"
Cáo Pax: Sara Pennypacker PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cáo Pax: Sara Pennypacker PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
CÁO PAX
—★—
Tác giả: Sara Pennypacker Người dịch: Mèo Xanh Biển Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2021ebook©vctvegroup
Lời tác giả
Loài cáo giao tiếp bằng một hệ thống phức tạp các âm điệu, cử chỉ, mùi hương và biểu cảm. Những đoạn “hội thoại” in nghiêng trong các chương sách của Pax là nỗ lực của tôi trong việc phiên dịch thứ ngôn ngữ hùng hồn của chúng.
Lời đề tặng
Tặng đại diện của tôi, Steven Malk,
người đã thốt lên “Pax”
S. P.
Đề từ
Chỉ vì chuyện ấy không diễn ra tại nơi này đâu có nghĩa nó không hề hiện hữu.
1
Trước cả cậu bé, chú cáo cảm nhận bánh xe đang lăn chậm dần, như cái cách nó vẫn cảm nhận được mọi thứ trước tiên. Qua phần đệm ở bàn chân, dọc sống lưng, trong những sợi râu nhạy bén nơi cườm chân trước. Dựa vào những dao động rung lắc, nó cũng nhận thấy đường đi ngày một mấp mô. Nó vươn vai nhỏm dậy khỏi đùi cậu chủ và hít hà những sợi hương len lỏi qua lớp cửa kính ô tô, báo hiệu cả bọn đang tiến vào rừng. Mùi thông nồng sực - từ thân cây, vỏ cây, quả thông và lá kim - luồn lách trong bầu không khí như những lưỡi dao, nhưng lẩn khuất bên dưới, chú cáo nhận ra hương cỏ ba lá dìu dịu cùng tỏi gấu và dương xỉ, thêm cả trăm thứ nó chưa từng gặp nhưng lại tỏa ra một mùi xanh mơn mởn mà giục giã.
Cậu bé giờ đây cũng đã linh cảm được điều gì đó. Cậu kéo con vật lại sát người và siết chiếc găng tay bóng chày thêm chặt.
Sự bồn chồn của cậu chủ làm chú cáo không khỏi ngạc nhiên. Vài dịp hiếm hoi hai đứa được đi ô tô trước đây, cậu đã rất bình tĩnh hay thậm chí còn phấn khích. Cáo dúi mõm vào phần lưới của chiếc găng tay, cho dù nó ghét mùi da thuộc. Lần nào nó làm vậy cậu chủ cũng bật cười, cậu sẽ khum găng lại quanh đầu chú thú cưng của mình, giả đò đấu vật, và thế là cáo sẽ làm phân tán tư tưởng của cậu bé.
Nhưng hôm nay cậu bé lại nâng chú thú cưng lên, vùi mặt vào khoang cổ trắng muốt, ôm ghì lấy nó.
Lúc ấy chú cáo mới nhận ra rằng cậu chủ đang rấm rứt khóc. Nó xoay người lại xem xét nét mặt cậu cho chắc. Đúng rồi, đang khóc - mặc dù chẳng thành tiếng, điều mà cáo chưa từng thấy ở cậu. Đã lâu rồi cậu bé không rơi nước mắt, nhưng cáo có nhớ: nếu là trước đây cậu sẽ luôn kêu gào om sòm, như thể đòi hỏi rằng một sự vụ quá đỗi lạ lùng như thứ nước mằn mặn đang giàn giụa từ đôi mắt kia cần phải được quan tâm đúng mực.
Cáo liếm láp chỗ nước mắt, thế rồi càng bối rối tợn. Không thấy mùi máu. Nó vặn vẹo khỏi vòng tay cậu để kiểm tra kỹ hơn, lo sợ rằng có thể mình đã không phát hiện ra vết thương nào đó, mặc dù khứu giác của nó chưa bao giờ nhầm lẫn. Không, tuyệt nhiên chẳng máu me gì cả; đến một chỗ bầm tụ máu dưới da hay một vết nứt xương rò tủy sống, trước đây đã từng một lần như thế rồi, cũng không.
Xe tấp vào lề bên phải, làm xê dịch chiếc va li đặt cạnh hai đứa. Căn cứ vào mùi hương, chú cáo biết bên trong là quần áo của cậu bé, cùng những vật dụng trong phòng cậu thường dùng nhất: tấm hình đặt trên tủ com mốt và mấy món đồ giấu tít trong ngăn kéo dưới cùng. Nó cào cào vào góc, hòng cậy va li mở ra vừa đủ cho khứu giác kém nhạy của cậu bé có thể ngửi thấy những đồ vật yêu thích và an tâm trở lại. Nhưng ngay lúc ấy xe lại giảm tốc, lần này vừa lề rề vừa ầm ĩ. Cậu bé gục về phía trước, hai tay ôm lấy đầu.
Trái tim cáo đập mạnh hơn và túm lông đuôi lởm chởm của nó dựng ngược lên. Mùi kim loại khen khét từ bộ đồ mới của người cha bỏng rát nơi cuống họng. Nó lao tới chỗ cửa sổ cào lấy cào để. Đôi khi ở nhà cậu chủ sẽ nâng bức tường kính từa tựa vậy lên nếu nó làm thế. Bao giờ nó cũng sẽ thấy ổn hơn khi bức tường kính được nâng lên.
Thay vào đó, cậu bé lại kéo nó vào lòng và khẩn khoản nói chuyện với cha. Chú cáo đã học được ý nghĩa của rất nhiều từ ngữ loài người, và nó nghe thấy cậu đang dùng tới một trong số chúng: “KHÔNG.” Thường thường “không” sẽ gắn liền với một trong hai cái tên mà nó biết: tên nó và tên cậu chủ. Nó chú tâm nghe ngóng, nhưng hôm nay chỉ có độc tiếng “KHÔNG” được lặp đi lặp lại với cha, đầy van vỉ tha thiết.
Chiếc xe rung lên trước khi dừng hẳn và nghiêng sang phải, đám bụi mờ mịt cuộn lên đằng sau ô cửa kính. Người cha lại nhoài người về phía băng ghế, và sau khi nói gì đó với con trai bằng chất giọng ôn tồn không hề ăn rơ với cái mùi ẩn dưới gay gắt, ông tóm lấy gáy của chú cáo.
Cậu bé không phản đối, nên cáo cũng chẳng mảy may chống cự. Nó lửng lơ mềm lả và yếu ớt trong nắm tay người đàn ông, dẫu giờ đã phát khiếp lên muốn cắn càn. Hôm nay nó sẽ không làm phiền lòng hai vị chủ nhân. Người cha mở cửa xe và giẫm lên đám sỏi lẫn cỏ dại mọc lỗ chỗ để sải bước về bìa rừng, cậu bé cũng xuống xe và theo chân cha.
Người cha đặt chú cáo xuống đất, và cáo vọt khỏi tầm với của ông. Nó nhìn chằm chằm hai con người, bất ngờ nhận ra họ cao suýt soát nhau. Cậu chủ dạo này đã trổ giò lớn bổng.
Người cha chỉ tay về phía khu rừng. Cậu bé nhìn cha lâu thật lâu, nước mắt lại lã chã rơi. Đoạn cậu lấy cổ áo phông lau mặt và gật đầu. Cậu mò trong túi quần bò lấy ra một anh lính nhựa cũ mèm, món đồ chơi ưa thích của chú cáo.
Chú cáo hoạt bát hẳn, lên dây cót cho trò tủ. Cậu chủ sẽ ném món đồ chơi đi, và nó có nhiệm vụ lần theo dấu vết - một chiêu có vẻ lúc nào cũng vô cùng xuất chúng trong mắt cậu. Nó sẽ lùng bằng được món đồ và ngậm trong miệng chờ đến khi cậu bé tìm tới chỗ mình để nhận lại rồi một lần nữa thảy đi.
Và quả nhiên, cậu bé giơ cao chú lính đồ chơi rồi quăng nó vào rừng. Cáo thở phào - té ra chúng tới đây chỉ để chơi đùa mà thôi! - rồi đâm lơi là cảnh giác. Nó chạy vụt về phía lùm cây mà không ngoái lại nhìn chủ. Giả như có, thì nó sẽ trông thấy cậu bé vùng vằng với cha rồi đưa tay lên che mặt, và nó sẽ quay lại ngay. Bất kể điều cậu chủ đang cần là gì - sự bảo vệ, sự sao lãng, tình thương mến - nó sẽ trao cho cậu.
Song nó lại cắm đầu lao theo món đồ chơi. Công cuộc truy lùng có đôi chút khó nhằn hơn thường lệ, bởi trong rừng có hằng hà sa số những mùi hương khác, tươi mới rõ rệt hơn. Nhưng chỉ đôi chút thôi nhé - suy cho cùng thì món đồ chơi cũng có mùi cậu chủ mà. Thứ mùi hương ấy có ở đâu thì nó cũng tìm ra.
Chú lính đồ chơi nằm úp mặt chỗ gốc cây óc chó phình to, cứ như là chàng ta tuyệt vọng quá mà tự phi thân vậy. Khẩu súng trường của anh chàng, báng súng kè kè áp vào mặt, cắm lút cán trong đống lá rụng. Chú cáo hẩy cho thứ đồ chơi long ra, nhe răng ngoạm lấy, và ngồi xổm để cậu chủ đến kiếm mình.
Giữa khu rừng vắng lặng, chuyển động duy nhất là những luồng nắng lấp loáng qua vòm lá cây tựa thủy tinh màu xanh lục. Nó ngồi thẳng người hơn. Cậu chủ vẫn biệt tăm biệt tích. Nỗi lo lắng nhói lên như kim châm khiến chú cáo không khỏi rùng mình nơi sống lưng. Nó nhả món đồ chơi ra và cất tiếng sủa. Không hồi âm. Sủa thêm một tràng nữa, lại chỉ có thinh lặng đáp lời. Đây mà là một trò mới ấy à, thì nó không thích tẹo nào đâu nhé.
Nó ngoạm anh lính đồ chơi lên và bắt đầu mò lại đường theo dấu chân. Khi nó vừa rảo bước chạy ra khỏi rừng, phía trên đầu một con chim giẻ cùi trờ tới, rít lên inh tai. Cáo đứng sững lại, lòng phân vân lắm.
Cậu chủ đang đợi để chơi đùa. Nhưng chim kìa! Khi nằm trong chuồng, nó đã dành hàng giờ liền để dõi theo đám chim chóc, người run lên trước cảnh tượng lũ chim táo bạo chao liệng trên nền trời tựa những vệt chớp nó thường thấy vào những đêm mùa hạ. Những sải cánh tự do khoáng đạt mới mê hoặc lòng nó làm sao.
Từ phía rừng sâu vọng về tiếng hót của con chim giẻ cùi, nhưng lần này được đáp lại bằng một dàn đông ca âm thanh. Cáo ngần ngừ thêm đôi lát, liếc mắt về phía rặng cây mong thêm một lần được nhìn vệt màu xanh lơ lướt qua như mũi tên.
Thế rồi, đằng sau, nó nghe tiếng cửa xe đóng sập, rồi một tiểng nữa. Nó hộc tốc chạy, chẳng đoái hoài tới gai tầm xuân đang cứa vào hai bên má. Động cơ ô tô gầm lên như hồi sinh, và chú cáo phanh kít lại tại mé đường.
Cậu chủ kéo cửa kính xuống và đưa tay ra. Và khi chiếc xe phóng vèo đi làm sỏi bắn lên tung tóe, người cha gọi lớn tên cậu, “Peter!”
còn cậu thì la thật to cái tên còn lại mà cáo biết. “Pax ơi!”
2
“Ra là có rất nhiều ạ.”
Peter thấy câu ấy nghe thật ngớ ngẩn, nhưng vẫn không kìm được mà nhắc lại. “Rất nhiều.” Cậu vọc tay vào đống lính nhựa trong chiếc hộp bánh quy méo mó bằng thiếc - anh nào anh nấy giống nhau y đúc chỉ khác mỗi tư thế: người đứng, kẻ quỳ gối, và người thì nằm sấp, tất thảy đều có cây súng trường áp chặt nơi gò má màu xanh ô liu. “Cháu cứ tưởng ba chỉ có mỗi con đó thôi.”
“Không đâu. Ta giẫm phải chúng suốt. Ba cháu hẳn phải có đến cả trăm. Nguyên một đội quân hùng hậu.” Ông nội phì cười vì câu nói đùa vô tình, nhưng Peter thì không. Cậu quay sang nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, như vừa nhác thấy thứ gì đó đằng sân sau tối hù. Cậu đưa mu bàn tay lên quẹt quai hàm, giống hệt cách cha xoa cái
cằm lún phún râu ria, và lén lau những giọt nước mắt ứa ra. Có còn con nít đâu mà lại khóc vì một điều thế này?
Mà suy cho cùng thì tại sao cậu lại khóc kia chứ? Cậu đã mười hai tuổi và bao năm rồi chẳng rơi lấy một giọt nước mắt, ngay cả khi cậu bị rạn ngón cái trong lúc chặn cú bóng bổng của Josh Hourihan bằng tay không. Quả đấy đau ra trò, nhưng cậu chỉ rủa thầm cho qua cơn đau trong lúc cùng huấn luyện viên chờ chụp X-quang. Ra dáng nam nhi đại trượng phu. Vậy mà hôm nay, tận hai lần.
Peter cầm một anh lính lên từ hộp và tâm tưởng lại trôi về ngày cậu tìm thấy một anh y sì tại bàn làm việc của cha. “Gì đây ạ?” cậu hỏi, trên tay là món đồ.
Cha Peter đưa tay đón lấy, gương mặt ông dịu lại. “Hừm. Cũng lâu phết rồi nhỉ. Đây là món đồ chơi ưa thích khi ba còn bé.”
“Cho con được không ạ?”
Cha tung anh lính lại phía cậu. “Tất nhiên rồi.”
Peter liền đặt món đồ chơi trên bậu cửa sổ cạnh giường, nòng súng nhựa chĩa ra phô trương tư thế phòng thủ. Nhưng chả mấy mà Pax đã thó được nó, làm Peter cười vang - cũng như cậu, Pax phải có nó cho kỳ được mới thôi.
Peter thả món đồ chơi vào hộp và sắp sửa đậy nắp lại thì để ý thấy mép của một bức ảnh úa màu thò ra bên dưới núi lính nhựa.
Cậu rút nó ra. Cha cậu, có lẽ mười hay mười một tuổi, một bên tay choàng qua người một chú chó. Xem chừng vừa lai collie vừa lai cả trăm giống chó khác, có vẻ là một chú chó ngoan mà ta rồi sẽ kể cho con trai mình nghe. “Cháu không hề biết ba từng nuôi chó,” cậu lên tiếng, rồi đưa cho ông tấm ảnh.
“Đó là Duke. Sinh vật ngốc nghếch nhất trần đời, lúc nào cũng luẩn quẩn vướng chân.” Ông lão nhìn bức ảnh kỹ hơn, rồi lại liếc qua Peter như vừa phát hiện ra điều gì mới. “Cháu cũng tóc đen giống ba cháu này.” Đoạn xoa xoa đám tóc bạc xoăn tít mọc quanh đỉnh đầu. “Ta cũng từng như thế, lâu lắm rồi. Mà nhìn xem, hồi ấy ba cháu cũng gầy nhẳng, y như cháu, y như ta, cặp tai vểnh như quai bình. Cánh đàn ông trong nhà này - có vẻ như con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, ha?”
“Vâng, thưa ông.” Peter cố nặn ra một nụ cười, mà chẳng được lâu. “Luẩn quẩn vướng chân.” Cha Peter đã nhắc tới từ này. “Ông không thể để con cáo đó luẩn quẩn vướng chân được. Giờ ông không còn
nhanh nhẹn như trước nữa. Con cũng liệu mà tránh xa xa ra. Ông không quen có trẻ con quanh quẩn bên mình đâu.”
“Cháu biết đấy, chiến tranh tới và ta nhập ngũ, như cha ta khi xưa. Như ba cháu bây giờ. Tổ quốc vẫy gọi, và trong nhà này thì chúng ta phải trả lời. Vâng, thưa ngài, gia đình tôi con nhà tông không giống lông cũng giống cánh đó thấy chưa.” Ông trả lại cậu bức hình. “Ba cháu và con chó đó. Chúng dính lấy nhau không rời. Suýt nữa thì ta quên béng mất.”
Peter đặt lại tấm ảnh vào trong hộp và ấn chặt nắp, đoạn đẩy nó xuống gầm giường nơi cậu tìm thấy nó. Cậu lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Làm sao cậu dám đề cập đến việc nuôi thú cưng lúc này đây. Cậu nào muốn được thuyết giáo về nghĩa vụ với Tổ quốc, và dứt khoát là cậu chẳng có lòng dạ nào mà nghe giảng thêm về cánh với lông. “Ở đây mấy giờ thì vào học ạ?” cậu hỏi, chẳng ngoảnh lại.
“Tám giờ. Người ta bảo phải tới sớm, tự giới thiệu mình với giáo viên chủ nhiệm, cô Mirez, hay Ramirez… gì gì đó. Ta có mua cho cháu mấy thứ đồ dùng học tập đây.” Ồng lão hất đầu ra hiệu về phía cuốn sổ gáy xoắn, chiếc bình giữ nhiệt cũ rích, và một nắm bút chì ngắn choằn buộc túm lại với nhau bằng một sợi cao su dày.
Peter đi tới bàn học và cất mọi thứ vào ba lô. “Cháu cảm ơn. Đi xe buýt hay đi bộ ạ?”
“Cuốc bộ. Ba cháu cũng học trường đó, và nó tự thân vận động. Đi đến cuối đường Ash, rẽ phải vào đường School là thấy - một tòa nhà gạch đồ sộ. Đường School - hiểu chưa? Ra khỏi nhà lúc bảy giờ ba mươi, cháu sẽ có dư dả thì giờ.”
Peter gật đầu. Cậu chỉ muốn được ở một mình. “Được ạ. Cháu chuẩn bị xong rồi. Chắc giờ cháu sẽ lên giường đi ngủ.”
“Tốt,” ông nội đáp lời, không buồn che giấu giọng nói như trút được một gánh nặng. Ông đóng mạnh cửa khi đi ra, như thể muốn nói, Nhóc có thể tùy nghi sử dụng buồng này, còn đâu phần còn lại của căn nhà thuộc về ta.
Peter đứng nép bên cửa và lắng nghe tiếng bước chân ông rời đi. Lát sau, cậu nghe tiếng bát đĩa lách cách trong bồn rửa. Cậu mường tượng trong đầu hình ảnh ông nội trong căn bếp chật chội mà họ vừa dùng bữa tối với món thịt hầm trong im lặng, căn bếp sực nức mùi hành phi tới mức Peter cảm tưởng thứ mùi này sẽ còn sống thọ hơn ông nội cậu. Có trôi qua một trăm năm và được một tá các gia đình khác nhau cọ rửa, ngôi nhà này có khi vẫn bốc mùi cho xem.
Peter nghe thấy ông nội lê bước dọc hành lang về phòng ngủ, và rồi tiếng vô tuyến lên hình chíu chíu, âm lượng được vặn nhỏ lại, loáng thoáng tiếng người biên tập viên bản tin đang kích động. Chỉ khi ấy
cậu bé mới cởi đôi giày thể thao và nằm xuống chiếc giường nhỏ hẹp.
Sáu tháng - có thể hơn - sống ở đây cùng ông nội, người dường như luôn sắp nổi cơn tam bành. “Suy cho cùng thì ông cứ cáu bẳn về chuyện gì thế ạ?” Một lần nọ vào mấy năm về trước Peter đã thắc mắc với cha.
“Tất cả mọi thứ. Cuộc đời này,” cha cậu trả lời. “Tính khí ông tồi tệ hơn sau khi bà con mất.”
Sau khi mẹ cậu qua đời, Peter đã quan sát cha mà lo nơm nớp. Ban đầu, chỉ có một sự im lặng đáng sợ. Nhưng dần dà gương mặt cha hằn lên những nét hằm hằm khắc khổ, và tay ông nắm thành hai nắm đấm bên mình như thể ngứa ngáy chờ thứ gì đó khơi mào kích nổ.
Peter đã học được cách tránh trở thành cái thứ đó. Học cách không gây rắc rối ngáng đường cha.
Mùi dầu mỡ và hành thiu trườn tới chỗ cậu, thấm ra từ tường, từ cả giường ngủ. Cậu bèn mở tung ô cửa sổ cạnh đó.
Gió tháng Tư lành lạnh thổi. Từ trước tới giờ Pax chưa từng một thân một mình ở bên ngoài, trừ trong chuồng của nó. Peter cố dập tắt hình ảnh cuối cùng của chú cáo. Hẳn nó chẳng đuổi theo chiếc xe được lâu. Nhưng cảnh tượng nó nằm mọp bên vệ đường rải sỏi, tâm trí rối bời, còn đau lòng gấp bội.
