🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang Phòng Cháy, Chữa Cháy Và Cứu Nạn, Cứu Hộ
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG
Phó Chủ tịch Hội đồng
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH
Thành viên
TRẦN QUỐC DÂN
NGUYỄN ĐỨC TÀI
NGUYỄN NGUYÊN
NGUYỄN HOÀI ANH
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có vai trò quan trọng, nhằm bảo đảm tính mạng con người và an toàn tài sản của cơ sở, hộ gia đình; bảo đảm về tiến độ và an toàn sản xuất. Bên cạnh đó, việc thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong các cơ sở còn thể hiện sự tuân thủ pháp luật về công tác này là trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như người đứng đầu cơ sở. Công tác này tại cơ sở có nhiều nội dung như: lập hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thành lập, duy trì hoạt động đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; xử lý vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Cuốn sách Cẩm nang phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do Trung tá, Tiến sĩ Lương Khắc Vọng biên soạn là tài liệu tham khảo thiết thực phục vụ tổ chức công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, khu dân cư (gọi chung là cơ sở). Cuốn sách gồm 2 chương:
Chương I: Kiến thức cơ bản về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở, trong đó hướng dẫn đánh giá nguy hiểm cháy, nổ ở cơ sở; trách nhiệm của người đứng đầu, nhân viên của cơ sở trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Chương II: Xây dựng nội quy, phương án và tuyên truyền, phân công thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
5
tại một số bộ phận của cơ sở, đề cập yêu cầu và những nhiệm vụ cơ bản về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của một số bộ phận đặc thù trong cơ sở.
Ngoài ra, cuốn sách còn có Phụ lục hướng dẫn người đứng đầu cơ sở hoàn thiện hồ sơ công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cùng các biểu mẫu phục vụ tổ chức thực hiện công tác này tại cơ sở.
Trong quá trình biên soạn, tác giả đã tham khảo các tài liệu và các nguồn thông tin chính thống trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, song không tránh khỏi còn những thiếu sót, hạn chế. Nhà xuất bản và tác giả rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
Chương I
KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC
phòng cháy, chữa cháy VÀ cứu nạn, cứu hộ TẠI CƠ SỞ
I- NGUY HIểM CHÁY VÀ QUY ĐịNH Về CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY, CHữA CHÁY VÀ CứU NạN, CứU Hộ TạI CƠ Sở
1. Nguy hiểm cháy
a) Một số khái niệm liên quan:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự cháy và các nhà khoa học đi đến một kết luận thống nhất: “Sự cháy là phản ứng ôxy hóa có kèm theo tỏa nhiệt và phát sáng”1. Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5303:1990 An toàn cháy - Thuật ngữ và định nghĩa, cũng nêu rõ: “Sự cháy là phản ứng ôxy hóa, tỏa nhiệt và phát sáng”. Như vậy, cháy xảy ra phải có ba dấu hiệu đặc trưng: có phản ứng hoá học xảy ra; có toả nhiệt; phát ra ánh sáng. Ví dụ: Khi đốt lò thì phản ứng xảy ra giữa than (C) và ôxy là phản ứng hoá học, cho ra sản phẩm cuối cùng là thán khí (CO2), nhiệt lượng (Q) và ánh sáng ngọn lửa.
Theo quy định của Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2013 (Luật Phòng cháy và chữa cháy), khoa học phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, một số thuật ngữ liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở được giải thích như sau:
1. Bộ Công an: Từ điển bách khoa Công an nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 1036.
7
- Cháy: Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Phòng cháy và chữa cháy “cháy là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường”.
- Phòng cháy: Đến nay, Việt Nam chưa có văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định khái niệm này. Tại mục 1.3 Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN: 5303-1990 An toàn cháy - Thuật ngữ và định nghĩa chỉ quy định về an toàn cháy: “Là tình trạng hoặc tính chất của các sản phẩm, các phương pháp, phương tiện sản xuất và các khu vực bảo đảm loại trừ được khả năng phát sinh cháy và hạn chế được hậu quả khi cháy xảy ra”. Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định số 83/2017/NĐ-CP, ngày 18-7-2017 của Chính phủ quy định về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa cháy (Nghị định số 83/2017/NĐ-CP) thì: “Phòng ngừa sự cố, tai nạn là các hoạt động nhằm loại trừ nguyên nhân, điều kiện gây ra sự cố, tai nạn, bao gồm: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kỹ năng phòng tránh, thoát nạn; thẩm định, thẩm duyệt, kiểm định về các điều kiện bảo đảm an toàn cho người, phương tiện, thiết bị, tài sản đối với nhà, công trình, phương tiện, thiết bị; theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về bảo đảm điều kiện an toàn, phòng, chống sự cố, tai nạn; xây dựng phương án, kế hoạch và tổ chức thực tập, diễn tập phương án cứu nạn, cứu hộ; tập huấn, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ về cứu nạn, cứu hộ”.
- Chữa cháy: Khoản 8 Điều 3 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định: “Chữa cháy bao gồm các công việc huy động, triển khai lực lượng, phương tiện chữa cháy, cắt điện, tổ chức thoát nạn, cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan, dập tắt đám cháy và các hoạt động khác có liên quan đến chữa cháy”. Điều 30 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định biện pháp cơ bản trong chữa
8
cháy: “Huy động nhanh nhất các lực lượng, phương tiện để dập tắt ngay đám cháy; tập trung cứu người, cứu tài sản và chống cháy lan; thống nhất chỉ huy, điều hành trong chữa cháy”.
- Cứu nạn: khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2017/NĐ-CP: “Cứu nạn là hoạt động cứu người bị nạn khỏi nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của họ do sự cố, tai nạn, bao gồm: Phát hiện, định vị, mở lối tiếp cận người bị nạn, bố trí phương tiện, dụng cụ, lực lượng cứu nạn, cứu hộ; xác định, ngăn chặn, loại bỏ các yếu tố đe dọa tính mạng, sức khỏe người bị nạn và lực lượng cứu nạn, cứu hộ; tư vấn biện pháp y tế ban đầu, sơ cứu; đưa người bị nạn khỏi vị trí nguy hiểm và các biện pháp khác đưa người bị nạn đến vị trí an toàn”.
- Cứu hộ: Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 83/2017/NĐ-CP: “Cứu hộ là hoạt động cứu phương tiện, tài sản khỏi nguy hiểm do sự cố, tai nạn, bao gồm: Phát hiện, định vị, mở lối tiếp cận phương tiện, tài sản bị nạn, bố trí phương tiện, dụng cụ, lực lượng cứu nạn, cứu hộ; xác định, ngăn chặn, loại bỏ các yếu tố nguy hiểm đe dọa an toàn phương tiện, tài sản và sức khỏe, tính mạng lực lượng cứu nạn, cứu hộ; đưa phương tiện, tài sản khỏi vị trí nguy hiểm và các biện pháp khác đưa phương tiện, tài sản đến vị trí an toàn”. Do trong hiện trường vụ cháy có thể có người bị nạn, cần phải được cấp cứu (cứu nạn); có tài sản cần phải được di chuyển (cứu hộ), nên để khẳng định công tác chữa cháy có hiệu quả, bên cạnh việc bảo đảm việc triển khai kịp thời lực lượng phương tiện đến đám cháy, còn là tổ chức chỉ huy, phối hợp lực lượng và vận dụng thành thạo các phương pháp, kỹ thuật, chiến thuật chữa cháy phù hợp với đặc điểm của từng loại đám cháy, cứu được người bị nạn cũng như di chuyển những tài sản có giá trị ra khỏi hiện trường.
9
- Chất nguy hiểm về cháy, nổ được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Phòng cháy và chữa cháy “là chất lỏng, chất khí, chất rắn hoặc hàng hoá, vật tư dễ xảy ra cháy, nổ”.
- Cơ sở:
+ Theo khoản 3 Điều 1 Luật Phòng cháy và chữa cháy: “Cơ sở là nơi sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng, trụ sở làm việc, khu chung cư và công trình độc lập khác theo danh mục do Chính phủ quy định”.
+ Theo Điều 5 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31-7- 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 83/2017/NĐ-CP - sau đây gọi là Nghị định số 79/2014/NĐ-CP): “Cơ sở thuộc diện quản lý về phòng cháy, chữa cháy là nơi sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng, trụ sở làm việc, khu chung cư và các công trình độc lập theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này”. Đây là các cơ sở mà trong quá trình hoạt động có yêu cầu thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và được quy định cụ thể tại Phụ lục I của Nghị định số 79/2014/NĐ-CP.
+ Cơ sở thuộc Bộ Quốc phòng phục vụ mục đích dân sự: Theo khoản 3 Điều 3 Nghị định số 78/2011/NĐ-CP ngày 1-9-2011 của Chính phủ quy định việc phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ Quốc phòng trong tổ chức thực hiện công tác phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở quốc phòng (Nghị định số 78/2011/NĐ-CP): “Cơ sở hoạt động phục vụ kinh tế - xã hội là cơ sở do Bộ Quốc phòng tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động theo Luật Doanh nghiệp”. Lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,
10
cứu hộ chủ trì trong tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở quốc phòng hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
+ Cơ sở hoạt động trong lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện: Theo khoản 3 Điều 7 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 1-7-2016 của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Nghị định số 96/2016/NĐ-CP), điều kiện chung đối với các cơ sở này là phải: “đủ điều kiện về an toàn phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy”.
Như vậy, cơ sở thuộc diện quản lý về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ bao gồm: Các cơ sở dân sự thuộc diện quản lý về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; cơ sở quốc phòng phục vụ mục đích dân sự quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 78/2011/NĐ-CP; cơ sở kinh doanh có điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP.
b) Những nguy hiểm từ đám cháy đối với con người: - Khói: Đa số nạn nhân bị chết trong đám cháy là do khói chứ không phải là do nhiệt. Tác động của khói với con người nguy hiểm do:
+ Khói từ đám cháy sẽ chiếm chỗ ôxy trong không khí. Do ôxy bị ngọn lửa lấy đi để duy trì phản ứng cháy, nên trong đám cháy thường xảy ra tình trạng thiếu ôxy nhanh chóng, con người ở trong đó sẽ bị ngạt thở, choáng ngất và có thể tử vong (nồng độ ôxy trong không khí trong điều kiện thường là 21%, ngưỡng thở của con người là trên 16%, khi nồng độ ôxy xuống dưới 10%, con người sẽ bị choáng ngất).
+ Sản phẩm cháy thường có nhiều chất độc hại đối với cơ thể như CO, NO, H2S, HCN... và lượng khí này tăng cao khi cháy trong điều kiện thiếu ôxy (trong phòng kín, hầm lò) hoặc
11
cháy nhựa tổng hợp, đệm mút.... Đây là các chất cực độc, ngưỡng nồng độ nguy hiểm với cơ thể là rất thấp: CO (0,05% thể tích không khí), NO (0,25% thể tích không khí), HCN (0,02% thể tích không khí), H2S (0,05% thể tích không khí) trong khi nồng độ thực tế của chúng trong các đám cháy thường cao hơn hàng chục, thậm chí hàng trăm lần, đủ gây chết người chỉ trong vài phút đến vài chục phút. Các chất này khi vào cơ thể thường tác động cấp, làm tổn thương và gây ngưng trệ hoạt động của hệ thần kinh và các cơ quan nội tạng, khiến con người nhanh chóng bị choáng ngất, hôn mê và dẫn đến tử vong.
+ Trong một số trường hợp, dòng khí và khói nóng khi vào cơ thể sẽ làm tổn thương phổi, khiến quá trình hô hấp bị suy giảm, gây nguy hiểm cho con người.
+ Khói dày đặc trong đám cháy khiến con người bị mất tầm nhìn, mất phương hướng, không thoát ra được và có thể đi vào vùng nguy hiểm.
- Nhiệt độ cao: Trong đám cháy, con người chịu tác động của nhiệt độ cao trực tiếp từ ngọn lửa hoặc do bức xạ nhiệt, do dòng khí nóng hoặc tiếp xúc với vật có nhiệt độ cao. Thực nghiệm cho thấy, ngưỡng nhiệt độ gây nguy hiểm cho con người là 70oC. Khi nhiệt độ cao hơn sẽ gây bỏng cho cơ thể, cơ bắp và các cơ quan sẽ bị mất nước, bị phá huỷ. Khi nhiệt độ đạt 200oC trở lên thì da, thịt sẽ bị thiêu cháy, con người sẽ nhanh chóng bị chết. Trong một số trường hợp, nhiệt độ cao từ đám cháy làm tăng áp suất và gây nổ các bình chứa khí hoặc làm sôi trào chất lỏng gây nguy hiểm cho con người.
- Sự sập đổ của nhà và công trình: Vật liệu xây dựng (sắt, thép, bê tông...) sẽ mất khả năng chịu lực khi chịu tác động của nhiệt độ cao gây sập đổ nhà và công trình, là nguồn nguy hiểm cho người ở bên trong và xung quanh.
12
- Trường hợp cháy xảy ra nơi đông người sẽ gây tâm lý hoảng loạn, chen lấn xô đẩy, thậm chí dẫm đạp lên nhau. Trong nhiều trường hợp, con người do hoảng loạn đã nhảy từ tầng cao xuống đất để thoát nạn dẫn đến bị thương hoặc thậm chí là chết. c) Các yếu tố, điều kiện duy trì sự cháy:
- Các yếu tố duy trì sự cháy:
+ Chất cháy: bao gồm các loại: Chất cháy rắn, gồm các vật liệu ở thể rắn và có hình dạng cụ thể (giấy, bìa, vải sợi, tơ lụa...). Chất cháy lỏng, gồm: xăng, dầu, cồn, rượu, aceton... Chất cháy khí, gồm: mêtan, hyđrô, clo, axetylen, ôxít cácbon...
+ Nguồn nhiệt: Có nhiều loại nguồn nhiệt khác nhau dẫn đến một đám cháy: Ngọn lửa trần (nguồn nhiệt trực tiếp) như ngọn lửa que diêm, nến; nguồn nhiệt hình thành do ma sát giữa các vật rắn sinh ra; nguồn nhiệt hình thành do phản ứng hóa học giữa các hóa chất hoặc giữa hóa chất với nước; nguồn nhiệt do tác dụng giữa các hoá chất với nhau; nguồn nhiệt hình thành do quá tải, ngắn mạch, điện trở tiếp xúc trên hệ thống điện...
