🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang Về Phòng, Chống Bạo Lực Gia Đình Ebooks Nhóm Zalo CẨM NANG VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng PGS.TS. NGUYỄN THẾ KỶ Phó Chủ tịch Hội đồng TS. HOÀNG PHONG HÀ Thành viên TRẦN QUỐC DÂN TS. NGUYỄN ĐỨC TÀI TS. NGUYỄN AN TIÊM NGUYỄN VŨ THANH HẢO CẨM NANG VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT NĂM - 2015 CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN Gia đình là tế bào của xã hội. Trong mỗi gia đình, các thành viên sống bình đẳng, yêu thương đùm bọc nhau và không có bạo hành là nền tảng tiến tới một xã hội phát triển bền vững. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề xây dựng và bảo vệ gia đình. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đề ra mục tiêu “Mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình, trong đó có vấn đề bạo lực gia đình, như Hiến pháp năm 2013, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phòng, chống bao lực gia đình... Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó hạn chế sự tham gia của phụ nữ vào đời sống cộng đồng gây hậu quả về thể chất, tâm lý không chỉ đối với phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã hội và vi phạm nghiêm trọng quyền con người. 5 Để góp phần cung cấp cho bạn đọc hiểu rõ các quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Cẩm nang về phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung gồm 190 câu hỏi - trả lời cụ thể, chi tiết và rõ ràng theo đúng quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 9 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6 PHẦN THỨ NHẤT BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ, HỖ TRỢ NẠN NHÂN BẠO LỰC GIA ĐÌNH Câu hỏi 1: Gia đình là gì? Trả lời: Có nhiều quan niệm khác nhau về gia đình. Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục,… giữa các thành viên. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã hội. Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Lịch sử nhân loại có những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ một chồng thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ. 7 Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 của Việt Nam, gia đình được hiểu “là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”. Câu hỏi 2: Gia đình có chức năng và vai trò gì? Trả lời: - Gia đình có những chức năng sau: + Là nơi sinh sản, tái sản xuất sức lao động; nuôi dưỡng, giáo dục con cái và xây dựng phát triển kinh tế, góp phần phát triển và ổn định xã hội. + Là nơi tổ chức cuộc sống vật chất, tinh thần, tình cảm cho mọi thành viên trong gia đình. - Gia đình có vai trò quan trọng đối với cộng đồng, xã hội: + Giáo dục các thành viên thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; thực hiện bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình. 8 + Chăm sóc sức khỏe và giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, cách ứng xử của các thành viên gia đình. Câu hỏi 3: Bạo lực là gì? Có những dạng bạo lực nào? Trả lời: Trong Từ điển tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ". Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế (nhiều nơi, nhiều lúc) bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận. Có thể là bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; có thể là bạo lực với các đối tượng khác nhau như bạo lực với phụ nữ; bạo lực với trẻ em; hay bạo lực xảy ra trong những phạm vi không gian đặc thù như bạo lực học đường; bạo lực gia đình;… Câu hỏi 4: Bạo lực gia đình là gì? Trả lời: Bạo lực gia đình là bất kỳ việc sử dụng vũ lực hay cưỡng ép tình dục, dù đã sử dụng hay đe dọa sử dụng, trong quan hệ tình cảm hoặc quan hệ gia 9 đình. Bạo lực gia đình có thể bao gồm một hành động đơn lẻ; hoặc bao gồm một số hành động tạo nên một kiểu lạm dụng trong đó có những hành vi tấn công hoặc kiểm soát. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý. Mục đích của bạo lực gia đình là để thiết lập và áp dụng quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác. Bạo lực được sử dụng để đe dọa, xúc phạm hoặc làm nạn nhân khiếp sợ. Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Câu hỏi 5: Bạo lực gia đình thường xảy ra giữa những đối tượng nào? Trả lời: Bạo lực gia đình thường xảy ra với các đối tượng sau: - Giữa chồng đối với vợ. - Dì ghẻ, bố dượng với con riêng của chồng hoặc vợ. - Cha mẹ với con cái. Cá biệt cũng có trường hợp: - Con cái bạo lực với cha mẹ. - Vợ bạo lực đối với chồng. 10 Câu hỏi 6: Ở Việt Nam, bạo lực gia đình xảy ra giữa các đối tượng nào là phổ biến và tình trạng ra sao? Trả lời: Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người. Cũng như ở nhiều xã hội khác, bạo lực gia đình ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp. Nó được tiếp sức bởi truyền thống văn hóa và niềm tin mạnh mẽ về gia đình và vai trò giới trong quá khứ. Do vậy, trong các trường hợp bạo lực gia đình diễn ra ở Việt Nam hiện nay thì phổ biến nhất vẫn là bạo lực của chồng đối với vợ. Ở Việt Nam, quyền bình đẳng giữa nam và nữ được chính thức thừa nhận trong Hiến pháp và pháp luật, tuy nhiên thực tế trong đời sống xã hội nam giới vẫn tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo trong và ngoài gia đình trong khi phụ nữ chịu trách nhiệm chính về việc nhà và chăm sóc con cái. Quan niệm cho rằng người chồng có thể dùng vũ lực như một cách hợp pháp để giáo dục hoặc chấn chỉnh vợ mình thường được đưa ra để hợp lý hóa hành vi bạo lực thành một cách hữu hiệu để duy trì sự kiểm soát đối với phụ nữ. Nhiều người còn cho rằng việc người phụ nữ, trẻ em gái bị bạo lực mà không thông báo là bình thường, việc kể chuyện, thông báo với người ngoài về việc này 11 được coi là “vạch áo cho người xem lưng”. Trên thực tế, công tác hòa giải bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay thường chú trọng việc lập lại hòa khí và duy trì gia đình chứ không vì sự an toàn của người bị bạo hành. Ở Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự,... và đặc biệt là Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ phụ nữ. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực gia trong gia đình và nhất là bạo lực của chồng đối với vợ vẫn khá phổ biến và thậm chí nó dần trở thành như một hiện tượng của xã hội. Theo kết quả nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt nam do Tổng cục Thống kê và WHO thực hiện những năm gần đây cho thấy có tới 32% phụ nữ đã từng kết hôn phải hứng chịu bạo lực thể xác trong đời sống gia đình. Đồng thời trên hơn 50% phụ nữ Việt Nam đã phải hứng chịu bạo lực tinh thần trong đời. Trong đó tỷ lệ bị bạo lực đối với phụ nữ đã kết hôn là 9%. Cứ 10 cặp vợ chồng thì có một cặp từng trải qua các 12 hình thức bạo lực nghiêm trọng nhất. Cũng theo nghiên cứu của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy 2,3% số hộ được phỏng vấn báo cáo có bạo lực về thể chất, 25% có bạo lực tinh thần, 30% có bạo lực tình dục. Một số số liệu thống kê của Việt Nam từ các nguồn điều tra cho thấy: • Tại một làng của Việt Nam, ước tính có 70% các ông chồng thường xuyên có hành vi bạo lực về thể chất đối với vợ. • Tại một làng khác, khoảng 40% những người vợ thường xuyên bị đánh đập. • Chỉ 3,5% số nam giới và 23% số phụ nữ tham gia một khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam coi việc đánh vợ là không thể chấp nhận được. • Bạo lực gia đình là nguyên nhân của 66% tổng số các vụ ly hôn. • Một nghiên cứu cho thấy hơn 32% các vụ bạo lực gia đình có nạn nhân phải hứng chịu một hoặc nhiều hành vi kiểm soát của bạn đời/bạn tình. • Tại một bệnh viện ở Việt Nam, mỗi ngày có trung bình 5 đến 6 phụ nữ nhập viện do hậu quả của bạo lực gia đình; 50% các ca nhập viện là do chấn thương đầu; 40% có vết thương khắp cơ thể; 15% bị bạo lực hơn 10 năm. • Trung bình 2 đến 3 ngày có một trường hợp tử vong vì nguyên nhân bạo lực gia đình. 13 Câu hỏi 7: Những yếu tố nào ảnh hưởng tới bạo lực gia đình? Trả lời: Bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội nhức nhối, phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: - Yếu tố kinh tế - xã hội; - Yếu tố văn hóa - phong tục, tập quán; - Yếu tố tâm lý; - Trình độ nhận thức; - Định kiến giới. Câu hỏi 8: Bạo lực trên cơ sở giới là gì? Trả lời: Thuật ngữ “Bạo lực trên cơ sở giới” được sử dụng để phân biệt bạo lực thông thường với bạo lực nhằm vào các cá nhân hoặc nhóm cá nhân trên cơ sở sự phân cấp quyền lực do những khác biệt giới gây nên. Ngoài phụ nữ thì nam giới và trẻ em trai cũng có thể trở thành nạn nhân. Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn sử dụng thuật ngữ bạo lực trên cơ sở giới dựa trên Điều 1 và 2 trong Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ năm 1993 và Đề xuất thứ 19, đoạn 6 của Kỳ họp thứ 11, Hội đồng CEDAW. Theo đó, bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm các hành động gây ra những tổn 14 hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe dọa dẫn đến những hành động nói trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó,… Cho đến nay, trong văn bản chính thức ở Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới. Luật bình đẳng giới năm 2006 đã đề cập đến thuật ngữ “bạo lực trên cơ sở giới” nhưng hành vi này không được định nghĩa trước đó. Bên cạnh đó, các hành vi bạo lực giới trong gia đình cũng được quy định tại Điều 41 Luật bình đẳng giới năm 2006. Cho dù không nêu ra định nghĩa chính thức, về cơ bản, trong các chính sách sử dụng ở Việt Nam, khái niệm bạo lực giới được hiểu như đúng định nghĩa mà Liên hợp quốc đã công bố. Bạo lực trên cơ sở giới được hiểu là bao gồm nhưng không giới hạn ở những hình thức sau: đánh đập, bóc lột tình dục, lạm dụng tình dục trẻ em trong gia đình, bạo lực liên quan đến của hồi môn, cưỡng hiếp trong hôn nhân, làm tổn thương bộ phận sinh dục phụ nữ, và những phong tục truyền thống khác tổn hại đến người phụ nữ, bạo lực ngoài mối quan hệ vợ chồng và bạo lực liên quan đến sự bóc lột; cưỡng hiếp, lạm dụng tình dục, đe dọa và quấy rối tình dục tại nơi làm việc, tại các cơ sở giáo dục, và bất kỳ đâu, buôn bán phụ nữ và ép buộc hoạt động mại dâm; ngăn cản 15 phụ nữ đi bỏ phiếu, lái xe hoặc tham gia làm việc trên thị trường lao động… Mặc dù, nam giới và trẻ em trai cũng là nạn nhân, song chủ yếu phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới. Bạo lực đối với phụ nữ là một trong các hình thức bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên, vì cho đến nay phụ nữ và trẻ em gái là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất và bị tác động nặng nề nhất do bạo lực trên cơ sở giới gây ra cho nên thuật ngữ “bạo lực đối với phụ nữ” và “bạo lực trên cơ sở giới” thường được sử dụng như nhau trong nhiều tài liệu. Câu hỏi 9: Bạo lực gia đình gồm những dạng/hình thức nào? Trả lời: Bạo lực gia đình gồm có bốn dạng phổ biến sau đây: - Bạo lực về thể chất: Bạo lực thể chất được hiểu là việc một người sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ để bạo hành như đấm, đá, tát… hoặc các hình thức khác mà gây tổn hại tới sức khỏe thể chất của người bị bạo hành như là hắt nước sôi, bắt chui vào cũi,… hoặc ngăn cản việc đi khám chữa sức khỏe… - Bạo lực về tinh thần: Bạo lực tinh thần là những biểu hiện nhằm gây tổn thương tâm lý bởi 16 những lời nói và không lời như quát tháo, đe dọa, chửi rủa, sỉ nhục, bỏ rơi không quan tâm; nói những lời xúc phạm đến nhân phẩm, trừng phạt con cái để làm mẹ đau đớn hoặc tự trừng phạt mình, nhục mạ, hạ thấp giá trị một người trước những người khác… Trên thế giới hiện chưa thống nhất về định nghĩa bạo lực tinh thần. Bạo lực tinh thần hoặc tâm lý thường là dạng bạo lực khó xác định nhất vì một số lý do. Thứ nhất, không có biểu hiện tổn thương bên ngoài. Thứ hai, những hành vi như “xúc phạm” hoặc “đổ lỗi” có thể xảy ra trong bất kỳ mối quan hệ nào và có thể chưa tới ngưỡng “lạm dụng”. Để xác định loại hành vi này có phải là một dạng bạo lực gia đình hay không thì cần xem xét xem nó có dựa trên quyền lực và sự kiểm soát hay không. Nhìn chung bạo lực tâm lý hoặc tinh thần thường phải là những hành động như thường xuyên đe dọa, hạ nhục hay kiểm soát chứ không phải là hành vi gây sức ép tâm lý hoặc xúc phạm đơn thuần. - Bạo lực về tình dục: Bất kỳ hành động hoặc hành vi nào trong tình dục mà không được sự chấp nhận của người kia. Hành vi này có thể diễn ra một lần hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần và diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng hoặc bạn tình…; 17 - Bạo lực về kinh tế/tài chính: Biểu hiện của bạo lực kinh tế là một thành viên trong gia đình dùng quyền lực để ép buộc các thành viên khác, tạo sự lệ thuộc của họ về kinh tế, bao vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc…Ví dụ, không cho người kia đi làm, kiểm soát chặt chẽ thu nhập của gia đình, hạn chế tiếp cận với thu nhập của gia đình,… Câu hỏi 10: Những hành vi nào được cho là hành vi bạo lực gia đình? Trả lời: Bạo lực gia đình thường là một tập hợp những ép buộc và kiểm soát của một người với một người khác. Nó không chỉ là một hành động tấn công về thể chất và thậm chí có thể không liên quan đến thể chất. Nó bao gồm việc sử dụng lặp đi lặp lại một số phương thức như dọa nạt, đe dọa, cướp đoạt về kinh tế, cô lập, bạo lực về tâm lý, bạo lực về tình dục. Một số hành vi lạm dụng của thủ phạm làm tổn thương đến nạn nhân cả về thể chất lẫn tinh thần. Thủ phạm cũng sử dụng những phương thức khác bao gồm cả hành vi bạo lực về tinh thần. Các hành vi này có thể không gây ra thương tích về thể chất nhưng lại gây ra tổn thương về tâm lý cho nạn nhân. Theo Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia 18 đình năm 2007, các hành vi bạo lực gia đình bao gồm: - Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; - Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; - Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; - Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; - Cưỡng ép quan hệ tình dục; - Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; - Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; - Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; - Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. Các hành vi này cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng. 19 Câu hỏi 11: Nên và cần làm gì để tránh bạo lực xảy ra trong gia đình? Trả lời: Không nên thách thức sự kiên nhẫn của người đang nóng giận; đừng đẩy họ đến tình trạng “cả giận mất khôn”. Nhưng nếu người gây bạo lực thật sự hung tợn thì nên nhờ đến sự can thiệp của cộng đồng và pháp luật để bảo vệ cho mình. Trong khi chờ đợi sự can thiệp của pháp luật thì bản thân người bị bạo lực “hãy tự cứu mình” bằng giải pháp không chấp nhận sống chung với kẻ bạo lực hoặc tìm sự giúp đỡ từ những người xung quanh, họ hàng để nương náu. Là nạn nhân bạo lực gia đình không nên im lặng, nín nhịn, cam chịu, mà cần lên tiếng để nhận sự can thiệp hợp lý, hợp pháp từ cộng đồng, chính quyền, đoàn thể tại địa phương. Câu hỏi 12: Nạn nhân bạo lực gia đình là ai? Trả lời: Nạn nhân bạo lực gia đình là người đã hoặc đang chịu một hoặc nhiều hành vi bạo lực (được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007) do thành viên gia đình gây ra. Thành viên gia đình gồm: vợ/chồng; ông, bà nội; ông, bà ngoại; bố mẹ đẻ; bố mẹ vợ, bố mẹ chồng; bố mẹ nuôi, bố mẹ kế; con đẻ, con 20 nuôi, con của vợ, con của chồng, con dâu, con rể; cháu của ông bà nội, cháu của ông bà ngoại; anh, chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ, anh em rể, chị em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha. Câu hỏi 13: Ở Việt Nam, việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường gặp những khó khăn, thách thức chủ yếu nào? Trả lời: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một số khó khăn chủ yếu đối với phụ nữ (nếu là nạn nhân của bạo lực) như sau: • Còn khá nhiều nam, nữ đều coi việc đàn ông chửi bới hoặc đánh vợ để phạt hoặc dạy vợ là có thể chấp nhận nếu người vợ xúc phạm chồng hoặc hành xử trái với ý chồng, trái với gia pháp nhà chồng hoặc các tiêu chuẩn xã hội. • Nhiều người quan niệm rằng đàn ông đánh vợ là do những đặc điểm tự nhiên của nam giới như nóng nảy, thiếu kiên nhẫn hoặc say rượu. • Rất ít người nhận thấy bạo lực gia đình đối với phụ nữ bắt nguồn từ quan hệ bất bình đẳng và những định kiến giới. • Bạo lực gia đình thường được nhìn nhận như một “vấn đề gia đình” mà sự can thiệp của người ngoài chỉ là giải pháp cuối cùng. 21 Câu hỏi 14: Nạn nhân bạo lực gia đình có những quyền và nghĩa vụ gì? Trả lời: Theo Điều 5 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, nạn nhân bạo lực gia đình có những quyền và nghĩa vụ sau: - Các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình: + Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. + Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật. + Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật. + Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của pháp luật. + Các quyền khác theo quy định của pháp luật. - Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Câu hỏi 15: Người có hành vi bạo lực gia đình có nghĩa vụ gì? Trả lời: Người có hành vi bạo lực gia đình là người đã 22 gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Điều 4 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình như sau: - Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. - Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. - Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. - Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật. Câu hỏi 16: Nguyên nhân nào dẫn đến bạo lực gia đình? Trả lời: Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, nhưng tựu trung lại, có một số nguyên nhân cơ bản sau: - Bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ gây ra bạo lực trong gia đình. Ở hầu hết các xã hội, trong gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực không ngang bằng với nam giới, không có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình, khiến họ dễ bị bạo lực do nam giới gây ra. - Khó khăn về kinh tế cũng là một trong những yếu tố có nguy cơ dẫn đến bạo lực gia đình 23 (Vì khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực căng thẳng dễ dẫn tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Tuy nhiên, không phải cứ có khó khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy nhiều gia đình có mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hòa thuận và ngược lại có những gia đình khá giả nhưng bạo lực gia đình vẫn xảy ra). - Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế dẫn đến tình trạng hiểu biết pháp luật của người dân còn thấp. - Trình độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận người dân còn thấp khiến bạo lực gia đình vẫn tiếp tục xảy ra. Ví dụ, nhiều người vẫn cho rằng các hành vi bạo lực gia đình không vi phạm pháp luật. Họ tự cho mình quyền được dạy bảo vợ con, người khác không có quyền can thiệp vì đó là chuyện nội bộ gia đình. - Tệ nạn xã hội cũng là những yếu tố nguy cơ dẫn tới bạo lực gia đình. Ví dụ như rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm,… - Sự quan tâm của cộng đồng tới công tác phòng, chống bạo lực gia đình chưa được đầy đủ. Cộng đồng và các gia đình vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và người ngoài không nên can thiệp. 