🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang Công Tác Hội Và Phong Trào Nông Dân
Ebooks
Nhóm Zalo
CÈm nang
c«ng t¸c héi vμ phong trμo n«ng d©n
Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n
Chñ tÞch Héi ®ång
pgs.TS. PH¹M V¡N LINH
Phã Chñ tÞch Héi ®ång
PH¹M CHÝ THμNH
Thμnh viªn
trÇn quèc d©n
TS. NguyÔn §øC TμI
TS. NGUYÔN AN TI£M
NguyÔn Vò Thanh H¶o
Héi n«ng d©n viÖt nam
CÈm nang
c«ng t¸c héi vμ phong trμo n«ng d©n
Nhμ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ quèc gia - Sù THËT Hμ Néi - 2016
BAN BIÊN SOẠN
TS. Nguyễn Duy Lượng ሺChủ biênሻ Mai Văn Tưởng
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị ‐ xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới. Hội Nông dân Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là
lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Để góp phần tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển, tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Hội Nông dân Việt Nam, một số nghiệp vụ cơ bản của Hội Nông dân ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật phối hợp với Hội Nông dân Việt Nam xuất bản cuốn sách Cẩm nang công tác Hội và phong trào nông dân. Nội dung cuốn sách gồm 4 chương:
Chương I: Quá trình hình thành và phát triển của Hội
5
Nông dân Việt Nam.
Chương II: Tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Hội Nông dân Việt Nam.
Chương III: Tổ chức của Hội Nông dân Việt Nam ở cơ sở.
Chương IV: Một số nghiệp vụ công tác của Hội Nông dân ở cơ sở.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn song nội dung sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 1 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
Chương I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
I. PHONG TRÀO NÔNG DÂN
VÀ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930‐1945
Nông dân Việt Nam là lực lượng chiếm đa số trong thành phần cư dân của dân tộc. Trải qua quá trình ra đời và phát triển, nông dân Việt Nam đã sáng tạo ra những giá trị vô cùng to lớn về vật chất và tinh thần, góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển của dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng đất nước khỏi ách thống trị ngoại bang, bảo vệ và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong lịch sử, nông dân Việt Nam có ý thức đấu tranh chống cường quyền, áp bức bóc lột, đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa chống địa chủ, phong kiến nhằm giành ruộng đất, cơm áo, chính quyền. Nhưng do không có hệ tư tưởng riêng nên các cuộc đấu tranh này của giai cấp nông dân đa số bị thất bại, trường hợp thành công thì chính họ lại bị địa chủ hóa và trở thành
7
người lãnh đạo nhà nước phong kiến.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác ‐ Lênin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được truyền bá vào Việt Nam, vạch hướng cho các giai cấp bị áp bức, bóc lột đấu tranh để thiết lập một xã hội công bằng, thịnh vượng, văn minh, trong đó giai cấp nông dân được hưởng những quyền lợi thiết thân, được chia sẻ phúc lợi xã hội với bạn đồng minh của mình là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Giai cấp nông dân Việt Nam đã sớm tiếp nhận được những tư tưởng tiến bộ này. Họ tìm thấy con đường biến ước mơ hạnh phúc nghìn đời của mình thành hiện thực.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức, động viên quần chúng đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng cách mạng.
Tháng 10‐1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hồng Kông ሺTrung Quốcሻ đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Tổng nông hội Đông Dương ሺtên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nayሻ.
Hội nghị thông qua Điều lệ Tổng nông hội Đông Dương gồm 8 điều, trong đó nêu rõ mục đích nhằm "Thống nhất hết thảy Tổng nông hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hằng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa"1. Điều lệ quy __________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. 8
định: "Hễ nông hội nào thừa nhận mục đích, điều lệ và chịu thi hành những Án nghị quyết của Tổng nông hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên"2.
Về tổ chức, Điều lệ nêu rõ: các nông hội phải lấy làng làm cơ sở, một làng là một nông hội. Hệ thống tổ chức của Tổng nông hội Đông Dương được quy định rõ ràng: "Hết thảy nông hội làng thống nhứt lại thành Tổng nông hội tổng; hết thảy Tổng nông hội tổng trong một huyện thống nhứt lại thành Tổng nông hội huyện; hết thảy Tổng nông hội huyện trong một tỉnh thống nhất lại thành Tổng nông hội tỉnh; hết thảy Tổng nông hội tỉnh trong một xứ thống nhứt lại thành Tổng nông hội xứ; hết thảy Tổng nông hội các xứ thống nhứt lại thành Tổng nông hội Đông Dương"3. Về kỷ luật, Điều lệ nêu cụ thể "Hội viên nào làm trái Án nghị quyết và Điều lệ của Tổng nông hội Đông Dương thì uỷ viên Tổng nông hội cảnh cáo, nếu không sửa đổi thì sẽ bị khai trừ"4.
Nghị quyết về việc thành lập Tổng nông hội Đông Dương tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10‐1930 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, thể hiện sự
______________
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.2, tr. 158.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.2, tr. 160.
9
trưởng thành và lớn mạnh của giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặc dù về danh nghĩa Hội Nông dân Việt Nam vẫn chưa được thành lập, nhưng các tổ chức Nông hội ở các cấp vẫn tiếp tục hoạt động dưới hình thức Nông hội đỏ.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai ሺtháng 3‐1931ሻ nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: “chống sưu thuế, địa tô,... chống nạn thất nghiệp,... chống khủng bố trắng,... chống đế quốc chiến tranh”1. Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ hai, các tổ chức Nông hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Dưới sự lãnh đạo của Nông hội, phong trào nông dân diễn ra mạnh mẽ trong những năm 1932‐1935, 1936. Tháng 3‐1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra đường lối chính trị và phương pháp tổ chức mới và quyết định đổi tên các tổ chức Nông hội thay cho Nông hội đỏ: Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp ‐ Nhật. Điều lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc được thông qua tại Hội nghị gồm 11 điều. Chủ trương __________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 102.
10
đúng đắn, kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp nông dân và nhân dân lao động đoàn kết đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Trong những năm 1941‐1942, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Nông dân cứu quốc đã tổ chức vận động nông dân đấu tranh chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu... Từ năm 1943, với khẩu hiệu “Đoàn kết toàn dân, đánh đuổi Nhật, Pháp”, Hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức cao như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật,... Sau ngày Nhật đảo chính Pháp ሺ9‐3‐1945ሻ, phong trào “Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh, các tổ chức cứu quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở của phát xít Nhật và tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ chín muồi, hàng triệu nông dân được giác ngộ trong Hội Nông dân cứu quốc, với quyết tâm cao độ như những dòng thác cuồn cuộn đổ về các phủ, tỉnh, lỵ giành chính quyền. Dưới áp lực mạnh mẽ của bạo lực cách mạng mà đa số là nông dân, chính quyền tay sai phát xít gần như đồng loạt bị thủ tiêu. Hội Nông dân
11
cùng giai cấp nông dân đã góp phần rất to lớn, trực tiếp vào thành công rực rỡ, nhanh chóng, không đổ máu của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám minh chứng cho tinh thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó sống còn giữa Đảng với nông dân, nông dân với Đảng.
II. PHONG TRÀO NÔNG DÂN
VÀ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945‐1987
1. Giai đoạn 1945‐1954
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, vận mệnh đất nước Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, khó khăn, thách thức đặt ra tưởng chừng như không vượt qua được. Giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền lại càng khó hơn. Tinh thần đem sức ta mà giải phóng cho ta vẫn còn nguyên ý nghĩa sau Cách mạng Tháng Tám. Trong bối cảnh đó, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã tích cực góp phần giải quyết những khó khăn để bảo vệ chính
12
quyền cách mạng, xây dựng cuộc sống mới và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Vượt qua những khó khăn khắc nghiệt trong những năm đầu khi phải chiến đấu trong vòng vây đế quốc, giai cấp nông dân ở vùng tự do, cũng như ở vùng địch kiểm soát đã tích cực tham gia kháng chiến bằng nhiều hình thức phong phú.
Từ ngày 28‐11 đến ngày 7‐12‐1949, Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập tại thôn Vân Phong, xã Tân Tiến, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Hội nghị thông qua đề án về chương trình và hành động của Hội trong năm 1950 và những năm tiếp theo. Đó là những chương trình lớn nằm trong nội dung của các cuộc vận động nông dân: Tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Về tổ chức của Hội, Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương ሺsau đổi tên là Ban Liên lạc nông dân toàn quốcሻ. Nhiệm vụ của Hội là lãnh đạo phong trào nông dân và tổ chức Hội các cấp. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân có một tổ chức hội ở cấp Trung ương, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp kháng chiến, đáp ứng nguyện vọng của nông dân và sự trưởng thành trong tư duy chính trị của Đảng. Phong trào nông dân từ sau Hội nghị toàn
13
quốc lần thứ nhất có bước phát triển mới, toàn diện và rất mạnh mẽ.
Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức Hội, Ban Liên lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ hai vào tháng 3‐1951. Hội nghị đã tập trung quán triệt những nhiệm vụ mới của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng tổ chức Hội đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt. Qua hai hội nghị cán bộ toàn quốc, tổ chức Hội các cấp được kiện toàn, hoạt động có hiệu quả. Giai cấp nông dân có tổ chức hội của mình làm cầu nối để tiếp nhận chủ trương, đường lối của Đảng và phản ánh việc thực hiện chủ trương, đường lối đó ở cơ sở với Đảng và Nhà nước. Sau đó, mặc dù tình hình chiến tranh và có lúc tổ chức Hội ở cấp Trung ương nhập vào các ban, các đoàn thể khác, nhưng phong trào nông dân vẫn phát triển và có đóng góp to lớn vào tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, thông qua Hội Nông dân cứu quốc ở các cấp, nông dân cả nước đã khẳng định vai trò của mình trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và cùng quân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Miền
14
Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Giai đoạn 1954‐1975
Sau khi Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.