+ Chất ôxy hoá: Là những chất tham gia phản ứng hoá học với chất cháy để tạo nên sự cháy. Chất ôxy hoá trong phản ứng cháy có thể là ôxy nguyên chất, ôxy của không khí, ôxy sinh ra do các hợp chất chứa ôxy bị phân huỷ, hoặc những chất ôxy hoá khác có khả năng ôxy hoá chất cháy như: các chất thuộc nhóm halozen, H2SO4 đặc...
- Các điều kiện duy trì sự cháy:
+ Điều kiện tiếp xúc: Chất cháy, ôxy, nguồn nhiệt phải được tiếp xúc trực tiếp với nhau.
+ Công suất nguồn nhiệt đủ lớn: Là nguồn nhiệt có giá trị nhiệt độ đủ lớn để nung nóng chất cháy hoá hơi và bắt cháy. + Thời gian tiếp xúc đủ lớn: Nếu chất cháy, chất ôxy hóa và nguồn nhiệt tiếp xúc trong thời gian ngắn thì sự cháy không
13
xảy ra. Ví dụ, trong trường hợp là quần áo, mặc dù giá trị nhiệt độ của bàn là rất cao song sự cháy không xảy ra là do thời gian tiếp xúc ngắn.
+ Nồng độ hỗn hợp hơi khí chất cháy hình thành trong giới hạn bắt cháy: Để duy trì sự cháy, hàm lượng ôxy phải chiếm từ 14% thể tích không khí trở lên. Nếu hàm lượng ôxy thấp hơn 14% thể tích không khí thì trong môi trường đó cháy không xảy ra. Nhiệt ban đầu có nhiệm vụ nung nóng chất cháy để phân hóa thành hơi khí và chính hơi khí này kết hợp với ôxy trong phản ứng ôxy hóa khử và sự cháy xảy ra. Phản ứng ôxy hóa khử chỉ xảy ra khi nồng độ hỗn hợp hơi khí chất cháy nằm trong giới hạn nồng độ bắt cháy. Nhiệt từ phản ứng tiếp tục duy trì sự cháy. d) Nguyên nhân gây cháy:
- Cháy do đốt: Là hành vi cố ý của con người gây ra với các động cơ và mục đích khác nhau:
+ Đốt vụ lợi cá nhân là hành vi đốt nhằm chiếm đoạt lợi ích lớn hơn như trục lợi bảo hiểm, tìm kiếm sự thương hại của người khác...
+ Đốt để thiêu huỷ dấu vết vật chứng nhằm che giấu hành vi phạm tội trước đó đã gây ra, như tham ô rồi đốt sổ sách, hồ sơ, chứng từ; trộm cắp, làm thất thoát tài sản rồi đốt kho...
+ Đốt trả thù mâu thuẫn cá nhân: thù tức nhau trong quan hệ gia đình, bạn bè, yêu đương, quan hệ với lãnh đạo... nên thực hiện hành vi đốt.
+ Đốt do bất mãn cá nhân là trường hợp do chán chường trong yêu đương, trong công việc, cuộc sống... nên thực hiện hành vi đốt.
+ Đốt do những người bị bệnh tâm thần, trẻ em thực hiện, là trường hợp mà chủ thể thực hiện hành vi gây cháy không đủ năng lực trách nhiệm pháp lý.
14
- Cháy do vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Là hành vi cố ý không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực hiện sai các quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gây ra cháy, nhưng người gây cháy không mong muốn hậu quả xảy ra.
Đây là trường hợp gây cháy tại những nơi có các nội quy, quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được treo, kẻ, vẽ mà mọi người quan sát nhìn thấy được hoặc đã được phổ biến, học tập song vẫn thực hiện sai như hút thuốc lá nơi cấm lửa, sử dụng chất cháy, nguồn nhiệt không đúng quy định...
- Cháy do sơ xuất, bất cẩn: Là hành vi vô ý gây ra cháy. Đó là các trường hợp người gây cháy không hiểu biết về tính chất nguy hiểm cháy, nổ của chất cháy và nguồn nhiệt trong quá trình sử dụng; do nhầm lẫn trong thao tác, sử dụng chất cháy, nguồn nhiệt; do sơ xuất, bất cẩn trong sử dụng lửa nhiệt như thắp hương thờ cúng trong gia đình...
- Cháy do thiếu trách nhiệm: Là hành vi cố ý không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực hiện sai trách nhiệm của mình trong việc quản lý chất cháy, nguồn nhiệt mà sinh ra cháy, nhưng người gây cháy không mong muốn hậu quả xảy ra. Đây là hành vi để xảy ra cháy của những người có trách nhiệm thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong công tác quản lý, điều hành như thủ kho, người đứng đầu cơ sở, tổ trưởng tổ sản xuất... do không thực hiện đầy đủ công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Cháy do sự cố kỹ thuật và tác động của hiện tượng thiên nhiên: Là trường hợp cháy xảy ra nằm ngoài khả năng giám sát, khống chế và ngăn chặn của con người cũng như các thiết bị,
15
phương tiện bảo vệ. Khi phân tích nguyên nhân vụ cháy này còn phải làm rõ người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đã thực hiện hết trách nhiệm hay chưa; các thiết bị, phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hoạt động như thế nào khi có cháy xảy ra?...
đ) Nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Để nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Điều 4 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy, Điều 4 Nghị định số 83/2017/NĐ-CP quy định nguyên tắc cứu nạn, cứu hộ, cụ thể như sau:
- Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Trong phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lấy hoạt động phòng ngừa là chính, phải chủ động tích cực phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất không để cháy nổ và thiệt hại do cháy gây ra. Ưu tiên cứu người bị nạn; thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, phương tiện, tài sản của người bị nạn và lực lượng cứu nạn, cứu hộ.
- Phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời có hiệu quả. Bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả và thống nhất trong chỉ huy, điều hành hoạt động cứu nạn, cứu hộ.
- Mọi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trước hết phải được thực hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ, lực lượng chuyên trách làm nòng cốt, huy động tổng hợp các lực lượng và nhân dân tham gia cứu nạn, cứu hộ.
16
2. Căn cứ pháp lý quy định tổ chức công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở
a) Văn bản quy phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại các cơ sở đã được nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, cụ thể như sau:
- Văn bản luật: Văn bản pháp lý cao nhất là Luật Phòng cháy và chữa cháy được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2001, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04-10-2001, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2013. Bên cạnh đó, để bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong từng lĩnh vực cụ thể, một số luật cũng đề cập nội dung này, cụ thể: Nội dung phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hóa chất quy định trong Luật Hóa chất1; nội dung phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ rừng quy định trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng2, v.v..
- Nghị định của Chính phủ: Một số nghị định quy định công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như Nghị định số 79/2014/NĐ-CP; Nghị định số 167/2013/ NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị định số 67/2013/ NĐ-CP); Nghị định số 137/2013/NĐ-CP ngày 21-10-2013 của
1. Hiện đang có hiệu lực thi hành là Luật Hóa chất năm 2007. 2. Hiện đang có hiệu lực thi hành là Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, và sẽ được thay thế bởi Luật Lâm nghiệp năm 2017 khi luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2019.
17
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện lực và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực (Nghị định số 137/2013/NĐ-CP); Nghị định số 83/2017/NĐ-CP, v.v..
- Thông tư của các bộ: Để tổ chức thực hiện Luật Phòng cháy và chữa cháy và các nghị định, các bộ đã ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành như: Thông tư số 66/2014/TT BCA ngày 16-12-2014 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31-7-2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy (Thông tư số 66/2014/TT
BCA); Thông tư số 56/2014/TT-BCA ngày 12-11-2014 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy, chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy, chữa cháy chuyên ngành (Thông tư số 56/2014/TT-BCA), v.v..
b) Tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Bên cạnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là hệ thống văn bản quy phạm kỹ thuật, bao gồm các tiêu chuẩn Việt Nam, quy chuẩn Việt Nam, quy định công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của các ngành chuyên môn. Khoản 1 Điều 8 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định việc ban hành và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Như vậy, công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở phải tuân thủ các tiêu chuẩn Việt Nam và các quy chuẩn Việt Nam.
18
- Khoản 1 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 nêu khái niệm: “Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này”. Có nhiều tiêu chuẩn Việt Nam quy định về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đã được ban hành và hiện đang có hiệu lực thi hành như: TCVN 3890:2009 Phương tiện phòng cháy, chữa cháy cho nhà và công trình - Trang bị, bố trí, kiểm tra, bảo dưỡng; TCVN 5040:1990 Thiết bị phòng cháy, chữa cháy - Ký hiệu vẽ dùng trên sơ đồ phòng cháy - Yêu cầu kỹ thuật; TCVN 5760:1993 Hệ thống chữa cháy - Yêu cầu chung về thiết kế, lắp đặt và sử dụng; TCVN 2622:1995 Phòng chống cháy cho nhà và công trình - Yêu cầu thiết kế...
- Khoản 2 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 nêu khái niệm: “Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác”. Có các quy chuẩn trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hiện đang áp dụng thi hành như: QCVN 06: 2010/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình; QCVN 01: 2008/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn điện...
Các tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được áp dụng tại Việt Nam trong những trường hợp sau: Tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn
19
quốc tế có quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế có quy định an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam hoặc phù hợp với yêu cầu thực tế của Việt Nam và được Bộ Công an chấp thuận bằng văn bản. Đối với yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ mà chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật thì thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
3. Điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở và trách nhiệm tổ chức thực hiện a) Điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở được quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP:
- Có quy định, nội quy, biển cấm, biển báo, sơ đồ hoặc biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, thoát nạn phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt động của cơ sở.
+ Quy định, nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở được quy định cụ thể tại Điều 5 Thông tư số 66/2014/TT-BCA gồm các nội dung cơ bản sau: Quy định việc quản lý, sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, chất dễ cháy, nổ, thiết bị, dụng cụ có khả năng sinh lửa, sinh nhiệt; những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; quy định việc quản lý, bảo quản, bảo dưỡng, sử dụng phương tiện, thiết bị phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; những việc phải làm để phòng ngừa cháy, nổ hoặc khi có cháy, nổ xảy ra.
20
+ Sơ đồ chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải thể hiện được các hạng mục công trình, hệ thống đường nội bộ, lối thoát nạn, hướng thoát nạn, vị trí nguồn nước chữa cháy và phương tiện chữa cháy. Tùy theo tính chất, đặc điểm hoạt động cụ thể của cơ sở, sơ đồ chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có thể tách thành các sơ đồ chỉ dẫn riêng thể hiện một hoặc một số nội dung nêu trên.
+ Biển cấm, biển báo, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Biển cấm gồm: biển cấm lửa, biển cấm hút thuốc, biển cấm cản trở lối đi lại, biển cấm dùng nước làm chất dập cháy (đối với chất kỵ nước). Đối với những nơi sản xuất, quản lý, bảo quản, sử dụng vật liệu nổ, khí đốt hóa lỏng, xăng, dầu và những nơi có nguy cơ cháy, nổ cao có thể có biển cấm mang, sử dụng diêm, bật lửa, điện thoại di động, thiết bị thu phát sóng và các thiết bị, vật dụng, chất có khả năng phát sinh nhiệt, tia lửa hoặc lửa thì phải có biển phụ ghi rõ những vật cần cấm; biển báo khu vực hoặc vật liệu có nguy hiểm về cháy, nổ. Biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, gồm: biển chỉ hướng thoát nạn, cửa thoát nạn, vị trí để điện thoại, bình chữa cháy, trụ nước chữa cháy, nơi lấy nước chữa cháy, phương tiện chữa cháy cơ giới và phương tiện chữa cháy khác.
+ Quy cách, mẫu biển cấm, biển báo, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thực hiện theo quy định của Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4879: 1989 Phòng cháy - Dấu hiệu an toàn về mẫu mã, kích thước. Trong trường hợp cần phải quy định rõ hiệu lực của biển cấm, biển báo, biển chỉ dẫn thì phải có biển phụ kèm theo.
+ Nội quy an toàn, sơ đồ chỉ dẫn, biển cấm, biển báo, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được phổ biến và niêm yết ở những nơi dễ thấy để mọi người biết và chấp hành.
21
- Có quy định và phân công chức trách, nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho từng cá nhân làm việc trong cơ sở. Người đứng đầu cơ sở phải xây dựng quy định và phân công chức trách, nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho từng cá nhân làm việc trong các bộ phận của cơ sở, đặc biệt ở các khu vực có nguy hiểm cháy, nổ cao và các khu vực có trang bị phương tiện chữa cháy ban đầu.
- Hệ thống điện, chống sét, chống tĩnh điện; thiết bị sử dụng điện, sinh lửa, sinh nhiệt; việc sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt phải bảo đảm an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Các hệ thống này phải được kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kỳ theo quy định và theo phân công nhiệm vụ của người đứng đầu cơ sở. Việc kiểm tra phải lập thành văn bản để theo dõi, quản lý.
- Có quy trình kỹ thuật an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của cơ sở. Đối với các máy móc, dây chuyền công nghệ có tính nguy hiểm cháy, nổ trong quá trình hoạt động, sản xuất phải có quy trình kỹ thuật quy định chặt chẽ. Quy trình này phải được phổ biến và yêu cầu người làm việc trong khu vực phải tuân thủ đúng theo hướng dẫn.
- Có lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, chuyên ngành được huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và thường trực sẵn sàng chữa cháy đáp ứng yêu cầu chữa cháy của cơ sở. Để lực lượng này thực hiện tốt nhiệm vụ, người đứng đầu cơ sở có nghĩa vụ tổ chức đào tạo, huấn luyện, bảo đảm các lực lượng thành thục về chuyên môn, phân công nhiệm vụ ứng trực bảo đảm lực lượng này sẵn sàng chiến đấu, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở và thực hiện lệnh điều động tham gia hoạt
22
động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của các đơn vị có thẩm quyền.
- Có phương án chữa cháy, thoát nạn đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Các phương án gồm phương án do cơ sở lập và phương án do Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lập. Phương án chữa cháy phải được người có thẩm quyền phê duyệt lại khi có thay đổi tình huống cháy phức tạp nhất hoặc thay đổi từ hai tình huống cháy đặc trưng trở lên. Trường hợp phương án chữa cháy chỉ thay đổi một tình huống cháy đặc trưng thì do người đứng đầu đơn vị, cơ sở xây dựng phương án phê duyệt.
- Có hệ thống giao thông, cấp nước, thông tin liên lạc phục vụ chữa cháy, hệ thống báo cháy, chữa cháy, ngăn cháy, phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khác, phương tiện cứu người phù hợp với tính chất, đặc điểm của cơ sở bảo đảm về số lượng, chất lượng và hoạt động phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hoặc theo quy định của Bộ Công an.
