🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Candide Chàng Ngây Thơ
Ebooks
Nhóm Zalo
VOLTAIRE
CANDIDE
CHÀNG NGÂY THƠ Tế Xuyên dịch
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
Thông tin ebook
Tên sách: Candide - Chàng Ngây Thơ Tác giả: Voltaire
Dịch từ bản tiếng Pháp: Candide ou l’optimisme Dịch giả: Tế Xuyên
Nhà xuất bản: NXB Tri Thức
Ngày xuất bản: 09/2008
Kích thước: 12x20 cm
Số trang: 220
Thực hiện ebook: tamchec
Ngày hoàn thành: 05/04/2015
Nguồn: tve-4u.org
Mục lục
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
VIẾT SỰ NGÂY THƠ
Chương I CHÀNG NGÂY THƠ ĐƯỢC NUÔI NẤNG TRONG MỘT TÒA LÂU ĐÀI TỐT ĐẸP
Chương II CHÀNG NGÂY THƠ SỐNG CHUNG VỚI NGƯỜI BẢO GIA LỢI Chương III CHÀNG NGÂY THƠ THOÁT KHỎI TAY NGƯỜI BẢO GIA LỢI Chương IV CHÀNG NGÂY THƠ GẶP LẠI THẦY CŨ, TRIẾT GIA PANGLOSS
Chương V BÃO TỐ, ĐẮM TÀU, ĐỘNG ĐẤT, KHIẾN CHO PANGLOSS, JACQUES VÀ CHÀNG NGÂY THƠ RA SAO
Chương VI NGƯỜI TA TIẾN HÀNH VỤ THIÊU SỐNG HAY HO NHƯ THẾ NÀO ĐỂ NGĂN ĐỘNG ĐẤT, VÀ CHÀNG NGÂY THƠ ĐÃ BỊ ĐÒN ĐÍT RA SAO
Chương VII CHÀNG NGÂY THƠ ĐƯỢC BÀ GIÀ CHĂM SÓC VÀ GẶP LẠI NHỮNG NGƯỜI CHÀNG YÊU QUÝ
Chương VIII CÂU CHUYỆN VỀ CÔ CUNÉGONDE
Chương IX CHÀNG NGÂY THƠ GIẾT MỘT LÚC HAI MẠNG NGƯỜI
Chương X CHÀNG NGÂY THƠ, CUNÉGONDE VÀ BÀ GIÀ CỰC KHỔ NHƯ THẾ NÀO KHI TỚI CADIX. BA NGƯỜI XUỐNG TÀU VƯỢT BIỂN
Chương XI CÂU CHUYỆM CỦA BÀ GIÀ
Chương XII CÂU CHUYỆN TIẾP VỀ NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA BÀ GIÀ
Chương XIII CHÀNG NGÂY THƠ BUỘC LÒNG PHẢI CÁCH BIỆT CUNÉGONDE VÀ BÀ GIÀ
Chương XIV CHÀNG NGÂY THƠ VÀ ĐỒ ĐỆ CACAMBO ĐƯỢC CÁC GIÁO SĨ DÒNG TÊN ĐÓN TIẾP Ở PARAGUAY
Chương XV CHÀNG NGÂY THƠ GIẾT ANH RUỘT CỦA NGƯỜI YÊU
Chương XVI CHUYỆN XẢY RA GIỮA HAI THẦY TRÒ KHI GẶP HAI THIẾU NỮ, HAI CON KHỈ VÀ ĐÁM NGƯỜI RỢ OREILLONS
Ứ
Chương XVII CHÀNG NGÂY THƠ VÀ THUỘC HẠ ĐẾN XỨ ELDORADO[93] KỲ LẠ
Chương XVIII THẦY TRÒ CACAMBO THẤY GÌ Ở XỨ ELDORADO
Chương XIX HAI NGƯỜI ĐẾN SURINAM; CHÀNG NGÂY THƠ LÀM QUEN VỚI MARTIN
Chương XX ĐIỀU GÌ XẢY RA TRÊN BIỂN VỚI CHÀNG NGÂY THƠ VÀ MARTIN
Chương XXI TÀU TỚI GẦN BỜ BIỂN PHÁP, HAI NGƯỜI VẪN ĐÀM LUẬN Chương XXII BIẾN CỐ XẢY ĐẾN CHO HAI NGƯỜI Ở NƯỚC PHÁP
Chương XXIII CHÀNG NGÂY THƠ VÀ MARTIN TỚI MIỀN DUYÊN HẢI ANH RỒI BỎ ĐI NGAY
Chương XIV GẶP LẠI CÔ PAQUETTE TRONG TAY MỘT TU SĨ
Chương XXV ĐI DU THUYỀN ĐẾN THĂM LÃNH CHÚA POCOCURENTÉ, NHÀ QUÝ TỘC THÀNH VENISE
Chương XXVI CHÀNG NGÂY THƠ VÀ MARTIN DÙNG BỮA VỚI SÁU NGƯỜI NGOẠI QUỐC
Chương XXVII TRONG CUỘC HÀNH TRÌNH TỚI CONSTANTINOPLE, CHÀNG NGÂY THƠ GẶP LẠI NAM TƯỚC VÀ PANGLOSS
Chương XXVIII BIỂN CỐ XẢY RA CHO CHÀNG NGÂY THƠ, CUNÉGONDE, MARTIN, PANGLOSS…
Chương XXIX CHÀNG NGÂY THƠ TÁI NGỘ CUNÉGONDE Chương XXX KẾT LUẬN
NIÊN BIỂU TÓM TẮT CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM CỦA VOLTAIRE
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Từ khi ra đời, Candide hay chủ nghĩa lạc quan (Candide ou l’optimisme) đã gắn liền với tên tuổi của Voltaire và trở thành một trong những tác phẩm kinh điển cả về văn chương lẫn triết lý. Chính vì lẽ đó, tác phẩm được đưa vào danh mục Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế giới do Quỹ dịch thuật Phan Chu Trinh và Nhà xuất bản Tri thức triển khai.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết ngay từ năm 1928, ở Việt Nam, Candide đã được Nguyễn Văn Hiếu chuyển ngữ. Tuy nhiên, bản dịch này hiện chỉ tồn tại ở dạng vi phim ở Thư viện Quốc gia. Bản dịch thứ hai là của Tế Xuyên dưới tiêu đề Candide - Chàng Ngây Thơ, được dịch ở miền Nam trước năm 1975. Và bản thứ ba là của Vũ Đức Phúc và Lê Tư Lành, in chung trong Vonte, Zađich - Truyện chọn lọc, Nxb Văn học, 1980-1981.
Cho tới nay, chúng tôi vẫn chưa có điều kiện tiếp cận với bản dịch đầu tiên của Nguyễn Văn Hiếu. Tuy nhiên, với khoảng thời gian gần một thế kỷ kể từ khi được dịch, chúng tôi e rằng bản dịch ấy có lẽ không còn phù hợp với độc giả hiện nay.
Bản dịch thứ ba đã cho phép độc giả tiếp cận với tác phẩm của Voltaire với sự chính xác về ngôn ngữ và những chú giải hết sức cẩn thận. Đây cũng là bản dịch khá nổi tiếng, nhất là đối với các độc giả miền Bắc.
Tuy nhiên, chúng tôi đã chọn bản dịch của Tế Xuyên bởi chính cái duyên và “tinh thần Voltaire” của nó, dẫu cho đâu đó, khi được đối chiếu với bản gốc, vẫn còn những sai sót (và có lẽ đó là điều khó tránh khỏi với bất kỳ bản dịch nào!) Chẳng hạn, có một số câu sai về ý, đôi chỗ dịch giả bỏ sót hoặc lược bớt. Với những chỗ như vậy, để bản thảo được hoàn thiện, trong quá trình biên tập, chúng tôi đã mạn phép tham khảo bản dịch của Vũ Đức Phúc và Lê Tư Lành. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn, và rất mong hai ông thể tất cho sự “tiền trảm hậu tấu” này!
Cuốn sách được biên tập dựa trên nguyên tác tôn trọng tối đa nguyên bản bản dịch. Đối với các địa danh, chúng tôi để nguyên cách phiên âm theo lối cũ nhằm giữ lại không khí cổ của câu chuyện. Ngoài ra, chúng tôi có chỉnh sửa những từ địa phương theo chuẩn tiếng Việt, bổ sung các chú
thích (những chú thích có ghi ND là của dịch giả), và đặc biệt là dịch bổ sung đối với các phần bị lược bỏ (được in nghiêng trong cuốn sách) và có thêm tiểu sử tác giả.
Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả tác phẩm Candide - Chàng Ngây Thơ cùng Lời giới thiệu của nhà nghiên cứu văn học Cao Việt Dũng.
Nxb Tri thức
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
VOLTAIRE (1694-1778)
Voltaire (tên thật là François-Marie Arouet) sinh tại Paris (1694-1778) là văn hào Pháp đã sống một cuộc sống sôi nổi, có tính ham thích tìm hiểu những gì mới lạ và những trạng thái xã hội đương thời.
Ông viết rất nhiều, đủ loại: tiểu thuyết, triết lý, truyện ngắn, kịch bản và thơ. Với một giọng văn châm biếm, ông nói lên những bất bình trước sự kỳ thị tôn giáo, trước sự xâm phạm tự do cá nhân; cuốn Correspondance (Thư tín) của ông gồm đến 18.000 bức thư.
Vì thái độ không xu thời, ông đã bị các nhà quyền quý thù oán, muốn làm hại; đã có hồi ông phải trốn tránh ở nhà một phụ nữ có thế lực là bà du Châtelet ở Cirey trong một thời gian.
Ông du lịch ngoại quốc khá nhiều, nhất là ở nước Anh, một nước mà ông tin tưởng là có chế độ xã hội hoàn thiện hơn nước Pháp; ông học văn chương Anh, viết sách bằng Anh ngữ để phát biểu tư tưởng.
Cuốn Candide - Chàng Ngây Thơ của ông nhằm mục đích trả lời cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan.
Ông đưa ra một nhân vật chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy mình là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng.
Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường.
Cuốn Candide khai thác các thực tại xã hội, chiến tranh chết chóc, động đất, dịch hạch, một thuỷ sư đô đốc bị xử bắn, một nữ tài tử chết không có quan tài, một công nhân bị chủ chặt tay chân. Bao nhiêu bất công trong một chế độ phong kiến tàn ác.
Tác giả đưa ra một bài học: sống trên đời, nên bác bỏ các thuyết lý viển vông, quá cao xa, nên sống thực tế và trông vào sự làm việc mới tạo được hạnh phúc.
Cần nói thêm rằng cuốn Candide xúc phạm đến nhiều nhà quyền quý, nên tác giả khi xuất bản phải ký một biệt hiệu khác, chứ không ký là Voltaire, vì sợ bị trả thù. Ông lo xa cũng đúng vì cuốn Candide ngày 2
tháng Ba năm 1759 bị hội đồng Genève tố cáo và ra lệnh hỏa thiêu (đem đốt ở nơi công cộng).
VIẾT SỰ NGÂY THƠ
Cao Việt Dũng
Candide rời khỏi thiên đường: đó là motif lặp lại ít nhất hai lần trong Candide. Thiên đường đầu tiên chính là lâu đài của ngài nam tước Thunder-ten-tronckh xứ Westphalie, nơi hội tụ sự vĩ đại đáng kể của trần thế (hóa thân là ngài nam tước), tình yêu nồng nàn (với nàng Cunégonde xinh đẹp) và tri thức toàn vẹn (ở tiến sĩ Pangloss, người thầy của Candide) - “Chàng kết luận rằng sau cái diễm phúc được sinh ra là nam tước Thunder-ten-tronckh, đến cái diễm phúc bậc nhì là được sinh ra là cô Cunégonde; kế đến diễm phúc bậc ba là được nhìn thấy cô suốt ngày và sau chót diễm phúc bậc tư là được nghe những lời thuyết giảng của Pangloss tiên sinh, triết gia giỏi nhất trong tỉnh và do đó là triết gia giỏi nhất hoàn cầu” (tr.30). Thiên đường thứ hai, xứ Eldorado khó đến khó rời bên Nam Mỹ, là biểu tượng của tiền bạc. Vấn đề Candide phải đối mặt là những thiên đường đó không bền vững, lâu đài của ngài nam tước là nơi chàng không thể ở (vì bị đuổi đi), Eldorado là nơi chàng không muốn ở và tự nguyện rời đi. Cho đến cuối truyện, một thiên đường khác khiêm tốn hơn nhiều lần lại xuất hiện, và lần này thì chúng ta không biết Candide ở đó trong bao lâu; nhiều khả năng là vĩnh viễn, như việc kết thúc tác phẩm tại đó gợi ý. Có thể nói rằng Candide phải rời khỏi các thiên đường vì đức tính “ngây thơ” nằm ngay trong cái tên của chàng (“candide” trong tiếng Pháp là tính từ của “candeur”, dùng để chỉ phẩm chất ngây thơ và thuần khiết của một tâm hồn), còn sở dĩ chàng vẫn tiếp tục đến được các thiên đường sau này là nhờ phẩm chất thứ hai đặc trưng của chàng, “lạc quan” (nhan đề đầy đủ của tác phẩm là Candide ou l’optimisme, “Candide hay chủ nghĩa lạc quan”).
Điều đáng ngạc nhiên là chủ đề kép mang đầy tính đạo đức này lại được xử lý dưới ngòi bút của một nhà văn như Voltaire, một người không mấy có danh tiếng về cả “ngây thơ” lẫn “lạc quan”.
*
Sự bi quan mà Voltaire dành cho cuộc đời nói chung bắt nguồn từ những sự kiện mà chính ông vấp phải. Khi còn trẻ, ông đã bị tống ngục
Bastille vì viết các tác phẩm châm biếm đả kích quan Nhiếp chính thời đó, và sẽ nhiều lần nữa quay trở lại nơi đây, đến năm 1726 lại vì xích mích với hiệp sĩ de Rohan mà bị nhà quý tộc cho người lấy gậy đánh đập ngay trên phố, sau đó còn phải lưu vong sang Anh.
Bi quan với con người và với xã hội vẫn chưa phải là tất cả, Voltaire còn bi quan cả với thiên nhiên. Năm 1759 khi Voltaire cho in Candide (các chuyên gia về Voltaire thống nhất cho rằng tác phẩm được viết một năm trước đó) cũng là khi triết gia mới tậu được cơ ngơi ở Genève và bắt đầu thực sự biết đến cảnh thoải mái về vật chất và thực hiện được “giấc mơ khu vườn” đã có trong đầu từ lâu nay (chúng ta hiểu vì sao “thiên đường thứ ba” trong Candide nhất thiết phải có khu vườn!) Tuy nhiên, trong cảnh điền viên đó, những tiếng vọng bi thảm từ thế giới bên ngoài dội về vẫn rất mạnh mẽ: hai thảm họa diễn ra liền trong hai năm: động đất lớn ở Lisbonne cuối năm 1775 và những viễn cảnh kinh hoàng của cuộc chiến tranh Bảy năm từ Đức lan tới. Cuộc động đất là nguồn gốc cho bài thơ dài thuộc loại nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Voltaire (ngoài các vở kịch và những tác phẩm văn xuôi giống như Candide, Zadig hay Memnori), và cũng được tái hiện trong Candide, được viết không lâu sau khi xảy ra sự kiện (các chương IV, V, VI của tác phẩm), nơi Candide mất đi nhà từ thiện Jacques và đồng thời tiến sĩ Pangloss bị treo cổ.
Giọng văn của Voltaire cũng không bao giờ ngây thơ. Ngay trong Candide, ông cũng dành cả một chương dài (chương XXII) để đả kích cay độc thành phố Paris và như thể nhân tiện, tính sổ với một số đối thủ của mình, tiến sĩ triết học Gauchat (“Có cả trăm cuốn sách viết cẩu thả mà không cuốn nào lại cẩu thả bằng sách của Gauchat, tiến sĩ triết học” - tr.150), một tác giả tên là Truble (“Ông ta đã viết ra tất cả những điều mà ai cũng biết”), và đặc biệt, nhà báo Fréron nhận được cả một loạt những lời phỉ báng thực thụ:
“Đó là một kẻ xấu miệng, hắn sống bằng nghề nói xấu tất cả các vở kịch, tất cả các diễn viên. Hắn oán ghét ai thành công, như kẻ hoạn quan ghét kẻ còn biết thụ hưởng; hắn là con rắn độc trong văn chương, sống trong nọc độc và bùn lầy. Hắn là kẻ “bán văn” vô loại.
- Thế nào là kẻ “bán văn” vô loại?
- Nó là một kẻ viết cho đầy giấy, một con rắn độc, kiểu như tên Fréron” (tr.148).
Voltaire từng viết cả một vở kịch để chế nhạo riêng Fréron. Đến đây chúng ta nên nói một chút về nhân vật đặc biệt của lịch sử văn chương và báo chí Pháp này. Fréron (1718-1776), từng dạy học rồi bỏ nghề và bỏ luôn cả dòng tu của mình (dòng Tên), gia nhập hội Tam điểm, làm nghề báo và dành rất nhiều tâm trí và thời gian trong sự nghiệp để phản đối và bài xích Voltaire. Fréron không ít lần vào ngục vì thời đó viết báo chuyên để chỉ trích là một việc rất nguy hiểm (nhất là khi tờ báo quá thành công, có quá nhiều độc giả). Tuy nhiên Fréron cũng gây dựng được hai tờ báo rất lớn, không ngừng công kích các nhà triết học nói chung và Voltaire nói riêng, thậm chí cả công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ cũng đã có lúc suýt đổ sập vì những lời phản đối của Fréron, vốn rất có uy thế và nhiều quan hệ thời đó. Ngày nay nhìn lại, cuộc đối đầu giữa Voltaire và Fréron thường được coi là cuộc chiến giữa hai bộ óc tuyệt vời nhất của thế kỷ XVIII, một bên là triết gia lừng danh, bên kia là nhà phê bình lớn nhất của thế kỷ. Một bài thơ nổi tiếng của Voltaire viết đại ý nếu có một con rắn cắn Fréron thì nó sẽ lăn ra chết chứ không phải Fréron; Fréron đáp lại sự khiêu khích đó như sau: “Trong câu chuyện này sẽ không có gì là lạ nếu Voltaire chính là con rắn. Quả thực với tôi ông ta đã lăn ra chết vì tức tối và một phần nhỏ vì nọc độc của tôi.” Candide là thêm một cơ hội nữa để đối thủ lớn của Voltaire bị đưa ra chế nhạo thậm tệ, những lời lẽ rất dễ khiến người phát ngôn phải ra tòa dưới hệ thống luật pháp hiện đại.
Về sự “xấu tính” (và do đó, không ngây thơ trong trắng) của Voltaire, người ta còn có thể kể rất nhiều câu chuyện. Chẳng hạn như chỉ vì một cuộc tranh chấp một đống củi giữa hàng xóm tại Ferney mà Voltaire sẵn sàng tố cáo Charles de Brosses thiếu trung thực và trong suốt năm năm tiến hành một chiến dịch chống de Brosses, khiến cho nhà thông thái không thể vào được Viện Hàn lâm. Voltaire nhất định không phải là một Candide.
