🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cẩm Nang An Toàn Cho Học Sinh Khi Sử Dụng Internet
Ebooks
Nhóm Zalo
A
CAM NANG
Biên soạn
Nguyễn Tiến Xuân
Hoàng Thanh Nam
Nguyễn Thị Loan
Tham gia góp ý và hoàn thiện nội dung Cục An toàn thông tin
HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương TRẦN THANH LÂM
Phó Chủ tịch Hội đồng
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM MINH TUẤN
Thành viên
NGUYỄN HOÀI ANH
PHẠM THỊ THINH
NGUYỄN ĐỨC TÀI
TỐNG VĂN THANH
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Internet chứa đựng một kho kiến thức khổng lồ giúp học sinh tìm kiếm được thông tin phục vụ việc học tập. Internet đem đến cho học sinh sự thuận lợi trong việc tiếp cận những tài liệu thích hợp, bài giải, hình ảnh, cũng như cung cấp kênh kết nối, trao đổi để có thể học tập tốt hơn. Internet giúp học sinh thư giãn và giải trí thông qua các kênh nghe nhạc, xem video,… Sau những giờ học mệt mỏi, học sinh thường cảm thấy căng thẳng, với các kênh nghe nhạc, xem video trực tuyến, học sinh sẽ có được sự thư giãn và giải trí tối đa. Qua đó, trở lại với việc học tập tốt hơn, hiệu quả hơn.
Bên cạnh hiệu quả không thể phủ nhận thì Internet cũng đã gây ra tác động tiêu cực đến học sinh. Với tâm lý tò mò, thiếu kinh nghiệm sống và chưa đủ nhận thức xã hội, học sinh là đối tượng dễ bị lợi dụng, lừa đảo, tiêm nhiễm thông tin xấu, độc hại. Ngoài ra, môi trường Internet còn có thể khiến cho học sinh rơi vào tình trạng nghiện Internet, nghiện game online, ảnh hưởng đến kết quả học tập, sự phát triển thể chất và các mối quan hệ trong gia đình, xã hội.
5
Cuốn sách Cẩm nang an toàn cho học sinh khi sử dụng Internet giới thiệu một số kiến thức về Internet, vai trò và ảnh hưởng của Internet tới việc học tập, vui chơi, giải trí. Đồng thời, nhóm tác giả cũng phân tích kỹ thực trạng sử dụng Internet ở học sinh, các nguy cơ có thể xảy ra cho học sinh về sức khỏe, lợi dụng thông tin cá nhân để lừa đảo,… từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục và bảo đảm an toàn, hiệu quả cho học sinh khi sử dụng Internet.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2022
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
LỜI GIỚI THIỆU
Sự phát triển của Internet đã đem lại cho học sinh những lợi ích to lớn trong việc tiếp nhận thông tin, kiến thức phục vụ học tập, giải trí; là môi trường để học sinh kết nối, giao tiếp và chia sẻ một cách dễ dàng.
Bên cạnh những hiệu quả không thể phủ nhận thì Internet cũng đã và đang gây ra những tác động tiêu cực đến học sinh. Với tâm lý tò mò, thiếu kinh nghiệm sống và chưa đủ nhận thức xã hội, học sinh là đối tượng dễ bị lợi dụng, lừa đảo, bị tiêm nhiễm những thông tin xấu, độc hại. Ngoài ra, môi trường Internet còn dễ đẩy học sinh đến với các thói quen xấu như nghiện Internet, nghiện game online, trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả học tập, sự phát triển thể chất, tinh thần và các mối quan hệ trong gia đình, xã hội. Điều này đã khiến cho nhiều phụ huynh lo ngại, e dè khi cho con mình sử dụng Internet.
Cuốn sách Cẩm nang an toàn cho học sinh khi sử dụng Internet giới thiệu một số kiến thức về Internet, vai trò và ảnh hưởng của Internet đối với việc học tập, vui chơi, giải trí của học sinh. Đồng thời, chỉ ra thực trạng sử dụng Internet ở lứa tuổi học sinh và các nguy cơ về sức khỏe, lừa đảo, lợi dụng thông tin cá nhân...
7
có thể xảy ra, từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục và bảo đảm an toàn, hiệu quả cho học sinh khi sử dụng Internet.
Hy vọng, những kiến thức cơ bản và kỹ năng sử dụng Internet an toàn trong cuốn sách này sẽ góp phần giúp các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và các em học sinh có thể sử dụng Internet một cách an toàn.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc! TÁC GIẢ
8
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ INTERNET VÀ VAI TRÒ, ẢNH HƯỞNG CỦA INTERNET ĐỐI VỚI HỌC SINH
I. TỔNG QUAN VỀ INTERNET
1. Khái niệm
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo phương thức chuyển mạch gói (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức TCP/IP: Transmission Protocol/ Internet Protocol). Hệ thống này bao gồm hàng nghìn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học, người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu.
Internet cho phép người dùng giao tiếp, kết nối với nhau thông qua những thiết bị như máy tính, điện thoại thông minh, tivi... Hiện nay, Internet trở thành nguồn cung cấp thông tin quan trọng nhất, cung cấp nhiều dịch vụ thông tin cho hàng tỷ người. Từ một mạng máy tính không có mục đích vụ lợi, ngày nay
9
Internet đã được thương mại hóa. Tuy nhiên, nhiều dịch vụ thông tin vẫn được cung cấp miễn phí, nhất là phục vụ cho khoa học và giáo dục. Internet là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người, gắn liền với tiến bộ xã hội, sự phát triển về kinh tế, an ninh, văn hóa, tôn giáo...
2. Cấu trúc Internet
Tất cả các máy tính tham gia mạng Internet thường dùng bộ giao thức TCP/IP. Giao thức truyền tin (TCP) là một giao thức trong đó các thông tin đã số hóa chia nhỏ thành các gói để chuyển đi tại nơi gửi, sau đó các gói thông tin này được ghép lại tại nơi nhận. Như vậy, bất kỳ một máy tính nào tuân thủ giao thức TCP/IP đều có thể liên lạc được với nhau trong Internet. Mạng Internet tạo ra một cộng đồng bình đẳng của những người sử dụng, trong đó mọi người đều có thể gửi, nhận hoặc tìm kiếm bất cứ thông tin nào mà họ muốn và được phép trên Internet.
Internet là một liên mạng kết nối các mạng nhỏ hơn với nhau. Như vậy, cấu trúc Internet gồm các mạng máy tính được kết nối với nhau thông qua các kết nối viễn thông. Thiết bị dùng để kết nối các mạng máy tính với nhau là cổng nối Internet (Internet Gateway) hoặc Bộ định tuyến (Router).
10
Cấu trúc Internet
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của người sử dụng, Internet chỉ là một mạng duy nhất.
Như vậy, mong muốn đơn giản là kết nối các máy tính nhằm chia sẻ, trao đổi thông tin bằng phương tiện điện tử với nhau đã được thực hiện thông qua mạng Internet toàn cầu. Với việc phát triển nhanh chóng của Internet, sự phức tạp trong muôn vàn kết nối của mạng cũng gia tăng, ngày nay mạng Internet đã thực sự trở thành một mạng lưới khổng lồ bao gồm vô số các mạng lưới nhỏ hơn được kết nối với nhau.
Cấu trúc của Internet dưới góc nhìn của người dùng
11
3. Hình thức kết nối
Để có thể sử dụng các dịch vụ Internet, người dùng phải kết nối máy tính của mình với Internet. Có nhiều phương thức kết nối với nhiều tốc độ khác nhau, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng và điều kiện của người sử dụng.
3.1. Kết nối Internet qua cáp quang
Internet cáp quang là tên gọi về dịch vụ viễn thông băng thông rộng bằng cáp quang được kết nối tới tận nhà khách hàng (FTTH - Fiber to the Home: kết nối tại nhà). Khi lắp đặt Internet cáp quang, khách hàng được truy nhập Internet tốc độ cao và sử dụng các ứng dụng như: điện thoại, tivi, game, họp hội nghị...
Kết nối Internet qua cáp quang
Sở dĩ gọi là FTTH do đây là tên gọi của chất liệu làm nên sợi cáp quang. Cáp quang mang nhiều ưu điểm cho khách hàng khi lựa chọn và sử dụng như: tốc độ truyền nhanh hơn, chi phí rẻ hơn. Chưa kể tới khi sử dụng FTTH, khách hàng có thể dùng đường truyền
12
tốc độ lớn và sử dụng nhiều dịch vụ trên một đường truyền duy nhất. Khách hàng vừa tiết kiệm được chi phí cho trang thiết bị vừa được sử dụng những gói cước chất lượng và đường truyền ổn định hơn.
3.2. Kết nối Internet qua cáp truyền hình Kết nối Internet qua cáp truyền hình
Dịch vụ Internet trên truyền hình cáp được cung cấp đường truyền Internet tốc độ cao ngay trên dây cáp truyền hình thông qua một thiết bị Modem chuyên dụng, kết nối qua Router tới máy tính. Vì tích hợp nhiều dịch vụ trên cùng một đường truyền nên giá thành của dịch vụ thấp. Người dùng vừa có thể thoải mái xem các kênh truyền hình cáp vừa truy nhập Internet một cách thuận tiện và đơn giản.
3.3. Kết nối Internet qua bộ phát Wifi di động Thiết bị phát Wifi di động, có chức năng truyền phát Internet đến các thiết bị tương thích xung quanh. Thiết bị này hoạt động ổn định với vùng phủ sóng Wifi, cho phép người dùng kết nối nhiều thiết bị như
13
điện thoại, máy tính bảng và máy tính xách tay với một SIM dữ liệu 3G/4G/5G duy nhất và trực tuyến ở bất cứ nơi đâu.
Kết nối Internet qua bộ phát Wifi di động
Thiết bị phát Wifi di động là một bộ định tuyến hoạt động như một điểm truy nhập Wifi di động. Thiết bị này cần một thẻ SIM cung cấp Internet cho thiết bị kết nối không dây như điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính cá nhân.