- Có văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (đối với công trình thuộc diện phải thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ).
- Có hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo quy định của Bộ Công an. Điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được tổ chức thực hiện và duy trì trong suốt quá trình hoạt động của cơ sở.
b) Trách nhiệm tổ chức thực hiện điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Trách nhiệm tổ chức thực hiện điều kiện an toàn về phòng 23
cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở thuộc về tất cả cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ sở và nội dung này được quy định tại khoản 1, 2 Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy: “phòng cháy, chữa cháy là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công dân từ 18 tuổi trở lên, đủ sức khỏe có trách nhiệm tham gia vào đội dân phòng, đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở được lập ở nơi cư trú hoặc nơi làm việc khi có yêu cầu”. Như vậy, theo quy định của Luật, hầu hết mọi người có trách nhiệm phải thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, thể hiện thông qua hai chủ thể chính là người đứng đầu cơ sở và các cá nhân.
- Người đứng đầu cơ sở: Trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy và Nghị định số 83/2017/NĐ-CP, theo đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
+ Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; xây dựng phong trào toàn dân tham gia phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thành lập, duy trì hoạt động đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật;
+ Ban hành theo thẩm quyền nội quy và biện pháp về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
+ Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; + Bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, sử dụng kinh phí phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đúng mục đích; trang bị và duy trì hoạt động của dụng cụ, phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
24
chuẩn bị các điều kiện phục vụ chữa cháy; xây dựng, tổ chức thực tập phương án chữa cháy; bảo đảm các điều kiện phục vụ công tác huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả do cháy gây ra;
+ Thực hiện nhiệm vụ khác về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật.
- Cá nhân: Trách nhiệm của cá nhân trong công tác phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được quy định tại khoản 3a Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy và Nghị định số 83/2017/ NĐ-CP. Theo đó, cá nhân có trách nhiệm:
+ Chấp hành quy định, nội quy, yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của người hoặc cơ quan có thẩm quyền; + Tuân thủ pháp luật và nắm vững kiến thức cần thiết về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; biết sử dụng dụng cụ, phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thông dụng;
+ Bảo đảm an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong quá trình sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị, dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt và trong bảo quản, sử dụng chất cháy;
+ Ngăn chặn nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, hành vi vi phạm quy định an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
+ Thực hiện quy định khác có liên quan đến trách nhiệm cá nhân.
Như vậy, dù là người đứng đầu cơ sở hay cá nhân làm việc trong cơ sở thì mỗi đối tượng khác nhau có nhiệm vụ khác nhau trong tổ chức thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở. Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở và để tổ chức thực
25
hiện, người đứng đầu ban hành các văn bản, quy định về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, sau đó, triển khai tổ chức thực hiện trong cơ sở. Người làm việc từ trưởng các bộ phận như ca trưởng, tổ trưởng cho tới nhân viên các bộ phận như tạp vụ, bảo vệ, công nhân tùy theo vị trí làm việc của mình mà tổ chức triển khai thực hiện và thực hiện đúng theo các quy định đã được lãnh đạo phân công.
- Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã: Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thực hiện quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được quy định tại khoản 2 Điều 56 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và Nghị định số 83/2017/
NĐ-CP, cụ thể như sau:
+ Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại địa phương; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với khu dân cư; xử lý hành chính các hành vi vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo thẩm quyền.
+ Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; xây dựng phong trào quần chúng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. + Tổ chức quản lý đội dân phòng tại các thôn.
+ Đầu tư kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho các đội dân phòng theo quy định.
+ Bảo đảm điều kiện về thông tin báo cháy, đường giao thông, nguồn nước phục vụ chữa cháy.
+ Chỉ đạo việc xây dựng và thực tập phương án chữa cháy. + Tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả vụ cháy.
26
+ Thống kê, báo cáo về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lên Ủy ban nhân dân cấp huyện.
4. Lập hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
a) Khái niệm, vai trò của hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là tập hợp các văn bản, tài liệu có nội dung liên quan với nhau về hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được lập trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở.
Đối với cơ sở, sau khi đi vào hoạt động, người đứng đầu ra quyết định mở hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong cơ sở thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và ban hành nội quy, quy định phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, tiến hành kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ... Việc tiến hành mở hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là trách nhiệm, công việc không thể thiếu trong quản lý phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của người đứng đầu cơ sở. Việc mỗi cơ sở xây dựng hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có ý nghĩa quan trọng trong công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ bởi những lý do sau:
- Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở là cơ sở để ghi nhận, đánh giá quá trình thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở: Tổ chức công tác bảo đảm an toàn
27
phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở, tuyên truyền, huấn luyện kiến thức về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cán bộ, công nhân viên của cơ sở; công tác tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của những người có trách nhiệm trong cơ sở.
- Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở là căn cứ ghi nhận, đánh giá những nguy cơ cháy có thể xảy ra, khả năng thực hiện công tác chữa cháy ban đầu của cơ sở. Trong hồ sơ có đầy đủ thông tin về những nguy cơ cháy có thể xảy ra trong cơ sở và việc bố trí lực lượng, phương tiện thực hiện công tác chữa cháy ban đầu.
- Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ là căn cứ để tiến hành các hoạt động liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở như việc bố trí lịch tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ định kì; tổ chức chữa cháy theo tình huống cháy; ghi nhận những trường hợp vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và việc xử lý vi phạm.
b) Trách nhiệm lập hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 66/2014/TT BCA: “Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy của cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ, khu dân cư do người đứng đầu cơ sở, khu dân cư lập, lưu giữ”; khoản 2 Điều 9 Thông tư số 08/2018/TT-BCA ngày 05-3-2018 của Bộ Công an quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày 18-7- 2017 quy định về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy, chữa cháy (Thông tư số 08/2018/TT-BCA) quy định: “Hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở
28
được lập kết hợp với hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy”. Căn cứ vào quy định của pháp luật, việc lập hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở được thực hiện như sau:
- Hồ sơ quản lý phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở phải được những người có trách nhiệm như người đứng đầu cơ sở, đội trưởng đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở... thường xuyên theo dõi, bổ sung kịp thời các thông tin bằng văn bản có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Đặc biệt, cần chủ động bổ sung các thông tin có liên quan tới việc tổ chức hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như thay đổi về lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; việc tổ chức hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; hoạt động bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, đội dân phòng; sổ theo dõi phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có liên quan tới các nội dung như trang bị phương tiện mới cũng như thay thế các phương tiện cũ hỏng; thống kê, báo cáo về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; hồ sơ vụ cháy (nếu có).
- Các loại quyết định trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở sau khi ban hành cần phải đưa vào tổ chức thực hiện như: Quyết định ban hành các quy định, nội quy về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và các bảng nội quy, quy định kèm theo đã được phổ biến tới cán bộ, công nhân viên, treo theo đúng vị trí sơ đồ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; quyết định thành lập đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoặc đội dân phòng, có danh sách và sự phân công trách nhiệm cho từng đội viên kèm theo phải
29
được giao đến từng thành viên; quyết định trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, xây dựng hệ thống phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, có danh mục, chủng loại, số lượng và hướng dẫn bảo quản, sử dụng và nơi được trang bị cụ thể kèm theo; các loại văn bản khác mà cơ sở đã ban hành hay các văn bản khác của các cấp, các ngành có liên quan về quản lý công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gửi đến cơ sở đều phải lưu vào hồ sơ.
- Công tác quản lý hồ sơ: Hồ sơ theo dõi quản lý về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở do cơ sở lập phải được quản lý đúng theo quy định về công tác quản lý hồ sơ. Người đứng đầu cơ sở hoặc người được giao nhiệm vụ theo dõi, quản lý hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có trách nhiệm lập hồ sơ và lưu giữ hồ sơ theo dõi, quản lý hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo quy định. Khi cán bộ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra hồ sơ, người có trách nhiệm của cơ sở phải trình hồ sơ và báo cáo thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở. Hồ sơ quản lý về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do cơ sở lập phải được bảo quản theo chế độ lưu trữ hồ sơ... bảo đảm không bị mối, mọt cũng như các yếu tố khác xâm hại. Hồ sơ quản lý về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được bổ sung thường xuyên theo hoạt động bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở.
c) Thành phần hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Thành phần hồ sơ theo dõi, quản lý hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở được quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 66/2014/TT-BCA. Các văn bản
30
trên được tập hợp thành tập, được phân loại thành các loại văn bản khác nhau, gồm: Các tài liệu do cơ sở lập; tài liệu do Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lập; tài liệu có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như tính chất nguy hiểm cháy của chất cháy trong dây chuyền công nghệ, nguyên liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm đầu ra của quá trình sản xuất... Thứ tự sắp xếp các tài liệu cụ thể như sau:
- Bìa hồ sơ: Bìa hồ sơ dùng để kẹp các loại tài liệu có trong hồ sơ tạo thành một tập hoàn chỉnh, đầy đủ, bên ngoài ghi rõ: Hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Biên bản giao nhận hồ sơ: Được lập khi có sự thay đổi, chuyển giao cán bộ thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở theo sự phân công của lãnh đạo đơn vị.
- Bảng thống kê các tài liệu có trong hồ sơ: Thống kê, tập hợp các văn bản có trong hồ sơ, số trang, đơn vị lập, người ký. - Quyết định phân công (giao nhiệm vụ) cho cán bộ của cơ sở xây dựng bộ hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. - Quyết định thành lập Ban chỉ huy, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở: Lãnh đạo cơ sở ra quyết định thành lập đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ dựa trên số lượng thực tế cán bộ, nhân viên công tác theo quy định tại Thông tư số 66/2014/TT-BCA.
- Quy định, nội quy, quy trình, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là các văn bản quy phạm nội bộ của cơ sở về công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do lãnh đạo đơn vị trực tiếp ban hành trên cơ sở quy định tại Điều 5 Thông tư số 66/2014/TT-BCA. Các văn bản
31
này thường gắn trực tiếp với từng nhiệm vụ của lãnh đạo được phân công quản lý ở cơ sở trong việc thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ ở từng bộ phận của cơ sở.
- Sơ đồ chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Ở mỗi vị trí trong cơ sở cần có sơ đồ chỉ dẫn thoát nạn, sơ đồ bố trí hệ thống phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, biển báo điểm tập kết thoát nạn... phù hợp với yêu cầu công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hoặc gộp chung các sơ đồ này thành sơ đồ chỉ dẫn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Các ký hiệu chỉ dẫn trên sơ đồ được chú thích bằng tiếng Việt, nếu có người nước ngoài ra vào làm việc thì có thêm các chú thích bằng ngoại ngữ của những người nước ngoài đó sử dụng (thông dụng là tiếng Anh). Các mũi tên chỉ hướng lối và đường thoát nạn phải dẫn ra đến điểm tập kết thoát nạn phục vụ việc điểm danh, kiểm diện những người có mặt tại hiện trường. Các mũi tên chỉ dẫn thoát nạn và biển báo exit (thoát nạn) phải có màu xanh, bố trí ở nơi dễ thấy, có nguồn điện dự phòng tự động phát sáng đề phòng cắt điện khi có cháy.
- Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do cơ sở ban hành, bao gồm kế hoạch công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, cam kết thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, quyết định trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ... Kế hoạch công tác gồm kế hoạch công tác của các bộ phận, phòng ban nghiệp vụ... (nếu có) và kế hoạch của cơ sở là kế hoạch tổ chức tổng thể trên cơ sở các kế hoạch bộ phận.
- Quy trình, quy định thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Ngoài nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, người đứng đầu cơ sở còn phải ban hành các
32
quy trình thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như các bước thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở hoặc các quy định có liên quan đến công tác này như quy định về sử dụng điện, quy định về chế độ bảo dưỡng máy móc, quy định về vệ sinh công nghiệp trong cơ sở... Nội dung quy định phải nêu rõ các nhiệm vụ, thời gian thực hiện, yêu cầu kết quả đạt được.
- Biên bản tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Được lập định kỳ hằng ngày, hằng tháng, đột xuất theo chế độ tự kiểm tra đối với các loại máy móc, phương tiện, thiết bị... do lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tổ chức thực hiện. Thông qua biên bản tự kiểm tra, cơ sở thấy được trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, đồng thời, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thu thập được đầy đủ thông tin về tổ chức hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở.
- Phương án chữa cháy đã được phê duyệt: Được lập trên cơ sở khảo sát thực tế tại cơ sở với những tình huống cháy giả định xảy ra, việc huy động lực lượng, phương tiện tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ. Với các phương án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thì phải có ký duyệt của cơ quan này.
- Các sổ theo dõi về công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ và hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; sổ theo dõi phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Đây là các văn bản, tài liệu do lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở lập trong quá trình tổ chức hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo định kì hằng tháng.
33
- Thống kê vụ cháy (nếu có).
- Tài liệu khác có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như tính chất nguy hiểm cháy nổ của nguyên liệu đầu vào quá trình sản xuất, sơ đồ dây chuyền công nghệ..., nhìn chung là tất cả hồ sơ máy móc dây chuyền công nghệ đặc biệt là của các bộ phận có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Văn bản thẩm duyệt, nghiệm thu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Văn bản này được đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có thẩm quyền cấp trên cơ sở thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và các quy định của pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, quy phạm.
- Công văn, các văn bản khác của đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gửi về việc thông báo lịch kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo định kì. Trong trường hợp Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gửi công văn kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo định kỳ thì người đứng đầu cơ sở xây dựng báo cáo để báo cáo khi có đoàn kiểm tra và báo cáo này cũng lưu trong hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do cán bộ Cảnh sát kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lập trên cơ sở kiểm tra thực tế tại cơ sở.
- Các văn bản đề xuất, kiến nghị về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được lập dựa trên cơ sở kết quả
34
kiểm tra an toàn công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Biên bản vi phạm và quyết định liên quan đến xử lý vi phạm về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lập và ra quyết định (nếu có).
- Các tài liệu khác có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như thông báo tình hình cháy, thông báo về tổ chức hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, tháng toàn dân phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ... do lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và các cơ quan chức năng gửi.
- Tài liệu pháp luật về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, gồm Luật Phòng cháy và chữa cháy và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như các văn bản khác có liên quan đến công tác này.