Voltaire, đó là một người theo chủ thuyết bi quan (giống như nhà thông thái Martin trong Candide) đem lạc quan ra để bàn; là một người không chút ngây thơ, ông lại đặt tên cho một trong các nhân vật sẽ được hậu thế nhớ nhất từ ông là “chàng Ngây Thơ”.
*
Thế nhưng, con người Voltaire phức tạp hơn một số tính từ. Là một người có thể gọi là xấu tính, hay để bụng, nhưng đồng thời ông cũng lại chấp nhận đón một nữ hậu duệ nghèo đói của nhà thơ Corneille về Ferney nuôi nấng (cũng chính vì chuyện này mà Voltaire chịu sự chỉ trích của Fréron, người cho rằng triết gia chỉ làm vậy vì mục đích tốt đẹp cho danh tiếng của mình). Ông cũng đứng ra bênh vực Giulio Cesare Vanini, người bị kết tội chết vào năm 1619 vì viết một tác phẩm triết học, và nhất là đã thành công trong việc cứu mạng Jean Calas, một người theo đạo Tin lành ở Toulouse bị kết án giết con trai mình vì anh ta có ý định cải đạo. Vụ việc này kéo dài từ năm 1762 đến năm 1766, và cuối cùng nghị viện Paris đã quyết định gỡ tội cho Calas. Và không ai phủ nhận được vai trò của Voltaire trong công trình Bách khoa toàn thư, biểu tượng của phong trào Ánh sáng tại Pháp, cũng như một thái độ nhất quán chống lại những điều tầm thường, chống thế lực thần quyền cũng như thế quyền đương thời.
Giai đoạn Voltaire viết Candide (cuối những năm 1750, như đã nói ở trên) nằm ở khoảng giữa cuộc lưu vong dài đằng đẳng của triết gia (từ 1750 đến 1778 - ông trở về Paris trong vinh quang, giống như một người bị lưu đày vĩ đại sau này, Victor Hugo, và chết ngay sau đó; người ta nói rằng ông chết vì kiệt sức trước vinh quang của chính mình). Cuộc lưu vong của Voltaire còn cay đắng ở chỗ nó là một cuộc lưu vong “đúp”: ngoài việc bị hắt hủi khỏi nước Pháp, ông còn không có chỗ đứng bên cạnh một người từng một thời là bạn thân của mình, vua Frédéric II nước Đức, đành chọn một nơi trung gian là Thụy Sĩ để sống (Lausanne, Genève, Ferney). Một đòn đánh mạnh thêm nữa vào tình cảm của Voltaire là cái chết của người bạn thân, bà du Châtelet (1749).
Trong thời gian lưu vong đó, Voltaire còn phải chứng kiến từ xa sự thay đổi của đời sống trí thức Paris: một thế hệ mới đầy tài năng đã xuất hiện, đó là những người như Diderot, d’Holbach, d’Alembert và Rousseau, những người tuy ông có nhiều liên lạc và cộng tác, nhưng mối quan hệ không phải lúc nào cũng tốt đẹp. Các mốt mới lên ngôi: tác phẩm của văn hào Anh Richardson (tác giả Pamela, một trong những người đầu tiên của văn học theo chủ nghĩa lãng mạn, mà cộng hưởng tại châu Âu là Goethe và Rousseau), nhạc Ý và kịch tư sản. Các sáng tác văn học của Voltaire không thể không có phần lỗi thời trong bối cảnh ấy.
Voltaire là một người lưu vong chung thân, ngay cả khi đã có cơ ngơi ở Genève thì ông vẫn thấy như thể mình bị cắt đứt khỏi các giá trị phổ quát. Thực sự là không có thiên đường nào dành cho Voltaire cả.
*
Candide luôn có mặt trong tất cả các tuyển tập tác phẩm văn xuôi của Voltaire. Bênh cạnh Zadig, Memnon, Micromégas, đó là tác phẩm lừng danh nhất của ông, nhiều khi được đánh giá là tác phẩm văn chương giàu tính triết học nhất mà Voltaire từng viết. Tuyển tập tác phẩm gần đây nhất của tủ sách La Pléiade, được tập hợp dưới cái tên “Romans et contes” (tiểu thuyết và truyện) có 26 tác phẩm, thì Candide được xếp thứ 11, nghĩa là ở vào khoảng giữa, và cũng thường được coi là được viết vào giai đoạn Voltaire đạt đến đỉnh cao của tài năng.
Có thể coi đó là một “tiểu thuyết”, một “truyện”, hoặc xét về dung lượng, một “truyện vừa” theo như cách gọi của ngày nay. Nhưng thực tế rất khó xếp thể loại cho Candide cũng như rất nhiều tác phẩm văn học khác của Voltaire, được viết ra trước khi các phương thức sắp xếp theo thể loại trở thành quy phạm, khi mà tiểu thuyết cũng chỉ mới ra đời và còn chưa được dành cho một vị trí mặt tiền. Vấn đề này từng làm đau đầu các chuyên gia về Voltaire, và trong lịch sử các tuyển tập Voltaire đã có rất nhiều khác biệt (để chỉ dẫn ra đây một số lần xuất bản quan trọng: bản của anh em nhà Cramer, 1776, cũng là bản toàn tập cuối cùng in khi Voltaire còn sống; bản của Bouillon, 1778; bản quan trọng của Kehl, 1784; và các bản hiện đại của Van Tieghem năm 1930, bản của Groos năm 1932, bản của Bénac năm 1949 và bản của Pomeau các năm 1961 và 1966). Ở đây sẽ không đi sâu vào vấn đề văn bản và các thay đổi về lựa chọn tác phẩm cho tuyển tập, cũng như thứ tự sắp xếp của chúng, nhưng cũng cần nhấn mạnh Voltaire trước hết là một triết gia (tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ngày nay có lẽ là Từ điển triết học), ông còn là một nhà viết kịch danh tiếng, một nhà thơ, và, điều này không thể bỏ qua, một nhân vật lớn của thế kỷ XVIII.
*
Là một triết gia có sáng tác văn học (điều này cũng không khác mấy ở Diderot, tuy rằng ở Rousseau thì rất khác), các tác phẩm của Voltaire theo lẽ tất nhiên có một số đặc điểm liên quan nhiều đến triết học. Trong chúng
có rất nhiều thứ, có thể nói là tất cả mọi thứ trong vũ trụ, có rất nhiều lời nói, nhưng luôn luôn thiếu vắng một số cột đỡ then chốt của tác phẩm văn chương: tâm lý nhân vật, sự dẫn dắt cốt truyện, và đặc biệt là các chuyển hóa.
Nhân vật của Voltaire như chúng ta thấy trong Candide, xuất hiện và vĩnh viễn giữ nguyên tâm lý đã có, không có biến đổi. Do đó, các nhân vật ấy giống như các hằng số - rất có thể coi những nhân vật này gần với các quy luật phổ quát, cái đích hướng tới và chủ đề suy tư của các triết gia điển hình.
Chúng ta có Candide (và đồng thời, thầy của chàng, Pangloss), người lạc quan. Cả hai đều khăng khăng tin rằng “mọi sự kiện đều có một cứu cánh, mọi sự việc đều nhất thiết phải đi đến một cứu cánh hoàn bích hơn” (tr.29). Trước sự tra vấn của nhà hảo tâm Jacques, Pangloss trả lời như sau: “những bất hạnh riêng biệt đã xây thành sự hữu hạnh của toàn thể; như vậy càng có nhiều sự bất hạnh riêng biệt bao nhiêu thì sự hữu hạnh công cộng càng hoàn thiện bấy nhiêu” (tr.49). Có những lúc triết thuyết cứng nhắc đó bị nghiêng ngả, chẳng hạn như khi nàng Cunégonde mà Candide gặp lại sau này nói rằng: “Hay là Pangloss tiên sinh đã lừa tôi một cách tàn ác, khi ông bảo tôi rằng: “Cứ yên tâm, mọi việc rồi sẽ tốt hơn”” (tr.68), hay thậm chí đã có lúc chính Canđide dao động: “Ông Pangloss ơi! Chàng Ngây Thơ la lên, ông đã không đoán được cảnh tượng ghê gớm như thế này… Thôi từ nay tôi không còn tin ở chủ nghĩa lạc quan của ông nữa” (tr.127).
Thế nhưng, như một thứ cao su hay lò xo luôn quay trở lại trạng thái ban đầu sau khi chịu một số tác động của ngoại cảnh, Candide vẫn giữ một niềm tin chắc chắn vào cái tốt đẹp; không một cơn bão biển, không một trận động đất hay sự độc ác-hiển nhiên nào của con người khiến được chàng quên đi những gì đã được học (một sự “kiên định triết học”, với đầy đủ ý nghĩa hài hước của cụm từ này). Trong Candide, những câu chuyện (đúng hơn là các đối thoại) quan trọng hơn những gì xảy ra thực sự: vụ bắn nhau giữa hai con tàu trên biển ngay trước mặt chỉ phục vụ cho các lập luận trao đổi giữa Candide và Martin: với Martin người ủng hộ quan điểm cho rằng mọi thứ trên đời là xấu, và thế giới được dẫn dắt bởi cái ác, thì cuộc bắn giết đó càng cho thấy quan điểm đó không sai, còn với Candide, khi con cừu từ trên một con tàu kia dạt vào đúng con tàu chàng đang ở trên thì
“lý thuyết lạc quan Pangđoss” bị lung lay nhiều khi lại được dịp sống dậy. Đó là một thế giới không chấp nhận thay đổi. Candide trở thành người bị đuổi khỏi thiên đường với tâm thức nhẹ nhõm nhất trong lịch sử văn học.
Một “hằng số” khác là nhà thông thái Martin, người bi quan toàn phần. Martin biện luận như sau: “nhìn qua Trái đất này, hay nói đúng hơn là cái hạt bụi này, tôi phải tin là Thượng đế đã bỏ quên Trái đất cho một thứ ác quỷ nào đó. […] Tôi chả thấy thành phố nào mà lại không muốn tàn phá thành phố bên cạnh, chưa bao giờ nhìn thấy một gia đình nào mà lại không muốn tiêu diệt gia đình khác” (tr.136). Trong khi đó, nhà thông thái mà Candide gặp ở Paris lại là người nhìn mọi thứ qua lăng kính của sự mâu thuẫn: “Với tôi thì mọi việc trên đời đều mâu thuẫn hết: không ai biết được mình thuộc cấp bậc nào, nhiệm vụ của mình là gì, mình làm gì và phải làm gì? Ngoại trừ bữa ăn này khá vui vẻ và đoàn kết còn thì chỉ thấy những xung đột khả ố: giáo phái này chống giáo phái kia, quốc hội chống giáo hội, văn nhân chống văn nhân, nịnh thần chống nịnh thần, tài phiệt chống dân chúng, vợ chống chồng, bà con chống bà con” (tr.152). Liên quan trực tiếp hơn cả đến cuộc đời của Candide, ngài nam tước anh trai Cunégonde thì đóng đinh vào sự phân biệt tầng lớp xã hội và vin vào đó để nhất định không cho Candide lấy em gái mình.
Các nhân vật chính phụ của Candide không bao giờ thay đổi ý kiến. Các thái độ khác nhau cũng có khi được đặt liền kề nhau, giống như một “thủ pháp” của Voltaire, chẳng hạn như ở đoạn sau:
“Tên thủy thủ miệng vừa huýt gió vừa chửi thề:
- Ở đây tất phải có gì làm lợi lộc cho mình.
Ông Pangloss lẩm bẩm trong miệng:
- Nguyên nhân của tai nạn này là do đâu?
- Đây là ngày tận thế rồi, chàng Ngây Thơ la lớn.” (tr.52)
Xét về diễn ngôn mà tác phẩm sử dụng, Candide nằm ở giữa đối thoại triết học thuần túy và kịch hài (mà điển hình và khuôn mẫu là kịch của Marivaux). Một đặc điểm về hình thức quan trọng của hài kịch là sự tập hợp đông đảo các nhân vật chính và phụ ở kết thúc, mà ở đây là đoạn ở khu vườn Propontide. Kịch hài cũng thường không để nhân vật chết, và
thường sử dụng cái chết như là một yếu tố đầy tính nhẹ nhõm: nhân vật liên tục bị tưởng là đã chết nhưng sau này sẽ gặp lại trong một hoàn cảnh khác. Cái chết ở đây giống như một cuộc di trú, nó đưa nhân vật di chuyển một cách vô hình trong không gian, sự nặng nề của cái chết được giảm trừ hoàn toàn tính chất bi thảm. Thêm một đặc điểm nữa là yếu tố ngẫu nhiên được tận dụng tối đa, điều này giúp tác giả tạo được nhiều tình tiết hơn, nhưng mặt trái của nó là khiến cho câu chuyện luôn bị đẩy ra xa khỏi “sự tự nhiên”.
Tuy nhiên, cũng có thể nghĩ rằng Voltaire đã đề xuất ở cuối truyện cũng như rải rác trong Candide một “giải pháp” nhất định cho tính chất ngồn ngộn ngôn từ của các tác phẩm văn học theo hơi hướng triết học, đó là từ bỏ triết lý: “Hãy làm việc mà đừng lý sự, Martin nói, đó là phương tiện duy nhất để có được cuộc sống tàm tạm. Cả cái xã hội thu nhỏ bước vào dự định đáng khen ấy; mỗi người làm việc theo khả năng của mình. Mảnh đất nhỏ bé mang đến nhiều điều” (tr.211). Thế nhưng, với triết học từ bỏ triết lý cũng là từ bỏ thiên đường, và không có gì chắc chắn sự từ bỏ đó sẽ được thực hiện với một tâm thức nhẹ nhõm…
CANDIDE
Chàng Ngây Thơ
dịch từ nguyên bản tiếng Đức của tiến sĩ Ralph[1]
Với những phụ thêm được tìm thấy trong túi của tiến sĩ khi ông chết ở Minden[2], năm 1759, Gia tô kỷ nguyên.
Chương I
CHÀNG NGÂY THƠ ĐƯỢC NUÔI NẤNG TRONG MỘT TÒA LÂU ĐÀI TỐT ĐẸP
Tại vùng Westphalie, có tòa lâu đài của Nam tước Thunder-ten tronckh[3]; một chàng thanh niên tính tình hiền hậu, hồn nhiên sống trong tòa lâu đài này. Bộ diện của chàng phản chiếu tâm hồn chàng. Chàng xét đoán việc đời thẳng thắn, với một tinh thần giản dị nhất; vì lý do ấy người ta gọi chàng là “chàng Ngây Thơ”[4]. Những gia nhân hầu hạ trong nhà từ lâu năm nghi ngờ chàng là con của bà em nam tước với một người trưởng giả cùng xóm, sống lương thiện; nhưng bà không muốn cưới ông trưởng giả này vì ông chỉ có thể minh chứng được 71 chi tộc của ông[5], còn bao nhiêu trong tờ tông chi thì bị thất lạc vì sự tàn nhẫn của thời gian.
Nam tước là một trong những lãnh chúa thế lực nhất vùng Westphalie; lâu đài của ông có một cửa lớn và nhiều cửa sổ. Phòng khách trong lâu đài được trang trí bằng một tấm thảm đẹp. Những con chó canh giữ các sân nuôi gia súc của ông gộp lại thành một đoàn quân khuyển đi săn khi cần thiết; những gia nhân săn sóc cho số ngựa khá nhiều. Ông trợ tế trong làng được coi như là vị Tuyên úy của riêng ông. Tất cả mọi người đều kêu ông là “Đức ngài”[6] và họ cười khi ông nhạo báng.
Bà nam nước nặng chừng ba trăm năm chục cân Anh, được người ta kính trọng vì thân thể đẫy đà của bà; trong các cuộc tiếp tân của gia đình, bà tỏ ra có tư cách, bà lại càng được tôn trọng hơn. Con gái bà là Cunégonde mới 17 tuổi, hồng hào, cao lớn, tươi đẹp. Con trai của nam tước giống cha về đủ mọi phương diện. Thầy dạy học của cậu, ông Pangloss, là vị “thánh sống” trong nhà. Chàng Ngây Thơ tuân theo những lời giáo huấn của ông với một lòng tin tưởng theo tuổi tác của cậu và tính tình cậu.
Ông Pangloss vừa dạy các khoa siêu hình-thần-vũ trụ-u-minh học[7]. Ông minh chứng một cách chắc chắn rằng mọi việc phải có nhân, có quả; nếu không có nguyên nhân thì không có hậu quả; ông còn tỏ cho mọi người thấy rằng trên thế gian toàn thiện này, tòa lâu đài của “Đức ngài” đẹp nhất
trong tất cả các lâu đài và bà Nam tước là một phu nhân hoàn thiện nhất. Ông nói rằng:
“Đã có sự chứng minh cho thấy rằng mọi sự kiện đều có một cứu cánh, mọi sự việc đều nhất thiết phải đi đến một cứu cánh hoàn bích hơn. Các người hãy nhận định rằng Tạo hoá sinh ra cái mũi là để mang kính, bởi vậy con người chúng ta mới mang kính; chân là để mang giày, bởi vậy chúng ta mới mang giày. Những tảng đá sinh ra là để đục đẽo thành những viên đá xây cất lâu đài; bởi vậy “Đức ngài” mới có một lâu đài rất đẹp, vị Nam tước thế lực nhất trong tỉnh phải ở một nơi đẹp nhất. Những con heo sinh ra để ta ăn thịt; bởi vậy chúng ta mới ăn thịt heo suốt năm. Những kẻ nào đã nói rằng mọi việc đều tốt ở trên đời[8] là những kẻ ngu đần; đáng lý ra phải nói rằng mọi việc đều tốt hơn hết ở trên đời này”.
Chàng Ngây Thơ chú ý nghe kỹ những lời giảng thuyết ấy, vì chàng nhận thấy cô Cunégonde[9] đẹp cực kỳ dầu không bao giờ chàng dám khen cô điều ấy. Chàng kết luận rằng sau cái diễm phúc được sinh ra là nam tước Thunder-ten-tronckh, đến cái diễm phúc bậc nhì là được sinh ra là cô Cunégonde; kế đến diễm phúc bậc ba là được nhìn thấy cô suốt ngày và sau chót diễm phúc bậc tư là được nghe những lời thuyết giảng của Pangloss tiên sinh, triết gia giỏi nhất trong tỉnh và do đó là triết gia giỏi nhất hoàn cầu.
Một hôm cô Cunégonde đi dạo gần lâu đài, trong một khu rừng nhỏ, nhìn thấy trong bụi rậm, tiến sĩ Pangloss[10] đang dạy một bài học vật lý thử nghiệm[11] cho thị tì hầu phòng của thân mẫu cô, một chị tóc nâu, rất đẹp và rất dễ dạy. Vì cô Cunégonde có nhiều thiên tư về khoa học nên cô đứng yên không thở để quan sát những thử nghiệm lặp đi lặp lại của tiến sĩ mà cô được chứng kiến; cô thấy rõ ràng lý do[12] khiến tiến sĩ làm cuộc thí nghiệm, những hậu quả và những nguyên nhân; cô trở về lòng dao động, óc suy nghĩ rằng cô cũng có ngày trở thành thông thái và thành lý do cho chàng Ngây Thơ trẻ trung; người cũng có thể là lý do của cô.