Giai đoạn 1954‐1975 là một trong những giai đoạn lịch sử vẻ vang của giai cấp nông dân Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
aሻ Ở miền Bắc: Giai cấp nông dân đã giành được nhiều thành tựu quan trọng. Chỉ trong vòng ba năm ሺ1954‐1957ሻ, giai cấp nông dân đã hoàn thành công cuộc củng cố miền Bắc, khôi phục kinh tế nông nghiệp và cải cách ruộng đất. Trong ba năm tiếp theo ሺ1958‐1960ሻ, giai cấp nông dân đã hoàn thành về căn bản công cuộc cải tạo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, hợp tác hoá nông nghiệp dưới hình thức hợp tác xã bậc thấp. Trong bốn năm của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ሺ1961‐1965ሻ, giai cấp nông dân đã thực hiện bước đầu củng cố và phát triển hợp tác xã, phát triển nông nghiệp toàn diện, xây dựng cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công
15
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Thời kỳ này đã nở rộ nhiều phong trào thi đua của nông dân từ lao động sản xuất nông nghiệp. Trong 10 năm thực hiện nhiệm vụ “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ሺ1965‐1975ሻ, giai cấp nông dân tập thể miền Bắc đã "tay cày, tay súng" cùng toàn dân vừa xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa chi viện đắc lực cho cách mạng miền Nam và làm tốt nghĩa vụ quốc tế ở Đông Dương. Giai cấp nông dân ở miền Bắc đã trở thành lực lượng chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Đặc điểm nổi bật là các phong trào cách mạng của nông dân miền Bắc trong giai đoạn lịch sử này là đều tiến nhanh, tiến mạnh, nhưng có nhiều mặt chưa thật vững chắc trên các lĩnh vực kinh tế ‐ xã hội. Hai phong trào lớn nhất của nông dân miền Bắc thời kỳ này là cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp; đồng thời là hai cuộc cách mạng lớn làm chuyển biến toàn bộ quan hệ sản xuất ở nông thôn, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn miền Bắc, làm cho giai cấp nông dân miền Bắc chuyển biến từ một giai cấp còn bị lệ thuộc vào những tàn dư của chế độ phong kiến trở thành giai cấp tự do; từ những nông dân làm ăn cá thể manh mún thành giai cấp nông dân tập thể xã hội chủ
16
nghĩa. Hai phong trào này đều được hoàn thành về căn bản rất nhanh trong vòng chưa đầy ba năm ሺcải cách ruộng đất xong trong hai năm, hợp tác hóa nông nghiệp xong trong hai năm rưỡiሻ và đã đạt những kết quả rất quan trọng.
Tất cả các phong trào của nông dân đều diễn ra trên địa bàn nông thôn, đều có quy mô lớn, lôi cuốn hàng vạn, hàng chục vạn, hàng triệu nông dân với khí thế mạnh mẽ. Cải cách ruộng đất diễn ra "long trời lở đất". Hợp tác hóa nông nghiệp được tiến hành rầm rộ. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế và sai lầm, nhưng phong trào nông dân ở miền Bắc những năm 1954‐1975 là một phong trào cách mạng vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những đóng góp to lớn và quan trọng của phong trào nông dân ở miền Bắc đã góp phần vào thắng lợi vĩ đại mang tầm vóc thời đại của dân tộc. Phong trào nông dân ở miền Bắc những năm 1954‐1975 cũng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho cuộc vận động cách mạng trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo.
bሻ Ở miền Nam: Với thắng lợi của phong trào đồng khởi và sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, nông dân và các lực lượng cách mạng miền Nam đã vượt qua thời kỳ khó khăn, đen tối nhất để bước vào một thời kỳ mới của cách mạng, tiến công và chiến thắng.
Ngày 21‐4‐1961, Hội Nông dân giải phóng miền
17
Nam Việt Nam chính thức được thành lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã được phục hồi trong đồng khởi.
Sau khi thành lập, Hội đã ra tuyên bố tán thành nội dung Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tháng 7‐1965, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của cấp hội cơ sở, phát triển hội viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng 1‐1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong 8 năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch. Đại hội đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung
18
cấp hậu cần cho bộ đội. Khẳng định vai trò của tổ chức Hội là người tập hợp, vận động, tuyên truyền nông dân thực hiện đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng.
Là tổ chức chính trị của giai cấp nông dân miền Nam, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã không ngừng phát triển tổ chức cơ sở của mình, nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu trong vận động, tổ chức nông dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ chiến đấu và thực hiện chính sách ruộng đất, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới... thực hiện trọn vẹn vai trò, chức năng của một tổ chức quần chúng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng đặt ra. Những kinh nghiệm hoạt động phong phú của các cấp Hội Nông dân giải phóng miền Nam và những hy sinh to lớn của nông dân miền Nam và cán bộ Hội trong suốt cuộc kháng chiến đã góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang của cả dân tộc, đồng thời cũng khẳng định vị trí, vai trò to lớn của tổ chức Hội đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân ở miền Nam liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân cùng toàn dân đánh bại bốn chiến lược chiến tranh xâm lược của năm đời tổng thống Hoa Kỳ, góp phần
19
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Giai đoạn 1975‐1987
Với chiến thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất; nhân dân hai miền Nam ‐ Bắc cùng thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Giai cấp nông dân vui mừng phấn khởi trước niềm vui chung của dân tộc, bắt tay vào khôi phục sản xuất, thực hiện đường lối cải tạo và phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, Hội Nông dân giải phóng tiếp tục hoạt động. Hội đã giáo dục, động viên nông dân thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp đỡ nhau khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống. Tuy nhiên, công tác nông hội chưa có chuyển biến mạnh mẽ gắn liền với nhiệm vụ cải tạo và phát triển nông nghiệp. Vì vậy, ngày 12‐12‐1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 24‐CT/TW nêu rõ Hội Nông dân giải phóng là tổ chức chính trị của giai cấp nông dân, có nhiệm vụ động viên nông dân khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, tổ chức tốt đời sống ở nông thôn, vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể.
Nông dân miền Nam tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ xoá bỏ tàn dư phong kiến, điều chỉnh ruộng đất, xây
20
dựng các hình thức hợp tác lao động như các tổ đổi công, vần công và xây dựng các hợp tác xã thí điểm. Đến cuối năm 1978, tàn dư bóc lột của địa chủ đã bị xoá bỏ, phần lớn ruộng đất đã về tay nông dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 ሺkhóa IVሻ đã tạo ra khí thế mới trong sản xuất nông nghiệp và đánh dấu sự mở đầu đổi mới quản lý nông nghiệp của Đảng ta, mở ra một thời kỳ mới cho nông nghiệp phát triển.
Để phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc, tháng 7‐1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu Liên hiệp Nông dân tập thể Trung ương do đồng chí Võ Thúc Đồng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương làm Trưởng ban. Ban Trù bị Đại hội đại biểu Liên hiệp Nông dân tập thể Trung ương là một bộ phận trực thuộc Ban Nông nghiệp Trung ương. Đến ngày 25‐6‐1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định tách Ban Trù bị Đại hội đại biểu Liên hiệp Nông dân tập thể Trung ương thành một cơ quan riêng, thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư. Đồng chí Võ Thúc Đồng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương tiếp tục kiêm Trưởng ban.
Ngày 27‐9‐1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78‐ CT/TW về việc tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập
21
thể toàn quốc. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có nhiệm vụ cùng với tổ chức Công đoàn xây dựng khối liên minh công ‐ nông vững chắc, làm cơ sở cho Mặt trận Tổ quốc. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tự nguyện.
Việc Đảng quyết định thành lập Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội ሺở miền Bắcሻ, từ thời điểm này giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở, ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình đối với sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.
Cùng với sự ra đời của cơ chế khoán mới từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tổ chức Hội Nông dân cũng ngày càng được quan tâm hơn. Tháng 9‐1981, Ban Bí
22
thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 116‐CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Cùng với việc ra Chỉ thị số 116‐CT/TW, Ban Bí thư cũng đã quyết định cho ban hành Điều lệ của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam ‐ là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội tập hợp, đoàn kết, vận động nông dân phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực tham gia xây dựng, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, cùng toàn dân phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chỗ dựa của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sợi dây liên lạc nối liền nông dân với Đảng và Nhà nước. Điều lệ còn quy định rõ nhiệm vụ và tổ chức của Hội từ Trung ương đến cơ sở.
Trong lúc giai cấp nông dân cả nước phấn khởi thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp thì tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể ở các cấp lại đứng trước những khó khăn về mặt tổ chức và hoạt động của Hội. Đứng trước tình hình đó, để gỡ bớt khó khăn cho hoạt động của các cấp Hội, ngày 20‐12‐1982, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 22‐TT/TW quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Trù bị Đại
23
hội đại biểu Liên hiệp Nông dân tập thể Trung ương. Thông tri quy định rõ Ban Trù bị Đại hội đại biểu Liên hiệp nông dân tập thể Trung ương đặt trong khối nông nghiệp, do Ban Nông nghiệp Trung ương phụ trách; đồng thời là một tổ chức đại diện cho nông dân tập thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 2‐
1984, Ban Bí thư đã ra Thông báo số 32‐TB/TW về việc mở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Trong những năm 1975‐1987, đất nước ta trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách, nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế ‐ xã hội kéo dài và ngày càng trầm trọng. Mặc dù vậy, giai cấp nông dân Việt Nam vẫn một lòng đi theo Đảng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lao động sáng tạo, tìm tòi cách làm ăn mới, từng bước thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng trong nông nghiệp, góp phần đưa đất nước ngày càng phát triển. Từ thực tiễn sáng tạo của quần chúng nông dân, các cấp ủy đảng đã nắm bắt, hướng dẫn, tổng kết tìm ra cách làm ăn mới, từng bước bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp. Mặt khác, cũng từ thực tiễn của phong trào nông dân, Đảng ta ngày càng có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của tổ chức Hội Nông dân. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, chính sách sát hợp hơn nhằm khai thác ngày càng có hiệu quả tiềm năng to lớn của nông nghiệp, phát huy mạnh mẽ sức mạnh vĩ đại của giai cấp nông dân trong giai đoạn cách mạng mới.
24
III. PHONG TRÀO NÔNG DÂN
VÀ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
ሺTỪ NĂM 1987 ĐẾN NAYሻ
‐ Ngày 1‐3‐1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42‐QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam. Từ năm 1988 đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã trải qua 6 kỳ đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Hội Nông dân Việt Nam được tiến hành trong 2 ngày 28 và 29‐3‐ 1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Nghị quyết của Đại hội khẳng định: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị ‐ xã hội rộng lớn của giai cấp nông dân, đoàn kết chặt chẽ với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết tâm tiến theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác ‐ Lênin, tiến theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam được tiến hành từ ngày 15 đến ngày 19‐ 11‐1993, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Đại hội đã đánh giá phong trào nông dân, công tác xây dựng Hội; phương hướng nhiệm vụ của Hội 5 năm tiếp theo; thông qua Điều lệ ሺsửa đổiሻ Hội Nông dân Việt Nam và thông qua Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam.