5. Quan hệ phối hợp với đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong tổ chức công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở
a) Tiếp nhận các văn bản về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Người đứng đầu cơ sở hoặc người được người đứng đầu cơ sở ủy quyền có trách nhiệm tiếp nhận các văn bản về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do cơ quan quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ lập, bao gồm: công văn kiểm tra, công văn kiến nghị thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động và phục hồi hoạt động của cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và cá nhân không bảo đảm
35
an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; quyết định xử phạt vi phạm hành chính về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ...
Người tiếp nhận văn bản có trách nhiệm ký vào sổ tiếp nhận công văn của cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, báo cáo người đứng đầu cơ sở để triển khai thực hiện, lưu văn bản vào hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và thống kê vào bản thống kê hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
b) Phối hợp tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Người đứng đầu cơ sở là đại diện cho cơ sở có trách nhiệm phối kết hợp với lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong việc tổ chức các hoạt động phòng cháy tại cơ sở như: phối hợp trong kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; phối hợp trong tuyên truyền phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; phối hợp trong tổ chức hội thao, hội diễn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ...
- Phối hợp trong công tác kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
+ Sau khi tiếp nhận kế hoạch kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyển, người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm xây dựng báo cáo việc thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở trong khoảng thời gian từ lần kiểm tra trước tới lần kiểm tra hiện tại trên cơ sở nội dung kiểm tra và các kiến nghị trong biên bản hoặc công văn từ lần kiểm tra trước đó. Báo cáo việc thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được người đứng đầu cơ sở
36
ký duyệt, được lưu vào hồ sơ công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở và nộp một bản cho đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Người đứng đầu cơ sở báo cáo với đoàn kiểm tra tình hình thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở, trong đó cần làm rõ những văn bản mới bổ sung vào hồ sơ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và những công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đã thực hiện trong khoảng thời gian từ lần kiểm tra trước đó đến thời điểm hiện tại. Sau khi báo cáo và thống nhất về chương trình tổ chức thực hiện, hai bên sẽ kiểm tra thực tế công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở, cùng thống nhất nội dung để lập thành biên bản kiểm tra. Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được lập thành hai bản (cơ sở giữ một bản để thực hiện, cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ giữ một bản để theo dõi phúc tra), được lưu giữ trong hồ sơ quản lý hoạt động về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của hai bên.
- Phối hợp thực hiện công văn kiến nghị về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Công văn kiến nghị về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gửi cho các cơ quan, tổ chức sau khi kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thuộc loại công văn đề nghị, yêu cầu để giải quyết công việc liên quan công tác chuyên môn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, được sử dụng trong các trường hợp: Khi kết thúc kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chuyên đề, chuyên ngành, hay theo địa bàn; có nhiều tình tiết cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho cơ sở mà cán bộ Cảnh sát kiểm tra không thể ghi đầy đủ vào biên bản kiểm tra
37
được... Vì vậy, sau khi tiếp nhận công văn, người đứng đầu cơ sở cần chủ động triển khai thực hiện kiến nghị. Trong trường hợp công văn có nhiều kiến nghị, phải thực hiện trong thời gian dài, người đứng đầu cơ sở phải lập kế hoạch tổ chức thực hiện và trong trường hợp cần thiết có thể đề nghị cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phối hợp tổ chức thực hiện. Khi hoàn thành kiến nghị nêu trong công văn, người đứng đầu cơ sở cần lập báo cáo gửi cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ để cơ quan này tổ chức kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các kiến nghị.
- Phối hợp trong tổ chức tuyên truyền, hội thi hoặc đánh giá công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở: Trong trường hợp người đứng đầu cơ sở tổ chức thực hiện tuyên truyền, hội thi phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở hoặc đánh giá công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở cần có sự tư vấn chuyên môn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có thể mời cán bộ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tham dự bằng cách gửi công văn hoặc giấy mời trong đó, nêu rõ thời gian, địa điểm, yêu cầu tổ chức thực hiện; nếu đề nghị cung cấp thông tin phục vụ tuyên truyền, mời cán bộ Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tuyên truyền hoặc làm thành viên ban giám khảo thì cần nêu rõ hơn về nội dung, yêu cầu để cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phối hợp thực hiện hiệu quả.
II- Tổ CHứC CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY, CHữA CHÁY và CứU NạN, CứU Hộ TạI CƠ Sở
1. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện
a) Lập kế hoạch:
Để tổ chức thực hiện các văn bản về công tác phòng cháy, 38
chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm lập kế hoạch triển khai thực hiện, thường gồm: kế hoạch thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ năm; kế hoạch tổ chức hội thao, hội thi phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; kế hoạch trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; kế hoạch tham gia hội thao phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; kế hoạch diễn tập, tập huấn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở... Kế hoạch thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải có các nội dung sau:
- Quy định về thời gian thực hiện: Căn cứ thời gian hoạt động của cơ sở và yêu cầu của văn bản, người đứng đầu cơ sở chọn lựa thời gian tổ chức thực hiện cho hiệu quả.
- Quy định về yêu cầu đạt được trong quá trình thực hiện các văn bản: Kế hoạch cần nêu rõ những yêu cầu đạt được trong quá trình thực hiện văn bản về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như: chất lượng phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, chất lượng huấn luyện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ...
- Triển khai tới các bộ phận, các nhân viên chịu sự điều chỉnh của văn bản về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Ví dụ tổ chức thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ thì đối tượng điều chỉnh là người vi phạm và người phụ trách người vi phạm; tổ chức tập huấn công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở thì các thành viên trong đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở phải tham gia tập huấn...
- Quy định về kinh phí tổ chức thực hiện: Với việc tổ chức thực hiện các văn bản có liên quan đến kinh phí như thực hiện
39
công văn kiến nghị về trang bị bổ sung phương tiện chữa cháy, bảo dưỡng hệ thống báo cháy, chữa cháy, tham dự hội thao phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, huấn luyện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ... thì người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm cân đối kinh phí dự trù dành cho công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ để trang bị bảo đảm đáp ứng được yêu cầu công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở.
- Quy định về chế độ thông tin báo cáo: Trong kế hoạch cần quy định rõ chế độ thông tin báo cáo trong quá trình tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm kết nối các thông tin đến được với người đứng đầu cơ sở.
b) Triển khai thực hiện:
Sau khi kế hoạch được duyệt, cán bộ, nhân viên mà nòng cốt là đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở dưới sự chỉ đạo của người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm triển khai thực hiện.
Quá trình triển khai thực hiện phải đồng bộ, lôi kéo được tinh thần và ý thức tập thể của cán bộ, nhân viên trong cơ sở, bảo đảm mọi thành viên có tên trong kế hoạch đều nắm bắt được tinh thần và có ý thức cao trong việc tham gia thực hiện.
Trong suốt quá trình tổ chức thực hiện, để người đứng đầu cơ sở giám sát toàn bộ các hoạt động, các thành viên tham gia phải thực hiện nghiêm chế độ thông tin báo cáo đến lãnh đạo đơn vị. Các thông tin báo cáo phải trung thực, phản ánh đúng thực trạng quá trình tổ chức thực hiện để lãnh đạo đơn vị nắm bắt đúng tình hình, kịp thời điều chỉnh những nội dung cản trở, khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện để đạt được kết quả cao nhất.
40
2. Xây dựng, tổ chức thực hiện nội quy, tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
a) Xây dựng nội quy, tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở: - Xây dựng nội quy:
+ Về hình thức: Nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được người có thẩm quyền ban hành trên cơ sở các căn cứ pháp lý, có kí đóng dấu xác nhận.
+ Về nội dung: Nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, cần dễ đọc nhanh, dễ hiểu, do đó nội dung không nên quá 10 điều, mỗi điều không nên quá 15 chữ, bao gồm quy phạm cấm và quy phạm cho phép. Trên cơ sở đánh giá về tính nguy hiểm cháy, nội quy cần đề ra các yêu cầu, việc tổ chức thực hiện cho phù hợp với thực tế.
+ Về yêu cầu: Các yêu cầu phải nằm trong thực tế khả năng có thể thực hiện.
Mỗi khu vực của cơ sở có tính chất hoạt động khác nhau phải có nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khác nhau. Mỗi cơ sở có nội quy chung được treo ở khu vực lối vào, và các khu vực khác như nhà bếp, văn phòng, nhà xe... là căn cứ để tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có thể được ban hành thành từng bảng riêng hoặc ban hành theo bộ nội quy với toàn bộ các quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở. Ban hành thành từng bảng riêng được áp dụng trong trường hợp cơ sở có ít khu vực khác biệt và ngược lại ban hành thành bộ nội quy gồm nhiều nội quy khác nhau mà mỗi nội quy phù hợp với một khu vực riêng biệt. Bộ nội quy và nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ bảng
41
riêng khác nhau ở hình thức thể hiện, cụ thể: Bộ nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được ban hành bởi một quyết định và trong nội quy có dòng (Ban hành kèm theo Quyết định số... ngày... tháng... năm...) ở phía dưới tên nội quy. Với nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ ban hành theo bảng riêng thì mỗi nội quy phải có quyết định ban hành kèm theo.
- Trang bị tiêu lệnh, biển báo, biển cấm:
Tiêu lệnh, biển báo, biển cấm được ban hành theo quy định tại Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4879: 1989 Phòng cháy - Dấu hiệu an toàn về mẫu mã, kích thước. Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm trang bị các phương tiện này ở các vị trí trong cơ sở bảo đảm thống nhất, mọi cá nhân có thể tiếp nhận và tổ chức thực hiện.
- Xây dựng biển chỉ dẫn thoát nạn: Biển chỉ dẫn thoát nạn là sơ đồ, biển hướng dẫn, đèn exit... chỉ dẫn các cá nhân bên trong cơ sở thoát ra ngoài đến vị trí tập kết phục vụ điểm danh, kiểm diện khi có cháy xảy ra. Do đó, sơ đồ, biển hướng dẫn, đèn exit... phải có sự thống nhất trong cơ sở, được lắp đặt theo thiết kế, theo phương án diễn tập chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở.
b) Tổ chức thực hiện:
Người đứng đầu cơ sở đánh giá nguy hiểm cháy nổ trong phạm vi cơ sở. Những thông tin cơ bản phục vụ cho việc đánh giá nguy hiểm cháy, nổ cần chú ý:
- Chất cháy: Chất cháy thuộc loại nào, dễ cháy hay khó cháy, số lượng là bao nhiêu và cách sắp xếp, bảo quản chúng như thế nào. Nếu bên trong cơ sở tồn chứa một lượng lớn chất dễ cháy như xăng dầu, khí gas... thì còn có tính nguy hiểm cháy nổ cao. Do vậy, các kho chứa hàng, cơ sở sản xuất... luôn cần chú trọng thực hiện công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
42
- Sự xuất hiện của nguồn nhiệt và khả năng tồn tại của chúng: Nguồn nhiệt trong điều kiện thường tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Dựa vào trạng thái tồn tại của nguồn nhiệt mà chúng được phân thành các loại cụ thể:
+ Nhiệt năng, hay còn gọi là ngọn lửa trần, tồn tại dưới dạng ngọn lửa, ví dụ đầu mẩu thuốc lá đang cháy, ngọn lửa của bếp đun, của hương thắp...
+ Quang năng: Nguồn nhiệt của ánh sáng mặt trời. Trong điều kiện bình thường, năng lượng mặt trời trở thành nguồn nhiệt gây cháy như trời nắng to, nhiệt tác động lên lớp nilon bọc các thanh, ống kim loại thép, inox gây cháy nilon, làm hư hỏng bề mặt thanh, ống kim loại đó. Bên cạnh đó những trường hợp để chai nước, ly nước ở cửa sổ có thể xảy ra hiện tượng hội tụ ánh sáng, nếu có chất dễ cháy ở gần điểm hội tụ sẽ dẫn tới cháy xảy ra.
+ Hóa năng: Nguồn nhiệt hình thành từ các phản ứng hóa học.
+ Cơ năng: Nguồn nhiệt hình thành do ma sát, va đập. + Sinh năng: Nguồn nhiệt hình thành do vi khuẩn ưa ẩm sinh nhiệt tạo nên (sinh học). Đây chính là nguyên nhân làm phát sinh nguồn nhiệt gây tự cháy các sản phẩm nông nghiệp, cháy rừng...
+ Điện năng: Dòng chuyển dịch có hướng của các electron có thể trở thành nguồn nhiệt gây cháy trong trường hợp quá tải, ngắn mạch, điện trở chuyển tiếp.
Trong điều kiện bình thường, có thể đã có sự xuất hiện của nguồn nhiệt, ví dụ nguồn nhiệt hình thành từ ma sát ở bản lề cửa, từ đế giầy do ma sát giữa kim loại, sỏi, đá với nền bê tông... nhưng nó chưa thể trở thành nguồn nhiệt gây cháy do chưa bảo
43
đảm điều kiện duy trì sự cháy như công suất nguồn nhiệt chưa đủ lớn, thời gian tiếp xúc ngắn...
- Khả năng cháy lan: Khi quan sát cơ sở, yêu cầu phải đánh giá khả năng cháy lan thông qua khoảng cách giữa các bộ phận trong cơ sở cũng như sự sắp xếp hàng hóa, dây chuyền công nghệ (chất cháy) bên trong cơ sở và sự liền kề giữa các cơ sở với nhau.
- Khả năng thoát nạn cho người trong điều kiện cháy: Thông số này được đánh giá thông qua lối và đường thoát nạn bên trong cơ sở cũng như số lượng cán bộ, công nhân viên thực tế làm việc trong đó. Có thể trong cơ sở có nhiều lối và đường thoát nạn khác nhau song nếu cửa thoát nạn luôn trong trạng thái đóng hoặc có các vật cản trên lối và đường thoát nạn thì rõ ràng khả năng thoát nạn cho người trong điều kiện cháy sẽ gặp những khó khăn nhất định.
- Tính chất và giá trị của cơ sở được đánh giá: Tính chất và giá trị ở đây được xác định thông qua tính chính trị của cơ sở, sau đó; là giá trị vật chất và thương hiệu của cơ sở. Nếu cơ sở là trụ sở cơ quan đảng, chính quyền hay với các thương hiệu nổi tiếng... thì rõ ràng công tác tự bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cần thiết phải được quan tâm, chú trọng hơn.
- Các phương tiện chữa cháy ban đầu đã được trang bị (bình chữa cháy, lăng vòi chữa cháy, chăn chữa cháy...) và tình trạng hoạt động của chúng: Khi đánh giá cần làm rõ có thể sử dụng các phương tiện nào để dập tắt đám cháy hiệu quả nhất; khả năng thao tác chiến thuật chữa cháy của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; và tổng hợp các thông tin khác về cơ sở có liên quan đến chiến thuật chữa cháy như khả năng triển khai đội hình chữa cháy, nguồn nước phục vụ chữa cháy, công tác chữa cháy ban đầu...