Bộ định tuyến di động này chuyển đổi kết nối 3G, 4G hoặc 5G thành tín hiệu Wifi riêng cho các thiết bị khác nhau của người dùng. Do đó, thiết bị hoạt động như một điểm truy nhập Wifi tại nhà, tạo ra trường vô tuyến Wifi khoảng 10-15m. Không cần thiết phải lắp đặt cáp hay phần mềm để sử dụng.
Tất cả những gì người dùng cần làm là lắp thẻ SIM và mở nguồn thiết bị, kết nối 3G/4G/5G của người dùng sẽ được tự động thiết lập và sẵn sàng cho người dùng một trải nghiệm tốt nhất.
14
3.4. Kết nối Internet qua kênh truyền riêng Ở hình thức kết nối này, máy tính hay mạng máy tính của người sử dụng được kết nối trực tiếp tới nhà cung cấp dịch vụ Internet thông qua một kênh thuê riêng do nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cấp. Kết nối Internet qua kênh riêng
Đặc điểm của hình thức này là kết nối luôn thường trực, nghĩa là bạn có thể truy nhập Internet bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, giá thành sử dụng kết nối này rất cao vì bạn phải trả tiền thuê bao theo tháng chứ không phải trả theo dung lượng sử dụng. Hình thức kết nối này thường được những nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến sử dụng.
3.5. Kết nối Internet qua ADSL
ADSL là công nghệ truy nhập bất đối xứng, tốc độ đường xuống lớn hơn tốc độ đường lên. Đặc điểm này rất phù hợp với truy nhập Internet vì người dùng thường lấy thông tin từ Internet xuống nhiều hơn gửi thông tin lên Internet. Người dùng có thể đăng ký dịch vụ này ngay trên đường dây điện thoại sẵn có chứ không nhất thiết phải mắc thêm một đường dây mới. Để sử dụng, người dùng cần có ADSL Modem. Máy tính của người dùng kết nối tới ADSL Modem và Modem này được kết nối với đường dây điện thoại đã đăng ký dịch vụ ADSL.
15
Đặc điểm của phương thức này là kết nối mạng cũng luôn thường trực (sau khi kết nối được tự động thực hiện) nhưng người dùng chỉ phải trả tiền cho thời gian sử dụng Internet. Hiện nay, hầu hết các nhà mạng đã triển khai Internet trên nền tảng cáp quang, giúp cho tốc độ truy nhập Internet được tăng lên rất nhiều.
Kết nối Internet qua ADSL
4. Các dịch vụ trên Internet
Khoản 2, Điều 3, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng quy định:
Dịch vụ Internet là một loại hình dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ truy nhập Internet và dịch vụ kết nối Internet:
a) Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng Internet khả năng truy nhập đến Internet;
b) Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng
16
viễn thông khả năng kết nối với nhau để chuyển tải lưu lượng Internet.
Các dịch vụ trên Internet ngày càng phong phú và luôn được bổ sung, cải tiến không ngừng. Trên Internet hiện nay có một số dịch vụ cơ bản sau:
4.1. Dịch vụ trao đổi thông tin qua các tệp dữ liệu File Transfer Protocol (FTP) - giao thức truyền tệp tin, là cách thức để truyền dữ liệu từ nơi này đến nơi khác qua mạng Internet. Giao thức này thường được sử dụng để tải về hoặc đưa lên Internet các tệp tin có dung lượng lớn.
Không cần quan tâm cách thực hiện của FTP mà chỉ cần hiểu đơn giản là khi khách hàng của bạn nhấp chuột vào một liên kết cho phép tải về tệp tin trong trang web thì trình duyệt sẽ thực hiện các thao tác truyền FTP cho bạn. Điều bạn cần quan tâm là bạn sẽ lưu trữ tệp tin đó ở đâu để có thể tải về bất cứ lúc nào.
Mô hình truyền file
4.2. Đào tạo qua Internet
Đào tạo qua Internet là phương thức học trực tuyến thông qua một máy tính, điện thoại thông minh
17
kết nối mạng với một máy chủ ở nơi khác có lưu trữ sẵn bài giảng điện tử và phần mềm cần thiết để có thể hỏi/yêu cầu/ra đề cho học sinh học trực tuyến từ xa. Giáo viên có thể truyền tải hình ảnh và âm thanh qua đường truyền băng thông rộng hoặc kết nối không dây (Wifi, WiMAX), mạng nội bộ (LAN). Mở rộng ra, các cá nhân hay các tổ chức đều có thể tự lập ra một trường học trực tuyến (e-school) mà nơi đó đào tạo học viên, đóng học phí và có các bài kiểm tra như các trường học trong thực tế.
Lợi ích của đào tạo qua Internet
4.3. Dịch vụ hội nghị truyền hình trực tuyến Công nghệ này cho phép cùng một thời điểm có thể kết nối hai hoặc nhiều địa điểm khác nhau, số người tham dự tại mỗi điểm có thể là hàng chục thậm chí hàng trăm người. Trong cuộc họp, các bên có thể
18
trao đổi, tương tác, chia sẻ dữ liệu. Hội nghị truyền hình trực tuyến thường được sử dụng trong các tổ chức, doanh nghiệp để tổ chức cuộc họp trực tuyến nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình di chuyển.
Nếu như video call là miễn phí thì với hội nghị truyền hình trực tuyến, cần phải đầu tư một khoản chi phí lắp đặt các thiết bị truyền tải dữ liệu hình ảnh và âm thanh như: camera, micro, loa, bộ giải mã...
Hiện nay, các doanh nghiệp thuộc những nước trong Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) có sử dụng các công cụ trực tuyến. Điều này được cho là sẽ nâng cao hiệu quả trong giao tiếp, tương tác với khách hàng.
Máy tính bảng Điện thoại thông minh
Mô hình kết nối hội nghị truyền hình trực tuyến 4.4. Dịch vụ thương mại điện tử
Tại khoản 14, Điều 3, Nghị định số 09/2018/NĐ CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì khái niệm dịch vụ thương mại điện tử được quy định cụ thể như sau:
19
Dịch vụ thương mại điện tử là hoạt động thương mại theo đó bên cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thiết lập website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.
4.5. Dịch vụ truy nhập thông tin từ xa
Dịch vụ truy nhập từ xa cho phép người dùng từ xa có thể truy nhập từ một máy tính thông qua môi trường mạng truyền dẫn đến một mạng riêng giống như máy tính đó được kết nối trực tiếp trong mạng đó. Người dùng từ xa kết nối tới mạng thông qua một máy chủ dịch vụ gọi là máy chủ truy nhập (Access server). Khi đó người dùng từ xa có thể sử dụng tài nguyên trên mạng như một máy tính kết nối trực tiếp trên mạng đó. Dịch vụ truy nhập từ xa cũng tạo lập một kết nối WAN thông qua các mạng phương tiện truyền dẫn giá thành thấp như mạng thoại công cộng. Dịch vụ truy nhập từ xa cũng là cầu nối để một máy tính hay một mạng máy tính kết nối được với Internet với chi phí không cao, phù hợp với các doanh nghiệp, tổ chức với quy mô vừa và nhỏ.
Truy nhập thông tin từ xa
20
4.6. Dịch vụ tìm kiếm thông tin
Một số công cụ tìm kiếm thông tin
Tìm kiếm thông tin đã trở thành một điều cần thiết cho tất cả mọi người dù là ai, ngành nghề gì hoặc nhu cầu cá nhân như thế nào. Nhưng lại có rất ít công cụ tìm kiếm để người dùng lựa chọn. Người dùng luôn luôn tìm một công cụ tìm kiếm an toàn và nhanh chóng, đồng thời có thể đem lại kết quả như ý muốn theo truy vấn tìm kiếm của họ trên trang đầu tiên.
Hầu hết người dùng muốn có một công cụ tìm kiếm duy nhất cung cấp “các kết quả liên quan”, “giao diện dễ dàng sử dụng” và “nhiều tùy chọn để mở rộng hay thu hẹp tìm kiếm”.
4.7. Thư điện tử
Là một phương thức trao đổi tin nhắn giữa những người sử dụng các thiết bị điện tử với nhau. Thư điện tử lần đầu tiên được đưa vào sử dụng hạn chế trong những năm 1960 và đến giữa những năm 1970 có dạng như ngày nay gọi là email. Thư điện tử hoạt động qua các mạng máy tính mà hiện nay chủ yếu là Internet. Một số hệ thống thư điện tử ban đầu yêu cầu người gửi
21
và nhận đều trực tuyến tại cùng một thời điểm, giống với nhắn tin tức thời. Hệ thống thư điện tử ngày nay được dựa trên một mô hình lưu và chuyển tiếp. Các máy chủ thư điện tử chấp nhận, chuyển tiếp, phân phối và lưu tin nhắn. Người dùng cũng như máy tính của họ không bắt buộc đang trực tuyến cùng lúc; họ cần kết nối trong chốc lát, thường là tới một máy chủ thư điện tử hay một giao diện email trên nền web có chức năng gửi hoặc nhận tin nhắn.
Ưu điểm của thư điện tử: chi phí thấp, thời gian chuyển gần như tức thời, một người có thể gửi cùng lúc cho nhiều người khác, có thể gửi kèm tệp dữ liệu...
Quá trình chuyển phát thư truyền thống
Quá trình gửi thư điện tử
22
5. Một số mạng xã hội thông dụng
Những năm gần đây, mạng xã hội (social network) đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tác động lớn đến đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mạng xã hội đã trở thành một thuật ngữ phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép người dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Vai trò tích cực của mạng xã hội là không thể phủ nhận, song cũng phải nhận thấy, các thế lực thù địch và tội phạm mạng đã và đang biến đó thành công cụ đắc lực cho các hoạt động phá hoại tư tưởng, “diễn biến hòa bình” và các hành vi phạm tội khác.
Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng*1các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác1.2
Nhìn từ góc độ văn hóa - xã hội, mạng xã hội là tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân, nhóm cá nhân,
*Mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua mạng viễn thông và mạng máy tính (khoản 2, Điều 3, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015) (BT).