Cơn bồn chồn trong lòng Peter bắt đầu rục rịch. Suốt cả ngày nay, suốt cả chuyến đi tới đây, Peter đã cảm nhận được nó đang cuộn xoắn lại. Đối với cậu nó như một con rắn, nỗi lo âu ấy - chầu chực nơi khuất tầm mắt, chuẩn bị sẵn sàng để trườn lên dọc sống lưng, rít lên xì xì lời nhiếc móc như mọi lần. Nhà ngươi không ở nơi mình
nên ở. Điều bất hạnh sẽ xảy ra do ngươi đang không ở nơi mình nên ở.
Cậu trở mình và lôi hộp bánh quy từ dưới giường ra. Cậu mò lấy tấm ảnh của cha đang vô tư quàng một tay quanh mình chú chó đen trắng. Tựa hồ ông chưa từng lo có ngày sẽ đánh mất nó vậy.
Dính lấy nhau không rời. Giọng điệu hãnh diện khi nói ra điều đó của ông nội quả không chệch đi đâu được. Tất nhiên ông phải hãnh diện rồi - ông đã nuôi dạy được một cậu con trai hiểu về lòng trung thành và tinh thần trách nhiệm. Một cậu con trai hiểu được rằng không
nên tách rời một đứa trẻ và con vật cưng của nó. Bỗng dưng chính những lời này lại như một lời buộc tội. Cậu và Pax, thế thì hai đứa là gì đây… có thể tách rời sao?
Nhưng đâu phải thế. Thực ra, đôi lúc, Peter có cảm giác kỳ lạ rằng cậu và Pax đã hợp nhất với nhau. Lần thứ nhất chuyện đó xảy ra cũng là lần đầu cậu đưa Pax ra ngoài chơi. Chú cáo con trông thấy một con chim nên đã kéo căng dây xích, người rung lên như thể bị xung điện, và Peter đã nhìn con chim ấy qua lăng kính của Pax - sải cánh mầu nhiệm như tia chớp, sự phóng khoáng và tốc độ tưởng chừng bất khả. Cậu cảm nhận da dẻ toàn thân hồi hộp run lên, cùng đôi vai nóng bừng như đang khát khao một đôi cánh.
Chiều nay nó lại xảy ra. Cậu cảm nhận chiếc xe lăn bánh đi khỏi cứ như mình mới là kẻ bị bỏ lại. Trái tim cậu hoảng loạn đập liên hồi.
Khóe mắt lại cay cay, và Peter đưa tay quẹt nước mắt trong bất lực. Cha cậu nói đó là điều nên làm. “Chiến tranh đang tới. Đồng nghĩa với việc ai nấy đều phải hy sinh. Ba phải tòng quân - đó là nghĩa vụ của ba. Còn con phải lánh đi.”
Dĩ nhiên, cậu đã ít nhiều đoán trước được điều đó. Gia đình hai người bạn của cậu đã gói ghém và rời đi khi lời đồn về cuộc sơ tán lan ra. Cái cậu không ngờ chính là phần còn lại. Phần kinh khủng nhất. “Và con cáo đó… chà, dù gì cũng đã tới lúc thả nó về với tự nhiên rồi.”
Bỗng có tiếng một con sói đồng cỏ tru lên, gần sát tới nỗi làm Peter giật nẩy mình. Con thứ hai đáp lời, rồi tới con thứ ba. Peter ngồi dậy và đóng sập cửa sổ lại, nhưng đã quá muộn màng. Tiếng ăng ẳng lẫn tiếng hú, cùng hàm ý của chúng, giờ đây đã ăn vào trí óc cậu.
Peter chỉ có hai kỷ niệm buồn về mẹ. Cũng có rất nhiều kỷ niệm tươi đẹp, và cậu thường lấy chúng ra để tự an ủi mình, dẫu e sợ rằng chúng sẽ phai nhạt khi bị phô bày nhiều đến thế. Nhưng hai ký ức tồi kia thì cậu chôn kín. Cậu làm mọi cách để chúng cứ vậy lấp vùi. Lúc này lũ sói đang sủa inh trong đầu cậu, khơi lên một trong hai.
Khi lên năm, cậu bắt gặp mẹ bàng hoàng đứng bên luống uất kim hương màu đỏ huyết dụ. Một nửa trong số chúng đứng hiên ngang, nửa còn lại đổ rạp ra đất, những đóa hoa nát tan.
“Một con thỏ đã ăn chúng. Hẳn nó nghĩ cuống hoa ngon lành lắm. Con quỷ nhỏ.”
Tối đó Peter phụ cha đặt bẫy. “Ta sẽ không làm đau nó, đúng không ạ?”
“Ừm. Ta sẽ chỉ tóm nó, rồi chở nó sang thị trấn kế bên. Cho nó chén hoa uất kim hương của người khác.”
Peter tự tay đặt mồi bằng một củ cà rốt, và năn nỉ cha cho mình nằm ngủ trong vườn để canh. Cha không đồng ý nhưng vẫn giúp cậu đặt báo thức để cậu sẽ là người đầu tiên thức dậy. Khi chuông reo, Peter chạy sang phòng mẹ nắm tay dẫn bà ra ngoài để đón đợi điều bất ngờ.
Chiếc bẫy văng đi ít nhất một mét rưỡi và nằm nghiêng dưới đáy của một cái hố mới đào. Bên trong là một chú thỏ non, chết ngắc. Chẳng có dấu vết gì trên thân thể bé bỏng, nhưng cái lồng đã bị cào xé và lõm hẳn xuống, thêm mặt đất chung quanh bị bới lộn lên.
“Sói đồng cỏ đây mà,” cha cậu nói, bước tới chỗ họ. “Chúng hẳn đã dọa nó chết khiếp khi cố lách chui vào. Vậy mà chúng ta không một
ai tỉnh giấc.”
Mẹ Peter mở cái bẫy và lấy ra hình hài không chút sinh khí. Bà áp nó vào má. “Chỉ là hoa uất kim hương thôi mà. Chỉ là vài bông uất kim hương.”
Peter tìm thấy củ cà rốt, một đầu đã bị gặm nham nhở, và ném nó ra xa hết cỡ. Sau đó mẹ đặt xác chú thỏ vào hai lòng bàn tay cậu chụm lại và đi lấy xẻng. Bằng một ngón tay, Peter vuốt cặp tai, xòe ra như lá dương xỉ, và đôi bàn chân, tí hon đến là kỳ diệu, và đám lông cổ mềm mại, loang lổ nước mắt của mẹ.
Khi quay lại, mẹ vuốt gò má cậu đang nóng ran lên vì tủi hổ. “Không sao. Con đâu có biết.”
Nhưng thực ra là có sao. Rất lâu sau đó, mỗi khi Peter nhắm mắt, cậu lại trông thấy lũ sói. Móng vuốt của chúng bới tung đất cát, những cặp hàm táp lấy táp để. Cậu hình dung mình có mặt tại nơi đáng lẽ ra mình nên ở: canh gác trong vườn vào đêm ấy. Hết lần này tới lần khác, cậu hình dung mình làm điều đáng lẽ ra mình nên làm: bật dậy khỏi túi ngủ, tìm một cục đá và liệng vào lũ sói. Cậu hình dung lũ sói tháo chạy vào màn đêm, và cậu thấy mình mở bẫy để giải thoát cho chú thỏ.
Và với ký ức đó, con rắn lo âu tung một đòn tấn công hiểm hóc tới nỗi khiến Peter choáng váng nghẹt thở. Cậu đã không có mặt tại nơi đáng lý ra mình nên có mặt vào cái đêm bầy sói giết chết chú thỏ, và giờ phút này cậu cũng đang không ở nơi mình cần.
Cậu thở hổn hển cho đầy lồng ngực và ngồi bật dậy. Cậu xé bức hình làm đôi rồi làm tư và thảy mấy mảnh vụn xuống gầm giường.
Bỏ mặc Pax không hề là điều nên làm.
Cậu đứng phắt dậy - cậu đã uổng phí rất nhiều thời gian. Cậu lục tìm một chiếc quần túi hộp, một cái áo phông rằn ri dài tay và một cái áo nỉ lông cừu trong va li, và thêm một bộ đồ lót cùng tất. Cậu
nhồi tất cả vào ba lô, riêng cái áo nỉ thì buộc quanh eo. Dao gập bỏ trong túi quần bò. Ví tiền, cậu đắn đo một lát giữa đôi bốt leo núi và giày thể thao rồi quyết lấy đôi bốt, dù chưa xỏ vào.
Cậu lướt mắt quanh phòng, mong tìm được một chiếc đèn pin hay gì đó tương tự dụng cụ cắm trại. Đây từng là căn phòng của cha cậu thuở bé, nhưng ngoài vài cuốn sách đặt trên giá, rõ ràng là ông nội đã dọn dẹp hết đồ của cha. Chiếc hộp bánh quy có vẻ làm ông ngạc nhiên - một vật ông sơ ý bỏ quên. Peter gõ ngón tay lên gáy mấy quyển sách.
Một tập bản đồ. Cậu lấy nó xuống, kinh ngạc trước vận may của mình, và giở lướt tới bản đồ vẽ tuyến đường cậu và cha đã đi qua. “Sẽ chỉ cách ba trăm dặm thôi.” Vài lần cha cậu đã cố gắng hàn gắn khoảng lặng của chuyến đi. “Có ngày nghỉ phép, ba sẽ ghé.” Peter biết điều đó sẽ chẳng bao giờ thành sự thật. Người ta đâu có nghỉ phép khi đánh nhau.
Thêm nữa, thứ mà chưa gì cậu đã cảm thấy nhớ nhung không phải là cha.
Thế rồi cậu thấy một điều mình chưa nhận ra: một con đường cao tốc ngoằn ngoèo quanh chân đồi. Nếu cắt thẳng qua đường chân đồi thay vì đi theo xa lộ, cậu sẽ tiết kiệm được ối thời gian, cộng thêm giảm thiểu khả năng bị bắt lại. Cậu định bụng xé roẹt trang sách, thế rồi nhận thấy mình không thể để lại cho ông nội một manh mối sờ sờ ra như vậy. Thay vào đó, cậu xem xét cẩn thận cái bản đồ một lúc lâu, rồi trả tập bản đồ lại chỗ giá sách.
Ba trăm dặm. Xem chừng cậu có thể rút ngắn một trăm dặm bằng cách đi đường tắt, vị chi còn khoảng hai trăm. Nếu cậu đi bộ được tối thiểu ba mươi dặm mỗi ngày, chưa đầy một tuần là cậu có thể tới nơi.
Họ đã bỏ Pax tại đầu đường vào cao tốc dẫn tới một xưởng sản xuất dây thừng cũ nát. Peter nằng nặc đòi đi đường này vì hầu như chẳng có người qua lại -Pax không rành về giao thông xe cộ - và vì
khắp chung quanh đó có rừng cây và đồng cỏ. Trong vòng bảy ngày cậu sẽ quay lại và tìm thấy Pax đang ở đó, ngóng đợi. Cậu không cho phép mình nghĩ tới những chuyện có thể xảy đến với một chú cáo đã được thuần hóa trong bảy ngày ấy. Không đâu, Pax sẽ chờ bên vệ đường, đúng nơi họ đã bỏ nó lại. Nó sẽ đói bụng, hẳn rồi, và có lẽ sợ hãi, nhưng nó sẽ ổn thôi. Peter sẽ đưa nó về nhà. Chúng sẽ ở lại đó. Lần này ai cứ thử bắt chú cáo đi nơi khác mà xem. Đấy mới là điều nên làm.
Cậu và Pax. Không thể tách rời.
Cậu nhìn quanh căn phòng một lần nữa, cố cưỡng lại một ham muốn mạnh mẽ là cứ trốn quách đi. Cậu không thể bỏ sót bất kỳ điều gì. Giường ngủ. Cậu lột tấm chăn ra, vò nhàu khăn trải giường, và thụi vào chiếc gối tới lúc ra vẻ đã có người nằm lên. Cậu lấy ra từ va li một bức ảnh mẹ vẫn đặt trên tủ ở nhà - nó được chụp vào sinh nhật cuối cùng của bà, tay bà giơ cao con diều Peter làm tặng, và nở một nụ cười như thể bà chưa từng nhận một món quà nào tuyệt diệu hơn trong đời - và bỏ vào ba lô.
Tiếp đó, cậu lôi ra những vật dụng của bà mà cậu vẫn cất giấu trong ngăn kéo dưới cùng ở nhà. Đôi găng làm vườn, vẫn còn lấm lem bùn đất mẹ từng bưng bê; một hộp trà loại mẹ thích, đã nhạt mùi bạc hà từ lâu; một cặp tất dày sọc đỏ trắng dài tới đầu gối bà mang khi
đông tới. Cậu chạm vào mọi thứ, ước mình có thể đưa tất cả về ngôi nhà nơi chúng thuộc về, đoạn chọn ra món đồ nhỏ nhất - một chiếc lắc tay bằng vàng với mặt vòng hình phượng hoàng được tráng men mà ngày nào mẹ cũng đeo - và nhét nó vào khoảng giữa ba lô cùng với bức ảnh.
Peter quan sát kỹ lưỡng căn phòng lần cuối. Cậu nhìn thấy quả bóng chày với cái găng tay rồi đi đến chỗ tủ com mốt lấy chúng cất vào ba lô. Chẳng nặng hơn là bao, và cậu muốn có chúng khi về đến nhà. Còn nữa, chỉ là cậu cảm thấy ổn hơn khi có chúng trong tay. Rồi cậu khẽ mở cửa và rón rén đi vào phòng bếp.
Cậu đặt ba lô lên cái bàn gỗ sồi, và trong ánh đèn lờ mờ phía trên bếp lò, cậu sửa soạn nhu yếu phẩm. Một hộp nho khô, một ống bánh quy giòn, và một lọ bơ đậu phộng vơi nửa - Pax sẽ xuất đầu lộ diện từ bất cứ chỗ nấp nào chỉ vì bơ đậu phộng. Trong tủ lạnh, cậu lấy một nắm pho mát sợi và hai trái cam. Cậu đổ đầy nước vào bình giữ nhiệt và rồi lục lọi các ngăn kéo để tìm diêm, cậu quấn chúng trong giấy bạc. Bên dưới bồn rửa cậu vớ bở tận hai lần: một cuộn băng dính và một hộp túi rác tải nặng. Có bạt nhựa thì tốt hơn, nhưng cậu vô cùng biết ơn mà lấy hai cái túi và kéo khóa cặp.
Cuối cùng cậu lấy một tờ từ tệp giấy đặt cạnh điện thoại và viết một lời nhắn: GỬI NỘI. Cậu nhìn dòng chữ trong giây lát, như thể chúng là tiếng nước ngoài, đoạn vò tờ giấy và viết một tờ mới. CHÁU RA KHỎI NHÀ SỚM. MUỐN CÓ MỘT KHỞI ĐẦU THUẬN LỢI Ở TRƯỜNG. GẶP LẠI ÔNG TỐI NAY. Cậu nhìn chăm chăm vào mẩu giấy một chốc, tự hỏi liệu những lời lẽ này đọc lên nghe có cắn rứt như cảm giác của cậu hay không. Sau cùng, cậu bèn viết thêm, CẢM ƠN ÔNG VÌ TẤT CẢ - PETER, đoạn đặt giấy nhắn dưới hũ muối, và lẻn ra ngoài.
Tới bức tường gạch, cậu mặc áo nỉ vào và cúi xuống buộc dây giày. Cậu đứng dậy và khoác ba lô lên vai. Đoạn nhìn xung quanh trong giây lát. Ngôi nhà sau lưng trông khiêm tốn hơn so với khi cậu mới
tới, tựa hồ đã lùi vào dĩ vãng. Bên kia phố, mây lướt nhanh nơi chân trời, và một vầng trăng khuyết bỗng hiện ra, soi tỏ con đường trước mặt.
3
Pax đói meo và rét run cầm cập, song điều làm nó bừng tỉnh là cảm giác cần một chỗ trú chân. Nó chớp mắt và dịch người ra sau. Thứ cảm tưởng là những thanh rào chuồng vững chãi lại gãy răng rắc. Nó quay lại thì thấy bụi bông tai héo quắt mình đã rúc vào vài tiếng trước.
Nó cất tiếng sủa gọi Peter và sực nhớ ra: cậu chủ đã đi mất rồi.
Pax không quen với sự cô độc. Nó sinh ra trong một lứa lúc nhúc bốn đứa con, nhưng cha nó đã mất tăm trước khi lũ nhỏ kịp nhận biết được mùi của ông, và ngay sau đó, một sáng nọ mẹ nó không trở về nhà nữa. Từng đứa một, anh và chị của nó đều không trụ nổi, để lại một sinh linh là nó chơ vơ trong cái hang lạnh lẽo cho đến khi cậu bé, Peter, bế nó ra.
Kể từ ấy, mỗi khi cậu chủ đi vắng, Pax sẽ chạy tới chạy lui trong chuồng đến khi Peter quay về. Và tới đêm lúc nào nó cũng sẽ ỉ ôi để được vào nhà, nơi nó có thể lắng nghe nhịp thở của cậu chủ.
Pax yêu cậu chủ, nhưng hơn cả vậy, nó cảm thấy mình phải có trách nhiệm với Peter, lãnh nhiệm vụ bảo vệ cậu bé. Khi không thể làm tròn được vai trò này, nó sẽ đau khổ.
Pax lắc người rũ hết nước mưa ban khuya và đi về phía con đường mà không thèm duỗi những thớ cơ căng cứng, tập trung kiếm mùi cậu bé.
Nó không tài nào tìm được - gió đêm đã cuốn bay mọi dấu vết khỏi mặt đất. Nhưng giữa hàng trăm thứ mùi hương đang dậy lên nhờ cơn gió thoảng sớm tinh mơ, nó tìm thấy một thứ gợi nhắc về cậu bé: quả sồi. Peter vẫn hay bốc những nắm đầy rải lên lưng Pax, cười ngặt nghẽo khi thấy nó rũ cho bằng sạch và rồi kẹp vỡ chúng để lấy
phần nhân. Lúc này mùi hương thân thuộc ấy dường như chứa đầy hứa hẹn, và nó rảo chân chạy về phía đó.
Những quả sồi vương vãi quanh gốc một cái cây bị sét đánh trúng cách nơi nó nhìn thấy cậu bé lần cuối vài bước nhảy dài về phía Bắc. Nó nhằn vài quả nhưng chỉ thấy những cục quắt queo lên mốc bên trong. Thế là nó nằm lên thân cây đổ rạp, tai chĩa lên nghe ngóng tiếng động phía con đường.
Trong lúc chờ đợi, Pax liếm láp cho sạch và khô lông, cảm thấy an lòng bởi mùi hương của Peter vẫn còn vương vấn. Rồi nó quay qua hai bàn chân trước, cần mẫn làm sạch nhiều vết cứa nơi đệm chân.
Hễ thấy thắc thỏm không yên, Pax lại cào bới nền chuồng. Nó luôn làm rách chân bởi lớp bê tông xù xì bên dưới, song không nén được. Tuần lễ trước đó, gần như ngày nào nó cũng đào.
Khi chân móng đã tinh tươm, nó gập chân dưới ngực nằm chờ. Bầu không khí buổi sáng rộn ràng những thanh âm của mùa xuân. Đêm dài vừa qua, chúng đã làm Pax sợ biết mấy. Bóng tối xáo động bởi tiếng sột soạt của những kẻ săn mồi về đêm, và cả âm thanh từ chính cây cối nữa - lá cây đâm chồi nảy lộc, nhựa cây rần rật trong thân gỗ non, lớp vỏ cây nứt ra li ti lách tách - cũng làm nó hoảng hồn không biết bao nhiêu lần trong lúc đợi Peter quay lại. Rốt cuộc, khi hừng đông từng chút nhuộm bạc bầu trời, nó đã ngủ lịm đi trong run rẩy.
Nhưng giờ đây, những âm thanh giống hệt đang vọng đến tai nó. Đôi tai thính vểnh lên tận một trăm lần, và suýt chút nữa nó đã nhảy bổ đi điều tra. Nhưng mỗi lần như thế, nó lại nhớ ra cậu chủ và tự nhắc mình nằm im. Loài người có trí nhớ tốt, nên họ sẽ quay lại chỗ này. Nhưng họ chỉ dựa dẫm vào thị lực mà thôi - những giác quan khác của họ yếu như sên - nên nếu như quay lại mà không trông thấy nó, họ sẽ lại bỏ đi. Pax sẽ bám trụ bên vệ đường và lờ đi mọi cám dỗ, bao gồm thôi thúc mãnh liệt trong lòng là hãy Nam
tiến, phương hướng mà bản năng mách bảo sẽ dẫn nó về nhà. Nó sẽ ở nguyên tại vị trí này tới khi cậu chủ tìm đến.
