anh ta cũng đã không cánh mà bay. CHƯƠNG BA M ột tuần sau, như thể đó là bảy ngày dài nhất cuộc đời cô, Kitty mồ hôi đầm đìa tỉnh giấc khỏi một cơn ác mộng. Tấm chăn nhăn nhúm thành đống quanh chỗ cô nằm, tim cô đập dữ dội. Cô không dám nhìn quanh phòng, nhưng sau khi cơn ác mộng đã phai dần trong tâm trí cô thu hết can đảm ngồi dậy. Cô không thở được. Cô mở tung cửa sổ phòng ngủ và hít thở sâu không khí bên ngoài, nhưng luồng hơi nước bốc lên từ ống khói của tiệm giặt là hoạt động hai mươi bốn trên bảy chui thẳng vào phổi cô. Cô ho sặc sụa, sập cửa sổ lại và chạy đến chỗ tủ lạnh, khỏa thân đứng trước cánh cửa mở hòng hạ nhiệt xuống. Cô chưa sẵn sàng cho ngày mai. Cô chẳng có tí ý niệm gì trong việc chuẩn bị cho ngày mai cả. “Danh dự của anh Colin Maguire bị tổn hại không gì bù đắp nổi, cuộc đời anh hoàn toàn bị xáo trộn, anh bị gia đình và cộng đồng xa lánh, tất cả đều là hậu quả của chương trình Ba Mươi Phút được phát sóng vào ngày mười tháng Một. Katherine Logan chất vấn anh Maguire ngay bên ngoài cơ quan nơi anh làm việc và cáo buộc anh tội xâm hại tình dục hai cô gái ở tuổi thiếu niên và làm bố của một đứa bé. Mặc dù anh liên tục phủ nhận và đề nghị làm xét nghiệm huyết thống, chương trình vẫn được phát sóng. Việc làm bất cẩn cũng như cách hành xử thiếu chuyên nghiệp của Katherine Logan, Donal Smith và Paul Montgomery đã hủy hoại cuộc sống của anh Maguire.” Kitty ngồi ở tòa án, cạnh nhà sản xuất Paul cùng biên tập viên Donal của chương trình Ba Mươi Phút, lắng nghe bản cáo trạng dài lê thê trong cuộc dàn xếp trị giá bốn trăm ngàn euro tiền thiệt hại tính theo giá trị bồi thường và thiệt hại tính theo mức độ nghiêm trọng. Ở gần đó, Colin Maguire và gia đình anh ta - vợ, bố mẹ, anh chị em - cùng tất cả mọi người anh ta quen biết đến để động viên anh ta đều đang nhìn chằm chằm vào cô, mắt họ xoáy vào gáy cô. Cô cảm thấy nỗi căm ghét của họ, cô cảm thấy nỗi tức giận của họ, nhưng trên hết thảy cô cảm thấy nỗi đau của Colin. Anh ta gần như cúi gằm mặt, mắt dán chặt xuống đất, cằm tì vào ngực. Trông như thể anh ta không hề chớp mắt suốt bao năm. Đội ngũ thực hiện chương trình Ba Mươi Phút và cố vấn pháp lý của họ rời tòa án, nhanh chóng lao qua làn sóng thợ ảnh và máy ghi hình, trong đó có cả người từ chính đài của họ, người ta chĩa máy vào mặt Kitty như thể cô là một trong số những tên tội phạm mà cô thường thấy bước ra khỏi tòa nhà này trên truyền hình. Cô cúi đầu và rồi, nhận ra như thế khiến mình trông có tội, cô lại ngẩng lên. Ngẩng đầu, chịu phạt, và bước đi, cô lặp đi lặp lại với chính mình, cố gắng giữ cho nước mắt không trào ra. Ánh chớp máy ảnh khiến cô hoa mắt và cô lại phải cúi nhìn mặt đường lần nữa. Hành động bước đi đột nhiên trở nên gượng gạo, như cử động của một cỗ máy đòi hỏi nỗ lực cao độ. Cô tập trung vào việc bước chân này lên trước chân kia, cố gắng vung tay trái khi bước chân phải chứ không để lẫn lộn. Cô tập trung giữ nguyên nét mặt, không cười nhưng cũng không muốn trông thiểu não. Cô biết những tấm ảnh này sẽ còn đó mãi về sau, cô biết những đoạn phim này sẽ được tua đi tua lại, rồi sẽ được đặt trong kho lưu trữ cho phóng viên xem lại. Cô biết vì ngày nào cô cũng xuống đó làm việc. Cô không muốn tỏ ra quá thản nhiên, nhưng cô không muốn người ta nghĩ ngay rằng cô có tội. Không phải lúc nào người ta cũng nghe tường thuật, họ chỉ nhìn hình ảnh. Cô muốn mình trông vô tội nhưng ăn năn. Hối lỗi, chỉ thế thôi. Cô cố gắng giữ lại chút thể diện và tự trọng dù cô thấy như mình chẳng còn gì bên trong cả, và người ta không ngừng gào thét vào mặt cô. Những người ủng hộ Maguire đã nhanh chóng ra khỏi tòa án và tràn xuống đường để trả lời phỏng vấn với báo giới, cũng như công kích đội ngũ của chương trình Ba Mươi Phút. Cô có thể nghe thấy sau lưng vang lên những lời lăng mạ và xỉ vả của họ, còn nhà báo nào muốn lời bình luận của mình được nghe thấy thì phải cố cao giọng hết sức để át đi những tràng chửi rủa. Những chiếc xe chạy trên đường Inns giảm tốc độ để xem bạo loạn, để xem ai đang bị giới truyền thông vây hãm, ai đang bị gí bởi giới báo chí. Bị đè nén và chèn ép, bị vắt kiệt sức lực và tinh thần, mọi thứ bị rút sạch, Kitty nhận ra đây chính là điều mình đã làm với Colin Maguire, khi đám phóng viên huých đẩy cô, cố theo kịp bước chân cô. Kitty tiếp tục đi, hết bước này đến bước khác; cô chỉ làm được thế. Ngẩng đầu, đừng cười, đừng khóc, đừng ngã, cứ bước. Khi họ đến được văn phòng luật sư của mình gần đó và đã thoát khỏi đám phóng viên, Kitty thả túi xuống sàn, gục đầu vào mặt tường lạnh lẽo, hít thở thật sâu. “Chúa ơi,” cô hổn hển, cảm thấy toàn thân như bị thiêu cháy. “Em có sao không?” Donal hỏi khẽ. “Không,” cô thì thầm. “Em xin lỗi, em thực lòng xin lỗi về mọi chuyện.” Cô cảm thấy cái vỗ nhẹ lên vai và biết ơn cử chỉ an ủi đó của ông. Cô đã gây ra chuyện này và ông hoàn toàn có quyền chỉ trích cô. “Thật là lố bịch,” Paul đi tới đi lui trước bàn viên luật sư trong phòng bên cạnh, nổi giận đùng đùng. “Bốn trăm ngàn euro, cộng thêm án phí của hắn ta. Đâu có gì giống như ông hứa hẹn đâu.” “Tôi nói là có thể…” “Đừng có lật lọng với tôi,” ông nạt nộ. “Thật kinh khủng. Làm sao họ đối xử với chúng ta như thế được? Chúng ta đã xin lỗi rồi. Công khai. Ngay đầu chương trình ngày tám tháng Hai. Bốn trăm năm mươi ngàn người xem chúng ta xin lỗi, rằng chúng ta biết hắn ta vô tội, hàng triệu người xem trên Internet và có Chúa mới biết bao nhiêu lượt xem nữa sau hôm nay. Ông biết không, tôi cá là chúng ta đã bị gài ngay từ đầu rồi. Hai con đàn bà đó, tôi cá là bọn chúng với tên Colin Maguire cùng một giuộc cả, và chúng sẽ ăn đồng chia đủ số tiền đó. Tôi biết tỏng cả. Giờ thì có gì còn làm tôi ngạc nhiên được nữa. Chúa ơi. Bốn trăm ngàn. Tôi biết ăn nói sao với tổng giám đốc bây giờ?” Kitty ngẩng đầu lên khỏi mặt tường lạnh lẽo ngoài hành lang và đứng trước cánh cửa vào văn phòng luật sư. “Chúng ta đáng bị như thế mà, Paul.” Bầu không khí lặng phắc và cô nghe tiếng Donal hít vào ở sau lưng mình. Paul quay lại và nhìn chằm chằm vào cô như thể cô chẳng là gì cả, và như thế là vẫn còn hơn những gì cô cảm thấy từ nãy đến giờ. “Chúng ta đã hủy hoại cuộc sống của Colin Maguire. Chúng ta đáng phải nhận từng lời từng chữ mà họ gán cho ở trong đó. Đáng ra chúng ta không nên phạm phải một sai lầm trầm trọng như vậy và giờ chúng ta phải chịu trách nhiệm cho hành động của chúng ta.” “Hành động của chúng ta? Đâu phải. Hành động của cô. Cô hủy hoại cuộc sống của hắn ta, tôi chỉ là thằng ngu đi tin tưởng rằng cô đã làm tốt phận sự của mình và đã thực sự tìm hiểu cặn kẽ. Tôi biết ngay là chúng tôi không bao giờ nên cho cô thực hiện tin này mà. Nhớ cho kỹ, đài này không bao giờ chứa chấp cô nữa đâu, cô nghe rõ chưa, Kitty? Cô chẳng biết cóc khô gì về phóng sự hết,” ông hét. Kitty gật đầu và lùi lại. “Chào anh, Donal,” cô khẽ nói. Ông gật đầu, và cô rời tòa nhà theo lối cửa sau. Cô sợ quay về căn hộ của mình vì hai lý do. Cô không chắc liệu phán quyết của tòa án sẽ góp phần châm ngòi thêm các cuộc tấn công vào nhà ở của cô hay sẽ giúp dập tắt chúng khi giờ đây Colin đã một lần nữa được minh oan và được bồi thường vật chất. Lý do thứ hai là cô sợ phải ở một mình. Cô không biết phải làm gì; cô không thể cứ tiếp tục nghĩ mãi về chuyện này, cứ tiếp tục trách móc bản thân về những gì mình đã gây ra, nhưng cô lại thấy không phải nếu cho qua tất cả. Cô xứng đáng bị trừng phạt, cô cần phải nếm trải từng giây từng phút cảm giác nhục nhã này. Cô lấy xe đạp để trong ngõ sau tòa án Four Courts và đạp về hướng nhà Constance. Paul có thể nói rằng cô không biết cóc khô gì về phóng sự nhưng cô quen một bậc thầy về chuyện đó, và giờ đây có lẽ là lúc thích hợp để bắt đầu học lại. Constance và Bob sống trong căn hộ dưới tầng hầm một tòa nhà ba tầng xây theo lối kiến trúc thời Edward ở Ballsbridge, phần còn lại của tòa nhà là trụ sở tòa soạn. Qua năm tháng căn hộ dưới tầng hầm cũng đã trở thành văn phòng mở rộng, nơi họ chia sẻ công việc và chung sống suốt hai mươi lăm năm qua. Nhà bếp, chưa từng được dùng đến bởi buổi tối họ đều đi ăn ngoài, trở thành nơi chất chứa đồ lưu niệm và vật dụng họ nhặt nhạnh về từ những chuyến viễn du. Những tác phẩm nghệ thuật lẫn lộn đủ mọi thể loại được đặt khắp nơi trong nhà: tượng điêu khắc gỗ mun đặt kế tượng Phật Di Lặc cùng tượng phụ nữ khỏa thân bằng thủy tinh Venice, mặt nạ từ châu Phi và từ Venice được đeo trên đầu gấu bông cũ, rồi trên tường còn treo cả tranh khắc và tranh thủy mặc Trung Quốc bên cạnh tranh truyện trào phúng yêu thích của Bob. Cả căn hộ toát lên tinh thần của họ. Nó có cá tính, nó rộn ràng, nó căng tràn sức sống. Bà quản gia, Teresa, đã làm việc cho Constance và Bob suốt hai mươi lăm năm và giờ đã bước vào tuổi bảy mươi. Bà dường như chẳng động tay động chân làm gì ngoài việc lau chùi sơ sài và xem Chương trình Jeremy Kyle, nhưng Constance, vốn cũng không phải một người quá câu nệ chuyện nhà cửa gọn gàng, không nỡ cho bà thôi việc. Teresa vốn không còn xa lạ gì Kitty nữa nên bà ngay lập tức mời cô vào nhà mà chẳng thắc mắc chi rồi lại quay trở về với chiếc ghế bành cùng tách trà của mình để theo dõi hai ông bà nọ gào vào mặt nhau khi kết quả kiểm tra nói dối không thiên về phe nào cả. Kitty thấy mừng vì Teresa không bao giờ xem tin tức và chẳng hay biết gì về vụ lùm xùm trong tuần, đỡ cho cô phải chịu cảnh hỏi han. Cô đi thẳng vào phòng làm việc của Constance và Bob. Bàn của họ đối diện nhau và đều trông như thể có hàng tấn rác chất chồng bên trên, nhưng thật ra toàn là giấy tờ quan trọng. Trên bàn của Constance bày những tấm ảnh phụ nữ Pháp thập niên 1930 khỏa thân thả dáng đầy khêu gợi. Bà đặt chúng ở đó để Bob tha hồ ngắm, và đổi lại Bob cũng để ảnh đàn ông Phi châu khỏa thân trên bàn mình cho bà. Mặt sàn lộn xộn y như mặt bàn, thảm Ba Tư họa tiết phức tạp và thảm trải sàn vùi lấp lên nhau, khiến việc đi lại mà không vấp các chỗ gồ ghề lồi lõm vô cùng khó khăn. Góp phần thêm vào bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật la liệt trong nhà, sàn phòng làm việc còn đặt rải rác hàng tá tượng mèo sứ ở đủ mọi tư thế. Kitty biết Constance ghét mèo, cả mèo thật lẫn mèo sứ, nhưng những bức tượng vốn thuộc về mẹ bà, sau khi bà ấy mất Constance đã hứa sẽ cho chúng một mái nhà. Căn phòng lộn xộn đến mức Kitty tự hỏi làm thế nào họ có thể làm việc nổi, nhưng họ vẫn làm việc và còn rất thành công. Constance đã chuyển từ Paris tới sống ở Dublin để chọc tức ông bố giàu có của bà và để học Văn học Anh ở Đại học Trinity. Ở đó bà làm biên tập cho tờ báo của trường và công việc đầu tiên của bà là viết bài cho chuyên mục Xã hội trên tờ Irish Times, tại đây bà gặp Robert McDonald. Bob lớn hơn bà mười tuổi, và là phóng viên kinh tế của tờ Times. Cuối cùng khi bà đã quá chán tình cảnh bị áp đặt, vốn cũng chưa bao giờ kéo dài quá lâu, Constance quyết định chống đối ông bố quyết liệt hơn nữa bằng cách từ bỏ công việc đáng trọng ở một tờ báo lớn của Ireland và thay vào đó bắt đầu thực hiện xuất bản phẩm của riêng mình. Bob đi theo bà, và sau khi đã thu thập kinh nghiệm qua nhiều tạp chí khác nhau, mười hai năm trước họ sáng lập Etcetera, dự án thành công nhất của họ cho đến nay. Đó không phải tạp chí bán chạy nhất Ireland, và nó cũng không tiết lộ mẹo giảm mỡ thừa hay bí kíp để có một thân hình bikini hoàn hảo, nhưng nó được đánh giá rất cao bởi những người trong ngành. Được viết bài cho Etcetera có thể xem là một vinh dự, một bước tiến lớn trên con đường dẫn đến thành công. Constance là một tổng biên tập nói thẳng nói thật với con mắt săn tin và tìm kiếm nhân tài vô cùng xuất sắc; Etcetera là nơi đỡ đầu cho rất nhiều cây bút xuất sắc của đất nước. Kitty đến bên tủ đựng hồ sơ và