Trở về lâu đài, cô gặp chàng Ngây Thơ và đỏ mặt thẹn thuồng; chàng Ngây Thơ cũng đỏ mặt. Cô chào chàng với một câu nhát gừng và chàng đáp lại bằng câu nói mà chàng không hiểu là mình nói gì. Ngày hôm sau,
sau bữa ăn trưa, mọi người bước ra khỏi phòng ăn, còn Cunégonde và chàng Ngây Thơ đứng sau tấm bình phong. Nàng làm rớt khăn mùi soa xuống đất, chàng cúi xuống nhặt lấy và đưa lại cho nàng; nàng cầm tay chàng một cách vô tư và chàng cũng vô tư hôn tay nàng với một sự nồng nàn, xúc cảm và duyên dáng vô cùng. Bốn mắt bỗng nảy lửa, hai miệng gặp nhau, bốn đầu gối run rẩy rồi bàn tay họ lạc hướng. Nam tước Thunder ten-tronckh lúc ấy đi tới gần tấm bình phong, nhìn thấy cái nhân và cái quả ấy; ông bèn đá đít đuổi chàng Ngây Thơ ra khỏi tòa lâu đài. Nàng Cunégonde ngất xỉu và khi tỉnh dậy nàng bị bà Nam tước tát cho mấy cái. Tất cả mọi người đều hoang mang trong tòa lâu đài đẹp nhất và khả ái nhất ấy.
Chương II
CHÀNG NGÂY THƠ SỐNG CHUNG VỚI NGƯỜI BẢO GIA LỢI[13]
Bị đuổi khỏi nơi thiên đàng ấy, chàng Ngây Thơ đi một chặng dài, không biết là đi đâu, mắt đẫm lệ nhìn lên trời, thỉnh thoảng ngó lại tòa lâu đài từ đây giam hãm tiểu thư đẹp nhất trong các thiếu nữ, con cái trưởng giả. Chàng không ăn bữa chiều, nằm lăn ra ruộng, giữa hai luống cày, trong khi trời đổ tuyết. Hôm sau, chàng rét cóng, lết bộ tới tỉnh kế cận có tên là tỉnh Valdberghoff-trarbk-dikdorff[14]. Không có đồng xu dính túi, vừa đói vừa mệt, chàng buồn rầu đứng trước cửa một quán ăn. Hai người bận áo màu xanh[15] nhận xét chàng; một người nói:
- Bạn ơi, đây là một thanh niên đàng hoàng; bề cao của chàng đúng với kích thước đòi hỏi.
Họ lại bên chàng Ngây Thơ và mời dùng bữa tối một cách rất nhã nhặn.
Chàng nói một cách khiêm nhường khả ái:
- Thưa hai ông, hai ông đã cho tôi cái hân hạnh quá lớn. Nhưng tôi không có tiền trả nhà hàng.
Một trong hai người vội đáp:
- Xin ông chớ quan tâm. Những người có tác phong như ông khỏi lo trả tiền ai. Chẳng hay bề cao của ông có được năm bộ năm tấc chăng?[16]
- Vâng thưa ông đúng là tầm thước của tôi, chàng vừa nói vừa đứng lên thi lễ.
- Vậy thì, thưa ông, mời ông ngồi vào bàn với chúng tôi, không những chúng tôi xin chịu mọi tiền phí tổn, mà còn không bao giờ chúng tôi cho phép một người như ông lại thiếu tiền. Vả lại, người ta sinh ra là để giúp đỡ lẫn nhau.
- Chính hiền triết Pangloss đã thường nói với tôi điều ấy; và tôi nhận thấy trên đời mọi việc đều hoàn hảo hơn.
Hai người xin với chàng Ngây Thơ nhận lấy vài đồng tiền vàng; chàng cầm lấy và toan làm giấy biên nhận, nhưng người ta không để chàng làm thế; rồi cả ba ngồi ăn uống.
Câu chuyện bắt đầu.
- Có bao giờ ông yêu tha thiết không?
- Vâng, có.
- Tôi yêu tha thiết cô Cunégonde.
- Không, một trong hai người hỏi lại, chúng tôi muốn hỏi ông có yêu tha thiết vua Bảo Gia Lợi[17] không?
- Không! Vì tôi không thấy Ngài bao giờ.
- Tại sao ông không biết Ngài. Ngài là ông vua khả ái nhất, chúng ta phải nâng ly chúc cho vua trường thọ.
- Tôi rất vui lòng, thưa hai ông.
Rồi chàng đưa ly lên chúc thọ[18].
- Thế là đủ rồi. Bây giờ ông là người ủng hộ, nâng đỡ, bảo vệ vua Bảo Gia Lợi. Ông là vị anh hùng của nhà vua. Sự may mắn của ông đã hoàn thành và vinh quang của ông được bảo đảm.
Hai người liền xiềng chân chàng và dân chàng đến một liên đội. Chàng bị người ta bắt quay bên hữu, quay bên tả, tập tành rút rồi hạ que thông nòng, nằm xuống nhắm quân địch, tập bắn và đánh chàng ba mươi gậy. Hôm sau, chàng lại tập, ít vụng về hơn hôm trước và chàng chỉ phải nhận hai mươi gậy thôi; hôm sau nữa người ta chỉ cho chàng có mười gậy và chàng được các chiến hữu coi như một người phi thường.
Chàng Ngây Thơ rất ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao chàng trở thành một vị anh hùng. Trong một ngày mùa xuân tốt trời, chàng đi dạo[19] đầu thẳng và nhìn về phía trước; chàng suy luận rằng đặc ân của loài người và cũng là đặc ân của loài thú, là được tự tiện dùng hai cái chân của mình. Chàng đi chưa được hai dặm thì bỗng có bốn vị anh hùng khác, cao sáu bộ, bắt kịp chàng, trói tay chàng đem về phòng giam kín. Người ta lấy pháp lý
ra mà hỏi chàng muốn chịu một trong hai hình phạt này. Hoặc là chịu cho cả liên đội đánh bằng roi ba mươi sáu lần[20], hoặc là chịu 12 phát đạn chì vào trong đầu. Chàng biện luận rằng ý chí của con người phải được tự do nên chàng không muốn một hình phạt nào cả. Song vô ích; phải lựa chọn một hình phạt; rốt cuộc vì cái quyền tự do mà Thượng đế cho con người chàng phải nhận lấy hình phạt đánh đập, chàng chịu được hai lượt. Liên đội gồm có hai nghìn người; thế là chàng phải chịu bốn nghìn roi đánh từ trên cổ xuống tới đít. Vì người ta đang tiến hành lượt thứ ba, chàng đã bị trầy da chảy máu, thấy chịu không nổi nữa bèn xin một ân huệ là bắn bể đầu chàng. Người ta cho chàng được hưởng ân huệ ấy, lấy băng bịt mắt chàng, bắt chàng quỳ gối xuống. Nhằm lúc vua Bảo Gia Lợi vừa đi qua, Ngài hỏi biết được tội trạng của chàng: vua vốn là người tài trí lớn. Ngài hỏi thêm về chàng Ngây Thơ và biết được rằng chàng là một thanh niên giỏi siêu hình học, không biết gì về những việc thế nhân nên vua ân xá cho chàng. Lòng độ lượng của vua được ca tụng trong tất cả các báo chí và được truyền tụng mãi về sau. Một nhà giải phẫu giỏi chữa trị cho chàng lành các vết thương sau ba tuần lễ bằng các phương thuốc cao truyền từ đời Dioscoride[21]. Các vết thương đã lên da và chàng có thể đi đứng được khi vua Bảo Gia Lợi gây chiến với vua Abares[22].
Chương III
CHÀNG NGÂY THƠ THOÁT KHỎI TAY NGƯỜI BẢO GIA LỢI
Không gì đẹp đẽ, lanh lẹ, huy hoàng và có kỹ thuật bằng hai đạo binh đối diện nhau. Tiếng kèn, tiếng trống, tiếng súng thần công khai hỏa, gộp lại thành một âm điệu mà đến trong hỏa ngục cũng chưa thấy bao giờ. Những tiếng súng thần công bắn ngã gần sáu nghìn người mỗi bên; kế đến lính pháo thủ hạ hết những binh lính thiện chiến chừng chín, mười ngàn người, thây chất đầy mặt đất, sau đến những lưỡi lê cũng làm cho vài ngàn người bỏ mạng. Tất cả lên tới chừng ba vạn nhân mạng. Chàng Ngây Thơ run rẩy như một nhà triết học, chàng cố sức ẩn núp trong cuộc giết thịt người hùng dũng ấy.
Sau chót, trong khi vua hai bên cho lệnh hát bài Thánh ca Te Deum trong mỗi trại binh[23] thì chàng Ngây Thơ quyết định đi chỗ khác mà suy luận về nhân với quả. Chàng đi trên đống xác người hấp hối để tới một làng bên cạnh. Làng này đã thành đống tro tàn vì nó là một làng Abares, bị đối phương thiêu rụi, theo luật của công pháp[24]. Chỗ này những ông già, thân thể đầy vết đạn, nằm nhìn những người đàn bà hấp hối vì bị cắt cổ, vẫn ôm con vào cái vú máu me đầm đìa; chỗ kia những thiếu nữ bị mổ bụng sau khi đã thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên của vài vị anh hùng, đang trút ra những tiếng thở dài cuối cùng; những người khác bị cháy lưng chừng kêu gọi người ta làm ơn giết chết họ cho rồi. Những mảng óc tung tóe trên mặt đất, bên cạnh những khúc chân, khúc tay.
Chàng Ngây Thơ trốn cho thật mau đến một làng khác; làng này về bên phe Bảo Gia Lợi nên những anh hùng Abares đối xử nó như thế kia. Lúc nào chàng cũng giẫm trên những tay chân đang giãy giụa hoặc đi qua những nơi đổ nát, thoát ra được bãi chiến trường. Còn một ít lương thực trong cái túi của chàng. Và chàng chẳng bao giờ quên Cunégonde. Lương thực đã bắt đầu thiếu thốn khi chàng đến được nước Hà Lan. Đã nghe người ta nói rằng dân nước này giàu có và theo đạo Cơ đốc, nên chàng không thể ngờ rằng họ xấu với chàng và tin rằng họ cũng đối xử tốt với chàng[25] như hồi chàng còn ở trong lâu đài của vị nam tước, trước khi bị đuổi đi chỉ vì cặp mắt đẹp của cô Cunégonde.
Chàng chìa tay xin tiền những người có vẻ bệ vệ; tất cả mọi người đều cho chàng hay rằng chàng sẽ bị bắt giam vào trại giáo hoá để dạy chàng sống[26].
Kế đến chàng gặp một người đàn ông vừa hùng hồn diễn thuyết trong một giờ đồng hồ về lòng từ thiện, tại một phòng tụ tập đầy thính giả. Nhà hùng biện ấy nhìn thoáng qua và nói với chàng:
- Anh đến đây làm gì? Có phải vì chính nghĩa[27] không? Chàng Ngây Thơ đáp một cách khiêm nhường:
- Nếu không có nhân thì không có quả; mọi việc trên đời đều liên quan với nhau và sắp xếp cho cuộc đời tốt hơn lên mãi. Mọi việc đã được Trời sắp xếp khiến tôi bị đuổi ra khỏi nhà cô Cunégonde, rồi bị đánh đòn, cho đến bây giờ tôi phải ăn xin và cho tới lúc tôi có thể kiếm ăn được.
Nhà hùng biện hỏi tiếp[28]:
- Bạn ơi! Bạn có thể tin rằng Đức Giáo hoàng là người chống Thiên Chúa giáo không?
- Tôi chưa bao giờ nghe nói điều ấy. Tôi không biết Ngài có chống Thiên Chúa hay không? Điều mà tôi biết là hiện giờ tôi không có gì ăn.
- Vậy thì mày không đáng được ăn. Thằng khốn nạn, mày bước đi. Mày hãy xa tao ra.
Vợ của diễn giả ló đầu ra cửa sổ và trông thấy một người đàn ông vẫn còn hoài nghi việc giáo hoàng là kẻ chống Thiên chúa, liền đổ lên đầu chàng một… đầy. Ô trời! Sự ngoan đạo làm các bà quá trớn biết bao.
Một người chưa hề làm phép rửa tội[29], tên là Jacques trông thấy cách dối đãi tàn ác như thế đối với một người đồng loại, một người đi hai chân, không có lông có cánh nhưng có một linh hồn; ông ta dắt chàng về nhà cho chàng tắm rửa và đưa bánh cùng rượu bia để chàng ăn uống. Ông tặng cho chàng hai đồng tiền florin và muốn dạy chàng làm việc trong xưởng vài Ba Tư sản xuất tại Hà Lan của ông. Chàng Ngây Thơ xá dài ông và kêu lớn tiếng: “Pangloss tiên sinh thật đã nói chí lý: Tất cả mọi việc trên thế gian này đều càng tốt hơn mãi lên. Tôi vô cùng xúc động bởi lòng độ lượng cực
kỳ của ông, hơn là lòng cứng rắn của cái ông tôi vừa mới gặp và vợ ông ta”.
Ngày hôm sau trong khi chàng đi dạo, chàng gặp một người rách rưới tồi tệ, mắt đui, mũi sứt, miệng méo, răng đen, nói phều phào từ trong cuống họng, ho sù sụ và khi khạc đờm thì một cái răng rớt ra.
Chương IV
CHÀNG NGÂY THƠ GẶP LẠI THẦY CŨ, TRIẾT GIA PANGLOSS
Chàng Ngây Thơ vì lòng bác ái hơn là vì ghê sợ, đã cho người nghèo khó ấy hai đồng tiền mà ông Jacques đã tặng cho chàng.
Con người chỉ còn da bọc xương ấy chảy nước mắt nhìn chòng chọc vào chàng và muốn nhảy đến ôm chàng. Chàng Ngây Thơ sợ hãi lùi lại. Người này liền nói:
- Chao ôi! Anh không nhận ra Pangloss của anh hay sao?
- Trời đất ơi! Ông nói gì vậy? Ông là người thầy yêu quý của tôi hay sao? Mà ông lại ở trong tình trạng ghê tởm như thế này? Ông đã gặp sự bất hạnh gì? Tại sao ông không ở trong tòa lâu đài đẹp nhất? Cô Cunégonde bây giờ ra sao? Phải! Cô Cunégonde, hòn ngọc trong đám thiếu nữ, giai phẩm của Tạo hóa ấy?
- Tôi không thể nói được nữa. Pangloss đáp.
Chàng Ngây Thơ liền dắt ông vào trong chuồng bò của ông Jacques, đem ra một ít bánh thừa cho ông ăn. Khi Pangloss hồi lực, ông bắt đầu nói:
- Cô Cunégonde à? Cô đã chết rồi!
Nghe câu ấy chàng Ngây Thơ ngất người đi, Pangloss phải lấy một ít dấm còn lại trong chuồng bò, thoa cho chàng hồi tỉnh. Chàng mở mắt nói:
- Cunégonde chết à? Thế thì còn gì là hoàn thiện trên thế gian này nữa? Phải chăng cô đã đau khổ vì thấy tôi bị phụ thân cô đá đít đuổi ra khỏi lâu đài?
- Không đâu. Cô đã bị mổ bụng bởi những tên lính Bảo Gia Lợi sau khi bị hiếp dâm. Chúng còn muốn đập bể đầu ông nam tước. Vì ông muốn che chở cho cô. Còn bà nam tước bị chém ra từng mảnh; đứa con trai bà là con đỡ đầu của tôi, cùng chịu số phận như chị nó; còn tòa lâu đài thì bị phá đổ hết, không còn một hạt thóc, không còn một con trừu, không còn một con vịt, không còn một gốc cây. Nhưng chúng ta đã được báo thù một cách
xứng đáng: Quân Abares đã phá tan tành lãnh thổ của một vị lãnh chúa Bảo Gia Lợi.
Sau khi nghe những lời ấy chàng Ngây Thơ ngất xỉu lần nữa; khi hồi tỉnh chàng nói chuyện huyên thuyên đủ điều, rồi hỏi nhà triết học Pangloss đâu là lý luận có nhân có quả, đâu là lí do đã làm cho nhà triết học đến nông nỗi này? Pangloss đáp:
- Chỉ còn có một tình thương, tình thương là sự an ủi cho loài người; tình thương duy trì được vũ trụ, được linh hồn của tất cả những người còn biết cảm xúc. Tình thương êm dịu!
- Than ôi! Tôi đã biết cái tình thương ấy là vua chúa của tâm hồn con người; nó là tâm hồn của những tâm hồn con người. Nó không bao giờ có ý nghĩa gì, khi tôi hôn nàng và nhận được hai mươi cái đá đít. Nhưng tại làm sao một nguyên nhân tốt đẹp ấy lại có thể sinh ra một hậu quả ghê gớm ở tiên sinh?
Pangloss bèn kể lại mọi sự việc:
- Chắc anh còn nhớ cô Paquette, cô gái xinh đẹp hầu hạ bà nam tước. Tôi đã được ôm cô ấy trong vòng tay mà hưởng thụ những sảng khoái của Thiên đàng, bây giờ đã trở thành những hình phạt của Địa ngục mà anh thấy ở người tôi. Vì nó mà cô ấy bị thối rữa, mà có khi cô ấy chết rồi cũng nên. Paquette thừa kế tặng phẩm ấy từ một thầy tu dòng François rất thông thái[30], người đã điều tra gốc gác của căn bệnh; bởi vì ông ta có được nó từ một nữ bá tước già, bà này nhận từ một đại uý kỵ binh, ông đại uý kỵ binh này nhờ một bà hầu tước mà có được, bà hầu tước này giữ lại từ một thị đồng, anh thị đồng nhận từ một thầy tu dòng Tên, lão này hồi còn tập sự, đã lây thẳng từ một trong những người đi theo Christophe Colomb! Đến tôi, tôi sẽ chẳng cho ai của ấy[31] nữa, bởi vì tôi sẽ chết.
- Ôi, Pangloss! chàng Ngây Thơ kêu lên, phả hệ đó mới lạ lùng làm sao! Chẳng phải quỷ dữ là nguồn gốc của nó đó sao?
- Không hề, con người vĩ đại ấy đáp, đó là một cái gì đó tối cần thiết trong những cái trác tuyệt của mọi giới, một thành phần cần thiết; bởi vì nếu Colomb không tóm được, trên một hòn đảo ở châu Mỹ, cái căn bệnh đã đầu độc nòi giống ấy, cái căn bệnh luôn ngăn trở giống nòi, và cũng là
cái đối lập với những mục đích của tự nhiên ấy, thì chúng ta làm gì có sôcôla, cũng chẳng có rệp son[32]; cũng cần phải thấy rằng cho đến nay, trên hành tinh của chúng ta, căn bệnh ấy là của riêng chúng ta, cũng như việc lý sự vậy. Người Thổ Nhĩ Kỳ, người Ấn Độ, người Ba Tư, người Tàu, người Xiêm, người Nhật đều còn chưa biết đến nó; nhưng có một lý do đầy đủ để mà đến lượt họ biết được nó trong vài thế kỷ nữa. Trong khi chờ đợi, nó đã lan truyền trong chúng ta, và nhất là trong những đội quân hùng hậu được tập hợp từ những lính đánh thuê lương thiện, được nuôi dạy tử tế, những người quyết định vận mệnh của những quốc gia; người ta có thể bảo đảm rằng khi ba nghìn con người đang đánh nhau trên cái chiến trường được dàn ra cho những đội quân tương quan lực lượng đối đầu, thì mỗi bên đã có hai nghìn người mắc bệnh giang mai.