24 Câu hỏi 17: Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả như thế nào? Trả lời: Bạo lực gia đình có thể ảnh hưởng vô cùng to lớn đến nạn nhân, gia đình và xã hội. Các nạn nhân có thể bị tổn hại về thể chất, tinh thần và tài chính. Bạo lực còn đe dọa sự bền vững của gia đình và ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các thành viên gia đình, kể cả những trẻ em phải chứng kiến bạo lực và lớn lên trong một môi trường xung đột, không hạnh phúc. Bạo lực gia đình ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn, sức khỏe và trật tự xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế bởi chi phí y tế, nghỉ ốm và giảm năng suất lao động của nạn nhân. Cụ thể như sau: Hậu quả Đối với nạn nhân bạo lực gia đình - Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần và cuộc sống bình thường của nạn nhân; - Bạo lực càng tiếp diễn lâu ngày thì càng có nguy cơ xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn; - Bạo lực có thể dẫn đến tử vong; - Nạn nhân có thể gặp khó khăn trong việc đưa ra chứng cứ hoặc tố giác người gây bạo lực vì tính phức tạp của bạo lực gia đình. 25 Đối với gia đình Đối với cộng đồng Đối với người gây bạo lực - Gánh nặng tài chính cho gia đình; - Tổn hại đến mối quan hệ gia đình; - Làm giảm khả năng lao động của người phụ nữ; - Ảnh hưởng đến trẻ em khi phải chứng kiến bạo lực; - Làm giảm chất lượng sống của phụ nữ và trẻ em. - Làm giảm đóng góp của nạn nhân cho xã hội; - Tăng áp lực lên hệ thống y tế; - Nếu cộng đồng không buộc người gây bạo lực phải chịu trách nhiệm thì có nghĩa là hành vi bạo lực này được chấp nhận và dẫn đến bạo lực càng nghiêm trọng hơn. - Chịu phạt hành chính hoặc xử lý hình sự; - Mất uy tín với cộng đồng;… Câu hỏi 18: Ý nghĩa của việc phòng, chống bạo lực gia đình? Trả lời: Với những hậu quả nêu trên, việc phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành 26 viên gia đình; bảo đảm sự phát triển lành mạnh của trẻ em; bảo đảm cho hạnh phúc, bình yên trong mỗi gia đình cũng như bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Việc phòng, chống bạo lực gia đình trước hết là nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi bạo lực hoặc nguy cơ gây ra hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể, đặc biệt là nạn nhân của bạo lực gia đình. Không chỉ đem lại sự an toàn tạm thời cho họ mà việc hiểu biết những quy định về vấn đề này, nhận thức được tác động xấu của hành vi này tới những người xung quanh, đặc biệt là với trẻ em còn giúp họ nâng cao khả năng tự bảo vệ bản thân và gia đình. Với trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, là thành viên của gia đình có hành vi bạo lực gia đình thì việc phòng, chống bạo lực gia đình là một cách để bảo đảm quyền trẻ em, bảo đảm cho các em có một môi trường tốt cho sự phát triển nhân cách. Với những chủ thể gây ra bạo lực gia đình, việc được thông tin về hậu quả của bạo lực gia đình, về quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình, về những trách nhiệm phải gánh chịu vì hành vi bạo lực của mình,… có tác động rất lớn trong giáo dục, răn đe thậm chí là cải tạo làm thay đổi nhận thức của họ. Việc phòng, chống bạo lực gia đình sẽ nâng 27 cao ý thức bảo vệ gia đình cho các thành viên, góp phần bảo đảm cho một gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững. Bắt đầu bằng việc nhận ra hậu quả của hành vi bạo lực, những quyền và nghĩa vụ của mình với hành vi bạo lực trong gia đình, mỗi thành viên gia đình sẽ có ý thức sâu sắc hơn việc cần phải tôn trọng lẫn nhau, cần có những sự quan tâm đúng cách tới nhau, cần có những ứng xử hợp lý khi nảy sinh tranh chấp... Từ đó, họ cũng sẽ hiểu và trân trọng hơn gia đình và những người thân của mình. Phòng, chống bạo lực gia đình không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội: các cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội và nhà nước. Việc thực hiện các quy định về phòng, chống bạo lực gia đình sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng đồng, góp phần xóa bỏ quan niệm “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự thiếu quan tâm tới hành vi bạo lực gia đình cũng như thái độ thờ ơ với nạn nhân của bạo lực gia đình. Từ đó, nhận thức của mỗi người về gia đình, về vai trò của từng thành viên trong gia đình, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ được nâng lên. Đây là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm bình đẳng giới thực chất trong gia đình và xã hội cũng như bảo đảm một xã hội dân chủ, văn minh. 28 Câu hỏi 19: Việc phòng, chống bạo lực gia đình dựa trên những nguyên tắc nào? Trả lời: Theo Điều 3 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, việc phòng, chống bạo lực gia đình dựa trên các nguyên tắc sau đây: - Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. - Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. - Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và phụ nữ. - Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 20: Nguyên tắc “kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về 29 gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam” trong phòng, chống bạo lực gia đình là như thế nào? Trả lời: Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo lực gia đình bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình mang tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào.Vì thế những vụ bạo lực gia đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp thô bạo của pháp luật có thể dẫn tới phá hoại các mối quan hệ các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi bạo lực có thể nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung quanh biết được trách 30 nhiệm tham gia phòng, chống bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp. Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa, bởi vì người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ những tư tưởng này. Đặc biệt, ở những quan niệm “phép vua thua lệ làng”, trình độ dân trí thấp thì việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán mới có thể phát huy hiệu quả lớn nhất. Câu hỏi 21: Tại sao cần thực hiện nguyên tắc “Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật” trong phòng, chống bạo lực gia đình? Trả lời: Đây là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật. Riêng trong lĩnh vực bạo lực gia đình, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu không thì có thể trở thành “thói quen”, được chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và người xung quanh. Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn nhân, tổn thương tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được 31 hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. Câu hỏi 22: Nguyên tắc “Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và phụ nữ” trong phòng, chống bạo lực gia đình được hiểu như thế nào? Trả lời: Giúp đỡ nạn nhân, bảo vệ quyền và lợi ích của họ là điều cần thiết và được pháp luật ghi nhận như một nguyên tắc quan trọng, mọi người đều phải tuân theo. Những vấn đề về gia đình, trong đó có bạo lực gia đình thường không nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn của những người xung quanh, bởi vì họ coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ của mỗi nhà. Từ đó, việc giúp đỡ nạn nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn lo sợ sự trả thù của người có hành vi bạo lực. Ngoài ra việc giúp đỡ nạn nhân như thế nào, bằng những phương tiện gì cũng gây cho họ những lúng túng nhất định, do đó pháp luật cho phép họ tùy khả năng, tình hình mà đưa ra những xử sự phù hợp nhất, ưu tiên những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi… 32 Câu hỏi 23: Nguyên tắc “Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình” được hiểu như thế nào? Trả lời: Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội; do đó việc phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không phải chỉ là của nhà nước và những người có liên quan. Bên cạnh đó, công tác phòng, chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, nên rất cần sự quan tâm phối hợp của tất cả các thành viên trong xã hội. Việc quy định nguyên tắc này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 24: Phương pháp giải quyết đa diện đối với bạo lực gia đình được hiểu như thế nào? Trả lời: Bạo lực gia đình là hành vi hình thành trong cuộc sống, trong đó sự áp bức thể chất và tâm lý được dùng để xác lập và duy trì sự kiểm soát đối với bạn tình/vợ chồng. Đây thường là một dạng 33 hành vi theo chu kỳ, ngày càng leo thang về mức độ nghiêm trọng, đe dọa cuộc sống và sự bình yên của nạn nhân và con cái. Bạo lực gia đình cần