ngay lập tức ấn tượng với hệ thống phân loại rất rõ ràng mà Constance đã lập ra. Hoàn toàn trái ngược với căn hộ của bà: mọi bài báo viết cho Etcetera hay bất kỳ tờ tạp chí nào khác bà từng chủ biên, các bài báo bà viết cho những xuất bản phẩm khác cùng toàn bộ các ý tưởng bà có trong quá khứ và dự định trong tương lai đều được sắp xếp trật tự bằng thẻ theo bảng chữ cái. Kitty không thể ngăn bản tính tò mò cố hữu của mình, và thế là cô đọc nhiều hết mức có thể trước khi đến được chữ T. Và nó đây rồi, một phong bì hồ sơ màu nâu đơn giản đề chữ “Tên”. Nó được niêm kín, và dù cô biết mình không nên phá vỡ giao kèo với Constance, cô không thể ngăn lại cảm giác nôn nóng, thế là cô ngồi xuống bàn Constance để mở cái phong bì ra. Teresa xuất hiện ngay ngưỡng cửa và Kitty giật nẩy mình như một cô học trò hư bị phát hiện đang hút thuốc. Cô thả rơi phong bì xuống bàn và rồi tự cười chính mình. “Cháu đã gặp cô ấy chưa?” Teresa hỏi. “Rồi ạ, tuần trước. Cháu không đi thăm chị ấy tuần này được vì cháu có chút việc bận,” cô nói, cảm thấy tội lỗi vì vụ kiện tụng này một lần nữa ngăn cản cô đi thăm Constance. Cô biết mình nên cố gắng đến đó nhưng việc phải trình diện mỗi ngày ở tòa án Four Courts khiến cô thấy kiệt sức, thương xót và tội nghiệp cho mình, và lạ thay, cô cũng thấy mình dễ kích động và cáu gắt hơn. Cô không nghĩ sẽ hợp lý nếu đem thứ năng lượng đó đến bên giường Constance. “Tôi đoán là cô ấy trông thảm lắm. Frank nhà tôi chết vì ung thư. Ông ấy bị u phổi. Hồi trước một ngày ông ấy hút đến bốn mươi điếu thuốc, nhưng dù sao không ai đáng phải chịu đựng những gì ông ấy đã trải qua cả. Ông ấy cũng tầm tuổi Constance bây giờ. Năm mươi tư,” Teresa tặc lưỡi. “Cháu có tin là giờ đây thời gian tôi sống không có ông ấy đã ngang ngửa với thời gian tôi ở bên ông ấy không?” Bà lại lắc đầu. “Cháu có muốn uống trà không? Hơi có mùi kim loại. Tôi phát hiện thấy mấy đồng xu trong ấm trà. Hai người đó lấy ấm trà làm ống tiết kiệm. Bob nhờ tôi mang gửi ngân hàng giúp. Trong đó có bảy mươi sáu euro và hai mươi lăm xu.” Kitty cười phá lên bởi sự lập dị của họ và từ chối lời mời uống trà kim loại. Háo hức vì cuối cùng cũng có được cái phong bì đựng ý tưởng của Constance, và kìm nén thôi thúc phải mở ra xem, Kitty gọi ngay cho Bob để hẹn gặp. Ba cuộc gọi của cô bị chuyển sang hộp thư thoại, rồi sau khi cô đã chờ phát ốm và đang trên đường đạp xe đến bệnh viện, cô cảm thấy điện thoại rung. Cô nói vào tai nghe. “A lô, anh Bob. Em đang trên đường ghé qua đây, hy vọng không phiền gì. Em lấy được cái ý tưởng mà Constance định kể cho chúng ta rồi. Em không chờ được nữa đâu.” “Lúc này không tiện,” Bob đáp, sự căng thẳng rõ rệt trong giọng nói của ông át cả tiếng xe cộ xung quanh Kitty. “Bà ấy, ừm, bà ấy chuyển biến xấu.” Kitty đột ngột ngừng chân khiến một gã đạp xe phía sau suýt va vào lưng cô, buột miệng chửi rồi đi tiếp. Cô nhấc xe khỏi làn xe đạp, dắt lên lề. “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Anh không muốn nói cho em biết - em đã có một tuần đủ khó khăn rồi, và anh cũng hy vọng bà ấy sẽ khá hơn - nhưng bà ấy… bà ấy trở nên tệ hơn sau hôm gặp em. Bà ấy cứ lúc tỉnh lúc mê, hai ngày qua còn không nhận ra anh, bà ấy bị lẫn, bị ảo giác, chỉ toàn nói tiếng Pháp. Hôm nay bà ấy, ừm, bà ấy lịm đi rồi, Kitty…” Giọng ông vỡ ra. “Anh có muốn em đến đó với anh không?” Kitty hỏi, cảm thấy trong lòng hoảng loạn và có thôi thúc tột bậc muốn chạy ngay đến đó, ở nơi đó, với cái mùi đó, với ông, bên cạnh Constance. “Không, không, em đang bận, anh không sao đâu.” “Không đâu, Bob. Em không có… Em không bận, được chưa? Em muốn đến đó. Cho phép em đến đó nhé, xin anh đấy?” Kitty cúp máy rồi hối hả đạp như thể cả cuộc đời cô phụ thuộc vào việc này, và theo một cách nào đó thì đúng là như thế. “A lô, Steve, tôi đây. Tôi vừa nghĩ đến ông và, ừm, tôi có mấy điều muốn nói về những gì lần trước mình thảo luận ấy. Thế này. ‘Bá đạo hay Tào lao’. ‘Bá đạo’ là gì chắc ông cũng biết rồi. Nó hơi bị trẻ trâu xíu, không biết có được không. Rồi còn ‘Sành điệu hay Phế liệu’, hay để cho tân thời hơn ông có thể nói ‘Vi diệu hay Phế liệu’. Và cuối cùng là cặp đôi tôi thích nhất, có lẽ ông cũng sẽ thích nữa bởi vì nó đưa ra cái nhìn dưới góc độ bóng đá - ‘Ghi điểm hay Chìm nghỉm’. Hy vọng là sếp ông sẽ thích và mong là chưa quá trễ. Được rồi, ừm, có vẻ như ông không có ở đó, hay là có và ông đang nghe rồi nghĩ là tôi xỉn hay sao… tôi đâu biết ông đang nghĩ gì. Tôi cúp đây. Ồ, còn một chuyện nữa. Constance mất rồi. Hồi tối. Và, ừm, Chúa ơi, tôi xin lỗi vì khóc lu loa vào hộp thư thoại của ông nhưng… giờ tôi không biết mình phải làm gì nữa. Thế thôi. Cảm ơn vì đã nghe tôi nói. Chào.” CHƯƠNG BỐN D ù những tháng vừa qua Kitty không ở bên Constance nhiều, nhưng trong thâm tâm cô luôn biết bà vẫn còn trên đời. Cảm giác ấy lại rất khác khi ai đó chết đi. Từng giây từng phút, ta cảm nhận được sự vắng mặt của họ. Có lúc Kitty chợt nảy ra một câu hỏi và muốn gọi ngay cho Constance để tìm lời đáp. Có lúc cô chợt nhớ ra một câu chuyện vui và muốn kể ngay cho bà, hay, buồn hơn cả, cô muốn tiếp tục một cuộc đối thoại vẫn còn dang dở, muốn tìm lời giải cho một thắc mắc vẫn còn bỏ ngỏ. Vì Constance không còn nữa nên Kitty thấy cần bà hơn bao giờ hết, và cô tự dằn vặt chính mình vì đã không đến bệnh viện thăm bà thường xuyên hơn, hay đã không gọi điện cho bà nhiều hơn - không chỉ trong khoảng thời gian bà đau bệnh mà suốt cả cuộc đời bà. Có những dịp lẽ ra Kitty phải mời bà đến dự, những đêm họ có thể cùng đi chơi; biết bao thời gian có thể dành cho nhau đã bị lãng phí. Nhưng sau rốt, cô biết rằng nếu họ có cơ hội làm lại lần nữa tình bạn này, họ cũng sẽ không thay đổi bất kỳ điều gì. Constance vốn dĩ không đòi hỏi Kitty phải xuất hiện trong đời bà thường xuyên hơn thế. Không có công việc để cô được dốc tâm dốc sức, không có bạn trai để làm cô xao nhãng cũng như giúp cô tìm lại niềm vui và vẻ đẹp trong cuộc sống, không có một gia đình bình thường với mọi thành viên sống quây quần gần nhau hay sẵn lòng thấu hiểu và cảm thông, Kitty thấy mình cô độc hơn bao giờ hết. Nơi duy nhất cô muốn có mặt chính là tòa soạn của Etcetera. Ở đó cũng giống như được ở cạnh Constance, người đã thắp và giữ lửa cho tờ tạp chí. Bà đã sáng lập nó, đã xây dựng nó bằng hệ tư tưởng của mình, đã truyền cảm hứng cho nó, và chỉ cần cầm một ấn bản tạp chí trên tay, Kitty cảm thấy theo một nghĩa nào đó Constance vẫn còn sống. Kitty cho rằng cảm giác ấy cũng giống như được nhìn thấy đứa con của một người đã khuất; dáng dấp, kiểu cách, cả những thói quen nhỏ nhặt của người đó được truyền lại cho đời sau. Kitty cảm nhận được nỗi đau mất mát mà cô vẫn đang cố trốn chạy ngay khi vừa bước chân vào tòa soạn. Nỗi đau như một lưỡi dao băng cắt qua cô, như một cú tát giáng thẳng vào mặt khiến cô không thở nổi. Lệ ngay lập tức dâng đầy trong mắt cô. “Ôi, chị biết,” Rebecca, chỉ đạo nghệ thuật, nói ngay khi vừa nhác thấy Kitty đứng sững ở ngưỡng cửa. “Em không phải người duy nhất phản ứng như thế đâu.” Chị ta tiến lại chỗ Kitty và ôm cô thật chặt, cởi áo khoác cho cô và dìu cô đi tiếp. “Vào đi nào, mọi người đang lên ý tưởng trong văn phòng của Pete.” Văn phòng của Pete. Gọi nó bằng cái tên ấy ngay lập tức khiến cô thấy phát cáu, dù là Pete chẳng có liên can gì, nhưng trong khoảnh khắc cô chợt thấy khinh thường con người ấy, như thể một mình anh ta đã thông đồng với Chúa để làm hại người bạn của cô. Với tư cách là thư ký tòa soạn, anh ta đã tiếp quản công việc trong thời gian Constance bị bệnh, và Cheryl Dunne, một cô gái trẻ đầy tham vọng với tuổi đời không lớn hơn Kitty là bao, đã đảm nhiệm vai trò quyền phó tổng biên tập, trong khi Bob dành trọn thời gian suốt mấy tháng qua bên cạnh Constance. Vì có sự hiện diện của Pete và Cheryl, nơi này mang một cảm giác rất khác. Pete và Cheryl đã thiết lập được trật tự riêng và nhịp điệu tự nhiên, và trong khi những người khác dần dà đã học được cách cùng chuyển động theo nhịp điệu ấy, Kitty lại thấy thật khó khăn. Chín tháng đã qua từ khi Constance bước xuống khỏi vị trí điều hành Etcetera, sáu tháng đã qua từ lần cuối cùng bà bước chân vào tòa soạn, và trong thời gian đó có thể rõ ràng nhận thấy những bài Kitty đã viết không phải là những tác phẩm xuất sắc nhất của cô. Dĩ nhiên chúng không đến mức dưới trung bình, bằng không Pete đã không cho in, và Constance, người luôn theo dõi sát sao mọi sự cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, cũng sẽ lôi Kitty vào bệnh viện và giũa cho cô một trận ra hồn để cô biết được mình đang làm gì. Bà luôn như thế. Bà luôn muốn tạp chí của mình đạt được chất lượng cao nhất khi phát hành, đồng thời bà cũng không bao giờ muốn bất kỳ ai không vận dụng hết khả năng thực sự của mình. Với bà như thế là sai lầm lớn nhất. Biết rõ điều đó, sau tang lễ của Constance, Kitty đã rút trở về căn hộ của mình, không phải để liếm láp vết thương mà là để xát thêm muối vào đó bằng việc nghiền ngẫm lại những bài cô từng thực hiện, cố gắng tìm xem cô đã chệch hướng ở đâu, hướng đi nào cho tương lai, cô có điểm mạnh gì và điểm yếu gì. Sau khi cô đã đọc lại những bài viết của mình trong sáu tháng qua, cô nhận ra chúng thiếu tính đột phá. Dù cô ghét phải thừa nhận điều này, và sẽ không bao giờ thừa nhận nó với bất kỳ ai khác, nhưng cô cảm nhận được một cái gì đó rất máy móc trong những trang viết ấy. Chúng giàu thông tin, cảm xúc và sở hữu cả phong cách cũng như một chút tinh tế, và chúng đáp ứng đủ mọi tiêu chuẩn mà tờ tạp chí đề ra bởi những câu chuyện trong đó được thuật lại dưới nhiều góc nhìn khác nhau - đối với một tờ nguyệt san mà nói, đưa ra được một góc nhìn độc đáo cho một câu chuyện đã từng được thuật lại là ưu tiên hàng đầu - nhưng, giờ đây đọc lại chúng, Kitty cảm thấy miệng mình chua loét. Sau trải nghiệm kinh hoàng ở chương trình Ba Mươi Phút, cô biết rằng những gì mình từng viết ra và những gì mình có thể viết trong tương lai sẽ không bao giờ khiến cô hài lòng như trước đây nữa. Cô biết mình đang cố tình tự bới lông tìm vết, và cô nhận ra mình chẳng có được bao nhiêu thành tựu. Cô hoài nghi mọi điều mình nói hay làm, nhưng dù thiếu tin tưởng vào bản thân, cô vẫn chắc chắn về sự xuống cấp trong cách viết của mình. Phương pháp hoạt động của Constance trong các buổi họp lên ý tưởng không phải đều dành cho tất cả mọi người. Kitty thấy nó hoàn toàn phù hợp với cô, nhưng đồng thời cô cũng biết tuy Pete và Cheryl tôn trọng những cách thức của Constance, họ vẫn luôn trung thành với nguồn cảm hứng của riêng mình ở bên ngoài tòa soạn: họ tìm trong những tạp chí khác, báo khác, trang web khác cùng với những kênh tin tức hai mươi bốn giờ để xem có gì đang diễn ra, có gì mới, giật gân hay không. Phương pháp của Constance là luôn tìm kiếm câu trả lời ở nội tại. Bà từng yêu cầu nhân viên của mình phát hiện những câu chuyện từ trong chính bản thân họ: điều gì khiến họ rung động ở ngay thời điểm ấy, điều gì thử thách họ, ngày hôm đó có những sự kiện gì diễn ra trong trái tim và tâm trí họ chứ không phải ở thế giới bên ngoài; Pete và Cheryl lại thấy chúng hoàn toàn vô nghĩa. Constance luôn tin rằng những chủ đề đấy sẽ giúp củng cố câu chuyện hơn. Thay vì viết cho thị trường, bà muốn họ viết cho chính mình. Bà tin rằng chỉ như thế, người đọc mới có thể đồng cảm. Bà muốn những cây bút của mình không chỉ viết có thông tin và phong cách mà bà còn động viên họ giải phóng chất nghệ sĩ bên trong. Các bài viết thường được chọn ra bằng nhiều cách, Constance có thể gợi ý một vài người cụ thể viết ra những gì bà tin là sẽ hợp với họ hay sẽ thử thách họ, đồng thời bà tiếp nhận các ý tưởng mới. Bà rất ủng hộ việc lắng nghe ý tưởng của mọi người. Và đây