Chàng Ngây Thơ liền nói:
- Nhưng bây giờ việc trước hết là phải làm cho tiên sinh hết bệnh.
- Nhưng tôi biết làm sao bây giờ? Tôi không có tiền và trên khắp thế gian này người ta không thể trị bệnh hoặc băng bó rửa ráy một vết thương nếu người ta không có tiền, hoặc không có một người nào trả tiền cho mình.
Những câu cuối cùng này làm cho chàng Ngây Thơ quyết định: Chàng sẽ tới nhà hảo tâm là ông Jacques; chàng sẽ quỳ gối trước mặt ông ta để mô tả một cách cảm động tình cảnh của nhà triết học, sau nhờ ông ta bỏ tiền ra chữa bệnh cho Pangloss. Triết gia này chỉ mất có một mắt và một tai vì chứng bệnh nan y, nhưng ông là một nhà thông thái, viết văn giỏi và biết toán pháp một cách hoàn toàn. Nhà hảo tâm liền nhận Pangloss làm người giữ sổ sách. Sau hai tháng, ông phải đi Lisbonne vì công việc thương mại. Trên chiếc tàu buôn của ông, ông đem theo cả triết gia Pangloss và chàng Ngây Thơ.
Pangloss giải thích cho ông tất cả mọi việc đều diễn tiến một cách hoàn thiện hơn như thế nào. Jacques không đồng ý và đáp:
- Con người đã làm hư hỏng cả thiên nhiên; họ không sinh ra là loài chó sói nhưng sau họ trở thành chó sói. Thiên Chúa không cho họ súng thần công, không cho họ lưỡi lê, vũ khí, vậy mà họ làm ra lưỡi lê và súng
thần công để tự tiêu diệt lẫn nhau. Tôi còn có thể nói thêm rằng trong những vụ khánh tận thì tòa án chiếm đoạt tài sản của những người bị khánh tận để mà gian lận tiền bạc của những chủ nợ.
Nhà triết học chột mắt liền cãi lại:
- Tất cả những sự kiện ấy đều là tối cần; những bất hạnh riêng biệt đã xây thành sự hữu hạnh của toàn thể; như vậy càng có nhiều sự bất hạnh riêng biệt bao nhiêu thì sự hữu hạnh công cộng càng hoàn thiện bấy nhiêu.
Trong khi Jacques đang lý sự thì gió lớn nổi lên tứ phía; con tàu gặp bão ghê gớm, khi gần tới hải cảng Lisbonne.
Chương V
BÃO TỐ, ĐẮM TÀU, ĐỘNG ĐẤT, KHIẾN CHO PANGLOSS, JACQUES VÀ CHÀNG NGÂY THƠ RA SAO
Phân nửa hành khách trên tàu vì mệt nhọc và tinh thần căng thẳng, không còn sức mà lo sợ nguy hiểm nữa; họ đã phải từ trần. Còn phân nửa thốt ra những tiếng kêu la hay quỳ xuống cầu nguyện. Trong khi ấy, những cánh buồm rách tả tơi, cột buồm gãy nát; chiếc tàu sắp bị vỡ đôi. Ai muốn làm gì thì làm, ai còn sức thì chống trả bão tố; không có ai chỉ huy, không ai nghe lời ai nữa. Jacques phụ tay vào việc lèo lái: ông bị một thủy thủ đang cơn tức giận đánh một đòn, làm cho ông ngã lăn trên đống ván. Nhưng trong khi đánh ông thì anh chàng thủy thủ này bị tàu lắc mạnh đến văng ra ngoài, mắc kẹt vào một cột buồm gãy. Jacques sẵn lòng từ thiện, chạy đến cứu anh lôi anh lên tàu. Vì sự cố gắng quá sức, ông té lăn xuống biển, trước cặp mắt lạnh lùng của tên thủy thủ không thèm ngó ngàng tới ông, để mặc cho ông bị làn sóng dìm xuống biển, chàng Ngây Thơ chạy tới gần ân nhân của chàng, trông thấy ông nổi lên một phút rồi chìm luôn mất dạng, chàng muốn nhảy xuống biển cứu ông nhưng triết gia Pangloss ngăn cản bằng cách biện luận rằng hải cảng Lisbonne đã được lập ra là để cho Jacques phải chết chìm ở đó. Trong khi ông biện luận một cách thiên tiên[33] như vậy thì chiếc tàu bể, tất cả mọi người đều chết, ngoại trừ Pangloss, chàng Ngây Thơ và tên thủy thù hung dữ, con người đã làm chết oan người đức độ Jacques. Tên khốn nạn sung sướng bơi vào bờ, còn Pangloss và chàng Ngây Thơ được đưa lên bờ trên một tấm ván.
Khi đã hồi tỉnh, họ đi bộ tới thành phố Lisbonne; họ còn một ít tiền, hy vọng rằng khỏi phải chết đói, sau khi đã thoát chết vì bão tố.
Họ tới thành phố, nước mắt giàn giụa, thương nhớ ân nhân, thì bỗng thấy đất lay chuyển dưới chân. Nước biển dâng lên cuồng loạn tại bến tàu và làm tan vỡ những chiếc tàu đã bỏ neo ở đó. Những trận bão lừa cuốn tro tàn bay khắp đường phố, các công viên. Nhà cửa sập đổ; những mái nhà chồng chất trên nền nhà. Ba vạn người đàn ông, đàn bà, đủ tuổi, bị đè bẹp dưới những đống đổ nát[34]. Tên thủy thủ miệng vừa huýt gió vừa chửi thề:
Ở
- Ở đây tất kiếm chác được đây.
Ông Pangloss lẩm bẩm trong miệng:
- Nguyên nhân của tai nạn này là do đâu?
- Đây là ngày tận thế rồi. Chàng Ngây Thơ la lên.
Tên thủy thủ chạy như cuồng loạn trên những đống nhà đổ nát, bất chấp cả cái chết để tìm tiền, tìm thấy là y chiếm lấy, rồi say xỉn, và, khi dã rượu, y mua những đặc ân của cô gái dễ dãi đầu tiên mà y gặp, trên chính những đổ nát của nhà cửa hoang tàn, giữa những người đang hấp hối và người chết. Pangloss kéo tay áo của y mà nói:
- Bạn ơi! Bạn đang làm điều ác, bạn không tuân theo lý trí phổ quát sao?
- Mẹ kiếp! Tao là thủy thủ, sinh ở Batavia[35]; đã bốn lần tao bước qua cây thánh giá trong bốn cuộc hành trình qua nước Nhật[36]. Chú mày thật khéo tìm được người để nói về lý trí phổ quát!
Vài mảnh đá bay tới làm cho chàng Ngây Thơ bị thương. Nằm xuống đất, cát bụi đầy người, chàng kêu với Pangloss:
- Chao ôi, cho tôi chút rượu và dâu, tôi chết mất.
Pangloss lại nói chuyện khác:
- Động đất không phải là một chuyện mới. Tỉnh Lima bên châu Mỹ năm ngoái cũng bị động đất như ở đây. Những nguyên nhân giống nhau đều sinh ra những hậu quả giống nhau; chắc là một luồng diêm sinh chạy ở dưới đất từ Lima[37] đến Lisbonne.
- Có lẽ không gì đúng hơn nữa, chàng Ngây Thơ nói, nhưng vì Chúa, cho tôi chút dâu và rượu[38].
- Sao cơ, có lẽ là thế nào? Triết gia đáp, tôi cả quyết rằng mọi điều đã được chứng tỏ cả rồi.
Chàng Ngây Thơ nằm bất tỉnh và Pangloss đem đến cho chàng một chút nước lấy ở cái giếng gần bên.
Hôm sau kiếm được một ít thực phẩm đào ở những đống nhà đổ nát, họ đem ăn, lại sức được một chút. Kế đó họ lo cứu giúp những nạn nhân thoát chết. Vài người được họ cứu giúp đã đãi họ một bữa ăn ngon mà người ta không thể ngờ là làm được ở đây.
Cố nhiên bữa ăn buồn bã, những thực khách vừa ăn vừa chảy nước mắt, nhưng Pangloss an ủi họ:
- Biến cố này còn khá lắm đó, vì nếu ở đây không có một núi lửa thì ở chỗ khác chắc có một núi lửa đang phun, còn tai hại biết mấy: tất cả mọi việc ở đây còn hơn ở những chỗ khác.
Một người mặc áo đen nhỏ bé, vốn là người quen thuộc với Pháp đình, đứng gần bên Pangloss lễ phép góp ý kiến:
- Hình như ông không tin có tội tổ truyền; vì nếu cái gì cũng hoàn hảo hơn thì đâu có sự sa ngã, sự trừng phạt[39]?
Pangloss trả lời một cách lẽ phép hơn:
- Tôi xin lỗi Ngài; vì chết chóc và tai họa cũng là những sự tốt trong cái thế giới hoàn hảo này.
- Vậy ngài không tin ở tự do hay sao?
- Xin ngài tha lỗi cho tôi; tự do có thể tồn tại với sự cần thiết tuyệt đối; chúng ta cần phải được tự do, vì ý chí quyết liệt…
Pangloss chưa dứt câu thì người kia đã hất hàm ra hiệu cho tên hầu cận đeo khí giới đang hầu rượu Porto hay Oporto cho ông ta.
Chương VI
NGƯỜI TA TIẾN HÀNH VỤ THIÊU SỐNG HAY HO NHƯ THẾ NÀO ĐỂ NGĂN ĐỘNG ĐẤT, VÀ CHÀNG NGÂY THƠ ĐÃ BỊ ĐÒN ĐÍT RA SAO
Vụ động đất này đã thiêu rụi ba phần tư thành phố Lisbonne. Các nhà hiền triết trong nước nhóm họp, thảo luận và đồng ý về một phương tiện để tránh cho thành phố này khỏi bị thiên tai tiêu diệt hoàn toàn. Họ quyết định theo đề nghị của trường Đại học Coïmbre, là đem vài người ra thiêu ở nơi công cộng trong một cuộc cúng lễ thần linh[40]. Đó là bí quyết hiệu nghiệm ngăn cản động đất.
Vì thế họ bắt một người ở Biscaye bị cáo là lấy người mẹ nuôi mình và hai người Bồ Đào Nha đã ăn thịt gà mà bỏ mỡ[41]. Sau bữa cúng kiến người ta trói triết gia Pangloss cùng với đồ đệ của ông ta là chàng Ngây Thơ; một người phạm tội đã nói triết lí, còn một người đã nghe với vẻ tán thành. Thầy trò bị đưa đến hai phòng riêng biệt rất mát mẻ, chưa bao giờ có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Tám ngày sau, họ bận cho cả hai thầy trò một bộ quần áo san-betino ma quái, đội lên đầu họ một cái mũ giấy; mũ áo của chàng Ngây Thơ được sơn hình ngọn lửa ngược xuống và hình ma quỷ không có đuôi, không có móng vuốt; còn ma quỷ ở mũ áo Pangloss thì có đuôi và móng vuốt; những ngọn lửa thì bốc lên. Cả hai ăn bận như vậy bị dẫn đi các nơi như một đám cộ, có những tiếng hát êm dịu pha tiếng nhạc ồn ào. Chàng Ngây Thơ bị đánh đòn vào đít trong khi mọi người xem đều ca hát. Còn người tỉnh Biscaye cùng hai người ăn thịt gà bị hỏa thiêu. Pangloss bị án thắt cổ dù rằng đó không phải là tập quán. Cùng ngày hôm ấy lại có động đất xảy ra với những tiếng đổ vỡ ghê sợ.
Chàng Ngây Thơ máu me đầy người, hoảng hốt, phập phồng lo sợ, lại bị giam cầm, lòng tự hỏi lòng: “Nếu mọi việc đều hoàn thiện hơn như ở đây thì ở những nơi khác ra sao? Khi ta gặp những người Bảo Gia Lợi, ta đã bị đánh đòn, việc ấy còn có thể bỏ qua được. Còn ngày nay Pangloss tiên sinh, nhà hiền triết giỏi nhất thiên hạ mà cũng bị treo cổ trước mắt ta không biết và lý do gì? Còn nhà từ thiện Jacques, người hoàn hảo nhất trong loài người, tại sao ông lại bị chết đuối ở cửa biển? Còn cô
Cunégonde nữa, hòn ngọc trong giới thiếu nữ, sao cô lại bị người ta mổ bụng?”
Chàng quay đi, đứng không vững, sau khi được nghe thuyết giáo, bị đánh đòn, được tha tội và ban phước, thì có một bà già đến hỏi chuyện chàng và bảo:
- Con ơi! Hãy can đảm và đi theo ta.
Chương VII
CHÀNG NGÂY THƠ ĐƯỢC BÀ GIÀ CHĂM SÓC VÀ GẶP LẠI NHỮNG NGƯỜI CHÀNG YÊU QUÝ
Chàng Ngây Thơ không thể lấy lại can đảm nhưng cũng cứ đi theo bà già đến một túp lều tồi tàn; bà đưa cho chàng một hũ thuốc mỡ để thoa vào các vết thương và cho chàng ăn uống no bụng. Bà chỉ cho chàng một cái giường khá sạch sẽ; gần bên giường mắc một bộ quần áo. Bà bảo chàng: “Con hãy ăn uống rồi nghỉ ngơi. Cầu xin Đức mẹ Đồng trinh, thánh Antoine xứ Padoue và thánh Jacques xứ Compostelle phù hộ cho con: Ngày mai ta sẽ trở lại”, chàng Ngây Thơ hết sức ngạc nhiên về mọi việc vừa xảy ra và về những gì chàng đã phải chịu đựng, nhất là bà già từ thiện, chàng muốn hôn tay bà. Bà bảo “Khỏi cần! Con cứ ăn uống, bôi thuốc rồi ngủ kỹ. Ngày mai ta sẽ trở lại đây”.
Chàng Ngây Thơ dù đau đớn vẫn có thể ăn ngon ngủ kỹ. Hôm sau bà già đem bữa điểm tâm cho chàng, thăm lại lưng chàng, tự tay bôi cho chàng một thứ thuốc khác; kế đến bà còn đem bữa ăn trưa và bữa ăn tối cho chàng nữa.
Những hôm sau nữa, bà lại làm đúng như vậy, không thiếu thứ gì. Chàng Ngây Thơ hỏi bà: “Bà là ai mà có lòng tốt như vậy? Tôi biết trả ơn sao đây?” Người phụ nữ tốt bụng không bao giờ trả lời. Một buổi tối bà lại đến, nhưng không đem theo bữa ăn mà chỉ bảo chàng: “Con hãy đi theo ta và đừng nói nửa lời”. Bà dìu cánh tay chàng cùng đi với chàng một đoạn đường đến một vùng thôn quê lân cận. Cả hai tới một căn nhà cô lập, chung quanh là cây cối, vườn hào. Bà gõ cửa, tức thì cánh cửa mở ra. Bà dẫn chàng Ngây Thơ lên một cái thang tới một căn phòng cẩn vàng, bảo chàng ngồi xuống một cái ghế dài lót nhung lụa. Rồi bà đi ra ngoài, khép cửa lại. Chàng Ngây Thơ tưởng là giấc chiêm bao; trước đây là một giấc mộng hãi hùng, bây giờ là một giấc mộng êm ái.
Lúc sau bà già trở lại: bà khó nhọc nâng đỡ một người đàn bà run lập cập, tầm vóc oai nghiêm đeo những nữ trang bằng ngọc quý, mặt che khăn choàng mỏng. Bà bảo chàng Ngây Thơ: “Con hãy kéo khăn choàng này xuống!” Chàng lại gần, tay run rẩy kéo chiếc khăn choàng ra. Thì ngạc
nhiên thay! Chàng tưởng nằm mộng, thấy cô Cunégonde, chàng nhìn rõ thì chính là cô ta. Chàng không còn đủ sức đứng vững nữa, không còn nói được một lời nào, chỉ quỳ phục xuống. Cô Cunégonde ngả mình trên chiếc ghế dài. Bà già đưa cho cả hai người hai ly rượu khai vị; họ uống rồi lấy lại được bình tĩnh để nói chuyện với nhau. Lúc đầu họ chỉ thốt ra được những tiếng cắt đoạn không thành câu, rồi hỏi han nhau, trả lời nhau, đầm đìa nước mắt. Bà già bảo hai người đừng gây tiếng động, rồi bà để cho họ nói chuyện tự do.
Chàng Ngây Thơ hỏi:
- Sao? Cô chưa chết à? Tôi gặp lại được cô ở Bồ Đào Nha sao! Người ta không hiếp dâm cô, không mổ bụng cô như lời triết gia Pangloss đã nói với tôi sao?
- Có chuyện ấy, nhưng người ta không phải bao giờ cũng chết do hai tai biến này.
- Còn thân phụ và thân mẫu cô có bị giết chứ?
- Việc đó có thật, cô vừa đáp vừa khóc.
- Còn anh cô[42] thì sao?
- Anh tôi cũng bị giết chết.
- Tại sao cô tới được nước Bồ Đào Nha? Sao cô biết tôi ở đây mà cho kêu tôi đến căn nhà này?
- Tôi sẽ nói tất cả cho anh hay, nhưng trước hết anh phải cho tôi biết tất cả những gì đã xảy ra cho anh từ lúc anh tặng tôi cái hôn vô tội, rồi anh bị đá đít đuổi đi.
Chàng Ngây Thơ vâng lời và kính cẩn kể chuyện lại mọi việc đã xảy ra dù anh còn yếu đuối và đau đớn. Tất cả mọi việc đã được kể lại với một giọng ngây thơ. Cô Cunégonde nhìn lên trời, nhỏ lệ thương tiếc cái chết của ông Jacques và ông Pangloss. Sau khi ấy, đến lượt cô thuật lại những việc đã xảy ra; chàng Ngây Thơ nghe thật kỹ không sót một lời nào, hai mắt mở lớn nhìn thẳng vào cô.
Chương VIII
CÂU CHUYỆN VỀ CÔ CUNÉGONDE
Cô Cunégonde thuật lại như sau:
- Lúc ấy tôi đang ngủ trên giường, một giấc ngủ say, khi quân Bảo Gia Lợi kéo đến lâu đài tốt đẹp của tôi. Chúng cắt cổ cha tôi và anh tôi, chém mẹ tôi thành từng khúc. Một tên Bảo Gia Lợi cao lớn tới sáu bộ thấy tôi ngất đi vì cảnh tượng rùng rợn ấy, nó hiếp tôi; ai ngờ hành động của nó làm cho tôi tỉnh lại. Tôi kêu la ầm ĩ, vùng vẫy, cào cắn nó và muốn móc mắt nó nữa mà không biết rằng mọi điều diễn ra trong lâu đài chỉ là một việc rất thông thường, giản dị: hắn đâm tôi một nhát dao vào cạnh sườn bên trái đến bây giờ còn vết sẹo.