được xem xét nghiêm túc và cần được Nhà nước xử lý một cách quyết liệt. Phương pháp giải quyết đa diện được hiểu là việc giải quyết vấn đề bạo lực gia đình cần có sự thống nhất quản lý nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình. Điều này đòi hỏi phải có một phương pháp tiếp cận toàn diện, đa chiều và có sự phối hợp tốt, bao gồm cả việc xây dựng một nền văn hóa không dung thứ cho bạo lực đối với phụ nữ dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả các cơ quan liên quan của Chính phủ và các tổ chức xã hội đều phải tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm cả chính quyền địa phương, các ngành y tế, xã hội, giáo dục, tư pháp, cơ quan hành pháp, các tổ chức xã hội và các cơ quan thông tin đại chúng. Như đã đề cập, bạo lực gia đình đối với phụ nữ gắn chặt và được củng cố bởi những giá trị xã hội cũ, những khuôn mẫu và thói quen văn hóa. Những nhà chuyên môn trong các cơ quan chính phủ và các ban ngành khác nhau cũng không miễn nhiễm với các giá trị đó và vì vậy, không phải lúc nào cũng nhìn nhận bạo lực gia đình một cách nghiêm khắc như với các loại bạo lực khác. Phòng, chống bạo lực gia đình đòi hỏi những thay đổi dài hạn đối với những thái độ, quan điểm văn hóa truyền thống về bình đẳng giới và vai trò giới. 34 Câu hỏi 25: Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định những biện pháp gì để phòng ngừa bạo lực gia đình? Trả lời: Chương II Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định những biện pháp sau để phòng ngừa bạo lực gia đình: - Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình; - Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; - Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 26: Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm mục đích gì? Trả lời: Theo khoản 1 Điều 9 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, mục đích của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm: - Thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình; - Góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình; - Nâng cao tinh thần, trách nhiệm của mọi người trong việc bảo vệ hạnh phúc gia đình; - Nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. 35 Câu hỏi 27: Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình phải bảo đảm yêu cầu gì? Trả lời: Khoản 2 Điều 9 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có quy định: Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: - Chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; - Phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo; - Không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình. Câu hỏi 28: Các nội dung thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình gồm những gì? Trả lời: Theo Điều 10 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, những nội dung thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm: - Chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình. - Truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. - Tác hại của bạo lực gia đình. 36 - Biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình. - Kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hóa. - Các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 29: Việc thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình được tổ chức theo những hình thức nào? Trả lời: Điều 11 Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định việc thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình theo những hình thức sau: - Thực hiện trực tiếp. - Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. - Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. - Thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hóa quần chúng khác. Câu hỏi 30: Truyền thông, giáo dục, vận động nâng cao nhận thức về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 gồm những hoạt động gì? Trả lời: Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 theo Quyết 37 định số 215/QĐ-TTg ngày 6-2-2014 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định các hoạt động về truyền thông, giáo dục, vận động nâng cao nhận thức về phòng, chống bạo lực gia đình cần thực hiện hằng năm những việc sau: - Tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền thông, vận động về phòng, chống bạo lực gia đình. - Xây dựng và vận hành trang thông tin điện tử về phòng, chống bạo lực gia đình; tờ tin về phòng, chống bạo lực gia đình. - Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động trực tiếp tại gia đình, cộng đồng về phòng, chống bạo lực gia đình. Nghiên cứu, xây dựng chương trình, chuyên trang, chuyên mục, phóng sự, tiểu phẩm, kịch bản sân khấu, phim truyền hình về phòng, chống bạo lực gia đình. - Chú trọng nội dung truyền thông, giáo dục, vận động về đạo đức, lối sống văn hóa trong gia đình, trách nhiệm của các thành viên gia đình trong thực hiện bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình. - Nghiên cứu đưa nội dung phòng, chống bạo lực gia đình vào chương trình đào tạo về gia đình học, xã hội học. Câu hỏi 31: Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 đưa ra những giải pháp phòng ngừa bạo lực gia đình như thế nào? Trả lời: Theo Chương trình hành động quốc gia về phòng, 38 chống bạo lực gia đình đến năm 2020, các giải pháp về phòng ngừa bạo lực gia đình, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm: - Nghiên cứu, xây dựng mạng lưới quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình, mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng. - Duy trì, phát triển hộp thư, số điện thoại tiếp nhận thông tin về bạo lực gia đình, địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. - Cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý chăm sóc sức khỏe cho nạn nhân bạo lực gia đình. Trạm y tế xã, phường, thị trấn thực hiện việc chăm sóc y tế ban đầu, tư vấn về sức khỏe cho nạn nhân bạo lực gia đình; tùy theo khả năng và điều kiện thực tế, bố trí nơi tạm lánh cho nạn nhân bạo lực gia đình trong thời gian không quá một ngày theo yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình. - Nhân rộng các mô hình đạt hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng. Nghiên cứu, xây dựng các mô hình dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, hỗ trợ người có nguy cơ cao gây bạo lực gia đình; mô hình phòng, chống khủng hoảng tâm thần cho người có nguy cơ cao gây bạo lực gia đình. - Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho người là nạn nhân bạo lực gia đình, 39 người có nguy cơ cao gây bạo lực gia đình nhưng chưa có việc làm. Câu hỏi 32: Yêu cầu và mục tiêu của Đề án tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020 là gì? Trả lời: - Yêu cầu: + Thông tin, tuyên truyền bảo đảm lồng ghép với các chương trình, đề án khác có liên quan trên cơ sở tận dụng tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, các hình thức tuyên truyền hiện có; khuyến khích các cơ quan báo chí phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các địa phương chủ động tham gia vào việc tuyên truyền; + Nội dung tuyền truyền bảo đảm chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực, đa dạng; phù hợp với từng đối tượng, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo, không ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình. - Mục tiêu: Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cá nhân, gia đình và cộng đồng, bảo đảm đến năm 2020: 40 + Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tối thiểu 95% hộ gia đình và cộng đồng được tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình (chú trọng đối tượng trong độ tuổi kết hôn, đặc biệt là nam giới); về phúc lợi xã hội dành cho gia đình chính sách, gia đình nghèo và kiến thức, kỹ năng, phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới tính của thai nhi; + 100% phóng viên phụ trách chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề về xây dựng gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình tại các cơ quan báo chí có kiến thức về xây dựng gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 33: Các nhiệm vụ chính của Đề án tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020 là gì? Trả lời: Các nhiệm vụ chính bao gồm: - Xây dựng nội dung tuyên truyền phù hợp với các đối tượng + Biên tập sổ tay, tài liệu và tập huấn cho 41 phóng viên, biên tập viên phụ trách chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề về xây dựng gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình; + Biên tập, sản xuất, xây dựng bài viết, bản tin, phóng sự, phim ngắn về đường lối, chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới tính của thai nhi; về phúc lợi xã hội dành cho gia đình chính sách, gia đình nghèo, kiến thức, kỹ năng, phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế. + Biên tập, sản xuất, xây dựng bài viết, bản tin, phóng sự theo các chuyên đề khác nhau cho đối tượng nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn có được kiến thức cơ bản về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; - Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. + Mở các chuyên mục, chuyên đề, chương trình tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân, gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình trên các kênh phát thanh, truyền hình quảng bá ở trung ương, địa