1. Khoản 22, Điều 3, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin mạng.
23
tổ chức trên môi trường Internet. Chính vì thế, mạng xã hội có thể coi là một loại hình cộng đồng, song mang tính chất ảo, bao gồm nhiều cộng đồng trực tuyến khác nhau nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Một số cộng đồng như Facebook, YouTube, Zalo... thu hút một lượng lớn người tham gia, và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.
5.1. Mạng xã hội Facebook
Facebook là một phương tiện truyền thông xã hội và dịch vụ mạng xã hội trực tuyến có tên miền: http://www.facebook.com truy nhập miễn phí thành lập vào năm 2004 thuộc sở hữu của MetaPlat forms do Mark Zuckerberg và cộng sự sáng lập. Người dùng có thể tham gia các mạng lưới được tổ chức theo thành phố, nơi làm việc, trường học và khu vực liên kết, giao tiếp với người khác. Mọi người cũng có thể kết bạn, gửi tin nhắn cho nhau và cập nhật trang hồ sơ cá nhân của mình để thông báo cho bạn bè biết. Tính đến tháng 6/2020, tại Việt Nam đã có hơn 69 triệu tài khoản Facebook, chiếm 2/3 dân số Việt Nam (96,2 triệu người*1- số liệu năm 2019). Trong đó, khoảng 50,7% là nam giới, còn lại 49,3% là nữ giới và giới tính khác1.2
Theo số liệu thống kê tính tới tháng 6/2021 của NapoleonCat (công cụ đo lường các chỉ số Mạng xã hội), tổng số người dùng Facebook tại Việt Nam là
* Theo gso.gov.vn (BT).
1. Xem https://quangcaotructuyen24h.vn.
24
gần 76 triệu người, chiếm hơn 70% dân số toàn quốc, tăng 31 triệu người dùng so với năm 2019 và vẫn dẫn đầu danh sách các mạng xã hội phổ biến tại Việt Nam. Trong đó, độ tuổi phổ biến nhất vẫn là 25 - 34 (khoảng 32% tổng số người dùng) và sự chênh lệch về giới tính là không đáng kể (49,9% người dùng là nam giới và 50,1% người dùng là nữ giới).
Đây là dịch vụ mạng xã hội có tính năng lưu trữ các thông tin dữ liệu, cho phép các thành viên tạo lập tài khoản sau đó khuyến khích họ mời thêm bạn bè tham gia thông qua email, nếu người đó chấp nhận lời mời và xác nhận mối quan hệ với người mời, thì dịch vụ tạo ra một sự kết nối giao tiếp hai chiều. Quá trình kết nối này chính là trung tâm, nòng cốt của mọi mạng xã hội, nhờ đó những nhà kinh doanh có thể quảng cáo sản phẩm của mình đến các cộng đồng dân cư trên Facebook.
Ngoài ra, Facebook còn hỗ trợ đào tạo kiến thức thông tin trực tuyến. Hoạt động đào tạo kiến thức thông tin nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng thông tin cần thiết để khai thác và sử dụng thông tin một cách hiệu quả nhất. Dựa trên việc thiết lập các bảng khảo sát, học sinh có thể chủ động sắp xếp thời gian học tập của mình, dễ dàng học ngay những kiến thức khi có nhu cầu. Thông qua sự tương tác, học sinh sẽ thu nhận kiến thức, trao đổi, góp ý về các hoạt động của trường, lớp.
25
Cùng với các công cụ và đặc tính tương tác cao, Facebook đã tạo ra một không gian đa dạng với nhiều hình thức lôi cuốn như các bài tập trực tuyến, bài kiểm tra trắc nghiệm, trò chơi, hỏi đáp, tin nhắn nhắc nhở học sinh, thông báo về thông tin, lịch học... của các lớp học kiến thức và các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu của học sinh.
5.2. Mạng xã hội Zing Me
Zing Me là mạng xã hội do Công ty cổ phần VNG, một tập đoàn có tiếng vang lớn trong việc sản xuất các tựa game như: Võ lâm truyền kỳ, Khu vườn trên mây, Happy City… Đây được xem là mạng xã hội mở đầu cho kỷ nguyên số tại Việt Nam. Trên thực tế, có những thời điểm Zing Me đã vượt Facebook về lượng người sử dụng, cụ thể ngày 23/9/2009 mạng xã hội này có 945.000 người dùng, trong khi số người sử dụng Facebook lúc đó là 918.000 người. Hay trong tháng 3/2011, số liệu từ Google Ad Planner cũng cho thấy Zing Me đã đạt 6,8 triệu khách truy cập, trong khi đó con số của Facebook là 3,1 triệu khách truy cập. Tuy nhiên, đến năm 2012, Facebook đã vươn lên mạnh mẽ ở thị trường trong nước và đến tháng 12/2012, Vicenzo Cosenza, chuyên gia về chiến lược truyền thông mạng của Italia đã công bố Bản đồ mạng xã hội toàn cầu (World Map of Social Network) cho thấy, Facebook đã vượt qua Zing Me tại Việt Nam. Và từ năm 2013 trở đi, Facebook đã tăng trưởng với tốc độ “chóng mặt” tại Việt Nam, trong khi đó Zing Me lại
26
đi xuống liên tục, VNG cũng thừa nhận thất bại trong cuộc cạnh tranh với người khổng lồ này và họ đã chuyển sang tập trung vào cuộc chiến ứng dụng OTT trên di động với sản phẩm Zalo. Zing Me thực tế hiện chủ yếu dùng để làm kênh phân phối ứng dụng và game là chính1.
Với các tính năng như giải trí, kết bạn, tìm kiếm bạn bè và chia sẻ thông tin, các sản phẩm được xây dựng để phục vụ duy nhất cho thị trường Việt Nam và người Việt Nam. Giao diện bằng tiếng Việt, các ứng dụng Việt như blog, âm nhạc,... với hình ảnh gần gũi, tích hợp đầy đủ các dịch vụ cần thiết như mp3, mail, tin tức, giải trí, blog,... tiện dụng. Phiên bản mạng xã hội trên điện thoại di động/sms giúp người dùng có thể chia sẻ thông tin và kết nối mọi lúc, mọi nơi.
5.3. Mạng xã hội Zalo
Zalo là một dịch vụ OTT (viết tắt của over the top - là thuật ngữ chỉ những dữ liệu được cung cấp trên nền tảng Internet nhưng không một nhà cung cấp mạng hay bất kỳ tổ chức nào có thể can thiệp tới). Zalo từng lọt danh sách ứng dụng được nhiều người tải về nhất. Cũng như Facebook, Zalo cho phép người dùng có thể nhắn tin, gọi điện trò chuyện cùng bạn bè miễn phí ở bất cứ nơi đâu trong điều kiện có kết nối Internet. Đặc biệt ứng dụng này do người Việt Nam tạo ra và được phát triển bởi Vinagame.
1. Xem https://hca.org.vn/post/540.
27
Ứng dụng Zalo xuất hiện trên thị trường vào ngày 08/8/2012 và đến tháng 12/2012 thì ứng dụng nhắn tin thuần Việt này bắt đầu hoạt động ổn định và phổ biến tại thị trường Việt Nam và được tích hợp đầy đủ các tính năng để người dùng trải nghiệm như:
- Truy nhập từ máy tính và mobile: dù sử dụng trên máy tính hay điện thoại, người dùng đều có thể dễ dàng tải về và sử dụng Zalo ở mọi lúc, mọi nơi.
- Gửi tin nhắn video: người dùng có thể gửi tin nhắn hoặc video đến người khác trong thời gian rất ngắn. - "Quét bạn ở gần": tính năng này vô cùng đặc biệt, rất ít ứng dụng được tích hợp tính năng này. Khi người dùng muốn tìm kiếm để kết nối với người khác thì có thể sử dụng tính năng này.
- Chia sẻ địa điểm: tính năng này cho phép người dùng có thể chia sẻ địa điểm hiện tại của mình cho bạn bè trong khi chat.
- Nhắn tin bằng giọng nói: ngoài tin nhắn bằng văn bản, Zalo còn hỗ trợ gửi tin nhắn thoại. Thời lượng của tin nhắn thoại kéo dài đến 5 phút/tin.
- Gửi tin nhắn Real-Time: người dùng sẽ thấy được thông báo trạng thái tin nhắn đã nhận và gửi. Tính năng nhắn tin siêu tốc cũng hoàn toàn miễn phí.
- Trò chuyện nhóm: với những nhóm bạn bè hoặc trường học thì có thể tạo cuộc trò chuyện nhóm trong Zalo để chia sẻ thông tin.
- Giải trí: chơi game vẽ hình đoán chữ trí tuệ, “thách đấu” với bạn bè qua nhiều tựa game, mua bán
28
trực tuyến trên Zalo như những trang thương mại điện tử.
5.4. Mạng xã hội Instagram
Instagram là một mạng xã hội chuyên chia sẻ hình ảnh và video nên được thiết kế trên cơ sở sáng tạo ra những hình ảnh đẹp và thu hút người xem. Đồng thời, mạng xã hội này cũng cung cấp rất nhiều chế độ chỉnh sửa hình ảnh và video khác nhau tùy theo sở thích của người dùng. Theo thống kê của Instagram, có hơn 60% người dùng đăng nhập Instagram hằng ngày, 69% người dùng Instagram trẻ hơn 35 tuổi, các Instagramer “thích” hơn 4 tỷ bài đăng mỗi ngày.
Ứng dụng Instagram có tính năng chia sẻ hình ảnh và video miễn phí trên Apple iOS, Android và Windows Phone. Chúng ta có thể đăng tải hình ảnh hoặc video lên dịch vụ, chia sẻ với đối tượng và phạm vi chia sẻ tùy thuộc vào người đăng tải (người dùng); đồng thời, có thể giới hạn các tính năng tương tác của người xem. Theo thống kê, Instagram có hơn 1 tỷ người dùng hoạt động hằng tháng, 500 triệu người dùng hoạt động hằng ngày.
II. VAI TRÒ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA INTERNET ĐỐI VỚI HỌC SINH
1. Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi học sinh
1.1. Lứa tuổi học sinh tiểu học
Học sinh bậc tiểu học là trẻ em nằm trong độ tuổi 6 - 11 rất hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Mỗi em
29
đều tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện cũng như các hoạt động xã hội để đạt đến một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình.