25
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội Nông dân Việt Nam được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 20‐ 11‐1998, tại Hà Nội. Đại hội đã quán triệt nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thông qua báo cáo, Điều lệ ሺsửa đổiሻ Hội Nông dân Việt Nam và thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội Nông dân Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Nông dân Việt Nam được tiến hành từ ngày 22 đến ngày 25‐ 11‐2003, tại Hà Nội. Đại hội được tổ chức với tinh thần: “Đoàn kết, đổi mới, dân chủ, phát triển”. Đại hội thông qua báo cáo, Điều lệ ሺsửa đổiሻ Hội Nông dân Việt Nam; thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Nông dân Việt Nam và một số kiến nghị với Đảng, Chính phủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Nông dân Việt Nam được tiến hành từ ngày 22 đến ngày 24‐12‐ 2008 tại Hà Nội. Đại hội được tổ chức với tinh thần: “Đoàn kết, đổi mới, hội nhập và phát triển”. Đại hội thông qua báo cáo, Điều lệ ሺsửa đổiሻ Hội Nông dân Việt Nam; thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Nông dân Việt Nam và một số kiến nghị với Đảng, Chính phủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam được tiến hành từ ngày 30‐6 đến ngày 3‐ 7‐2013 tại Hà Nội. Đại hội được tổ chức với tinh thần: “Đoàn kết ‐ đổi mới ‐ chủ động, hội nhập ‐ phát triển
26
bền vững”. Đại hội thông qua báo cáo; phương hướng, mục tiêu, giải pháp công tác Hội và phong trào nông dân nhiệm kỳ 2013‐2018; thông qua 11 chỉ tiêu chủ yếu; thông qua Điều lệ ሺbổ sung và sửa đổiሻ Hội Nông dân Việt Nam.
‐ Trong những năm 1988‐1993, tình hình quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng tới Việt Nam. Nổi bật nhất là sự tan rã của các đảng cộng sản và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Ở trong nước, cũng diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết số 10‐NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp; Nghị quyết số 8B‐NQ/TW khóa VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Những sự kiện trên đã tác động sâu sắc tới giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam. Nếu như tình hình quốc tế tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của giai cấp nông dân đối với chủ nghĩa xã hội, đồng thời tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nông dân, thì những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra động lực và niềm tin của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam đối với đường lối đổi mới của Đảng.
Việc tổ chức thành công Đại hội đại biểu lần thứ I Hội Nông dân Việt Nam và thực hiện Nghị quyết số 8B‐ NQ/TW của Đảng về đổi mới công tác quần chúng của
27
Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân đã mở ra thời kỳ mới đối với Hội Nông dân và phong trào nông dân Việt Nam. Bộ máy tổ chức của Hội được kiện toàn từ Trung ương tới cơ sở; phương pháp chỉ đạo của các cấp Hội từng bước được đổi mới, phù hợp với tình hình mới; đội ngũ cán bộ Hội được củng cố, tăng cường. Công tác phát triển hội viên dần đi vào thực chất, tuy số lượng giảm mạnh nhưng chất lượng được nâng cao.
Nghị quyết số 10‐NQ/TW của Bộ Chính trị đã cung cấp một xung lực mới cho giai cấp nông dân trong việc thi đua sản xuất giỏi. Khắp các địa bàn từ miền Bắc vào miền Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, nông dân vui mừng đón nhận phần ruộng khoán và tập trung đầu tư công sức, trí tuệ, tiền vốn vào quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Qua đó, nguồn cung lương thực tăng cao, đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và dành một phần xuất khẩu, góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình kinh tế ‐ xã hội của đất nước, đồng thời tạo động lực cho nhân
dân cả nước tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. ‐ Trong những năm 1993‐1998, Hội Nông dân Việt Nam đã nỗ lực cùng với nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam có bước phát triển toàn diện. Các cấp Hội đã đổi mới về nhận
28
thức, xây dựng tổ chức Hội toàn diện trên các mặt công tác, nhất là tập trung củng cố cơ sở hội. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có tổ chức Hội. Các chi hội, tổ hội ở nhiều loại hình được thành lập phù hợp với cơ cấu hành chính thôn, ấp, bản, làng và chi tổ, hội nghề nghiệp. Đã cơ bản xóa được những cơ sở và thôn, ấp trắng chưa có tổ chức Hội. Hệ thống bộ máy ban chấp hành các cấp từ Trung ương đến cơ sở không ngừng được củng cố và kiện toàn. Hội Nông dân các tỉnh, thành phố và các quận, huyện, thị xã được tăng cường cán bộ chuyên trách. Đội ngũ cán bộ các cấp thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức thực tiễn.
Cùng với việc xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên, các cấp Hội tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đẩy mạnh các phong trào thi đua của nông dân: sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng, xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn... Kết quả mà phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi đem lại không những góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế ‐ xã hội mà còn có ý nghĩa chính trị to lớn đối với giai cấp nông dân. Vai trò nòng cốt của hội viên trong các phong trào hành động cách mạng của nông dân ngày càng được khẳng định, góp phần tích cực
29
vào việc phát triển kinh tế ‐ xã hội, xây dựng nông thôn mới. Vị thế, uy tín của Hội được nâng lên, đội ngũ cán bộ Hội không ngừng trưởng thành.
‐ Trong những năm 2008‐2015, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X thông qua Nghị quyết số 26‐
NQ/TW ngày 5‐8‐2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là một nghị quyết quan trọng, đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp toàn diện, cơ bản cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trên cơ sở đó, hệ thống chính trị đã vào cuộc, tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, các địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội đã ban hành hàng trăm văn bản chỉ đạo thực hiện. Qua đó, kinh tế nông nghiệp nước ta tiếp tục phát triển, vai trò của Hội Nông dân được đề cao, đời sống của người nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn được đổi mới.
Các cấp Hội từ Trung ương đến địa phương đã làm tốt công tác tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, hội viên, nông dân về chủ trương, quan điểm của Đảng đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về vai trò, nhiệm vụ của tổ chức Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp
30
nông dân Việt Nam.
Các cấp Hội đã vận động hội viên và nông dân thực hiện 3 phong trào thi đua lớn của Hội, nhất là phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững tiếp tục phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có sức lan tỏa, lôi cuốn, khích lệ hội viên, nông dân tham gia. Từ các phong trào thi đua, đã xuất hiện hàng nghìn tấm gương nông dân điển hình tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, áp dụng tiến bộ khoa học ‐ kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh; hình thành các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại, gia trại, tổ hợp tác liên kết nhau trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hội Nông dân các cấp ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng; hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở hội, chi, tổ hội và chất lượng hội viên được nâng lên; công tác cán bộ có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ, năng lực cán bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Những kết quả đạt được đã nâng cao vị thế, khẳng định vai trò của Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm và nòng cốt đối với phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, góp phần phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói,
31
giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, nông dân; thúc đẩy phát triển kinh tế ‐ xã hội.
32
Chương II
TÍNH CHẤT, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
I. TÍNH CHẤT CỦA HỘI NÔNG DÂN
VIỆT NAM
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị ‐ xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam tiền thân là Nông hội đỏ, thành lập ngày 14‐10‐1930, trải qua các thời kỳ cách mạng luôn trung thành với Đảng và dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
II. VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
33
Hội Nông dân Việt Nam có vai trò tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Hội Nông dân Việt Nam tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng Hội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động; nâng cao vai trò đại diện, phát huy quyền làm chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng, lao động sáng tạo, cần kiệm, tự lực, tự cường, đoàn kết của nông dân; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng văn hoá, giữ vững quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
1. Chức năng của Hội Nông dân Việt Nam
‐ Tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt.
‐ Đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
34
‐ Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân; tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản xuất, kinh doanh và đời sống.
2. Nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt Nam
‐ Tuyên truyền, vận động cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu biết và tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của Hội. Khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, lao động sáng tạo của nông dân.
‐ Vận động, tập hợp, làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh; xây dựng nông thôn mới.
‐ Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân. Trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình và đề án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn; hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn. Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, dạy nghề giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, bảo vệ môi trường.
‐ Đoàn kết, tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, phát triển và nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời
35
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ‐ Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tham gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế; tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
‐ Mở rộng hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng, tăng cường hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, quảng bá hàng hoá nông sản, văn hoá Việt Nam với tổ chức nông dân, tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong khu vực và trên thế giới.
IV. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
Hội Nông dân Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Hội được bầu cử trực tiếp bằng phiếu kín.
* Hệ thống tổ chức của Hội
36
Hệ thống tổ chức của Hội Nông dân Việt Nam gồm bốn cấp:
‐ Trung ương.
‐ Cấp tỉnh ሺtỉnh, thành phố trực thuộc Trung ươngሻ. ‐ Cấp huyện ሺhuyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnhሻ.
‐ Cấp cơ sở ሺxã, phường, thị trấn và tương đươngሻ.
* Đại hội nông dân các cấp
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội Nông dân Việt Nam là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là đại hội cấp đó.
‐ Số lượng và cơ cấu đại biểu đại hội cấp nào do ban chấp hành cấp trên trực tiếp hướng dẫn và do ban chấp hành cấp đó quyết định. Đại hội chỉ hợp lệ khi có mặt hai phần ba ሺ2/3ሻ tổng số hội viên ሺnếu là đại hội toàn thể hội viênሻ hoặc hai phần ba ሺ2/3ሻ tổng số đại biểu được triệu tập trở lên ሺnếu là đại hội đại biểuሻ.
‐ Đại biểu chính thức của đại hội gồm: Ủy viên ban chấp hành đương nhiệm của cấp đó, đại biểu do đại hội cấp dưới bầu lên, đại biểu do ban chấp hành cấp triệu tập đại hội chỉ định. Số đại biểu chỉ định không quá năm phần trăm ሺ5%ሻ tổng số đại biểu được triệu tập.
‐ Đại hội các cấp có nhiệm vụ: thảo luận và thông qua báo cáo của ban chấp hành nhiệm kỳ qua; quyết định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới; đóng
37
góp ý kiến vào các văn kiện đại hội cấp trên; bầu ban chấp hành khóa mới và bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên. Đại hội đại biểu toàn quốc có nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung và thông qua Điều lệ Hội.