chính là vấn đề - Kitty cuối cùng cũng đã nhận ra. Toàn bộ số bài viết của Etcetera trong sáu tháng qua mà cô vừa đọc lại, cô nhận ra mình đã không viết một bài nào từ ý tưởng của riêng mình. Mỗi bài viết đều được đề xuất bởi Pete hay Cheryl hay ai đó đã có quá nhiều thứ để làm và không thể ôm hết được. Cô đã không nhận thấy điều này vì cô đã không để tâm. Cô không nhận thấy hay không để tâm vì khi đó cô đang làm việc ở Ba Mươi Phút, và mỗi bản tin cô làm cho chương trình đó đều là những thứ cô được giao. Và như thế, cách thức cô tường thuật cho chương trình Ba Mươi Phút dần dà đã ảnh hưởng đến cách viết của cô. Những câu chuyện trong chương trình đó không có ý nghĩa gì với cô, chúng không khiến cô rung động, chúng không làm cô muốn cố gắng tìm hiểu sâu hơn, bởi lúc nào cô cũng không đủ thời gian, điều kiện ghi hình thì lúc thích hợp lúc không, bọn cô từng bị cắt mất vài phút chỉ vì một câu chuyện khác được nhiều người quan tâm hơn, có lúc bọn cô được một buổi phỏng vấn, có lúc lại không, bọn cô phải tìm cách đắp vào khoảng thời gian trống khi một buổi phỏng vấn bị hủy, và cô thấy mình như một cái công tắc mặc cho người ta bật tắt liên tục. Môi trường làm việc ấy với cô thật thiếu sáng tạo; hoàn toàn máy móc, cô thấy mình chạy đôn chạy đáo nhiều hơn thực sự động não. Trong suốt sáu tháng Kitty không có lấy một ý tưởng riêng nào và vào cái tuần cô nhận thức được điều đó, cô hoảng loạn đến mức chẳng thể nghĩ ra được gì dù đã rất cố. Giờ cô đã hiểu rõ hơn cuộc đối thoại cuối cùng của mình với Constance ở bệnh viện. Khi Constance phê bình Kitty rằng cô chỉ làm theo những gì người ta bảo cô là hay chứ không phải những gì cô thực tâm cảm nhận, cô đã tưởng Constance ám chỉ mấy bản tin trên Ba Mươi Phút, nhưng có lẽ bà muốn nói đến những bài cô viết cho Etcetera. Thực ra, giờ đây Kitty tin chắc như thế. Kitty đi qua văn phòng của Constance và đến phòng họp ban, thấy mình yếu đuối từ sau vụ tai tiếng kia, biết mình không có lấy một ý tưởng nào trong đầu, hoàn toàn cô độc khi không có sự ủng hộ của Constance và Bob. Dù đã diễn ra rất nhiều buổi họp lên ý tưởng hàng tháng kể từ ngày Constance rời tòa soạn, quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về bà, nhưng vì giờ Pete ngồi ở ghế chủ tọa và Bob vẫn chưa có mặt, buổi họp hôm nay hoàn toàn khác trước. Kitty mở cửa và mọi người trong phòng ngước nhìn cô. “Chào.” “Kitty,” Pete nói, giọng ngạc nhiên nhưng không nhuốm vẻ vui mừng. “Mọi người tưởng em không đến tuần này. Bob nói anh ấy cho em một tuần phép.” Nghe như thể anh ta cũng không muốn cô đến tuần này, hay có lẽ là cô tự tưởng tượng ra. “Đúng là có thế,” Kitty giải thích, lui xuống đứng ở cuối phòng vì không còn ghế trống, “nhưng em không nghĩ ra được còn nơi nào khác mình muốn đến nữa.” Vài người trong phòng trao cho cô ánh nhìn buồn rầu và cảm thông. “Được rồi. Ừm. Mọi người đang thảo luận về số tháng sau, đây sẽ là một số tưởng niệm dành cho Constance.” Kitty rơi nước mắt. “Một ý tưởng thật tuyệt.” “Rồi…” anh ta vỗ tay làm Kitty giật mình. “Lên ý tưởng nào. Tôi dự định dành từ tám đến mười hai trang để nói về cuộc đời của Constance, những bài chị ấy viết cho Etcetera cũng như các ấn phẩm khác trong suốt sự nghiệp. Cùng xem lại những phóng sự xuất sắc nhất của chị ấy, những cây bút chị ấy có công phát hiện ra, một bài phỏng vấn với Tom Sullivan cũng được đấy, tiết lộ chị ấy làm thế nào để giúp anh ấy tìm ra và phát huy được tiếng nói của mình. Dara, anh muốn em đi phỏng vấn Tom; anh có nói chuyện với anh ấy ở lễ tang và được chấp thuận rồi. Niamh, anh muốn em tìm hiểu những cây bút khác, còn sống hay đã chết: chị ấy đã phát hiện ra ai, làm sao chị ấy phát hiện ra họ, họ đã viết gì, họ đã viết gì sau đó, vân vân.” Dara và Niamh gật đầu và ghi lại. Pete bắt đầu giao việc cho những người khác quanh bàn và Kitty không thể không cảm thấy có gì đó sai lầm ở đây. Constance hẳn sẽ ghét ấn bản này, không phải bởi nó chỉ toàn xoay quanh bà, mà còn bởi nó xào nấu lại những nội dung cũ. Cô nhìn quanh xem phản ứng của những người khác nhưng tất cả đều đang tập trung cao độ, hí hoáy ghi lại vào sổ tay những yêu cầu của Pete. Yêu cầu - chỉ có thế thôi, chúng không nhẹ nhàng hay tạo cảm hứng, chúng không khích lệ người khác đưa ra thêm những ý tưởng mới. Anh ta không hỏi những câu chuyện hay kỷ niệm riêng mà mọi người có về người phụ nữ họ ngưỡng mộ, chỉ đưa ra những thông tin tự trong đầu anh ta cho là hay. Kitty cũng hiểu áp lực của Pete khi phải gánh vác trọng trách này và bởi cô chẳng có lấy một ý tưởng mới lạ nào trong đầu, nên cô đành im lặng. “Được rồi, thế là xong nhé. Giờ ta bàn về những mục khác của tạp chí. Conal, tin về Trung Quốc ở Nam Phi sao rồi?” Mọi người bắt đầu bàn về phần còn lại của tạp chí, chuyên mục tưởng niệm cho Constance đã xong. Kitty thấy giận dữ. “Ờ, Pete này?” Anh ta nhìn cô. “Em chưa hiểu lắm, Pete. Mấy tin đó có hơi… cũ không?” Đây không phải một điều nên nói khi người khác đang bàn việc của họ. Vài người tặc lưỡi và trở mình trên ghế. “Ý em muốn nói, về chuyên mục tưởng niệm cho Constance. Constance ghét sử dụng lại những bài báo cũ.” “Ta đâu phải chỉ làm mỗi thế, Kitty. Nếu nãy giờ em lắng nghe đàng hoàng thì hẳn em phải biết chứ. Và chúng ta phải nhìn lại, vì ý nghĩa của tưởng niệm là thế.” “Vâng, em biết,” Kitty nói, cố gắng không làm mọi người khó chịu. “Nhưng Constance từng nói như thế chẳng khác nào xài lại giấy vệ sinh đã qua sử dụng, nhớ không?” Cô cười. Không ai hưởng ứng. “Chị ấy sẽ không muốn ta cứ nhìn lại đâu. Chị ấy sẽ muốn một cái gì đó mới, một cái gì đó hướng về phía trước, một cái gì đó để tôn vinh.” “Như là?” Pete hỏi, và Kitty chết sững. “Em không biết.” Ai đó thở dài. “Kitty, mười hai trang này là để tôn vinh Constance. Chúng ta còn cả cuốn tạp chí cho những bài viết mới,” Pete nói, cố tỏ ra kiên nhẫn nhưng thay vào đó nghe như một ông bố kẻ cả đang dần mất bình tĩnh. “Nếu em không đưa ra được ý tưởng nào thì anh sẽ cho qua đấy.” Cô cố vắt óc suy nghĩ, dưới ánh nhìn săm soi của mọi cặp mắt trong phòng. Thay vì nảy ra một ý tưởng nào đó, tất cả những gì cô nghĩ đến được là việc mình chẳng có gì trong đầu cả. Cô đã không nghĩ được gì mới suốt sáu tháng qua, giờ đây hẳn cũng thế thôi. Mọi người dần dần cũng nhìn đi chỗ khác, thấy ngại thay cho cô, nhưng Pete vẫn giữ nguyên ánh mắt nơi cô, như thể muốn chứng tỏ điều gì. Cô muốn anh ta cho qua phứt đi; sao anh ta vẫn chưa cho qua? Má cô ửng đỏ và cô nhìn xuống để không phải chạm ánh mắt của ai, cảm giác như mình đã chìm đến đáy. “Em không biết,” cuối cùng cô nói, lí nhí. Pete cho qua nhưng Kitty không tài nào tập trung vào những lời anh ta nói sau đó. Cô thấy như mình đã làm Constance thất vọng - cô chắc chắn đã làm bản thân thất vọng, và dù cảm giác đó vẫn còn khiến cô đau lòng, cô đã dần quen với nó. Cô không ngừng tự vấn chính xác là Constance sẽ muốn điều gì. Nếu bà có mặt trong căn phòng này, bà sẽ muốn viết về cái gì… ? Ngay lúc đó Kitty chợt nhớ ra. “Có rồi,” cô buột miệng, cắt ngang lúc Sarah đang báo cáo tiến độ thực hiện bài đối sánh việc tăng doanh thu nước sơn móng tay trong thời kỳ suy thoái với doanh thu son môi trong Thế chiến thứ hai. “Kitty à, Sarah đang nói mà.” Những người khác ném cho cô cái nhìn khó chịu. Cô lún người sâu hơn vào ghế và chờ Sarah nói dứt. Khi cô ta đã xong, Pete chuyển sang Trevor. Cô ngồi chờ thêm trong lúc hai ý tưởng khác được đưa ra nữa, Pete ắt sẽ không duyệt cái nào, cuối cùng anh ta cũng nhìn lại phía cô. “Lần cuối em nói chuyện với Constance, chị ấy có một ý tưởng muốn bàn với anh. Em không biết chị ấy có nói chưa. Chỉ mới cách đây hơn một tuần thôi.” Khi đó bà vẫn còn sống và hít thở. “Không. Anh không nói chuyện với chị ấy cả tháng qua.” “Được rồi. Ừm, chị ấy muốn nói với anh ý tưởng này, là ta thực hiện một bài phỏng vấn những cây bút đã về hưu, xem nếu có cơ hội viết một câu chuyện họ vẫn luôn muốn viết, đó sẽ là gì?” Pete nhìn quanh bàn và nhận ra mọi người có vẻ hứng thú. “Những cây bút như Oisín O’Ceallaigh và Olivia Wallace,” Kitty tiếp tục. “Ông Oisín tám mươi tuổi rồi và ông ấy sống tận quần đảo Aran. Ông ấy không viết cho ai một chữ nào suốt mười năm và cũng không viết bất cứ cái gì bằng tiếng Anh suốt hai mươi năm rồi.” “Chị ấy nhắc tên những người đó.” “Em chắc không?” “Chắc,” Kitty đáp, hai má ửng đỏ bởi những câu hỏi vặn liên tiếp. “Và đấy là loạt bài về câu chuyện của họ hay là ta muốn họ tự viết ra những câu chuyện đó?” “Trước hết chị ấy nói em nên phỏng vấn họ…” “Chị ấy nói em nên phỏng vấn họ à,” Pete cắt ngang. “Vâng…” Cô ngập ngừng, không rõ vấn đề ở đây là gì. “Nhưng rồi chị ấy nói ta có thể yêu cầu họ viết luôn những câu chuyện luôn muốn viết.” “Đặt hàng họ à?” “Em nghĩ thế.” “Những cây bút tầm cỡ như thế tốn kém lắm đấy.” “Ừm, đây là mục tưởng niệm Constance, có khả năng họ sẽ đóng góp chút công sức và không lấy nhuận bút. Nếu được viết câu chuyện họ vẫn hằng ấp ủ, có lẽ đó cũng là cách trả công thỏa đáng mà. Được giải tỏa nỗi niềm.” Pete trông ngờ vực. “Làm sao hai người lại nói về chủ đề này?” Mọi người nhìn từ Pete sang Kitty. “Sao thế?” “Anh đang cố tìm mối liên hệ giữa cái ý tưởng của em với việc nó là một bài tưởng niệm Constance.” “Đó là một trong những ý tưởng cuối cùng của chị ấy cho tạp chí.” “Thật thế không? Hay là của em?” Mọi người trong phòng căng thẳng, nhấp nhổm trên ghế. “Anh đang buộc tội em lợi dụng mục tưởng niệm này để cho ý tưởng của mình vào?” Kitty muốn những lời này thốt ra thật nặng nề, thật mạnh mẽ, khiến anh ta trở nên bé nhỏ, nhưng cuối cùng giọng cô mới yếu ớt, nhỏ bé làm sao, như thể điều anh ta cáo buộc cô là chính xác. “Sao mình không tạm ngừng buổi họp tại đây rồi mọi người về bàn của mình đi nhỉ?” Cheryl cất tiếng giữa bầu không khí im lặng khó xử. Tất cả nhanh chóng rời phòng họp, vui mừng vì thoát được tình cảnh khó xử. Pete vẫn đứng nguyên ở đầu bàn, hai tay xòe ra chống trên mặt bàn, người nghiêng về phía trước. Cheryl cũng ở lại, điều này làm Kitty thấy khó chịu. “Kitty, không phải anh đang cố tỏ ra thông minh nhưng anh muốn cả chuyên mục này phải hoàn toàn là của Constance. Anh biết em với chị ấy có mối giao tình còn thân thiết hơn tất cả mọi người ở đây, nhưng em đang nói về ra cuộc trò chuyện chỉ có hai người ở riêng với nhau. Anh muốn chắc chắn đó là điều Constance thật sự muốn thực hiện.” Kitty nuốt khan, và đột nhiên cô thấy nghi ngờ chính mình. Ký ức về buổi trò chuyện hôm ấy trước giờ vẫn rõ ràng như thế bỗng chốc trở nên mơ hồ. “Làm sao em chắc chắn được đó là điều chị ấy thật sự muốn làm chứ, Pete.” “Thôi nào, Kitty,” anh ta cười thất vọng. “Em nghĩ lại giúp anh.” “Em chỉ biết rằng em hỏi chị ấy có câu chuyện nào chị vẫn ấp ủ muốn viết nhưng chưa viết ra. Chị ấy thích câu hỏi ấy và nói là ý tưởng này dùng làm chuyên mục đặc biệt thì rất hay, và bảo em nên làm một bài phỏng vấn những cây bút đã về hưu về câu chuyện họ luôn muốn viết, hay nếu nhờ được họ viết nó ra thì quá tốt. Chị ấy nói là sẽ thảo luận với anh về việc đó.” “Chị ấy không hề nói gì với anh.” Im lặng. “Đó là một ý hay đấy, Pete,” Cheryl khẽ nói, và trong khoảnh khắc Kitty thấy mừng vì cô ta ở lại. Pete gõ gõ cây bút lên mặt bàn trong lúc nghĩ. “Chị ấy có nói ý tưởng đó cho em không?” “Không.” Anh ta không tin cô. Cô nuốt khan. “Chị ấy bảo em tìm trong phòng làm việc của chị ấy, đem đến bệnh viện và chị ấy sẽ giải thích cho em, nhưng khi em mang đến thì đã quá trễ.” Mắt Kitty ngấn lệ và cô cúi đầu. Cô hy vọng sẽ được chút cảm thông nhưng không có. “Em có mở ra không?” Pete hỏi. “Không.” Anh ta vẫn không tin cô. “Em không hề mở nó ra,” Kitty quả quyết, bắt đầu nổi giận. “Giờ nó ở đâu?” “Bob đang giữ.” Pete trầm ngâm. “Anh