44
- Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm: Tổ chức kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chế độ kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ theo chương trình, kế hoạch và kiểm tra đột xuất theo yêu cầu bảo đảm về an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm: Kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành các quy định, nội quy an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên hằng ngày, hằng tuần; kiểm tra định kỳ theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất khi có yêu cầu tăng cường bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Từ những dữ liệu trên, người đứng đầu cơ sở quyết định tổ chức các hoạt động diễn tập phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, quyết định vị trí trang bị nội quy, tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ dẫn trong cơ sở, bảo đảm được phổ biến đến toàn thể nhân viên làm việc, mọi cá nhân đều hiểu và nghiêm túc tổ chức thực hiện.
3. Thành lập, duy trì hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở
a) Thẩm quyền thành lập và cơ cấu tổ chức của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở:
Để tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở, người đứng đầu cơ sở tập hợp cán bộ, nhân viên trong cơ sở mình, hình thành đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở. Trách nhiệm này được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy: “Thành lập, duy trì hoạt động đội phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật”.
45
Khoản 1 Điều 1 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định: “Đội phòng cháy, chữa cháy cơ sở là tổ chức gồm những người được giao nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy tại cơ sở, hoạt động theo chế độ chuyên trách hoặc không chuyên trách”. Khoản 1 Điều 44 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định: “Tại thôn phải thành lập đội dân phòng. Đội dân phòng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập, quản lý”. Điều 23 Nghị định số 83/2017/ NĐ-CP quy định, lực lượng phòng cháy, chữa cháy làm công tác cứu nạn, cứu hộ bao gồm: “Lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; lực lượng phòng cháy, chữa cháy chuyên ngành; lực lượng phòng cháy, chữa cháy cơ sở; lực lượng dân phòng”.
Theo quy định tại Điều 4, Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy, và Nghị định số 83/2017/NĐ-CP, mọi hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phải được thực hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ. phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công dân từ 18 tuổi trở lên, đủ sức khỏe có trách nhiệm tham gia vào đội dân phòng, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được lập ở nơi cư trú hoặc nơi làm việc khi có yêu cầu.
Để thực hiện có hiệu quả các hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại chỗ nói chung và các nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nói riêng, đòi hỏi mỗi cơ sở phải tổ chức lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của mình, gọi là lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở. Đội là tổ chức gồm những người tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại nơi làm việc.
46
- Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được thành lập, quản lý, duy trì hoạt động như sau:
+ Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm đề xuất thành lập và trực tiếp duy trì hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; ban hành quy chế hoạt động, bảo đảm kinh phí, trang bị phương tiện và bảo đảm các điều kiện để duy trì hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở.
+ Cấp ra quyết định thành lập đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ địa phương. Cơ quan này có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở.
Sau khi đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở đi vào hoạt động, công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, thực tập phương án chữa cháy, duy trì ứng trực và thực hiện theo lệnh điều động chữa cháy của người có thẩm quyền... chủ yếu do các thành viên của đội đảm nhiệm theo quy định của đơn vị và pháp luật phòng cháy, chữa cháy.
Lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được tổ chức thành tổ, đội, có thể vẫn tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo hình thức chuyên trách và không chuyên trách. Tổ chức hoạt động của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở theo hình thức không chuyên trách được quy định tại khoản 2 Điều 15 Thông tư số 66/2014/ TT-BCA: Cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới có dưới 10 người
47
thường xuyên làm việc thì tất cả những người làm việc tại cơ sở đó là thành viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở và do người lãnh đạo cơ sở, chỉ huy phương tiện giao thông cơ giới đó chỉ huy, chỉ đạo; cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới có từ 10 người đến 50 người thường xuyên làm việc thì biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tối thiểu là 10 người, trong đó có 01 đội trưởng; cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới có trên 50 người đến 100 người thường xuyên làm việc thì biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tối thiểu là 15 người, trong đó có 01 đội trưởng và 01 đội phó; cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới có trên 100 người thường xuyên làm việc thì biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tối thiểu là 25 người, trong đó có 01 đội trưởng và 02 đội phó; phương tiện giao thông cơ giới, cơ sở có nhiều phân xưởng, bộ phận làm việc độc lập hoặc làm việc theo ca thì mỗi bộ phận, phân xưởng, mỗi ca làm việc có 01 tổ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; biên chế của tổ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tối thiểu từ 05 đến 09 người, do đội trưởng hoặc đội phó kiêm tổ trưởng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới ra quyết định bổ nhiệm đội trưởng, đội phó đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở.
Tổ chức hoạt động của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở theo hình thức chuyên trách được quy định tại khoản 3 Điều 15 Thông tư số 66/2014/TT-BCA: Biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoạt động theo chế độ chuyên trách, phải bảo đảm yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở và phù hợp với tính chất, đặc điểm nguy hiểm về cháy, nổ của cơ sở đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở xem xét, quyết định
48
về tổ chức, biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoạt động theo chế độ chuyên trách. Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoạt động theo chế độ chuyên trách làm việc theo ca, bảo đảm thường trực 24/24 giờ trong ngày. Ban lãnh đạo đội gồm có 01 đội trưởng và các đội phó giúp việc. Theo quy định tại khoản 4, Điều 15 Thông tư số 66/2014/TT-BCA thì tại các cơ sở là kho dự trữ quốc gia; kho xăng dầu có trữ lượng 50.000 m³ trở lên; nhà máy điện hạt nhân, nhà máy điện có công suất từ 200 MW trở lên; cơ sở sản xuất giấy 35.000 tấn/năm trở lên, cơ sở sản xuất phân đạm 180.000 tấn/năm trở lên, cơ sở dệt 20 triệu mét vuông/năm; nhà máy lọc dầu; khu công nghiệp, khu chế xuất có diện tích từ 50 héc ta trở lên phải lập đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành. Biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên trách phải bảo đảm yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở và phù hợp với tính chất, đặc điểm nguy hiểm về cháy, nổ của cơ sở đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở xem xét, quyết định về tổ chức, biên chế của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành. Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành làm việc theo ca, bảo đảm thường trực 24/24 giờ trong ngày. Ban lãnh đạo đội gồm có 01 đội trưởng và các đội phó giúp việc.
b) Nhiệm vụ của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở:
Nhiệm vụ của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được quy định tại Điều 45 Luật Phòng cháy và chữa cháy và Nghị định số 83/2017/NĐ-CP:
- Đề xuất việc ban hành quy định, nội quy an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Trên cơ sở nghiên cứu thực
49
tế công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của từng bộ phận trong cơ sở, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở xây dựng nội quy phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, đề xuất người đứng đầu ban hành nhằm nâng cao ý thức của mọi người cùng ngăn chặn cháy, nổ có thể xảy ra.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; xây dựng phong trào quần chúng tham gia phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Được trực tiếp tiếp thu kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ do đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trao đổi, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến những kiến thức đó đến tất cả nhân viên trong cơ sở, xây dựng họ thành thành viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, hình thành phong trào quần chúng tham gia phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành các quy định, nội quy an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Thay mặt người đứng đầu cơ sở, thành viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc nhân viên trong cơ sở chấp hành nghiêm các quy định về công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong cơ sở đồng thời chủ động tổ chức chữa cháy khi có cháy xảy ra.
- Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho tất cả cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ sở để mọi người có đầy đủ kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, thực hiện
50
tốt công tác này trong cơ sở nói chung, trong phạm vi làm việc của người đó trong cơ sở nói riêng. Cụ thể, mỗi nhân viên làm việc trong cơ sở không chỉ có kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chung mà còn có kiến thức đặc thù khu vực công tác của mình là máy móc dây chuyền công nghệ, lò đốt... và cả kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho nhà riêng, gia đình của mình.
- Xây dựng phương án chữa cháy của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở với các tình huống cháy, sập đổ giả định xảy ra theo quy định tại Nghị định số 83/2017/ NĐ-CP, Thông tư số 66/2014/TT-BCA, đồng thời, chuẩn bị lực lượng, phương tiện và thực hiện nhiệm vụ chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ khi có cháy xảy ra.
- Tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ ở địa phương, cơ sở khác và tham gia vào hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như biểu dương lực lượng, hội thao, hội thi... khi có yêu cầu điều động của các đơn vị có thẩm quyền.
c) Duy trì hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở:
- Triển khai quyết định thành lập, phân công nhiệm vụ: + Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm công bố quyết định, giao quyết định đến từng thành viên trong cơ sở để mọi người cùng thực hiện, đồng thời yêu cầu bộ phận nhân sự, tài chính kế toán của cơ sở thực hiện đúng chế độ bồi dưỡng cho các thành viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở về chế độ luyện tập, chế độ chiến đấu dập tắt đám cháy... + Tổ chức kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong phạm vi cơ sở: Trong phạm vi bộ phận công tác của mình, tùy theo từng đối tượng bảo vệ mà mỗi đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách
51
nhiệm tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khác nhau, như: Đối với bình chữa cháy, hằng tháng đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở trực tiếp phụ trách khu vực để bình chữa cháy đó có trách nhiệm phối hợp với nhân viên làm việc tại khu vực kiểm tra tình trạng hoạt động của bình chữa cháy và ghi nhận vào tem kiểm tra gắn sẵn trên thân bình. Với đối tượng khác, chẳng hạn như máy móc, dây chuyền công nghệ, theo quy định của thiết bị và quy trình sản xuất về chế độ kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm phối hợp với nhân viên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra máy móc, dây chuyền công nghệ nhằm bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Tổ chức xây dựng và diễn tập các phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ: Để nâng cao khả năng thường trực sẵn sàng chữa cháy, cứu người bị nạn, di chuyển tài sản, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở phải được luyện tập thường xuyên với các tình huống cháy, nổ xảy ra trong cơ sở. Đội trưởng đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có nhiệm vụ xây dựng phương án tình huống cháy như cháy xảy ra khu vực văn phòng, khu vực nhà xưởng, kho bãi, nhà để xe..., phải tổ chức cho các đội viên làm việc tại các khu vực đó, khu vực lân cận và toàn thể cán bộ, nhân viên của cơ sở tham gia diễn tập.
- Tổ chức huấn luyện đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở: Theo quy định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP, Điều 43 Nghị định số 83/NĐ-CP và khoản 6 Điều 16 Thông tư số 66/2014/TT-BCA, khi giấy chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hết hiệu lực (2 năm/lần), đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,
52
cứu hộ cơ sở phải được huấn luyện lại bởi các đơn vị có chức năng và được cơ quan Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cấp Chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Cũng trong dịp này, người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm kiện toàn lại đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở như bổ sung các thành viên, bố trí các thành viên làm việc tại các nơi có nguy hiểm cháy nổ cao mới được tuyển dụng, thay thế các thành viên đã được điều động làm các công việc khác...
Nội dung huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
+ Kiến thức pháp luật, kiến thức về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phù hợp với từng đối tượng: Mỗi đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở công tác ở bộ phận khác nhau trong cơ sở như văn phòng, lò đốt... được cung cấp kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chung và cơ bản để có thể phối hợp tốt trong thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở.
+ Phương pháp tuyên truyền, xây dựng phong trào quần chúng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Do mỗi thành viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở là một tuyên truyền viên phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nên họ cần được trau dồi, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp tuyên truyền. Nội dung này là vô cùng quan trọng đối với cơ sở có đông nhân viên làm việc như cơ sở may mặc, dệt..., khi mà một đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có trách nhiệm tuyên truyền kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đến hàng trăm công nhân và cả những công nhân mới được tuyển dụng.
53
+ Biện pháp phòng cháy: Bảo đảm lối và đường thoát nạn, bảo đảm khoảng cách chống cháy lan, trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ phù hợp...;
+ Phương pháp lập và thực tập phương án chữa cháy; biện pháp, chiến thuật, kỹ thuật chữa cháy;
+ Phương pháp bảo quản, sử dụng phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
+ Phương pháp kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
+ Phương pháp, biện pháp, kỹ thuật, chiến thuật cứu người bị nạn trong các sự cố: cháy, nổ; trên sông, suối, hồ, ao, giếng nước, hố sâu có nước, bãi tắm, sạt lở đất đá, sập đổ nhà, công trình; tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông; bị mắc kẹt trong nhà, trong thang máy, trên cao, dưới hầm, hố sâu, trong hang, trong công trình ngầm.
- Điều động lực lượng tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở chịu sự điều động tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của các cơ quan có thẩm quyền. Việc điều động phải có quyết định bằng văn bản; trong trường hợp khẩn cấp thì được điều động bằng lời, nhưng chậm nhất sau 3 ngày làm việc phải có quyết định bằng văn bản. Khi điều động bằng lời, người điều động phải xưng rõ họ tên, chức vụ, đơn vị công tác, địa chỉ, số điện thoại liên lạc và nêu rõ yêu cầu về số lượng người, phương tiện cần điều động, thời gian, địa điểm có mặt và nội dung hoạt động. Quyết định điều động được gửi cho đối tượng có nghĩa vụ chấp hành và lưu hồ sơ. Khi nhận được quyết định điều động tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn,
54
cứu hộ thì người có thẩm quyền quản lý lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở phải chấp hành. - Bảo đảm chế độ chính sách đối với cán bộ, đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở:
Theo quy định của Luật Phòng cháy và chữa cháy, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP, lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được hưởng chế độ, chính sách trong thời gian huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ và khi trực tiếp tham gia chữa cháy theo quy định, cụ thể:
+ Được trang bị quần áo, thiết bị bảo hộ cá nhân phù hợp với tính chất hoạt động.
+ Được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương và các khoản phụ cấp khác (nếu có) và mỗi ngày được hưởng một khoản tiền bồi dưỡng bằng một nửa ngày lương khi tham gia huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Khi trực tiếp tham gia chữa cháy được hưởng chế độ bồi dưỡng như sau: Nếu thời gian chữa cháy dưới 2 giờ được bồi dưỡng một khoản tiền tương đương giá trị một nửa ngày lương; nếu thời gian chữa cháy từ 2 giờ đến dưới 4 giờ được bồi dưỡng một khoản tiền tương đương giá trị hai phần ba ngày lương; nếu thời gian chữa cháy từ 4 giờ trở lên hoặc chữa cháy nhiều ngày thì cứ 4 giờ được bồi dưỡng một khoản tiền tương đương giá trị một ngày lương.