‐ Nhiệm kỳ Đại hội các cấp là 5 năm. Trường hợp đặc biệt, đại hội nhiệm kỳ có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn thời gian quy định, nhưng không quá một năm và phải được Hội cấp trên trực tiếp đồng ý bằng văn bản.
* Ban chấp hành Hội Nông dân các cấp
‐ Số lượng và cơ cấu ban chấp hành cấp nào do ban chấp hành Hội cấp trên trực tiếp hướng dẫn và do đại hội cấp đó quyết định. Trong nhiệm kỳ, nếu số lượng ủy viên ban chấp hành khuyết thì hội nghị ban chấp hành hoặc hội nghị đại biểu bầu bổ sung. Số ủy viên ban chấp hành được bầu cử bổ sung cấp tỉnh và Trung ương không quá một phần hai ሺ1/2ሻ so với số ủy viên ban chấp hành do đại hội quyết định; cấp huyện và cấp cơ sở được bổ sung đủ số lượng ủy viên ban chấp hành mà đại hội đã quyết định.
‐ Ban chấp hành là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, ban chấp hành cấp dưới phải được ban chấp hành cấp trên trực tiếp công nhận. Ban chấp hành bầu ban thường vụ, bầu chủ tịch, các phó chủ tịch trong số ủy viên ban thường vụ. Số lượng và cơ cấu ban thường vụ do ban chấp hành quyết định, tổng số ủy viên ban
38
thường vụ không quá một phần ba ሺ1/3ሻ tổng số ủy viên ban chấp hành, trường hợp khuyết được bầu bổ sung cho đủ số lượng. Thường trực ሺkhông phải là một cấpሻ gồm chủ tịch, các phó chủ tịch, thay mặt ban thường vụ giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị ban thường vụ theo nghị quyết, chủ trương của ban chấp hành, ban thường vụ.
‐ Trường hợp cần thiết, ban chấp hành Hội cấp trên trực tiếp có quyền chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, các chức danh chủ chốt của Hội cấp dưới.
Nhiệm kỳ của ban chấp hành, ban thường vụ, các chức danh chủ chốt được chỉ định không nhất thiết đủ 5 năm.
‐ Ban Thường vụ Trung ương Hội thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Hội chỉ đạo các cấp Hội tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội và các nghị quyết của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương Hội. Ban Thường vụ Trung ương Hội thành lập văn phòng, các ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp làm tham mưu, giúp việc. Ban Thường vụ tỉnh, thành Hội thành lập văn phòng và các ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Hội.
Cấp huyện và cơ sở phân công cán bộ phụ trách các mặt công tác của Hội, hoặc thành lập các bộ phận, tổ chức kiêm nhiệm giúp việc khi cần.
‐ Ban chấp hành từ cấp huyện trở lên họp thường
39
kỳ một năm hai lần, Ban chấp hành cơ sở họp thường kỳ một tháng một lần. Ban thường vụ cấp tỉnh, huyện và cơ sở họp thường kỳ một tháng một lần, Ban Thường vụ Trung ương Hội họp ít nhất ba tháng một lần. Khi cần thiết ban chấp hành, ban thường vụ các cấp họp bất thường. Hội nghị ban chấp hành, ban thường vụ chỉ hợp lệ khi có mặt hai phần ba ሺ2/3ሻ số ủy viên được triệu tập trở lên. Nghị quyết ban chấp hành, ban thường vụ có giá trị khi quá một phần hai ሺ1/2ሻ tổng số ủy viên ban chấp hành hay ban thường vụ được triệu tập biểu quyết đồng ý. Ủy viên ban chấp hành nghỉ hưu, nghỉ công tác hoặc chuyển công tác khác đương nhiên không còn là ủy viên của ban chấp hành.
‐ Ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ xin rút khỏi ban chấp hành ở cấp nào do ban chấp hành cấp đó xem xét, đề nghị lên ban thường vụ cấp trên trực tiếp quyết định; đối với ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
* Nhiệm vụ của Ban chấp hành từ cấp huyện trở lên
‐ Tổ chức thực hiện và hướng dẫn Hội cấp dưới thực hiện Điều lệ và nghị quyết của Hội; nghiên cứu thi hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng tổ chức Hội vững
40
mạnh về mọi mặt.
‐ Phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tổ chức hướng dẫn hội viên, nông dân thi đua thực hiện các phong trào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng nông thôn mới.
‐ Chuẩn bị nội dung, nhân sự ban chấp hành và tổ chức đại hội cấp mình khi hết nhiệm kỳ.
‐ Xem xét, quyết định việc thành lập, sáp nhập, chia tách, chấm dứt hoạt động tổ chức Hội cấp dưới trực tiếp.
* Tổ chức Hội ở cơ sở
Tổ chức cơ sở Hội Nông dân là nền tảng của Hội, là nơi trực tiếp với hội viên, nông dân. Tổ chức cơ sở Hội Nông dân theo đơn vị xã, phường, thị trấn. Những đơn vị kinh tế nông, lâm trường, hợp tác xã nếu có nhu cầu thành lập tổ chức Hội Nông dân và được Hội cấp trên trực tiếp xem xét quyết định thì thành lập tổ chức Hội Nông dân phù hợp.
V. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA HỘI VIÊN HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
‐ Hội viên có nhiệm vụ:
Chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Hội, sinh hoạt và đóng hội phí đầy đủ theo quy định của
41
Ban Thường vụ Trung ương Hội.
Gương mẫu và tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế ‐ xã hội; đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; gia đình nông dân văn hoá; thực hiện nghĩa vụ công dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; tuyên truyền, vận động phát triển hội viên; tham gia các hoạt động và phong trào nông dân ở địa phương, xây dựng quỹ hoạt động Hội.
‐ Hội viên có quyền và lợi ích:
Được dân chủ thảo luận và biểu quyết những công việc của Hội; phê bình, chất vấn tổ chức và cán bộ Hội; đề đạt với tổ chức Hội và thông qua tổ chức Hội đề xuất với Đảng, Nhà nước về nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của mình.
Được Hội hướng dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
Được ứng cử, đề cử, bầu cử vào các cơ quan lãnh đạo của Hội.
42
43
Chương III
TỔ CHỨC CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM Ở CƠ SỞ
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC
HỘI NÔNG DÂN Ở CƠ SỞ
‐ Tổ chức cơ sở Hội là nền tảng của Hội, là nơi trực tiếp với hội viên, nông dân; đoàn kết, tập hợp, vận động, hướng dẫn hội viên nông dân tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống; là nơi trực tiếp thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Hội.
Ngoài việc thành lập theo đơn vị hành chính ሺxã, phường, thị trấnሻ, những tổ chức Hội có tính chất đặc thù về nhiệm vụ chính trị, về đối tượng hội viên như nông trường, lâm trường nếu có nhu cầu và đủ điều kiện, được sự thống nhất của cấp uỷ cùng cấp và Hội cấp trên đồng ý thì thành lập tổ chức Hội tương đương Hội Nông dân cơ sở và do Ban Thường vụ Hội Nông dân cấp huyện quyết định.
Đối với phường, thị trấn có từ 3 chi hội trở lên và 44
có 100 hội viên trở lên thì thành lập cơ sở Hội. Đối với nông trường, lâm trường có từ 2 chi hội trở lên và có ít nhất 100 hội viên thì thành lập cơ sở Hội.
‐ Trường hợp tổ chức Hội cấp dưới không còn tổ chức Hội cấp trên trực tiếp thì Hội cấp trên kế tiếp trực tiếp chỉ đạo tổ chức Hội cấp dưới đó. Cụ thể như sau:
Tại các quận, thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh, không có tổ chức Hội mà vẫn có cơ sở Hội thì ban thường vụ Hội cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ của quận, thị, thành trực thuộc tỉnh để cử cán bộ theo dõi cơ sở Hội đó; việc công nhận ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ, chức danh chủ tịch, các phó chủ tịch do ban thường vụ Hội cấp tỉnh quyết định.
Trường hợp cấp cơ sở Hội không còn mà còn chi Hội thì ban thường vụ cấp huyện trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ của xã, phường, thị trấn cử cán bộ theo dõi chi Hội đó. Việc công nhận chi hội trưởng, chi hội phó do ban thường vụ Hội cấp huyện quyết định.
Trường hợp cấp cơ sở Hội và cả quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không còn tổ chức Hội mà còn chi Hội thì ban thường vụ Hội cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo và thống nhất với cấp uỷ xã, phường, thị trấn cử cán bộ theo dõi chi Hội đó. Việc công nhận Chi hội trưởng, Chi hội phó do Ban Thường vụ Hội cấp tỉnh
45
quyết định.
‐ Tổ chức cơ sở Hội có vị trí, vai trò rất quan trọng: là nền tảng của Hội ở cơ sở, là cầu nối giữa Hội với hội viên, nông dân; là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết, chỉ thị của Hội cấp trên; là nơi rèn luyện, giáo dục, kết nạp hội viên; là cầu nối giữa Đảng với nông dân, tuyên truyền vận động nông dân vào Hội; nắm và phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của hội viên, nông dân với Đảng, chính quyền; là cấp cuối cùng trong tổ chức Hội.
II. NỘI DUNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC
HỘI NÔNG DÂN Ở CƠ SỞ
1. Công tác hội viên
Công tác hội viên là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của xây dựng tổ chức cơ sở Hội, bao gồm hai nội dung: phát triển hội viên mới và nâng cao chất lượng hội viên. Hai nội dung đó quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
* Phát triển hội viên
‐ Số lượng hội viên rất quan trọng, vì nó phản ánh lực lượng quần chúng và mức độ giác ngộ của quần chúng. Hội Nông dân là một đoàn thể quần chúng, là tổ chức chính trị ‐ xã hội rộng lớn của giai cấp nông dân
46
do Đảng lãnh đạo vì vậy, muốn Hội lớn mạnh không thể chỉ dừng ở việc nâng cao chất lượng hội viên, mà đồng thời phải không ngừng tập hợp đông đảo nông dân vào Hội.
‐ Đối tượng và điều kiện trở thành hội viên: Nông dân Việt Nam không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo và lao động khác trong các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên lãnh thổ Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên nếu tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện tham gia Hội, được ban chấp hành cơ sở Hội đồng ý thì kết nạp vào Hội. Ủy viên ban chấp hành từ cơ sở trở lên đương nhiên là hội viên Hội Nông dân Việt Nam.