Phía trên đầu, một con kền kền lướt trên những luồng khí hầm hập bốc lên từ mặt đất. Một kẻ kiếm mồi vật vờ, đang săn lùng xác chết. Khi phát hiện chú cáo lông đỏ, bất động nhưng không bốc mùi thối rữa, nó lượn quanh thấp hơn để xem cho kỹ.
Bản năng Pax nhận thức được sự đáng báo động của cái bóng hình chữ V xẹt qua. Nó nhảy phổc khỏi thân cây và cào xới chỗ đất bên dưới.
Mặt đất dường như đáp lại bằng tiếng sôi sục từ xa, tựa một trái tim đang rền xiết. Pax thẳng người, mối hiểm họa lượn lờ trên đầu đã rơi vào quên lãng. Lần cuối cùng nó nhìn thấy cậu chủ, dọc chính con đường này cũng có sự rung chuyển như vậy. Nó lao bổ về chỗ vệ đường rải sỏi tới đúng nơi chủ nhân đã bỏ lại nó.
Sự rung chuyển lớn dần thành một tiếng gầm. Pax chồm lên bằng hai chân sau để được lọt vào tầm mắt. Nhưng không phải bắt nguồn từ xe của cậu chủ. Nó còn chẳng phải là một chiếc xe hơi. Khi nó lừ lừ tiến lại, trong mắt chú cáo nó to ngang ngửa ngôi nhà của chủ nhân.
Cái xe tải màu xanh lá. Không phải màu xanh tươi đầy sức sống của cây cối xung quanh, mà là một sắc xanh ô liu xỉn đục, cái màu mà thần chết sẽ khoác lên mình khi tới đoạt mạng của những cái cây này. Màu xanh ô liu xỉn đục giống anh lính đồ chơi cáo đã giấu chỗ bụi bông tai. Nó nồng nặc mùi dầu và thứ mùi kim loại khen khét bám dính trên bộ quần áo mới của cha cậu chủ. Trong đám bụi mờ mịt và đá văng tung tóe, chiếc xe tải hùng hổ phóng qua, nối đuôi bởi một cái nữa và một cái khác nữa và khác nữa nữa.
Pax nhanh chân né khỏi con đường. Con kền kền bay vút lên và bỏ xa chỉ bằng một nhịp đập cánh.
4
Không lùng tìm cái đèn pin của ông nội - đó là sai lầm đầu tiên của chuyến đi. Ông trăng có lẽ đã soi đường cho Peter được hai tiếng trước khi mất hút sau những cụm mây dày đặc. Cậu quờ quạng trong bóng tối thêm một giờ đồng hồ nữa rồi bỏ cuộc, cậu rạch các cạnh của một cái túi rác để làm thành một tấm chiếu dài còn cắt cái kia mặc lên người như áo choàng poncho để chống chọi với sương mù giá rét, và ngủ bên cạnh một đường cống thoát nước, lấy găng tay làm gối. Thành thực mà nói, “ngủ” là phóng đại quá trớn, và khi tia nắng đầu tiên nhoi nhói nơi mi mắt, cậu thức dậy lạnh run và ướt sũng sau khi dỗ được một giấc gà gật.
Suy nghĩ đầu tiên của cậu là về Pax - sáng nay nó ở đâu? Có phải nó cũng bị ướt và lạnh? Nó có sợ không? “Mình đến đây,” cậu nói lớn trong lúc cuộn túi rác lại cất vào ba lô. “Ráng chờ mình chút nữa.”
Cậu ăn một thanh pho mát và vài cái bánh quy, tu một hơi nước, đoạn buộc dây bốt và trèo lên đường.
Mình mẩy tê cứng và ê ẩm hết cả, nhưng ít ra cơn bồn chồn trong cậu đã nới lỏng tay siết. Xem ra cậu vẫn chưa đi được quá bảy hay tám dặm, nhưng vẫn còn nguyên một ngày nữa trước khi ông nội về nhà từ chỗ làm và họa chăng nghi ngờ cậu biến mất.
Theo như tấm bản đồ, cậu ước tính mình cần đi hai mươi dặm nữa mới đến được đường cao tốc. Sau đó, cậu có thể hướng về phía Tây để đi bất cứ đường tắt nào trông có vẻ tiềm năng. Tối nay cậu sẽ vào sâu trong rừng để ngủ, cách xa loài người, bỏ lại phía sau phần mạo hiểm nhất trong chuyến đi.
Cậu ước gì hôm qua mình để ý hơn khi đi cùng cha - sai sót số hai - song cậu chỉ nhớ được là có một thị trấn không mấy nhộn nhịp ngay sau khi họ ra khỏi đường cao tốc, và rồi những triền rừng lác đác mấy nông trại.
Peter đi bộ suốt năm tiếng ròng rã. Gót chân cậu phồng rộp, còn vai thì đau do đeo ba lô. Nhưng mỗi bước chân đang đưa cậu đến gần hơn với Pax và mái nhà đáng lẽ cậu không bao giờ nên rời khỏi, và cậu thấy khấp khởi hy vọng. Cho đến quá trưa một tẹo, khi cậu chạm mặt một cụm công trình kiến trúc nom như quảng trường thị trấn.
Ngay tức khắc, dường như mỗi người cậu lướt qua đều nhìn cậu với ánh mắt đầy nghi hoặc, thắc mắc tại sao cậu lại đang không ở ngôi trường mà cậu mới trông thấy ít lâu trước. Thấy một người phụ nữ
kéo tay một đứa nhóc dừng hẳn lại giương mắt nhìn mình chòng chọc, Peter bèn giả bộ xem hàng hóa bài trí trong tủ kính của một cửa tiệm vật tư bên cạnh.
Trong tấm kính, cậu nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình, và tàn dư của tâm trạng hồ hởi trong cậu tan chảy nốt. Mái tóc cậu rối bù những lá, cái áo nỉ thì đầy vệt bùn đất, và mũi đỏ lựng lên để tới cuối ngày dám cá là cháy nắng nguyên mặt luôn. Đứa trẻ trong cửa kính trông như một kẻ đang bỏ trốn - một kẻ bỏ trốn không chuẩn bị kỹ càng.
Cậu cảm nhận được người phụ nữ đã đi tiếp, nhưng trước khi cậu kịp lỉnh đi, một cái bóng lù lù hiện ra sau vai.
“Cần gì hả, chàng trai trẻ?”
Peter ngước mắt nhìn lên. Một người đàn ông mặc áo khoác xanh dương có biểu tượng của cửa hàng án ngữ ở cửa ra vào, phì phèo điếu thuốc. Tay ông ta khoanh lại trên cái bụng phệ, mái tóc bạc lưa thưa, nhưng có điều gì đó trong cái nhìn trịch thượng của người đàn ông này gợi Peter nhớ đến con diều hâu rình mồi trên ngọn cây tuyết tùng cậu từng thấy, ông ta chỉ vào cửa kính.
Peter nhìn lại vào gian trưng bày - những túi hạt giống và dụng cụ làm vườn. “Ờ, không, cháu chỉ đang… ừm, ông có bán đèn pin không ạ?”
Người đàn ông nghiêng đầu dòm Peter trong khi rít một hơi xì gà, và Peter lại nhớ tới con diều hâu. Sau cùng ông ta gật đầu. “Gian số bảy. Nay không phải đi học à?”
“Đang nghỉ trưa ạ. Phải về ngay.”
Người đàn ông tắt dụi điếu thuốc và đi theo cậu vào bên trong, lảng vảng gần đó trong khi Peter chọn lấy cái đèn pin rẻ tiền nhất trên giá và một gói pin AA, và không thôi săm soi khi cậu thanh toán.
Bên ngoài, Peter thở phù một hơi nãy giờ nín nhịn trong vô thức, cậu lèn tất cả vào ba lô và quay về chỗ ngã tư.
“Ê, nhóc.”
Peter điếng người.
Người đàn ông đã theo cậu ra ngoài, ông ta hất ngón cái qua vai. “Đến trường đi đường đó.”
Peter vẫy tay và mỉm cười, cố ra vẻ ngây ngô vô tội, và đổi hướng. Đến góc đường, cậu đánh liều liếc ra sau. Người đàn ông vẫn đang quan sát cậu.
Peter ù té chạy, những giọt mồ hôi chợt lạnh toát sau gáy. Cậu chỉ dừng chạy khi đến cổng trường, rồi chuồn ra bãi đậu xe.
Tất cả những gì cậu muốn là trốn đi một lúc - có lẽ là núp giữa mấy chiếc xe chở hàng - và nghĩ đường thoát thân. Nhưng phía sau bãi đậu xe và tòa nhà đa chức năng, cậu nhìn thấy một thứ còn hấp dẫn hơn gấp vạn lần.
Một sân bóng chày như được chạm khắc trên nền cỏ xuân tươi màu lá mạ. Và cạnh đường chốt gôn thứ ba, quay lưng lại với trường học, là một khu ghế dự bị vắng hiu.
Peter đứng trên dốc nhìn xuống toàn cảnh. Cậu đấu tranh tư tưởng một chốc, cậu muốn tiếp tục đi chứ, tất nhiên rồi, tranh thủ thời cơ. Nhưng lỡ người kia báo cảnh sát rồi thì sao? Lên đường ngay sẽ rất rủi ro. Thời gian nghỉ ngơi cậu có thể bù lại vào ban đêm, vì giờ cậu đã có đèn pin rồi. và bỗng dưng cậu thấy mệt quá - mệt rũ xương.
Tuy nhiên phần lớn là bởi sân bóng trông thật dễ chịu, như đang mời mọc. Peter luôn cảm thấy thoải mái trên sân bóng chày, vả lại đó có lẽ là một dấu hiệu chăng - cậu không cho rằng mình lại đi tin vào những dấu hiệu, nhưng sau vụ lũ sói đồng cỏ đêm qua, cậu chẳng dám chắc là mình không như thế. Peter chỉnh lại ba lô và chân sáo chạy xuống đồi.
Trong khu ghế dự bị, một hỗn tạp thân quen mùi da thuộc, mồ hôi và kẹo gôm cũ bao bọc lấy cậu như một chiếc ôm. Peter vội thay sang bộ quần áo còn lại và chà một nắm đất sét đỏ lên khắp tóc tai - khi rời khỏi đây, cậu hẳn sẽ không giống với bất kỳ miêu tả nào phía cảnh sát nghe được. Cậu đổ đầy nước từ vòi vào bình giữ nhiệt, uống cạn, rồi đổ đầy một lần nữa. Trong lúc luồn lách dưới băng ghế, cậu cười thầm, nhận ra rằng hẳn Pax cũng sẽ chọn một chỗ như vậy - được che chắn, nhưng vẫn có vị trí thuận lợi - nếu như cậu chàng muốn nghỉ ngơi.
Một tiếng đồng hồ, chỉ thế thôi, và rồi cậu sẽ đi tắt ra sau trường học và lại lên đường. Đủ lâu để nếu cảnh sát được gọi, họ sẽ chẳng còn hứng thú nữa. Cậu xếp găng tay bóng chày và ngả đầu. “Chỉ một tiếng thôi,” cậu lẩm bẩm. “Mình sẽ còn không cả nhắm mắt.”
5
Đây là địa bàn của tôi.
Pax giật mình đến nỗi suýt chút nữa thì lộn nhào khỏi thân cây sồi nơi nó đang ngủ gà gật: nó đã canh chừng cả ngày nay và chẳng bắt gặp thứ gì to hơn một con châu chấu, thế mà giờ đây xuất hiện một cô cáo với bộ lông đỏ rực. Nó chưa từng thấy một con cáo nào khác trước đây, nhưng nó biết: cùng loài cáo, mỗi tội trẻ tuổi hơn, nhỏ người hơn và là nữ. Linh tính cũng mách bảo rằng cách cô nàng dựng thẳng tai và đuôi có nghĩa là cô đang chờ nó trình diện.
Tôi đi săn ở khu này.
Pax cảm thấy thôi thúc muốn chạy về cái tổ thô sơ kia mà ép mình vào những thân cây bông tai còn sót lại, giống như rút về khu chuồng, song nó cưỡng lại được - nhỡ đâu cậu chủ quay lại mà nó thì không có ở đây? Nó cụp tai để thể hiện rằng mình không có ý đe dọa, nhưng sẽ không rời đi đâu hết.
Cô cáo bước lại, và Pax ngửi thấy mùi của cô - quen thuộc như của chính nó, nhưng cũng rất xa lạ. Cô nàng đánh hơi rồi xù lông ngờ vực bởi mùi con người trên người nó.
Pax bẩm sinh cũng có bản năng như thế, nhưng nỗi hoài nghi không thể sánh được với lòng tốt vô bờ bến được trao đi trước sau như một, đặc biệt với những sinh vật vẫn còn lạ lẫm với cuộc đời. Pax mới chỉ tròn mười sáu ngày tuổi khi Peter giải cứu nó - một cục lông màu than không cha không mẹ, gần như chưa mở mắt - và chẳng mất quá lâu để nó đặt lòng tin vào cậu bé trầm tính, mảnh khảnh đã đưa nó về nhà.
Cô cáo chõ cái mõm nhọn để đánh hơi nó kỹ hơn và lại một lần nữa cau có xù lông.
Đấy là mùi của cậu chủ tôi. Cô có nhìn thấy cậu ấy không? Pax kể ra những đặc điểm mấu chốt nhất - đôi tai tròn không lông lá; cặp giò lêu nghêu, dài không tưởng tới mức Pax vẫn luôn sợ cậu sẽ té nhào lúc chạy; những lọn tóc đen quăn tít mọc dài ngắn khác nhau, rồi lại trở nên cụt lủn.
Không có loài người ở đây, nhưng họ đang tới gần. Ngay lúc ấy, đầu Cáu Kỉnh ngẩng phắt lên như thể bị giật bởi một sợi dây vô hình. Tai cô nàng vểnh lên, hướng về tiếng lào xào khe khẽ trong lùm cỏ may gần đó. Chân sau của cô giật giật, tập trung năng lượng. Cô bật cao và rồi, bàn chân úp lên chiếc mũi đen, lao bổ vào lùm cỏ, chỏm đuôi trắng vụt qua chớp nhoáng.
Pax ngồi thẳng dậy, vẻ kích động. Loáng cái, Cáu Kỉnh thò đầu lên, miệng ngậm một con chuột rừng. Cô nàng nhảy khỏi đám cỏ, cắn vào cổ chuột, rồi thả con mồi xuống đất.
Mồ côi từ khi mới lọt lòng, Pax chưa từng ăn thịt sống. Cơn thèm ăn quặn lên trước mùi máu, cả sự hiếu kỳ cũng dâng cao. Nó dè dặt bước tới. Cáu Kỉnh gầm gừ, và Pax lui lại để ngó ở một khoảng cách an toàn.
Từng miếng nhai rau ráu của cô nàng làm nó mỗi lúc một thêm đói. Nó nghĩ về bát hạt đầy ắp ủi an, sự vui thú của những món bánh thưởng tự tay Peter đút cho và phần quà đỉnh nhất: bơ đậu phộng. Nó cần phải tìm được cậu chủ. Cậu chủ sẽ cho nó ăn.
Trước khi nó kịp hỏi về những con người đang tới, Cáu Kỉnh nhặt phần thừa lại của con chuột - độc một cái chân sau với cái đuôi lòng thòng - và đủng đỉnh bỏ đi với những thứ đó lủng lẳng trong miệng. Pax nhìn theo cô nàng len lỏi qua những cành cỏ, dần trở thành những vệt đỏ tươi và trắng tinh, cứ thế đi mất. Nó bị choáng ngợp bởi ký ức chiếc xe của chủ nhân rồ ga phóng đi làm đá sỏi văng đau rát.
Ngay trước khi lẩn vào vạt dương xỉ nơi bìa rừng, cô nàng dừng lại liếc qua vai về phía nó. Khoảnh khắc ấy, một tiếng gãy đánh rẳc từ
cây sồi đổ làm cô nhảy dựng lên. Tiếp đó là một vệt lông màu đỏ lao vù ra từ trong ụ lá khô, phi qua đám cỏ dại, và đáp gọn lỏn lên lưng cô nàng.
Pax nằm rạp xuống. Nó có thể nghe tiếng ăng ẳng của cô cáo trong lúc vật lộn với kẻ tấn công, song nghe có vẻ bực mình hơn là hoảng sợ. Nó thò đầu lên. Cáu Kỉnh nhảy lên một cục lông và cắn một phát thật mạnh. Pax ngạc nhiên khi thấy một phiên bản nhỏ hơn, còm
hơn của cô nàng nằm dưới chân cô.
Pax sững sờ. Chưa khi nào nó lại ngờ rằng cáo có thể bay vút như chim, với những đường cung điêu luyện không giống với bất kỳ động tác nào mà bản thân nó có thể đạt được.
Chú cáo nhỏ lật ngửa phơi bụng ra quy phục, nhưng xem chừng chỉ tổ làm Cáu Kỉnh thêm bực, tiếng ăng ẳng của cô giờ ngắt quãng bởi những cú tợp và cắn. Pax nhảy bổ lại, bị cơn hiếu kỳ lấn át.
Chú cáo còi cọc bất ngờ bởi thứ mùi lạ lẫm của con người và nhìn qua vai Cáu Kỉnh. Mắt nó mở to dò xét Pax, đoạn nó lồm cồm bò dậy. Thân thiện, cậu chàng thông báo với Pax; em trai không cùng lứa với chị cáo. Chơi đi!
Cáu Kỉnh nhe nanh hằm hè em trai. Nguy hiểm. Tránh xa ra.
Pax làm như không thấy điệu bộ răn đe của Cáu Kỉnh và đáp lại lời chào. Thân thiện. Em BAY VÈO! CHIM?
Chú cáo loắt choắt chạy lại chỗ cái cây đổ, rồi nhảy phóc lên thân cây. Một cái chạc của cây sồi héo queo chĩa lên trời. Cơ thể nhỏ thó bước trên đó nhẹ như không. Cậu chàng nhìn xuống để chắc chắn rằng Pax vẫn đang theo dõi.
Pax nằm xuống và kẹp chân dưới ngực, nhưng thật khó mà kiềm lòng không tự mình nhảy lên cây để thử. Nó đã leo trèo trên những bức tường khu chuồng, cố nhiên, nhưng chưa khi nào cao quá một mét tám. Đuôi nó giật giật.
Cô cáo đi ra xa vài bước và rồi nằm phủ phục xuống đất. Cô nàng nằm nghiêng sang một bên để nhìn thẳng lên chỗ em trai, giờ thì vẻ âu yếm rõ mồn một. Thằng nhóc là đứa còi nhất. Nhỏ, nhưng có võ. Tôi không muốn nó đi cùng khi tôi đi săn. Nhưng nó cứ tò tò theo. Cô hất đầu và cấm cảu với Pax, ra điều đổ lỗi cho nó vì trò nô nghịch của em trai.
Chú cáo bé nhỏ còm nhom xuôi cành cây mà bước ra xa, đuôi dựng đứng để giữ thăng bằng, rồi cuộn mình và phi qua đầu hai con cáo ở dưới đất. Nó hạ cánh xuống lùm cây ngưu bàng ven đường và rồi
xồ ra, khắp người dính đầy quả gai. Nó chạy quanh tít mù, cứ như thế việc bay nhảy đã choán lấy nó bằng một niềm thích thú chứa chan mà nó bắt buộc phải giải phóng qua hai cặp chân, rồi quăng mình ra đất để tiêu hao nốt chỗ còn lại.
Cô chị gái lao lên người nó. Gần đường quá! Trong lúc dứt mấy quả gai ra khỏi lông cậu nhóc, cô quở nó vì cú phi thân đầy khinh suất. Thế nhưng Pax lại trầm trò - thằng bé đã bay một quãng bằng năm bước nhảy dài liền mà không chạm đất. Một ngày nào đó nó sê tự mình thử chiêu này.
Khi Còi Gí đứng dậy, nó cúi đầu và nũng nịu dụi vào chị. Cô nàng vật nó ra đất, lần này chỉ thô bạo giỡn thôi, rồi ngồi lên người nó, ghìm chặt nó xuống. Nó vùng vẫy đôi chút nhưng không hề có ý định vật ngã chị, và chỉ hiền khô chống đối khi cô nàng bắt đầu liếm lông cho.
Pax biết điều nằm cách xa một khoảng. Lúc sau, khi em trai giờ đã được dạy dỗ đâu ra đó và cô nàng đã trút được cơn bực dọc, Cáu Kỉnh lấy mẩu thịt chuột ra thảy xuống trước mặt cậu nhóc, cô nằm xuống và bắt đầu liếm láp bàn chân, rồi lấy chân rửa mặt.