phương; + Mở chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, quảng cáo về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các báo, tạp chí in, báo điện tử. 42 Câu hỏi 34: Những nội dung tuyên truyền của Đề án Tuyên truyền về xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng đến năm 2020 là gì? Trả lời: Những nội dung tuyên truyền theo quy định của Đề án bao gồm: - Chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình; - Truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam; kiến thức, kỹ năng về hôn nhân gia đình và xây dựng gia đình văn hóa; kiên quyết đấu tranh với các hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật trong hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình và các nội dung khác có liên quan. Câu hỏi 35: Khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa các thành viên gia đình thì đối tượng nào tham gia hòa giải? Trả lời: Khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa các thành viên gia đình thì trước hết gia đình có trách nhiệm kịp thời phát hiện và hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp đó. Trường hợp gia đình không hòa giải được hoặc 43 có yêu cầu của thành viên gia đình thì người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ chủ động hòa giải hoặc mời người có uy tín trong cộng đồng dân cư hòa giải. Mặt khác, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa người thuộc cơ quan, tổ chức mình với thành viên gia đình họ khi có yêu cầu của thành viên gia đình; trường hợp cần thiết thì phối hợp với cơ quan, tổ chức ở địa phương để tiến hành hòa giải. Hơn nữa, tổ hòa giải ở cơ sở tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở thực hiện hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Câu hỏi 36: Việc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình được thực hiện theo nguyên tắc nào? Trả lời: Theo quy định tại Điều 12 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 thì việc hoà giải mâu thuẫn tranh chấp (giữa các thành viên gia đình) được thực hiện theo các nguyên tắc sau: 44 - Kịp thời, chủ động, kiên trì; - Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; - Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên; - Khách quan, công minh, có lý, có tình; - Giữ bí mật thông tư đời tư của các bên; - Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình quy định tại Điều 14 và Điều 15 của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 trong những trường hợp sau đây: + Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự; + Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính. Câu hỏi 37: Tư vấn về gia đình ở cơ sở gồm những nội dung gì? Trả lời: Theo khoản 2 Điều 16 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, tư vấn về gia đình ở cơ sở bao gồm các nội dung sau đây: - Cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; 45 - Hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Câu hỏi 38: Việc tư vấn về gia đình ở cơ sở tập trung vào những đối tượng nào? Trả lời: Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và Điều 6 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 4-2-2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình (sau đây gọi là Nghị định số 08/2009/NĐ-CP), việc tư vấn về gia đình ở cơ sở tập trung vào các đối tượng sau đây: - Người có hành vi bạo lực gia đình; - Nạn nhân bạo lực gia đình; - Người nghiện rượu, ma túy, đánh bạc; - Người chuẩn bị kết hôn. Ủy ban nhân dân cấp xã xác định và lập danh sách các đối tượng trên để thực hiện hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở. Căn cứ vào kế hoạch phòng, chống bạo lực gia đình của địa phương và danh sách đối tượng quy định trên, Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp, cộng đồng dân cư tổ chức thực hiện tư vấn về gia đình ở cơ sở. 46 Câu hỏi 39: Việc tư vấn về gia đình ở cơ sở được thực hiện thông qua các hình thức nào? Trả lời: Theo khoản 3 Điều 6 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, việc tư vấn về gia đình ở cơ sở được thực hiện thông qua các hình thức sau: - Tư vấn trực tiếp; - Tư vấn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; - Tư vấn thông qua các loại hình khác. Câu hỏi 40: Ủy ban nhân dân và cán bộ, công chức ở cấp xã có trách nhiệm gì trong việc tư vấn về gia đình ở cơ sở? Trả lời: Theo khoản 4 Điều 16 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên hướng dẫn, tạo điều kiện cho hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở; Công chức làm công tác tư pháp phối hợp với công chức làm công tác văn hóa - xã hội cấp xã cung cấp, phổ biến tài liệu, thông tin, kiến thức về phòng, chống bạo lực gia đình cho người chuẩn bị kết hôn trước khi được cấp Giấy chứng nhận kết hôn; cung cấp nội dung tư vấn về gia đình ở cơ sở cho cơ quan thông tin đại chúng. 47 Công chức làm công tác văn hóa - xã hội, công chức làm công tác tư pháp, cán bộ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi cấp xã, tổ viên của Tổ hòa giải ở cơ sở, nhân viên y tế ở cấp xã đã được tập huấn về tư vấn là người thực hiện tư vấn trực tiếp về gia đình ở cơ sở. Câu hỏi 41: Góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư được áp dụng đối với trường hợp nào? Trả lời: Khoản 1 Điều 17 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có quy định: Góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hoà giải mà vẫn tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình trong thời gian không quá 12 tháng. Câu hỏi 42: Ai là người quyết định, tổ chức việc góp ý kiến, phê bình và đối tượng nào tham gia để góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư? Trả lời: Khoản 2, 3 Điều 17 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có quy định: Trưởng thôn, 48 làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố hoặc người đứng đầu đơn vị tương đương (gọi chung là người đứng đầu cộng đồng dân cư) quyết định và tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư. Thành phần tham gia góp ý, phê bình bao gồm: đại diện gia đình, hộ gia đình liền kề và các thành phần khác do người đứng đầu cộng đồng dân cư mời. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình. Câu hỏi 43: Việc góp ý kiến, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình được thực hiện bằng hình thức nào? Trả lời: Theo Điều 7 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, việc tổ chức góp ý, phê bình người có hành vi bạo lực gia đình được bố trí bằng một cuộc họp riêng và vào thời gian thích hợp để các thành phần tham gia cuộc họp có thể tham dự được đông đủ. Sau khi góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình, người đứng đầu cộng đồng dân cư phải lập biên bản cuộc họp và gửi tới công chức làm công tác tư pháp, công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã để lưu trữ, làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp xử lý 49 vi phạm trong trường hợp người đã bị góp ý, phê bình tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình cố tình vắng mặt thì cuộc họp góp ý, phê bình vẫn tiến hành. Trong trường hợp này, biên bản góp ý, phê bình được gửi tới người có hành vi bạo lực gia đình, công chức làm công tác tư pháp, công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã. Câu hỏi 44: Khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa các thành viên gia đình thì đối tượng nào tham gia hòa giải? Trả lời: Điều 13, 14, 15 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có quy định: Khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa các thành viên gia đình thì trước hết gia đình có trách nhiệm kịp thời phát hiện và hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp đó. Trường hợp gia đình không hòa giải được hoặc có yêu cầu của thành viên gia đình thì người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ chủ động hòa giải hoặc mời người có uy tín trong cộng đồng dân cư hòa giải. Mặt khác, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa người thuộc cơ quan, tổ chức mình với thành viên gia đình họ khi có yêu cầu của thành viên gia đình; trường hợp cần thiết thì phối hợp với cơ quan, tổ chức ở địa phương để tiến hành hòa giải. 50 Hơn nữa, tổ hòa giải ở cơ sở tiến hành hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở thực hiện hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Câu hỏi 45: Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình được thực hiện theo nguyên tắc nào? Trả lời: Nguyên tắc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình được quy định tại Điều 12 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 như sau: - Kịp thời, chủ động, kiên trì. - Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. - Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên. - Khách quan, công minh, có lý, có tình. - Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên. 51 - Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình quy định tại Điều 14 và Điều 15 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 trong những trường hợp sau đây: + Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự; + Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính. Câu hỏi 46: Các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình gồm những gì? Trả lời: Theo quy định ở mục 1, Chương III của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm: - Phát