‐ Thủ tục kết nạp hội viên:
Người vào Hội phải tự nguyện viết đơn gửi chi Hội. Hội nghị cán bộ chi hội mở rộng đến tổ trưởng ሺnơi có tổ hộiሻ hoặc cán bộ chi hội ሺnơi không có tổ hộiሻ xem xét, lựa chọn người đủ điều kiện, tiêu chuẩn kết nạp, lập danh sách đề nghị lên Ban Chấp hành Hội cấp trên trực tiếp xét và ra quyết định kết nạp.
Khi nhận được đề nghị xét kết nạp hội viên, Ban Chấp hành Hội cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xét kết nạp vào cuộc họp Ban Chấp hành gần nhất và ra quyết định kết nạp hội viên. Nếu có trường hợp không được xét kết nạp thì Ban Chấp hành Hội cấp xét kết nạp phải trả lời bằng văn bản lý do không kết nạp cho chi hội biết.
Khi có quyết định kết nạp hội viên, chi hội mời
47
những người có tên trong danh sách được kết nạp dự cuộc họp chi hội gần nhất và công bố quyết định kết nạp hội viên mới ሺnơi có tổ hội thì công bố tại tổ hội nhưng phải thông báo cho toàn thể chi hội biết vào kỳ họp gần nhấtሻ. Thời gian được công nhận là hội viên tính từ ngày có quyết định kết nạp.
‐ Phương hướng phát triển hội viên: Công tác phát triển hội viên được chú trọng, tuyên truyền, vận động đông đảo nông dân vào Hội với chất lượng hội viên ngày càng cao. Với nhiều loại hình tập hợp nông dân được triển khai thực hiện: tổ, nhóm sản xuất theo ngành nghề, tổ tín dụng tiết kiệm, tổ hùn vốn làm nhà, tổ đoàn kết bám biển,... đã mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, thu hút đông đảo nông dân tham gia vào tổ chức Hội. Tính đến năm 2015, tổng số hội viên đạt khoảng hơn 10,4 triệu hội viên.
‐ Muốn đẩy mạnh công tác phát triển hội viên, cơ sở Hội cần chỉ đạo làm tốt các việc:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng để cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ về Hội, nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của Hội Nông dân Việt Nam.
Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt Hội, nội dung sinh hoạt phải đa dạng, phong phú, thiết thực đến quyền lợi và nghĩa vụ của hội viên, nông dân và các vấn đề hội viên, nông dân đang cần hỗ trợ, giúp đỡ, tạo động lực để hội viên, nông dân gắn bó với tổ chức Hội.
48
Tăng cường các hoạt động kinh tế ‐ xã hội; mở rộng các hình thức dịch vụ hỗ trợ, tư vấn giúp nông dân phát triển sản xuất kinh doanh, như: vay vốn, chuyển giao tiến bộ khoa học ‐ kỹ thuật, tổ chức dạy nghề, tạo thêm việc làm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản...
Thời gian tới, các cấp Hội sẽ đẩy mạnh việc tập hợp, thu hút và kết nạp hội viên mới, chú trọng phát triển hội viên là ngư dân, vùng bãi ngang ven biển, các chủ trang trại, các doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, các nhà khoa học, cán bộ công chức nghỉ hưu…
Tăng cường công tác kiểm tra, giữ vững kỷ luật Hội, đưa sinh hoạt Hội vào nền nếp, cải tiến nội dung sinh hoạt, nâng cao uy tín của tổ chức Hội ở cơ sở.
* Nâng cao chất lượng hội viên
‐ Hội viên là những thành viên cấu thành nên tổ chức Hội, chất lượng hội viên tốt, tổ chức Hội mới mạnh.
‐ Chất lượng hội viên là sự thể hiện ý thức trách nhiệm của hội viên trong việc tham gia sinh hoạt và xây dựng Hội. Nâng cao chất lượng hội viên là nhiệm vụ thường xuyên và cấp thiết của các cấp Hội, vì chất lượng hội viên có tính quyết định chất lượng phong trào và là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả công tác của tổ chức cơ sở Hội.
‐ Để nâng cao chất lượng hội viên phải thường
49
xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để hội viên nhận thức và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Hội. Cán bộ cơ sở Hội, nhất là cán bộ chi hội, tổ hội cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, khó khăn, vướng mắc của từng hội viên, từ đó có biện pháp động viên, giáo dục, giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ của Hội.
2. Xây dựng chi Hội, tổ Hội
* Hình thức xây dựng chi Hội, tổ Hội
‐ Chi Hội là đơn vị hành động, cầu nối của ban chấp hành cơ sở với hội viên, nông dân. Chi Hội tổ chức theo thôn, ấp, bản, làng, khu phố, hợp tác xã và theo nghề nghiệp.
Chi Hội có thể chia thành nhiều tổ Hội. Chi Hội tổ chức hội nghị bầu chi Hội trưởng, chi Hội phó, nhiệm kỳ hai năm rưỡi và bầu đại biểu đi dự đại hội Hội Nông dân cấp cơ sở. Việc bầu cử tiến hành bằng hình thức bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết.
Chi Hội họp ba tháng một lần, khi cần thiết có thể họp bất thường.
‐ Tổ Hội là đơn vị dưới chi Hội, được thành lập theo địa bàn dân cư, theo nghề nghiệp, đơn vị kinh tế, tổ hợp tác,... cho phù hợp và thuận tiện sinh hoạt.
Tổ Hội có tổ trưởng và tổ phó do hội viên cử. Mỗi tháng tổ Hội họp một lần.
50
* Nhiệm vụ của chi Hội
‐ Tổ chức học tập, phổ biến chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Hội cấp trên đến hội viên, nông dân. Chi Hội phối hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở thôn, ấp, bản, làng, khu phố..., vận động nông dân thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật và nghĩa vụ công dân với Nhà nước. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động hòa giải tranh chấp trong nội bộ nông dân; nòng cốt trong các phong trào phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới.
‐ Hướng dẫn các tổ Hội học tập nâng cao chất lượng và phát triển hội viên, sinh hoạt tổ Hội, thu nộp hội phí, xây dựng quỹ Hội; đoàn kết tương trợ giúp nhau trong sản xuất và đời sống.
‐ Hằng tháng chi Hội phải báo cáo với ban chấp hành cơ sở và tổ chức Đảng cùng cấp về tình hình tổ chức, hoạt động của Hội, sản xuất, đời sống và tâm tư nguyện vọng của hội viên, nông dân.
* Nhiệm vụ của tổ Hội
Nhiệm vụ của tổ Hội là tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân đoàn kết, tương trợ, hợp tác lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân; vận động hội viên, nông dân xây dựng gia đình văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự, hòa giải những vụ tranh chấp của hội viên,
51
nông dân; thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển hội viên, xây dựng quỹ Hội, thu nộp lệ phí theo quy định.
III. XÂY DỰNG BAN CHẤP HÀNH CƠ SỞ HỘI
1. Xây dựng Ban chấp hành cơ sở Hội
Ban chấp hành cơ sở Hội là cơ quan chỉ đạo, hướng dẫn, điều hành các chi hội, tổ hội hành động để thực hiện tốt các chính sách của Đảng, Nhà nước, Điều lệ Hội. Ban chấp hành cơ sở Hội do đại hội Hội Nông dân xã, phường, thị trấn, nông trường, lâm trường, hợp tác xã bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm, làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Ban chấp hành cơ sở Hội gồm chủ tịch, phó chủ tịch, các ủy viên thường vụ và các ủy viên ban chấp hành; một số đồng chí ủy viên ban chấp hành trực tiếp làm chi hội trưởng và một số đồng chí khác được cơ cấu ở một số ngành có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Khi cơ cấu một số ngành vào ban chấp hành cần chú ý đến việc tham gia của các ủy viên ban chấp hành kiêm chức sao cho có hiệu quả. Trước mỗi nhiệm kỳ đại hội, ban chấp hành Hội Nông dân huyện sẽ có hướng dẫn cụ thể về nội dung chuẩn bị đại hội, nhân sự và số lượng ủy viên ban chấp hành mỗi cơ sở Hội.
2. Nhiệm vụ của Ban chấp hành Hội Nông dân cơ sở
Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam quy định ban chấp hành Hội Nông dân cơ sở có 6 nhiệm vụ:
52
Hướng dẫn các chi Hội, tổ Hội học tập, thực hiện Điều lệ và nghị quyết, chỉ thị của Hội; các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở.
Thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động; phối hợp với chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể ở cơ sở tuyên truyền, vận động nông dân thực hiện các phong trào phát triển kinh tế ‐ xã hội, tham gia kinh tế hợp tác và hợp tác xã, làng nghề, trang trại và các loại hình kinh tế tập thể khác. Tổ chức hoạt động hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ giúp nông dân phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân.
Nâng cao chất lượng hội viên; xem xét, quyết định kết nạp hội viên; bồi dưỡng cán bộ Hội; duy trì nền nếp sinh hoạt với nội dung thiết thực; xây dựng quỹ Hội, thu nộp hội phí đúng quy định.
Kiểm tra việc thực hiện Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Hội; phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể giám sát thực hiện chính sách, pháp luật ở nông thôn; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; bồi dưỡng và giới thiệu với Đảng những cán bộ, hội viên ưu tú để Đảng xem xét, kết nạp.
Thường xuyên phản ánh tình hình tổ chức hoạt động của Hội, tình hình sản xuất, đời sống, tâm tư,
53
nguyện vọng và những kiến nghị của hội viên, nông dân với cấp ủy đảng, chính quyền cùng cấp và Hội cấp trên.
Chuẩn bị nội dung, nhân sự ban chấp hành và tổ chức Đại hội khi hết nhiệm kỳ.
IV. XÂY DỰNG TÀI CHÍNH HỘI
‐ Tài chính Hội bao gồm: ngân sách nhà nước cấp, hội phí, quỹ Hội, quỹ hỗ trợ nông dân; nguồn thu từ tổ chức sản xuất, dịch vụ; từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ và các nguồn thu khác.
Tài chính của Hội chi cho các hoạt động của Hội.
Quản lý, sử dụng tài chính Hội: Các cấp Hội thực hiện chế độ quản lý, sử dụng tài chính theo quy định của Nhà nước và của Trung ương Hội.
‐ Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Hội, Ban chấp hành cơ sở Hội phải quan tâm đến công tác xây dựng tài chính Hội, coi đây là điều kiện quan trọng để đẩy mạnh các hoạt động của Hội, xây dựng Hội ngày càng phát triển.