Pax nhích lại sát hơn, hạ thấp người đến nỗi bụng quẹt đất. Nó bị thu hút bởi việc có hai bạn cáo trẻ ở bên, bất kể nó có được hoan nghênh hay không.
Cáu Kỉnh duỗi người vươn vai trong một vùng nắng xiên. Gò má vẫn còn ướt bóng bẩy như chất gỗ màu bí ngô của cái bàn nơi chủ của Pax dùng bữa, tương phản tuyệt mỹ với cái cổ trắng mượt mà.
Pax nhìn qua Còi Gí, thằng bé đang đánh hơi nơi Pax đã ngủ. Những vết trên lông nó giống chị y đúc, chỉ là không rực rỡ bằng. Lông nó mọc lơ thơ và lỗ chỗ từng cụm, và xương hông thì lồi hẳn ra. Thằng bé bất thình lình lùi ra sau và vồ tới giả vờ tấn công.
Pax nhìn theo Còi Gí tung chú lính đồ chơi lên không trung rồi lại ghim xuống, cứ thế lặp đi lặp lại. Nó cũng từng làm thế khi còn bé. Nó bèn lon ton chạy tới nhập hội, và Còi Gí mừng đón nó như thể hai đứa từ thuở lọt lòng đã nô đùa cùng nhau.
Cáu Kỉnh đứng dậy. Mang nó lại đây.
Em trai cô thoạt tiên phớt lờ, nhưng rồi, như thể đang đánh giá giới hạn lòng kiên nhẫn của chị gái, nó tung tăng chạy lại và thả món đồ chơi xuống chân chị.
Cáu Kỉnh phát ra một tiếng kêu từ sâu trong cổ họng với chú lính. Con người. Bỏ nó đi. Nhà. Mau, cô nàng ra lệnh cho em trai.
Còi Gí rúc vào người Pax và ghìm chặt hai chân trước.
Cáu Kỉnh nhảy bổ tới gặm em trai. Cậu ta bốc mùi con người. Nhớ lấy.
Pax thót tim trước hình ảnh cô trao đổi với cậu em lúc đó: gió lạnh thét gào; một cặp vợ chồng nhà cáo, vật lộn với một thứ làm Pax nhớ đến chuồng của nó - bằng thép, nhưng có hàm sắc nhọn và móng vuốt thay cho những thanh rào. Cặp hàm thép và nền đất tuyết phủ nhoe nhoét máu.
Cáu Kỉnh ngẩng đầu lên đoán sắc trời và đánh hơi ngọn gió, chúng đang mang theo lời báo trước một cơn dông bão đến từ phía Nam. Về nhà.
Còi Gí cụp đuôi và cất bước theo chị. Nhưng rồi thằng bé quay lại nhìn Pax, rủ nó đi cùng.
Pax đắn đo. Nó không muốn rời khỏi vị trí mà chủ nhân sẽ quay lại. Nhưng mây đen đang cuồn cuộn kéo tới, và ngay lúc đó, tiếng sấm đì đùng đằng xa. Nó biết cậu chủ sẽ không đánh bạo ra ngoài giữa
trời đương bão bùng. Nó không muốn nghĩ đến viễn cảnh bên vệ đường ướt như chuột lột. Cô độc.
Nó nhét chú lính đồ chơi vào một bên má và đi sau hai con cáo.
Cáu Kỉnh quay phắt lại khi cảm nhận được sự hiện diện của nó. Chỉ duy nhất một đêm thôi đấy, Hôi Rình Mùi Người.
Pax đồng ý. Nó sẽ lần theo mùi trở lại chỗ con đường sau cơn bão. Khi ấy chủ nhân sẽ tới. và một khi nó tìm thấy cậu chủ, nó sẽ không đời nào rời cậu dù chỉ nửa bước chân.
6
Peter nhận ra những âm thanh trước cả khi tỉnh hẳn ngủ: tiếng chân của đám trẻ mới tan học, tiếng huýt sáo, tiếng đập tay đầy nôn nóng vào găng tay. Nó cuống cuồng bò ra khỏi gầm ghế và vơ lấy đồ đạc. Đã quá muộn: hai mươi cậu bé cùng huấn luyện viên đang đổ xuống đồi. Phía trên bãi đậu xe, một nhóm người lớn đang dõi theo buổi tan trường, và một vài người trong số họ mặc đồng phục. Lựa chọn tốt nhất là nhập vào nhóm khoảng hơn chục đứa trẻ đang tản mát khắp khán đài, đầu chúc vào nhau theo tốp đôi tốp ba, và trà trộn vào khi tất cả ra về.
Peter leo khán đài đến hàng trên cùng và buông ba lô xuống. Một thằng nhóc theo dõi một buổi tập bóng chày - chuyện thường ở huyện, thế mà tim cậu vẫn đập rộn lên.
Bên dưới, vị huấn luyện viên bắt đầu vụt bóng vào sân để tập bắt. Đa số các cầu thủ đều là những cậu trai ta thường dự là sẽ thấy trên sân bóng, ai nấy đều lực lưỡng và la lối. Peter phát hiện một người mình muốn xem: một cậu nhỏ con có mái tóc húi gọn màu râu ngô và mặc chiếc áo phông đỏ đã bợt màu, chơi ở vị trí chặn ngắn. Trong khi tất cả những người chơi còn lại chạy loăng quãng như cún con, cậu này đứng vững như tượng, tay trong tư thế làm chủ, eo cao, mắt dán chặt vào cây gậy của huấn luyện viên. Khoảnh khắc thanh gỗ đập vào lớp da bò, cậu lao đi. Bằng một cách nào đó cậu chạm tới mọi trái bóng đến gần địa phận của mình, cho dù cậu thấp bé đến nỗi trông chẳng khác gì cậu em trai lẽo đẽo theo đuôi ai đó.
Peter biết chính cậu cũng chẳng phải tuýp người mà người ta nghĩ sẽ thấy trên sân bóng, và thậm chí cậu còn lạc lõng hơn trong khu dự bị với đủ kiểu chen vai thích cánh và khích bác lăng mạ. Nhưng
sân bóng chày là chốn duy nhất khiến cậu cảm thấy đang ở đúng nơi trời phú cho mình.
Cảm xúc mà điều đó đem lại cho Peter, cậu chưa từng thử diễn tả cho bất kỳ ai - phần vì nó quá riêng tư, nhưng phần lớn là bởi cậu không nghĩ mình có đúng từ để giải thích. “Linh thiêng” là sát nhất, và “bình tâm” cũng có, nhưng chẳng từ nào là hoàn toàn chuẩn chỉnh. Trong một giây phút điên rồ, Peter cảm tưởng rằng cậu cầu thủ chặn ngắn thấu hiểu cảm giác bình tâm linh thiêng ấy, và đang cảm nhận được nó, ngay lúc này.
Vị huấn luyện viên đã bước lên gò ném bóng và đang phát ra những quả bóng bôi nhựa thông[1]. Những cầu thủ đánh bóng đang vụt những đường bóng thẳng và bóng đập xuống sân bén ngọt, và những cầu thủ phòng thủ sân ngoài rốt cuộc cũng để tâm, hay chí ít cũng quay mặt về đúng hướng. Cậu chặn ngắn vẫn là người đáng xem - cậu ta trông như thể được nối bằng những sợi dây điện, ánh nhìn kiên định hướng vào trận đấu.
Peter nhận ra kiểu tập trung ấy - đôi khi thực sự mắt cậu sẽ bị khô vì cậu quên bẵng mất phải chớp mắt, cậu tập trung cao độ vào nhất cử nhất động của mọi cầu thủ - và biết điều đó là xứng đáng. Giống cậu nhóc mặc áo phông đỏ bên dưới, Peter chiếm lĩnh địa phận của mình trên sân bóng. Cậu yêu lãnh địa ấy đến từng ngọn cỏ mới cắt,
đến cả mùi đất khô. Nhưng thứ cậu yêu hơn cả chính là hàng rào phía sau lưng. Hàng rào cho cậu biết chính xác cái gì là trách nhiệm của mình và cái gì không. Một trái bóng rơi phía trong rào, tốt hơn hết là cậu nên tóm gọn nó. Một trái bóng bay bổng qua rào, cậu không cần phải bận tâm thêm. Gọn ghẽ và rõ ràng.
Peter thường ao ước rằng trách nhiệm ngoài sân bóng cũng được bao quanh bởi những hàng rào cao vòi vọi đến thế.
Khi mẹ Peter qua đời, có một dạo cậu tới gặp bác sĩ trị liệu. Bảy tuổi, cậu chẳng thèm nói năng, hoặc có lẽ cậu chỉ không biết làm sao để thâu gọn nỗi mất mát lớn lao ấy thành lời.
Bác sĩ trị liệu - một người phụ nữ có đôi mắt hồn hậu và mái tóc bạc dài thắt bím - nói rằng chuyện đó là bình thường, hết sức bình
thường. Và trong suốt buổi trị liệu, Peter sẽ lôi những cái xe hơi và xe tải nhỏ từ hộp đồ chơi ra - chắc phải có hàng trăm cái trong đó; lúc sau Peter mới biết rằng bà ấy đã vì cậu mà quét sạch cả một cửa hàng đồ chơi - và đâm chúng vào nhau, cứ hai cái một như thế. Khi cậu xong xuôi, bà sẽ luôn nói đúng một câu: “Với cháu chuyện đó hẳn phải khó khăn lắm. Mẹ cháu lên xe đi mua đồ, một ngày như bao ngày, và mẹ chẳng về nhà nữa.”
Peter chưa khi nào ừ hữ đáp lời, nhưng cậu vẫn nhớ những câu nói ấy thật chí lý, và cả trọn vẹn một giờ đồng hồ kia - tựa hồ cuối cùng thì cậu cũng ở nơi mình nên ở, và chẳng có gì khác cậu nên làm ngoại trừ việc tông những chiếc xe nhỏ vào nhau và nghe bảo rằng với cậu chuyện đó hắn phải khó khăn lắm.
Cho đến một ngày, vị bác sĩ trị liệu nói một điều khác. “Peter, cháu có cảm thấy tức giận không?”
“Không ạ,” cậu vội đáp. “Không bao giờ.” Phét lác. Và rồi cậu đứng dậy và nhón một viên kẹo táo xanh Jolly Rancher trong cái tô bằng đồng cạnh cửa ra vào, đúng như cách cậu kết thúc mỗi buổi trị liệu - đó là thỏa thuận vị bác sĩ với đôi mắt hiền hậu đã giao kèo: bất cứ khi nào thấy chán, cậu có thể lấy một chiếc kẹo và buổi trị liệu sẽ chấm dứt - và cậu ra về. Nhưng bên ngoài, cậu đá văng cái kẹo vào rãnh nước, và trên đường về nhà, cậu nói với cha rằng mình sẽ không quay lại đó nữa. Cha cậu không phản đối. Thật ra, có vẻ như thế còn khiến ông nhẹ cả người.
Nhưng với Peter thì không. Có phải vị bác sĩ tốt bụng kia biết tỏng vào ngày cuối cùng ấy cậu đã nổi đóa, rằng cậu đã làm một điều tồi tệ? Rằng như để phạt cậu, mẹ đã không đưa cậu tới cửa hàng? Và liệu bà có đổ lỗi cho cậu vì những gì đã xảy ra?
Vài tháng sau, Peter nhận nuôi Pax. Cậu vô tình bắt gặp một con cáo bị xe cán chết bên vệ đường gần nhà. Rất mau sau khi nhìn cỗ quan tài của mẹ được hạ thổ, cậu cảm thấy một sự cần thiết không thể suy suyển là chôn cất cái xác. Trong lúc đang lựa một chỗ thật
đẹp, cậu tìm thấy cái hang, chen chúc ba thi thể cáo con lạnh ngắt, cứng đờ và một cục lông xám bé tí tẹo hẵng còn ấm và thở. Cậu ủ Pax vào trong túi áo nỉ, mang nó về nhà, và nói - không phải hỏi xin, nói - “Con sẽ giữ nó.” Cha cậu đáp, “Được thôi, được thôi. Trong một thời gian.”
Suốt cả đêm chú cáo con nheo nheo rất đáng thương, và nghe vậy, Peter nghĩ bụng nếu cậu đến gặp bà bác sĩ trị liệu với đôi mắt hồn hậu một lần nữa, cậu sẽ đâm mạnh những cái xe ô tô đồ chơi vào nhau suốt ngày suốt đêm, hết ngày lại tới đêm, mãi mãi. Không phải vì cậu tức giận. Mà chỉ để mọi người hiểu ra.
Cứ nghĩ về Pax là con rắn lo âu muôn thuở lại thít chặt lồng ngực Peter, cậu cần phải lên đường tiếp, bù đắp lại thời gian đã phí phạm. Buổi tập giải tán, mấy cậu bé đang tung tăng đi vào từ sân bóng, trút bỏ dụng cụ khi ngang qua khu ghế dự bị. Ngay khi trên sân không còn trở ngại, cậu trèo khỏi khán đài, lôi ba lô xuống và quàng lên vai. Tuy nhiên, khi vừa mới đi dọc sân bóng, cậu trông thấy cậu cầu thủ chặn ngắn.
Peter ngần ngại, cậu nên đi ngay, cố mà trà trộn vào đám người lố nhố đang ra khỏi sân trường. Nhưng toàn đội đã để mặc cậu bé này lủi thủi cất dọn đồ tập và đi về, và Peter hiểu rõ cảm giác ấy ra sao. Cậu bèn nhặt vài quả bóng và đưa lại. “Chào.”
Cậu bé đón lấy mấy quả bóng với một nụ cười dè chừng. “Chào.” “Chơi hay lắm. Đường bóng cuối ấy? Quả bóng lao vụt đi như chớp.”
Cậu bé nhìn sang chỗ khác và di di chân trên đất, nhưng Peter có thể thấy rằng cậu đang vui. “Ờm, thì, tại cậu chốt gôn một khiến cú đó trông gọn hơn thực tế thôi.”
“Ối dào, là do cậu quăng quả đó. Cầu thủ chốt gôn một đội cậu đến bắt trúng con vi rút cảm lạnh cũng còn là ăn may ý. Không có ý xấu gì đâu nhé.”
Cậu bé nhoẻn miệng cười toe với Peter, “Ừa. Cháu trai huấn luyện viên đó. Cậu cũng chơi à?”
Peter gật đầu. “Khu vực trung tâm.”
“Mới tới đây hả?”
“Ồ… Mình không sống ở đây, mình…” Peter mơ hồ hất đầu về phía Nam.
“Hampton?”
“Ờ, Hampton, đúng thế.”
Mặt cậu bé đanh lại. “Tính do thám trước trận đấu thứ Bảy à? Đểu cáng.” Cậu nhổ một bãi nước bọt và đi về phía khu ghế dự bị.
Ra khỏi khuôn viên trường học, Peter tự biểu dương mình vì đã nhanh trí che giấu được chuyện bỏ nhà đi. Nhưng không hiểu sao cậu cảm thấy có chút khó chịu. Thành thực mà nói, vì sao đó mà cậu cảm thấy thật tệ.
Cậu rũ bỏ cảm giác đó và xem đồng hồ - cha đã từng nói gì về cảm xúc ấy nhỉ, hình như là “toàn những thứ chẳng đáng một xu”. Bốn giờ mười lăm. Cậu đã phí mất hơn ba tiếng đồng hồ.
Peter càng hối hả, nhưng khi một lần nữa tới quảng trường thị trấn, cậu đi về phía bên kia của cửa tiệm vật tư và còn thúc bản thân lẹ chân hơn khi băng qua một cái thư viện, qua một trạm xe buýt, qua một quán ăn. Đoạn cậu đếm đủ một nghìn bước rồi mới liều ngẩng đầu lên.
Khi đó, cậu lại kiểm tra đồng hồ. Bốn giờ năm mươi. Ông nội có lẽ đang thu dọn đồ đạc. Peter tưởng tượng ông đến chỗ chiếc Chevy màu xanh da trời gỉ sét cũ kỹ, tra chìa vào ổ khóa.
Và với hình dung đó, cơn bồn chồn ra đòn, làm cậu thấy khó thở vô cùng. Cậu trèo qua một hàng rào gỗ thấp lè tè và đáp vào lùm cây. Cậu đi cố thêm một khoảng chín mét cho an toàn, tới khi mấy cây non cao quá đầu, tới khi cơn bồn chồn buông tha cho cậu hít thở trở lại, rồi mới rẽ để song song với con đường. Giờ đây lối đi gập ghềnh hơn, nhưng mười lăm phút sau cậu đã đến nơi: đường cao tốc.
Peter quan sát đường dốc rẽ vào cao tốc, cúi thấp, rồi, nhân lúc xe cộ dãn bớt, chạy xuống ống cống thoát nước, leo qua rào lưới mắt cáo, và đáp xuống phía bên kia, tim đập mạnh. Thành công rồi.
Cậu chạy vù vào rừng, căng mắt tìm một nơi khả dĩ để đi tắt về phía Tây. Và chỉ trong vài phút, cậu đã tìm thấy: một con đường đất cắt vuông góc tới đường cao tốc. Chà, thực lòng mà nói, không hơn đường xe bò là bao, nhưng đúng hướng và sẽ dễ đi kể cả vào ban đêm. Cậu rẽ vào.
Trong một chốc hàng cây bên cạnh mọc thêm san sát theo từng bước chân, và chỉ có tiếng chim hót và tiếng sóc loạt soạt làm náo động sự tĩnh mịch. Peter nhận ra đã một lúc rồi cậu không còn thấy bóng dáng con người. Ý nghĩ này làm cậu phấn chấn hẳn lên.
Nhưng vài phút sau lối đi rẽ ngoặt và bắt đầu chạy dọc một đồng cỏ điểm xuyết những cây ăn trái lắm mắt mấu đang vào độ lấm tấm trổ hoa. Một bức tường đá bao quanh cánh đồng, cùng một nhà kho lụp xụp trong góc đằng xa. Nhà kho không sáng đèn, sát sườn không có xe hơi hay xe tải. Thế mà, tim Peter vẫn hẫng một nhịp. Cái nhà kho trông như mới được sơn sửa, và vài tấm ván lợp mái hồng tươi màu
gỗ mới. Đây là đường dẫn vào nhà của ai đó. Tệ hơn, nó có thể dẫn tới một con đường lớn hơn mà do tập bản đồ cũ quá rồi không vẽ vào. Dù là trường hợp nào đi nữa, nó cũng không phải đường tắt qua những ngọn đồi.
Peter buông ba lô và ngồi sụp xuống một khúc gỗ hẹp chỗ bức tường đá, sức cùng lực kiệt và đói ngấu. Cậu giật mạnh đôi bốt ra và cởi tất. Mỗi bên gót chân có hai vết phồng rộp nhức nhối nghiêm
trọng. Lúc chúng vỡ ra thì đau phải biết. Peter moi lấy đôi tất còn dư từ đáy ba lô và lồng ra ngoài đôi đầu tiên. Cậu ngả đầu ra sau tựa vào lớp đá thô ráp, vẫn còn hâm hấp bởi ánh nắng ban ngày, mặt trời lập lờ trên rặng cây, nhuộm cánh đồng trong ráng chiều hồng phấn.
Cậu lấy túi nho khô ra và nhấm nháp mỗi lần một hạt, chốc chốc uống từng ngụm nước nhỏ. Rồi cậu bóc hai gói pho mát sợi và lấy bốn cái bánh quy giòn khỏi ống. Cậu ăn dè hết mức có thể, ngắm vầng dương phía trên vườn cây ăn quả, ngạc nhiên khi nhận ra rằng mình thực sự có thể nhìn thấy từng mốc mặt trời lặn. Làm sao sống mười hai năm rồi mà cậu chẳng hề hay biết điều này về hoàng hôn?
Peter cột dây giày. Đúng lúc chuẩn bị đứng dậy, cậu trông thấy một con hươu chạy vào vườn cây từ cánh rừng phía xa. Cậu nín thở nhìn khu vườn dần trở nên đông đúc - mười bốn chú hươu cả thảy. Chúng nhẩn nha gặm cỏ, và vài con duyên dáng nhấm nháp những cành cây la đà.
Peter lại ngồi xổm xuống, và con ở gần nhất, một con hươu cái với một chú hươu non lông đốm mảnh dẻ bên cạnh, quay đầu nhìn thẳng vào cậu. Peter chầm chậm giơ bàn tay, hy vọng nó hiểu cậu không hề có ý gây hại. Con hươu cái di chuyển qua lại giữa Peter và đứa con, nhưng lát sau nó lại cúi đầu gặm cỏ.