Trong sáu năm đầu đời, các em tìm hiểu môi trường xung quanh qua bản năng và các giác quan. Ở giai đoạn tiếp theo, lứa tuổi 6-11 sẽ tiếp cận thế giới thông qua lý trí và suy nghĩ. Do đó, đây là độ tuổi của những câu hỏi, trẻ có vô số câu hỏi đặt ra cho người lớn và cần câu trả lời hợp lý, không phải lấp liếm hay qua loa.
Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về sinh lý, tâm lý, từng bước gia nhập xã hội với mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội để có thể nhận thức được những trò chơi, thông tin, hành vi mang tính chất xấu xuất hiện trên Internet.
Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan - hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn là trí nhớ từ ngữ - lôgích. Tư duy của học sinh độ tuổi này là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Chính vì vậy, khi sử dụng Internet (bao gồm các trò chơi điện tử, phim hoạt hình, hình ảnh...), rất có thể những mảng ghép về các hiện tượng xấu, chưa phù hợp với lứa tuổi sẽ được các em chụp lại, ghi nhớ và bắt chước theo một cách tự nhiên.
30
1.2. Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, từ lớp 6 đến lớp 9, có độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn mà chúng ta thường được nghe dưới các tên gọi như: “tuổi dậy thì”, “tuổi nổi loạn”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”... Đây là thời kỳ đánh dấu sự thay đổi của hàng loạt các yếu tố tâm, sinh lý ở học sinh, với sự phát triển mạnh mẽ về chiều cao và thể lực, sự thay đổi về tỷ lệ cơ thể, các hormone sinh dục, sự phát triển năng lực nhận thức, tư duy và khả năng hình thành các mối quan hệ giao tiếp xã hội. Đây cũng là giai đoạn khiến cho không ít bậc phụ huynh đau đầu trước sự “khó bảo” của các con, thậm chí nhiều phụ huynh trở nên bất lực trước những thay đổi quá đột ngột về tính cách, sở thích ở con mình. Theo thống kê, có tới 30% số học sinh trung học cơ sở tham gia khảo sát cho rằng cha mẹ chưa hiểu nhu cầu và mong muốn của mình, 40% nghĩ rằng hay bị cha mẹ áp đặt và 50% cảm thấy ngại ngùng khi kể chuyện riêng cho cha mẹ nghe.
Khi bị áp đặt, chỉ 33% làm theo, số còn lại thường lựa chọn cách tâm sự với bạn bè (24%), đặc biệt là nữ (29%) hoặc nghe nhạc để quên. Tuy nhiên, cũng nhiều bạn có biểu hiện phản ứng lại và không làm theo, trừ khi bị ép buộc (24%), tỏ rõ thái độ và không trả lời (15%) hoặc thậm chí cãi lại.
Theo lẽ thường, khi gặp vấn đề khó khăn, nhạy cảm, người mà trẻ ở độ tuổi mới lớn nên/muốnchia sẻ, tâm sự
31
nhiều nhất là cha mẹ, người thân. Nhưng những năm gần đây, khi tiếp xúc với Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng, thì người được các em lựa chọn chia sẻ lại là bạn bè, thậm chí chỉ là những người các em quen biết trên Internet.
Đặc biệt, đây là độ tuổi dậy thì phổ biến: 12 tuổi (nữ), 13 tuổi (nam) và gần 50% các em chưa được hướng dẫn về giới tính. Trẻ em trong lứa tuổi này thường tìm hiểu thông tin về cơ thể, tâm sinh lý chủ yếu qua cha mẹ (66%), Internet (63%) và bạn bè (41%). Khoảng 15% các em tuổi teen nói có người yêu, trong đó gần 40% không cho cha mẹ biết, một số khác (13%) cho rằng cha mẹ không quan tâm đến việc các em có người yêu hay không.
1.3. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông Học sinh trung học phổ thông, từ lớp 10 đến lớp 12, có độ tuổi đi học chuẩn là từ 16 đến 18 tuổi, tuy nhiên, một số trường hợp đi học sớm hoặc muộn tùy thuộc từng hoàn cảnh. Học tập vẫn là hoạt động chủ yếu của học sinh ở lứa tuổi này nhưng có yêu cầu cao hơn về tính tích cực và tư duy độc lập của các em. Đây là độ tuổi rất nhanh nhạy với những điều mới mẻ. Đồng thời, các em mong muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Khi giao tiếp trong nhóm bạn
32
sẽ xảy ra hiện tượng phân cực, có những người được yêu mến và có những người ít được yêu mến. Điều đó làm cho các em phải suy nghĩ về nhân cách và tìm cách điều chỉnh bản thân. Đặc biệt, ở độ tuổi này, khi học sinh phải chịu nhiều áp lực từ việc học tập thì lại ít nhận được sự chia sẻ từ phụ huynh, do phần lớn phụ huynh cũng phải đối mặt với các áp lực từ công việc, cuộc sống. Thực trạng này khiến sự tương tác với cha mẹ của học sinh trong độ tuổi bậc học trung học phổ thông bị hạn chế, thậm chí cá biệt có hiện tượng các em không thích gần gũi, giao tiếp nhiều với cha mẹ. Chính những đặc điểm tâm sinh lý trên đã góp phần dẫn tới tình trạng các em tiếp cận nhanh hơn với mạng Internet và sử dụng với những mục đích khác nhau.
2. Vai trò của Internet đối với học sinh
Internet là công cụ tiện lợi nhất để truyền tải lượng thông tin lớn với tốc độ nhanh đến hàng triệu người trên toàn thế giới; là một kho chứa đựng kiến thức khổng lồ. Chỉ cần một bộ máy tính được kết nối Internet, mọi người đều có thể tìm kiếm những thông tin theo nhu cầu cá nhân. Lượng thông tin mà Internet cung cấp là không giới hạn. Thông qua Internet, thông tin được cập nhật hằng giờ, hằng ngày, mọi người đều có thể biết được những gì đang xảy ra xung quanh mình và trên thế giới. Với mạng phủ sóng rộng trên toàn cầu, mọi người đều có thể sử dụng Internet để truy nhập thông tin. Tốc độ truy nhập thông tin
33
trên Internet rất nhanh, với sự hỗ trợ của những công cụ tìm kiếm như Google,... mọi người có thể tìm kiếm thông tin chỉ trong vài giây. Chỉ cần gõ từ khóa về vấn đề cần tìm thì hàng loạt thông tin liên quan đến vấn đề đó sẽ được sàng lọc và thống kê, hiển thị.
Internet giúp mọi người có thể mở rộng các mối quan hệ bạn bè trên khắp thế giới một cách nhanh chóng thông qua các dịch vụ như chat, email, các mạng xã hội. Mọi người có thể cùng nhau trò chuyện, trao đổi thông tin, kinh nghiệm trên các diễn đàn, chia sẻ thông tin, cảm xúc trên blog. Mọi người dù có cách nhau nửa vòng trái đất cũng vẫn có thể trò chuyện, nhìn thấy nhau như đang nói chuyện trực tiếp, khiến khoảng cách như được thu hẹp lại, mọi người trở nên gần gũi, thân thiện hơn và có thể kết bạn với nhiều người hơn, đặc biệt là với người nước ngoài.
Nhờ Internet, mọi người không chỉ nghe, tiếp nhận thông tin mà còn có thể bày tỏ và bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình về mọi lĩnh vực thông qua mục gửi ý kiến phản hồi trên các bài viết.
Internet cũng giúp cho mọi người học tập tốt hơn thông qua hình thức học trực tuyến, đặc biệt là việc học ngoại ngữ hay tìm kiếm và tải các tài liệu học tập từ trên mạng.
Internet là một trong những phát minh tuyệt vời nhất, mang đến cho người dùng quyền truy nhập ngay lập tức với nguồn kiến thức và giải trí vô tận,
34
là nơi mọi người có thể thỏa sức sáng tạo. Dưới đây là những lợi ích của Internet đối với cuộc sống của chúng ta:
2.1. Tiếp nhận thông tin, kiến thức cho việc học tập Internet chứa đựng một kho kiến thức khổng lồ để học sinh có thể tìm kiếm những thông tin phục vụ cho việc học tập. Nhắc đến những tác động tích cực của Internet, không thể bỏ qua vai trò tìm kiếm thông tin. Những trang web tìm kiếm thông tin trên Internet như Google, Bing... có thể cung cấp cho người học bất kỳ thông tin nào mà họ cần tra cứu, tìm kiếm. Điều này đem đến cho học sinh sự thuận lợi tuyệt vời trong việc tìm kiếm những tài liệu thích hợp, bài giảng, hướng dẫn giải bài tập, hình ảnh và thông tin giúp học sinh có
thể cập nhật những kiến thức mới mẻ, học tập tốt hơn. 2.2. Kết nối, giao tiếp và chia sẻ
Nếu như trước đây, phải mất rất nhiều ngày, thậm chí cả tháng để nhận được thư tay từ người khác, thì ngày nay, với sự phát triển của Internet mọi chuyện đã trở nên dễ dàng hơn. Người dùng có thể gửi email cho bất kỳ ai với thời gian vô cùng nhanh. Các hình thức giao tiếp khác, như trò chuyện và VoIP*,1cũng cho phép người dùng giao tiếp tức thì
1* VoIP (viết tắt của Voice over Internet Protocol, nghĩa là truyền giọng nói trên giao thức IP) là công nghệ tiếng nói của con người (thoại) qua mạng máy tính sử dụng bộ giao thức TCP/IP. Nó sử dụng các gói dữ liệu IP (trên mạng LAN, WAN, Internet) với thông tin được truyền tải là mã hóa của âm thanh (BT).
35
với bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu. Chính vì vậy, học sinh có thể kết nối với giáo viên, bạn bè thông qua các lớp học trực tuyến.