hiện, báo tin về hiện tượng, sự việc bạo lực gia đình; - Ngăn chặn nạn bạo lực gia đình, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình; - Cấm tiếp xúc nạn nhân bạo lực gia đình theo quyết định của Tòa án, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, giám sát việc cấm tiếp xúc; - Chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình tại cơ sở khám, chữa bệnh; 52 - Tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình; - Hỗ trợ khẩn cấp các nhu cầu thiết yếu. Câu hỏi 47: Người phát hiện hành vi bạo lực gia đình phải có trách nhiệm gì ? Trả lời: Khoản 1 Điều 18 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định: Người phát hiện hành vi bạo lực gia đình phải có trách nhiệm kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực (trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 23 và khoản 4 Điều 29 của Luật phòng, chống bạo lực gia đình: Đối với nhân viên y tế hoặc nhân viên tư vấn trong quá trình chăm sóc hay tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình, nếu phát hiện hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm thì phải báo ngay cho người đứng đầu cơ sở để báo cáo cho cơ quan công an nơi gần nhất). Câu hỏi 48: Hoạt động ngăn chặn, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình thông qua những biện pháp nào? Trả lời: Điều 19 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định: Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo lực 53 gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực gây ra, bao gồm: - Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; - Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình; - Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình; - Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân. Câu hỏi 49: Thế nào là biện pháp cấm tiếp xúc và việc áp dụng biện pháp này nhằm mục đích gì? Trả lời: - Điều 8 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình, biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình là việc không cho phép người có hành vi bạo lực gia đình thực hiện các hành vi sau đây: + Đến gần nạn nhân trong khoảng cách dưới 30m; trừ trường hợp giữa người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân có sự ngăn cách như tường, hàng rào hoặc các vật ngăn cách khác, bảo đảm đủ an toàn cho nạn nhân. + Sử dụng điện thoại, fax, thư điện tử hoặc các phương tiện thông tin khác để thực hiện hành vi 54 bạo lực với nạn nhân (như đe dọa, khủng bố nạn nhân,…). - Việc áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc nhằm mục đích trước hết để ngăn chặn hành vi bạo lực có thể tiếp diễn và những hậu quả xấu có thể xảy ra do hành vi này. Đây là một biện pháp có tính chất khẩn cấp tạm thời nhằm mục đích bảo vệ kịp thời nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu trợ giúp của nạn nhân, đồng thời giúp người có hành vi bạo lực có thời gian suy xét về hành vi sai trái của mình, để tiến tới hòa giải hai bên, bảo vệ hạnh phúc gia đình. Câu hỏi 50: Cá nhân, tổ chức nào có thẩm quyền quyết định cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân? Trả lời: Cá nhân, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định cấm người gây bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình được quy định tại Điều 20 và Điều 21 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, bao gồm: - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình; - Tòa án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình. 55 Câu hỏi 51: Điều kiện nào để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định cấm người gây bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình? Trả lời: Theo Điều 20 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình quyết định cấm người gây bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình trong thời hạn không quá 3 ngày khi có đủ các điều kiện sau đây: - Có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (bao gồm cơ quan Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội; cơ quan Công an; cơ quan nơi làm việc của nạn nhân hoặc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội mà nạn nhân là thành viên); trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền này có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; - Đã có hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; hành vi bạo lực gia đình này được xác định khi có một trong các căn cứ sau đây: + Có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về việc khám và điều trị thương tích do hành vi bạo lực gia đình gây ra; 56 + Có dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân có thể nhận thấy rõ bằng mắt thường hoặc có dấu hiệu rõ ràng về hoảng loạn tinh thần của nạn nhân bạo lực gia đình; + Có chứng cứ chứng minh, có sự đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình. - Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc (Nơi ở khác nhau này gồm nhà của người thân, bạn bè, địa chỉ tin cậy hoặc nơi ở khác mà nạn nhân bạo lực gia đình tự nguyện chuyển đến ở); Chậm nhất 12 giờ, kể từ khi nhận được đơn yêu cầu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; trường hợp không ra quyết định thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Quyết định cấm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký và được gửi cho người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực gia đình, người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình. Câu hỏi 52: Khi áp dụng các biện pháp cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã cần lưu ý điều gì? Trả lời: Khoản 5, 6 Điều 9 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định: 57 - Khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc phải ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật. - Các trường hợp đặc biệt mà người có hành vi bạo lực gia đình được tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình sau khi báo cáo với người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình, bao gồm: + Gia đình có việc tang lễ, cưới hỏi; + Gia đình có người bị tai nạn, bị bệnh nặng; + Tài sản của gia đình bị thiệt hại nặng do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh; + Những trường hợp khác mà phải tiếp xúc theo phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương. Câu hỏi 53: Khi nào Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình? Trả lời: Điều 21 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định: Tòa án đang thụ lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có hành vi bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 4 tháng khi có đủ các điều kiện sau đây: + Có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp 58 cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; + Hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; + Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc. Quyết định cấm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký và được gửi cho người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực gia đình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp. Tòa án nhân dân đã ra quyết định cấm tiếp xúc hủy bỏ quyết định đó khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình hoặc khi nhận thấy biện pháp này không còn cần thiết. Trong trường hợp gia đình có việc tang lễ, cưới hỏi hoặc các trường hợp đặc biệt khác mà người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân phải tiếp xúc với nhau thì người có hành vi bạo lực gia đình phải báo cáo với người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc quy định tại Điều này được thực hiện tương tự như quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. 59 Câu hỏi 54: Nội dung quyết định cấm tiếp xúc được quy định như thế nào? Trả lời: Theo Điều 10 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quyết định cấm tiếp xúc phải ghi rõ: - Ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định. - Họ, tên, địa chỉ của người bị áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; - Căn cứ áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; - Lý do áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; - Thời gian áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; - Người được phân công giám sát việc thực hiện biện pháp cấm tiếp xúc. Quyết định cấm tiếp xúc phải có chữ ký của người ra quyết định và phải được đóng dấu. Câu hỏi 55: Khi nào Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc? Trả lời: Điều 11 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc trong các trường hợp sau đây: - Có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình; - Biện pháp này không còn cần thiết; 60 - Phát hiện những thông tin sai lệch làm căn cứ ra quyết định. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã ra quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là người có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc. Quyết định hủy bỏ biện pháp cấm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký và được gửi ngay tới người có hành vi bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực gia đình, người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình. Câu hỏi 56: Việc giám sát thực hiện quyết định cấm tiếp xúc được quy định như thế nào? Trả lời: Theo Điều 22 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, giám sát thực hiện quyết định cấm tiếp xúc được quy định như sau: - Khi nhận được quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc của Tòa án có thẩm quyền thì người đứng đầu cộng đồng dân cư phối hợp với tổ chức có liên quan ở cơ sở để phân công người giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc. - Người được phân công giám sát có các nhiệm vụ sau đây: 61 + Theo dõi việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc giữa người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân; trường hợp phát hiện người có hành vi bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình thì yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình thực hiện nghiêm chỉnh quyết định cấm tiếp xúc; + Trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình vẫn cố tình tiếp xúc với nạn nhân thì người được phân công giám sát báo cáo cho người đứng đầu cộng đồng dân cư để có biện pháp buộc người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi của mình. - Trong trường hợp người có hành vi bạo lực gia đình được tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 20 và khoản 4 Điều 21 của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 thì các thành viên gia đình có trách nhiệm giám sát để bảo đảm không xảy ra bạo lực gia đình. Câu hỏi 57: Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc thì xử lý như thế nào? Trả lời: Điều 11 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP có quy định: Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc có thể bị áp dụng biện 62 pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính trong các trường hợp sau đây: - Có đơn đề nghị của nạn nhân bạo lực gia đình; - Người vi phạm quyết định cấm tiếp xúc đã bị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhắc nhở nhưng vẫn cố tình vi phạm. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục tạm giữ người theo thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Câu hỏi 58: Những hoạt động nào nhằm trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình? Trả lời: Theo quy định của Điều 13 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP thì hoạt động trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình là hoạt động nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận nhằm giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình. Các hoạt động đó bao gồm: - Chăm sóc sức khỏe, chăm sóc y tế; - Tư vấn pháp luật, tư vấn tâm lý; - Cung cấp nơi tạm lánh trong trường hợp nạn nhân bạo lực gia đình không có chỗ ở khác, nhằm tránh những hành vi bạo lực tiếp theo của người gây bạo lực gia đình; 63 - Hỗ trợ một số nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp nạn nhân bạo lực gia đình không tự lo được hoặc không có sự hỗ trợ từ người thân, bạn bè. Hỗ trợ nhu cầu thiết yếu bao gồm cung cấp đồ ăn, nước uống, cung cấp hoặc cho mượn quần áo, chăn màn và các đồ dùng thiết yếu khác. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện cho các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình hoạt động. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc bảo vệ cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp cần thiết. Câu hỏi 59: Thế nào là Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình? Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm những cơ sở nào? Trả lời: Theo Điều 26 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 thì Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình là nơi chăm sóc, tư vấn, tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia đình. Các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm: - Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; - Cơ sở bảo trợ xã hội; 64 - Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; - Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; - Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. Câu hỏi 60: Các cơ sở khám, chữa bệnh phải có trách nhiệm như thế nào trong việc chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình? Trả lời: Tất cả các cơ sở khám, chữa bệnh dù là cơ sở của Nhà nước hay tư nhân đều có trách nhiệm tiếp nhận, chăm sóc và điều trị kịp thời nạn nhân bạo lực gia đình. Điều 23 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định việc chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình tại cơ sở khám chữa bệnh được quy định cụ thể như sau: - Khi khám và điều trị tại cơ sở khám, chữa bệnh, nạn nhân bạo lực gia đình được xác nhận việc khám và điều trị nếu có yêu cầu. - Chi phí cho việc khám và điều trị đối với nạn nhân bạo lực gia đình do Quỹ bảo hiểm y tế chi trả đối với người có bảo hiểm y tế. - Nhân viên y tế khi thực hiện nhiệm vụ của mình tại cơ sở khám, chữa bệnh phải giữ bí mật thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình; trường hợp phát hiện hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm phải báo ngay cho người đứng đầu cơ sở khám, chữa bệnh để báo cáo cho cơ quan công an nơi gần nhất. 65 - Ngoài ra, ở một vài điều khác của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 còn quy định thêm ngoài việc chăm sóc sức khỏe, các cơ sở y tế còn có trách nhiệm tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình (Khoản 2 Điều 24); đối với cơ sở khám, chữa bệnh của Nhà nước còn có thêm trách nhiệm nếu nạn nhân bạo lực gia đình yêu cầu thì tùy theo khả năng và điều kiện thực tế mà bố trí nơi tạm lánh cho nạn nhân bạo lực gia đình trong thời gian không quá 1 ngày (Khoản 2 Điều 27). Câu hỏi 61: Để thành lập cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình cần có những điều kiện nào? Trả lời: Theo khoản 1, Điều 14 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, điều kiện để thành lập cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm: - Có nơi làm việc cố định, có nguồn kinh phí để bảo đảm hoạt động của cơ sở; - Người đứng đầu cơ sở phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp đang trong thời gian chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án hoặc quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở chữa bệnh, đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; 66 - Có nhân viên tư vấn và người làm việc tại cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật (tại Điều 15 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP). Câu hỏi 62: Để thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình cần có những điều kiện nào? Trả lời: Theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, điều kiện để thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm: - Có nơi làm việc cố định, có nguồn kinh phí để bảo đảm hoạt động của cơ sở; - Người đứng đầu cơ sở phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp đang trong thời gian chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án hoặc quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở chữa bệnh, đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; - Có nhân viên tư vấn và người làm việc tại cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn. - Cơ sở có diện tích tối thiểu là 30m2, có phòng được bố trí là nơi tạm lánh cho nạn nhân bạo lực gia đình và phải đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh, môi trường. 67 Câu hỏi 63: Hồ sơ đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình gồm những gì? Trả lời: Điều 16 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, Điều 3 Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL ngày 16-3- 2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quy định: Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình chỉ được hoạt động sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. - Hồ sơ đăng ký hoạt động gồm có: + Đơn đăng ký hoạt động: Đơn đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M4b; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu số M4a ban hành kèm theo Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL; + Dự thảo quy chế hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh bảo đảm đủ điều kiện thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP (Bản thuyết minh về nguồn lực tài chính; Sơ yếu lý lịch của người đứng đầu cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về 68 phòng, chống bạo lực gia đình có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ quan nhà nước quản lý người đứng đầu; danh sách nhân viên tư vấn đáp ứng đủ tiêu chuẩn quy định; danh sách người làm việc tại cơ sở có xác nhận của người đứng đầu và kèm theo bản sao Giấy chứng nhận tập huấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu;…); + Xác nhận bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã/phường/thị trấn về địa chỉ trụ sở hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 64: Dự thảo Quy chế hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình trong bộ hồ sơ đăng ký hoạt động phải có các nội dung cơ bản nào? Trả lời: Khoản 2 Điều 3 của Thông tư số 02/2010/TT BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung quy định: dự thảo Quy chế hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình trong bộ hồ sơ đăng ký hoạt động phải có các nội dung cơ bản sau: - Mục tiêu, tên gọi, địa bàn và quy mô hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; 69 - Cơ cấu tổ chức, mối quan hệ trong chỉ đạo, điều hành của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; - Trách nhiệm