Và rồi bầu không khí trong lành lúc chạng vạng bị xẻ làm đôi bởi tiếng lưỡi cưa kẽo kẹt nghiến gỗ từ đằng sau nhà kho. Đàn hươu nhất loạt giật bắn mình và tung vó bay biến vào cánh rừng thăm
thẳm, lập lòe những chỏm đuôi trắng. Trước khi chạy đi, con hươu cái đưa mắt nhìn xoáy vào Peter lần nữa, lần này như thể muốn nói, Loài người các ngươi. Hủy hoại mọi thứ…
Peter lên đường. Quay lại cao tốc, lúc này một nửa số xe đã bật đèn pha, và dường như chúng đều chiếu thẳng vào cậu. Cậu vội né khỏi con đường.
Nền đất chỗ đó lẹp nhẹp và tanh mùi bùn. Đang bận cân nhắc xem có nên liều bật đèn pin hay không thì chân cậu lún đánh tõm một cái. Cậu tóm lấy một cành cây chìa ra và tự lôi mình thoát lên, nhưng đã quá trễ - cậu có thể cảm nhận được thứ nước đầm lầy lạnh buốt đang rò rỉ vào bốt. Peter rủa thầm. Không mang thêm tất - một sơ suất khác. Tốt hơn hết nên là sơ suất cuối cùng trong chuyến đi này.
Và rồi, bì bõm leo lên khoảng đất cao hơn, cậu lại mắc một sai lầm nữa, kinh khủng hơn.
Chân phải vấp vào rễ cây và cậu té nhào, cậu nghe tiếng xương gãy - một tiếng khậc khẽ, nghèn nghẹt - cùng lúc cảm thấy cơn đau nhói như đâm. Cơn đau xây xẩm mặt mày khiến cậu phải ngồi xuống thở dốc mất một lúc lâu. Sau cùng cậu rút chân ra và tháo dây bốt,
nhăn nhó mặt mày theo từng cử động, cậu lột lớp tất sũng nước xuống, và há hốc miệng trước thứ mình nhìn thấy: chân cậu đang phù lên nhanh đến độ lồ lộ ra trước mắt.
Peter kéo tất lại, thiếu điều khóc nức lên vì đau, và rồi cắn răng xỏ chân lại vào bốt trước khi nó kịp sưng thêm. Cậu bò tới chỗ một cái cây và lôi mình đứng dậy. Cậu thử dồn trọng lượng lên chân và suýt chút nữa thì lại quỵ xuống. Cơn đau thốn gấp nhiều lần bất kỳ thứ gì cậu từng cảm thấy trước đây - nó khiến cho ngón tay cái bị gãy tưởng ngang vết muỗi cắn nếu đem ra so sánh.
Cậu chẳng cất nổi bước chân.
7
Pax cựa mình khoan khoái vào sức nặng rắn chắc, ấm sực của một cơ thể khác đang nép vào mình nó. Nửa tỉnh nửa mê, nó hít hà mùi hương đầy ủi an của cậu chủ. Tuy thế, thay vì mùi người, nó lại thấy mùi cáo.
Tức thì nó tỉnh hẳn. Cuộn tròn sát cơ thể nó, ngáy o o, là cậu em trai của cô cáo. Còi Gí khẽ rên và vắt đuôi lên mũi, hẵng còn say giấc nồng.
Pax đứng phắt dậy. Nó không có thói hách dịch, nhưng tình huống này là bất đắc dĩ. Về hang của em đi. Khi Còi Gí cố rúc vào ngực nó, Pax cắn vào vai thằng bé.
Còi Gí lắc mình cho tỉnh ngủ và lăn một vòng đứng dậy. Nó không hề cúi đầu khuất phục, cũng chẳng mảy may đi chỗ khác. Chơi đi mà, thay vào đó là dáng điệu rủ rê.
Trong hoàn cảnh khác, Pax sẽ nhiệt liệt chào đón chú cáo nhỏ tốt tính làm bạn. Nhưng nó không ham hố dây dưa với Cáu Kỉnh lần nữa, và thực tế là nó chẳng có hứng thú với việc gì ngoài quay về với chủ nhân.
Pax lấy ra chú lính nhựa đã cất đi và thả nó xuống làm quà, rồi lại xua thằng nhỏ ra chỗ khác. Sau ánh nhìn nài nỉ cuối cùng, Còi Gí ngậm lấy món đồ chơi. Pax đi cùng nó ra ngoài và nhìn theo cho đến khi nó chui vào một cái lỗ cách đó vài sải đuôi.
Khi cơn dông ập tới - chóng vánh mà dữ dội, cả mảng trời nứt toác bởi những vết rạch cuồng nộ - Pax đi đến lối vào nông choèn của một cái hang bỏ hoang cách nơi Cáu Kỉnh ở cùng em trai không xa là bao trước khi kịp đánh giá xung quanh. Giờ đây, dưới ánh trăng khuyết bàng bạc, nó dành ra giây lát để nhìn bao quát.
Sườn đồi hướng về phía Nam. Ở đây mấy bộ rễ cây như quặp vào đất cát tựa những nắm tay siết chặt với những khớp ngón nâu sần. Kẹp giữa chúng, Pax trông thấy ba cái cửa hang.
Phía trên sườn đồi này, cánh rừng tỏa về hướng Bắc và Tây, quay về con đường. Bên dưới, một thung lũng cỏ um tùm rộng thoai thoải. Một địa điểm lý tưởng: vị trí cao của sườn đồi không che chắn mấy cho những tay săn mồi đang tiếp cận, trong khi hàng cây bao bọc lũ cáo khỏi những luồng gió bấc. Hương đồng nội tỏa ra tràn trề nhựa sống.
Khi Pax nắm được mọi thứ, sự căng thẳng trong lòng nó nhẹ bớt. Giống cảm giác lúc nó còn nhỏ, sau khi nó đẩy đĩa đồ ăn đến cái góc xa nhất trong ổ của cậu chủ tới lần thứ ba, Peter cuối cùng cũng hiểu ra là phải để nguyên ở đó. Cách xa bức tường hướng Bắc lạnh lẽo, và nhìn được cánh cửa mà người cha bước vào, đôi khi với tâm trạng bực dọc. An toàn.
Nhưng nơi này không an toàn cho nó. Cáu Kỉnh đã cảnh báo rằng cũng trên đồng cỏ này có một bác cáo lớn tuổi và vợ sinh sống, ông ta đã chạm trán một kẻ thách thức từ bên ngoài và sẽ không dung thứ sự có mặt của một con đực độc hành khác, và ngay lúc đó Pax chớp thấy một chuyển động phía dưới - một con cáo đầu đàn vai rộng với bộ lông muối tiêu chui ra từ bụi rậm nơi lưng chừng dốc và đánh dấu vào một cây non bên cạnh. Bác cáo bắt đầu liếm lông chải chuốt, nhưng bất thình lình ông vểnh mũi lên ngửi gió, một bàn chân vẫn áp vào tai. Pax vọt lẹ lên đồi và đâm đầu vào bụi cây rừng lùm tùm.
Nó dễ dàng nhận ra mùi của mình dù trời đã mưa nặng hạt. Chỉ dừng lại để liếm nhanh nước đọng trên lá, nó theo dấu mùi hương quay lại con đường.
Ở đó, Pax ngửi thấy mùi xe vận tải quân đội vương lại từ hôm qua, nhưng kể từ đó không có xe qua lại. Nó lại yên vị trên thân cây sồi đổ để chờ đợi.
Sớm ban mai đưa tiếng rù rì của đám côn trùng lẫn tiếng ríu rít của lũ chim thức giấc, song vẫn không một tiếng xe cộ trên đường. Mặt trời lên cao nóng nực và khô, làm bốc hơi những giọt nước mưa đọng lại trên mọi chồi xanh nõn.
Giờ thì Pax ý thức được cơn đói, nhưng cơn khát còn ghê gớm hơn - nó đã không uống gì kể từ khi ra khỏi nhà chủ. Cổ họng nó khô như rang và lưỡi thì sưng vù lên. Cứ khi nào đổi tư thế là nó lại cảm thấy chóng mặt. Một trăm lần mùi hương mỏng tang của nước trôi ngang qua, nhưng nó chưa nghĩ đến việc rời bỏ vị trí bởi đã tự hứa với lòng mình. Những người chủ của nó sẽ quay lại đây. Nó bấu chắc vào
thân cây và hóng theo tiếng xe trên con đường lặng như tờ. Một giờ đồng hồ trôi qua, và rồi thêm một giờ nữa. Pax lơ mơ ngủ và tỉnh giấc và sực nhớ, mơ màng và bừng tỉnh và sực nhớ. Và rồi cơn gió mang theo tin tức rằng thứ gì đó đang đến.
Một con cáo. Là bác cáo nó đã trông thấy trước đó, người mà Cáu Kỉnh đã răn đe. Dáng đi bác cáo khoan thai, không biểu lộ sự chần chừ hay lãng phí sức lực. Bộ lông bạc phểch ôm lấy vóc dáng cho thấy ông đã có tuổi. Khi ông đến gần, Pax thấy ngay cả đôi mắt ông cũng bạc màu thời gian.
Sau màn chào hỏi bằng mùi hương, bác Xám nằm xuống thảm cỏ bên thân cây đổ. Ông không có động thái trèo lên, ra chiều không có ý dọa dẫm. Nhóc có mùi người. Ta cũng từng sống với họ. Họ đang trên đường tới.
Một tia hy vọng bất chợt làm Pax khỏe lại. Bác có thấy cậu chủ của cháu không ạ? Nói rồi nó miêu tả Peter.
Nhưng bác Xám tuyệt đối không thấy con người nào kể từ khi sống cùng họ thuở thiếu thời, và đó là ở một nơi khác - một vùng đất khô cằn sỏi đá với những mùa đông dài đằng đẵng và mặt trời thấp tịt, xa lắm. Những con người đang đến từ đằng Tây. Họ mang theo chiến tranh. Đám quạ nhìn thấy họ không tả lại bất cứ thanh niên nào.
Tin này làm Pax chùn lòng. Nó chao đảo và mém tuột khỏi thân cây. Nhóc cần uống nước. Theo ta.
Pax ngần ngừ. Chủ nó có thể đến bất cứ lúc nào. Nhưng nó cần uống nước gấp. Có gần không ạ? Cháu có thể nghe ngóng con đường từ chỗ dòng nước này không?
Có. Dòng suối chảy bên dưới con đường. Theo ta.
Phong thái của bác Xám - đĩnh đạc nhưng không sừng sộ - làm Pax bình tâm. Nó nhảy xuống và đi theo.
Chẳng mấy mà chúng đến một vết nứt sâu trên mặt đất, từ đó tỏa ra mùi của nước và của những thứ sinh sôi trong bùn lầy màu mỡ. Pax ghé mắt qua gờ và thấy một dòng suối óng ánh bạc, rải rác đá
đen, lấp loáng giữa những cây sậy xanh mướt và những đóa hoa tím lịm. Bác xám bắt đầu bước xuống một cách cẩn trọng. Bị mê hoặc bởi mùi nước, Pax hấp tấp chạy vượt cả bác, thẳng tiến tới vết nứt. Giữa chừng, nó mất đà và cứ thế trượt đến hết đường.
Khi đứng thẳng dậy, nó nhìn không chớp mắt. Dòng nước cuồn cuộn trước mặt như thể tuôn ra từ một vòi nước kếch xù, lớn hơn nhiều chiếc vòi đổ nước vào cái bồn tắm màu trắng của cậu chủ. Nó nhúng cả đầu xuống. Nước mát lạnh và có vị đồng đỏ lẫn thông với rong rêu. Nước chảy ồ ạt vào miệng như đầy sinh lực. Nước làm ê buốt răng và thấm đẫm mồm miệng và cổ họng nó. Nó uống lấy uống để, và không tránh đi cho tới khi bụng đã căng tròn.
Bác Xám cũng xuống uống cùng, và rồi rủ Pax cùng nghỉ ngơi.
Pax nghiêng đầu chăm chú lắng nghe con đường vẫn vắng lặng phía trên ống thoát nước. Cháu phải có mặt ở đường khi chủ cháu đến tìm mới được.
Bác Xám nằm ườn ra đất duỗi chân duỗi cẳng. Hôm qua đường đó đã bị đám người mắc bệnh chiến tranh phong tỏa rồi.
Pax nhớ lại những chiếc xe phóng qua ngày hôm trước, những chiếc xe có mùi giống bộ quần áo mới của cha cậu chủ. Quả là từ lúc ấy con đường không được sử dụng nữa. Nhưng chẳng hề gì. Cậu chủ sẽ quay trở lại tìm cháu ở đó.
Không. Lũ quạ đã báo tin: cấm đường.
Pax nhảy trên mấy phiến đá, đuôi tung tẩy trong lúc đầu giải quyết vấn đề nan giải, câu trả lời là: Cháu sẽ tìm đến cậu chủ ở nhà của chúng cháu.
Nhà cháu ở đâu?
Pax quay tròn một vòng cho chắc ăn, mặc dù không nghi ngờ gì nữa: nó cảm nhận được lực hút mãnh liệt của tổ ấm của nó chỉ từ duy nhất một hướng. Phía Nam.
Bác Xám không có vẻ gì là bất ngờ. Ở đó có những bầy người đông đúc. Khi đám người bệnh-chiến đến đấy, gia đình ta sẽ phải dời tới sát những bầy đó hoặc du hành về phương Bắc, vào trong núi. Kể ta nghe về những con người chốn ấy. Sống cạnh họ ra sao.
Một lần nữa, cách ứng xử của bác cáo già làm Pax yên tâm phần nào. Nó quay lại và ngồi xuống. Cháu đã trông thấy nhiều người từ xa, nhưng chỉ biết có hai người thôi.
Họ có giả tạo, giống những kẻ ta quen không?
Pax không hiểu.
Bác Xám ngồi dậy, kích động, và thuật lại cách hành xử ông đã mắt thấy tai nghe: Một kẻ khước từ người láng giềng đói khổ, ra cái vẻ chạn bếp của ông ta chẳng có chút đồ ăn nào trong khi nó đầy ăm ắp. Một mụ làm bộ làm tịch dửng dưng trước người bạn đời bà ta đã chọn. Một gã nhử một chú cừu khỏi bầy bằng giọng nói dịu dàng và rồi mổ thịt nó. Mấy người của cháu không làm những điều này sao?
Ngay lập tức Pax liền nghĩ tới lúc cha cậu bé lôi nó ra khỏi xe, giọng ông ra cái điều áy náy mà Pax biết là điêu toa bởi thứ mùi ẩn dưới bung tỏa ra từ ông.
Nó quay lại dòng suối. Trào lên dăm tảng đá, dòng chảy tách làm đôi và rồi hợp lại thành một dòng chất lỏng như một bím tóc màu bạc. Pax chợt nhớ ra một ký ức nọ.
Không lâu sau khi cậu chủ cứu nó, khi nó vẫn còn là một chú cáo con ngổ ngáo, có một người lạ mặt đến gõ cửa. Từ bên dưới bàn uống nước Pax quan sát cha cậu bé chào hỏi người phụ nữ với bím tóc bạc buông dài một bên vai. Ông cười nhăn răng, Pax đã hiểu được là điệu cười này mang ý nghĩa, Chào mừng; rất vui được gặp bạn; tôi không có ý gây hại đâu. Nhưng ẩn dưới nụ cười ấy, toàn thân người đàn ông cứng ngắc vì giận dữ và lo sợ.
Pax đã bối rối trước nỗi sự này - người phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn chẳng toát ra vẻ gì ngoài lòng tốt và sự quan tâm. Bà luôn miệng lặp lại từ mà Pax đã sớm liên kết với cậu chủ - “Peter” - với giọng điệu van nài. Nụ cười nhăn răng hồ hởi của người đàn ông vẫn không xê dịch, nhưng căn phòng tràn ngập thứ mùi dối trá đắng ngắt khi ông đáp lời bà ấy. Ngực ông ưỡn lên hăm dọa khi đóng sầm cánh cửa trước mặt bà.
Pax quay sang bác cáo già. Cháu thấy rồi. Không phải cậu chủ của cháu, không đời nào. Nhưng cha cậu ấy thì đúng ạ.
Bác cáo như già hẳn đi khi tiếp nhận thông tin này. Ông gắng gượng ngồi dậy. Bọn họ vẫn vô tâm à? Họ rất vô tâm khi ta sống cùng họ.
Vô tâm ư?
Họ cày xới một mảnh ruộng và họ tàn sát bầy chuột sống ở đó mà không báo trước. Họ xây đập ngăn nước ở một dòng sông và để mặc lũ cá phơi ngửa bụng. Họ vẫn vô tâm như thế sao?
Một lần nọ, khi cha Peter chuẩn bị đốn cây, Pax đã thấy Peter trèo lên hạ tổ chim chuyển sang một cái cây khác. Trong những ngày lạnh giá, Peter mang rơm tươi đến chuồng của Pax. Trước khi chính mình ăn, cậu luôn chắc chắn rằng Pax đã có thức ăn và đồ uống. Cậu chủ của cháu không vô tâm.
Bác cáo già có vẻ nhẹ nhõm trước tin này. Nhưng chỉ trong giây lát mà thôi. Khi chiến tranh đến, họ sẽ vô tâm thôi.
Chiến tranh là gì ạ?
Bác Xám ngập ngừng, có một thứ dịch bệnh mà đôi khi chính loài cáo cũng mắc phải. Nó khiến chúng buông bỏ lề lối của mình, tấn công kẻ lạ. Chiến tranh là một căn bệnh của loài người như thế đấy.
Pax nhảy dựng lên. Những kẻ bệnh-chiến ấy - liệu họ có tấn công cậu chủ của cháu không?
Chiến tranh xảy đến với vùng đất nơi ta sống cùng loài người. Tất thảy mọi thứ đều bị hủy hoại. Hỏa hoạn khắp nơi. Thương vong vô kể, nhưng không chỉ những kẻ bệnh-chiến, những con đực trưởng
thành, chết đâu. Trẻ con, những bà mẹ, những người già của chính loài người nữa. Tất cả các loài vật. Những người đàn ông mắc bệnh gieo rắc nhiễu nhương lên mọi thứ chắn đường họ đi.
Một thứ giống hệt đang tới ạ?
Bác Xám ngẩng đầu lên hú một tràng nhuốm bầu không khí trong một màu thê lương. Phía Tây tính từ đây, nơi sự đã rồi, nơi con người chém giết lẫn nhau, nơi ấy đã hoàn toàn tan hoang. Lũ quạ đưa tin. Những dòng sông cạn đáy. Mặt đất chảy sém trần trụi; đến tầm xuân cũng chẳng mọc nổi. Thỏ và rắn, gà lôi và chuột… mọi sinh vật đều chết thảm.
Pax nhảy phóc lên lối đi. Nó sẽ tìm thấy cậu chủ. Trước khi cuộc chiến này ập tới.
Bác Xám đi theo. Gượm nào. Ta sẽ đi cùng cháu về hướng Nam để tìm một mái ấm mới. Trước tiên theo ta về đã.
Về lại đồng cỏ ạ? Không đâu. Cô cáo đã bảo cháu liệu cái thần hồn đừng có mà quay lại.
Con bé sẽ chẳng đời nào hoan nghênh cháu, vì cháu đã từng sống với con người.
Lúc đó vụt qua trước mắt Pax một cảnh tượng nó đã chứng kiến giữa cô cáo và em trai: gió lạnh thét gào; một cặp vợ chồng nhà cáo tột cùng quằn quại, một cái lồng với móng vuốt bằng thép; máu nhuộm đỏ tuyết trắng. Và rồi, rất đột ngột, chẳng gì cả.
Nhưng con bé không độc đoán đâu. Theo ta về. Chúng ta sẽ nghỉ ngơi và lót dạ, rồi lên đường vào tối nay.
8
Âm thanh Peter yêu thích nhất trên đời - tiếng trái bóng bằng da đập bôm bốp vào lớp da của găng tay - trong mơ chân thực đến nỗi mở mắt rồi cậu vẫn mỉm cười, và rồi thảng thốt kêu lên.
Một người phụ nữ đứng chắn trước mặt cậu, tung quả bóng chày vào găng tay. Bà mặc một bộ đồ liền thân vá chằng đụp và buộc những chiếc khăn rằn bạc màu vào quai áo, mái tóc bà bù xù như chôm chôm và lắc lư khi bà nghiêng đầu để săm soi cậu.
Cậu cuống quýt lùi lại dọc mặt gỗ lót sàn, một lần nữa kêu thét lên, lần này là bởi chân phải đau nhói. Cơn đau trở lại trong nháy mắt. Càng lúc càng hoảng, cậu nhìn quanh tìm ba lô. Nó kia rồi, sau lưng người phụ nữ, đồ đạc bên trong vương vãi khắp sàn nhà.
Bà ta bước tới gần hơn và đập quả bóng vào găng tay mạnh hơn một chút.
Bóng của cậu, và găng tay của cậu, Peter nhận ra. Quả bóng vốn ở trong ba lô. Chiếc găng thì cậu đang gối đầu lên. Cậu nói cứng. “Này! Đó là đồ của tôi! Bà làm gì ở đây?”