2.3. Nâng cao kỹ năng sống và hiểu biết cho học sinh Hiện nay, ngày càng nhiều các website, mạng xã hội cung cấp một lượng lớn kiến thức về cuộc sống, học tập. Qua đó hình thành các hội nhóm chia sẻ kiến thức, ví dụ về nhóm “Luyện tiếng Anh mỗi ngày”, “Luyện thi trung học phổ thông quốc gia”,... Ngoài kiến thức về học tập, thì những kiến thức về nấu ăn, kỹ năng giao tiếp, chia sẻ cảm xúc, tâm lý, sức khoẻ, thể thao, sửa chữa, đồ dùng... cũng xuất hiện rất nhiều trên các trang mạng xã hội. Thông qua đó học sinh có thể tích lũy được rất nhiều kiến thức cần thiết trong cuộc sống.
Thông tin hữu ích trên Internet
36
2.4. Tránh được nhiều hiểm họa trong cuộc sống Mạng xã hội là nơi để mọi người cập nhật, chia sẻ tất cả những tin tức, hình ảnh, sự việc, hiện tượng, vì vậy mọi tin tức diễn ra hằng ngày người dùng có thể theo dõi. Trong đó những tin tức về tệ nạn xã hội, xâm hại tình dục, lừa đảo, lợi dụng sự cả tin ở lứa tuổi học sinh cũng được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội. Nhờ vậy nhà trường, phụ huynh, học sinh đều được cảnh báo trước về những hiểm họa có thể xảy ra, giúp nâng cao được tinh thần cảnh giác.
Mạng xã hội giúp người dùng nắm bắt và đưa ra những quyết định đúng đắn
3. Tác động tiêu cực của Internet đối với học sinh
Internet là một công cụ hữu ích trong thời đại công nghệ hiện nay. Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn nhiều
37
khía cạnh tiêu cực nếu bị lạm dụng và có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khôn lường, đặc biệt là với học sinh. Dưới đây là một số tác động tiêu cực của Internet đối với học sinh:
3.1. Gây nghiện, ảnh hưởng đến đời sống thực tế Sinh động, mới mẻ và hấp dẫn đó là những gì mà Internet đã mang đến cho đời sống con người. Tuy nhiên, cũng giống như các thành tựu khoa học kỹ thuật khác, Internet đang bị lạm dụng và gây ra nhiều tác hại.
Hiện tượng nhiều học sinh "nghiện" các chương trình, trò chơi trực tuyến mà bỏ bê công việc, học tập không còn xa lạ. Nó đã gây ra nhiều tác hại đến cuộc sống của các em như bị ảo tưởng bởi các trò chơi có nội dung bạo lực, không lành mạnh, cho rằng cuộc sống ngoài đời thực là những gì đang diễn ra trong trò chơi, không phân biệt được thế giới thực và thế giới ảo, căng thẳng, hồi hộp với các trò chơi trực tuyến, thậm chí là tham gia vào các game cờ bạc bất cứ lúc nào rảnh rỗi, đến mức quên ăn, quên ngủ... Hiện tượng này đang dần trở thành một tệ nạn xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là hiện tượng các trang web đen, clip, hình ảnh phản cảm, không trong sáng, lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều trên mạng xã hội và có lượng người truy nhập ngày càng nhiều với tốc độ lan truyền rất nhanh.
Số lượng học sinh và các bạn trẻ biết sử dụng Internet sao cho hiệu quả nhất cũng chỉ chiếm số ít.
38
Có những bạn sử dụng máy tính liên tục trong thời gian dài không kiểm soát được thời gian sử dụng Internet. Thậm chí là nhiều học sinh và các bạn trẻ có thể dễ dàng “kết bạn”, dễ dàng yêu đương và cũng dễ dàng bị mắc bẫy. Đã có hàng trăm câu chuyện bị “lừa tình”, “lừa tiền” qua mạng xã hội. Đó là những cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với những người ảo tưởng mù quáng với thông tin chỉ có được qua mạng xã hội mà chưa được kiểm chứng, xác thực.
Việc sử dụng Internet thiếu khoa học, bị lạm dụng đang lấy đi sức lực, thời gian và trước hết là sự vô tư, trong sáng của tuổi trẻ, khiến học sinh không dành nhiều thời gian cho việc học hành, hoạt động ngoại khóa bổ ích, hiển nhiên sẽ dẫn đến việc không có cả thời gian cho gia đình, người thân.
3.2. Ảnh hưởng đến sức khỏe học sinh
Việc quá lạm dụng Internet trong giải trí cũng dễ dẫn đến những ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe của người dùng, học sinh. Hiện nay, tuy chưa có những báo cáo chính thức của các cơ quan chức năng về ảnh hưởng của Internet đến sức khỏe của học sinh, nhưng trên thực tế đã ghi nhận được một số trường hợp thanh thiếu niên có những hiện tượng bệnh lý có liên quan đến Internet.
Theo báo tuoitre.vn rất nhiều học sinh cũng thừa nhận rằng, Internet có nhiều tác động tiêu cực đến cuộc sống của các em. Theo một kết quả thống kê: “Có đến 62,65% sinh viên cho rằng Internet chiếm mất
39
thời gian để làm việc khác. Nhiều bạn cho rằng mình bị mệt mỏi, kết quả học tập giảm sút, mâu thuẫn với bạn bè, bỏ học vì thức quá khuya. Thậm chí có bạn còn cho rằng mình bị lừa tình, tính cách bạo lực hơn sau thời gian dài sử dụng Internet”1.
Trên lý thuyết thì công nghệ không phải là “chất” trực tiếp gây tổn hại đến vấn đề sức khỏe ở học sinh, nhưng sử dụng quá mức và tập trung quá nhiều vào các thiết bị này có thể dẫn đến thói quen không lành mạnh, không chỉ ảnh hưởng đến thể chất mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của học sinh cũng như các bạn trẻ.
Tác hại của công nghệ đến sức khỏe
Theo một nghiên cứu gần đây thì thời gian ngồi trước màn hình thiết bị điện tử tỷ lệ thuận với bệnh
1. Xem https://tuoitre.vn/dung-internet-cang-nhieu-hoc-cang kem-581786.htm.
40
béo phì: trẻ em dành nhiều thời gian xem truyền hình, chơi game, sử dụng máy tính liên tục, ít dành thời gian tập thể dục thể thao, có xu hướng thích ăn đồ ăn nhẹ, đồ ăn nhanh nhiều chất béo sẽ làm các chất béo tích tụ trong cơ thể và sẽ dẫn đến bệnh béo phì. Béo phì có thể dẫn đến các bệnh như tự ti, trầm cảm, tiểu đường và các bệnh này không những tốn kém trong điều trị mà còn hết sức nguy hiểm khi tuổi đời của các em còn quá nhỏ.
3.3. Ảnh hưởng đến ý thức, nhận thức và tư duy Một trong những tác động tiêu cực của Internet đối với học sinh đó là lười suy nghĩ, tư duy. Sống trong thời đại Internet, các em có thể dễ dàng truy nhập trực tuyến và tìm kiếm bất cứ điều gì mình muốn, từ các video âm nhạc, chương trình truyền hình yêu thích đến các câu trả lời khó ở bài tập về nhà.
Internet giúp học sinh không phải chờ đợi và cho kết quả ngay lập tức mà không cần mất công nghiên cứu. Lâu dần học sinh sẽ ỷ lại vào Internet mà không chịu động não suy nghĩ dẫn đến không hiểu sâu rộng các vấn đề được học, thiếu kiên nhẫn khi tư duy dựa dẫm vào những cái đã có sẵn thông qua mạng Internet,... đây là một điều không tốt đối với học sinh đang trong độ tuổi dần phát triển để trở thành người lớn.
Dành nhiều thời gian cho các thiết bị công nghệ có thể lấy đi sự bổ ích từ các hoạt động khác như học tập, tập thể dục thể thao hoặc các hoạt động đội nhóm nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp xã hội.
41
Bên cạnh đó, nếu quá lạm dụng Internet trong giải trí thì ngoài ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dùng, việc thường xuyên chơi game trực tuyến - loại hình giải trí thu hút rất đông người tham gia, đặc biệt là khi chơi thường xuyên trong thời gian dài giới trẻ sẽ dễ dẫn đến việc nghiện game, các em sẽ trở thành “con nghiện” quên cuộc sống thực tế, sa đà vào cuộc sống ảo và tìm mọi cách để thỏa mãn cơn nghiện của mình ngay cả khi phải thực hiện những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, người sử dụng mạng xã hội càng nhiều thì càng cảm thấy tiêu cực hơn, thậm chí dễ dẫn đến trầm cảm hơn.
3.4. Ảnh hưởng đến kết quả học tập, sự phát triển thể chất
Kết quả của một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy, những học sinh truy nhập Internet càng nhiều, kết quả học tập càng kém. Cụ thể có học lực giỏi, xuất sắc có số giờ truy nhập bình quân 17,6 giờ/tuần. Trong khi những sinh viên học yếu, kém có số giờ truy nhập Internet bình quân đến 31,9 giờ/tuần.
Một nền giáo dục toàn diện cần bảo đảm sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần cho học sinh. Thời lượng dành để truy nhập Internet nhiều liên tục sẽ ức chế sự phát triển thể chất của học sinh cả ở vùng nông thôn và thành thị.
42
3.5. Nạn bắt nạt, xâm hại quyền riêng tư trên mạng Quyền riêng tư trên Internet
Theo sách trắng Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2020: năm 2019 Việt Nam có hơn 66,2 triệu người dùng Internet, chiếm 68,7% dân số. Khi tham gia vào môi trường mạng, không chỉ người dùng nói chung mà đặc biệt là học sinh có nhiều lợi ích nhưng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro. Điều này thể hiện ở thực trạng mỗi ngày có tới hơn 720.000 hình ảnh xâm hại trẻ em được đưa lên mạng, hầu hết về bạo lực, xâm hại tình dục.
Cứ 4 trẻ em được hỏi thì có 1 em chia sẻ từng có trải nghiệm đau buồn khi sử dụng mạng xã hội; 1/3 từng là nạn nhân bị bắt nạt trên mạng xã hội. Trẻ em gái bị bắt nạt trên môi trường mạng cao gấp 3 lần trẻ em trai.