của người đứng đầu, nhân viên trực tiếp chăm sóc, tư vấn và những người khác làm việc tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; - Trách nhiệm, quyền lợi của nạn nhân bạo lực gia đình khi được tiếp nhận vào cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; - Trách nhiệm, quyền lợi của người gây bạo lực gia đình khi được tiếp nhận vào cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình. - Nguyên tắc quản lý tài sản, tài chính và những quy định có tính chất hành chính phù hợp với đặc điểm của loại hình cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình. Câu hỏi 65: Bản thuyết minh về nguồn lực tài chính của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình trong bộ hồ sơ đăng ký hoạt động phải có các nội dung cơ bản nào? Trả lời: Theo khoản 4 Điều 3 của Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung, 70 Bản thuyết minh về nguồn lực tài chính phải nêu rõ các nội dung sau: - Tình hình tài chính hiện có của cơ sở (bao gồm: tiền mặt, tiền gửi có trong tài khoản tại ngân hàng, kho bạc); nguồn kinh phí nếu nhận từ nguồn tài trợ, cần nêu rõ tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân tài trợ, số tiền, hiện vật và thời gian tài trợ. - Nguồn tài chính được cam kết bảo đảm cho hoạt động của cơ sở (nếu có). Câu hỏi 66: Quy trình tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình được quy định như thế nào? Trả lời: Việc tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được thực hiện theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 02/2010/TT BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung, cụ thể như sau: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nếu thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), hoặc Phòng Văn hóa và Thông tin (nếu thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động là của Ủy ban nhân dân cấp huyện) tiếp nhận hồ sơ và cấp giấy biên nhận cho bên nộp hồ sơ. 71 Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhận hồ sơ phải có kết quả thẩm định hồ sơ. Trong trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở hoàn thiện hồ sơ, thời hạn có kết quả thẩm định được tính lại từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi có kết quả thẩm định, cơ quan thẩm định phải gửi một bộ hồ sơ và biên bản thẩm định cơ sở tư vấn nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M5a, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M5b ban hành theo Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung tới Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện để cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ và biên bản thẩm định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu số M6a1, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M6b1 ban hành kèm theo Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung. Quy chế hoạt động của cơ sở được cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động phê duyệt 72 đồng thời với việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở. Như vậy, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; trường hợp từ chối thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Câu hỏi 67: Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình được quy định như thế nào? Trả lời: Điều 17 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định như sau: - Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình trong các trường hợp sau đây: + Cơ sở có trụ sở chính đặt tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội thành lập; + Cơ sở có trụ sở chính đặt tại tỉnh, thành phố73 trực thuộc Trung ương do các tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập; + Cơ sở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. - Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình do các tổ chức, cá nhân trong nước thành lập mà không thuộc các trường hợp quy định ở trên. Câu hỏi 68: Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình phải làm gì khi thay đổi tên gọi, địa chỉ đặt trụ sở, người đứng đầu, nội dung hoạt động? Trả lời: Theo khoản 4 Điều 16 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình chỉ hoạt động theo đúng nội dung ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Khi thay đổi tên gọi, địa chỉ đặt trụ sở, người đứng đầu, nội dung hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình thì tổ chức, cá nhân đã thành lập cơ sở đó phải làm thủ tục đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. 74 Câu hỏi 69: Quy trình, thủ tục đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình được quy định như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung, hồ sơ đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bao gồm: - Đơn đề nghị đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu số M8a1; Đơn đề nghị đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M8b1 của phụ lục kèm theo Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung; - Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động đã được cấp cho cơ sở; - Quy chế hoạt động của cơ sở (nếu có sửa đổi, bổ sung); - Các giấy tờ liên quan đến nội dung thay đổi (tên gọi, người đứng đầu, địa điểm đặt trụ sở), mỗi loại 1 bản. Hồ sơ đề nghị đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được nộp trực tiếp hoặc gửi Bưu điện cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nếu thẩm 75 quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), hoặc Phòng Văn hóa và Thông tin (nếu thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động là của Ủy ban nhân dân cấp huyện). Khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm cấp giấy biên nhận cho bên nộp hồ sơ và tiến hành thẩm định hồ sơ trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trong trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở hoàn thiện hồ sơ, thời hạn thẩm định được tính lại từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi có kết quả thẩm định, cơ quan thẩm định phải gửi một bộ hồ sơ và biên bản thẩm định tới Ủy ban nhân dân có thẩm quyền để đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ và biên bản thẩm định, Ủy ban nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu M6a1, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M6b1 ban hành kèm theo Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung. Trường hợp từ chối đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản. 76 Quy chế hoạt động sửa đổi, bổ sung của cơ sở được cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động phê duyệt đồng thời với việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở. Câu hỏi 70: Trong trường hợp nào thì cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình phải xin cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động? Trả lời: Theo quy định của khoản 1 Điều 5 Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung, trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình bị mất, bị rách hoặc hư hỏng thì cơ sở được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Câu hỏi 71: Quy trình, thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình được quy định như thế nào? Trả lời: Theo quy định của Điều 5 Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung, hồ sơ cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động gồm: 77 - Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cơ sở tư vấn phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu số M8a; Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M8b của phụ lục kèm theo Thông tư này; - Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cũ (trong trường hợp bị rách hoặc hư hỏng); - Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động hoặc quy chế hoạt động được phê duyệt (trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bị mất). Hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được nộp tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền quy định tại Điều 17 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình theo mẫu số M6a2, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình theo mẫu số M6b2 của Thông tư số 02/2010/TT-BVHTTDL đã được sửa đổi, bổ sung. Nếu không đồng ý, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ sở được cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động có trách nhiệm thông báo bằng văn bản (kèm theo bản sao Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được cấp lại) cho cơ quan quản lý nhà nước 78 về văn hóa, thể thao và du lịch có thẩm quyền quy định để theo dõi, quản lý. Câu hỏi 72: Khi nào các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình bị tạm đình chỉ hoạt động? Trả lời: Theo khoản 1 Điều 18 Nghị định số 08/2009/ NĐ-CP, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình trong quá trình hoạt động không còn bảo đảm đủ điều kiện theo quy định tại Điều 14 Nghị định này thì bị tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi bảo đảm đủ điều kiện hoạt động. Câu hỏi 73: Khi nào các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động? Trả lời: Theo khoản 2 Điều 18 Nghị định số 08/2009/ NĐ-CP thì các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động trong các trường hợp sau đây: - Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động được cấp cho cơ sở không đúng thẩm quyền hoặc không đúng quy định của pháp luật; 79