- Ồ! Làm sao tôi coi được vết sẹo ấy. Chàng Ngây Thơ nói một cách khờ khạo.
- Khoan dã, đừng hấp tấp, rồi anh sẽ được coi; nhưng bây giờ để tôi kể tiếp câu chuyện.
- Thì kể tiếp đi.
- Một tên đại úy Bảo Gia Lợi bước vào; ông thấy tôi máu me đầm đìa, còn tên lính thì chẳng lấy thế làm phiền. Viên đại úy nổi giận vì sự thiếu lễ phép của nó, nên giết nó ngay trên mình tôi. Kế đến, ông cho lệnh băng bó vết thương của tôi và dẫn tôi về bản doanh như là một tù binh. Người ta cắt cho tôi làm bếp cho viên đại úy, giặt quần áo cho ông, không nhiều mấy. Ông ta thấy tôi có nhan sắc; phải nhìn nhận điều ấy. Tôi cũng thấy ông ta dễ thương và màu da trắng dịu; song ông ta không giỏi triết lí và không được thông minh cho lắm. Tôi thấy rõ ràng là ông không được giáo dục do một thầy giỏi như Pangloss tiên sinh. Sau ba tháng ăn xài đã hết tiền và đã chán tôi, ông ta bán tôi làm nô lệ cho một người Do Thái tên Issacar, từng buôn bán đầu cơ ở Hà Lan và ở Bồ Đào Nha, một người có tật yêu thiết tha đàn bà. Anh Do Thái này quấn quýt bên tôi nhưng anh không thể chinh phục được tôi, và tôi kháng cự lại anh ta hơn cả hồi tên lính Bảo Gia Lợi hãm hiếp. Một thiếu nữ danh giá như tôi có thể bị hãm hiếp một lần nhưng vì thế mà đức hạnh lại càng cao hơn. Tên Do Thái muốn chinh phục tôi
mới dẫn tôi về tòa nhà vùng nông thôn, tức là tòa nhà hiện nay tôi ở. Từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng lâu đài thân phụ tôi là đẹp nhất trần gian, nhưng tôi đã lầm!
“Một hôm vị quan tôn giáo Pháp đình gặp tôi đi lễ nhà thờ, ông cho người đến mời tôi về nhà nói chuyện bí mật. Tôi được dẫn về tòa lâu đài của ông. Trong khi nói chuyện, tôi cho ông biết tông chi của tôi thuộc về dòng dõi quyền quý. Ông liền thuyết phục tôi, cho tôi hay rằng lấy một anh Do Thái là hạ thấp danh giá của tôi biết chừng nào! Ông cho người đi đến gặp Issacar, người Do Thái đã mua tôi làm nô lệ, để khuyên anh này nhường tôi lại cho ông. Anh Issacar là chủ ngân hàng của triều đình, có thế lực, nên không chịu. Ông quan bèn dọa sẽ làm tội hỏa thiêu anh ta. Sau chót, anh Do Thái bị hăm dọa quá, nên mới chịu thỏa hiệp bằng một biện pháp như vầy: tòa nhà này và con người tôi sẽ trở thành của chung cả hai người; anh Do Thái được giữ những thứ hai, thứ tư và ngày lễ Sabbat[43]; còn vị pháp quan thì được hưởng những ngày còn lại trong tuần. Cuộc thỏa đồng này kéo dài sáu tháng. Nhưng không phải được trơn tru êm ấm. Cũng có những chuyện xung đột xảy ra vì một chi tiết đã không được dự trù trước; bởi vì không biết được là đêm thứ Bảy đến ngày Chủ nhật thuộc về luật cũ hay luật mới nên cũng chẳng biết nó thuộc về của ai[44]. Về phần tôi, tôi kháng cự cả hai người cho đến bây giờ và có lẽ vì thế mà tôi được cả hai người yêu tôi tha thiết.
“Sau chót, để dứt tai họa động đất và cũng là để hăm dọa anh Do Thái, vị pháp quan tổ chức vụ hỏa thiêu. Tôi hân hạnh được ông ta mời đến đó. Tôi được xếp cho ngồi một chỗ tốt. Sau lễ nhà thờ, trước khi hành hình tội phạm, người ta mời các bà các cô ăn uống thỏa thê. Thật ra tôi rùng rợn khi thấy những người bị thiêu trước: hai người Do Thái, một người tỉnh Biscaye, một con người lương thiện. Nhưng tôi bỗng ngạc nhiên, bối rối, kinh hãi biết bao khi thấy một người giống như Pangloss tiên sinh, mặt bị che lấp bởi cái mũ ma quỷ. Tôi dụi mắt nhìn kỹ thì thấy người ấy bị thắt cổ; tôi rùng rợn té xỉu; khi tỉnh lại, thì tôi lại thấy anh bị lột trần, thật vô cùng kinh khủng, hãi hùng, đau đớn, tuyệt vọng. Nói thật với anh, da anh còn trắng trẻo hơn, hồng hào hơn cả da anh chàng đại úy Bảo Gia Lợi của tôi. Thấy vậy, sự căm phẫn của tôi càng tăng lên gấp bội. Tôi muốn thét lên: “Tụi đã man, bay hãy ngừng tay”. Tôi không còn sức mà la thét nữa,
mà nếu có thì cũng vô ích. Tôi tự hỏi: “Tại sao chàng Ngây Thơ yêu dấu và tiên sinh Pangloss lại bị lưu đày đến Lisbonne để mà ngày nay chịu thảm họa như thế này, người thì bị đánh trăm roi, người thì bị treo cổ theo lệnh ngài pháp quan, là người yêu quý mình? Hay là Pangloss tiên sinh đã lừa tôi một cách tàn ác, khi ông bảo tôi rằng: “Cứ yên tâm, mọi việc rồi sẽ tốt hơn.”
“Tâm thần dao động, không còn làm chủ được thần kinh, tôi tưởng phải chết vì xúc động. Đầu óc tôi thấy lại bao thảm cảnh cũ: thân phụ tôi, thân mẫu tôi, anh trai tôi bị tàn sát; thái độ láo xược của tên lính vô lại Bảo Gia Lợi; nhát dao mà gã đâm tôi; rồi đến thời kỳ tôi làm nô lệ, hầu hạ viên đại úy Bảo Gia Lợi; kế lại qua tay tên Do Thái Issacar, lão pháp quan. Tôi xúc động nhất là lúc thầy Pangloss bị hình tội và anh thì bị xử đánh. Tôi mơ tưởng lại cái hôn anh đã tặng tôi lần đầu, sau bức bình phong, trong cái ngày gặp anh lần chót. Tôi tạ ơn chúa đã xui khiến sao anh lại tới được đây. Tôi gửi gắm bà già chăm sóc cho anh và khi nào thuận tiện thì dẫn anh đến với tôi. Bà làm đúng lời tôi nhờ bà. Bây giờ tôi có thể sung sướng gặp lại anh, tâm sự với anh và nghe anh tâm sự. Nhưng bây giờ chắc anh đói lắm rồi, tôi cũng đang rất đói. Chúng ta hãy bắt đầu ăn uống đã”.
Thế là hai người ngồi vào bàn ăn. Sau bữa ăn, họ lại ra ghế trường kỷ ngồi nói chuyện. Đang nói chuyện thì họ thấy người Do Thái Issacar, một trong hai vị chủ nhà, bước vào. Hôm nay là ngày lễ Sabbat; anh ta tới để hưởng quyền lợi của mình và tỏ nỗi lòng si mê đối với Cunégonde.
Chương IX
CHÀNG NGÂY THƠ GIẾT MỘT LÚC HAI MẠNG NGƯỜI
Tên Issacar này là một tên nóng tính nhất trong những người Do Thái mà ta từng thấy ở Israël kể từ khi người Do Thái bị cầm tù ở Babylone[45] đến nay. Y la lớn: “Đồ chó cái Galilée[46], mi đã chia sẻ mối tình với tên quan tòa của tôn giáo Pháp đình còn chưa đủ sao? Mà lại còn thêm thằng khốn nạn này nữa?” Nói rồi, y rút một lưỡi dao nhọn mà luôn luôn y đem theo để phòng thân; nhưng y có dè đâu đối thủ của y cũng có vũ khí, đó là một đoản kiếm mà bà già đã nhét vào bộ y phục khi giao cho chàng Ngây Thơ. Chàng liền rút kiếm, dầu tính tình chàng hiền lành bấy lâu nay; chàng đâm tên Do Thái chết nằm sóng sượt trên sàn nhà, dưới chân cô Cunégonde. Cô la lên: “Đức Mẹ ơi! Chúng ta sẽ ra sao đây? Một người bị giết tại nhà tôi! Nếu công lý can thiệp thì chúng ta nguy mất!”
Chàng Ngây Thơ đáp:
- Nếu triết gia Pangloss không bị treo cổ thì ông đã giúp cho chúng ta một lời chỉ bảo trong trường hợp cực đoan này, vì ông là một nhà đại hiền triết. Nay không có ông, chúng ta hãy thỉnh ý bà già.
Bà già là một người rất khôn ngoan. Bà vừa bắt đầu cho ý kiến thì cánh cửa nhỏ bên hông mở ra. Lúc ấy là một giờ đêm, kể như bắt đầu ngày chủ nhật, là ngày của ngài pháp quan. Ngài bước vào trong phòng; trông thấy chàng Ngây Thơ tay cầm đoản kiếm; dưới đất một tử thi nằm dài; cô Cunégonde sợ hãi, còn bà già thì đang lý luận, cho ý kiến.
Lúc này chàng Ngây Thơ suy luận: “Nếu ông lớn này mà kêu lên thì chắc chắn ông ta có thể làm cho ta bị xử hỏa thiêu; cô Cunégonde cũng sẽ có thể chịu chung số phận như ta. Ông ta đã từng cho đánh ta tàn nhẫn. Ta lại là kẻ tình địch của ông, không cần do dự gì nữa.” Suy luận vắn tắt và mau lẹ, chàng không để cho ông quan tòa qua khỏi cơn ngạc nhiên; chàng đâm cho ông một nhát kiếm từ bên này qua bên kia bụng, và đẩy tử thi nằm bên cạnh tên Do Thái. Cunégonde liền nói: “Lại thêm một cái chết nữa. Chúng ta phải đi xa nơi này; giờ chót của chúng ta đã tới. Em không hiểu
tại sao anh bẩm sinh là người nhu mì mà nay lại có thể trong hai phút giết một người Do Thái và một ông tòa?”
Chàng Ngây Thơ trả lời: “Khi người ta si tình và ghen tuông, sau khi bị pháp luật đánh đòn đau đớn, thì người ta không còn biết gì nữa!”
Bà già cất tiếng bảo cả hai người: “Hiện nay có ba con ngựa giống tốt trong chuồng ngựa, sẵn sàng yên cương. Chàng Ngây Thơ hãy chuẩn bị ngựa ngay lập tức; còn cô có sẵn kim cương, ngọc vàng, châu báu. Chúng ta hãy mau lên ngựa, trốn đến thành Cadix[47]; trời đang yên bể đang lặng, thật là một cuộc hành trình tươi đẹp, trong đêm trăng sáng. Tuy mông đít tôi chỉ còn một bên, song tôi cũng có thể ngồi ngựa được”.
Chàng Ngây Thơ đưa ba con ngựa ra; chàng cùng bà già và cô Cunégonde cưỡi ngựa đi một mạch ba mươi dặm. Trong khi họ đang cao chạy xa bay thì hội thánh Sainte-Hermandad[48] đến ngôi nhà, người ta mai táng đức ngài trong một nhà thờ đẹp, còn thì người ta ném tên Issacar ra bãi rác. Cả ba người đã tới tỉnh nhỏ Avacéna[49], ở giữa vùng núi Sierra Morena và vào cư ngụ ở một quán trọ.
Chương X
CHÀNG NGÂY THƠ, CUNÉGONDE VÀ BÀ GIÀ CỰC KHỔ NHƯ THẾ NÀO KHI TỚI CADIX. BA NGƯỜI XUỐNG TÀU VƯỢT BIỂN
Tại quán trọ, cô Cunégonde vừa nói vừa khóc:
- Ai đã ăn cắp ngọc vàng và kim cương của tôi nè? Chúng ta sẽ sống ra sao đây và làm gì để sống? Đâu còn kiếm ra được người giàu có như anh Do Thái và ông quan tòa ấy, để tặng lại cho tôi những bảo vật khác nữa?
- Than ôi! Bà già nói, tôi rất nghi ngờ ông linh mục dòng François, đêm qua cùng ngủ trọ với chúng ta trong cùng một quán ở Badajoz[50]. Tôi không dám ức đoán một cách táo bạo, nhưng tôi thấy ông ta vào phòng chúng ta hai lần và ông ta rời quán trọ trước chúng ta khá lâu.
- Tôi còn nhớ, chàng Ngây Thơ nói, triết gia Pangloss thường chứng minh rằng tất cả của cải trên cõi đời đều là của chung cho mọi người, ai cũng có quyền hưởng ngang nhau. Theo nguyên tắc ấy, thì ông linh mục phải để lại cho chúng ta một phần của cải, để chúng ta hoàn tất cuộc hành trình của chúng ta. Nhưng nay chẳng còn gì hết cả, phải chăng cô Cunégonde xinh đẹp của tôi?
- Không còn một xu nhỏ. Cô đáp.
- Vậy thì phải làm sao đây? chàng hỏi.
- Chúng ta hãy bán một trong ba con ngựa của chúng ta, bà già bàn vậy. Tôi sẽ ngồi trên con ngựa của cô nương, sau lưng cô và chúng ta sẽ tới Cadix.
Tại quán trọ, lúc ấy có một tu viện trưởng dòng Thánh Benoit nhận mua con ngựa với giá rẻ. Nhờ vậy mà chàng Ngây Thơ, Cunégonde và bà già di qua Lucena, Chillas, Lebrixa, và cuối cùng đến Cadix. Tại đây người ta đang trang bị cho một đoàn tàu và tập trung quân lính để đàn áp những
linh mục dòng Tên mà người ta tố cáo là xách động dân chúng xứ Paraguay chống lại vua Y Pha Nho[51] và vua Bồ Đào Nha ở gần thành phố Thánh Thể[52], chàng Ngây Thơ vì đã phục vụ trong quân đội Bảo Gia Lợi nên
được thâu dụng; trước mặt vị tướng chỉ huy nhóm quân sĩ bé nhỏ, chàng biểu diễn tài nghệ một cách khôn khéo, lanh lẹ, uy nghi, đến nỗi chàng được chỉ huy một liên đội bộ binh. Thế là chàng được chức đại úy. Chàng xuống tàu với cô Cunégonde, bà già, cùng hai người hầu cận và hai con ngựa giống tốt mà chàng đã lấy của ngài pháp quan Bồ Đào Nha.
Trong khi vượt biển, ba người bàn luận về triết lý của Pangloss. Chàng Ngây Thơ nói:
- Chúng ta sắp đến một thế giới khác; có lẽ tại đó tất cả mọi việc đều hoàn hảo. Vì chúng ta phải nhận rằng trong thế giới của chúng ta, người ta phải than phiền một chút về phương diện vật chất và tinh thần.
Cô Cunégonde nói:
- Em yêu anh hết lòng, nhưng em còn vương vấn trong lòng về những việc đã trông thấy, đã bị thử thách.
- Mọi việc sẽ tốt hơn, chàng Ngây Thơ cãi lại. Biển cả của thế giới mới đã thấy tốt hơn những biển cả của Âu châu chúng ta; nó yên lặng, và ít gió lớn[53]. Chắc chắn Tân Thế giới sẽ là thế giới hoàn hảo hơn tất cả các thế giới khác.
Cô Cunégonde nói:
- Cầu Chúa cho được như vậy, nhưng em đã quá khổ sở nên lòng em đóng kín, không còn để cho hy vọng nào lọt vào.
Bà già xen vào nói:
- Cô nương than phiền số phận nhưng cô nương đã không gặp những đau khổ bằng tôi.
Cunégonde muốn bật cười vì thấy bà già nói chơi; sao bà lại dám quả quyết là khổ hơn cô, nên cô nói lại với bà:
- Bà ơi! Tôi chỉ thấy bà khổ hơn tôi nếu bà đã bị hai tên Bảo Gia Lợi hãm hiếp, nếu bà bị đâm hai nhát dao vào bụng, nếu người ta phá tiêu hai tòa lâu đài của bà, nếu người ta giết trước mắt bà hai người mẹ và hai người cha, và nếu bà đã nhìn thấy hai người yêu của bà bị đánh trong một
cuộc lễ hòa thiêu. Cần phải thêm rằng tôi sinh ra dòng dõi nam tước với 72 đời quý tộc, mà sau phải đi làm chị bếp.
- Thưa cô nương, bà già đáp, cô nương không biết dòng dõi của tôi; nếu tôi nói rõ ra thì chắc là cô nương phải ngưng hết lời phán đoán của cô nương.
Lời của bà già gây một sự tò mò cực điểm trong đầu óc của cô Cunégonde và chàng Ngây Thơ.
Chương XI
CÂU CHUYỆM CỦA BÀ GIÀ
Bà già thuật lại cuộc đời của bà:
“Hồi trước mắt tôi đâu có toét nhoèn và viền đỏ như ngày nay, mũi tôi đâu có sa xuống tới gần cằm, và tôi đâu có phải là tôi đòi. Tôi là con gái của Đức Giáo hoàng Urbain thứ Mười và công chúa xứ Palestrine[54]. Tôi được nuôi dưỡng cho tới mười bốn tuổi trong một cung điện mà nếu so sánh thì các lâu đài của hàng nam tước nước Đức của các ông chỉ đáng là chuồng ngựa. Một cái áo dài của tôi trị giá hơn tất cả những bảo vật lộng lẫy của tỉnh Westphalie. Lớn lên, tôi càng đẹp, càng duyên dáng, càng tài ba; ở giữa những cuộc vui chơi, tôi được hưởng những sự tôn kính và có tương lai sán lạn. Hẳn là tôi gợi tình, ngực tôi đầy đặn; mà ngực thế mới là ngực chứ! Trắng trẻo, săn chắc, có dáng như ngực của Vệ nữ Médicis; và cặp mắt mới đẹp làm sao, mí mắt mới đẹp làm sao! Lông mày mới đen làm sao! Ánh long lanh loé lên trong mắt tôi át hẳn tia sáng long lanh của các vì sao, như những thi sĩ chỗ tôi từng ca ngợi. Những thị tì thay quần áo cho tôi đều phải ngây ngất khi nhìn phía trước hoặc phía sau của tôi. Tất cả những người đàn ông có lẽ đều muốn biến thành những thị tì ấy.