đang nghĩ gì thế?” Cheryl hỏi. “Anh đang nghĩ là sẽ rất tuyệt nếu chuyên mục tưởng niệm Constane có được câu chuyện chị ấy luôn muốn viết ra, đặt chung với bài viết của những cây bút khác. Nếu Bob đưa lại cho chúng ta câu chuyện ấy, em có thể viết nó,” anh ta nói với Cheryl. Kitty thấy giận dữ với Pete vì đem giao câu chuyện đó cho Cheryl. “Lỡ như Bob muốn viết nó thì sao,” Kitty gợi ý. “Ta sẽ để cho Bob quyết định.” “Anh có nó đây.” Giọng Bob vang lên từ phòng bên cạnh. “Bob.” Pete đứng thẳng dậy. “Em không biết anh ở đây.” Bob bước vào phòng. Trông ông mệt mỏi. “Anh không định đến nhưng rồi anh nhận ra là không còn nơi nào khác anh muốn đến cả,” ông lặp lại lời của Kitty, khiến Kitty nhận ra ông đã có mặt ở đó từ đầu và nghe hết tất cả. “Anh phải lấy mấy thứ trong phòng làm việc của Constance - cuốn sổ địa chỉ của bà ấy, có Chúa biết bà ấy bỏ nó ở đâu - và anh vô tình nghe thấy mọi người thảo luận việc viết lại câu chuyện của bà ấy.” Bob mỉm cười. “Pete, anh nghĩ đó là một ý tưởng tuyệt vời. Hay lắm.” “Anh có muốn viết nó không?” Pete hỏi. “Không. Không. Muốn thì anh đã viết.” “Câu chuyện về gì thế?” Pete hỏi. “Anh đâu biết đâu,” Bob nhún vai. “Phong bì dán kín, chưa từng mở ra.” Kitty đã được minh oan. Cô cố kiềm chế để không nhảy tưng tưng. “Được rồi,” Pete nhìn sang Cheryl, tự mãn, định sẽ trao cho cô ta đặc quyền đó nhưng Bob nhận ra và xen ngang. “Anh muốn để Kitty viết nó.” Pete và Cheryl ngạc nhiên. “Anh nghĩ em ấy hợp hơn,” ông từ tốn giải thích như muốn tạ lỗi với Cheryl, một động thái ân cần cố hữu. Cheryl cố gắng tỏ vẻ chấp thuận. “Dù cho anh không biết nó là về cái gì,” Pete nói, bảo vệ cánh tay phải của mình. “Đúng. Dù có thế đi nữa,” Bob trả lời, đưa phong bì cho Kitty. Cả ba người họ hồi hộp nhìn Kitty. Kitty cẩn thận mở phong bì ra. Bên trong chỉ có một tờ giấy. Cô kéo tờ giấy ra và nhìn thấy một bản danh sách gồm một trăm cái tên. CHƯƠNG NĂM 1. Sarah McGowan 2. Ambrose Nolan 3. Eva Wu 4. Jedrek Vysotski 5. Bartle Faulkner 6. Bridget Murphy 7. Mary-Rose Godfrey 8. Bernadette Toomy 9. Raymond Cosgrave 10. Olive Byrne 11. Marion Brennan 12. Julio Quintero 13. Maureen Rabbit 14. Patrick Quinn 15. Gloria Flannery 16. Susan Flood 17. Kieran Kidd 18. Anthony Kershaw 19. Janice O’Meara 20. Angela O’Neill 21. Eugene Cullen 22. Evelyn Meagher 23. Barry Meegan 24. Aiden Traynor 25. Seamus Tully 26. Diana Zukov 27. Bin Yang 28. Gabriela Zat 29. Barbara Tomlin 30. Benjamin Toland 31. Anthony Spencer 32. Aidan Somerville 33. Patrick Leahy 34. Cyril Lee 35. Dudley Foster 36. Josephine Fowler 37. Colette Burrows 38. Ann Kimmage 39. Dermot Murphy 40. Sharon Vickers 41. George Wallace 42. Michael O’Fagain 43. Lisa Dwyer 44. Danny Flannery 45. Karen Flood 46. Máire O’Muireagáin 47. Barry O’Shea 48. Frank O’Rourke 49. Claire Shanley 50. Kevin Sharkey 51. Carmel Reilly 52. Russell Todd 53. Heather Spencer 54. Ingrid Smith 55. Ken Sheeran 56. Margaret McCarthy 57. Janet Martin 58. John O’Shea 59. Catherine Sheppard 60. Magdalena Ludwiczak 61. Declan Keogh 62. Siobhán Kennedy 63. Dudley Foster 64. Denis MacCauley 65. Nigel Meaney 66. Thomas Masterson 67. Archie Hamilton 68. Damien Rafferty 69. Ian Sheridan 70. Gordon Phelan 71. Marie Perrem 72. Emma Pierce 73. Eileen Foley 74. Liam Greene 75. Aoife Graham 76. Sinéad Hennessey 77. Andrew Perkins 78. Patricia Shelley 79. Peter O’Carroll 80. Seán Maguire 81. Michael Sheils 82. Alan Waldron 83. Carmel Wagner 84. Jonathan Treacy 85. Lee Reehill 86. Pauric Naughton 87. Ben Gleeson 88. Darlene Gochoco 89. Desmond Hand 90. Jim Duffy 91. Maurice Lucas 92. Denise McBride 93. Jos Merrigan 94. Frank Jones 95. Gwen Megarry 96. Vida Tonacao 97. Alan Shanahan 98. Orla Foley 99. Simon Fitzgerald 100. Katrina Mooney Không một lời tóm tắt, đề cương hay bất cứ gì giúp làm sáng tỏ những con người này là ai hay câu chuyện nói về cái gì. Kitty tìm lại trong phong bì nhưng chẳng còn gì khác. “Nó nói gì thế?” Pete hỏi, không chịu nổi sự im lặng nữa. “Một danh sách những cái tên,” Kitty trả lời. Những cái tên được gõ máy và đánh số từ một đến một trăm ở bên trái. “Em biết mấy cái tên ấy không?” Pete hỏi, rướn người trên bàn hết mức, thiếu điều muốn bò ra. Kitty lắc đầu, một lần nữa thấy mình thất bại. “Biết đâu mọi người lại thấy quen.” Cô đẩy tờ giấy qua bên kia bàn và cả ba người bổ vào như hổ đói vồ mồi. Họ đặt tờ giấy ngay giữa bàn trước mặt Pete và tụm lại xung quanh. Kitty quan sát gương mặt họ, hy vọng nhìn thấy một dấu hiệu nhận ra nào đấy nhưng rồi cả ba ngẩng đầu lên, trông cũng ngơ ngác y hệt, cô thả người xuống ghế với tâm trạng vừa nhẹ nhõm vừa bối rối. Cô có biết ý nghĩa của những cái tên này chăng? Cô và Constance đã từng nói chuyện với nhau về chúng bao giờ chưa? Phải chăng có thông điệp nào đó ẩn chứa trong này? “Trong phong bì còn gì nữa không?” Pete hỏi. “Không.” “Để anh xem nào.” Anh ta lại nghi ngờ cô, và đến lượt cô nghi ngờ bản thân, dù cô đã kiểm tra đến hai lần rồi. Sau khi nhanh chóng nhận ra chẳng có thông tin gì khác anh ta thảy cái phong bì lại lên bàn và Kitty nhào ra giữ lấy nó đầy chở che, như thể anh ta vừa quẳng đi một đứa bé. “Chị ấy có ghi chú gì không?” Pete hỏi Bob. “Trong một cuốn sách nào đó hay trong hồ sơ? Biết đâu ở phòng làm việc của chị ấy có gì đó.” “Nếu thế, anh sẽ xuống dưới,” Bob nói, lại nhìn vào những cái tên ấy. “Constance yêu dấu ơi, bà đang tính toán cái gì thế hở.” Kitty không ngăn được tiếng cười. Constance hẳn sẽ thích thấy cảnh mọi người túm tụm lại, vò đầu bứt tai. “Chẳng có gì vui cả, Kitty,” Pete nói. “Chuyên mục sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ta không có được câu chuyện của Constance.” “Em không nghĩ thế,” cô nói, ngạc nhiên. “Đó là bài cuối cùng Constance gợi ý cho tạp chí.” “Anh vẫn muốn có câu chuyện của Constance trong đó,” Pete ngoan cố nói. “Anh muốn những bài viết khác xoay quanh nó. Nếu ta không có câu chuyện của Constance, anh không chắc chuyên mục này sẽ đứng được đâu.” “Nhưng câu chuyện của Constance chỉ là một bản danh sách,” Kitty nói, bắt đầu mất tự tin. Cô không muốn toàn bộ chuyên mục tưởng niệm ấy phải phụ thuộc hết vào khả năng của cô trong việc giải đáp ý nghĩa của bản danh sách này. Không đủ thời gian, và khoảng thời gian họ có lại rơi vào giai đoạn đen tối nhất trong cuộc đời Kitty. Cô chẳng có chút cảm hứng nào và cảm giác tự tin giờ đây cũng đã tụt xuống đến đáy. “Chẳng có gì cho chúng ta biết Constance định làm gì hay chị ấy cảm thấy thế nào với nó cả.” “Thế thì, Cheryl sẽ viết nó,” Pete nói nhanh, khiến tất cả ngạc nhiên. “Em ấy sẽ tìm ra.” Anh ta đóng tập hồ sơ của mình lại rồi đứng thẳng lên. “Thực tâm mà nói, anh nghĩ Kitty nên viết nó,” Bob nói. “Nhưng em ấy mới nói là không nghĩ mình làm được.” “Em ấy chỉ cần chút động viên thôi mà, Pete,” Bob nói, nghiêm nghị hơn một chút. “Đây là một nhiệm vụ nặng nề.” “Được,” Pete đột ngột nói. “Chúng ta có hai tuần trước khi đem in. Kitty, em phải cập nhật tiến độ thực hiện với anh. Anh muốn em báo cáo mỗi ngày.” “Mỗi ngày?” cô hỏi, sửng sốt. “Ừ.” Pete thu gom đồ đạc và trở về văn phòng của Constance, à không, của anh ta. Với yêu cầu phải cập nhật hằng ngày cho Pete, Kitty biết việc cô bị đài truyền hình đình chỉ, căn hộ bị phá hoại, chuyện tình cảm tan vỡ và việc cô thua kiện chỉ là màn dạo đầu, giờ đây những tác động thực sự từ chương trình Ba Mươi Phút mới chính thức xuất hiện. Kitty miễn cưỡng ngồi sau bàn Constance trong phòng làm việc của bà, tay giơ trên không như thể đang đứng trước họng súng, e ngại không muốn đụng vào thứ gì, e ngại không muốn phá hỏng trật tự đồ đạc mà Constance đã đặt để, vì cô biết chúng sẽ không thể quay trở lại vị trí như xưa nữa khi không còn được chính bàn tay của chủ nhân sắp xếp. Mới tuần trước cô còn thấy vui vẻ khi được ở nơi này, vậy mà giờ đây cô thấy mình như một kẻ xâm phạm. Bob cho phép cô thoải mái hoạt động trong phòng; cô được đọc mọi thứ, cô được kiểm tra mọi chỗ. Cô Kitty trước đây - người vẫn còn Constance trong đời và người không phải chịu phán quyết của tòa án về hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác - hẳn sẽ nhanh nhảu chớp lấy cơ hội được chõ mũi vào việc người khác và sẽ đọc tất tần tật những gì cô ta có thể rớ vào, dù thứ đó có liên quan đến câu chuyện hay không, nhưng giờ đây mọi sự đã khác. Cô dành cả buổi chiều lục lọi trong tủ hồ sơ, vừa tốn thời gian vừa không có kết quả, cố gắng tìm bất cứ giấy tờ nào có liên quan đến một trăm cái tên kia. Một công việc vô ích vì cô chẳng biết tí ti gì về ý nghĩa của những cái tên ấy và liệu chúng có liên hệ ra sao với những thứ khác. Cô Google những cái tên đó nhưng chẳng có gì hay ho xuất hiện; cô như đứng trước bờ vực thẳm. Cuối ngày thứ hai, sau cuộc gặp ê chề với Pete vì cô chẳng có gì để báo cáo, cô về nhà và phát hiện giấy vệ sinh nhúng sơn đỏ chăng đầy trước cửa khiến nơi đây trông như thể hiện trường một vụ án. Dù phải đi ngủ với nỗi tuyệt vọng cùng cực và một cái bồn cầu tắc nghẽn bởi nỗ lực xả trôi cả đống giấy cùng lúc, cô vẫn thức dậy với một chút cảm giác phấn chấn và tràn đầy hy vọng. Một ngày mới tức là một khởi đầu mới trong cuộc tìm kiếm của cô. Cô sẽ làm được. Đây là cơ hội để cô chuộc lại lỗi lầm, để khiến Constance tự hào. Đêm qua trước khi thiếp đi cô đã nhận ra những người trong danh sách ấy có thể là bất kỳ ai - và ta có thể tìm thấy những người có thể là bất kỳ ai ấy ở nơi nào khác nữa đây? Chẳng màng mặc quần áo, cô lấy cuốn danh bạ điện thoại ôm ra bàn ngồi chỉ với mỗi chiếc quần lót trên người. Cô đã sao danh sách của Constance ra nhiều bản, vì không muốn làm hỏng bản gốc, và cô đã trả lại danh sách gốc ấy vào tủ hồ sơ của Constance. Bản sao hiện tại của Kitty giờ kín đặc nào là ghi chú, thắc mắc, tranh vẽ nguệch ngoạc và hình thù, vậy là cô lấy ra một bản mới, một cuốn sổ mới, cuốn danh bạ điện thoại, một cốc cà phê mới pha - loại hòa tan, do Glen đã lấy đi máy pha cà phê của anh ta cùng mớ hạt cà phê tươi - cô hít một hơi dài và chuẩn bị tinh thần. Bỗng có tiếng chìa khóa tra vào ổ rồi cánh cửa bật mở ra, và cô đối mặt với Glen. Cô nhanh chóng đưa tay che bộ ngực trần. Rồi, vẫn thấy mình bị động, cô co chân lại, banh cuốn sổ danh bạ ra và che chắn cơ thể thêm. “Xin lỗi,” Glen nói, vẫn đứng sững nơi ngưỡng cửa, chìa khóa trên tay, chằm chằm nhìn cô. “Anh cứ tưởng em đang ở chỗ làm.” “Anh có nhất thiết phải nhìn tôi chằm chằm thế không?” “Xin lỗi.” Anh ta chớp mắt, nhìn đi hướng khác, rồi quay lưng lại. “Em muốn anh rời đi không?” “Hơi muộn màng rồi, đúng không?” cô độp lại, chạy đến chỗ tủ quần áo. “Ồ, lại nữa đấy,” anh ta nói, giọng không còn khách sáo. Cánh cửa đóng sầm lại và anh ta theo cô vào phòng ngủ. “Tôi chưa bận đồ xong.” “Cô biết gì không, Kitty, tôi đã thấy hết trơn rồi và tôi chả quan tâm đâu.” Anh ta không hề liếc mắt nhìn cô lấy một lần trong lúc lục lọi tủ đựng đồ của cô. “Anh đang tìm gì đấy?” “Không phải việc của cô.” “Nhà của tôi, dĩ nhiên là việc của tôi.” “Và tôi đã trả nửa phần tiền nhà tháng này rồi, vậy nên theo lý thì nó cũng là của tôi đấy.” “Nếu anh nói tôi biết, có khi tôi giúp được,” cô nói, trong lúc nhìn anh ta sục sạo. “Bởi tôi thật sự rất muốn anh bỏ tay ra khỏi đống quần lót của tôi.” Cuối cùng anh ta cũng lôi ra được chiếc đồng hồ từ ngăn đựng đồ lót của cô và đeo lại lên tay. “Nó nằm đó bao lâu rồi?” “Từ trước tới nay.” “Ồ.” Còn điều gì về anh ta mà cô chưa biết nữa? Đó là điều cả hai đang tự hỏi: còn điều gì họ chưa biết về nhau? Cả hai im lặng một lúc, và rồi anh ta nhìn quanh phòng lần nữa, lần này nhẹ nhàng hơn một chút, cho giày, CD và các thứ linh tinh khác mà anh ta đã bỏ sót vào một cái túi rác đen. Kitty không muốn chứng kiến nên cô lại