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý phát triển bền vững (MSD) và Tổ chức cứu trợ trẻ em quốc tế cũng chỉ ra, xâm hại trẻ em trên môi trường mạng đang là vấn đề đáng báo động. Năm 2018, Việt Nam có 706.435 vụ báo cáo về hình ảnh, video xâm hại tình dục trẻ em trên mạng, đứng thứ 2 trong khu vực
43
ASEAN, sau Inđônêxia. Theo các chuyên gia, bắt nạt trẻ em trên môi trường mạng để lại di chứng đặc biệt nặng nề hơn so với bắt nạt học đường.
Các hành vi xâm hại trẻ em, học sinh trên môi trường mạng đáng phải lưu ý như: kẻ xấu thực hiện những hành vi xâm hại tình dục bằng nhiều hình thức (lập phòng chat ảo, thiết lập hoặc tham gia các trang web, diễn đàn gạ gẫm, tán tỉnh, làm quen, lôi kéo trẻ em tham gia vào các quan hệ tình dục trực tiếp hoặc không trực tiếp; yêu cầu trẻ em phô bày các bộ phận kín trên cơ thể rồi phát livestream, thu thập hình ảnh về cơ thể trẻ em và sử dụng nhằm xâm hại tình dục...). Không chỉ vậy, các em cũng có nguy cơ tiếp xúc với những video, hình ảnh khiêu dâm hay những thông tin sai lệch; không ít trẻ em vô tình tiết lộ thông tin cá nhân, bị dọa nạt, tống tiền, ép quan hệ tình dục, tham gia các hoạt động phi pháp, thậm chí có em phải đối mặt với nguy cơ bị bắt cóc, buôn bán người...
3.6. Ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ trong gia đình Hầu hết các bậc cha mẹ hiện nay có ít thời gian dành cho con cái của họ, do áp lực về thời gian làm việc nên ít có thời gian để trò chuyện hay chơi với con. Vì vậy, vào cuối ngày, các bạn học sinh thường thoải mái chơi game, xem truyền hình, chat với bạn bè trên Facebook, truy nhập những trang web có nội dung không lành mạnh trong khi bố mẹ đang bận với công việc gia đình. Dần dần, chúng cảm thấy không thể thiếu và rời xa được những thói quen này, cảm giác
44
gần gũi, trò chuyện với bố mẹ sẽ dần mất đi. Đến lúc đó, học sinh sẽ thụ động, thậm chí việc khiến trẻ nghe lời trở thành một điều rất khó khăn đối với bất kỳ bậc phụ huynh nào.
Ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ trong gia đình
4. Tác động của Internet đến nhận thức và hành vi giới tính, tình dục ở lứa tuổi học sinh
Internet đang trở thành công cụ vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Hiếm có một phạm vi công việc nào hiện nay mà không liên quan đến công nghệ thông tin và Internet. Cùng với vai trò ngày càng tăng lên của Internet thì số lượng người dùng Internet cũng ngày càng đông đảo. Tính đến quý III năm 2019, có hơn 4,33 tỷ người dùng Internet đang hoạt động (Datareportal, 2019), tăng 327 triệu người so với quý III năm 2018. Mức tăng trưởng người dùng Internet trên toàn thế giới là 8,2%/năm gấp 8 lần mức tăng dân số.
Theo một khảo sát đã đưa ra con số về dân số toàn cầu là 7,74 tỷ người, trong đó tỷ lệ truy nhập Internet
45
khoảng 56%. Nói cách khác, hơn một nửa dân số trên toàn thế giới là những người dùng Internet tích cực. Xem video là hoạt động phổ biến nhất được thực hiện bởi người dùng Internet: 9/10 người dùng Internet xem video trực tuyến. Tiếp theo là nghe nhạc trực tuyến (70%), xem vlog (51%), nghe radio trực tuyến (47%) và nghe podcast (39%)... Số lượng người dùng Internet ở Việt Nam năm 2020 là 68,17 triệu người, tăng 6,2 triệu người so với năm 2019 (tương đương mức tăng 10%); hơn 145 triệu thiết bị di động được kết nối với Internet, bình quân mỗi người dùng 2,1 thiết bị di động. Tại Việt Nam, theo kết quả Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên (trong độ tuổi 14-25) do Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam phối hợp thực hiện thì thế hệ thanh thiếu niên hiện nay là thế hệ đầu tiên được tiếp cận với Internet một cách rộng rãi. Nghiên cứu đã thực hiện cho thấy, sự gia tăng về số lượng thanh niên sử dụng Internet do giá truy nhập giảm mạnh (3.000 đồng/giờ tương đương 0,15 USD/giờ). Báo cáo nghiên cứu cho rằng, khoảng 50,3% thanh niên ở thành phố và 13,7% thanh niên ở nông thôn đã sử dụng Internet. Phần lớn thanh thiếu niên trong nghiên cứu này (69%) cho thấy họ sử dụng Internet để trò chuyện và 62% để chơi trò chơi trực tuyến.
Do Internet có mặt rộng rãi ở Việt Nam nên những hiểu biết về sự ảnh hưởng của Internet đối với vấn đề tình dục của thanh thiếu niên rất có giá trị
46
trong việc phát triển các chương trình giáo dục giới tính một cách hiệu quả. Một nghiên cứu của Thomas (2004) đã xác định, Internet là một không gian mới ở Việt Nam, nơi mà nữ thanh niên có thể trao đổi khá thoải mái. Các nghiên cứu khác về tình dục và Internet đã tìm hiểu một loạt các vấn đề ví dụ như Cấu trúc nhận dạng tình dục (Mc Kenna và cuộc sống, 2001); Cộng đồng tình dục trực tuyến (Brurke, 2000); Tình dục trên mạng (Ross và cuộc sống, 2005); Hẹn hò qua mạng (Davis và cuộc sống, 2006a, 2006b). Ross đã ghi nhận rằng, phương tiện giao tiếp điện tử này đã tạo ra một bình diện mới cho sự gần gũi nhờ khả năng cho phép liên lạc, giao tiếp vượt qua những khoảng cách lớn về không gian và tương tác tình dục không còn bị bó buộc bởi các thể thức giao tiếp xã hội trong tương tác mặt đối mặt. Internet ảnh hưởng đến tình dục của con người qua một số cơ chế: cho phép thực hiện tình dục ảo, mở rộng khả năng về mạng lưới liên lạc (và số lần liên lạc); hỗ trợ việc sử dụng nhiều danh tính. Những cách thức mới nảy sinh trong môi trường trực tuyến này đã làm thay đổi cơ bản các mối quan hệ và nhận dạng tình dục thông qua ưu thế giao tiếp bằng ngôn ngữ viết và do vậy đã làm giảm đi một số lo lắng tâm lý xã hội mà nhiều người gặp phải trong các mối quan hệ gần gũi (Sprolull và Kiesler, 2001; Ross và cuộc sống, 2005).
Internet cũng được biết đến là một nguồn dữ liệu mà thanh thiếu niên sử dụng rộng rãi để tìm kiếm
47
thông tin về sức khỏe giới tính và tình dục (Kanuga và Rosenfeld, 2004; Clement và Brennan, 2005). Tại Việt Nam, phụ huynh và thầy, cô giáo thường không cởi mở trong việc thảo luận về chủ đề tình dục nên tính ẩn danh, bí mật của Internet tạo ra một lựa chọn mới về nguồn thông tin hấp dẫn, thuận tiện liên quan đến nhận thức và thực hành tình dục (Mc Kenna và cuộc sống, 2005).
Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng trong cuộc đời vì khi đó các cá nhân bắt đầu thực sự tham gia vào xây dựng nhận thức tình dục của bản thân một cách chủ động và có ý thức. Nghiên cứu của Ngô Anh Đức và cuộc sống (2009) cho thấy, tại Việt Nam Internet trở thành nguồn thông tin thiết yếu để tìm kiếm thông tin về nhận dạng và thực hành tình dục; là một phương tiện tương tác trong thể hiện tình dục và các mối quan hệ thân mật, tình cảm. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng thanh thiếu niên Việt Nam sử dụng Internet để sưu tầm những hình ảnh và ý nghĩa tình dục mới, sau đó tổng hợp thành thực hành và nhận dạng của chính họ. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng, những kịch bản hay cách thức thể hiện tình dục mới trong giao tiếp qua Internet đang nổi lên. Việc tương tác nhóm trực tuyến để trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trong quan hệ tình dục đã dẫn đến sự phát triển mang tính tập thể các mẫu hình tình dục mới trên Internet. Thay vì đơn giản du nhập tất cả các giá trị, thực hành và nhận dạng tình dục của phương Tây,
48
giới trẻ Việt Nam đã tham gia vào quá trình “mở rộng văn hóa” nơi mà họ “định hình lại đất nước của mình cùng các giá trị của nó trong bối cảnh toàn cầu”.
Học sinh trong độ tuổi thanh thiếu niên ở nghiên cứu này đã mô tả cách họ sử dụng Internet để bổ sung những kiến thức tình dục, tìm hiểu những vấn đề mà nguồn thông tin truyền thống ít cung cấp hoặc đáng nghi ngờ. Việc chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về tình dục thông qua trò chuyện trên mạng hay diễn đàn thảo luận trực tuyến là một phương tiện để nâng cao vị thế, quyền lực trong các mối quan hệ xã hội. Các bạn nam thể hiện năng lực và kiến thức trong vấn đề tình dục sẽ có được vị trí cao hơn so với các bạn nam cùng lứa, nhưng các bạn nữ có thể nhìn những bạn nam có quá nhiều kiến thức hoặc kinh nghiệm tình dục như là mối nguy cơ đối với các mối quan hệ yêu đương lãng mạn trong tương lai. Nghiên cứu cho thấy, một vài bạn trẻ trong nghiên cứu đã thể hiện sự bất mãn với chuẩn mực kép về thế giới quan hệ tình dục trước hôn nhân và trinh tiết, nhưng nghiên cứu cũng tìm ra một số bằng chứng về các trao đổi và thảo luận của các bạn trẻ liên quan đến vấn đề này hoặc những vấn đề gây tranh cãi khác.