+ Khi tham gia huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ mà bị tai nạn, tổn hại sức khỏe hoặc bị chết thì được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Người trực tiếp chữa cháy, người tham gia chữa cháy mà bị hy sinh, bị thương, bị tổn hại sức khỏe, bị tổn thất về tài sản thì được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Kinh phí bồi dưỡng và thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ, đội viên
55
đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở do cơ quan, tổ chức quản lý bảo đảm.
4. Các hình thức tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ a) Tổ chức hội thao, hội thi phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
- Hội thao phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là hình thức tổ chức thao diễn về động tác kỹ thuật, đội ngũ, thể thao nhằm kiểm tra và đánh giá kết quả huấn luyện về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, đánh giá kỹ năng thực hành sử dụng phương tiện của nhân viên làm việc trong cơ sở, kỹ năng cứu người, di chuyển tài sản, từ đó người đứng đầu có biện pháp bổ trợ chuyên môn cho đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở. Một số đội hình hội thao như:
+ Gia đình phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ giỏi: Xây dựng đội hình các thành viên của một hộ gia đình (ông bà, bố mẹ, con cháu của gia đình công nhân, hộ gia đình... trong thôn, ấp, bản thông qua độ tuổi) cùng sử dụng phương tiện chữa cháy dập tắt đám cháy, di chuyển tài sản, cứu người... Các phương tiện sử dụng cần đơn giản, phù hợp với cuộc sống hiện tại trong gia đình như chăn, bình chữa cháy, cát, nước...
+ Tổ, đội công nhân phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ giỏi: Xây dựng đội hình sử dụng bình, chăn, kìm cộng lực... vượt chướng ngại vật, dập tắt đám cháy. Trong trường hợp ở các cơ sở có trang bị các phương tiện như máy bơm, lăng vòi... thì có thể sử dụng cả các phương tiện này nhằm giúp việc dập tắt đám cháy nhanh, hiệu quả, thể hiện tinh thần đồng đội cao.
Có nhiều cách thức tổ chức hội thao như vượt chướng ngại vật trong không gian hạn chế, phun nước hộp tiêu điểm...
56
- Hội thi phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là hình thức tổ chức thi tìm hiểu về kiến thức chuyên môn nhằm kiểm tra và đánh giá kết quả học tập, tìm hiểu kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, ít thao diễn về động tác kỹ thuật. Nội dung thi có thể là tìm hiểu pháp luật phòng cháy, chữa cháy; tìm hiểu kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tìm hiểu tính năng, tác dụng của phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ...
Hình thức thi có thể là hái hoa dân chủ, lựa chọn câu trả lời đúng theo đáp án cho trước, xây dựng các tiểu phẩm, hùng biện... Hiện nay, hình thức thi trả lời trắc nghiệm có ứng dụng công nghệ thông tin là giải pháp tối ưu do thực hiện đơn giản và có nhiều câu hỏi được xây dựng. Thực hiện hình thức này, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở cần xây dựng ngân hàng câu hỏi và câu trả lời, triển khai học tập đối với đối tượng dự thi. Các câu hỏi cần có cả gói câu dễ, câu khó, câu vận dụng để người thi tổ chức thực hiện, bảo đảm yêu cầu bên cạnh việc học thuộc kiến thức còn là vận dụng trong thực tiễn đạt kết quả cao nhất.
Về hình thức, hội thao đánh giá được kiến thức của số ít người, còn hội thi đánh giá được kiến thức của số đông người, song hội thao và hội thi đều nhằm mục đích nâng cao nhận thức và kiến thức, hiểu biết của cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ sở về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, đặc biệt việc vận dụng vào thực tiễn làm việc tại cơ sở và ở gia đình; nâng cao tình đoàn kết, gắn bó với công nhân - gia đình - cơ sở khi cùng tham gia vào một hoạt động chung.
- Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện:
Để tổ chức thực hiện hội thao, hội thi phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở phải xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện.
57
Bản kế hoạch tổ chức thực hiện phải đúng về thể thức văn bản, được lãnh đạo đơn vị duyệt và có các nội dung: mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung, phương pháp, thời gian, địa điểm, giải thưởng. b) Các hình thức tuyên truyền tại cơ sở:
Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở tổ chức tuyên truyền công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với nhân viên làm việc trong cơ sở thông qua các hình thức khác nhau như:
- Viết tin, bài về các vụ cháy xảy ra ở cơ sở hoạt động cùng lĩnh vực: Khi có vụ cháy xảy ra ở các cơ sở có cùng tính chất hoạt động, đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở cần viết các tin, bài nhằm mục đích thông báo tình hình vụ cháy để người đọc thấy được tác hại, nguy hiểm của cháy nổ và nâng cao nhận thức, ý thức, cảnh giác với cháy nổ. Việc viết tin, bài đăng trên bảng tin ở cơ sở để tuyên truyền có ý nghĩa tích cực, phản ánh các hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở, cổ động quần chúng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Ngoài ra, có thể viết tin, bài đăng báo, viết bài bình luận, thơ, ca dao hò vè... về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ để nâng cao tinh thần thực hiện công tác này ở cơ sở.
- Tổ chức các hoạt động hưởng ứng “Ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ”: Điều 11 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định: Ngày 4/10 hằng năm là “Ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy”. Nhân dịp này, Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở mở đợt cao điểm phát động phong trào toàn dân tham gia phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như nêu gương điển hình về công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, vinh danh những người có tinh thần tích cực trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ ở cơ sở.
58
- Xây dựng và nhân điển hình tiên tiến về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: Nhằm phát hiện, bồi dưỡng những cá nhân, đơn vị có phong trào phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trở thành đơn vị điển hình tiên tiến về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, trước hết đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở cần phát hiện, nêu gương những cá nhân, tập thể này. Sau đó, bồi dưỡng, hướng dẫn để các tổ chức, cá nhân nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong công tác này, xứng đáng là điển hình.
- Tuyên truyền bằng âm thanh: Sử dụng hệ thống loa hiện có để tuyên truyền về về tình hình cháy, nổ, về tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, các văn bản pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ mới ban hành, các yêu cầu thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Cần chọn nhân viên phát thanh có giọng nói dễ nghe, bài viết được chuẩn bị kỹ, phát hành theo ngày giờ đã được ấn định hoặc khi có các vụ cháy lớn xảy ra ở trong và ngoài nước, đặc biệt các vụ cháy ở các cơ sở có tính chất hoạt động tương tự.
- Phát hành các tư liệu trực quan: Đội trưởng đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở thực hiện việc phát hành các tư liệu trực quan liên quan đến công tác của cơ sở và những nguy hiểm cháy xảy ra phục vụ hoạt động tuyên truyền, bằng các hình thức cụ thể: xuất bản các tài liệu; xây dựng tranh ảnh, panô áp phích; thiết kế các tủ trưng bày công khai...
- Treo băng rôn tuyên truyền: Băng rôn thể hiện khẩu hiệu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của đơn vị như “tích cực phòng ngừa không để nạn cháy xảy ra, chủ động chữa cháy kịp thời, hiệu quả”; “phòng cháy hơn chữa cháy”, “sẵn sàng chữa cháy kịp thời, hiệu quả”... Hệ thống băng rôn được treo
59
trong cơ sở là những lời động viên, khích lệ tinh thần cán bộ, nhân viên chủ động hơn trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở. Các khẩu hiệu phải luôn được làm mới và đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở có trách nhiệm vận động mọi nhân viên làm việc trong cơ sở cùng tổ chức thực hiện.
5. Trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
a) Đầu tư kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Khoản 3 Điều 55 Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định: các cơ sở phải tự bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở mình trong quá trình hoạt động. Kinh phí đầu tư cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ nhằm bảo đảm an toàn, không để cháy xảy ra, sẵn sàng chữa cháy, cứu người, tài sản kịp thời, hiệu quả. Các khoản kinh phí đầu tư cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ bao gồm:
- Kinh phí trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
- Kinh phí duy trì hoạt động đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở;
- Kinh phí phục vụ cho công tác chữa cháy khi có cháy xảy ra;
- Kinh phí tuyên truyền công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở...
Các khoản kinh phí trên được lấy từ ngân sách của cơ sở dựa trên kế hoạch công tác năm của cơ sở. Do đó, đội trưởng đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở khi kết thúc năm
60
tài chính phải có kế hoạch dự trù kinh phí, bảo đảm cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở năm tiếp theo. Bản dự trù kinh phí được xây dựng trên cơ sở dự trù kinh phí của các bộ phận trong cơ sở bao gồm các nội dung cơ bản như: nội dung chi phí, mức chi phí, loại hóa đơn thanh toán, định mức ngày công lao động... và phải được lãnh đạo đơn vị ký duyệt.
b) Trang bị phương tiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ tại chỗ: Tùy theo tính chất hoạt động, đặc điểm nguy hiểm cháy nổ của các loại chất cháy có trong cơ sở mà cơ sở tự trang bị các loại phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại chỗ khác nhau, cụ thể như sau:
- Phương tiện chữa cháy:
Các phương tiện chữa cháy trang bị trong cơ sở được quy định tại các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiện đang có hiệu lực thi hành như TCVN 3890:2009 Phương tiện phòng cháy, chữa cháy cho nhà và công trình - trang bị, bố trí, kiểm tra, bảo dưỡng; TCVN 2622:1995 Phòng cháy chống cháy cho nhà và công trình - Yêu cầu thiết kế; TCVN 5738:2000 Hệ thống báo cháy tự động - Yêu cầu kỹ thuật; TCVN 5760:1993 Hệ thống chữa cháy - Yêu cầu chung về thiết kế, lắp đặt và sử dụng...
- Phương tiện cứu nạn, cứu hộ:
Các phương tiện cứu nạn, cứu hộ trang bị cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở được quy định tại Thông tư số 56/2014/TT-BCA như: trang thiết bị, dụng cụ bảo hộ cá nhân như quần áo, giầy, ủng, mũ... và trang thiết bị, phương tiện cứu nạn, cứu hộ như đèn chiếu sáng cá nhân cầm tay, búa, cuốc, cáng cứu thương...
Các phương tiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được trang bị được bảo quản, bảo dưỡng theo quy định tại Thông tư số 52/2014/TT-BCA ngày 28-10-2014 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quản lý, bảo quản, bảo dưỡng phương tiện phòng
61
cháy, chữa cháy (Thông tư số 52/2014/TT-BCA). Tùy thuộc vào tính năng, tác dụng, yêu cầu mà mỗi phương tiện có chế độ bảo quản, bảo dưỡng, thống kê, báo cáo riêng theo yêu cầu của nhà sản xuất nhằm bảo đảm duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu dập tắt đám cháy tại cơ sở, đồng thời, ứng trực sẵn sàng tham gia chữa cháy khi có điều động của đơn vị có thẩm quyền.
6. Kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở
a) Quy định về kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở là hoạt động của người đứng đầu cơ sở đánh giá việc thực hiện quy định về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong quá trình hoạt động của từng bộ phận, nhằm phát hiện và phòng ngừa những sơ hở, thiếu sót và đề xuất biện pháp xử lý, đồng thời, phát hiện những khả năng và nguồn lực mới trong thực hiện nhiệm vụ cần phát huy, góp phần bảo đảm các yêu cầu về an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP quy định trách nhiệm kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy của người đứng đầu cơ sở:
- Tổ chức kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chế độ kiểm tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất.
- Tổ chức thực hiện việc kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ quan, tổ chức cấp dưới và cơ quan thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của mình. - Nội dung kiểm tra:
+ Tình hình khái quát về quy mô, tính chất về cháy, nổ của cơ sở;
62
+ Các hạng mục nguy hiểm về cháy, nổ trong cơ sở thuộc phạm vi quản lý;
+ Cơ cấu tổ chức, phân công trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; + Sơ đồ hệ thống phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở (nguồn nước, phương tiện chữa cháy của cơ sở, những khu vực nhiều nguy hiểm cháy nổ trong cơ sở);
+ Việc đầu tư kinh phí hằng năm cho công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (kinh phí cho tuyên truyền, huấn luyện, trang bị phương tiện,...);
+ Nắm chắc các số liệu về lực lượng, trang bị phương tiện về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở và tình hình khác có liên quan đến công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở, những ưu điểm tồn tại trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, phương hướng và biện pháp tổ chức khắc phục những tồn tại trong thời gian tới.
b) Hình thức, chế độ kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Khoản 2 Điều 14 Luật Phòng cháy và chữa cháy xác định biện pháp cơ bản trong phòng cháy nêu rõ: “Thường xuyên, định kỳ kiểm tra phát hiện các sơ hở, thiếu sót về phòng cháy và có biện pháp khắc phục kịp thời”. Như vậy, Luật Phòng cháy và chữa cháy xác định công tác kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ là một trong những biện pháp cơ bản, không thể thiếu trong việc phòng ngừa cháy, nổ.
b.1) Các hình thức kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Người đứng đầu cơ sở có thể yêu cầu đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra dưới các hình thức khác nhau như:
63
+ Kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ toàn diện cơ sở: Người đứng đầu cơ sở hoặc người được người đứng đầu cơ sở ủy quyền tiến hành kiểm tra tổng thể công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong toàn bộ diện tích cơ sở và cả mối quan hệ của cơ sở với các cơ sở xung quanh, về nguồn nước chữa cháy và giao thông bên ngoài cơ sở khi có cháy xảy ra. Việc kiểm tra toàn diện thường được thực hiện theo chế độ kiểm tra định kỳ. Người được giao nhiệm vụ kiểm tra có nhiệm vụ kiểm tra tổng thể các nội dung phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, tổng thể các khu vực trên cơ sở kế hoạch kiểm tra đã lập, được lãnh đạo cơ sở duyệt. Kết thúc hoạt động kiểm tra phải lập báo cáo kết quả kiểm tra, lưu trong hồ sơ công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo khu vực (kiểm tra trọng điểm): Kiểm tra toàn diện các vấn đề về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong một khu vực, một phân xưởng, văn phòng, kho... của cơ sở, được thực hiện theo chế độ kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất; áp dụng trong trường hợp cơ sở có khu vực có tính nguy hiểm cháy nổ cao, có thể xảy ra cháy, nổ bất cứ lúc nào. Nội dung cần kiểm tra như hệ thống điện, thoát nạn, trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ... Kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo khu vực đòi hỏi cán bộ được giao nhiệm vụ kiểm tra phải có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực chuyên môn. Khi tiến hành, cán bộ kiểm tra phải thực hiện các bước, các thủ tục theo quy định.