ra ngồi bên bàn bếp. “Cảm ơn nhiều vì đã rời đi mà không thèm thông báo,” cô nói khi anh ta đi qua cô và đảo vòng quanh căn bếp. Anh ta lấy cả găng tay làm bếp, lại còn thế nữa. “Thật là quân tử.” “Em biết là anh sẽ ra đi mà.” “Thế quái nào tôi biết được hả?” “Ta cãi nhau bao nhiêu lần rồi, Kitty? Bao nhiêu lần anh nói với em anh cảm thấy thế nào rồi? Em còn muốn ta cãi nhau tới chừng nào nữa đây?” “Dĩ nhiên là không rồi.” “Chính thế!” “Nhưng đây không phải là kết thúc tôi mong muốn.” Anh ta trông ngạc nhiên. “Anh tưởng em không hạnh phúc. Em nói em không hạnh phúc.” “Khi đó tôi đang trải qua một giai đoạn không mấy vui vẻ. Tôi đâu có nghĩ là… dù sao thì, giờ cũng có còn quan trọng gì nữa, đúng không?” Cô thấy ngạc nhiên khi trong tim mình nhen lên một tia hy vọng, hy vọng anh ta sẽ nói: dĩ nhiên là còn chứ, ta hãy cùng hàn gắn nhé… nhưng thay vào đó anh ta chỉ im lặng. “Sao em không đi làm?” “Tôi quyết định làm ở nhà.” “Tạp chí sa thải em rồi à?” anh ta hỏi, không tin cô. “Không,” cô vặc lại, quá mệt mỏi vì bị người khác nghi ngờ. “Họ không sa thải tôi. Anh hẳn sẽ ngạc nhiên vì vẫn còn nhiều người tin tưởng tôi lắm.” Điều này cũng không hoàn toàn đúng theo cái cách Pete đang đối xử với cô. Glen thở dài, rồi đi ra cửa, túi đen vác trên vai. Cô nhìn xuống cuốn danh bạ. Mắt cô nhảy từ cái tên này sang cái khác, không thể tập trung bởi sự hiện diện của anh ta. “Rất tiếc khi nghe tin về Constance.” Cảm xúc vỡ òa bên trong khiến cô không nói nên lời. “Anh có đến lễ tang, không biết em biết chưa.” “Sally kể tôi rồi.” Cô thô bạo gạt nước mắt, khó chịu vì mình lại khóc. “Em có sao không?” Kitty đưa hai tay bưng mặt. Thật ê chề làm sao khi cô khóc mà anh ta vẫn chỉ đứng đó, nếu là trước đây anh ta hắn sẽ dỗ dành cô rồi. Cô khóc vì điều đó và cô khóc vì Constance. Và cô khóc vì mọi điều xung quanh. “Làm ơn đi đi,” cô nức nở. Cô nghe cánh cửa nhẹ nhàng khép lại. Kitty bắt đầu lại khi mắt đã khô. Cô đi từ cái tên đầu tiên trong danh sách, Sarah McGowan. Cô lật trang có họ McGowan trong cuốn danh bạ ra. Tổng cộng có đến hàng trăm McGowan. Tám mươi vợ chồng nhà McGowan, hai mươi S McGowan, tám Sarah McGowan, thế nghĩa là cô sẽ phải thử gọi hết toàn bộ số đó nếu hai mươi tám người có tên bắt đầu bằng chữ S kia đều không trúng. Cô bắt đầu bằng cách gọi cho nhóm tên Sarah. Cuộc gọi đầu tiên có người trả lời ngay lập tức. “A lô, xin phép được nói chuyện với Sarah McGowan?” “Là tôi đây.” “Tôi là Katherine Logan và tôi gọi đến từ tạp chí Etcetera.” Cô ngưng lại chốc lát để chờ xem bên kia có nhận ra không. “Tôi không muốn tham gia vào cuộc khảo sát nào đâu, cảm ơn.” “Không, không, không có khảo sát nào cả. Tôi thay mặt tổng biên tập của tạp chí, Constance Dubois, gọi đến. Tôi không biết liệu trước đây bà ấy có từng liên hệ với bạn đế thảo luận về một câu chuyện không?” Bà không làm điều đó. Và cả sáu người tên chữ S khác mà cô gọi đến cũng không, dù hai cuộc không trả lời và cô phải để lại lời nhắn cho hai cuộc khác. Kitty bắt đầu với những cái họ McGowan khác trong danh bạ, thầm mong Sarah được để trong đó dưới một cái tên khác kiểu như bà Sao-sao-đó McGowan. Mười cuộc không ai trả lời và cô đánh dấu để gọi lại sau. Không có Sarah nào trong số tám gia đình McGowan đầu tiên cô gọi; đến nhà thứ chín thì có, nhưng Kitty nhanh chóng nhận ra em bé Sarah ba tháng tuổi không thế là chủ đề cho câu chuyện của Constance. Còn lại hai mươi McGowan, chưa kể đến chín mươi chín cái tên khác trong danh sách và mỗi cái tên cần gọi ít nhất một trăm cuộc. Cô sẽ phải đối mặt với khoảng mười ngàn cuộc điện thoại nữa, trừ phi cô bắt đầu từ những cái tên ít phổ biến hơn. Kitty tin mình làm được - cô không ngại điều tra - nhưng có hai yếu tố đang chống lại cô: thời gian và tiền bạc. Cô hoàn toàn không thể chi trả cũng như không đủ thời gian cho ngần ấy cuộc điện thoại. Cô từ bỏ dự định làm việc tại nhà và trở lại văn phòng vào giờ ăn trưa. Cả tòa soạn nhộn nhịp bởi mọi người phải hoạt động hết công suất để chạy kịp thời hạn cho chuyên mục tưởng niệm Constance đồng thời còn phải tìm hiểu và viết bài cho các số phát hành sau đó. Rebecca, chỉ đạo nghệ thuật, mặt nhăn như bị bước ra khỏi văn phòng của Pete. “Bữa nay chàng đang quạu. Chúc cưng may mắn.” Một phụ nữ lạ mặt đang ngồi ở bàn Kitty vẫn ngồi, chuyện cũng bình thường thôi bởi họ có nhiều cây bút tự do viết cho mục xã luận vẫn thường xuyên lui tới tòa soạn. Kitty đứng giữa phòng nhìn xem bàn nào còn trống và khi thấy đâu cũng có người ngồi cô bèn chuyển qua tìm một chiếc điện thoại đang không bận. Pete mở cửa và gọi cô vào văn phòng. “Em đang làm gì thế?” anh ta hỏi. “Tìm một bàn trống. Em có cả núi cuộc gọi phải thực hiện, anh xem liệu có tìm cho em được người nào giúp em gọi trong ngày không? Và cái cô đang ngồi ở bàn em là ai thế?” “Em định làm gì?” “Em định trực tiếp liên hệ với những cái tên đó để hỏi xem Constance có nói chuyện với họ không. Cái cô đang ngồi ở bàn em là ai thế?” “Em tính liên hệ với họ như thế nào?” “Từ danh bạ điện thoại,” cô nói, cố gắng không để lộ ra việc chính cô cũng nghĩ đây là một ý tưởng ngu ngốc. “Vậy thôi sao?” “Vâng.” “Và trong danh sách có bao nhiêu người?” “Một trăm người. Cái cô đang ngồi ở bàn em là ai thế?” “Một trăm người? Chúa ơi, Kitty, gọi đến chừng nào cho hết.” “Em đã làm gần xong tên đầu tiên.” “Và? Có gì không?” “Vẫn chưa.” Anh ta giận dữ nhìn cô. “Tên cô ta là ‘McGowan’; ở đất nước này cái tên đó chẳng khác nào tên ‘Smith’. Em đã gọi gần trăm cuộc. Pete, anh muốn em phải làm gì đây? Chẳng có cách nào khác. Em thử Google hết các tên và Archie Hamilton hoặc là một chú hề diễn ở các bữa tiệc cho trẻ con, hoặc là một thằng cha làm ở công ty chứng khoán Davy, hoặc là một ông chết được mười năm rồi, hoặc là một tên bị bắt bỏ tù năm năm trước vì tội hành hung. Anh nghĩ em nên đoán ai mới là người ta tìm?” Anh ta thở dài. “Nghe này, em không thể làm việc ở đây.” “Sao không?” Cô nhìn ra cửa sổ, rồi lại chú mục vào cái bàn của mình. “Đó là Bernie Mulligan. Anh đã nhờ chị ấy thay em viết bài cho số tháng này. Bên Cox Brothers gọi đến, cùng với mấy nhà quảng cáo lớn của mình nữa. Họ bị gây áp lực rất căng buộc phải rút quảng cáo ra khỏi số tháng này.” “Tại sao?” Im lặng. “Ồ. Tại vì em.” “Họ đã bị áp lực mấy tháng qua rồi nhưng chỉ sau phiên xử họ mới thấy là họ không thể ủng hộ tạp chí nếu không chứng kiến em nhận bất cứ hình phạt nào.” “Nhưng đài truyền hình đã đình chỉ em. Chuyện đó có liên quan gì đến Etcetera đâu.” “Có người gây rắc rối cho họ.” “Phe ủng hộ Colin Maguire,” cô nói. “Bọn họ đang ra sức làm mọi cách có thể để tiêu diệt em.” “Ta chưa biết là có phải họ không,” anh ta nói, nhưng không có mấy sức nặng lẫn niềm tin trong đó. Anh ta vuốt tóc. Mái tóc bóng bẩy và hoàn hảo đến mức nó vào nếp ngay lập tức và làm Kitty nhớ tới một mẩu quảng cáo của Head & Shoulders. Lần đầu tiên, cô nhận ra anh ta trông cũng khá đẹp trai. “Vậy là anh sẽ đình chỉ em.” “Không… anh chỉ muốn em không đến tòa soạn ba tuần tới trong thời gian anh cố thuyết phục họ.” “Nhưng còn câu chuyện của Constance thì sao?” Anh ta mệt mỏi dụi dụi mắt. “Đó là lý do anh không muốn em viết nó đúng không? Vì thế nên anh mới bảo Cheryl.” “Anh thật sự bó tay, Kitty. Họ là những nhà quảng cáo lớn nhất chúng ta có. Mất họ đồng nghĩa với tự sát, và anh không thể để việc đó xảy ra.” “Bob có biết không?” “Không, và em cũng không được nói cho anh ấy. Anh ấy không cần gánh thêm chuyện này nữa. Đó là lý do tại sao Cheryl và anh ở đây.” “Em muốn viết câu chuyện này,” Kitty nói. Đột nhiên cô thực sự rất cần được thực hiện nhiệm vụ này. Nó là tất cả những gì cô có. “Nếu họ làm như những gì họ nói thì ta không thể công khai tên em được,” anh ta nói, lộ rõ vẻ mệt mỏi. “Anh không thấy còn cách nào khác.” Kitty đột nhiên thích khía cạnh này của con người anh ta. Trông anh ta người hơn, không giống với tính cách hung hăng thường ngày. “Em đang cân nhắc sẽ viết dưới tên Kitty Logan từ giờ trở đi. Anh biết đấy, bỏ tên Katherine đi. Ngoài mẹ em ra cũng chẳng ai gọi em bằng cái tên đó…” Cô nuốt khan. Katherine Logan là một gánh nặng, cô thấy ngượng ngùng khi nói ra cái tên đó, lo lắng khi cô gọi đến những người ở trong danh sách, tưởng tượng phản ứng của họ và những gì họ nghĩ trong đầu mà không nói ra. Cô bị xấu hổ bởi chính cái tên của mình. Kitty có thể là một khởi đầu mới cho cô. Pete nhìn cô với vẻ thương hại. “Hay thế này,” cô gạt phắt sự thương hại của anh ta và sáng rỡ lên trước một ý tưởng mới vừa nảy ra, “chúng ta để tên Constance ở đó. Đó là câu chuyện cuối cùng của chị ấy.” “Ta không làm vậy được, Kitty, nếu đó là câu chuyện em viết thì không.” Anh ta trông ngạc nhiên, theo hướng tốt, ấn tượng trước việc cô sẵn sàng không đề tên mình lên tác phẩm tâm huyết. Anh ta dịu xuống. “Rồi ta sẽ tìm ra cách. Cứ tiếp tục làm việc của em đi. Em không làm ở nhà được à?” “Em không thể… em không thể chi trả cho ngần ấy cuộc gọi được.” Anh ta thở dài và tựa người lên bàn, tay xòe ra chống trên mặt bàn như lúc ở phòng họp ban. Anh ta có một tấm lưng vạm vỡ và, ngạc nhiên thay, Kitty hơi thấy rung động. Cô chỉ muốn với tay ra và giúp anh xoa bóp đôi bờ vai căng cứng ấy. “Được rồi,” anh ta nhẹ nhàng nói. “Dùng điện thoại bàn ở nhà em rồi xuất hóa đơn cho tòa soạn.” “Cảm ơn anh.” “Nhưng, Kitty này, em cần phải tìm cách khác chứ không thể cứ lần dò qua cuốn danh bạ điện thoại được.” “Vâng. Em biết.” Trong lúc Kitty xuống lầu, cô nhận thấy nhà chim ở vườn trước có cái bảng “Thư quảng cáo” trên đó và tờ rơi quảng cáo nhồi nhét đầy bên trong. Cô nghĩ đến Glen, việc anh ta giấu đồng hồ đeo tay trong tủ đồ lót của cô. Bob và Constance giấu đồ trong những nơi không ai ngờ đến; hẳn nhiên chìa khóa cho câu chuyện của Constance phải nằm đâu đó trong căn hộ ấy. Cô gõ cửa. Teresa trả lời. “Cậu ấy đi nằm rồi, cưng.” “Cháu cần dùng bàn của Constance. Cháu cần bác giúp. Cháu cần tìm cuốn danh bạ điện thoại.” Teresa cười. “Ờ, chúc may mắn nhé. Cháu biết hồi hôm tôi tìm thấy cái điện thoại vùi trong giỏ đựng đồ giặt không? Bob nói nó reo inh ỏi quá.” Họ nhìn quanh căn hộ. “Tiền trong ấm trà, hộ chiếu trong lò nướng, thư quảng cáo trong nhà chim - thế Constance sẽ để danh bạ điện thoại ở chỗ nào đây?” Kitty hỏi. “Khả năng là trong cầu tiêu đấy, có khi cô ấy dùng nó để chùi,” Teresa nói trên đường trở lại nhà bếp và Kitty có thể nghe tiếng máy rửa chén đang hoạt động. Kitty vui khi thấy ít ra Teresa cũng đã làm thêm một việc khác ngoài việc lau chùi sơ sài và giờ còn chăm sóc Bob nữa. Được tự do hoạt động, Kitty bắt đầu tìm cuốn danh bạ điện thoại trong căn hộ, kiểm tra ở những nơi dễ thấy nhất và rồi bắt đầu vắt óc nghĩ ra những vị trí ít ngờ đến hơn. Cô quỳ gối trên sàn trong phòng làm việc của Bob và Constance, trên tấm thảm da cừu xù xì nằm xộc xệch bên cạnh anh hàng xóm Ba Tư của mình, rồi kiểm tra chiếc bàn cà phê nhỏ có đặt cái điện thoại bên trên. Không biết vì sao nhưng cô thấy có gì đó thôi thúc cô phải nhìn bên dưới chiếc bàn, và chúng đây rồi. Thay vì bốn cái chân, mặt bàn gỗ được chống bởi bốn chồng sách là sổ điện thoại với Những trang vàng, mỗi chồng là năm cuốn sách dày cộp phát hành trong mười năm trở lại đây. Kitty bật cười và Teresa xuất hiện trước cửa để xem cô tìm thấy gì. Nhìn thấy Kitty nhấc mặt bàn gỗ ra khỏi chồng danh bạ, Teresa đảo mắt, nhưng bà không giấu được niềm vui trên gương mặt trong lúc quay ra hành lang trở lại nhà bếp. Kitty lướt qua cuốn danh bạ mới nhất nhưng chẳng có gì lạ. Rồi cô xem lại cuốn năm ngoái. Cô tìm đến họ McGowan, và ngay khi vừa nhìn thấy trang đó cô muốn nhảy cẫng lên vì vui mừng. Cái tên được tô bút dạ màu hồng. Cô lật sang cái tên thứ hai trong danh sách, Ambrose Nolan, và