Theo Quy định số 1181‐QĐ/HNDTW ngày 25‐ 12‐2013 của Hội Nông dân Việt Nam về việc thu, nộp, quản lý, sử dụng hội phí và xây dựng, quản lý, sử dụng quỹ Hội, quy định như sau:
* Hội phí:
54
‐ Đối tượng và mức đóng hội phí
Đóng hội phí hằng tháng là vấn đề có tính nguyên tắc và có ý nghĩa chính trị quan trọng. Hội viên Hội Nông dân Việt Nam đều có trách nhiệm đóng hội phí theo quy định của Điều lệ Hội.
Những hội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, ốm đau, bệnh tật chi Hội xem xét và báo cáo lên Hội cấp cơ sở để được miễn hoặc giảm mức đóng hội phí trong một thời gian nhất định nhưng không quá 1 năm. Ban chấp hành cơ sở Hội căn cứ vào tình hình thực tế để quyết định.
Hội viên đóng hội phí trực tiếp cho chi Hội hoặc tổ Hội vào các kỳ sinh hoạt.
Hội viên là ủy viên ban chấp hành cấp cơ sở nộp hội phí tại chi Hội nơi tham gia sinh hoạt; hội viên là ủy viên ban chấp hành cấp huyện trở lên nộp hội phí tại cơ quan Hội Nông dân cấp mình tham gia ban chấp hành vào các kỳ họp ban chấp hành. Trong trường hợp nếu tham gia ban chấp hành nhiều cấp thì chỉ nộp hội phí tại cấp mình trực tiếp công tác.
Mức đóng hội phí: Mức đóng hội phí đối với hội viên là 1.000 đồng ሺmột nghìn đồngሻ /hội viên/ tháng, được áp dụng thống nhất trên toàn quốc từ tháng 1‐ 2014. Căn cứ vào tình hình thực tế Ban Thường vụ Trung ương Hội sẽ xem xét điều chỉnh mức đóng hội phí cho hợp lý với từng thời kỳ.
‐ Quản lý và sử dụng hội phí
Hội phí được trích để lại ở cấp nào được sử dụng
55
cân đối vào nguồn kinh phí hoạt động công tác Hội ở cấp đó. Số kinh phí còn lại cuối năm ሺnếu cóሻ được chuyển sang chi cho năm sau.
Nguồn thu từ hội phí được chi cho các nội dung sau:
Trong điều kiện kinh phí hoạt động của tổ chức cơ sở Hội còn khó khăn, số hội phí được trích lại ở các cấp cần được ưu tiên cho các khoản chi phục vụ công tác xây dựng Hội như:
Mua sách, báo, tạp chí, tài liệu học tập của Hội; Văn phòng phẩm, in ấn, photo tài liệu, thẻ hội viên…;
Chi học tập triển khai nghị quyết các cấp; Chi hội nghị sơ kết, tổng kết công tác Hội; Chi bồi dưỡng báo cáo viên, phục vụ hội trường,
nước uống cho người dự trong các buổi sinh hoạt, hội họp;
Chi công tác thi đua, khen thưởng: Chi tổ chức các phong trào thi đua như chi tổ chức các buổi phát động, sơ kết, tổng kết, khen thưởng;
Hỗ trợ thù lao cho cán bộ cơ sở: chi hội trưởng, tổ trưởng…
Mức chi: Mức chi cụ thể do ban thường vụ Hội Nông dân từng cấp căn cứ vào khả năng kinh phí của đơn vị mình và tình hình giá cả tại thời điểm phải chi để quyết định mức chi.
Quản lý thu ‐ chi hội phí
Việc thu, chi hội phí phải có đầy đủ sổ sách, 56
chứng từ. Định kỳ hằng năm, báo cáo công khai việc thu ‐ chi hội phí tại cuộc họp tổng kết của chi, tổ Hội và ban chấp hành Hội các cấp.
Hội phí thu của hội viên là ủy viên ban chấp hành ở cấp nào thì đưa vào nguồn thu hội phí của cấp đó.
* Quỹ Hội
‐ Xây dựng, sử dụng quỹ Hội
Quỹ Hội được xây dựng từ các nguồn sau: Nguồn do cán bộ Hội, hội viên đóng góp hoặc lao động gây quỹ.
Nguồn thu hợp pháp khác: Từ các đề tài, chương trình được trích phí quản lý; từ hỗ trợ của cá nhân, tổ chức và các hoạt động dịch vụ khác.
Nội dung chi của quỹ Hội, bao gồm:
Chi cho hoạt động phong trào: phát động thi đua, sơ kết, tổng kết.
Chi hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao.
Chi thăm hỏi ốm đau, hiếu, hỷ đối với hội viên; hỗ trợ hội viên gặp khó khăn, thiên tai, hoạn nạn. Chi khen thưởng: In giấy chứng nhận khen thưởng, làm khung, thuê đánh máy ሺhoặc viếtሻ giấy chứng nhận khen thưởng, chi tiền thưởng kèm theo ሺkhông vượt quá mức quy định của Nhà nướcሻ.
‐ Quy định về việc thu, chi quỹ
Các khoản thu, chi đều phải có đầy đủ sổ sách,
57
chứng từ liên quan theo quy định về quản lý tài chính. Ít nhất 6 tháng một lần đối chiếu sổ sách, 1 năm 1 lần báo cáo ban thường vụ Hội trực tiếp về tình hình tài chính của quỹ Hội.
Chứng từ thu, chi được lưu trữ theo trình tự thời gian.
58
Chương IV
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC
CỦA HỘI NÔNG DÂN Ở CƠ SỞ
I. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
1. Khái niệm, vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền cho nông dân ở cơ sở
aሻ Khái niệm
Tuyên truyền là truyền bá, giáo dục, giải thích nhằm chuyển biến và nâng cao về nhận thức; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, xây dựng thành niềm tin; thúc đẩy mọi người hành động một cách tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Khái niệm tuyên truyền có ba nội dung chính sau: Thứ nhất, truyền bá, giáo dục, giải thích nhằm chuyển biến và nâng cao nhận thức của đối tượng tuyên truyền.
Thứ hai, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, từ đó xây dựng thành niềm tin cho đối tượng tuyên truyền. Thứ ba, những kết quả của hai nội dung trên sẽ thúc đẩy mọi người ሺđối tượng tuyên truyềnሻ hành
59
động một cách tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, nhiệm vụ mà công tác tuyên truyền đặt ra. Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm phổ biến, giải thích những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những nhiệm vụ của Hội, nhiệm vụ chính trị của địa phương, làm cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ, cổ vũ động viên họ tự giác làm theo, nhằm đạt được mục tiêu của Hội đề ra. Đồng thời, công tác tuyên truyền của Hội còn giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức, lối sống, nếp sống mới, văn minh, tiến bộ, về truyền thống cách mạng của giai cấp nông dân; bồi dưỡng kiến thức khoa học ‐ kỹ thuật và các kiến thức cần thiết khác cho cán bộ, hội viên, nông dân nhằm xây dựng thành công người nông dân văn hóa; tham gia xây dựng làng ሺthôn, ấp, bảnሻ văn hóa, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
bሻ Vị trí
Hội Nông dân Việt Nam hoạt động trên ba mặt công tác cơ bản sau: công tác tuyên truyền, công tác xây dựng tổ chức và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân. Công tác tuyên truyền có vị trí rất quan trọng, luôn được xác định là vị trí hàng đầu trong ba mặt công tác đó.
60
Sở dĩ công tác tuyên truyền được xác định vị trí hàng đầu vì tổ chức Hội muốn đạt được sự nhất trí, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động, thực hiện được các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ thì phải có sự tự giác của cán bộ, hội viên. Song, để có điều đó, việc đầu tiên là phải tuyên truyền, giải thích, phổ biến cho mọi cán bộ, hội viên hiểu rõ, hiểu đúng và đầy đủ về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ. Chỉ như vậy, họ mới có thể nhận thức đúng, hành động đúng và đạt hiệu quả cao.
cሻ Vai trò
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam có vai trò rất to lớn và quan trọng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, nhằm xây dựng, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tri thức, đạo đức cách mạng, văn hóa dân tộc cho cán bộ, hội viên, nông dân, góp phần đắc lực vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
2. Nhiệm vụ của công tác tuyên truyền
aሻ Tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị địa phương và nhiệm vụ của Hội
Công tác tuyên truyền ở cơ sở làm nhiệm vụ phổ
61
biến, giải thích cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn; về các chủ trương công tác của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và nhiệm vụ của Hội để hội viên, nông dân hiểu đúng và tự giác thực hiện có hiệu quả. Đồng thời, công tác tuyên truyền cần phổ biến, giải thích để nông dân hiểu rõ về tổ chức Hội, tự nguyện xin vào Hội, tự giác tham gia sinh hoạt và thực hiện các chương trình công tác của Hội.
bሻ Tuyên truyền, cổ vũ hội viên, nông dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế ‐ xã hội địa phương
Công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội cần tổ chức phổ biến các chương trình, kế hoạch, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, của Hội các cấp; phát động phong trào nông dân thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế ‐ xã hội, xây dựng nông thôn mới; vận động hội viên, nông dân định canh, định cư, thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng; bảo vệ môi trường sinh thái như trồng rừng, không chặt phá rừng, giữ vệ sinh chung,...; vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia xây dựng trường học, trạm xá, điện, đường giao thông,... Cán bộ cơ sở Hội cần phải phổ biến, giải thích cho hội viên, nông dân hiểu rõ ý nghĩa những việc họ
62
phải làm và tạo điều kiện cho họ tham gia bàn bạc, kiểm tra, giám sát. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình thực hiện các nhiệm vụ của Hội. Đặc biệt, cán bộ Hội cần gương mẫu, tự giác thực hiện và cổ vũ, động viên mọi người cùng thực hiện.
cሻ Tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ dân trí, khoa học kỹ thuật, công nghệ và kiến thức quản lý kinh tế cho hội viên, nông dân
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, việc nâng cao dân trí, tiếp thu khoa học ‐ công nghệ tiên tiến, hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến đã trở thành nhu cầu tất yếu, cấp bách. Do vậy, tùy theo điều kiện của mỗi vùng, miền, mỗi địa phương cần tuyên truyền, hướng dẫn hội viên, nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; tiếp thu tri thức mới về công nghệ sinh học, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, về công nghệ chế biến, bảo quản nông sản; kế hoạch sản xuất kinh doanh, dịch vụ sao cho phù hợp, có hiệu quả. Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, trước hết cơ sở Hội cần quan tâm tổ chức học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, hội viên, nông dân ở cơ sở mình.
dሻ Tuyên truyền, giáo dục hội viên, nông dân phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng, của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam
63
Giáo dục, khơi dậy và phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng, của giai cấp nông dân và Hội Nông dân là một nội dung rất quan trọng trong công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam. Giai cấp nông dân Việt Nam nói chung, nông dân mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc nói riêng đều có truyền thống cách mạng vô cùng quý báu. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần cách mạng kiên cường, lòng tự tôn, ý chí tự cường dân tộc; là đức tính cần cù lao động, tinh thần đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Do vậy, cán bộ Hội cần tuyên truyền cho hội viên, nông dân hiểu rõ và đầy đủ những truyền thống tốt đẹp đó để họ giữ gìn, phát huy. Đồng thời, cần khơi dậy cho cán bộ, hội viên, nông dân lòng biết ơn cách mạng. Đặc biệt là lòng biết ơn đối với các anh hùng, liệt sĩ, các thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Công tác tuyên truyền của Hội cần giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, tinh thần đoàn kết, nhân ái và đạo đức, lối sống lành mạnh cho hội viên, nông dân; đấu tranh chống những biểu hiện trái đạo đức, lối sống xấu xa, lạc hậu, các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, mê tín dị đoan... góp phần tích cực vào việc xây dựng người nông dân có văn hóa, phát triển toàn diện, hài hòa, có trí tuệ, tâm hồn cao thượng, trong sáng, có thể
64
lực và bản lĩnh vững vàng; góp phần tích cực vào xây dựng thôn, ấp, bản, làng văn hóa.