Nghe thế, người phụ nữ ngửa đầu ra sau và khằng khặc một tiếng lơ lớ tiếng cười và tiếng khịt mũi. Bà ta quẳng trái bóng lẫn cái găng đi và cúi xuống nhìn cậu, một tay nắm cụm lông vũ buộc ở sợi dây da thật đeo quanh cổ.
Ở cự li gần thế này, Peter có thể thấy bà ta không già như cậu tưởng. Thế nào thì cũng không lớn tuổi hơn cha cậu lắm. Một vệt tóc bạc nổi bần bật trên mái tóc, nhưng da dẻ bà vẫn mịn màng. Khi bà nheo mắt và búng ngón tay tanh tách vào mặt cậu, cậu chợt ngộ ra có khi người này bị mất trí cũng nên.
“Không. Không, không, không. Cậu đột nhập vào nhà kho của ta, nên câu ‘Làm gì ở đây’ phải để ta hỏi mới đúng.”
Peter giật lùi ra sau. Mất trí hay không, người phụ nữ đứng trước mặt cậu có cả một bức tường gắn đầy rìu và lưỡi hái sau lưng, còn cậu thì đang thiếu mất một chân để tẩu thoát. “Thôi, được rồi. Tối qua chân cháu bị thương. Cháu đi ngang qua nhà kho của bác, và cháu cần một chỗ để ở, nên là… Coi này, cháu sẽ đi.”
“Không vội thế được. Ý cậu là sao, đi ngang qua nhà kho của ta? Đây là khu đất riêng và ta đang ở giữa chốn đồng không mông quạnh.”
Người phụ nữ đứng thẳng người, và Peter nhích thêm ra sau.
“Cháu… cháu đi đường tắt về nhà từ…” Buổi tập cậu tới ngày hôm trước vụt qua trước mắt. Cậu hất đầu về phía quả bóng và găng tay. “Từ một buổi tập đánh bóng chày.”
“Cậu băng qua đất của ta để về nhà từ buổi tập đánh bóng chày ấy à? Thế thì điều đầu tiên mà ta đang thắc mắc chính là sao cậu chẳng có lấy một cái gậy.” Bà vung tay ra chỗ đồ đạc của cậu. “Tại sao cậu mang theo một cuộn băng dính, túi rác, và một chiếc lắc tay có mặt vòng, quần áo, đồ ăn, rồi nước uống… mà lại không có gậy đánh bóng. Hửm, nhóc con?”
Cách bà nói “nhóc con” - ngọt xớt và kéo dài ra thành hai âm tiết - làm cậu nhận ra giọng bà có lẫn chút âm sắc. Thoáng thôi, như thể đâu đó trong tuổi thơ bà, mọi người xung quanh nói thứ ngôn ngữ ngân nga tựa tiếng hát.
“À thì, cháu… cháu để lại rồi. vác theo một cây gậy đánh bóng thì nặng lắm.”
Người phụ nữ lại lắc đầu, và lần này bà tỏ vẻ chán ghét ra mặt. Bà kéo phắt ống quần bên trái của bộ đồ liền thân lên. Khoảng dưới đâu gối, chân bà là một thanh gỗ sần. Bà giậm mạnh chân xuống
cạnh Peter. “Đây, cái cẳng này đây. Ôi chà, cái cẳng này nặng phết, nhóc ạ. Tâm gỗ thông đặc ruột. Nhưng ta vẫn vác nó loanh quanh đấy, phỏng.”
Người phụ nữ ngó xuống và có vẻ phát hiện thứ gì đó mình không thích cho lắm. Bà rút một con dao từ thắt lưng và, với một cái vẩy tay, gọt đi một mẩu nhỏ ngay trên chỗ đáng lý phải là cổ chân. Đoạn bà ngồi thẳng dậy để lại đối mặt với Peter, con dao chĩa thẳng vào cậu. “Nên là thử một lần nữa nhé, vì giờ ta rất là tò mò đây: nếu nhóc đi tập đánh bóng, thế nào mà lại không có gậy?”
Peter đưa mắt nhìn lên khuôn mặt người phụ nữ rồi lại xuống con dao. Lưỡi dao dài và mỏng sáng lóa, cong một đường đầy ác ý. Có khi bà ta điên thật, được rồi. Biết đâu còn tệ hơn. Tim đập binh binh trong lồng ngực, miệng khô khốc, nhưng cậu vẫn ráng trả lời. “Cháu không có cái nào.”
Người phụ nữ thoáng một nụ cười nửa miệng và một cái nháy mắt. “Đỡ hơn đấy. Phải, như thế còn thấy có tí thành thực. Tên cậu là gì?”
Peter nói cho bà biết.
“Thế thì, Peter Không Gậy, chân cẳng sao đây?”
Peter để mắt tới con dao trong lúc lột lớp áo nỉ khỏi bàn chân. Nhúc nhích nhẹ vậy thôi mà cũng đau điếng người. Những cơn rùng mình giày vò cậu, và lần đầu tiên cậu nhận ra mình đang rét run đến thế nào. “Trẹo chân ạ.”
Người phụ nữ quỳ xuống, cái chân gỗ choãi ra đến là kỳ cục. Peter quay đi chỗ khác.
“Không được cử động.”
Trước khi cậu kịp nhận thức chuyện đang diễn ra, người phụ nữ lách lưỡi dao lạnh vào bên trong tất cậu và bằng một thoắt gẩy tay, rạch
toang nó. Cậu mím chặt môi để không kêu lên. Bàn chân cậu tái ngắt và phù lên như một trái cà tím.
“Cứ để thế này mà đi à?”
Peter trỏ vào cành cây cạnh đó. “Cháu bẻ nó. Làm thành gậy chống.” Ngón tay cậu run run. Cậu buông thõng tay xuống.
Người phụ nữ lại gật gù và rồi khum hai bàn tay quanh gót chân cậu. “Ta sẽ vặn nó,” bà báo trước, “sẵn sàng chưa?”
“Không! Đừng đụng vào!”
Nhưng người phụ nữ đã tiến hành kiểm tra chân cậu, đoạn nói như ra lệnh. “Cựa quậy ngón cái. Giờ thì tất cả các ngón. Và bàn chân, sang hai bên.” Peter nhăn nhúm mặt mày vì đau, nhưng cậu làm theo mọi điều bà yêu cầu.
“Số cậu may đấy,” bà nói, đặt bàn chân Peter xuống tấm áo nỉ. “Gãy kín[2] xương bàn ngón số năm. Bị gãy duy nhất một chỗ gọn gàng ở xương ngón út của bàn chân.”
“May ấy ạ? Làm sao gãy xương mà lại may cho được?”
Người phụ nữ bước ra sau, phang uỳnh cái chân gỗ xuống gần tay cậu, và rồi cắm lưỡi dao vào thanh gỗ. “Ồ, ta không biết nữa… để coi… làm sao chỉ gãy đúng một cái xương lại may mắn cho được…”
“Được rồi, được rồi, cháu hiểu rồi. Cháu xin lỗi.”
Bà rút con dao ra khỏi chân và trỏ vào mặt cậu. “Cậu còn trẻ. Bó bột khoảng sáu tuần, rồi lại ngon lành ngay.”
“Sao mà bác biết được chuyện này? Bác là bác sĩ hay gì đó ạ?”
“Ta từng là lính quân y. Ở kiếp khác.” Nói rồi người phụ nữ đu người đứng dậy và ngó xuống Peter như thể đã hiểu ra. “Một kẻ bỏ trốn.”
Bà bắt tréo tay trước ngực và nghiêng đầu nhìn cậu. “Đúng chứ? Cậu bỏ nhà đi phỏng?”
“Không! Không, cháu chỉ ra ngoài… leo núi.”
Bà lấy tay bịt tai và chau mày. “Xin lỗi, chẳng nghe thấy. Máy phát hiện lời điêu toa của ta đang reo ầm lên đây. Lại lần nữa nhé: có phải cậu bỏ nhà đi đúng không?”
Peter thở hắt ra. “Nói thế thì không chính xác ạ.”
“Thế, chính xác là đêm qua cậu làm gì mà lại đi qua đất của ta cùng quần áo dư và nhu yếu phẩm, hả Peter Không Gậy?”
“Thì, cháu không bỏ nhà đi, cháu bỏ đi để về nhà.”
“Ồ, tình tiết mới đấy. Tiếp tục đi.”
Peter nhìn ra ngoài khung cửa sổ phía trên chiếc bàn thợ mộc. Rặng thông lừng lững đâm thẳng lên bầu trời sớm tinh mơ nhàn nhạt, và một bầy quạ chí chóe ỏm tỏi trên những cành cao. Giả dụ có một câu chuyện cậu có thể kể để giúp cậu thoát khỏi cái nhà kho này và lại lên đường tìm Pax, cậu sẽ kể ngay. Cậu sẽ tan biến vào ngày hôm đó, cùng với xương bàn ngón số năm bị rạn và đủ thứ. Nhưng nếu một câu chuyện như thế tồn tại, cậu chẳng tài nào nghĩ ra nó là gì. Lưng dựa vào tường, cậu sụp xuống. “Cuộc chiến. Nó đang nhắm đến thị trấn của chúng cháu. Họ sẽ chiếm đóng dòng sông. Cha cháu phải đi nghĩa vụ. Mẹ cháu mất rồi, nên chỉ còn chúng cháu thôi. Nên cha đưa cháu…”
“Cha cậu bao nhiêu tuổi?”
“Gì cơ? Ông ấy ba mươi sáu. Sao thế ạ?”
“Thế thì ông ấy không phải làm gì cả. Nếu có chế độ quân dịch, thì là dành cho những người từ mười tám đến hai mươi, vẫn còn là trẻ con, dễ tẩy não. Nên nếu như cha cậu tòng quân, là do ông ấy xung
phong. Đó là lựa chọn của ông ấy. Bắt đầu kể chuyện bằng một sự thật nhé. Luật vùng này là vậy.”
“Được thôi, hẳn rồi. Ông ấy chọn tòng quân, và cha đưa cháu đến nhà ông nội, và…”
“Và cậu không thích ở đó.”
“Không phải thế. Chuyện là… ừm, bác bỏ thứ đó ra chỗ khác được không ạ?”
Người phụ nữ nhìn xuống và có vẻ ngạc nhiên khi thấy con dao lăm lăm trong tay. “Cư xử chán quá, Vola,” bà tự quở mình. “Chúng ta quên cách đối xử với khách khứa rồi!” Nói rồi bà quăng con dao lên bàn. “Kể tiếp đi.”
“Dạ. Cháu từng có một chú cáo. Cháu có một chú cáo. Bọn cháu phóng thích nó. Bọn cháu bỏ mặc nó bên vệ đường. Cha nói đó là việc phải làm, nhưng đáng lý ra cháu không nên làm thế.”
Ngay khoảnh khắc họ lái xe đi, Peter đã cảm thấy dằn vặt bởi những điều đáng lẽ cậu nên nói với cha. Giờ thì tất cả như tuôn trào. “Cháu nuôi nó từ lúc còn tấm bé. Nó tin tưởng cháu. Làm sao mà nó biết cách sinh tồn bên ngoài được, vấn đề không phải là nó ‘chỉ là một con cáo’ - đó là cách cha gọi nó, ‘chỉ là một con cáo’ cứ như nó không đáng quý bằng một con chó hay gì đó vậy.”
“Rồi, rồi. Cậu tức quá, nên cậu trốn quách luôn.”
“Cháu không tức giận. Không hề. Chú cáo của cháu, nó trông cậy vào cháu. Cháu sẽ quay lại đón nó.”
“Chà, giờ thì không được rồi. Thay đổi kế hoạch.”
“Không, cháu phải đón nó và đưa nó về nhà.” Peter quỳ gối nhỏm dậy, nén hơi thở dốc trước cơn đau nhói lên từ bàn chân. Cậu túm
lấy cành cây và ướm thử trong vài giây, rồi lại khuỵu xuống, chỉ vậy thôi cũng mệt phờ.
“Bây giờ ấy à? Vẫn tơ tưởng sao? Cậu bỏ nó lại cách bao xa?” “Hai trăm dặm ạ. Có thể hơn,” Peter thừa nhận.
Bác Vola khịt mũi. “Giờ hai dặm cậu còn chẳng đi được. Ở ngoài đó cậu sẽ chỉ là miếng mồi cho bọn gấu chứ không hơn - đấy là nếu không ngỏm củ tỏi vì hạ thân nhiệt vào đêm đầu tiên. Cậu sẽ không thể vận động đủ để giữ ấm.”
Bà đứng tựa vào bàn thợ, quấn một chiếc khăn quanh ngón tay, và Peter có thể thấy rằng bà đang cố toan tính chuyện gì đó. Giờ trông bà không điên điên nữa, đơn giản là đang trầm tư suy nghĩ, và có lẽ lo lắng nữa. Thế rồi có vẻ như bà đã đi tới một quyết định.
“Nhất định sẽ có người đi tìm cậu. Không thể để thế được. Ta cần cậu phắn ngay. Nhưng lại không thể tống tiễn cậu đi trong tình trạng này được - lương tâm ta không cho phép. Ta sẽ băng bó cái bàn chân đó và cho cậu uống thuốc giảm đau, loại nào đó hợp pháp cho trẻ con, và rồi…”
“Cháu không phải trẻ con. Cháu sắp mười ba tuổi rồi.”
Bác Vola nhún vai. “Và rồi cậu sẽ đi khỏi đây. Có một cái ga ra không xa lắm dưới đường cao tốc. Gọi cho cha đến đón cậu.”
“Cháu không về đâu. Cháu sẽ đi đón chú cáo của cháu.”
“Trong bộ dạng này thì không. Bàn chân gãy không chịu được nặng cho đến khi xương liền - ít nhất sáu tuần. Có lẽ tới lúc đó hẵng thử lại.”
“Sáu tuần ư? Không được, như thế thì muộn mất. Chú cáo của cháu…”
“Nhớ này, nhóc, ta đây cũng biết chút đỉnh về vụ di chuyển bằng một chân đấy. Muốn đi lại trước khi xương lành, cậu sẽ phải học cách dùng vai và cánh tay để chống đỡ cơ thể. Cậu sẽ phải trở nên mạnh mẽ theo nhiều cách mới. Gần như là bất khả thi với một người lớn, chứ đừng nói đến con nít con nôi…”
“Cháu không phải con nít!”
Bác Vola đưa tay ra hiệu cậu trật tự. “Thế cho nên là bây giờ cậu sẽ quay lại và cố định xương. Nhưng trước tiên ta sẽ băng bó nó và thu xếp cho cậu thứ gì đó khá khẩm hơn cành cây kìa để đi lại cái đã.” Bác Vola đứng thẳng khỏi bàn thợ và ra khỏi nhà kho.
Peter nhìn bà khuất sau lối đi hai bên vệ đường là rặng thông, bước chân chuệch choạc trông đến là đau đớn. Đoạn cậu lồm cồm bò trên sàn và cất lại đồ vào ba lô. Cậu tự lôi mình lên chiếc bàn thợ. Cố quá đâm ra chóng mặt, cậu phải bấu chặt vào bàn gỗ đến khi đầu óc tỉnh táo trở lại. Bàn chân đau kinh khủng khiếp khi đứng thẳng, và mới chớm thử cậu đã hiểu mình sẽ không thể như thế mà đi được. Dù sao thì bác Vola sẽ băng nó lại. Lúc ấy cậu sẽ đi được, cậu phải đi được.
Cậu đu người lên bàn ngồi đợi.
Đêm qua cậu không nhìn được rõ nhà kho, kể cả dùng đèn pin. Giờ cậu quan sát toàn cảnh, sàn nhà được quét sạch bong, với những túi hạt giống và phân bón xếp ngay ngắn cạnh cửa ra vào. Nơi này có mùi cỏ khô tinh tươm lẫn mùi gỗ, và không có mùi động vật, mặc dù đâu đó cậu có nghe cục tác tiếng gà.
Chiếc bàn thợ mộc choán hết cả bức tường đầu hồi của nhà kho. Những dụng cụ nhỏ và những mảnh gỗ được xếp thẳng thớm. Phía đối diện, đen thù lù tương phản với cánh cửa sáng màu bên cạnh, tấm vải bao bố phủ lên một đống đồ được đóng trên tường.
Một đợt rùng mình khác, lần này không phải vì lạnh. Cái đống bị che đậy kia nom như những cái đầu người. Có khối thứ hoàn toàn vô hại
có thể treo trên tường nhà kho, nhưng chúng thực sự trông giống đầu người.
Cổ họng cậu khô khốc và trống ngực đập thình thịch. Cậu đã quá ngu ngơ và bất cẩn. Có lẽ người phụ nữ mất trí này sẽ thả cậu đi - tại sao lại không kia chứ? -nhưng có khi không, cậu thấy con dao bà để lại và nắm lấy phần chuôi nhẵn thín. Bác Vola đang ở chiếu trên trong tình thế này bất kể nó có là gì đi chăng nữa, nhưng thế không có nghĩa cậu không thể tự bảo vệ mình. Cậu gài lưỡi dao vào túi quần vừa đúng lúc bà xuất hiện nơi ngưỡng cửa.
“Uống cái này.” Bà đưa cho Peter một ca nước và đặt một cái tô xuống bên cạnh. Peter liền ngửi thử cái ca.
“Rượu táo. Có một liều vỏ liễu trong đó, nên uống hết đi.” “Vỏ liễu ạ?”
“Thuốc kháng sinh trong tự nhiên.”
Peter đặt ca thuốc xuống, cậu sẽ không uống thứ thuốc từ một người đàn bà gàn dở.
“Tùy thôi.” Bác Vola cầm cái tô lên, dùng một ngón tay khuấy thứ bột nhão màu xanh lá bên trong.
“Đó là gì ạ?”
“Cao thuốc. Gồm kim sa cho chỗ bầm và liên mộc cho cái xương gãy.” Bà ra hiệu cho cậu chống chân lên bàn làm việc.
Thứ cao thuốc mát và dễ chịu khi bà bôi nó lên phần da căng nóng. Bà tháo một chiếc khăn rằn khỏi quai áo và quấn nó quanh bàn chân cậu, buộc thêm cái khăn thứ hai cho chắc chắn. Rồi bà đứng dậy, quệt tay vào quần áo. “Cậu cao bao nhiêu?”
“Một mét sáu ạ. Để làm gì ạ?”
Bác Vola không trả lời. Bà lục trong một chồng gỗ xẻ, mang vài miếng hẹp và dài lại chỗ cặp giá cưa, và bắt tay vào cưa chúng thành từng cặp dài tương xứng nhau. Mùi gỗ xẻ sạch thơm. Nhìn bà đóng đinh những miếng ván ngắn vắt ngang đầu hai miếng dài hơn, Peter mới hiểu ra. Nạng. Bà đang làm cho cậu một cặp nạng. Con dao cậu vừa lấy trộm nặng trĩu bên bắp đùi.
Trong vài phút, bác Vola đã giằng góc những miếng gỗ trên cùng và bắt vít chỗ đặt tay. Bà ướm thử đôi nạng lên người cậu, và cưa bỏ mỗi cây một phân ở cuối.
Tiếp đó bà lăn một chiếc lốp xe cũ ra từ trong xó nhà. Đoạn đi tới bàn thợ mộc. Bà lướt mắt dọc bàn một lượt. Hai má Peter nóng bừng khi bà quay sang cậu.
“Cậu lấy dao của ta rồi à?” Giọng nói của bà ngoắt cái đã đầy nanh nọc, như có thể bốc cháy bừng bừng và thiêu rụi mái nhà kho.
Peter cảm thấy hoa mắt và tim cậu lại bắt đầu đập mạnh. Cậu rút con dao ra đưa cho bà.
“Tại sao?”
Peter nuốt nước bọt đánh ực. Bao nhiêu lời lẽ ý tứ bay biến hết cả. “Tại sao?”
“Tại… Thôi được rồi, tại cháu sợ bác sẽ giết cháu.”
“Giết cậu ấy à?” Bà nhìn xoáy vào cậu. “Sao kia? Bởi ta sống trong rừng nên nghiễm nhiên ta thành kẻ sát nhân à?”
Peter nhướn một bên vai về phía bức tường đầy rẫy những thứ đồ dùng sắc lẻm.
“Dụng cụ của ta? Ta có hai mươi mẫu cây để chăm sóc. Và ta khắc gỗ. Cậu nghĩ chúng là vũ khí à?”
Peter quay đi, không biết giấu mặt vào đâu.
“Nhìn ta này, nhóc.”
Cậu quay lại.
“Có khi cậu không lầm đâu,” bà nói, ánh mắt vẫn không suy chuyển. “Có khi cậu thấy được gì đó. Có lẽ ta” - bà từ từ đưa tay lên, chụm mấy ngón tay lại trước mặt Peter, rồi đột ngột bật tung - “bùm! Nguy hiểm, như thế… không báo trước!”