cô càng vui hơn nữa khi thấy nó cũng được tô bút dạ quang. Lôi bản danh sách ra khỏi tập hồ sơ của mình, cô dò từng cái tên một và rít lên sung sướng khi tất cả đều được đánh dấu trong danh bạ. Cuối cùng may mắn cũng đến. Cô mừng rỡ vung tay lên trời và vô tình va phải một cái đèn. Nó nghiêng ngả chực đổ làm một cuốn sổ địa chỉ bìa da màu đỏ rơi xuống sàn, cuốn sổ mà Bob vẫn đang tìm kiếm. Kitty cười, ôm cuốn danh bạ vào lòng và ngẩng đầu lên không. “Em cảm ơn,” cô thì thầm. CHƯƠNG SÁU V ậy là giờ Kitty đã có đầy đủ tên họ, địa chỉ và số điện thoại của mọi người. Tất cả đều sống ở Ireland, và công cuộc kiếm tìm vô vọng của cô nay đã được giới hạn lại trong một quốc gia. Cô đã tiến rất gần với câu chuyện của Constance đến mức cô như ngửi thấy mùi mực in của tờ tạp chí mới ra lò. Trong khi thời hạn chỉ còn khoảng một tuần rưỡi nữa, và có tới tận một trăm người phải gặp, cô ngạc nhiên thấy mình không hề nôn nóng muốn liên hệ với họ ngay lập tức. Lúc cô nhìn xuống cuốn danh bạ điện thoại, cô thấy bị thôi thúc phải tìm đến một cái tên, một người thậm chí không nằm trong danh sách của Constance. Kitty bắt xe buýt số 123 đến đường O’Connell và chuyển sang xe số 140 đến khu Finglas. Một giờ sau khi bắt đầu chuyến hành trình, đã nhẩm đi nhẩm lại những lời muốn nói trong đầu, vậy mà khi đến nơi cô vẫn không biết phải nói gì. Cô đứng đối diện bãi cỏ trước nhà Colin Maguire trong khi lũ trẻ đua nhau đạp xe vòng quanh, gần như xô ngã cô như thể cô không hề hiện diện ở đó. Đột nhiên cô ước gì mình không ở đó thật. Vào lúc đó trên đường tấp nập những bà mẹ dắt con mình đi tới đi lui, nhưng dường như chẳng ai nhận ra sự có mặt của một người lạ. Chưa thôi. Cô tin chắc giờ chỉ còn là vấn đề thời gian khi một đứa nhỏ báo cho mẹ nó có một cô lạ mặt đang lấp ló ở bãi cỏ. Bãi cỏ dài một trăm mét với lối đi chéo từ đầu này băng qua tới đầu bên kia, bao quanh là bờ tường nhỏ cao lưng chừng gối. Không có thứ gì che chắn cho cô, hoàn toàn trống trải, và tất cả những gì ngăn giữa cô với nhà của Colin chính là khoảng cách và nỗi sợ hãi. Khi cô nhìn quanh khu dân cư, cô tập trung vào những gương mặt ở đó, tự hỏi có phải họ cũng đã đến tòa án hay không, có phải họ cũng là những người đã chửi mắng cô, có phải họ cũng là những người đã đến trước cửa nhà cô mang theo sơn xịt và giấy vệ sinh trong lúc cô đang ngủ hay đi làm. Có phải họ cũng đang quan sát cô như cô đang quan sát họ hay không? Đội một chiếc nón sùm sụp che khuất mặt, cô nhìn ngôi nhà của Colin Maguire và cân nhắc xem có nên tiến lại không, và nếu có, thì cô sẽ nói gì. Tôi xin lỗi. Xin lỗi vì đã hủy hoại cuộc sống của anh. Xin lỗi vì anh bị đình chỉ công tác, xin lỗi vì anh bị cộng đồng xa lánh. Xin lỗi vì anh phải rao bán ngôi nhà của mình, dù không rõ vì sao nhưng tôi biết mình có liên quan. Xin lỗi vì đã khiến cuộc hôn nhân của anh rạn nứt. Xin lỗi vì đã làm tổn hại đến công việc của anh. Xin lỗi vì đã làm gia đình anh xấu hổ và đã phá hoại những mối quan hệ cá nhân của anh. Tôi biết hẳn anh sẽ không tin là tôi hiểu, rằng tôi là một con khốn vô lương tâm không bao giờ có thể hiểu được, nhưng tôi hiểu. Tin tôi đi, tôi hiểu. Tôi hiểu vì chính tôi cũng đang trải qua tình cảnh ấy. Cô muốn nói những lời đó nhưng cô biết xin lỗi như thế chẳng khác chi than thân trách phận và cô muốn mình thôi tỏ ra ích kỷ. Thế nhưng cô không thể bởi cô thấy chính cô cũng đang chịu vô vàn tổn thương. Là lỗi của cô, đúng vậy, nhưng cả hai bên đều bị tổn thương, trong khi đó những người yêu quý và muốn bảo vệ anh ta lại đang không ngừng khiến cuộc đời cô khốn khổ hơn nữa. Cô quan sát ngôi nhà, tấm biển đề “Nhà bán” cắm trước sân. Cô không thấy dấu hiệu nào của con anh ta, không có xe đạp trong sân, không có đồ chơi trên bệ cửa sổ, xe hơi vẫn đậu trước lối vào. Xe của Colin. Cô vẫn nhớ mình rượt theo anh ta ra đến xe sau giờ học, máy quay chĩa vào gương mặt ngơ ngác và hoang mang của anh ta. Khi đó cô đã nghĩ anh ta là một tên tội phạm. Cô đã tin chắc như vậy, nhưng giờ cô thấy thật xấu hổ khi nhớ lại những lời đã nói với anh ta. Cô tự hỏi có phải xe đậu trước cửa tức là anh ta vẫn chưa đi làm lại không. Cô đoán là anh ta còn giữ được việc làm khi giờ đây tên tuổi đã hoàn toàn trong sạch. Hay có lẽ vết nhơ ấy quá lớn khiến anh ta chưa trở lại được. Xin lỗi. Colin ba mươi tám tuổi. Ngay sau khi tốt nghiệp đại học ở tuổi hai mươi tư, anh ta bắt đầu làm việc tại trường trung học công lập Finglas, nơi có học sinh trong độ tuổi từ mười hai đến mười tám. Xui cho anh ta ở chỗ, anh ta được bọn học sinh vô cùng ngưỡng mộ, lại còn là khách mời thường xuyên ở những buổi vũ hội trưởng thành cho năm cuối, một thầy giáo trẻ tuổi biết cảm thông chẳng giống một ông thầy thực thụ trong mắt học trò bởi anh ta ít khi nào cho bài tập, và không phạt học sinh gì khác ngoài bắt chúng vừa hít đất vừa hát mấy bài hát đang nổi lúc bấy giờ. Anh ta là người thầy học sinh có thể trông cậy khi cần, và bởi sự nổi tiếng ấy anh ta thường được nhờ làm thầy phụ đạo trên lớp, không phải chuyện thường thấy đối với một thầy giáo dạy thể dục trong một ngôi trường đặc thù như vậy. Mười năm trước, anh ta từng từ chối tình cảm của cô học sinh mười sáu tuổi Tanya O’Brien, để giờ anh ta phải gánh chịu hậu quả. Dù sao đi nữa, Tanya quyết định thông đồng với người bạn học cũ là Tracey O’Niell hòng trả đũa anh ta nỗi đau thất tình của mình. Tracey thực sự tin rằng Tanya đã bị xâm hại và cậu con trai mười tuổi của cô ta chính là con của Colin. Ngoài việc muốn động viên cô bạn, và việc mình bị thuyết phục rằng hai người kể cùng một câu chuyện sẽ giúp củng cố lời cáo buộc hơn nữa, Tracey còn tin là sẽ có thêm tiền đền bù cho bất hạnh của Tanya, chưa kể vô số tạp chí sẽ rất háo hức được viết bài về cô ta và thậm chí cô ta có thể được lên truyền hình để kể lại nỗi đau mình đã trải qua. Tanya đã chỉ cho bạn mình thấy một vài ví dụ về những vụ cáo buộc trước đây mà các nạn nhân được truyền thông trả tiền. Một phụ nữ trẻ xấu xa cùng một người bạn nhàn cư vi bất thiện đã cùng nhau nhắm vào một mục tiêu quá xa tầm với. Kitty còn trẻ và đang trên đà thăng tiến. Họ biết cô có tham vọng. Và đúng thế thực. Cô đã ngốn ngấu những lời dối trá đó và ngay lập tức hẹn gặp họ, thuyết phục biên tập viên và nhà sản xuất của chương trình Ba Mươi Phút cho cô được thực hiện bản tin này, tự nhủ với lòng mình rằng lột trần bộ mặt thật của con yêu râu xanh ấy là góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Cửa trước nhà Colin bật mở và anh ta xuất hiện, cằm áp sát ngực, đầu vẫn cúi gằm như lần cuối cô nhìn thấy anh ta ở tòa án. Tim Kitty đập liên hồi và cô nhận ra mình không thể tiến lên. Cô quay người và nhanh chóng bỏ đi, nón sụp xuống mặt, lại một lần nữa thấy mình như đang chõ mũi vào đời tư của Colin. Không ai trả lời tin nhắn thoại của cô. Những người cô gọi đến không thấy nghe máy, hay có khi họ đang không ở nhà, cô để lại tin nhắn nhưng không chắc họ sẽ nhận được. hơn nữa, bây giờ người ta thường nhìn số gọi đến và không nhấc máy nếu họ thấy số lạ hay số bị ẩn. Kitty quyết định cách tốt nhất để thực hiện câu chuyện này không phải là liên hệ đến tất cả một trăm người đó qua điện thoại mà phải thử gặp trực tiếp họ. Vào ngày mở đầu cho chuỗi viếng thăm cá nhân của mình, cô đến địa chỉ nhà Sarah McGowan ở Lucan, một tòa chung cư xây bằng gạch đỏ vào những năm bảy mươi, trông như thể thuộc về một cộng đồng của những người về hưu. Cánh cửa dẫn ra hiên cạnh của chính nơi cô đang đứng bật mở và một cô gái tuổi đôi mươi trong trang phục y tá bước ra. “Em có phải Sarah McGowan không?” Cô gái nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. Đắn đo suy nghĩ. “Nhỏ đó chuyển đi sáu tháng trước rồi.” Kitty không giấu nổi vẻ thất vọng. “Ở đây nhỏ đó không có việc làm,” cô y tá nhún vai, “cái đó thì cũng chịu thôi, nhưng đáng lý nó phải báo em trước ba tháng. Thế mà không thèm nói.” “Cô ấy chuyển đi đâu?” Kitty hỏi, đầy hy vọng. “Úc.” “Úc!” “Victoria, em nghĩ thế. Hay ít ra là nhỏ đó đến đó trước. Nó có bạn trồng dưa hấu ở đó. Họ cho nó một chân thu hoạch dưa.” Cô y tá đảo mắt. “Sao thế, chị thấy cũng vui mà,” Kitty nói, thầm nghĩ việc thu hoạch dưa hấu ở phía bên kia địa cầu có khi là phương thuốc hữu hiệu cho tình cảnh hiện giờ của cô. “Đối với một kế toán viên có trình độ á?” Kitty hiểu ngay. “Em có số điện thoại mới của cô ấy không?” Cô y tá lắc đầu. “Bọn em không hẳn là bạn bè. Nhỏ đó lập một địa chỉ chuyển tiếp khác ngoài bưu điện và em rao bán đống rác của nó trên eBay. Cũng chả trông mong gì hơn ở nhỏ đó.” “Em có biết ai là bạn bè hay gia đình cô ấy không?” Cô gái trao cho Kitty cái nhìn tỏ rõ mọi điều. “Cảm ơn em đã giúp.” Kitty quay đi, biết rằng mình không thể moi thêm được gì từ cô gái này nữa. “Này, chị có phải cô ta không?” Kitty dừng bước. “Ý em là cô nào cơ?” “Cái cô trên ti vi. Chương trình Ba Mươi Phút.” Kitty ngập ngừng, “Ừ, là chị.” “Chị có để lại một tin nhắn trên điện thoại em.” Đó không phải một câu hỏi. “Em chưa từng xem chương trình của chị. Em chỉ biết chị qua vụ kiện kia.” Nụ cười trên môi Kitty tắt dần. Cô gái dường như đang đắn đo chuyện đó. “Nhỏ đó là người tốt, chị biết đấy. Nhỏ Sarah ấy. Dù những gì em nói về nó không hay lắm. Chị đừng làm điều gì tồi tệ với nó.” “Không đâu.” Kitty nuốt khan và rời khỏi khu chung cư tĩnh lặng. Có lẽ trong tương lai cô cũng sẽ chẳng dùng cái tên Kitty nữa. Trên xe buýt đến địa chỉ tiếp theo, Kitty cố gắng quên đi những lời sau cuối của cuộc trò chuyện ban nãy bằng cách hí hoáy ghi chép vào sổ tay. Đề tài dự kiến: Những người phải di cư. Câu chuyện về suy thoái kinh tế? • • • Kitty hy vọng không phải vậy. Cô đã phát ngấy với những câu chuyện như thế - đề tài đó tràn ngập truyền thông - và cô tin Constance cũng cảm thấy thế, trừ phi đây là trường hợp đặc biệt. Cô nhìn ra bên ngoài cửa sổ xe buýt. Cô đã mong là sẽ tiến hành theo đúng thứ tự những cái tên trong danh sách Constance lập ra, nhưng bởi Kitty phải đi gõ từng cánh cửa, và còn không có xe riêng, cô đành quyết định bắt đầu với những địa chỉ tại Dublin trước. Đứng thứ sáu trong danh sách của Constance, nhưng thứ hai của Kitty, là bà Bridget Murphy. Nhà số 42 nằm trong một khu nhà liên kế ở Beaumont, chẳng có đặc điểm gì nổi bật so với cả một hàng những ngôi nhà mặt tường đá rửa y hệt nhau trên cùng dãy, cũng như ở dãy đối diện, hay ở mặt bên kia của cả khu đất. Một số gia chủ đã cố gắng mang đến cho khu nhà chút sắc màu bằng cách sơn phết lại nhà của mình, dù vậy rõ ràng họ chẳng hề để ý đến xung quanh. Có nhà màu vàng chanh chẳng ăn nhập gì với nhà màu cam, có nhà xanh lá mạ bên cạnh xanh bạc hà, có nhà màu hường kề bên sắc xám xịt của mặt tường đá rửa không được sơn. Biển số nhà 42 là một miếng dán hình mặt cười không giống ai được dán trên thùng rác đẩy đặt trước cửa chính, lối vào nhà rải rác đồ chơi và xe đạp, nhưng không có xe để trong nhà cũng như đậu ngoài đường. Giờ là năm rưỡi chiều, người người đang từ sở làm về nhà và hoàng hôn đang dần buông. Trước cửa nhà bên cạnh có một bà lão ngồi trên ghế tựa gỗ ngắm ánh chiều tà. Bà mặc một chiếc váy dài đến gối, quần tất dày với đôi chân nhăn nheo quấn băng, và hai bàn chân xỏ đôi giày mềm sọc tartan. Bà quan sát Kitty chăm chú và gật đầu với cô khi cô nhìn thấy bà. Kitty nhấn chuông cửa nhà Bridget Murphy và bước xuống khỏi bậc tam cấp trước cửa. “Nhà bên đó đang ăn tối,” bà lão nói. Khi thấy Kitty nhìn sang phía mình, bà tiếp tục, “Cà ri gà. Thứ Năm nào nhà đó cũng ăn món này. Tuần nào tôi cũng nghe cái mùi ấy trong nhà mình.” Bà chun mũi. Kitty cười. “Bà không thích cà ri gà ạ?” “Nếu là cô ta nấu thì không,” bà nói, nhìn ra hướng khác như thể hình ảnh ngôi nhà khiến bà khó