“Về sau, tôi đính hôn với một ông hoàng tối cao xứ Massa-Carrara[55] cũng đẹp như tôi, tính tình dịu hiền và khả ái, thông minh lại diễm tình. Tôi yêu chàng như là mọi người yêu đương lần đầu tiên, với lòng nồng nhiệt. Hôn lễ được chuẩn bị, thật là huy hoàng, chưa bao giờ thấy: Những cuộc vui được mở ra, nào hội hè, nào đua ngựa, những cuộc hát triền miên. Trong toàn quốc Ý Đại Lợi các thi sĩ tặng tôi những bài sonnet[56] mà không bài nào là tầm thường. Đang khi tôi lên đến đỉnh điểm của hạnh phúc thì một bà hầu tước già, trước kia là tình nhân của ông hoàng ấy, mời ông đến nhà dùng sôcôla[57]. Ông hoàng lăn ra chết sau chưa đầy hai giờ quằn quại đau đớn. Song việc này chỉ là việc nhỏ. Thân mẫu của tôi thất vọng và dầu không đau khổ bằng tôi, bà cũng muốn đi xa ít lâu để tránh nơi buồn thảm. Bà có một thửa đất rất đẹp ở gần tỉnh Gaètes[58]; mẹ con tôi dùng một chiến thuyền ra đi, một chiến thuyền mạ vàng như bàn thờ thánh
Pierre ở La Mã. Bỗng nhiên một tàu cướp biển ở Salé[59] xông tới và tràn ngập chiến thuyền của chúng tôi. Quân lính của chúng tôi chống trả như lính của giáo hoàng, nghĩa là bọn chúng đều quỳ gối, bỏ vũ khí, đầu hàng, xin tha chết.
“Bọn giặc biển liền bóc lột chúng tôi, khiến chúng tôi mình trần như nhộng. Thân mẫu của tôi, những thị tì và cho đến cả tôi cũng bị nữa. Bọn cướp biển lột quần áo chúng tôi mau lẹ khác thường. Có điều làm cho chúng tôi ngạc nhiên hơn nữa là chúng thọc tay vào chỗ kín của chúng tôi, nơi mà phụ nữ chỉ thường thọc “mỏ vịt”. Hành động ấy rất kỳ lạ đối với tôi. Sau đó tôi mới hiếu rằng chúng muốn tìm xem chúng tôi có giấu hột xoàn không; đó là một tục lệ đã được đặt ra từ thời sơ cổ trong những nước bán khai mà dân chúng phiêu lưu ngoài biển[60]. Tôi cũng được biết rằng những hiệp sĩ tu hành ở đảo Malte[61] không bao giờ bỏ qua tục lệ ấy khi họ bắt được người Thổ Nhĩ Kỳ dù là trai hay gái. Đó là một quy định trong quyền con người mà người ta không bao giờ vi phạm.
“Tôi khỏi phải nói, các bạn cũng thừa hiểu một thiếu nữ cùng mẫu thân bị bắt làm nô lệ, đưa đến Maroc, thì cực khổ biết bao: Các bạn cũng ý niệm được chúng tôi đau đớn thế nào trong chiếc tàu của bọn giặc biển. Thân mẫu của tôi hồi ấy còn rất đẹp; những thị tì của chúng tôi, những phụ nữ hầu hạ công việc trong phòng, có nhan sắc mà người ta không bao giờ có thể thấy được trong toàn cõi Phi châu. Riêng tôi, thì tôi có sắc đẹp mê hồn, duyên dáng đặc biệt và hãy còn trinh trắng. Nhưng tôi không thể giữ được bao lâu: Bông hoa tươi thắm để dành cho ông hoàng xứ Massa-Carrara, nay bị tên tướng cướp biển chiếm đoạt. Tên này là một thằng mọi da đen ghê tởm; thế mà nó còn tưởng là hân hạnh cho tôi lắm đó. Tất nhiên thân mẫu tôi và tôi phải khỏe mạnh lắm mới có thể chịu đựng được những cuộc thử thách cho đến khi tới Maroc. Chúng ta hãy bỏ qua những việc không đáng nhắc lại ấy.
“Khi chúng tôi tới nơi thì Maroc đang chìm đắm trong máu lửa: năm mươi người con trai của hoàng đế Muley Ismaël[62] có mỗi người một phe đảng, khiến cho trong nước xảy ra năm mươi cuộc nội chiến, giữa những người da đen, giữa những người da xạm và giữa những người lai hai giống. Thật là một cuộc tàn sát liên tục trong toàn cõi đế quốc.
“Chúng tôi vừa lên bờ thì những tên da đen của một phái thù địch với phe hải khấu của tàu tôi, chạy đến cướp chiến phẩm. Chúng cướp kim cương, vàng bạc, rồi sau đến con người chúng tôi, mà chúng coi cũng là quý vật đáng giá. Tôi được chứng kiến cuộc chiến đấu dữ dội chưa bao giờ có thể thấy dưới trời Âu của các bạn. Người phương Bắc không có máu hung hăng. Họ không phát rồ phát dại vì phụ nữ trong khi sự rồ dại ấy là phổ biến ở châu Phi. Nếu trong huyết quản của người Âu châu có sữa thì huyết quản của dân miên núi Atlas[63] và các xứ lân cận lại có lửa. Họ đánh nhau cuồng nhiệt như những con sư tử, những con cọp, những con rắn địa phương; kẻ nào thắng thì được chiếm đoạt chúng tôi. Một thổ dân nắm cánh tay mặt của mẫu thân tôi, trong khi viên phó thuyền trưởng của chiếc tàu chở tôi, giữ cánh tay trái; một binh sĩ địa phương giằng lấy một chân của bà, trong khi một tên giặc nắm lấy chân còn lại. Những thị tì của chúng tôi hầu hết cũng bị tranh giành, xâu xé giữa bốn tên lính như thế. Viên thuyền trưởng của tôi giấu tôi đằng sau lưng; y cầm một thanh mã tấu chém tất cả mọi người xông đến. Sau chót tôi trông thấy tất cả những thị tì và cả thân mẫu tôi nữa bị xâu xé, chặt ra từng khúc, bởi những con vật hung ác đã tranh giành nhau. Tất cả mọi người trong chiến thuyền của tôi đều chết hết cho đến cả viên thuyền trưởng. Còn tôi hấp hối trên đống tử thi. Những cảnh tượng rùng rợn như vậy cũng xảy ra trong suốt ba trăm dặm; vậy mà người ta không quên năm buổi lẽ cầu nguyện mỗi ngày, mà đức giáo chủ Mohamet đã truyền cho dân Hồi phải tuân theo.
“Tôi khó nhọc lắm mới ra khỏi đống tử thi, lết đến một gốc cây cam lớn trên bờ suối; tôi té khụy ở đó vì kinh hãi, mệt nhọc, thất vọng và đói. Liền đó tôi ngất đi trong một giấc ngủ dài giữa cái sống và cái chết. Bỗng nhiên tôi thấy như có bàn tay tì trên da tôi. Mở mắt thì thấy một người da trắng, vẻ mặt nồng hậu, thở dài và lẩm bẩm câu tiếng Ý: Mỡ trước mặt mèo mà chả làm gì được[64]!
Chương XII
CÂU CHUYỆN TIẾP VỀ NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA BÀ GIÀ
“Tôi ngạc nhiên và sung sướng được nghe nói tiếng Ý, tiếng mẹ đẻ của tôi, và tôi cũng không kém ngạc nhiên về những lời thốt ra ở miệng người ấy; tôi đáp lại ông ta rằng còn có nhiều nỗi bất hạnh còn lớn hơn nhiều so với nỗi bất hạnh mà ông vừa than phiền. Tôi nói vắn tắt ông nghe những sự khủng khiếp mà tôi vừa trải qua, rồi tôi té xuống vì kiệt lực. Ông đưa tôi vào một nhà kế cận, cho tôi ăn uống, an ủi tôi, ca tụng tôi rằng ông chưa bao giờ thấy người đẹp bằng tôi. Ông cũng cho hay là không bao giờ ông hối tiếc về việc làm ơn cho người ta mà không được đền đáp. Ông nói:
- Tôi sinh tại thành phố Naples[65]. Tại đây mỗi năm có hai, ba ngàn trẻ trai bị hoạn; có đứa chết yểu, có đứa sống, còn có những đứa có giọng trong trẻo như phụ nữ, lại còn có đứa lớn lên cai trị đất nước[66]. Tôi nhờ một cuộc giải phẫu có kết quả tốt mà có được một giọng thanh tao; tôi trở thành nhạc sĩ trong tiểu giáo đường của bà công chúa xứ Palestrine…
Tôi la lên:
- Té ra là tiểu giáo đường của thân mẫu tôi!
- Của thân mẫu cô sao? Ông vừa hỏi vừa chảy nước mắt. Vậy ra cô là cô bé mà tôi chăm sóc, dạy dỗ cho đến năm sáu tuổi? Lúc ấy cô đã bắt đầu có nhan sắc như bây giờ.
- Chính tôi đây! Còn thân mẫu tôi bị chém từng khúc, nằm trong đống tử thi cách đây chừng bốn trăm thước.
Bà già kể tiếp:
“Tôi thuật cho ông ta nghe mọi việc đã xảy đến cho tôi. Và ông cũng kể cho tôi nghe tại sao ông có mặt ở Maroc. Nguyên là ông được một cường quốc Cơ đốc giáo phái đi thương thuyết với vua Maroc một hiệp ước theo đó cường quốc ấy sẽ cung cấp cho nhà vua thuốc súng và đại bác cùng chiến thuyền để giúp vua diệt trừ cuộc buôn bán của những người Cơ đốc khác. Ông kết luận:
- Sứ mạng của tôi đã hoàn tất. Tôi sẽ xuống tàu ở Ceuta[67] để về nước. Tôi sẽ đưa cô đi theo về Ý Đại Lợi. Khổ thân tôi, mỡ trước mặt mèo mà chả làm gì được!
“Tôi cảm ơn ông mà nước mắt đầm đìa. Nhưng thay vì đưa tôi về Ý, ông ta lại đưa tôi đến tỉnh Alger, bán tôi cho viên thủ trấn tỉnh này. Tôi vừa bị bán xong thì bệnh dịch hạch lan tràn từ Á châu, sang Âu châu, Phi châu, và gây tai hại dữ dội cho tỉnh Alger. Thưa cô nương, cô đã thấy động đất nhưng đã bao giờ cô thấy bệnh dịch hạch chưa?”
Cunégonde đáp:
- Chưa bao giờ hết!
- Nếu cô đã biết bệnh dịch hạch, cô sẽ thấy nó còn ghê gớm hơn động đất nhiều. Nó rất thường xảy ra ở Phi châu. Tôi đã mắc phải bệnh ấy. Cô hãy tưởng tượng tình cảnh của tôi: con gái một vị Giáo hoàng mà trong thời gian có ba tháng phải chịu nghèo khó, nô lệ, bị hãm hiếp gần như thường nhật, và phải thấy thân mẫu bị chặt ra bốn khúc, rồi đói khổ, chứng kiến cảnh chiến tranh, suýt chết vì bị bệnh dịch hạch ở Alger. Vậy mà tôi không chết, còn vị thủ trấn và tất cả cung tần của ông lại chết hết.
“Khi bệnh dịch hạch chấm dứt, người ta đem bán những nô lệ của vị thủ trấn. Một anh lái buôn mua tôi, đưa tôi đi Tunis[68]. Y bán lại tôi cho một lái buôn khác; tên này lại bán tôi cho một người ở Tripoli[69]. TừTripoli tôi lại bị đưa đi Alexandrie[70], từ Alexandrie tôi lại bị bán đi Smyrne và từ Smyrne[71] người ta bán tôi đến Constantinople. Sau chót tôi vào tay một vị chỉ huy quân đội bảo vệ vịnh Azof[72] chống lại quân Nga đang vây hãm.
“Viên chỉ huy này là một người hào hoa phong nhã. Ông đem theo mình tất cả nữ tì và tôi. Ông cho chúng tôi ở trong một pháo đài nhỏ có hai hoạn quan và hai chục lính canh gác. Người ta giết người Nga rất dữ dội và cũng bị lính Nga trả thù giết không kể trai gái, già trẻ. Quân Nga vây hãm vịnh Azof, quyết bắt quân sĩ phe chúng tôi đầu hàng vì hết lương thực. Song bên phe chúng tôi đã thề không hàng. Binh sĩ bị bao vây đói quá
phải thịt hai hoạn quan để ăn vì không ăn thì sẽ không giữ được lời thề. Sau họ tính ăn thịt đến các phụ nữ.
“Trong nhóm tôi có một vị giám mục Hồi giáo. Ông giảng thuyết cho binh sĩ và khuyên họ đừng ăn thịt chúng tôi hoàn toàn. Ông nói với họ: “Các bạn chỉ cắt một bên mông của mỗi bà này mà ăn. Ăn như thế ngon phải biết. Nếu cần nữa thì vài ngày sau lại có thịt tươi[73]. Trời sẽ chứng giám cho hành động từ thiện của các bạn, vì các bạn không giết người. Các bạn sẽ được Trời cứu”.
“Vị giám mục ấy có tài hùng biện, thuyết phục được đám lính. Chúng tôi phải chịu cắt mông, đau tưởng như muốn chết được. Vị giám mục dịt thuốc cho chúng tôi như người ta vẫn làm cho trẻ vừa cắt bao quy đầu.
“Bọn lính vừa ăn bữa thịt người mà chúng tôi cung cấp cho họ, thì các tàu Nga đã chở quân đổ bộ. Bên chúng tôi, không một tên lính nào thoát chết. Song nhóm đàn bà chúng tôi không được họ để ý. Ở đâu cũng thường thấy có những y sĩ giải phẫu người Pháp: một trong số họ, rất giỏi, chăm sóc chúng tôi. Ông ta chữa khỏi cho chúng tôi, và suốt đời tôi vẫn nhớ rằng, khi vết thương của tôi lành hẳn, ông ta gạ gẫm tôi. Hơn nữa, ông ta còn nói tất cả chúng tôi hãy khuây khỏa đi thôi; ông cho biết thường khi có cuộc vây hãm vẫn xảy ra những việc ăn thịt người như vậy, đó là quy luật của chiến tranh.
“Khi chị em bạn gái chúng tôi đi đứng được, người ta gửi chúng tôi đến Mạc Tư Khoa[74]. Tôi bị “chia phần” cho một nhà quý tộc; ông này cho tôi làm vườn và thường đánh tôi mỗi ngày hai chục roi. Nhưng chỉ hai tháng sau ông cùng ba chục lãnh chúa khác bị xử tử vì những chuyện lôi thôi trong triều đình. Lợi dụng tình thế ấy, tôi bỏ trốn. Tôi đi khắp nước Nga, làm hầu gái cho quán rượu ở Riga rồi ở Rostock, ở Vismar, ở Leipsick, ở Cassel, ở Utrecht, ở Leyde, ở La Haye, ở Rotterdam[75]. Tôi già nua vì đau khổ và lúc nào cũng nhớ mình từng là con gái một giáo hoàng. Tôi muốn tự tử cả trăm lần song tôi lại vẫn còn yêu đời. Có lẽ sự nhu nhược buồn cười ấy là một ý tưởng tai hại nhất của con người: còn gì ngu xuẩn bằng mình có một gánh nặng trên vai muốn trút bỏ xuống đất mà sao lại cứ vác nó mãi mãi. Và còn gì ngu xuẩn bằng đã ghê tởm bản thân
mình mà lại cứ khư khư giữ lấy nó; tay vẫn cứ vuốt ve con rắn độc xâu xé mình cho đến lúc nó ăn đến trái tim mình?
“Tại các xứ mà số phận đã bắt tôi đi qua, trong các tửu quán mà tôi làm kẻ hầu hạ, tôi từng thấy vô số kẻ chán đời cay đắng, vậy mà chỉ có được 12 người dám kết liễu đau khổ của họ: ba người mọi da đen, bốn người Anh, bốn người Genève, và một giáo sư Đức tên là Robeck[76]. Tôi kết thúc cuộc gian lao bằng sự đi làm tôi tớ cho người Do Thái Issacar; ông ta phái tôi săn sóc bên cô nương và từ đó tôi quan tâm đến những hoạn nạn của cô hơn là của tôi. Đáng lẽ ra tôi không bao giờ thuật lại cho cô nghe chuyện tôi. Song cô đã gửi lại ký ức của tôi và có thông lệ trong khi con tàu đi xa là hành khách thường kể cho nhau nghe những câu chuyện của mình, cho đỡ buồn. Tôi là người đã từng trải việc đời, tôi hiểu thế thái nhân tình. Bây giờ tôi muốn yêu cầu cô nương thử bày ra một trò chơi; cô hãy mời mỗi hành khách ở tàu này kể chuyện về cuộc đời họ cho chúng ta cùng nghe. Nếu có ai chán ngán cuộc đời, cho mình là khổ sở nhất trần gian, khổ sở hơn cả tôi, thì tôi xin chịu cho cô dộng đầu tôi xuống biển”.
Chương XIII
CHÀNG NGÂY THƠ BUỘC LÒNG PHẢI CÁCH BIỆT CUNÉGONDE VÀ BÀ GIÀ
Cô Cunégonde nghe xong câu chuyện của bà già, bèn thi lễ với bà đúng theo nghi thức đối với cấp bậc quý tộc của bà và giá trị của bà. Cô cũng chấp nhận đề nghị của bà: cô yêu cầu hành khách lần lượt thuật lại cuộc đời của mình cho tất cả mọi người cùng nghe. Chàng Ngây Thơ và cô phải chịu là bà già có lý. Chàng nói thêm: “Tiếc rằng triết gia Pangloss đã bị xử giảo. Nếu có ông ở đây thì chắc là ông sẽ phát biểu lắm cao kiến như đau khổ vật chất và sự đau khổ tinh thần lan tràn trên đất liền và biển cả. Tôi sẽ cảm thấy đủ sức khỏe để lễ phép đưa ra vài điều bác luận đối với ý kiến của ông”.
Trong khi mỗi hành khách luân phiên nhau kể lại các biến cố của mình, con tàu lặng lẽ đi trên biển tới hải cảng Buénos-Ayres[77].
Tàu cập bến. Cô Cunégonde, đại uý Ngây Thơ và bà già đến viếng thăm Tổng trấn Don Fernando d’Ibaraa y Figueora y Mascarenes y Lampourdos y Souza[78]. Vị lãnh chúa này có một thái độ kiêu hãnh, cho xứng đáng với cái tên dài thòng của ông. Ông nghếch mũi lên, thẳng đầu, uy nghi nhìn trời, giọng nói đanh thép khi tiếp khách; ai đến chào ông thấy thái độ hiên ngang ấy cũng muốn đánh cho bõ ghét. Ông có tính ham thích đàn bà đến cuồng nhiệt. Bởi vậy cô Cunégonde đối với ông là người đẹp nhất đời, ông nói chưa bao giờ thấy người đẹp đến thế. Điều ông hỏi cô trước hết là cô có phải là vợ đại uý Ngây Thơ không? Thái độ của ông khi đưa ra câu hỏi ấy làm cho chàng Ngây Thơ sửng sốt. Chàng không dám nói cô là vợ chàng và sự thật cô chưa phải là vợ. Chàng cũng không dám nói cô là em và điều này cũng không đúng nữa; lối nói dối như vậy rất hợp thời với người xưa[79] và cũng còn có ích cho người đời nay nữa; song chàng Ngây Thơ có một tâm hồn trong trắng quá, khiến chàng không thể nói sai sự thật. Chàng đáp: “Cô Cunégonde sắp cho tôi cái hân hạnh được cưới cô. Và tôi xin Ngài Tổng trấn sẽ đứng ra làm chủ lễ kết hôn của chúng tôi”.