Nghiên cứu cho rằng, thay vì cố gắng hạn chế sự tiếp cận thông tin từ Internet, chúng ta nên có các nỗ lực tổng thể để mở rộng giáo dục tình dục, đưa các vấn đề trao đổi liên quan vào giáo dục tình dục, dạy các em đánh giá thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và
49
phản ứng một cách phù hợp với các điều kiện xã hội, nơi xảy ra quan hệ tình dục. Tuy nhiên, với ngành giáo dục và các bậc phụ huynh, việc sử dụng Internet để giáo dục giới tính và tình dục còn rất hạn chế. Nghiên cứu cho thấy, ở Việt Nam việc giáo dục giới tính, tình dục cho học sinh vẫn còn nhiều hạn chế, toàn xã hội chưa thực sự quan tâm đến nội dung, phương pháp giáo dục này. Các phương pháp và nội dung giáo dục còn nghèo nàn, chưa phong phú. Hình thức giáo dục giới tính và tình dục qua phương tiện Internet vẫn là một vấn đề xa vời đối với các trường học tại Việt Nam. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa như một rào cản trong việc mạnh dạn đề xuất giáo dục giới tính và tình dục cho học sinh. Chính vì thế, việc sử dụng Internet như một phương tiện giáo dục giới tính và tình dục cũng là một vấn đề cần thiết và nên làm bởi những lợi ích thiết thực mà nó mang lại. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy, ngoài mặt tích cực thì mặt trái của Internet tác động đến vấn đề nhận dạng giới tính và tình dục của học sinh cũng như thế hệ trẻ ngày nay còn tiềm ẩn rất nhiều mối nguy hại.
Vấn đề quấy rối tình dục trên mạng là một vấn đề mới trong xã hội ngày nay, nhất là đối với học sinh và thanh thiếu niên. Các báo cáo về những trường hợp cứu net hay lợi dụng Internet để gạ gẫm các thiếu nữ qua đêm, sau đó bán sang các nước khác hiện đang phổ biến, nhất là thiếu nữ ở độ tuổi khoảng 12-16. Gạ gẫm và gợi tình trên mạng thực sự là một vấn đề tiềm tàng
50
nguy hiểm cho nhiều thanh thiếu niên. Hành vi này thường dẫn tới việc cung cấp nhận dạng cá nhân và có thể xảy ra hoạt động tình dục trong đời sống thực.
Vấn đề tự phơi bày hình ảnh bản thân một cách có chủ đích và không chủ đích cũng đang tạo nên những trào lưu mới trong giới trẻ ngày nay. Một số trang mạng, diễn đàn của tuổi thanh thiếu niên đã tải lên những hình ảnh tình dục nhạy cảm, gợi cảm của chính bản thân thanh thiếu niên. Điều nguy hiểm hơn nữa là một số bộ phận thanh thiếu niên coi đó là bình thường và đôi khi họ coi những người “can đảm” đưa những hình ảnh nhạy cảm lên trên mạng là thần tượng. Tình trạng trên có thể dẫn đến những tình huống phạm pháp, sử dụng chất cấm và trải nghiệm triệu chứng cảm xúc hay trầm cảm.
Nghiện tình dục trực tuyến - bao gồm việc xem, tải (download), mua bán dâm trực tuyến hay tán gẫu khiêu dâm (chat sex) - đang là một vấn đề rất mới trong xã hội hiện đại, ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sống, vấn đề học tập, quan hệ xã hội và gia đình của những học sinh khi mắc phải.
III. TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ HỌC SINH TRÊN MÔI TRƯỜNG MẠNG
Môi trường mạng xã hội bên cạnh những lợi ích mang lại thì cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro vô cùng nguy hiểm. Các thông tin bí mật cá nhân của
51
học sinh khi cha, mẹ, người bảo hộ hoặc học sinh đưa lên mạng xã hội, vô tình sẽ tạo điều kiện cho kẻ xấu sử dụng vào mục đích xấu, kích động để vi phạm pháp luật. Vì vậy, bảo vệ học sinh trên môi trường mạng là vô cùng quan trọng.
Theo đó, cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục và bảo vệ học sinh khi tham gia môi trường mạng dưới mọi hình thức; cha, mẹ, giáo viên và người giám hộ học sinh có trách nhiệm giáo dục kiến thức, hướng dẫn kỹ năng để các em biết tự bảo vệ mình khi tham gia môi trường mạng; cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và bảo mật đời sống riêng tư cho các em học sinh theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm bảo vệ học sinh trên môi trường mạng như sau:
Thứ nhất, truyền thông, giáo dục nhằm nâng cao năng lực bảo vệ học sinh trên môi trường mạng. Các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông, các tổ chức hoạt động vì trẻ em; các tổ chức hoạt động trên môi trường mạng cần có trách nhiệm truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, phổ biến kỹ năng cho cha, mẹ, người chăm sóc học sinh, giáo viên và các cơ quan, tổ chức có liên quan về lợi ích, ảnh hưởng tiêu cực của môi trường mạng đối với học sinh; về việc phòng ngừa, ngăn chặn hành vi xâm hại
52
học sinh trên môi trường mạng căn cứ theo quy định của pháp luật về công nghệ thông tin, an toàn thông tin và các lĩnh vực có liên quan.
Cha, mẹ, giáo viên, người giám hộ các em phải có trách nhiệm giáo dục kiến thức, hướng dẫn kỹ năng an toàn cho học sinh khi tham gia môi trường mạng; các em học sinh có bổn phận tìm hiểu, tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng tự bảo vệ mình khi tham gia môi trường mạng.
Các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải hướng dẫn việc sử dụng dịch vụ, sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin, chia sẻ thông tin để bảo vệ học sinh trên môi trường mạng.
Thứ hai, bảo đảm an toàn cho học sinh trong việc trao đổi, cung cấp thông tin trên môi trường mạng. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng phải phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em, học sinh trên môi trường mạng; ngăn chặn thông tin gây hại cho học sinh nói riêng và trẻ em nói chung theo quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng.
Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải có biện pháp, dịch vụ bảo vệ người dùng, đặc biệt là học sinh.
Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải cảnh báo hoặc gỡ bỏ những
53
thông tin, dịch vụ gây hại, giả mạo, xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của học sinh. Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên môi trường mạng phải có chế độ kiểm soát thời gian để bảo vệ trẻ em nói chung và học sinh nói riêng khỏi tình trạng lạm dụng, nghiện trò chơi điện tử.
Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải xây dựng hoặc sử dụng, phổ biến các phần mềm, công cụ bảo vệ học sinh trên môi trường mạng.
Thứ ba, các biện pháp bảo vệ thông tin bí mật đời sống riêng tư cho học sinh trên môi trường mạng. Thông tin bí mật đời sống riêng tư, cá nhân của các em học sinh là các thông tin như tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân, nơi ở, quê quán, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của học sinh; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân học sinh.
Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng khi đưa những thông tin bí mật về đời sống riêng tư của học sinh lên mạng phải được sự đồng ý của cha, mẹ, người chăm sóc, giám hộ; có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin của học sinh đó.
54
Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải sử dụng các biện pháp, công cụ bảo đảm an toàn những thông tin bí mật về đời sống riêng tư của học sinh, gửi các thông điệp cảnh báo nguy cơ khi học sinh cung cấp, thay đổi thông tin bí mật đời sống riêng tư của mình cho người khác.
Cha, mẹ, người chăm sóc, giám hộ các em học sinh cũng như các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ học sinh theo quy định của pháp luật, có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tham gia hoạt động trên môi trường mạng xóa bỏ các thông tin bí mật về đời sống riêng tư của học sinh để bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất cho các em.
Thứ tư, các biện pháp hỗ trợ, can thiệp khi học sinh bị xâm hại trên môi trường mạng.
Các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông cho trẻ em; các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận thông tin, đánh giá, phân loại mức độ an toàn cho học sinh khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân và học sinh gửi tới; công bố danh sách các mạng thông tin, dịch vụ, sản phẩm trực tuyến có độ an toàn cao đối với học sinh; bảo đảm việc phát hiện, loại bỏ các hình ảnh, tài liệu, thông tin không phù hợp đối với học sinh.
55
Cơ quan công an có trách nhiệm tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ, can thiệp bảo vệ học sinh trên môi trường mạng.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là thời đại công nghệ thông tin phát triển vô cùng mạnh mẽ, Internet nói chung hay các trang mạng xã hội nói riêng, đã và đang ảnh hưởng rất lớn (cả tích cực và tiêu cực) đến mọi hoạt động học tập và sinh hoạt của giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh. Với đặc điểm nổi trội là tính kết nối nhanh, chia sẻ rộng rãi, chỉ cần một chiếc điện thoại hay một máy tính kết nối Internet, chúng ta có thể truy nhập và tham gia vào rất nhiều trang mạng khác nhau. Mặc dù mục đích, cách thức, mức độ tham gia mạng xã hội của mỗi học sinh là khác nhau nhưng có một điểm chung đó là các em xem nó như là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần và học tập của mình.
Thực tế cho thấy, Internet mang lại hiệu quả to lớn cả trong học tập, sinh hoạt và đời sống xã hội cho học sinh, ngược lại cũng sẽ gây ra nhiều hệ lụy. Đặc điểm nổi trội của các trang mạng xã hội là thông tin nhanh, nhiều, nhưng lại tràn lan, trong đó có cả thông tin vô bổ, chưa được kiểm chứng.
56
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NGUY CƠ
KHI HỌC SINH SỬ DỤNG INTERNET
I. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở HỌC SINH
1. Mục đích và nội dung truy nhập Internet của học sinh
> 15 tuổi, 3%
12-15 tuổi, 28%
Dưới 3 tuổi,
2% 3-5 tuổi, 5%
5-9 tuổi, 20%
9-12 tuổi,
42%
Độ tuổi bắt đầu sử dụng Internet
Nguồn: Vietnet-ICT
57
Mục đích sử dụng là nhân tố quan trọng chi phối việc sử dụng, lựa chọn các hoạt động Internet của học sinh. Mục đích càng đa dạng thì nội dung truy nhập càng phong phú. Việc truy nhập Internet của học sinh có thể chia thành các nhóm mục đích cơ bản như sau:
- Tìm kiếm tài liệu học tập
- Giải trí
- Giao lưu, kết bạn,...