chịu. “Mấy người đó không nghe được cô ngoài này đâu, chúng nó ồn như chợ.” Kitty có thể nghe thấy từ chỗ cô đứng. Nghe như thể một đạo quân trẻ con hú hét vừa dộng dao nĩa vừa cụng ly tách láo nháo. Cô không muốn tỏ ra thô lỗ khi nhấn chuông lần nữa, đặc biệt là khi cô đang làm phiền bữa ăn gia đình của người ta và có một bà lão đang quan sát cô. “Nếu là cô thì tôi sẽ nhấn thêm lần nữa đó,” bà hàng xóm nói. Mừng vì được phép, Kitty nhấn chuông cửa lần thứ hai. “Cơ mà cô đang tìm ai thế? Ông chồng hay bà vợ? Tại thằng kia không có nhà đâu, thường ngày tới bảy giờ mới về. Làm ngân hàng mà.” Bà lại chun mũi. “Cháu đến để gặp Bridget.” Bà lão cau mày. “Bridget Murphy ư?” Kitty xem lại sổ tay lần nữa dù cô gần như đã thuộc nằm lòng cả danh sách, dạo này cô hay thế, cứ lật đi lật lại mọi thứ để kiểm tra mà vẫn không hoàn toàn chắc chắn. “Bridget không còn sống ở đó nữa,” bà lão nói vừa đúng lúc cánh cửa bật mở và bà mẹ của đạo quân con nít trong kia mặt mày ửng đỏ nhìn chằm chằm vào một Kitty đang ngơ ngác. “Ồ. Chào chị,” Kitty nói. “Tôi giúp gì được cô chăng?” “Em hy vọng là được. Em đang tìm bà Bridget Murphy nhưng em vừa hay là có lẽ bà ấy không còn sống ở đây nữa.” “Bà ấy không sống ở đây nữa,” bà lão nói. “Tôi nói rồi mà. Tôi nói với cô ấy rồi, Mary.” “Vâng, đúng thế,” bà mẹ nói, không quan tâm đến bà lão. “Thấy chưa?” “Chị có biết cách nào giúp em liên lạc với bà Bridget không?” “Tôi chẳng quen biết gì Bridget cả. Bọn tôi mới mua ngôi nhà năm ngoái nhưng có lẽ bà Agnes đây giúp được cô đấy.” Kitty xin lỗi vì đã quấy rầy bữa tối của gia đình, cửa đóng lại và hai người họ nghe tiếng Mary gầm lên bảo tất cả im lặng, nhưng tréo ngoe thay lại làm rung chuyển cả ngôi nhà. Cô quay sang Agnes. Kitty đoán bà Agnes biết tất tật chuyện của xóm giềng. Ước mơ của mọi nhà báo. Cô định leo qua bờ tường thấp ngang gối chắn giữa hai ngôi nhà nhưng lại nghĩ Agnes hẳn sẽ coi hành động đó là thô lỗ nên cô đành theo đường ra cổng, vào cổng nhà Agnes và đi ngược lại đường lên đến chỗ bà lão. Agnes nhìn cô lạ lùng. “Sao cô không leo qua tường cho rồi.” “Bà có biết bà Bridget sống ở đâu không ạ?” “Bọn ta là hàng xóm suốt bốn mươi năm. Bà ấy tuyệt lắm. Thế mà con cháu lại thành ra một lũ ích kỷ vô dụng. Cô mà nghe chúng nó nói hẳn sẽ nghĩ chúng nó tưởng mình vương giả lắm. Quên đi mất chúng nó được nuôi dạy thế nào, tôi nói thật đấy. Bà ấy chỉ bị té thôi,” bà lão tức giận nói. “Bà ấy trượt chân. Ai mà không một lần trượt chân trong đời chứ? Nhưng ôi giời, Birdie tội nghiệp ngay lập tức bị đưa tới viện dưỡng lão để cái bầy đấy có thể bán phứt ngôi nhà rồi lấy tiền làm thêm một chuyến du lịch trượt tuyết.” Bà lèm bèm với chính mình, miệng nhóp nhép lên xuống đầy giận dữ, hàm răng giả lọc xọc bên trong. “Bà có biết bà ấy ở viện dưỡng lão nào không?” “Viện Thánh Margaret ở Oldtown,” bà nói, nghe như nổi giận với cả Oldtown. “Bà đã đến thăm bà ấy chưa?” “Tôi á? Chưa. Tôi chỉ đi xa được đến cửa hàng ở cuối đường là đã phải lần mò tìm lối về lại rồi đó chứ,” bà cười khùng khục rồi ho khù khụ. “Bà có nghĩ bà ấy sẽ chịu gặp cháu không?” Agnes nhìn cô. “Mặt cô quen lắm.” “Vâng,” Kitty nói, lần này e dè hơn. “Cô thực hiện cái chương trình về trà này.” “Vâng ạ, đúng rồi,” Kitty rạng rỡ hẳn. “Tôi uống trà hiệu Barry,” bà nói. “Mẹ tôi cũng vậy. Và cả mẹ của mẹ tôi nữa.” Kitty trang trọng gật đầu. “Cháu tin đấy hẳn là một lựa chọn tốt.” Agnes nheo mắt trong lúc đắn đo quyết định. “Nói với bà ấy là Agnes đã cho phép cô rồi. Và gửi lời hỏi thăm của tôi tới bà ấy. Tôi với bà ấy, hai người là chỗ thâm tình lâu năm.” Bà lại nhìn xa xăm, trầm ngâm. “Cô nhắn bà ấy là tôi vẫn ở đây nhé.” Khi Kitty chuẩn bị ra về, cánh cửa ngôi nhà kế bên Agnes lại bật mở và bốn đứa nhóc lao ra như đạn đại bác, mẹ chúng nhanh chóng theo sau kêu gào trật tự. Agnes gọi với theo cô, “Và báo với bà ấy là chúng xén mất khóm hoa hồng của bà ấy rồi. Bằm nát bấy, chúng làm đấy.” Mary ném cho Agnes cái nhìn tột cùng khinh bỉ và Kitty mỉm cười vẫy tay chào tạm biệt. Trên đường đến địa chỉ tiếp theo, Kitty nhìn lại hai cái tên cô đã ghé thăm ngày hôm nay. Sarah McGowan và Bridget Murphy. Đề tài dự kiến: những người bị ép buộc phải chuyển nhà. Cô cảm thấy một mối liên hệ sâu sắc với chủ đề này. Câu chuyện của cô và Colin Maguire. CHƯƠNG BẢY V ì rất ít xe buýt chạy tuyến Oldtown, Kitty đành bắt tắc xi, với một tài xế ở đầu kia thị trấn luôn miệng nhắc đến chính chuyện này, nên họ phải dừng xe ba lần để hỏi đường khi thấy những con đường làng quê dường như càng lúc càng hẹp và quanh co dễ lạc. Xa tít trong chốn làng quê ấy cuối cùng họ cũng đến được viện Thánh Margaret, ngôi nhà gỗ một tầng xây từ những năm 1970 nay được nới rộng ra tứ phía để nâng cấp lên đủ tiêu chuẩn thành một viện dưỡng lão. Nhà kính trồng cây ngoảnh mặt hướng Nam ở bên tay phải ngôi nhà được cải tạo thành nhà ăn, còn bên cánh trái cho đến tận bờ tường là hàng hiên đặt nhiều trường kỷ và ghế bành. Những khoảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, băng ghế được đặt khắp nơi, và quanh nhà treo đầy giỏ hoa đua sắc thắm. Nếu có dịp gặp lại, Kitty chắc chắn sẽ nói với Agnes rằng bà bạn Bridget của bà đang ở một nơi rất tốt. Đã bảy giờ tối, thời gian thăm viếng chỉ còn ba mươi phút, và cho đến lúc này may mắn vẫn chưa mỉm cười với cô trên hành trình tìm kiếm những cái tên trong danh sách, Kitty chỉ cầu mong Bridget sẽ chịu gặp cô. Cô đến bàn trực hỏi xin gặp bà Bridget Murphy rồi chờ đợi trong lúc một điều dưỡng viên mặt mày nghiêm nghị, tóc búi đơn giản, kiểm tra sổ khách thăm. Kitty lúng túng khi cô ta quan sát cô, cố trình bày việc cô không đăng ký trước và hướng giải quyết thích hợp. Bên tay phải cô là phòng sinh hoạt chung, chộn rộn khách thăm, nhiều người đang chơi cờ. Một bà trung tuổi có mái tóc cuốn lọn dài ngồi bệt giữa sàn phòng và đòi ba ông lão, một người dùng khung tập đi, một người đeo máy trợ thính ở cả hai tai, cùng bà ta chơi trò Tôi bảo. “Không, Wally!” bà ta cười khanh khách. “Tôi đâu có hô ‘Tôi bảo tôi bảo’ đâu nè!” Ông lão đeo máy trợ thính ngơ ngác. “Giờ ông phải ngồi xuống, ông bị loại rồi. Ông bị loại rồi!” bà ta la còn lớn hơn lúc nãy. Bà ta bỏ mặc hai ông lão còn lại đang đứng hai tay ôm đầu và tiến ra cửa phòng sinh hoạt chung. “Molly,” bà ta gọi, nhìn Kitty từ đầu đến chân như thể đánh giá đối thủ, “Birdie đâu?” “Bà ấy đi nằm rồi,” một điều dưỡng trẻ với mái tóc xanh biển cùng màu với sơn móng tay trả lời bằng giọng chán nản, không hề ngẩng lên khỏi biểu đồ trước mặt. “Tôi qua phòng bà ấy nhé?” bà tóc cuốn lọn hỏi. “Tôi có mang theo mấy lá bài thiên sứ hôm bữa kể cho bà ấy nghe.” Molly nhìn Kitty và nhướn mày như thể muốn nói, “Chả trách sao bà ấy phải đi nằm.” Bà tóc cuốn lọn trông giận dỗi, giống một cô bé bị bạn nghỉ chơi. Molly thở dài. “Để cháu đi xem bà ấy thế nào và hỏi liệu bà ấy có muốn sang phòng sinh hoạt chung không nhé.” Trong lúc chờ đợi, bà tóc cuốn lọn quay đi và nói thật to với một ông lão gần đó. “Seth, ông có muốn nghe bài thơ tôi mới làm tuần này không?” Ông Seth nom không có vẻ gì hào hứng khi bà ta cứ thế ngồi xuống mà không chờ câu trả lời và bắt đầu ngâm nga bài thơ như một đứa trẻ sáu tuổi học cách phát biểu trước lớp. Kitty nhìn Molly lững thững đi dọc hành lang, ngừng lại trước nhà tắm, tựa người vào cửa và săm soi móng tay của mình. Kitty mỉm cười thầm. Sau chừng mười giây Molly quay trở lại và báo với bà tóc cuốn lọn, “Bà ấy ngủ rồi.” “Ông Seth cần thay pin máy trợ thính,” điều dưỡng viên tiếp Kitty báo với Molly khi cô quay trở về bàn. Molly đưa mắt nhìn bà tóc cuốn lọn đang ngâm thơ. “Ta cứ để ông ấy hết pin thêm chút nữa chăng?” Kitty thích kiểu cách của Molly. “Tôi xin lỗi, ban nãy cô khai tên mình là gì nhỉ?” điều dưỡng viên mũm mĩm trông nghiêm nghị cuối cùng cũng ngẩng lên khỏi cuốn sổ. “Kath…” cô chững lại, chợt nhận ra cô không thể khai tên chính thức của mình như trước đây được. “Kitty Logan,” cuối cùng cô nói. “Và cô có hẹn xin gặp bà Bridget trước không?” “Thực tình là không, tôi chưa báo. Tôi chỉ nghĩ là mình cứ thế ghé qua thôi,” cô nói với giọng ngọt ngào hết mức có thể. Dù ai mà tin được có người lại nhân tiện ghé qua đây chứ. Tên lửa được lập trình sẵn cũng không tài nào đánh trúng chỗ này nữa là. “Chúng tôi chỉ cho phép khách thăm khi có báo trước,” điều dưỡng viên nghiêm giọng nói, mặt lạnh lùng đóng sập cuốn sổ khách thăm, và Kitty biết ngay con người này chẳng dễ đối phó. “Nhưng giờ tôi lỡ đến rồi, và tôi đã đi cả quãng đường xa như vậy. Cô có thể báo bà ấy là tôi ở đây và hỏi xem bà ấy có muốn gặp tôi không? Cô có thể nhắn thêm là bà Agnes cho phép tôi rồi,” cô mỉm cười. “Tôi e làm như vậy là trái với quy định ở đây. Cô sẽ phải quay lại sau nếu bà Brenda muốn…” “Là Bridget. Tôi đến để gặp bà Bridget Murphy,” Kitty nói, bắt đầu nổi cáu. Đến giờ cô vẫn chẳng gặp chút may mắn nào trong việc liên lạc với những cái tên có trong danh sách, cô đang cạn dần thời gian lẫn kiên nhẫn, và cô không muốn rời khỏi tòa nhà này mà không gặp được Bridget hay không cả được đấm vào mặt ai đó, cô không quan tâm là ai, nhưng ưu tiên hàng đầu vẫn là cô ả ó đâm đang ở trước mặt. “Rồi, giờ…” điều dưỡng viên chống hai tay lên bờ hông tròn lẳn của mình và nhìn như thể cô ta sắp sửa phết cho Kitty mấy phát vào mông. “Bernadette,” điều dưỡng viên tóc xanh xen vào, “để em lo cho. Chị đi xem ông Seth thế nào đi, ông ấy thích chị hơn.” Bernadette nhìn cô điều dưỡng, khó chịu vì bị cắt ngang màn sát phạt của mình, rồi lùi xuống, khịt mũi lần cuối với Kitty trước khi đi sang giúp ông Seth. “Đi theo em,” Molly nói, rồi cô quay người tiến về khu nhà xây thêm phía sau. Hay thật, giờ thì cô bị dẫn đi lối sau; họ còn không dám đuổi thẳng cô ra khỏi cửa trước. Khi hai người bước ra đến khoảnh vườn xanh mướt bên ngoài Molly mới nói. “Đừng để ý chị ta, kiếp trước chị ta là hạ sĩ quan quân đội còn kiếp này chị ta là bà cô già cáu bẳn. Birdie ghét giờ thăm viếng. Bà già híp pi kia quậy không chừa ai đâu nhưng hình như bà ta chỉ thích nhắm vào bà Birdie hơn cả. Nếu được chắc em cũng cho bà ta một trận. Bà ta chẳng biết làm gì với thời giờ của mình, khi thì đi ôm cây khi thì chọc phá mấy ông bà già khác, mà nếu bà ta có chọc phá cây ngang ngửa với đi ôm mấy ông bà già, thì cũng chả ai ưa bà ta hơn được. Lối này.” Cô dẫn Kitty qua cửa vòm đến một băng ghế. “Đừng hiểu lầm, có người đến thăm thật tốt lắm đấy,” cô trấn an để Kitty khỏi khó chịu. “Đôi khi ở đây người già thấy cô đơn và, chị biết đấy, có người bình thường bên ngoài đến cũng giúp ích ít nhiều.” Họ nghe tiếng đàn piano vọng đến và giọng bà tóc cuốn lọn hát bài “This Little Light of Mine”. “Bà Bridget không có ai đến thăm buổi tối à?” “Người nhà bà ấy chỉ có thể đến thăm dịp cuối tuần. Chỗ này cũng đâu dễ đến, chị thấy rồi đấy. Nhưng đừng lo, Birdie không lấy đó làm phiền gì, thực ra em còn nghĩ bà ấy thích như thế. Chị cứ tự nhiên rồi để em dắt bà ấy ra cho.” Cô lững thững đi về hướng có mấy căn nhà trệt nho nhỏ bằng gỗ san sát nhau. Kitty lấy sổ và máy ghi âm ra sẵn, tự hỏi câu chuyện có thể là gì. Bridget xuất hiện. Một bà lão duyên dáng, bước chân từ tốn, tay chống gậy, thoạt trông lại giống một cô giáo dạy ba lê hơn một người đã luống tuổi. Mái tóc muối tiêu được kẹp gọn gàng, không lọn nào thò ra, bà mang một nụ cười hiền hậu trên đôi môi phớt son hồng cùng chút tò mò lấp lánh trong ánh mắt khi quan sát Kitty và tự hỏi liệu mình có quen biết cô gái đến thăm không. Bà ăn mặc chỉnh tề, tinh tế và xem ra có vẻ chịu khó chăm chút bề ngoài dù không định gặp ai ngày hôm đó. Kitty đứng dậy chào bà. “Để cháu đi lấy trà cho bà, Birdie. Cả chị nhé, Kitty?” Kitty gật đầu cảm ơn và quay sang Bridget. “Cháu