3. Hình thức, phương pháp tuyên truyền
Hình thức, phương pháp tuyên truyền đóng vai trò quyết định kết quả, hiệu quả công tác tuyên truyền của Hội. Tuy nhiên, cần phải tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi, từng việc, từng đối tượng mà vận dụng các hình thức, phương pháp tuyên truyền cho phù hợp.
aሻ Hình thức tuyên truyền
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam có nhiều hình thức phong phú. Mỗi hình thức tuyên truyền đều có vai trò, tác dụng riêng.
‐ Tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền mà phương thức chủ yếu được tiến hành thông qua sự giao tiếp bằng lời nói trực tiếp giữa người nói ሺngười tuyên truyềnሻ với người nghe ሺđối tượng tuyên truyềnሻ mà không có sự ngăn cách nào, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố và xây dựng niềm tin, cổ vũ mọi người suy nghĩ và hành động theo những yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra.
Như vậy, thực chất của tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền trực tiếp bằng lời nói để thuyết phục người nghe nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và tổ chức họ hành động theo đúng chủ
65
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương công tác hội. Hình thức này thường được sử dụng trong các bài giảng, báo cáo, bài thuyết trình, trong các buổi kể chuyện, nói chuyện thời sự, qua các buổi trao đổi, tọa đàm, tranh luận, hỏi đáp. Khi sử dụng hình thức này, cán bộ Hội, báo cáo viên, tuyên truyền viên sẽ trực tiếp nói với hội viên, nông dân trong các lớp học, hội nghị; trực tiếp tiếp xúc, trao đổi, thảo luận với các hội viên, nông dân trong sinh hoạt chi Hội, tổ Hội hoặc đến nói chuyện, trao đổi với từng gia đình, từng người, qua đó, cán bộ Hội trực tiếp nghe hội viên, nông dân trao đổi lại. Vì thế, hình thức tuyên truyền này có tính chất dân chủ nhất, dễ thực hiện nhất và cũng là hình thức tuyên truyền rẻ nhất, hiệu quả nhất.
‐ Tuyên truyền thông qua sinh hoạt chi Hội, tổ Hội, qua các câu lạc bộ
Hình thức tuyên truyền này được tiến hành theo sinh hoạt định kỳ hoặc theo sinh hoạt chuyên đề, đột xuất. Thông qua hình thức tuyên truyền này đồng thời kết hợp với hình thức tuyên truyền miệng, công tác tuyên truyền của Hội đã đến trực tiếp được cán bộ, hội viên, nông dân, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội nói chung, của công tác tuyên truyền nói riêng.
‐ Tuyên truyền thông qua sử dụng hệ thống thông tin đại chúng
Hình thức tuyên truyền này được thực hiện qua 66
hệ thống truyền thông của Đảng, Nhà nước như báo, đài phát thanh, truyền hình của Trung ương và của địa phương; qua báo, tạp chí, thông tin công tác hội của Hội, qua hệ thống loa đài truyền thanh công cộng, v.v.. Đây là một trong những hình thức tuyên truyền có tính định hướng rất cao, nhất là qua các bài báo, phóng sự, chuyên đề, v.v. có chất lượng về các gương điển hình, về các cơ sở địa phương hoạt động tốt, v.v. nên nó có ảnh hưởng sâu rộng, dễ tác động đến cán bộ, hội viên, nông dân, có tác dụng khích lệ họ học tập, làm theo.
‐ Tuyên truyền thông qua hoạt động thư viện, sách báo, tranh ảnh, nhà văn hóa, câu lạc bộ, v.v.; các hình thức trực quan như khẩu hiệu, panô, áp phích, tờ rơi, v.v..
Khi sử dụng hình thức tuyên truyền này, các cán bộ tuyên truyền cần chú ý lựa chọn các biểu tượng, hình tượng, hình ảnh, biểu trưng, v.v. có tính cụ thể, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của cán bộ, hội viên, nông dân. Khi đó công tác tuyên truyền sẽ lôi cuốn được đông đảo quần chúng và sẽ đạt hiệu quả cao.
‐ Tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, tổ chức lễ hội truyền thống...
Đây là một hình thức tuyên truyền có bề rộng, dễ áp dụng nên cán bộ cơ sở Hội cần triệt để vận dụng hình thức tuyên truyền này, vì nếu được chuẩn bị kỹ, tiến hành thận trọng, khoa học thì hình thức này rất dễ
67
tạo không khí hồ hởi, phấn khởi trong quần chúng tham gia, qua đó công tác tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả cao.
‐ Tuyên truyền thông qua các hoạt động tham quan thực tế, báo cáo điển hình, học tập gương người tốt, việc tốt
Hình thức tuyên truyền này sử dụng triệt để phương pháp nêu gương như: Tổ chức cho cán bộ, hội viên, nông dân đi tham quan, học tập những điển hình, mô hình tốt để họ học tập, làm theo. Qua đó hướng dẫn, khuyến khích, động viên cán bộ, hội viên, nông dân học tập, làm theo gương điển hình, mô hình tiên tiến, đồng thời, hình thức tuyên truyền này còn góp phần thúc đẩy phong trào thi đua Hội phát triển. Do vậy, trong quá trình công tác, cơ sở Hội và Hội cấp trên cần sớm phát hiện, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến, những nhân tố mới để tuyên truyền, giáo dục hội viên, nông dân.
bሻ Phương pháp tuyên truyền
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam thường sử dụng ba phương pháp cơ bản sau đây:
‐ Phương pháp thuyết phục
Là phương pháp dùng lý lẽ, các luận cứ, luận chứng để hình thành ở mỗi cán bộ, hội viên, nông dân một lập trường mới, có thể thay đổi quan điểm hoặc
68
hành vi của họ về một vấn đề nào đó.
Đây là phương pháp quan trọng nhất của hoạt động tuyên truyền. Phương pháp này có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể tiến hành tuyên truyền cá biệt, tuyên truyền trước đám đông, tuyên truyền cho nhóm. Phương pháp này có tác dụng rất to lớn, ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến hiệu quả tuyên truyền bởi thuyết phục tốt sẽ làm cho các hội viên, nông dân tự giác, phấn khởi tin theo và có hành động tự giác, đạt được hiệu quả cao.
‐ Phương pháp nêu gương
Là phương pháp sử dụng những sự việc, hiện tượng điển hình trong đời sống thực tế ở ngay địa phương, cơ sở, ở địa bàn cụ thể, đưa ra các kiểu hành vi, lối sống tác động đến cán bộ, hội viên, nông dân, giúp họ hình thành những hành vi, lối sống phù hợp theo gương điển hình.
‐ Phương pháp ám thị
Là phương pháp tác động tâm lý từ cán bộ tuyên truyền đến từng cá nhân và nhóm cán bộ, hội viên, nông dân với mục đích làm cho họ tự giác tiếp thu một cách không phê phán những lời lẽ, hình ảnh mà trong đó chứa đựng các tư tưởng, ý chí cần truyền đạt của người cán bộ tuyên truyền.
Phương pháp này thường được sử dụng trong các hình thức tuyên truyền, cổ động có sử dụng các hình vẽ, tranh ảnh, panô, áp phích, quảng cáo... ngầm chỉ
69
bảo cho biết, nên trong khi áp dụng phương pháp này, cán bộ tuyên truyền cần chú ý sử dụng hình ảnh, biểu tượng, biểu trưng, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ để quần chúng dễ nhớ, dễ hiểu. Song, cần tránh các hình ảnh, biểu tượng thiếu văn hóa, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
4. Một số nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền cho nông dân ở cơ sở
aሻ Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền ở cơ sở
Cơ sở Hội cần xây dựng lực lượng làm công tác tuyên truyền gồm: các ủy viên ban chấp hành Hội Nông dân cơ sở, cán bộ chi Hội, tổ Hội. Vì vậy, cán bộ chi Hội, tổ Hội phải không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương và nhiệm vụ công tác Hội để thực hiện tốt công tác tuyên truyền. Đồng thời, phải xây dựng lực lượng cộng tác viên, tuyên truyền viên làm công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội, gồm: các cán bộ cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể, cán bộ khoa học ‐ kỹ thuật, giáo viên trường phổ thông, cán bộ, bộ đội hưu trí. Đây là lực lượng có trình độ, kinh nghiệm và có khả năng làm công tác tuyên truyền. Vì vậy, cần sử dụng triệt để đội ngũ cán bộ này để họ phát huy tối đa năng lực, kinh nghiệm phục vụ tốt cho công tác tuyên truyền của cơ sở Hội.
70
‐ Củng cố, phát huy hiệu quả hoạt động của các đội văn nghệ quần chúng, lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên.