+ Kiểm tra theo chuyên đề: Kiểm tra chuyên sâu một vấn đề có liên quan đến việc phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Nội dung kiểm tra thường thuộc lĩnh vực hẹp, chỉ kiểm tra đi sâu những vấn đề được xác định trước, còn những vấn đề khác,
64
mặc dù có liên quan đến phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cũng không nằm trong nội dung kiểm tra. Khi tiến hành kiểm tra theo chuyên đề, cán bộ kiểm tra của cơ sở có thể phối hợp với Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hoặc với cán bộ chuyên ngành có kiến thức sâu về lĩnh vực chuyên môn đó, ví dụ kiểm tra hệ thống điện, chống sét có thể phối hợp với cán bộ chuyên ngành bên điện lực, các đơn vị có thẩm quyền kiểm định đo điện trở nối đất. Kiểm tra theo chuyên đề được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất trong cơ sở. Hình thức kiểm tra theo chuyên đề được đặt ra trong kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan chủ quản theo yêu cầu công tác bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ như khi vào vụ sản xuất phải kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chuyên đề về công tác bảo dưỡng thiết bị máy móc; khi tăng tải, tăng sử dụng điện phải kiểm tra khả năng chịu tải của hệ thống thiết bị điện... Khi tiến hành kiểm tra theo chuyên đề cũng phải tiến hành thực hiện đầy đủ các bước, các thủ tục kiểm tra theo đúng quy định của cơ sở. Khi kết thúc kiểm tra phải có báo cáo đánh giá tình hình công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chuyên đề đó, chỉ rõ ưu điểm, thiếu sót tồn tại, đưa ra các giải pháp, biện pháp khắc phục và các vấn đề cần kiến nghị khác có liên quan đến công tác bảo đảm an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
b.2) Chế độ kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ sở được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 18 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP: Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm tổ chức kiểm tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất về an toàn phòng cháy và chữa cháy trong phạm vi quản lý của mình.
+ Chế độ kiểm tra thường xuyên: Để bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, tại các cơ sở người
65
đứng đầu yêu cầu đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, bảo vệ, những người có trách nhiệm... tổ chức việc tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hằng ngày, thậm chí, nhiều lần trong ngày. Người đứng đầu cơ sở thường xuyên trực tiếp tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ để phát hiện và khắc phục ngay những vi phạm quy định an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, ngăn chặn kịp thời nguy cơ phát sinh cháy, nổ. Việc kiểm tra theo chế độ thường xuyên vẫn phải được ghi nhận bằng hình thức các bộ phận ký nhận việc kiểm tra vào sổ theo dõi công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ hằng ngày.
+ Chế độ kiểm tra định kỳ: Việc kiểm tra được tiến hành theo lịch trình đã được thống nhất trên cơ sở kế hoạch kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đã được người đứng đầu cơ sở duyệt. Định kỳ kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đối với cơ sở tuỳ thuộc vào tính chất nguy hiểm cháy, nổ của cơ sở đó hoặc trách nhiệm của từng cơ quan chức năng. Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm tổ chức kiểm tra an toàn định kỳ hằng tháng, hoặc 6 tháng đối với các khu vực, các đối tượng trong cơ sở trong phạm vi trách nhiệm quản lý của mình theo yêu cầu bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của chính đối tượng đó. Việc kiểm tra định kỳ được lập thành biên bản tự kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Chế độ kiểm tra đột xuất: Vào những thời điểm quá trình sản xuất của cơ sở có nguy cơ cháy, nổ cao và có yêu cầu phải tập trung tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; có tin báo nguy hiểm cháy có thể xảy ra... người đứng đầu cơ sở hoặc người được người đứng đầu
66
cơ sở ủy quyền có thể tổ chức kiểm tra đột xuất việc thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Việc kiểm tra đột xuất có thể được tiến hành tại một bộ phận, khu vực trong cơ sở hoặc trong toàn bộ cơ sở. Kết thúc quá trình này phải được ghi nhận bằng biên bản tự kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
c) Nội dung kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại cơ sở:
Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP quy định nội dung kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gồm:
- Kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cán bộ, công nhân viên trong cơ sở: + Việc chấp hành các quy định, nội quy, yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của người hoặc cơ quan có thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo chức trách, nhiệm vụ được giao. + Việc tìm hiểu, học tập pháp luật và kiến thức về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong phạm vi trách nhiệm của mình; bảo quản, sử dụng thành thạo các phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ được trang bị. + Việc bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trong quá trình sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt và trong bảo quản, sử dụng chất cháy. Ngăn chặn nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy và những hành vi vi phạm quy định an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Báo cháy và chữa cháy kịp thời khi phát hiện thấy cháy, chấp hành nghiêm lệnh huy động tham gia chữa cháy và hoạt động phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ khác.
67
- Kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của trưởng các bộ phận, trưởng ca sản xuất hoặc người đứng đầu cơ sở cấp dưới:
+ Việc tổ chức thực hiện quy định, nội quy, các điều kiện an toàn, biện pháp, giải pháp về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và các yêu cầu bảo đảm an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của người hoặc cơ quan có thẩm quyền.
+ Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tổ chức, quản lý và duy trì hoạt động của đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở.
+ Việc tự kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; xử lý hoặc đề xuất xử lý các hành vi vi phạm quy định, nội quy về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tổ chức khắc phục kịp thời các thiếu sót, vi phạm quy định an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ Việc trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; duy trì hoạt động của lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở; chuẩn bị các điều kiện phục vụ chữa cháy; xây dựng và tổ chức thực tập phương án chữa cháy; tổ chức chữa cháy và giải quyết khắc phục hậu quả cháy.
- Kiểm tra bố trí mặt bằng (Diện tích lớn nhất của một tầng nhà trong phạm vi một khoang cháy và số tầng tối đa cho phép được quy định tại Phụ lục H QCVN 06:2010/BXD): Với các gian phòng hoặc gian sản xuất có các thiết bị chữa cháy tự động, diện tích sàn giữa các tường ngăn cháy cho phép tăng lên so với quy định nhưng không quá 2 lần. Khi các phòng hoặc gian sản xuất được trang bị các thiết bị báo cháy tự động thì diện tích sàn giữa các tường ngăn cháy cho phép tăng 25% so với quy định. Diện
68
tích khoang cháy ở tầng 1 của nhà nhiều tầng, khi sàn trần tầng 1 có giới hạn chịu lửa 150 phút, được phép lấy như diện tích khoang cháy của nhà 1 tầng. Đối với các nhà sản xuất chế biến gỗ có bậc chịu lửa II, diện tích khoang cháy được phép lấy tối đa là 10.400 m2 đối với nhà 1 tầng. Đối với nhà 2 tầng, diện tích khoang cháy tối đa là 7.800 m2, còn đối với nhà nhiều tầng hơn thì diện tích khoang cháy tối đa là 5.200 m2. Trong các ngôi nhà sản xuất 1 tầng có bậc chịu lửa I và II, cho phép không thiết kế tường ngăn cháy. Quy định này không áp dụng đối với nhà có bậc chịu lửa II mà trong đó sản xuất hóa chất, chế biến gia công dầu khí, hoặc các kho chứa vật liệu hay sản phẩm dễ cháy; các ngôi nhà sản xuất gia công chế biến gỗ quy định tại Bảng H6, QCVN 06:2010/BXD.
- Kiểm tra khoảng cách phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ giữa nhà và công trình (được quy định tại Phụ lục E, QCVN 06:2010/BXD): Khoảng cách phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ từ công trình có bậc chịu lửa I, II đến công trình có bậc chịu lửa I, II là 6 m (được phép nhỏ hơn 6 m, nếu các bức tường của ngôi nhà cao hơn nằm đối diện với ngôi nhà khác là các tường ngăn cháy), đến công trình có bậc chịu lửa bậc III là 8 m, đến công trình có bậc chịu lửa bậc IV, V là 10 m quy định tại Bảng E1 QCVN 06:2010/BXD.
- Kiểm tra giao thông phục vụ chữa cháy (được quy định tại Điều 5.2-5.6 QCVN 06:2010/BXD):
+ Chiều rộng của mặt đường không được nhỏ hơn 3,50 m cho mỗi làn xe. Chiều cao của khoảng không tính từ mặt đường lên phía trên không được nhỏ hơn 4,25 m. Mặt đường phải bảo đảm chịu được tải trọng của xe chữa cháy theo yêu cầu thiết kế và phù hợp với chủng loại phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Có thể tiếp cận tới các nguồn nước chữa cháy
69
của công trình cũng như tới các điểm thuận lợi cho việc chữa cháy, cứu nạn. Khoảng cách từ nơi đỗ xe chữa cháy tới họng tiếp nước vào nhà không được lớn hơn 18 m quy định tại Điều 5.2 QCVN 06:2010/BXD.
+ Khoảng cách từ mép đường xe chạy đến tường nhà cho phép từ 5 m đến 8 m đối với các nhà cao đến 10 tầng, và từ 8 m đến 10 m đối với các nhà cao trên 10 tầng. Trong các vùng có khoảng cách này không cho phép bố trí tường ngăn, đường dây tải điện trên không và trồng cây cao thành hàng quy định tại Điều 5.5 QCVN 06:2010/BXD.
+ Theo toàn bộ chiều dài của các nhà và công trình công nghiệp, phải bảo đảm có lối vào cho xe chữa cháy: từ một bên, khi chiều rộng nhà hoặc công trình nhỏ hơn 18 m và từ cả hai bên, khi chiều rộng của nhà hoặc công trình lớn hơn 18 m. Đối với những ngôi nhà có diện tích xây dựng lớn hơn 10.000 m2 hoặc rộng trên 100 m thì phải có lối vào cho xe chữa cháy từ mọi phía quy định tại Điều 5.6 QCVN 06:2010/BXD.
+ Khi điều kiện sản xuất không yêu cầu có đường vào thì lối vào cho xe chữa cháy được phép bố trí phần đường rộng 3,5 m cho xe chạy, nền đường được gia cố bằng các vật liệu bảo đảm chịu được tải trọng của xe chữa cháy và bảo đảm thoát nước mặt. Khoảng cách từ mép lối vào cho xe chữa cháy đến tường của ngôi nhà phải không lớn hơn 5 m đối với các nhà có chiều cao nhỏ hơn 12 m, không lớn hơn 8 m đối với các nhà có chiều cao trên 12 m đến 28 m và không lớn hơn 10 m đối với các nhà có chiều cao trên 28 m. Trong những trường hợp cần thiết, khoảng cách từ mép đường đến tường ngoài của ngôi nhà và công trình được tăng đến 60 m với điều kiện ngôi nhà và công trình này có các đường cụt vào, kèm theo bãi quay xe chữa cháy và bố trí các trụ nước chữa cháy. Trong trường hợp đó, khoảng cách từ
70
nhà và công trình đến bãi quay xe chữa cháy phải không nhỏ hơn 5 m và không lớn hơn 15 m và khoảng cách giữa các đường cụt không được vượt quá 100 m quy định tại Điều 5.6 QCVN 06:2010/BXD.
+ Đối với các hồ nước được sử dụng để chữa cháy, cần phải bố trí lối vào với khoảng sân có kích thước mỗi chiều không nhỏ hơn 12m. Các trụ nước chữa cháy cần được bố trí dọc đường xe chạy, bảo đảm khoảng cách đến mép đường không lớn hơn 2,5 m và khoảng cách đến tường của tòa nhà không nhỏ hơn 5 m.
- Kiểm tra lối thoát nạn, lối ra khẩn cấp (dựa theo QCVN 06:2010/BXD):
+ Số lối thoát nạn của một phòng: đối với các gian phòng có mặt đồng thời hơn 50 người phải có không ít hơn 2 lối thoát nạn và phải được bố trí phân tán theo quy định tại Điều 3.2.8 QCVN 06:2010/BXD.
+ Cửa ra từ các phòng: các gian phòng có mặt đồng thời trên 15 người phải có hướng mở cửa theo chiều lối thoát từ trong nhà ra ngoài theo quy định tại Điều 3.2.10 QCVN 06:2010/BXD.
+ Cửa trên đường thoát nạn phải mở theo chiều lối thoát từ trong ra ngoài; trên đường thoát nạn không được bố trí cửa cuốn, cửa trượt, cửa xếp, cửa quay.
+ Khoảng cách xa nhất đến lối thoát nạn gần nhất từ các gian phòng có cửa ra bố trí ở giữa các buồng thang ≤ 50 m, từ các gian phòng có cửa mở vào hành lang cụt ≤ 25 m theo quy định tại Phụ lục G QCVN 06:2010/BXD.
+ Đường thoát nạn: Chiều cao thông thủy các đoạn nằm ngang của đường thoát nạn không được nhỏ hơn 2 m, chiều rộng thông thủy các đoạn nằm ngang của đường thoát nạn và các đoạn dốc không được nhỏ hơn: 1,2 m đối với hành lang chung dùng để thoát nạn cho hơn 15 người từ các gian phòng
71
nhóm F1, hơn 50 người từ các gian phòng thuộc nhóm nguy hiểm cháy theo công năng khác; 1,0 m trong tất cả các trường hợp còn lại. Trên đường thoát nạn không cho phép bố trí cầu thang xoắn ốc, cầu thang cong toàn phần hoặc từng phần; không được bố trí gương soi gây ra sự nhầm lẫn về đường thoát nạn. Trên đường thoát nạn không được bố trí các giật cấp với chiều cao chênh lệch nhỏ hơn 45 cm hoặc có gờ nhô lên, ngoại trừ các ngưỡng trong các ô cửa đi; tại các chỗ có giật cấp phải bố trí bậc thang với số bậc không nhỏ hơn 3 hoặc làm đường dốc với độ dốc không được lớn hơn 1: 6 theo quy định tại Điều 3.3.6 và Điều 3.3.7 QCVN 06:2010/BXD.