Peter nao núng. “Không, cháu xin lỗi. Cháu sai rồi.”
Bác Vola lại bắn bàn tay vào mặt cậu và quay đi. Không nói không rằng bà cắt bốn sợi cao su từ cái lốp xe quấn quanh đầu nạng lẫn tay cầm và cố định lại bằng dây bện. Bà chìa cặp nạng ra.
Peter đặt dưới mỗi cánh tay một chiếc và đỡ mình đứng lên sàn. Được đứng thẳng và thăng bằng quả là khiến cậu an lòng ngay tức thời, bàn chân bị thương được băng bó đâu ra đó.
“Dồn trọng lượng vào lòng bàn tay. Nâng người; đừng cheo leo. Chống nạng, sau đó đu người qua.”
Peter toan nói lời cảm ơn, nhưng bác Vola lại ngắt lời cậu. “Cuối đường nhà ta là đường cao tốc. Đi về bên trái, và trong vòng một phần tư dặm cậu sẽ đến một trạm xăng. Tới đó thì tự lo liệu.” Bà giúp cậu khoác ba lô và rồi quay đi, nhặt một khúc gỗ và bắt đầu gọt như thể cậu không còn có mặt trong nhà kho.
Peter thử bước một bước về phía cửa. Cậu lảo đảo một chút, nhưng không đáng kể.
“Đấy là nhảy cóc,” bác Vola nói mà không thèm nhìn lên. “Ta nói đu người qua cơ mà. Giờ thì, đi khỏi đây.”
Trong giây lát Peter không nhúc nhích, cậu nào biết mình phải đi đâu, chỉ chắc như đinh đóng cột rằng không phải quay lại nhà ông nội. Bác Vola quay ra và chúi người về phía cậu, chụm mấy ngón tay lại, và một lần nữa bắn bùm vào mặt cậu. “Đi đi. Khi còn an toàn.”
9
Tiếp cận đồng cỏ từ cánh rừng phía trên, bác Xám đột nhiên khựng lại, mũi nghểnh lên trời. Lại nữa. Ông hếch mõm đế kiểm tra mùi cẩn thận hơn. Nặng mùi hơn.
Pax, vốn đã tần ngần, trở nên căng thẳng.
Bác Xám vội vã đi về phía bìa rừng. Một kẻ độc hành đang thách thức ta. Gã muốn địa bàn này, tuy nhiên sự có mặt của gã lại có lợi cho cô cáo trẻ - mùa đông này con bé sẽ chọn bạn đời.
Pax theo sau và quan sát quang cảnh phía dưới. ‘ Bốn con cáo tản mát trên cánh đồng, Cáu Kỉnh và Còi Gí đứng bên nhau, những cặp tai chóp đen dỏng ra trước về phía hai con cáo còn lại một cách đầy thận trọng, chúng đang đối đầu nhau trên gờ đá, lưng chừng đường đi xuống. Một trong số đó là một bác cáo gái, lông sậm hơn Cáu Kỉnh và đang bụng mang dạ chửa. Còn lại là một con đực to con với bộ lông hung thô ráp. Lông lưng lông cổ của gã dựng đứng như muốn gây sự và một bên tai trái bị rách.
Bác Xám cất tiếng sủa để thông báo sự hiện diện của mình. Kẻ thách thức nhảy khỏi gờ đá, một vệt máu bắn tóe ra từ tai, và phóng như bay xuống đồng.
Bác Xám đi xuống đồi, Pax bám gót. Khi bác Xám đi ngang Cáu Kỉnh và Còi Gí, chỉ sự hiện diện của bác thôi dường như cũng đủ làm cho họ bình tĩnh lại, như một bàn tay vô hình vỗ về sau lưng. Ngay khi nó lướt qua, Còi Gí nhảy nhót thích thú vì nhìn thấy Pax, nhưng Cáu Kỉnh lại cong cớn ngấm nguýt.
Pax hối hả theo sau bác Xám. Khi bác Xám leo lên gờ đá bên cạnh vợ mình, Pax ngồi bên dưới, giữ kẽ. Vợ bác Xám âu yếm chào đón ông. Đoạn bà chia sẻ tin tức. Cơn gió sáng nay đến từ phía Tây.
Mang theo mùi lửa. Chúng ta phải mau chóng rời đi. Bà nhìn Pax với vẻ đề phòng. Anh chàng lạ mặt có mùi con người.
Cáu Kỉnh và Còi Gí ghé lại gần hơn, vểnh tai lên nghe bác Xám trả lời. Thằng bé đang tìm về với những người chủ nó sống cùng ở phía Nam. Anh sẽ đi cùng nó kiếm một nơi phù hợp để chuyển đến. Thằng bé và anh sẽ nghỉ ngơi, và rời đi vào đêm nay.
Phía sau nó, Cáu Kỉnh lại cấm cảu và Pax cảm thấy nôn nóng muốn chạy ngay đi. Cậu chủ - nó chỉ muốn tìm thấy cậu chủ. Nhưng bản năng mách bảo rằng nó cần nghỉ ngơi và lót dạ trước đã. Nó ra hiệu đồng tình, và rồi bác Xám cùng vợ lặng lẽ lẩn vào đồng cỏ xanh.
Còi Gí nhảy lại và ngã nhào vào người Pax. Nó nhả chú lính đồ chơi trong miệng xuống, rủ Pax chơi cùng. Cáu Kỉnh nhảy vào giữa cả hai và gạt bay món đồ chơi đi. Con người. Nhớ lấy mối hiểm họa.
Còi Gí nhặt lại món đồ và nhe răng chìa ra khoe, nhơn nhơn.
Pax nhận thấy rằng Còi Gí giờ đang gặp rắc rối nhiều hơn trước, và rằng nó chính là nguyên nhân. Nó thường có cảm giác như thế với cậu chủ và cha cậu, và một trong những kế sách của nó là biến khỏi tầm mắt nếu điều đó bảo vệ cậu bé khỏi cơn thịnh nộ của người đàn ông. Nó lùi lại, nhưng Cáu Kỉnh vẫn chưa hài lòng.
Tránh xa tên hôi rình mùi người ra, cô nàng cảnh báo em trai. Nhớ lấy mối hiểm họa.
Pax tiến lên một bước. Chủ của tôi không nguy hiểm.
Còi Gí có vẻ hốt hoảng bởi điều này, như thể Pax vừa đưa ra một lời thách đấu. Thằng nhóc vọt lên đồi về cửa hang, nhưng chị gái nó còn nhanh chán hơn. Cô nàng chặn đứng nó, và lúc nó cố lỉnh đi hướng khác, cô dằn nó lại bằng bàn chân nặng trịch cho tới khi nó nằm im đầu hàng.
Mọi con người đều nguy hiểm…
Lông Pax dựng đứng rùng mình trước cảnh tượng Cáu Kỉnh vừa gợi lại: gió cuốn, buốt giá và gào thét và nặng nề trước bão tuyết tràn về. Pax nhận ra luồng gió ấy - câu chuyện cô sắp kể sau đây sẽ kết thúc bằng máu lấm lem trên nền tuyết và những cặp hàm thép sắc lạnh.
Cáu Kỉnh nhe nanh với Pax và rồi mở lời.
10
Tới bức tường nơi cậu đã trông thấy đàn hươu, Peter dừng chân.
Chưa chi đã thấy máu me - cậu vấp té và một mảnh đá lởm chởm làm màng da mỏng ở gốc ngón tay cái rách toác ra - và mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mới được vài phút mà hai cánh tay cậu đã lẩy bẩy vì phải gồng lên đỡ lấy sức nặng cơ thể, lòng bàn tay đã trầy da ở chỗ tay vịn cao su, và cơn đau từng hồi nơi bàn chân phải như sấm dậy, nhưng cái bất ổn chẳng phải bất kỳ điều gì trong số đó. Ngay tới viễn cảnh phải quay lại ngôi nhà u ám của ông nội cũng không.
Cậu đang đi sai hướng.
Cậu vòng lại. Cậu đâm nạng xuống đất và đu người, đâm và đu, cho đến khi đứng ở cửa nhà kho của bác Vola lần nữa. Cậu đứng thẳng lưng. “Không.”
Bác Vola giật bắn mình ngước lên. Bà ném cho cậu một cái quắc mắt cảnh cáo, nhưng trên nét mặt bà Peter lại thoáng thấy một điều khác: nỗi sợ.
“Cháu sẽ không về đâu,” cậu nói, thêm phần quả quyết. “Cho dù bác có giúp cháu hay không, cháu cũng sẽ đi tìm chú cáo của cháu.”
“Giúp cậu ấy à?”
Peter đi tới bàn thợ và ngồi phắt lên. “Dạy cháu đi. Những điều bác nói về dùng cánh tay để di chuyển, về việc trở nên mạnh mẽ. Bác đã học được cách đi lại bằng một chân - hãy chỉ cho cháu. Bác từng là lính quân y. Hãy cố định xương giùm cháu. Làm ơn. Cháu sẽ làm bất cứ điều gì bác sai bảo.” Cậu cầm cốc rượu táo lên và uống cạn để thể hiện lòng tin. “Sau đó cháu sẽ biến ngay. Nhưng kể cả bác không giúp cháu, cháu cũng sẽ đi tìm nó.”
Bác Vola tay chống hông và cúi đầu chằm chằm nhìn cậu. “Một con cáo đã thuần hóa, bị thả giữa nơi hoang dã? Cậu biết nó có thể đã chết rồi, đúng chứ?”
“Cháu biết. Và đó sẽ là lỗi của cháu. Nếu nó đã chết, cháu cần phải đưa nó về và chôn cất. Dù sao đi nữa, cháu cũng sẽ quay lại để tìm chú cáo của cháu và đưa nó về nhà.”
Bác Vola săm soi Peter như thể mới lần đầu gặp. “Thế là cái nào đây? Cậu quay lại để về nhà hay vì con thú cưng của cậu?”
“Chúng là một,” Peter đáp, câu trả lời đột ngột và chắc nịch, mặc dù nó làm cậu bất ngờ quá.
“Và cậu sẽ làm điều này bất chấp có người cấm cản? Vì đó là điều nên làm, sâu nơi tâm khảm?” Bác Vola nắm tay lại thành nắm đấm và đập lên ngực. “Tấm khảm của cậu. Phải vậy không?”
Peter chờ một lát trước khi đáp lời, bởi người phụ nữ này - có thể bị khùng, có thể không - đã đặt câu hỏi như thể vận mệnh thế giới trông chờ cả vào nó. Nhưng giả như cậu buột miệng thốt ra thì câu trả lời sẽ vẫn như thế. Câu trả lời sẽ vẫn y nguyên giả như cậu chờ cả một đời để suy đi tính lại. Cậu đập lên ngực và cảm nhận con tim mình hẫng một nhịp. “Phải. Nói đúng ra, trong tâm khảm cháu chẳng còn biết gì khác nữa.”
Người phụ nữ gật đầu. “Chà chà, cậu mười hai tuổi rồi. Thế là đủ lớn để biết rõ bản thân mình, ta nghĩ thế. Ta sẽ không đùa nữa. Thôi được rồi.”
“Bác sẽ giúp cháu ạ?”
“Ta sẽ giúp cậu.” Bác Vola chìa một bàn tay ra bắt. “Với ba điều kiện…”
11
Em trai tôi ra đời khi mẹ đẻ lứa thứ hai. Sinh non. Năm ngoái, mùa xuân tới muộn. Tuyết rơi mà chẳng tan; mặt đất bên dưới còn đông cứng. Tôi sống gần đó; tôi đỡ đần việc đi săn. Suốt ngày dài cha mẹ và tôi đi kiếm ăn, vì tụi nhỏ lúc nào cũng đói bụng. Nhưng chẳng bao giờ là đủ cả.
Hai đứa cùng lứa của thằng bé chết trong cùng một ngày. Nông trại, mẹ chúng tôi giục giã. Ở nông trại của con người, lúc nào cũng đầy nhóc những con chuột béo mẫm trong nhà kho ấm áp. Ở nông trại của con người, có trứng trong chuồng gà.
Cha chúng tôi không dám liều một phen.
Khi đứa thứ ba yếu đến nỗi không gượng dậy nổi, mẹ bất chấp cả ông.
Còi Gí ngẩng đầu lên và đưa ánh mắt van nài nhìn Cáu Kỉnh.
Cáu Kỉnh lờ đi. Bà dẫn theo đứa cứng cáp nhất trong lứa mới - em gái tôi - và tôi đến nông trại của con người.
Còi Gí xích lại gần hơn và dụi dụi mũi vào vai Pax. Ngay tức thì nàng cáo tát vào má nó, mặc dù Pax để ý cô không dùng móng vuốt. Còi Gí ngã ra đất.
Đất xung quanh nhà kho nạo sạch tuyết bởi nhiều dấu bàn chân, động vật lẫn con người. Không khí sặc mùi bọn gặm nhấm. Mẹ chúng tôi đi về phía một lỗ hổng trên mấy tấm vấn gỗ gần móng nhà, còn chúng tôi cách đằng sau vài sải đuôi. Ngay trước khi bà tới nơi, những cặp hàm thép nhanh như cắt bật lên từ lòng đất tới độ không khí phát ra tiếng tanh tách. Mẹ chúng tôi thét lên. Cái kẹp tóm được chân trước của bà. Bà càng giãy giụa, thứ kim loại càng
nghiến sấu. Bà bắt đầu cắn vào chân để gỡ nó ra. Mỗi lần chúng tôi cố lại gần là bà lại quát chúng tôi tránh đi chỗ khác.
Cha chúng tôi xuất hiện. Ông theo dấu chúng tôi. Ông lùa em gái và tôi về chỗ bụi rậm và yêu cầu chúng tôi ở yên đó. Và rồi ông chạy đi giúp mẹ.
Cảnh tượng cô truyền đạt lại là cảnh hai vợ chồng nhà cáo, gắn kết bởi mối tình già và nỗi khiếp sợ chưa từng trải qua, thất đảm tới nỗi con ngươi họ lộn ngược vào hốc mắt, sống động đến mức Pax có thể ngửi thấy mùi nó sắc lẻm.
Còi Gí bắt đầu ư ử, âm thanh đáng thương làm Pax những muốn vỗ về, song Cáu Kỉnh đe nó tránh xa ra.
Lúc đó một con người đi tới, cùng một cây gậy. Cả cha và mẹ gào lên thất thanh bảo chúng tôi chạy về nhà. Chúng tôi ở lại. Chúng tôi thấy hết. Người đó vung gậy lên, và trước mắt chúng tôi mẹ và cha vỡ toang thành máu me và lông lá và xương xẩu nát vụn be bét trên nền tuyết.
Còi Gí rên rỉ và lại lùi về phía hang, và một lần nữa Cáu Kỉnh ngăn nó lại.
Em gái và tôi không thể để mặc xác của cha mẹ như thế. Màn đêm buông xuống và ngày mới ló rạng, và chúng tôi vẫn trốn lì đằng sau một đụn gỗ bên hông nhà kho. Sau cùng chúng tôi lên đường về nhà, nhưng đêm đó trời lại đổ tuyết. Tuyết làm mờ nhòa mọi âm thanh và mùi hương. Lạc lối, chúng tôi co quắp bên dưới một đống cành thông, và tôi cuộn mình quanh người em gái, con bé nhỏ hơn rất nhiều. Sáng hôm sau, con bé chết. Khi tuyết ngừng rơi, tôi nhận thấy hai đứa đã trú bên dưới rừng thông bát ngát trên đỉnh đồi. Nhà đã ở trong tầm mắt.
Hình ảnh cô thuật lại lúc đó - thi thể đông cứng của em gái dưới chân rừng thông hùng vĩ - dường như làm cô cạn sức. Sao ta lại không có gia đình, Em trai?
Còi Gí quay sang Pax. Tại con người, mà ta không có gia đình. Cáu Kỉnh hướng cặp mắt ánh kim về phía Pax, thách nó cãi lại.
Nếu có thể, nó sẽ làm cô hiểu thứ lòng tốt khi mỗi ngày được sống cùng cậu chủ. Nhưng mối căm thù cô dành cho loài người lại sâu đậm và hợp tình hợp lý. Thay vào đó, nó chìa má ra đầy thấu cảm. Cáu Kỉnh quay ngoắt đi và ra lệnh cho em trai vào hang.
12
Cậu định vào nhà, hay để ta phải giữ cửa cho ruồi đây?”
Peter thả ba lô xuống, cậu cân bằng lại trên cặp nạng và nhìn đăm đăm vào căn cabin gỗ. “Những cái cây này được trồng ở đây.”
Đó chẳng phải là một câu hỏi, song bác Vola vẫn gật đầu và chỉ lên trên đồi. “Cây bách tùng. Từ trên đỉnh núi Mason. Mô hình Lincoln Logs[3] - có phải cậu đang nghĩ thế không?”
“Đại loại thế ạ.” Nhưng không phải vậy. Peter đưa tay ra sờ vào một trong những khối gỗ. Cảm giác sẽ ra sao khi tạo nên một thứ thật… thật hệ trọng đến vậy? Đốn hạ cây gỗ và nhìn chúng ngã khỏi bầu trời xanh trong vắt và lăn chúng xuống tới khu đất trống, hai bàn tay nhớp nháp nhựa cây hăng hắc, và rồi nâng chúng vào đúng chỗ, tất cả được đánh dấu và chồng chất lên nhau - phải, như những đồ chơi ưa thích của cậu ở trường mẫu giáo, một bộ đồ chơi cũ trong một chiếc hộp bìa cứng - và kết cục là một mái nhà. “Bác xây nó ạ?”
“Không. Trước cả thời của ta kìa. Giờ thì, vào đi. Ta không có cả ngày đâu.”
Peter vẫn không nhúc nhích. “Những điều kiện là gì ạ? Bác nói sẽ cho cháu biết khi ta tới đây.”
Bác Vola thở dài và lại bước xuống bậc tam cấp bằng một phiến đá hoa cương, buông cánh cửa lưới đánh sập. Bà cầm lên một lọ hạt, và một bầy chim chóc liền tíu tít sà xuống từ những ngọn cây vây lấy bà. Bà đổ đầy máng thức ăn treo trên rầm nhà trong góc trước khi quay sang đáp lời cậu. “Thứ nhất: ta không muốn bất cứ ai lảng vảng quanh đây. Ta tự lực cánh sinh là có lý do cả. Cậu biên thư về cho ông nội và nói với ông ấy cái gì cũng được để chắc chắn rằng không một ai bén mảng tới đây. Thêm nữa, công bằng mà nói thì
cậu nên cho gia đình biết mình không chết gí trong một cái mương đâu đó.”
Peter quýnh quáng lùi ra sau đến nỗi suýt thì lộn nhào. Cơn đau mà cử động đó gây ra đang ran lên, nhưng cậu cắn môi chịu. “Không được, ông sẽ đến bắt cháu mất. Không.”
“Điều kiện thứ nhất. Không kỳ kèo thương lượng.” Bà vốc nắm hạt trong lọ và chìa lòng bàn tay ra. Một chú chim bạc má bỏ máng thức ăn và đậu trên đầu ngón tay bà. Nó mổ hạt, và khi hết, bà tung nó bay lên trời. Bà quay lại với Peter. “Thứ hai: cậu sẽ nói cho ta biết vì sao cậu lại mang theo chiếc lắc tay đó.”
Peter liếc xuống ba lô và cảm thấy tim mình quặn thắt lại để bảo bọc một thứ riêng tư đến vậy. “Tại sao ạ?”
“Bởi ta tò mò về cậu. Và người ta có thể tiết lộ rất nhiều điều về một người lính căn cứ vào những gì anh ta mang theo trong hành trang ra mặt trận.”
“Nhưng cháu không phải lính. Cháu chỉ về nhà thôi.”
“Thế à? Bởi với ta nghe có vẻ như là cậu đang đâm đầu đi tranh đấu cho một thứ gì đó nơi khói lửa đạn dược. Nhưng tùy cậu thôi - cậu không phải lính tráng gì. Điều kiện thứ hai vẫn thế: khi ta hỏi, cậu phải cho ta biết vì sao cậu mang theo chiếc lắc tay đó. Tại sao lại nhất định là thứ ấy. Sự thật - luật vùng này là vậy. Đồng ý không?”
Peter gật đầu. Bàn chân phải của cậu rần rật đau, chân trái ê ẩm vì thêm gánh nặng, và áo thì sũng mồ hôi bởi gắng sức khập khiễng một trăm thước từ nhà kho, nhưng cậu vẫn đứng vững. “Còn cái thứ ba?”