rất mừng vì cuối cùng cũng được gặp bà, Bridget,” Kitty nói, ngạc nhiên khi nhận ra mình không hề khách sáo. Rốt cuộc cô cũng đã liên lạc được với một người trong danh sách của Constance. Cô cảm thấy một mối liên hệ với người bạn của mình, sẵn sàng dấn thân vào hành trình Constance đã bắt đầu nhưng không đủ thời gian để đến đích. Bridget trông thoải mái hơn. “Cứ gọi tôi là Birdie. À, vậy là trước đây ta chưa gặp nhau,” bà nói, tỏ ý khẳng định hơn là hỏi. Có chút âm hưởng của người xứ Cork trong giọng của bà. “Không, ta chưa gặp nhau.” “Tôi luôn tự hào vì mình có trí nhớ tốt nhưng đôi lúc nó cũng gặp trục trặc,” bà mỉm cười. “Vâng, không phải lúc này đâu. Ta chưa từng gặp nhau. Nhưng chúng ta cùng quen biết một người bà đã từng gặp, hay ít ra cũng từng liên lạc, và đó cũng là lý do cháu ở đây. Chị ấy tên là Constance Dubois.” Kitty nhận ra mình đang ngồi sát mép ghế, nhấp nhổm hồi hộp. Cô chờ ánh mắt Birdie sáng lên nhưng không có gì xảy ra, và một lần nữa hy vọng của cô lụi tắt như ngọn lửa dưới mưa. Cô lôi từ trong túi xách ra một tờ Etcetera để giúp bà dễ nhớ hơn. “Cháu làm việc cho tạp chí này, Constance Dubois là tổng biên tập. Chị ấy có ý tưởng cho một câu chuyện, một câu chuyện có phần của bà trong đó.” “Ôi cưng à.” Birdie nhấc cặp kính và ngẩng lên khỏi tờ tạp chí. “Tôi e là cô đã tìm nhầm người rồi. Rất tiếc vì cô đã đi xa thế này. Tôi chưa từng nghe đến tên của bạn cô…” “Constance.” “Ừ, Constance. Tôi e là cô ấy chưa từng liên lạc với tôi lần nào hết.” Bà quan sát tờ tạp chí như thể đang cố lục lọi trong trí nhớ. “Và tờ tạp chí này, tôi cũng chưa từng nghe tới nó bao giờ. Tôi rất tiếc.” “Bà chưa từng liên lạc với Constance Dubois ạ?” “Tôi e là vậy, cưng à.” “Bà cũng không nhận được thư hay email hay tin nhắn gì luôn ạ?” Kitty không thể che giấu nỗi tuyệt vọng và buồn bực; cô thiếu điều hỏi Birdie xem gia đình bà có tiền sử bệnh Alzheimer không. “Không, cưng à, rất tiếc là không. Nếu có thì tôi đã nhớ rồi. Tôi đã ở đây được sáu tháng, thế nên trừ phi cô ấy liên hệ với con nhỏ ó đâm ở bàn tiếp nhận cứ chăm chăm đòi hẹn gặp trước ấy, thì tôi chẳng nhận được bất cứ tin nào từ cô ấy cả.” Birdie lại quan sát tờ tạp chí. “Được tổng biên tập của một tờ tạp chí liên lạc, một chuyện hay ho như vậy tôi chắc chắn sẽ nhớ chứ.” Molly mang trà đến và nháy mắt với Birdie lúc đưa tách cho bà. Kitty thấy mùi chẳng giống trà tí nào. “Con bé này là đồng minh duy nhất của tôi ở đây đấy, còn lại thì ai cũng cứng nhắc như ai,” Birdie mỉm cười, nhấp một ngụm rượu Brandy. Kitty thất vọng khi biết tách trà của cô là trà thật; cô rất cần món gì nặng đô hơn một chút. “Constance có thể đã liên lạc với bà trước cả sáu tháng qua, có thể một năm hoặc hơn nữa, thực tế là vào khoảng thời gian bà sống ở Beaumont.” Kitty giải thích khi thấy bà ngạc nhiên vì cô biết nơi bà từng sống, “Hồi nãy cháu có gọi cho nhà bà. Bà Agnes bảo cháu đến đây gặp bà.” “À, té ra chuyện với Agnes là như thế,” bà mỉm cười. “Agnes Dowling. Bà dơi già lắm chuyện nhất quả đất, và đồng thời là con người trung thành nhất tôi từng gặp. Bà ấy sao rồi?” “Bà ấy nhớ bà lắm. Có vẻ như bà ấy không được hòa hợp với hàng xóm mới lắm.” Birdie khúc khích. “Agnes và tôi là một đôi ăn ý. Bọn tôi sống cạnh nhau suốt bốn mươi năm. Sớm tối giúp đỡ nhau năm này qua năm khác.” “Bà ấy muốn thăm bà nhưng đang gặp khó khăn khi đi lại.” “À, thế hử,” Birdie khẽ nói. Kitty chợt nhận ra, khi sống trong một nhà dưỡng lão, dường như mỗi thành viên đều phải chào tạm biệt với thế giới bên ngoài bức tường. Sẽ có người đến thăm và họ cũng sẽ được đi chơi, có lẽ vào cuối tuần hay ngày lễ, nhưng cuộc đời họ từng biết, những người từng ở bên cạnh họ, giờ không còn là một phần của họ nữa. Cô nghĩ về Sarah McGowan, một kế toán viên có trình độ, giờ đi trồng dưa bên kia địa cầu. Đề tài dự kiến - tạm biệt cuộc sống cũ, chào đón cuộc sống mới. Những mảnh đời trôi dạt? Birdie lo lắng nhìn cuốn sổ của Kitty. Kitty vốn đã quen với việc này: người ta thường lo lắng khi trò chuyện với phóng viên, sợ sảy miệng nói sai điều gì. “Constance, tổng biên tập, đồng thời là bạn của cháu, vừa qua đời vài tuần trước,” Kitty bắt đầu giải thích. “Chị ấy định thực hiện một câu chuyện, chị ấy truyền nó lại cho cháu nhưng không kịp có cơ hội giải thích cặn kẽ mọi thứ. Tên bà nằm trong danh sách những người chị ấy muốn viết.” “Tên tôi ư?” Birdie trông sửng sốt. “Nhưng tại sao cô ấy lại hứng thú với tôi vậy?” “Cháu cũng chịu,” Kitty nài nỉ. “Bà có nghĩ ra chuyện gì mình từng trải qua có thể khiến chị ấy đặc biệt hứng thú không? Một chuyện gì đó chị ấy biết được? Một chuyện gì đó bà đã từng đề cập với người khác mà chị ấy nhìn thấy hay nghe kể lại? Hay có khi hai người từng chạm mặt nhau ở đâu đó. Chị ấy năm mươi tư tuổi, nói giọng Pháp, cứng đầu cứng cổ.” Kitty mỉm cười nhớ lại. “Ôi trời ơi, tôi biết bắt đầu từ đâu đây?” Birdie cất tiếng. “Tôi không nghĩ ra được bất cứ thứ gì đặc biệt khác lạ mình từng làm trong đời cả. Tôi chưa từng cứu mạng ai, hay thắng giải thưởng nào…” giọng bà nhỏ dần. “Tôi không biết vì sao cô ấy lại hứng thú với tôi.” “Bà có sẵn lòng để cháu viết câu chuyện về bà không?” Kitty hỏi. “Bà cho phép cháu đặt câu hỏi rồi biết đâu đấy tìm ra điều Constance thấy đặc biệt?” Má Birdie ửng hồng. “Trời ạ, tôi định chuẩn bị đi đánh cờ với Walter, tôi đâu ngờ bỗng dưng có một tờ tạp chí muốn viết bài về mình.” Bà khẽ khúc khích như một cô bé. “Nhưng tôi rất sẵn lòng giúp cô thực hiện câu chuyện này. Dù vậy tôi cũng không chắc mình sẽ giúp ích được bao nhiêu đâu.” “Tuyệt quá,” Kitty nói, dù nghe không thực sự hào hứng lắm. Cuối cùng cô cũng tìm được một người trong danh sách nhưng người đó lại không biết câu chuyện nói về gì. Càng lúc càng lạ lùng hơn. Birdie nhận ra thoáng do dự của cô. “Có mấy người trong danh sách?” “Tổng cộng một trăm tên.” “Trời đất,” bà lẩm bẩm. “Và không ai trong họ biết câu chuyện là gì à?” “Bà là người đầu tiên cháu tìm được.” “Mong là cô gặp nhiều may mắn hơn với những người khác.” Cháu cũng mong vậy, cô nghĩ, nhưng không nói thành lời. Được Kitty động viên khuyến khích, Birdie kể chuyện cuộc đời mình, bắt đầu từ thuở thơ bé cho đến cuộc sống hiện tại. Kitty lắng nghe chung chung, ghi chú lại những chỗ cô muốn hỏi thêm bà vào lần gặp tới. Ban đầu Birdie còn ngại, như hầu hết mọi người khi nói về bản thân mình, lược bớt thông tin ở đây ở kia, kể chuyện người khác nhiều hơn chuyện mình, nhưng bà trông thoải mái hơn khi gần đến hồi kết, vòng quay ký ức của bà bắt đầu hoạt động trơn tru hơn với từng câu hỏi mới. Birdie đã tám mươi tư tuổi, bà lớn lên tại một thị trấn nhỏ theo Anh giáo ở hạt Cork, Tây Nam Ireland. Bố của bà là giáo viên, một người nghiêm khắc cả ở trường lẫn ở nhà, còn mẹ bà đã mất khi Birdie còn bé. Bà có ba cô em gái với một người em trai, và khi đến tuổi mười tám bà chuyển đến Dublin để sống và chăm trẻ cho một gia đình ở đây. Cũng trong năm ấy bà gặp chồng mình, Niall. Họ kết hôn và có con ngay sau đó. Bà có bảy đứa con, sáu con trai và một con gái, đứa lớn nhất giờ sáu mươi lăm còn nhỏ nhất đã bốn mươi sáu tuổi. Đứa út là con gái. Birdie sinh lần cuối khi bà ba mươi tám tuổi. Dường như việc kế hoạch hóa gia đình không hữu hiệu bằng chuyện chồng bà phải ra xô pha ngủ. Bảy đứa trẻ lớn lên ban đầu ở Cabra rồi sau mới đến Beaumont, trong ngôi nhà Kitty vừa ghé qua chiều nay, còn bà Agnes như người mẹ thứ hai giúp nuôi dưỡng lũ con của Birdie, thay thế người chồng công chức suốt ngày đầu tắt mặt tối. Dù cuộc đời Birdie có thú vị thật, nhưng Kitty không tìm ra điểm nào đặc biệt phi thường. Birdie có vẻ xấu hổ khi kết thúc, bà xin lỗi vì mình không có chuyện gì hay ho hơn cả, trong khi Kitty không ngừng trấn an rằng cuộc đời bà thật thú vị, và bà là một phụ nữ đầy cảm hứng mà rất nhiều phụ nữ khác có thể liên hệ và noi theo. Trên đường về, Kitty nhìn lại những ghi chép của mình và thấy tội lỗi vì nghĩ rằng cuộc sống gia đình đầm ấm tuyệt vời của Birdie vẫn là chưa đủ. Trên băng ghê ở khoảnh vườn nhá nhem được thắp sáng bởi hàng đèn soi hai bên lối đi và những chiếc đèn lồng treo cao, Birdie vẫn còn ở lại dù Kitty đã ra về từ lâu, bà nhận thức rõ việc đời mình thiếu hấp dẫn, cảm thấy những câu trả lời đơn giản của mình không truyền được chút cảm hứng nào cho cô gái đã dành cả giờ đồng hồ trò chuyện với bà, dù cho cô không ngừng trấn an bà rằng cuộc đời bà thật sự rất thú vị. Birdie biết rõ cuộc đời mình chẳng hề thú vị với ai. Có đôi lúc bà còn thấy nó thật vô vị, nhưng đó là cuộc đời bà và bà vẫn trân trọng; bà chưa bao giờ muốn sống một cuộc đời quá sức mình. Birdie cứ thế tìm về và đắm mình trong ký ức của buổi trò chuyện chiều hôm đó suốt quãng thời gian chơi cờ, khiến Walter liên tục chiếu bí bà ngay từ đầu ván. Tuần sau Birdie sẽ tám mươi lăm tuổi; dĩ nhiên bà có những câu chuyện, dĩ nhiên bà có những bí mật, ai mà không thế. Vấn đề là bà phải xác định xem Kitty muốn nghe gì và, đến lúc này, bà sẵn sàng tiết lộ những gì. • • • Kitty bỏ qua cuộc gọi của Pete trên đường về nhà trong một cuốc tắc xi đắt đỏ nữa. Cô không muốn phải trình bày với anh ta việc mình vẫn chưa đến được đâu với câu chuyện này. Cô không chịu được vẻ ban ơn trong giọng anh ta, vẻ phán xét, vẻ nghi ngờ len lỏi trong từng câu từng chữ. Cô tắt chuông điện thoại và hậu quả là lỡ mất một cuộc gọi khác. Khi cô mở hộp thư thoại ra, tiếng một phụ nữ vang lên ồn ào đến mức tài xế ném cho Kitty một cái nhìn khó chịu, và cô đành phải giảm âm lượng xuống. “A lô, chào chị Kitty, em là Gaby O’Connor, người đại diện của Eva Wu. Bọn em nhận được cuộc gọi của chị hôm nay. Xin lỗi vì không thể nghe máy, bọn em bận tối mắt tối mũi. Eva rất sẵn lòng để chị phỏng vấn. Bọn em có trụ sở ở Galway nhưng mai bọn em sẽ tới Dublin. Tình hình là, Eva có một buổi phỏng vấn ở cửa hàng Amotts trên đường Henry và chúng ta có thể gặp nhau ở đó nếu chị thích.” Eva Wu. Cái tên thứ ba trong danh sách một trăm. Đây là người thứ hai cô liên lạc thành công, và người này không những có cả người đại diện mà còn sắp thực hiện phỏng vấn trên truyền hình. Cô ta là ai và thế quái nào Kitty lại không biết đến nhỉ? Khi cô về đến nhà sau một ngày dài vất vả và chỉ vừa thấy được chút khởi sắc cho câu chuyện của mình, cô phát hiện phân chó trây trét đầy trên cánh cửa. CHƯƠNG TÁM “T ôi xin lỗi vì đã lôi ông sang đây giờ này,” Kitty nói với Steve ngay khi anh bước ra khỏi xe. Trong lúc chờ đợi cô luôn tay quệt nước mắt và giờ cô mong anh không nhận ra mình đã khóc suốt. “Tôi không định phiền ông sang đâu, chỉ là giờ tôi chẳng còn biết gọi ai nữa. Mấy người ở tiệm giặt là nói tháng tới họ sẽ lấy lại nhà nếu tôi không giải quyết dứt điểm toàn bộ chuyện này, còn tôi thì không muốn báo cảnh sát và giờ tôi chẳng biết gọi ai nữa. Tôi xin lỗi,” cô lặp lại. “Kitty, đừng xin lỗi luôn miệng nữa, được không?” anh dịu dàng nói, choàng tay qua vai cô và ôm cô ở mức độ mà một người ghét thể hiện tình cảm công khai như anh cho phép, và dù cái ôm đó chẳng khác mấy với kiểu ôm đồng đội giữa các cầu thủ với nhau, cô vẫn mừng vì anh còn chịu chạm vào người cô. “Lần này bọn họ làm gì đấy?” Cô không cần trả lời, cái mùi ấy xộc ngay vào mũi khi họ lên cầu thang. “Ôi Chúa ơi…” Anh kéo cổ áo khoác lên che miệng và mũi. Họ mất hai mươi phút gần như toàn ụa và ọe thì mới lau sạch cánh cửa, còn mùi xú uế kia có lẽ phải ngàn năm sau mới bay hết. Sau một hồi xin lỗi và cảm ơn nữa, Kitty đãi Steve bữa tối tại một quán rượu gần đó. “Tôi phải đi rửa tay nữa đây,” Steve nói, chun mũi khinh bỉ, “tôi vẫn còn ngửi thấy cái mùi đó trên người. Tôi không nghĩ là mình đụng vào đồ ăn được đâu.” “Ông rửa tay sáu lần rồi đó,” cô cười, dõi theo anh khi anh vào toa lét quán rượu. """