Don Fernando dlbaraa y Figueora y Mascarenes y Lampourdos y Souza vểnh râu mép lên, mỉm cười cay đắng rồi lệnh cho đại uý Ngây Thơ đi duyệt binh trong liên đội của chàng, chàng tuân lệnh. Vị tổng trấn ở lại với cô Cunégonde. Ông tỏ tình với cô, thề rằng ông yêu cô, ngay ngày mai sẽ làm lễ cưới với cô nếu cô chịu và hôn lễ sẽ cử hành ở nhà thờ hay theo bất cứ tục lệ nào khác mà cô muốn, sao cho xứng với sự quyến rũ của cô. Cô xin ông một khắc đồng hồ để suy nghĩ và hỏi ý kiến bà già, rồi sẽ quyết định.
Bà già trả lời cô:
- Cô đã có bảy mươi hai thế hệ quý tộc song cô không có đồng xu dính túi. Bây giờ chỉ cần gật đầu là cô trở thành vị phu nhân của một lãnh chúa thế lực nhất Nam Mỹ, lại có bộ râu mép xinh đẹp. Cô muốn giữ tiết hạnh chống lại mọi thử thách chăng? Thì cô đã chẳng bị bọn người Bảo Gia Lợi hãm hiếp rồi sao? Kế đến một người Do Thái, một Đại pháp quan được hưởng những duyên sắc của cô. Lúc ly loạn, người ta có quyền xử sự. Thú thật rằng nếu tôi ở địa vị cô, tôi sẽ không phải e ngại gì mà lấy luôn ông tổng trấn, giúp cho đại uý Ngây Thơ thăng quan tiến chức.
Trong lúc bà già đem kinh nghiệm và tuổi tác ra góp ý cho cô Cunégonde, thì một chiếc tàu nhỏ đi vào bến, trên tàu có một vị pháp quan và một số cảnh binh. Việc xảy ra như sau này:
Bà già trước kia đã đoán đúng là vị mục sư dòng François đã lấy cắp tiền bạc và châu báu của cô Cunégonde khi cô hấp tấp trốn tránh với chàng Ngây Thơ.
Vị mục sư ấy sau đem bán vài món báo vật cho một nhà kim hoàn. Nhà buôn bán này nhận ra được mấy món nữ trang mà vị Đại pháp quan đã mua để tặng cô Cunégonde người yêu… Thế là vụ lấy cắp đổ bể. Mục sư bị bắt và thú tội, nên bị xử giảo.
Do vụ này mà người ta truy ra là cô Cunégonde đã tẩu thoát. Luật pháp cho lính theo dõi bọn cô đến tận Cadix. Rồi không bỏ mất thì giờ, người ta cho một cái tàu đuổi theo bọn cô, đến tận hải cảng Buénos-Ayres. Tức thì có tin đồn vị pháp quan trên tàu có nhiệm vụ truy nã những kẻ sát nhân đã giết chết “Ngài Đại pháp quan của Tôn giáo Pháp đình”.
Lúc này thật nguy cho bọn cô Cunégonde. Bà già tuổi tác và khôn ngoan bèn bảo cô: “Lúc này cô không thể trốn tránh nữa vì cô không phải là kẻ sát nhân. Vả lại vị Tổng trấn yêu cô sẽ che chở cho cô, không để cho cô bị tra tấn. Vậy cô cứ ở lại đây.”
Còn chàng Ngây Thơ? Bà già đi kiếm chàng ngay lập tức: bà bảo chàng: “Anh trốn liền đi, nếu không trong một giờ nữa anh sẽ bị xử hỏa thiêu”. Không còn một phút đồng hồ bỏ phí được nữa. Nhưng làm sao chàng rời được Cunégonde và trốn đi đâu bây giờ?
Chương XIV
CHÀNG NGÂY THƠ VÀ ĐỒ ĐỆ CACAMBO ĐƯỢC CÁC GIÁO SĨ DÒNG TÊN ĐÓN TIẾP Ở PARAGUAY
Tại tỉnh Cadix trước đây, chàng Ngây Thơ có thâu dụng một tên đầy tớ. Người ta còn thấy hạng người này khá nhiều ở miền duyên hải Y Pha Nho và các thuộc địa. Y là người Y Pha Nho một phần tư sinh tại tỉnh Tucuman[80] con một người lai. Lúc nhỏ y là một lễ sinh trong dàn nhạc nhà thờ, sau làm người giúp lễ, rồi làm đủ nghề: thuỷ thủ, thầy tu, nhân viên phát thư bưu điện, đi lính, và làm bồi ngựa. Y tên là Cacambo, rất mến chủ vì chủ y rất tốt với y.
Cacambo thắng yên cương gấp cho hai con ngựa giống tốt của chủ.
- Thầy ơi! Chúng ta phải theo lời khuyên của bà già. Chúng ta phải đi gấp, phải phóng ngựa chạy cho mau không còn có thể quay cổ nhìn lại nữa.
Chàng Ngây Thơ nước mắt giàn giụa:
- Hỡi Cunégonde yêu quý! Tôi phải bỏ cô ở lại vào lúc ông Tổng trấn sắp làm lễ thành hôn cho chúng ta. Từ ngàn dặm phương xa, cô được đưa tới đây, cô sẽ trở nên thế nào?
- Cô ấy sẽ trở nên thế nào là tuỳ ở cô ấy, Cacambo nói. Phụ nữ họ không bao giờ phải bối rối về họ: Trời phù hộ cho họ. Chúng ta hãy chạy lẹ lên.
- Mi tính đưa ta đi đâu? Chúng ta sẽ tới đâu? Chúng ta sẽ làm gì khi không còn Cunégonde nữa?
- Thề có thánh Jacques xứ Compostelle. Chúng ta sẽ tham chiến với những giáo sĩ dòng Tên, giúp họ đánh giặc. Tôi biết rõ đường đi, tôi sẽ dẫn thầy đến vương quốc[81] của họ. Họ sẽ sung sướng được tiếp nhận một đại uý biết thao luyện quân sĩ theo lối Bảo Gia Lợi. Thầy sẽ được giàu có, vinh quang. Khi người ta không nhận được may mắn ở thế giới này thì người ta đi tìm may mắn ở thế giới khác. Thấy được những sự việc mới, làm được những sự việc mới, thật là một thích thú lớn lao.
- Mi đã từng ở xứ Paraguay chưa?
- Cố nhiên là tôi đã ở đó. Tôi đã từng làm tuỳ phái ở trường trung học Assomption xứ ấy. Tôi biết chính phủ của họ cũng như tôi biết những đường phố ở Cadix. Chính phủ ấy thật là đáng khâm phục. Vương quốc của họ, đường kính được ba trăm dặm, chia ra thành ba mươi tỉnh. Chính phủ giữ tất cả những sản vật trong nước, còn nhân dân thì chẳng có gì; thật là một giai phẩm có lý trí và công bằng. Đối với tôi thì tôi thấy không gì thánh thiện bằng việc chính phủ của các cha gây chiến với vua Y Pha Nho và Bồ Đào Nha, tàn sát những dân của hai xứ ấy. Chúng ta hãy tiến mau lên. Thầy sẽ là người sướng nhất đời. Các cha sẽ hài lòng biết bao khi thấy một đại uý biết cách luyện binh theo lối Bảo Gia Lợi, đến giúp sức cho họ.
Hai thầy trò đến giới tuyến đầu tiên; Cacambo bảo với người lính gác rằng có một vị đại úy muốn xin nói chuyện với ngài tư lệnh. Một sĩ quan liền chạy đến bộ tư lệnh báo tin. Trước hết chàng Ngây Thơ và Cacambo bị tước khí giới; người ta giữ hai con ngựa của họ lại. Hai thầy trò được dẫn vào giữa hai hàng binh sĩ. Vị tư lệnh ngồi ở trong cùng, đầu đội mũ ba khía, áo sắn tay, gươm đeo bên hông, tay cầm đoản thương[82]. Ông ra một dấu hiệu, tức thì hai mươi bốn binh sĩ bao quanh hai người khách. Một trung sĩ nói với hai người rằng họ phải chờ đợi, vị tư lệnh không thể nói chuyện với họ bây giờ. Vị linh mục hàng tỉnh không cho phép một người Y Pha Nho nào nói gì, nếu không có sự hiện diện của ông; và người Y Pha Nho không được ở trong xứ quá ba tiếng đồng hồ.
Cacambo hỏi:
- Thế bây giờ linh mục hàng tỉnh ở đâu?
Viên trung sĩ đáp:
- Ngài đang đi duyệt binh sau khi đã hành lễ ở nhà thờ. Hai ông phải chờ ba giờ nữa mới được hôn chân ngài.
Cacambo bèn nói:
- Nhưng đại úy đây không phải người Y Pha Nho mà là người Đức. Hai thầy trò tôi đói cồn ruột, chúng tôi có thể ăn gì trong khi chờ đợi ngài linh mục trở về?
Viên Trung sĩ đi liền tới phòng của vị tư lệnh để thuật lại những lời của khách. Vị tư lệnh vui mừng nói:
- Thật là đội ơn Chúa! Vị khách ấy là người Đức thì ta có thể tiếp chuyện ông ta. Anh hãy ra mời ông vào, ngồi tại nhà lá nghỉ mát của ta.
Liền sau đó, người ta dẫn chàng Ngây Thơ vào trong một phòng của nhà lợp lá, trang trí bằng một cột cẩm thạch xanh, mạ vàng và những lồng cao nuôi đủ các thứ chim hiếm có. Một bữa ăn thịnh soạn được dọn ra, những món ăn đựng trong chén bằng vàng. Trong khi nông dân Paraguay ăn bắp nấu ở ngoài đồng nắng gắt, thì vị linh mục tư lệnh thết khách trong nhà mát ấy.
Ông là một người còn trẻ trung tươi đẹp, mặt phúng phình, da hơi trắng, hồng hào, mày vểnh ngược, mắt lanh lợi, tai đỏ, môi đỏ chót, dáng điệu kiêu căng, nhưng không phải lối kiêu căng của người Y Pha Nho, cũng không phải lối kiêu căng của một giáo sĩ dòng Tên… Người ta đem trả lại cho khách vũ khí của họ; dắt hai con ngựa của họ vào cột gần nhà nghỉ mát. Cacambo lấy cỏ cho ngựa ăn và luôn luôn để ý dòm chừng hai con ngựa, đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra.
Khi vị linh mục tư lệnh bước vào nhà, chàng Ngây Thơ hôn gấu áo của ông. Chủ khách ngồi vào bàn ăn. Vị linh mục tư lệnh hỏi khách bằng tiếng Đức:
- Vậy ra ông là người Đức sao?
- Vâng, thưa Cha, đúng như thế.
Hai bên đối thoại với nhau bằng tiếng Đức và không nén được sự cảm động lẫn ngạc nhiên.
- Ông ở tỉnh nào nước Đức? Vị linh mục hỏi.
- Thưa Cha, tôi ở tỉnh Westphalie bẩn thỉu. Tôi sinh trưởng trong lâu đài của Nam tước Thunder-ten-tronckh.
- Trời ơi! Có thể như vậy chăng? Vị tư lệnh la lên.
- Phép lạ kỳ diệu thay! Chàng Ngây Thơ la tiếp.
- Chính anh đấy sao? Linh mục hỏi.
- Không thể như thế được. Chàng Ngây Thơ nói:
Hai người đứng lên ôm nhau, nước mắt đầm đìa. Lúc sau chàng Ngây Thơ nói tiếp:
- Té ra linh mục là con trai của nam tước và là anh trai của cô Cunégonde! Ngài không bị bọn người Bảo Gia Lợi giết hay sao? Nay lại thấy ngài là giáo sĩ dòng Tên ở Paraguay! Thế giới thật lắm chuyện lạ. Than ôi! Nếu Pangloss tiên sinh không bị xử giảo, thì ngày nay tiên sinh sung sướng biết bao!
Vị tư lệnh cho những tên nô lệ da đen[83] và những kẻ hầu hạ bản xứ ra ngoài, để ông nói chuyện riêng với chàng Ngây Thơ. Ông không ngớt lời cảm ơn Chúa và thánh Ignace[84] đã bày ra cuộc hội ngộ này. Ông ôm lấy chàng Ngây Thơ, khuôn mặt của họ tắm trong nước mắt. Chàng Ngây Thơ nói thêm:
- Ngài sẽ còn ngạc nhiên gấp bội, xúc động trăm phần, nếu tôi báo tin ngài hay rằng cô Cunégonde em gái ngài vẫn còn sống, mạnh khỏe, trong khi có tin đồn cô bị mổ bụng.
- Còn sống sao? Ở đâu?
- Ở nước láng giềng này. Cô ở dinh của ông Tổng trấn Buénos-Ayres. Còn tôi thì định tới đây là để tham chiến.
Trong câu chuyện giữa hai người, mỗi tiếng nói là một kỳ dị. Họ cởi mở tấm lòng, để hết tâm trí nghe nhau nói. Tâm hồn họ chói ngời trong khóe mắt. Họ là người Đức nên có tính dùng bữa rất lâu, cho tới tận lúc vị linh mục hàng tỉnh trở về. Trong khi ăn vị linh mục kể cho chàng Ngây Thơ nghe những việc đã xảy đến với ông.
Chương XV
CHÀNG NGÂY THƠ GIẾT ANH RUỘT CỦA NGƯỜI YÊU
Vị tư lệnh thuật lại cho chàng Ngây Thơ câu chuyện như sau: “Suốt đời tôi, không bao giờ tôi quên cái ngày kinh khủng tôi đã thấy người ta giết thân phụ tôi, thân mẫu tôi, và hãm hiếp em gái tôi. Khi quân lính Bảo Gia Lợi rút lui, tôi không còn thấy người em gái đáng quý ấy đâu nữa. Và chúng bỏ lên một cái xe bò, má tôi, ba tôi và tôi, cùng hai nữ tì, ba người tớ trai nhỏ bị cắt cổ chết, rồi đem chôn chúng tôi trong tiểu giáo đường dòng Tên, cách xa lâu đài của chúng tôi hai dặm. Một giáo sĩ vẩy nước phép cho chúng tôi; nước phép mặn ghê gớm. Vài giọt trúng vào trong mắt tôi: Vị linh mục thấy hai mí mắt tôi mấp máy; ông sờ tay lên ngực tôi thấy tim tôi còn đập. Thế là tôi được cứu khỏi chết và sau ba tuần tôi không thấy ông nữa. Anh Ngây Thơ, hẳn anh còn nhớ tôi là người trẻ đẹp; sau tôi lại càng trẻ đẹp hơn, bởi vậy linh mục bề trên Croust[85], rất thân tình với tôi[86]. Ngài cho tôi bận áo sơ tu; ít lâu tôi được gửi đi La Mã. Vị linh mục trưởng cần tuyển một số thanh niên dòng Tên người Đức. Vua xứ Paraguay tiếp dụng hết sức ít người Y Pha Nho dòng Tên; vua thích người ngoại quốc hơn để dễ bề làm chủ. Tôi được linh mục trưởng nhận riêng để đi làm việc trong ruộng nho này[87]. Vậy nhóm ba người chúng tôi: một người Ba Lan, một người Tyrol và tôi, được phái đến Paraguay để phục vụ. Lúc mới đến, tôi được vinh hạnh làm chức phó tế và mang lon trung úy. Ngày nay tôi lên đến linh mục và đại tá trong quân đội; chúng tôi sẽ chiến đấu cương quyết chống những binh sĩ của vua Y Pha Nho; tôi nói chắc với anh là chúng sẽ bị bại trận và tiêu diệt. Nay trời đã gửi anh đến đây để phụ lực cho chúng tôi. Nhưng có thật là Cunégonde em gái yêu quý của tôi, hiện nay ở dinh ông trấn thủ Buénos-Ayres không?”
Chàng Ngây Thơ thề rằng thật như vậy. Cả hai người lại giàn giụa nước mắt.
Vị nam tước[88] không ngớt ôm lấy chàng Ngây Thơ mà hôn, gọi chàng là anh em và coi chàng như cứu tinh. Ông nói:
- Như vậy, chắc là chúng ta sẽ thắng trận, kéo binh vào thành phố ấy giải thoát cho Cunégonde.
- Đó là tất cả điều tôi mong ước, chàng Ngây Thơ đáp. Tôi tính cưới cô Cunégonde và đến nay tôi vẫn còn hy vọng.
- Mày muốn vậy sao, đồ hỗn xược, vị nam tước la lên. Mày lại dám trơ trẽn xin cưới em gái ta, một người có bảy mươi hai thế hệ quý tộc. Tao thấy mày vô liêm sỉ quá mới dám nói với tao ý định táo bạo ấy.
Chàng Ngây Thơ điếng hồn về những lời mắng nhiếc. Chàng đáp:
- Thưa linh mục, tất cả những thế hệ quý tộc trên đời này không có nghĩa lý gì cả. Tôi đã cứu em của ngài ra khỏi tay một người Do Thái và một đại pháp quan. Pangloss tiên sinh đã từng nói con người bình đẳng như nhau. Em gái ngài thọ ơn tôi rất nhiều và muốn lấy tôi làm chồng.
- Điều đó, tao sẽ xem sao, đồ khốn khiếp!
Vị nam tước trước đây ở trong lâu đài Thunder-ten-tronckh, nay là linh mục dòng Tên, kiêm chức tư lệnh, nổi nóng nói lên câu ấy; đồng thời ông lấy sống gươm đánh một cái lên mặt chàng Ngây Thơ.
Liền lập tức, chàng Ngây Thơ rút gươm của mình ra, đâm sâu vào bụng nam tước. Rồi chàng rút gươm ra, lưỡi gươm đẫm máu còn nóng, chàng bắt đầu khóc: “Chúa ôi! Con đã giết chủ cũ của con, bạn con, anh vợ con. Con là người tốt nhất đời, vậy mà con đã giết chết ba người, trong số đó có hai linh mục.”
Cacambo đứng gác ngoài cửa nhà nghỉ mát, chạy vào. Chủ anh nói: “Bây giờ chỉ có bán rẻ sinh mạng của chúng ta. Quân sĩ sẽ vào đây. Chúng ta phải can đảm chiến đấu, vũ khí cầm ở tay.” Cacambo là người từng thấy các tai biến bất thần, nhanh trí tìm cách đối phó. Anh lấy cái áo đen của linh mục choàng vào cho chủ, đội cho chủ chính cái mũ của người bị giết và hối chủ nhảy lên ngựa. Tất cả mọi động tác của anh diễn ra chỉ trong chớp mắt. Anh nói: “Chúng ta phải chạy trốn và người ta sẽ tưởng thầy là một linh mục dòng Tên, chạy đi cho lẹ. Khi họ biết chuyện và đuổi theo chúng ta thì chúng ta đã tới biên giới rồi.”