“Cậu sẽ phải giúp ta một việc. Thấy cái vẻ mặt đó rồi nhé. Đừng lo - chỉ là một dự án cần thêm người thứ hai, thế thôi. Nhưng ta chưa sẵn sàng nói cho cậu nó là gì.” Bà xách ba lô của cậu lên. “Vào
trong. Tới lúc giải thoát cậu khỏi bàn chân đó rồi. Và ta ngờ là cậu đang đói, Ngài Peter Không Gậy Không Hẳn Là Bỏ Nhà Đi ạ.”
Tự dưng bụng Peter sôi lên. Tuy nhiên cậu lưỡng lự. Cậu quay qua nhìn về những ngọn đồi, nơi mặt trời đang sáng dần thành màu xanh khói. Pax đang ở ngoài đó. Cậu vẫn còn cách quá xa.
Bác Vola xuất hiện từ đằng sau. Peter cảm nhận bà toan đưa tay về phía vai cậu mà rồi lại buông thõng xuống.
“Ta biết cậu đang nghĩ gì,” bà nói. “Nhưng cậu vẫn chưa khỏe hẳn để đi đâu.”
Phía bên trong, cabin sáng sủa và thoang thoảng mùi khói. Bác Vola gõ lên chiếc bàn gỗ thông, và Peter ngồi xuống. Bà đắp một tấm chăn lên vai cậu, rồi đi và quay lại với một túi ni lông đựng đầy đá viên. Bà đặt chân cậu lên một cái ghế và chườm túi đá lên. Lấy một chiếc khăn, bà lau sạch máu trên tay cậu. Cuối cùng, bà đưa cho cậu một cái thớt với một ổ bánh mì và một con dao đặt trên.
Peter đặt nó xuống bàn. “Sẽ mất bao lâu ạ?”
“Phụ thuộc vào cậu.” Người phụ nữ chỉ vào ổ bánh. “Sao, không dùng được cả tay à? Cắt bánh ra.”
“Bao lâu ạ?”
“Cậu có thể lên đường sau khi đi được nạng trên địa hình khấp khểnh đó tám tiếng một ngày. Hai tuần lễ, ta đoán thế. Sáu lát nhé.”
“Bác không hiểu. Nó sẽ không sống nổi mất!”
Bác Vola cúi xuống lườm Peter. Bà hất ngón cái về phía bức tường sau lưng cậu. “Số mười một.”
Peter quay lại. Một mớ lộn xộn những chiếc thẻ thông tin được dập đinh lên tường. “Dòng hải lưu vùng Vịnh sẽ chảy trôi qua cả một
chiếc ống hút, miễn là chiếc ống hút được đặt xuôi theo dòng hải lưu chứ không phải tại luồng trái chiều,[4] cậu đọc thành tiếng từ tấm thẻ nguệch ngoạc số 11. “Thế có nghĩa là sao ạ?”
“Có nghĩa là cứ để bản thân được xuôi dòng, nhóc ạ.” “Cứ để bản thân được xuôi dòng ư?”
“Tìm mà hiểu mọi thứ, và chấp nhận nó. Cậu bị gãy một bàn chân. Gãy. Giao kèo là cậu lưu lại đây cho đến khi ta nói cậu đã sẵn sàng. Ta nói rồi, lương tâm ta có giới hạn thôi. Nên đó là lựa chọn của cậu: ở đây tới khi có hiệu lệnh của ta, hoặc quay về nhà ông nội ngay bây giờ. Cậu đổi ý rồi à?”
“Không ạ, nhưng…”
“Thế thì chấp nhận đi, hửm? Giờ thì cắt lát ổ bánh mì thổ tả đó đi.”
Peter chuẩn bị cự cãi nhưng rồi đành ngậm miệng. Cậu không hề có ý định ở lại tận hai tuần, nhưng nghe lời và tỏ ra hữu dụng là nước đi an toàn nhất thời điểm này.
Cậu cắm đầu bắt tay vào cắt sáu lát bánh mì dày, đều chằn chặn trong khi bác Vola đập một khoanh bơ vào một chiếc chảo rán bằng sắt và bật bếp bên dưới đánh tách một cái. Không thèm quay lại, bà chỉ cái kệ phía trên quầy bếp. “Tự lựa lấy gì đó cho mình đi.”
Những chiếc hũ đóng nắp, xếp thành ba hàng sâu vào trong, loang loáng như một dải cầu vồng những châu báu ngọc ngà bằng chất lỏng dọc chiều dài kệ. Peter đọc những dòng chữ in hoa trên nhãn: ANH ĐÀO, MẬN, CÀ CHUA, VIỆT QUẤT, TÁO, BÍ NGÔ, LÊ, ĐẬU CÔ VE, CỦ CẢI ĐƯỜNG, ĐÀO. Những dây tỏi và ớt khô treo bên cạnh kệ.
“Bác tự trồng tất cả ạ?”
Bác Vola gật đầu, vẫn quay lưng lại với cậu.
“Hàng cây chạy dọc chỗ tường đá đang đơm bông. Đấy là cây gì ạ?” “Sát với bức tường nhất à? Cây đào.”
Cậu chỉ vào một cái hũ gần cuối. “Đào ạ,” cậu nói. “Cháu xin, thưa bác.”
Bác Vola mở một hũ và đưa cậu một cái nĩa.
“Ừm… ở trong có cành cây hay sao ấy ạ.”
Bác Vola nhón tay vào trong hũ, lủm cái que vào miệng, mút hết nước xi rô, ném cái que qua vai vào bồn rửa, và đảo mắt ngán ngẩm. “Chúa ơi. Quế đấy. Ăn đi.” Bà gom chỗ bánh mì cậu vừa cắt với một cái gật đầu thông qua cụt lủn. “Pho mát cheddar hay Thụy Điển?”
“Cheddar ạ, cháu đoán vậy.”
Bác Vola thẳng người. “Cậu đoán à, nhóc? Không biết à?”
Peter nhún vai và chọc nĩa vào một miếng đào. Nó có vị tươi sáng và vàng ruộm y như vẻ bề ngoài vậy.
Dường như bác Vola đang chuẩn bị xổ một tràng về vấn đề pho mát, nhưng rồi bà mím môi, lấy chân gỗ làm trụ xoay một vòng, và lộc cộc đi ra đằng cửa sau. Lát sau bà trở vào với một thanh pho mát, và rồi chẳng nói chẳng rằng xắn tay áo vào làm bánh kẹp. Peter nghe tiếng xì xèo khi bà ấn chúng lên mặt chảo nóng rẫy.
Cậu quan sát cabin. Không rộng, song cũng chẳng tạo cảm giác chật chội bức bối. Nắng tràn vào qua những ô cửa sổ trong suốt, nhuộm những bức tường gỗ trong ánh sáng rực rỡ màu mật ong. Hai chiếc
ghế bành kẻ sọc xanh dương đặt hai bên lò sưởi bằng đá, và một rương đựng đầy những cuốn sách đặt làm bàn ở giữa. Những chiếc thùng phuy gỗ nhỏ đặt đèn lồng, và trên xà nhà còn treo nhiều nữa.
Có những tấm hình trên mặt lò sưởi, vài bức tranh treo tường, và một giỏ len bên ghế bành. Qua cánh cửa hé mở cạnh lò sưởi, Peter thấy một góc giường, gọn ghẽ với một tấm chăn bông kẻ ca rô vàng. Một ngồi nhà bình thường đến bất thường với một người điên, nhưng vẫn thiếu gì đó. Giờ Peter mới để ý nó im ắng đến nhường nào - im lìm mới đúng, ngoại trừ tiếng chim kêu bên ngoài và bơ lốp bốp trong chảo - nhưng vẫn không đúng. Không hẳn. “Ơ này,” cậu nói khi chợt vỡ lẽ. “Bác không có điện.”
Người phụ nữ lật mấy cái bánh kẹp. “Theo như ta được biết, đó không phải là một tội ác trên đất nước này. Dù sao thì, vẫn chưa.”
Peter cố nghĩ xem cậu sẽ bỏ lỡ những gì nếu không có điện, nhưng có quá nhiều thứ để đong đếm. Cậu moi lấy miếng đào cuối cùng, chiếc nĩa gõ leng keng vào cái hũ sạch trơn. Bác Vola vẫn quay lưng vào cậu, nên cậu cầm hũ lên húp nốt những giọt xi rô cuối cùng. “Nhưng khoan. Sao mà bác làm đá được?”
“Ta có một cái tủ lạnh ngoài hàng hiên. Chạy bằng gas. Bếp lò và bình nóng lạnh cũng thế. Ta có đủ mọi thứ mình cần.” Bà đặt hai cái đĩa xanh nước biển xuống bàn. Peter chảy nước miếng trước mùi đồ ăn, nhưng cậu vẫn chờ. Bác Vola vẫn chưa xong, cậu cảm giác thế.
“Ta có nhiều hơn cả những thứ mình cần.” Bác Vola ngồi xuống. “Ở đây ta có bình yên.”
“Vì yên tĩnh quá ạ?”
“Không. Vì ta ở chính xác nơi mình nên ở, làm chính xác việc mình nên làm. Đó chính là bình yên. Ăn đi.”
Peter cắn bánh kẹp. Pho mát tràn trề nóng chảy, bánh mì áp chảo nâu giòn.
Theo thói quen cậu bẻ một góc bánh mì và định đưa tay xuống thì sực nhớ - chẳng có chú cáo nào dưới bàn cả. Cậu tự hỏi liệu Pax có
nhớ cậu nhiêu như cậu nhớ nó ngay lúc này không. “Ở ngoài này bác không cô đơn ạ?”
“Ta có gặp gỡ mọi người chứ. Bà thủ thư Bea Booker, ông Robert Johnson lái xe buýt. Ta có… Ta có gặp gỡ mọi người.” Bà đứng dậy, mang chảo rán lại, và gạt một chiếc bánh kẹp nữa vào đĩa của cậu. “Ăn đi.”
Peter ăn, nghĩ ngợi về những điều bà vừa nói về bình yên. Khi ăn xong, cậu liếm những vụn bánh bơ dính trên ngón tay. “Ý bác là sao kia, làm chính xác việc mình nên làm? Bác có công việc ạ?”
“Tất nhiên ta phải làm việc rồi! Khu vườn rộng nửa mẫu và vườn cây ăn quả thì gấp đôi. Hôm nay ta sẽ trồng đậu cô ve và đậu bắp. Có thể triển tới phần thay phớt[5] cho máy bơm giếng nữa. Ở đây lúc nào cũng có ối việc để làm.”
“Nhưng bác không đến cơ quan, kiếm ra tiền? Bác mua đồ bằng cách nào? Như là những dụng cụ trong nhà kho? Như là” - cậu vung tay khắp cabin - “tất cả đồ đạc của bác ấy ạ?”
Bác Vola bật người lên quầy bếp ngồi và rồi giơ cái chân gỗ ra và gõ nhẹ nó bằng bàn xẻng. “Mỗi tháng Tổ quốc trả ta chút tiền bán máu coi như là đổi lấy cái cẳng này.”
Nói rồi bà thả cái bàn xẻng vào bồn rửa và lắc đầu. “Một thỏa thuận thổ tả - hóa ra đối với họ cái chân ta chẳng đáng giá đến vậy. Ước gì người ta bảo trước khi cử ta đi dò mìn. Vì ta thích cái chân của mình.
Một cái chân được việc - không mấy đẹp mắt, có lẽ, nhưng hoạt động ngon nghẻ. Giúp ta chạy thoát sang thị trấn bên cạnh khi Deidre Callanan và ta đốt cháy lều chứa củi của cha nó năm lớp sáu, và đá cho Henry Valentine văng luôn nụ cười khi thằng đó định sờ mông ta vào năm sau. Ta có thể kể nữa kể mãi. Một cái chân là một cái giá phải trả rất đắt. Ngày qua ngày, từng ngày một, ta đều cầu mong có lại nó.”
“Thế sao bác không dùng cái nào đỡ…?”
Người phụ nữ lại chìa chân ra và kéo gấu quần để xem xét thanh gỗ. “Ồ, họ cho ta một cái chân giả - một tác phẩm rối rắm. Bao nhiêu lần nhìn xuống là bấy nhiêu lần ta hú hồn hú vía. Nên ta tự làm lấy một cái riêng. Nặng nề và cục mịch, nhưng ta đã gây ra những điều kinh khủng trong trận chiến. Ta cho là phải kéo lê kéo lết một vật loanh quanh là đáng đời ta lắm.”
“Bác vứt nó đi rồi ạ? Cái chân giả ấy, bác cứ thế vứt đi?” Peter không khỏi tưởng tượng vẻ thất thần trên gương mặt một vài người nhặt rác.
“Tất nhiên là không. Ta mang nó. Thi thoảng. Ngay lúc này, nó đang ở trong vườn, trên con bù nhìn. Có vẻ là cũng cho lũ quạ một phen hú vía hú hồn.”
Bà tuột khỏi quầy bếp và úp cái mũ rơm tơi tả lên đầu như thể bỗng nhớ ra khu vườn của mình. “Ta sẽ trở lại trước khi trời tối. Nhà xí ở ngay sau hai cây tuyết tùng, và có một cái bồn trong bếp. Rửa ráy đi. Hàng hiên là của cậu. Thực ra thì, cậu sẽ phải dùng chung với François. Giữ chân nhấc cao lên.”
“François là ai ạ?”
Một lần nữa điệu cười khằng khặc của bác Vola làm Peter muốn thót tim. Bà nghiêng đầu về sân sau, dẫn ra một hàng hiên được chắn lưới. “Có lẽ ngay lúc này cậu chàng đang ngủ khì ngoài đó rồi, tay trộm già chảy thây.” Bà đi đến chỗ cửa, ngó ra, và rồi gật đầu. “Lại mà xem.”
Peter nhấc mình khỏi ghế và đeo nạng. Bác Vola giữ cửa mở và hẩy tay về phía một chiếc thùng gỗ. Peter thấy một cặp mắt thâm sì xung quanh nhòm ra nhìn mình, cậu nghiêng đầu để nhìn rõ hơn, và con gấu mèo cũng vẹo đầu đáp lại.
“François Villon, đặt tên theo một trong những tên trộm nức tiếng trong lịch sử. Phiên bản gốc vừa là nhà thơ vừa là kẻ trộm, và là
một gã quyến rũ tới mức mỗi lần người ta gô cổ gã, lại có vài kẻ si mê xin xá tội cho.”
Peter mỉm cười. Cậu khom người để nhìn kỹ hơn. “Ê, chậc chậc chậc,” cậu khẽ khàng gọi, cách cậu vẫn chào Pax mỗi sáng. Con gấu mèo uể oải liếc cậu thêm một giây nữa, đoạn có vẻ quyết định cậu chẳng thú vị gì và nằm bẹp xuống nhắm mắt.
“Nó hoang dã hay được thuần hóa rồi ạ?”
Bác Vola nghe thế thì phẩy tay như thể lời cậu nói là ruồi muỗi. “Ta để mở cửa hiên. Khi nào muốn nó sẽ ghé chơi, và nó là một người bạn ổn phết. Ta cho nó ăn, nhưng chẳng cần phải thể - tự thân nó
cũng đủ béo mầm. Bọn ta đã đi đến một hiệp ước nho nhỏ về chuồng gà - nó để mấy gái yên, và thi thoảng ta làm cho nó món trứng bác. Nó là bạn đồng hành. Đó là từ phù hợp nhất.”
Bà chỉ tay lên một thanh rầm dài dọc trần nhà. “Ngày mai cậu có thể tập hít xà. Nhưng hôm nay, né cái chân ra và kê cao lên - tốt nhất là cao hơn mức tim.” Bà gật đầu về phía tủ lạnh. “Cứ túc tắc chườm đá. Ta muốn nó bớt sưng để tối nay có thể cố định xương. Cứ vài giờ pha một thìa đầy bột vỏ liễu với nước để giảm đau.”
Peter gật đầu, đoạn thả người vào một cái võng treo trên xà nhà, mệt lử.
Bác Vola toan rời đi, nhưng dừng ở cửa ra vào và quay lại săm soi cậu. Bà khoanh tay trước ngực, gương mặt có vẻ gì đó đăm chiêu khó hiểu.
“Sao ạ?”
“Thắc mắc tí,” bà nói. “Cậu đang ở ngoài hàng hiên đây. Nghĩ xem thế thì cậu là gì? Hoang dã hay thuần hóa?”
13
Khi Pax tỉnh dậy, đã là chiều muộn. Cơn quặn thắt nơi dạ dày mấy ngày qua chuyển biến xấu, và khi cố gượng dậy, nó lao đao trong giây lát, những thớ cơ run rẩy.
Nó săm soi tìm xem có vết thương nào không với một sự tò mò lạ lẫm. Một lần, nó bị ốm, cậu chủ đã tọng vào họng nó một viên thuốc. Sau đó, các giác quan của nó đờ đẫn đi và phản ứng của nó chậm lại. Lúc này nó cũng đang cảm thấy như thế.
Nó nằm phịch xuống mặt đất mát lạnh và quan sát, phía dưới, bác Xám và vợ ra khỏi chỗ trú để đánh hơi bầu không khí, đi tiểu, và rồi khởi hành tìm thức ăn. Cáu Kỉnh phóng vọt ra từ một cái hang bên
cạnh nó, chỉ nán lại để ra lệnh cho em trai ở lại, rồi cũng tất tả đi săn mồi.
Cái ngày nó chui vào trong xe cùng cậu bé, Pax đã cảm nhận được bầu không khí căng thẳng và từ chối ăn điểm tâm, nên đến giờ đã là ba ngày ròng kể từ lần cuối nó có gì bỏ bụng. Mặc dù Pax chưa từng chứng kiến cảnh chết chóc, nó hiểu rằng điều đó đang chực chầu nếu như nó không kiếm được thức ăn. Ý nghĩ này không mang chút cấp bách nào mà cứ thế lướt qua. Dầu vậy, ý nghĩ thứ hai - rằng nó phải tìm được cậu chủ và thấy cậu an toàn - thôi thúc nó đứng dậy lần nữa, ban đầu gồng sức hai chân trước rồi mới đứng thẳng trên hai chân sau.
Một lát sau đầu óc nó tỉnh táo lại. Nó lang thang qua cái hang mà Cáu Kỉnh và Còi Gí ở cùng nhau. Ở đó nó ngửi thấy thịt thú săn vùi dưới lớp đất mềm, nhưng chúng được đánh dấu bằng những mùi đe nẹt rất mạnh, nên nó không đào lên. Ra xa, vài cái thây bị gặm nham nhở nằm chỏng chơ chờ những con thú ăn xác thối cấp thấp rỉa sạch. Pax bắt đầu mò mẫm chỗ xác thối. Chỉ còn mẩu đuôi của một con chuột đầm lầy chẳng dính tí thịt nào. Quá thể khắm khú và xương xẩu kể cả với lũ quạ, lại nhung nhúc những giòi là giòi.
Pax cúi đầu xuống chỗ đồ thừa. Nó há miệng, nhưng thứ mùi ôi thiu làm nó chếnh choáng lùi lại. Đây mà là đồ ăn ấy à.
Nó loạng choạng vài bước ra sau và dúi mõm vào một vạt cỏ ba lá tươi, nhai mầm cây để khử thứ mùi xú uế khỏi đường hô hấp đầy nhạy cảm. Nó nuốt ực và rồi bắt đầu nhai thử. Hành động nhai nuốt vỗ về cái dạ dày lép kẹp, dù chỉ là vờ vịt - cỏ ba lá sẽ không giúp nó khỏe lên. Sau vài miếng, suy nghĩ thông suốt trở lại: nó phải tìm bằng được cậu bé.
Ngay khi ấy, nó nghe thấy thứ gì vùn vụt rẽ cỏ. Trước khi những giác quan lờ đờ của nó kịp phản ứng, nó đã cảm nhận được một sức nặng đổ ụp lên người.
Còi Gí nhào lên Pax, vênh vang reo mừng cuộc mai phục thành công. Khi Pax chẳng đụng cựa để giãy nó ra, Còi Gí mới bắt đầu dò xét. Pax nằm im khi chú cáo nhỏ hít hửi và liếm láp nó, quá đuối để mà phí sức gạt thằng bé ra.
Không khỏe ạ?
Pax nhắm nghiền mắt trước ánh nắng xiên xiên và không trả lời.
Còi Gí mau mắn chạy đi và vài phút sau thì quay lại với một con giun lòng thòng trong miệng. Thằng bé thả con giun xuống chân Pax.
Pax co rúm người, nhưng những suy nghĩ lúc trước lại xuất hiện. Nó phải tìm được cậu bé. Nó có thể tránh được cửa tử nếu chịu ăn. Pax nhặt con giun lên và cắn. Không quen với vị thịt sống, Pax nôn khan và quay mặt đi.
Còi Gí lại đào một con giun khác lên và thả nó xuống trước mặt Pax, lần này Pax đứng dậy bước vài bước trước khi khuỵu xuống.
Còi Gí theo sau và huých nó. Ăn đi.
Pax ra uy hết mức có thể. Đi đi.
"""