‐ Cần có chế độ động viên kịp thời về tinh thần và vật chất đối với lực lượng làm công tác tuyên truyền của Hội; tạo điều kiện để cán bộ làm công tác tuyên truyền được học tập, nâng cao trình độ, nghiệp vụ.
bሻ Xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền ở cơ sở
Công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội có nhiều nội dung nên không thể thực hiện được tất cả các nội dung ngay cùng một lúc. Do vậy, cán bộ cơ sở Hội cần lập ra chương trình, kế hoạch cụ thể tuyên truyền trong từng tháng, từng quý, 6 tháng, cả năm. Song, tùy theo mức độ cấp thiết, tùy thuộc tình hình, thời gian cụ thể mà cán bộ cơ sở Hội lựa chọn nội dung tuyên truyền phù hợp và thiết thực.
Khi xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội cần căn cứ vào ba nội dung:
‐ Tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, của Hội các cấp, nhất là của cơ sở Hội để xác định nội dung, nhiệm vụ tuyên truyền cho phù hợp với không gian, thời gian cụ thể. Đồng thời, qua đó sẽ lựa chọn hình thức, phương pháp tuyên truyền thích hợp, hiệu quả.
71
‐ Tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng, những vấn đề bức xúc của cán bộ, hội viên, nông dân để xác định hình thức, phương pháp tiến hành tuyên truyền.
‐ Hướng dẫn công tác của Hội cấp trên, cấp ủy, chính quyền địa phương.
cሻ Chủ động xây dựng các phương án dự phòng, tình huống giả định
Để đối phó kịp thời, chính xác các diễn biến đột xuất của tình hình, các tình huống bất ngờ có thể xảy ra trong quá trình công tác, cán bộ cơ sở Hội cần chủ động xây dựng các phương án dự phòng, các tình huống giả định để khi có tình huống xảy ra sẽ không bị động, lúng túng. Đây là một trong những biện pháp chủ động, tích cực nhất của công tác tuyên truyền. Vì vậy, cán bộ Hội cần nắm chắc tình hình, luôn đề cao cảnh giác trước những biến động, diễn biến của tình hình. Tránh xây dựng các phương án dự phòng có tính hình thức, qua loa, chủ quan, các tình huống giả định thiếu thực tế.
dሻ Chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở
Hiện nay, trên địa bàn nông thôn, cụ thể là ở các thôn, ấp, bản, làng có nhiều tổ chức, đoàn thể khác nhau, nhưng đều có chung mục đích nhằm tác động
72
đến tư tưởng, tình cảm của nông dân. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, của Hội cấp trên, cơ sở Hội cần chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục hội viên, nông dân.
đሻ Đầu tư cơ sở vật chất ‐ kỹ thuật cho công tác tuyên truyền ở cơ sở
Yếu tố vật chất ‐ kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong công tác tuyên truyền, bởi nó là điều kiện không thể thiếu trong việc duy trì và phát triển các hoạt động tuyên truyền ở cơ sở. Đồng thời, qua việc đầu tư này cho thấy mức độ quan tâm của lãnh đạo địa phương và Hội cấp trên trong việc chăm lo đối với công tác tuyên truyền.
‐ Trước hết, cần sử dụng triệt để cơ sở vật chất ‐ kỹ thuật, phương tiện sẵn có của xã, thôn, bản, như: hệ thống loa phát thanh, sân thể thao, câu lạc bộ, trung tâm văn hóa, thư viện, điểm bưu điện ‐ văn hóa xã.
‐ Đề xuất, kiến nghị với cấp ủy đảng, chính quyền, Hội Nông dân cấp trên dành kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho công tác tuyên truyền.
II. CÔNG TÁC KIỂM TRA
1. Khái niệm, vị trí, nguyên tắc của công tác kiểm tra cho nông dân ở cơ sở
aሻ Khái niệm
73
Kiểm tra là xem xét lại những hoạt động của tổ chức hoặc con người để nhận xét, đánh giá kết quả đạt được so với yêu cầu, mục đích, chỉ tiêu đã đề ra; tìm ra ưu điểm, khuyết điểm, từ đó rút ra kinh nghiệm cho những hoạt động tiếp theo.
Công tác kiểm tra của Hội là một công cụ quan trọng, một nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp Hội; là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết những vấn đề trong nội bộ Hội, nhằm hoàn thiện quy trình lãnh đạo, chỉ đạo, giữ vững kỷ luật, với mục đích bảo đảm cho các quyết định đã đề ra được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả.
bሻ Vị trí, nguyên tắc của công tác kiểm tra * Vị trí
‐ Công tác kiểm tra là việc làm thường xuyên của các cấp Hội từ Trung ương đến cơ sở, là một nhiệm vụ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Hội. Kiểm tra nhằm đẩy mạnh việc chấp hành Điều lệ, các chỉ thị, nghị quyết của Hội. Bảo đảm sự thống nhất ý chí, hành động, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao sức chiến đấu, đoàn kết nội bộ góp phần củng cố, xây dựng Hội vững mạnh về tư tưởng, tổ chức và hành động.
‐ Công tác kiểm tra của Hội có vị trí quan trọng trong việc giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nông thôn; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội
74
viên, nông dân góp phần thực hiện công bằng xã hội. ‐ Để có chủ trương, quyết định đúng, giải pháp thực hiện tối ưu, kịp thời phát hiện sai sót, hoàn chỉnh các quyết định, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực thì công tác kiểm tra cần phải được tiến hành thường xuyên. Do đó, kiểm tra là một nội dung rất quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của mỗi cấp và từng cán bộ Hội. Quy trình lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội Nông dân mỗi cấp đều được chia thành ba khâu chủ yếu: ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện. Vì vậy, khi đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân của một ban chấp hành, ban thường vụ Hội Nông dân nhất thiết phải căn cứ vào kết quả đánh giá ở cả ba khâu đó.
* Nguyên tắc
‐ Nguyên tắc tính đảng: Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của công tác kiểm tra, đòi hỏi chủ thể kiểm tra phải tuân thủ nghiêm túc, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ; nhận xét, đánh giá sự việc một cách khách quan, thận trọng, trên cơ sở những văn bản pháp quy và những tiêu chí cụ thể. Tính đảng của công tác kiểm tra được thể hiện: Khi tiến hành kiểm tra phải trên cơ sở và trong khuôn khổ của Điều lệ Hội, các chỉ thị, nghị quyết của Hội; phải lấy việc phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác
75
xây dựng Hội làm tiêu chí hoạt động của công tác kiểm tra.
‐ Nguyên tắc tính quần chúng: Nguyên tắc này xuất phát từ tính dân chủ rộng rãi của Hội. Mọi vụ việc dù phức tạp đến mấy, trước quần chúng đông đảo cũng không che dấu được sự thật. Chỉ có dựa vào quần chúng và kết hợp với cơ quan lãnh đạo thì mới có thể kiểm tra, xem xét, đánh giá, kết luận chính xác bản chất của vụ việc.
Khi tiến hành kiểm tra, chủ thể kiểm tra phải thực sự dựa vào quần chúng; tổ chức cho quần chúng tham gia vào hoạt động kiểm tra bằng các hình thức khác nhau và phát huy đến mức cao nhất tính tự giác của mỗi cá nhân, cán bộ, hội viên nông dân.
‐ Nguyên tắc tính công khai: Quá trình kiểm tra, đánh giá, kết luận đều được tiến hành công khai, không dùng thủ đoạn nghiệp vụ hoặc gò ép, áp đặt. Dự thảo kết luận được trao đổi dân chủ và khi cấp có thẩm quyền quyết định thì được thông báo rộng rãi. Mọi khuyết điểm, sai lầm được đưa ra ánh sáng không phải chỉ để thi hành kỷ luật, mà điều chủ yếu là để sửa chữa một cách nhanh chóng và kịp thời.
‐ Nguyên tắc tính lịch sử: Mọi khuyết điểm sai lầm của tổ chức Hội cũng như của cán bộ, hội viên xảy ra ở thời gian nào đều mang dấu ấn của thời gian đó. Nếu không tôn trọng nguyên tắc tính lịch sử thì kết luận của cuộc kiểm tra sẽ sai lệch, gây oan ức cho tổ chức
76
hoặc cá nhân.
‐ Nguyên tắc tính hiệu quả: Năng lực, trình độ tổ chức hoạt động công tác kiểm tra của chủ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cuối cùng. Mỗi cuộc kiểm tra đều phải kết luận rõ đúng, sai, hướng phát huy hoặc sửa chữa, mức độ kỷ luật… Sau kiểm tra, sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Hội tăng lên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo tốt hơn; cán bộ, hội viên, nông dân tin tưởng vào tổ chức Hội, kể cả người có ưu điểm và người có khuyết điểm đều phấn khởi thực hiện nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân, đó chính là hiệu quả của công tác kiểm tra.
2. Nội dung, hình thức và trình tự tổ chức kiểm tra aሻ Nội dung kiểm tra
‐ Kiểm tra, giám sát thực hiện Điều lệ, các chỉ thị, nghị quyết của Hội.
Khẳng định những mặt đã đạt được và những tồn tại, nguyên nhân.
Việc quản lý, sử dụng hội phí, quỹ hội, các nguồn vốn, chương trình dự án do Hội quản lý.
Xem xét giải quyết kịp thời có lý, có tình những vi phạm của cán bộ, hội viên và chi Hội tại nơi xảy ra vụ việc không để kéo dài, đùn đẩy lên trên.
Kết luận, kiến nghị Ban Thường vụ xử lý những
77
trường hợp vi phạm kỷ luật Hội.
‐ Kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài chính của Hội.
Hoạt động tài chính của Hội gồm có:
Việc thu, nộp, quản lý, sử dụng hội phí.
Xây dựng và quản lý quỹ hội.
Xây dựng, sử dụng quỹ hỗ trợ nông dân của Hội cấp trên uỷ thác và của hội viên, nông dân đóng góp. Các chương trình dự án kinh tế, xã hội do Hội quản lý.
Một số hoạt động tài chính khác.
Nội dung kiểm tra hoạt động tài chính của Hội cần tập trung vào việc: Thu, nộp, quản lý, sử dụng hội phí và việc xây dựng, quản lý, sử dụng quỹ hoạt động của Hội. Nếu nơi nào có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, có đơn thư tố cáo hoặc đài báo nêu hiện tượng tham ô, lợi dụng về tài chính của Hội phải kịp thời đề xuất với ban thường vụ cho kiểm tra, xem xét, làm rõ đúng sai và có biện pháp xử lý.
‐ Giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nông thôn.
‐ Tham gia hòa giải và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nông dân; giải quyết những vụ việc của cán bộ hội thuộc thẩm quyền của Hội.
bሻ Hình thức kiểm tra
Tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu và nội dung cần 78