Hai thầy trò phóng ngựa chạy như bay khi Cacambo nói câu ấy. Anh ta vừa cho ngựa chạy vừa la lớn bằng tiếng Y Pha Nho: “Tránh chỗ, cho linh mục đại tá đi việc gấp”!
Chương XVI
CHUYỆN XẢY RA GIỮA HAI THẦY TRÒ KHI GẶP HAI THIẾU NỮ, HAI CON KHỈ VÀ ĐÁM NGƯỜI RỢ OREILLONS
Chàng Ngây Thơ và người thuộc hạ đã đi xa, mà trong trại chưa ai biết cái chết của giáo sĩ dòng Tên người Đức. Anh Cacambo đã cẩn thận đem đây va li bánh mì, dăm bông, sôcôla và trái cây, cùng một vài chai rượu chát. Hai thầy trò trên hai con ngựa, phiêu bạt đến một xứ lạ, không tìm ra một con đường nào. Sau chót, họ đến một cánh đồng tươi đẹp có những suối chảy qua. Họ cho ngựa ăn cỏ. Cacambo mời chủ ăn lót dạ và mình ăn trước để làm gương. Chàng Ngây Thơ đáp: “Ta làm sao ăn được dăm bông khi mà ta đã giết con trai của ngài nam tước, và đã thấy trước là không bao giờ ta gặp lại mặt cô Cunégonde yêu kiều nữa! Còn kéo dài những ngày sống khốn nạn của ta làm gì, vì ta sẽ phải đeo kiếp sống thừa ở nơi xa xôi, trong ăn năn, thất vọng, rồi còn nhật báo Trévoux nói gì nữa chứ?[89]”.
Nói vậy, chàng không chịu ăn gì. Lúc mặt trời lặn, hai người đi lạc nghe những tiếng kêu nhỏ như tiếng phụ nữ.
Họ không biết đó là tiếng buồn hay vui. Nhưng họ cũng hấp tấp đứng lên, lo sợ và hoảng hốt, như thông thường bất cứ ai mới đến xứ lạ, thấy cái gì cũng sợ. Tiếng rên rỉ thốt ra từ hai thiếu nữ trần truồng đang chạy nhẹ nhàng, trong khi hai con khỉ vừa đuổi theo vừa cẳn mông đít. Chàng Ngây Thơ thấy mà tội nghiệp; chàng đã học bắn khỉ ở với người Bảo Gia Lợi. Và chàng có thể bắn rớt một trái cây mà không động đến lá. Chàng bèn cầm khẩu súng Y Pha Nho, bắn hai phát, trúng chết hai con khỉ.
- Cám ơn Chúa, chàng nói. Bạn Cacambo yêu quý ơi ta giải thoát được hai người khỏi một nguy cơ lớn. Nếu đã phạm tội giết một đại pháp quan và một người Do Thái thì ta đã chuộc được tội bằng việc cứu mạng cho hai thiếu nữ. Có lẽ là hai cô thuộc một gia đình có thế lực và chắc là việc này sẽ đem lại cho ta những lợi lộc lớn trong xứ.
Chàng tính tiếp tục nói thì lưỡi chàng cứng lại khi thấy hai cô gái ôm xác hai con khỉ một cách âu yếm mà khóc và thốt ra những tiếng kêu đau đớn. Sau chàng nói với Cacambo:
- Ta không dè họ lại có lòng tốt đến thế!
- Thầy ôi, thầy đã làm một kỳ công: thầy đã giết hai tình nhân của hai cô.
- Tình nhân của hai cô? Mi nói giỡn sao? Ai tin được!
- Thầy ơi, thầy thấy cái gì cũng cho là lạ kỳ hết. Tại sao thầy ngạc nhiên? Tại sao thầy lại thấy kỳ lạ khi ở vài xứ có tục những con khỉ được ân sủng của các bà các cô? Giống khỉ ấy có một phần tư là người cũng như tôi có một phần tư là người Y Pha Nho.
- Than ôi! Ta cũng đã từng nghe nói đời xưa có những biến cố như thế xảy ra. Các sự tạp chủng sinh ra những dương thần tai nhọn, những dương thần cầm ống điếu[90]. Pangloss tiên sinh cho hay rằng nhiều danh nhân thượng cổ đã từng có thấy. Nhưng ta thì cho là chuyện hoang đường.
- Bây giờ chắc là thầy phải tin. Không được học hành thì cư xử như vậy đó. Điều mà tôi lo ngại là hai phụ nữ kia có thể gây cho chúng ta nhiều chuyện lôi thôi.
Những suy nghĩ chín chắn ấy thúc chàng Ngây Thơ phải bỏ cánh đồng; thầy trò kéo nhau vào một khu rừng nhỏ. Hai thầy trò ăn bữa chiều tại đây; và cả hai, sau khi nguyền rủa viên pháp quan Bồ Đào Nha, thủ trấn Buenos-Ayres và ngài nam tước, họ lăn ra trên một khoảng đất rêu phong mà ngủ. Thức dậy họ không thể nào cử động được vì tay chân bị trói bằng những thừng kết bằng vỏ cây. Giống rợ Oreillon[91] dân cư ở đây đã trói họ vì hai cô thiếu nữ tố cáo hai thầy trò về việc giết hai con khỉ. Hai thầy trò bị bao quanh bởi năm chục rợ Oreillon, trần truồng, vũ trang cung tên, búa rìu làm bằng đá. Những tên khác sửa soạn nồi nấu thịt và những móc nướng; họ la lên:
- Nó là người dòng Tên! chúng ta sẽ được báo thù! Chúng ta hãy ăn thịt một con người dòng Tên.
Cacambo nói:
- Tôi đã nói với thầy mà! Hai thiếu nữ có thể làm khó dễ cho chúng ta. Chàng Ngây Thơ thấy nồi nước sôi và những cái móc thịt, la lên:
- Chúng ta chắc sẽ bị nấu hay nướng thịt đây. Chao ôi! Pangloss tiên sinh sẽ nói sao nếu tiên sinh thấy trạng thái thiên nhiên thuần túy[92] trong hoàn cảnh này? Mọi việc đều hoàn thiện, nói vậy cũng được. Song ta phải nhận rằng sau khi mất cô Cunégonde lại sa vào tay rợ Oreillon nữa, số phận ta mới bị đày đọa làm sao!
Cacambo vẫn không rối trí và nói:
- Chúng ta đừng tuyệt vọng. Tôi biết chút đỉnh thổ ngữ của giống rợ này. Để tôi đi nói chuyện với họ.
- Anh đừng quên nói với họ rằng nấu thịt người thì vô nhân đạo làm sao, và việc ấy trái với đạo Cơ đốc.
Cacambo cất tiếng nói với đám rợ:
- Các ông ơi! Hôm nay các ông tính ăn thịt một giáo sĩ dòng Tên sao? Thật không còn gì xứng đáng bằng khi phải xử trí như thế với kẻ thù của mình. Thật vậy! Luật thiên nhiên dạy ta phải giết người và trên khắp thế giới, điều ấy thường xảy ra. Nếu chúng tôi không sử dụng quyền ăn thịt người thì chính là vì chúng tôi còn có món ăn vừa miệng hơn. Các ông không có những lương thực như chúng tôi. Chắc hẳn thà ăn thịt kẻ thù còn hơn là liệng cú quạ ăn chiến lợi phẩm của mình. Song các ông ơi, các ông không có quyền ăn thịt bạn của các ông. Các ông tưởng là người sắp đem nướng thịt là một giáo sĩ dòng Tên mà thực ra chính lại là người bênh vực các ông đó. Ông này là kẻ thù của những kẻ thù của các ông, vậy mà sắp bị các ông đem nướng thịt. Riêng phần tôi, thì tôi sinh trưởng ở xứ các ông; người mà các ông thấy đây là chủ tôi. Ông ta không phải là một người dòng Tên mà ông lại vừa giết một giáo sĩ dòng Tên, lấy quần áo của hắn mặc nên các ông đã hiểu lầm. Muốn chứng minh lời tôi nói, các ông cứ lấy cái áo của ông này, đem treo ở cửa ải vương quốc của các giáo sĩ dòng Tên. Rồi các ông dò hỏi xem có phải là chủ tôi vừa giết một sĩ quan dòng Tên không? Các ông còn có thì giờ; nếu các ông thấy tôi nói dối thì còn có thể ăn thịt chúng tôi. Nhưng tôi nói thật đó. Các ông rất hiểu biết các nguyên tắc luật công, những phong tục, tập quán ở đây, nên các ông sẽ phải ân xá cho chúng tôi.
Bọn rợ Oreillon thấy những lời lẽ này hợp lý. Họ cử hai thân hảo của họ đi bằng xe đến điều tra sự thật. Hai người lấy trí thông minh mà làm nhiệm vụ, và trở về với những tin tốt lành. Bọn rợ Oreillon bèn cởi trói cho hai tù nhân, đối xử với họ lịch sự, tặng họ những thiếu nữ, cho họ uống nước giải khát và dắt họ đi khắp bờ cõi mà vui mừng rao lên cho mọi người rõ: “Đây không phải một người dòng Tên! Đây không phải một người dòng Tên!”
Chàng Ngây Thơ không ngớt lời thán phục: “Dân tộc này đáng kính biết bao! Người họ, phong tục họ, đáng phục biết bao! Nếu tôi đã không đâm chết anh trai của cô Cunégonde thì giờ này chắc tôi bị ăn thịt rồi. Dầu sao, thiên nhiên thuần tuý cũng tốt thật; khi mà những người này biết tôi không phải là dòng Tên thì họ tha giết tôi, lại còn xử tốt với tôi, bằng biết bao hành động chân thành!”
Chương XVII
CHÀNG NGÂY THƠ VÀ THUỘC HẠ ĐẾN XỨ ELDORADO[93] KỲ LẠ
Khi hai thầy trò đến biên thùy xứ của rợ Oreillon, Cacambo nói với chủ:
- Thầy thấy không? Bán cầu này cũng chả tốt lành gì hơn bán cầu kia. Tốt hơn chúng ta trở về Âu châu bằng con đường nào ngắn nhất.
- Làm sao trở về? Chàng Ngây Thơ hỏi. Và đi đâu đây? Nếu tôi về xứ sở tôi thì bọn người Bảo Gia Lợi và Abares đã tàn phá, giết chết hết rồi; nếu tôi trở lại Bồ Đào Nha, tôi sẽ bị hỏa thiêu; nếu ở lại xứ này, chúng ta có thể bị nướng thịt bất cứ lúc nào. Vả lại làm sao mà giải quyết được vấn đề rời bỏ thế giới mà ở đó cô Cunégonde đang sống?
- Chúng ta quay sang Cayenne[94], Cacambo đáp. Chúng ta sẽ gặp người Pháp vốn là người đi khắp thế giới; họ có thể giúp đỡ chúng ta. Có lẽ Chúa sẽ thương hại chúng ta.
Thật ra đến Cayenne không phải dễ. Hai người không biết rõ phải đi phía nào. Có những núi cao, sông lớn, hang đá, những giặc cướp, những người rừng, không biết bao nhiêu chướng ngại vật ghê gớm. Ngựa của họ đã chết vì mệt nhọc; lương thực đã khô cạn phải ăn trái cây rừng suốt cả tháng trời. Sau cùng họ đi đến một con sông nhỏ, hai bên bờ dừa mọc. Thế là họ có dừa nuôi họ sống và nuôi hy vọng cho họ.
Cacambo vốn thường đưa ra những lời khuyên khôn ngoan không kém gì bà già trước. Anh bảo với chàng Ngây Thơ:
- Chúng ta không còn sức nữa, chúng ta đã đi nhiều rồi. Tôi thấy một cái thuyền trống bên bờ sông; ta hãy chất trái dừa vào, làm thành một cái ghe nhỏ rồi chúng ta đi theo dòng sông. Một con sông luôn luôn dẫn tới một nơi có người ở. Nếu không gặp gì thích thú thì ít ra cũng gặp cái gì mới lạ.
- Vậy chúng ta đi, chàng Ngây Thơ trả lời. Ta đành phó thác cho Chúa.
Hai thầy trò chèo thuyền trên sông, giữa hai bên bờ có chỗ hoa cỏ mọc, có chỗ khô khan, cằn cỗi, có chỗ phẳng phiu, có chỗ gồ ghề, càng đi càng thấy khúc sông rộng hơn. Sau chót con sông dẫn đến một vùng mà chung quanh có núi cao bao phủ; những ngọn núi cao chót vót tới trời có vẻ rùng rợn. Hai thầy trò liều mạng dấn thân vào làn nước, dưới vòm núi cao ấy. Tới một chỗ nọ, khúc sông teo lại, đẩy thuyền của hai người trôi mau lẹ và gây tiếng động khủng khiếp. Sau hai mươi bốn giờ đi trong khúc sông tối tăm, họ mới thấy được ánh mặt trời. Nhưng chiếc thuyền đụng vào sườn núi, bể tan ra. Hai người phải bám vào hang hốc, đi từ hang nọ sang hang kia, đường dài đến một dặm. Sau cùng, họ thấy một chân trời rộng lớn bao la, có những dãy núi vĩ đại chung quanh. Xứ này có trồng tỉa; cây cối vừa để mãn nguyện nhu cầu, vừa để cho có vẻ ngoạn mục. Trên đường sá, những xe làm bằng chất gì bóng láng và theo một kiểu khác thường; choán đầy đường, hay có thể nói là trang trí cho đường sá. Những xe này do các con trừu lớn, lông đỏ kéo, chạy mau hơn tất cả các loài ngựa giống ở Andalousie, Testuan và Méquinez; những người đàn ông và đàn bà ngồi xe đều là người đẹp đặc biệt.
Chàng Ngây Thơ nói: “Vậy mà cũng có một xứ tốt đẹp hơn Westphalie của chúng ta”. Rồi chàng bước lên bộ, cùng với Cacambo tới một làng gần nhất. Vài đứa trẻ trong làng bận quần áo bằng vóc, nhiễu, thêu vàng, rách tả tơi, đang chơi đáo ở đầu làng. Hai con người từ thế giới khác đến đây, đứng yên lặng xem trẻ con chơi. Những đồng đáo của chúng giống như những đồng tiền lớn màu lóng lánh; có đồng bằng vàng, có đồng bằng đá quý, bằng ngọc xanh, đỏ. Hai khách bộ hành thấy mà thèm, muốn lượm một vài đồng. Đây là những đá quý đắt giá mà miếng nhỏ nhất cũng có thể dùng để nạm ngôi vàng của vua Mogol[95].
Cacambo nói: “Các cậu bé chơi đáo này phải là con vua trong xứ”. Một hương chức bỗng ra kêu chúng vào trường học. Chàng Ngây Thơ liền nói: “Ông này chắc là thầy dạy các hoàng tử”.
Những đứa trẻ rách rưới bỏ lại trên mặt đất những đồng đáo và tất cả những đồ vật giải trí của chúng; chúng vào trường học. Chàng Ngây Thơ lượm các vật ấy chạy theo đám trẻ và khúm núm đưa cho vị gia sư những đồng vàng và những bảo thạch mà các ông hoàng bỏ quên; chàng ra dấu
hiệu, nói cho thầy giáo hiểu. Vị hương chức cầm lấy, mỉm cười, liệng xuống đất, rất ngạc nhiên nhìn chàng Ngây Thơ rồi tiếp tục đi.
Hai người lại cúi xuống nhặt các đồng vàng và các đồng đánh đáo làm bằng các thứ cẩm thạch màu. Chàng Ngây Thơ la lên: “Chúng ta đến đây là xứ nào vậy? Bọn trẻ ở đây chắc là được giáo dục lành mạnh lắm nên chúng khinh rẻ cả vàng và bảo thạch”. Cacambo cũng ngạc nhiên như chủ. Hai người đi đến ngôi nhà đầu làng, kiến thiết như một tòa lâu dài Âu châu. Một đám đông người làng chạy ra xem. Trong nhà cũng tấp nập những người hiếu kỳ dòm ngó hai khách lạ. Một thứ âm nhạc dịu dàng, êm ái vang lên; một mùi đồ ăn ngào ngạt tòa ra trong bếp. Cacambo dòm vào cửa để nghe người trong nhà nói chuyện; anh nhận ra họ nói tiếng Pérou là tiếng mẹ đẻ của anh. Nguyên là anh sinh trưởng ở tỉnh Tucuman, trong một làng chỉ nói rặt tiếng Pérou. Anh bảo với chủ: “Để tôi làm thông ngôn cho thầy, chúng ta cứ vào đây. Nhà này là một quán ăn”.
Liền đó, hai trẻ trai và hai em gái mời họ ngồi vào bàn; đó là hai em hầu bàn, choàng áo nạm vàng, tóc bới bằng miếng băng có đeo đá quý. Nhà hàng dọn ăn, một bữa ăn thịnh soạn: bốn tô cháo, mỗi tô có một con vẹt nấu; một con ó biển hầm, hai con khỉ quay rất ngon và ba trăm con chim bày trong một đĩa; những món garu thơm tho; những bánh ngọt thượng hạng để ăn tráng miệng. Tất cả để trong những đĩa làm bằng thuỷ tinh trong suốt. Người hầu bàn, cả trai lẫn gái, thay phiên nhau rót rượu ngọt làm bằng mía.
Các thực khách phần nhiều là thương gia, hay chủ xe vận tải, tất cả đều lễ phép cực độ, hỏi vài câu kín đáo, thận trọng, với Cacambo và trả lời thỏa đáng những câu hỏi của anh này.
Ăn uống xong, chàng Ngây Thơ cùng Cacambo tưởng là phải trả tiền xứng đáng nên để trên bàn hai đồng vàng mà mình đã lượm được, chủ quán và vợ ông bật cười lớn tiếng và lúc sau trấn tĩnh được rồi họ mới nói: “Thưa hai ông, chúng tôi thấy hai ông thật là người ngoại quốc; chúng tôi không quen với hành động của hai ông. Xin lỗi hai ông, khi nãy chúng tôi đã cười vang vì thấy hai ông trả tiền bằng những thứ trải đường ở xứ chúng tôi. Có lẽ hai ông không có tiền bản xứ, song điều ấy không cần thiết khi các ông đến ăn uống ở đây. Tất cả những nhà hàng mở ra là để giúp cho việc buôn bán được thuận tiện, nên tiền ăn uống do chính phủ đài
thọ[96]. Quý ông ăn ở đây không được ngon miệng vì đây là một làng nhỏ. Ở các nơi khác, quý ông sẽ được tiếp đãi xứng đáng hơn”.
Cacambo thông dịch cho chủ nghe những lời ấy. Chàng Ngây Thơ lại càng tỏ vẻ thán phục hơn. Hai người nói với nhau:
- Xứ này là xứ gì mà tất cả mọi nước khác đều chưa nghe tiếng? Các việc ở đây khác hẳn hoàn toàn các việc ở xứ ta. Chắc là ở đây mọi việc đều hoàn thiện. Trên đời chắc chắn phải có một xứ hoàn thiện như thế chứ. Dầu Pangloss tiên sinh có nói gì đi nữa, tôi cũng thấy rằng mọi việc ở xứ Westphalie đều có xấu xa phần nào chứ không hoàn hảo.