+ Cầu thang bộ trên đường thoát nạn: Cho phép sử dụng cầu thang hở nếu là hành lang thoáng, các trường hợp khác phải đặt kín trong buồng thang. Trong các nhà có chiều cao lớn hơn 28 m, cũng như trong các nhà nhóm F 5 hạng A hoặc B phải bố trí các buồng thang bộ không nhiễm khói loại N1. Chiều rộng bản thang theo quy định tại Điều 3.4.3 QCVN 06:2010/BXD; chiều rộng chiếu thang không nhỏ hơn chiều rộng bản thang; độ dốc (góc nghiêng) của các thang bộ trên các đường thoát nạn không được lớn hơn 1:1 (45o); bề rộng mặt bậc không được nhỏ hơn 25 cm, còn chiều cao bậc không được lớn hơn 22 cm theo quy định tại Điều 3.4.1, Điều 3.4.2, Điều 3.4.12 QCVN 06:2010/BXD.
- Kiểm tra điều kiện ngăn cháy: Nếu bố trí các đường ống kỹ thuật, đường cáp đi xuyên qua các kết cấu tường, sàn, vách, thì chỗ tiếp giáp giữa các đường ống, đường cáp với các kết cấu này phải được chèn bịt hoặc xử lý thích hợp theo Điều 4.12 QCVN 06:2010/BXD.
- Kiểm tra về công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: + Bố trí lối ra mái: Nhà có chiều cao lớn hơn hoặc bằng 10 m tính đến diềm mái hoặc mép trên của tường ngoài (tường
72
chắn) phải có các lối ra mái trực tiếp từ các buồng thang bộ hoặc đi qua tầng áp mái, hoặc đi theo cầu thang bộ loại 3, hoặc đi theo thang chữa cháy ngoài nhà; trong các tầng áp mái của nhà (trừ các nhà nhóm F 1.4), phải có các lối ra mái qua các thang cố định và các cửa đi, cửa nắp hoặc cửa sổ có kích thước không nhỏ hơn 0,6 m x 0,8 m theo Điều 5.7 và Điều 5.8 QCVN 06:2010/BXD.
Số lượng lối ra mái và việc bố trí chúng phải dựa trên tính nguy hiểm cháy theo công năng và các kích thước của ngôi nhà, nhưng không được ít hơn một lối ra: Cho mỗi khoảng cách nhỏ hơn hoặc bằng 100 m chiều dài của nhà có tầng áp mái; mỗi diện tích nhỏ hơn hoặc bằng 1.000 m2 mái của nhà không có tầng áp mái thuộc các nhóm F1, F2, F3 và F 4; mỗi 200 m chu vi của ngôi nhà nhóm F5 đi theo các thang chữa cháy theo Điều 4.7 QCVN 06:2010/BXD.
+ Bố trí thang chữa cháy: Trong mỗi khoang cháy của các nhà có chiều cao lớn hơn 28 m (trừ nhà nhóm F 1.3) phải bố trí các thang máy đáp ứng yêu cầu để vận chuyển lực lượng và phương tiện chữa cháy. Tại các điểm chênh lệch độ cao của mái lớn hơn 1 m (trong đó có cả điểm chênh cao để nâng các cửa lấy sáng - thông gió) phải có thang chữa cháy theo Điều 5.14 QCVN 06:2010/BXD. Phải sử dụng các thang chữa cháy loại P1 để lên độ cao đến 20 m và tại các chỗ chênh lệch độ cao của mái từ 1 m đến 20 m. Phải sử dụng các thang chữa cháy loại P2 để lên độ cao lớn hơn 20 m và tại các chỗ chênh lệch độ cao trên 20 m theo Điều 5.11 và Điều 5.12 QCVN 06:2010/BXD.
- Kiểm tra trang bị, phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
+ Khoản 2, 3 Điều 5 Thông tư số 56/2014/TT-BCA quy định, đối với các cơ sở được trang bị phương tiện chữa cháy cơ giới, định mức trang bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và
73
cứu nạn, cứu hộ kèm theo phương tiện chữa cháy cơ giới được thực hiện theo hướng dẫn của Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Ngoài ra, căn cứ theo tính chất, mức độ nguy hiểm về cháy, nổ và khả năng bảo đảm kinh phí của từng cơ sở, người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ sở có thể trang bị thêm các loại phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cần thiết khác cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, như máy bơm chữa cháy, xe chữa cháy, tàu, xuồng chữa cháy, loa pin cầm tay, mặt nạ phòng độc lọc độc, mặt nạ phòng độc cách ly, các phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cần thiết khác và xem xét, quyết định việc trang bị cụ thể loại phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho các chức danh là đội trưởng, đội phó và các đội viên đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở khi thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
+ TCVN 3890:2009 Phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho nhà, công trình - Trang bị, bố trí, kiểm tra, bảo dưỡng quy định về trang bị và những yêu cầu cơ bản đối với việc bố trí, kiểm tra, bảo dưỡng phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho nhà và công trình. Đối với nhà và công trình đặc thù chuyên ngành có yêu cầu phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đặc biệt, như cơ sở sản xuất, kho chứa hóa chất độc hại, vật liệu nổ, cơ sở hạt nhân, kho chứa nhiên liệu lớn; công trình đường hầm, khai khoáng, hầm mỏ; công trình trên biển thì ngoài việc theo các quy định của tiêu chuẩn này, cần tuân theo các quy định ở các tiêu chuẩn hiện hành khác có liên quan.
+ Hệ thống báo cháy tự động: Các nhà, công trình phải trang bị hệ thống báo cháy tự động được quy định tại Điều 6.1.3
74
TCVN 3890:2009. Ví dụ, các chợ và trung tâm thương mại thuộc loại kiên cố, bán kiên cố phải được lắp đặt hệ thống báo cháy tự động. Các yêu cầu về hệ thống báo cháy tự động phải tuân theo TCVN 5738:2000. Đối với các chợ và trung tâm thương mại không thuộc quy định trên phải có thông tin báo cháy hoặc các quy định báo cháy khác quy định tại Điều 11.1 TCVN 6161:1996.
+ Họng nước chữa cháy trong nhà: Các nhà, công trình phải trang bị họng nước chữa cháy được quy định tại Điều 8.1.1 TCVN 3890:2009.
+ Kiểm tra bể dự trữ cho hệ thống cấp nước; hoạt động của các bơm chữa cháy chính và bơm dự phòng (áp lực bơm tại điểm cao nhất của ngôi nhà với lưu lượng chữa cháy lớn nhất theo quy định), thời gian khởi động của máy bơm (không chậm quá 3 phút kể từ khi có tín hiệu báo cháy), chế độ khởi động tự động (nếu có) hoặc bằng tay của bơm, vị trí đặt các họng nước vách tường, chất lượng, độ kín của van, vòi, lăng phun, đầu nối theo quy định tại Điều 10 TCVN 2622:1995. Nếu không thể lấy nước trực tiếp từ nguồn cung cấp nước được hoặc lấy trực tiếp từ đường ống cấp nước đô thị nhưng không thường xuyên bảo đảm lưu lượng và áp suất thì phải có biện pháp dự trữ nước để chữa cháy. Lượng nước cần để dự trữ chữa cháy phải tính toán căn cứ vào lượng nước chữa cháy lớn nhất trong ba giờ. Tính toán cung cấp nước cần thiết cho chữa cháy phải đồng thời bảo đảm cả lượng nước dùng cho sản xuất và sinh hoạt nhưng không tính nước dùng để tưới cây, tưới đường, nước dùng để lau chùi sàn nhà, máy móc. Riêng nước dùng để tắm, rửa, vệ sinh chỉ tính bằng 15% lượng nước tính toán theo quy định tại Điều 10.22 TCVN 2622:1995. Áp lực yêu cầu của các họng chữa cháy bên trong nhà phải bảo đảm có tia nước dày đặc với chiều cao cần thiết: Nhà ở, công trình công cộng, nhà phụ có bậc chịu lửa I, II
75
thì chiều cao cần thiết của cột nước phun dày đặc là 6 m; nhà ở, công trình công cộng, nhà phụ và nhà sản xuất có bậc chịu lửa I và II trong quá trình sản xuất có sử dụng vật liệu dễ cháy và dễ gây ra cháy thì chiều cao cần thiết có thể phun đến một điểm cao nhất và xa nhất của ngôi nhà nhưng không được nhỏ hơn 6 m theo Điều 10.15 TCVN 2622:1995. Các họng chữa cháy bên trong nhà phải bố trí cạnh lối ra vào, trên chiếu nghỉ buồng thang, ở sảnh, hành lang và những nơi dễ thấy, dễ sử dụng. Tâm của họng chữa cháy phải đặt ở độ cao 1,25 m so với mặt sàn. Mỗi họng chữa cháy trong nhà phải có đặt van khoá, lăng phun nước và cuộn vòi mềm có đủ độ dài theo tính toán. Trong mỗi nhà, đường kính ống, chiều dài cuộn vòi mềm, đường kính lăng phải sử dụng cùng loại theo quy định tại Điều 10.18-10.20 TCVN 2622:1995. Máy bơm cấp nước chữa cháy có thể được điều khiển bằng tay tại chỗ hoặc điều khiển tự động từ xa. Khi lưu lượng nước chữa cháy bên ngoài từ 25 lít/giây trở lên, thì nhất thiết máy bơm chữa cháy phải có bộ phận điều khiển từ xa. Khi đó, phải đồng thời bố trí bộ phận điều khiển bằng tay; bộ phận điều khiển máy bơm chữa cháy phải bảo đảm cho máy hoạt động không chậm quá 3 phút kể từ khi có tín hiệu báo cháy theo quy định tại Điều 10.25 TCVN 2622:1995.
+ Phương tiện chiếu sáng sự cố, chỉ dẫn thoát nạn phải lắp ở các lối đi và trên các cầu thang bộ dùng để thoát nạn cho người khi số lượng người cần thoát nạn lớn hơn 50 người quy định tại Điều 10.14 TCVN 3890:2009. Chiếu sáng sự cố khi cháy phải được thiết kế và lắp đặt trong khu vực kinh doanh, trên đường đi và lối ra vào của chợ và trung tâm thương mại có diện tích gian hàng 90 m2 trở lên; hệ thống chiếu sáng sự cố khi cháy phải lắp đặt dọc hành lang và cầu thang của khu vực hành chính, sinh hoạt khác của chợ và trung tâm thương mại. Chợ và trung tâm
76
thương mại có diện tích gian hàng trên 180 m2 phải lắp đèn chỉ dẫn “LỐI RA - EXIT”, trên lối ra, vào, lối thoát nạn hệ thống đó được nối vào mạng chiếu sáng sự cố quy định tại Điều 9.3 TCVN 6161:1996.
+ Bình chữa cháy xách tay phải được bố trí ở nơi dễ thấy, dễ lấy và dễ tiếp cận (tốt nhất là trên hành lang) theo Điều 5.2 TCVN 7435.1-2004; các hạng mục trong nhà, công trình có nguy hiểm cháy phải trang bị bình chữa cháy theo Điều 5.1.1 TCVN 3890:2009.
+ Loại chất chữa cháy: Khi trang bị bình chữa cháy phải xem xét, lựa chọn loại chất chữa cháy cho phù hợp. Cơ sở sản xuất, kho tàng, cơ quan hành chính, khách sạn,... có chất cháy chủ yếu là chất rắn (A) thì phải chọn loại bình có chất chữa cháy là nước, bọt, khí sạch hoặc bột ABC... không được chọn loại bột BC. Đối với khu vực có nhiều thiết bị điện, điện tử (trung tâm điều hành, máy tính, phòng máy rạp chiếu phim, trạm đóng ngắt điện...) không nên bố trí các bình chữa cháy dạng bột, nên bố trí trang bị các loại bình khí chữa cháy.
+ Khối lượng chất chữa cháy: Sau khi xác định được mức độ nguy hiểm cháy của nhà, công trình... thì lựa chọn chất chữa cháy theo Bảng 3 và Bảng 4 TCVN 3890:2009. Công trình cao tầng, trường học, bệnh viện, cơ sở sản xuất... có hơn 250 người là ở mức nguy hiểm cháy nổ cao, chất cháy chủ yếu là chất rắn, theo Bảng 3 TCVN 3890:2009 phải chọn loại bình bột ABC với khối lượng ≥ 6 kg. Nếu khu vực có chất lỏng hoặc khí cháy ở mức nguy hiểm cháy cao thì theo Bảng 4 TCVN 3890:2009 phải chọn loại bình bột ABC với khối lượng ≥ 15 kg hoặc bình chữa dung dịch chất tạo bọt hoặc nước với chất phụ gia ≥ 25 lít.
+ Tính toán diện tích bảo vệ của bình chữa cháy: Bảng 2 TCVN 3890:2009 quy định về diện tích lớn nhất của một bình
77
chữa cháy tương ứng với từng mức độ nguy hiểm cháy của khu vực bảo vệ. Căn cứ vào diện tích của khu vực bảo vệ để tính toán số lượng bình chữa cháy tối thiểu phải trang bị cho khu vực đó (bằng diện tích khu vực bảo vệ chia cho diện tích bảo vệ của một bình, kết quả lấy tròn lên). Sau khi có số lượng bình chữa cháy tối thiểu cho một khu vực cụ thể, tiến hành bố trí các bình trên toàn bộ diện tích khu vực bảo vệ theo nguyên tắc dễ thấy, dễ lấy và bảo đảm khoảng cách theo quy định. Khoảng cách đó là quãng đường di chuyển từ bình chữa cháy gần nhất đến đám cháy xa nhất có thể (theo đường di chuyển thực tế, đường này không phải là đường thẳng). Nếu khoảng cách này lớn hơn khoảng cách trong Bảng 2 TCVN 3890:2009 thì phải bố trí lại sao cho bảo đảm khoảng cách này. Vì vậy, trong thực tế nhiều trường hợp số lượng bình phải trang bị lớn hơn số lượng bình chữa cháy tối thiểu theo tính toán.
+ Những nhà nhiều tầng không có điều kiện cứu hộ, cứu nạn bằng xe thang phải có giải pháp tăng cường, bổ sung các trang bị cứu hộ, cứu nạn khác như thang sắt ngoài nhà, thang dây, ống tụt, dây cứu người, đệm hơi,...
- Kiểm tra hệ thống điện, hệ thống chống sét:
Đối với các hệ thống này, người đứng đầu cơ sở (đội trưởng đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở) cần đo đếm kiểm tra thường xuyên theo yêu cầu. Ngoài ra cần chú ý phát hiện những thay đổi về kết cấu, thông số của mạng điện như thay cáp, dây hoặc thiết bị bảo vệ, thay thiết bị tiêu thụ điện về chủng loại, công suất, sử dụng bổ sung các thiết bị điện. Các trường hợp bổ sung, thay đổi, cải tạo hệ thống, thiết bị điện đều phải có giải pháp an toàn phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ và phải được người có trách nhiệm xem xét, phê duyệt.
78