Với thời gian học tập căng thẳng như hiện nay thì giải trí là một biện pháp hữu hiệu để giải tỏa áp lực của học sinh chiếm khoảng 60%. Với các hình thức, hoạt động giải trí phong phú, phù hợp với tâm lý ưa thích khám phá thì mạng Internet đã được học sinh khai thác triệt để nhằm thoả mãn mục đích giải trí.
Nhìn chung, mục đích lớn nhất chi phối hoạt động sử dụng mạng Internet của học sinh là giải trí thông qua việc xem phim, nghe nhạc, sử dụng Facebook, chơi game trực tuyến,... Tiếp đến là những hoạt động phục vụ mục đích giao tiếp, giao lưu, kết bạn, trao đổi thông tin của học sinh. Việc sử dụng mạng Internet nhằm tìm kiếm thông tin, kiến thức học tập không phải là mục đích hàng đầu khi học sinh sử dụng Internet. Đồng thời, yếu tố giới tính cũng tác động lớn đến việc lựa chọn nội dung truy nhập của các em, cụ thể là học sinh nam có tỷ lệ lựa chọn nội dung liên quan đến học tập, giải trí nhiều hơn các học sinh nữ, ngược lại các học sinh nữ có xu hướng truy
58
nhập mạng Internet để giao lưu kết bạn lớn hơn các học sinh nam. Về nội dung truy nhập, các học sinh nam thường truy nhập Internet để chơi game, nghe nhạc, trong khi các bạn nữ truy nhập với nội dung đa dạng hơn, bao gồm tìm kiếm tài liệu học tập, bạn bè, xem phim và các thông tin liên quan đến thời trang, sức khỏe giới tính. Đồng thời, yếu tố bạn bè cũng là yếu tố tác động lớn nhất đến nội dung các em truy nhập khi sử dụng mạng Internet.
Hoạt động thường xuyên ưa thích hàng đầu của học sinh là nghe nhạc (73%), tiếp đến là chat (41%) và 36% học sinh sử dụng Internet để chơi game trực tuyến.
Rõ ràng, giao tiếp cũng là mục đích quan trọng khi học sinh sử dụng Internet, số liệu cho thấy học sinh dùng Internet để chat chiếm 41%. Tâm lý lứa tuổi quy định sở thích giao tiếp. Điều này lý giải tại sao học sinh ưa thích các hoạt động giao tiếp trên mạng như gửi, nhận thư, chat. Với thời gian học tập căng thẳng như hiện nay thì việc sử dụng Internet với mục đích giải trí là một biện pháp hữu hiệu để giải tỏa áp lực cho học sinh.
Qua kết quả nghiên cứu khảo sát những nội dung mà các em tham gia truy nhập, tác giả nhận thấy, nhìn chung, Internet xuất hiện và phát triển đã thu hút rất đông các em tham gia truy nhập. Nhưng việc sử dụng và truy nhập vào những trang web bổ ích phục vụ học tập, nâng cao tri thức với học sinh dường như không phải là mục đích lên mạng của các em. Hầu hết Internet
59
chỉ được sử dụng như một công cụ giải trí đơn thuần. Đối với học sinh phổ thông, nhất là học sinh trung học cơ sở, nhu cầu tìm hiểu những kiến thức bên ngoài chương trình học chưa cao như ở các lứa tuổi khác. Khi tìm đến Internet, mục đích thực sự, chủ yếu nhất của các em vẫn chỉ là để giải trí (79%). Giải trí một cách hợp lý, vừa phải là điều rất có ích, cần thiết đối với học sinh. Tuy vậy, điều đáng nói ở đây là có nhiều trường hợp những mục đích chính đáng khác bị hoạt động giải trí lấn át. Ví dụ, đã có em nói rằng: Mỗi khi vào mạng em hay nghĩ trước mình vào web xem tin tức để biết nhiều thứ hoặc vào các trang tiếng Anh học hỏi thêm, chỉ chơi game một lúc thôi, nhưng rồi lại ngồi liền tù tì hoặc có khi gặp bạn chat luôn, chẳng làm được gì cả!.
Đây là tình trạng rất phổ biến ở nhiều người và càng phổ biến hơn đối với học sinh, bởi thế giới các game trực tuyến ngày càng phong phú, có sức hấp dẫn mạnh mẽ hơn là những kiến thức bổ ích, thậm chí là khó cưỡng lại được. Sức hấp dẫn ấy khiến người truy nhập mạng cho dù muốn hành vi này của mình là có ích, đem lại một kết quả nào đó mà mình mong đợi nhưng cuối cùng lại không đạt được (hành động tự thân chứ không phải hành động duy lý). Theo thuyết hành vi, có thể giải thích điều này bằng sự “say mê” của học sinh đối với Internet. Vì sự say mê quá mức, các em có những hành vi, hành động “phi lý” nhưng xét về mặt nào đó vẫn có ý nghĩa của nó - đáp ứng nhu
60
cầu giải trí - một nhu cầu chính đáng của học sinh. Do đặc trưng của Internet là một phương tiện hiện đại, không chỉ cho phép người sử dụng thực hiện nhiều mục đích mà còn có thể có nhiều hoạt động cùng một lúc nên việc sử dụng những tiện ích ấy như thế nào để mang lại lợi ích cũng là một vấn đề đối với học sinh phổ thông. Các em có thể sử dụng linh hoạt, cùng lúc đạt được nhiều mục đích nhưng cũng có thể bị cuốn hút đến mức quên mất mục đích chính của mình vào mạng để làm gì. Điều đó tạo ra độ chênh giữa mục đích sử dụng và hành vi thực sự diễn ra khi các em truy nhập mạng,...
2. Đối tượng kết nối
Kết quả khảo sát năm 2017 về tính đa dạng và rộng mở về đối tượng kết nối của các em học sinh trên mạng xã hội đã cho thấy, giới trẻ không chỉ có các mối quan hệ với gia đình, bạn bè, bạn học, người quen mà đặc biệt họ còn thiết lập mạng lưới kết nối với những người xa lạ, không hề quen biết ngoài đời thực song có cùng sở thích, cùng mối quan tâm, đồng cảm hay chia sẻ với nhau về bất cứ vấn đề gì đó của cuộc sống và xã hội. Có thể nói, đối tượng kết nối rất đa dạng của học sinh đã tạo nên sự đan xen dày đặc và độ rộng không giới hạn của các mạng lưới trong một không gian ảo mà ở đó không hề bị giới hạn bởi bất cứ một biên giới nào. Chính bởi đối tượng kết nối hết sức rộng mở và đa dạng như vậy nên số lượng người trong mạng lưới giao tiếp của một cá nhân có thể rất lớn, lên tới hàng trăm,
61
thậm chí hàng nghìn người. Kết quả khảo sát thể hiện top 3 chiếm tỷ lệ cao nhất là trong các đối tượng kết nối của giới trẻ là: những người bạn cùng lớp, cùng quê là 90,2%; gia đình, họ hàng là 81,3%; những người bạn trong các nhóm xã hội khác là 48,2%. Các số liệu cho thấy, mặc dù tạo ra một mạng lưới các mối quan hệ rộng mở với liên kết đan xen như vậy song đa phần giới trẻ vẫn tỏ ra khá thận trọng trong việc kết bạn.
3. Địa điểm, cách thức học sinh truy nhập Internet
Địa điểm truy nhập Internet
Nguồn: Vietnet-ICT
Hiện nay, học sinh có rất nhiều sự lựa chọn địa điểm truy nhập mạng Internet, không chỉ truy nhập tại nhà, tại các địa điểm truy nhập Internet dịch vụ mà còn truy nhập Internet tại lớp học với những chiếc
62
điện thoại thông minh được kết nối 3G, 4G, thậm chí là 5G. Điều này đã giúp cho học sinh dễ dàng hơn trong việc truy nhập mạng Internet và có thể truy nhập mọi lúc, mọi nơi. Theo thống kê, tỷ lệ học sinh nam truy nhập mạng Internet tại các quán Internet dịch vụ lớn hơn nhiều so với học sinh nữ. Ngược lại, học sinh nữ có xu hướng truy nhập tại lớp và tại nhà lớn hơn học sinh nam. Yếu tố bạn bè và gia đình có lắp đặt mạng Internet đã ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn địa điểm cũng như cách thức truy nhập mạng Internet của học sinh. Đồng thời, điện thoại cũng là thiết bị được các em sử dụng nhiều nhất khi truy nhập mạng Internet. Điều này cho thấy, để kiểm soát được việc học sinh sử dụng mạng Internet như thế nào thì quản lý việc các em sử dụng điện thoại là hết sức cần thiết.
Kết quả khảo sát thể hiện rõ tính đa dạng, linh hoạt và chủ động của học sinh trong việc sử dụng mạng xã hội. Các em có thể sử dụng mạng xã hội ở bất cứ đâu có kết nối Internet, đặc biệt khi mạng Wifi đang ngày càng trở nên phổ biến ở khắp nơi. Tỷ lệ sử dụng mạng xã hội cao thuộc về những không gian mà ở đó các bạn học sinh có quỹ thời gian rảnh rỗi khá nhiều: tại nhà chiếm tỷ lệ cao nhất (95,8%), tại trường học (17,3%). Hai địa điểm có tỷ lệ truy nhập mạng xã hội thấp nhất là quán net (9,5%), khi mục đích của phần lớn các bạn trẻ đến đây để chơi game
63
trực tuyến và thư viện (2,8%), bởi đây dường như là môi trường thích hợp cho các bạn trẻ có nhu cầu tập trung vào việc đọc và nghiên cứu thay vì giải trí.
Tần suất sử dụng mạng xã hội của học sinh đang có xu hướng ngày càng gia tăng, bởi họ có thể truy nhập mọi lúc, mọi nơi nhờ sở hữu các thiết bị công nghệ hiện đại. Theo kết quả khảo sát, giới trẻ đang có xu hướng truy nhập mạng xã hội nhiều nhất thông qua điện thoại di động thông minh (85,3%). Ngoài ra, các số liệu thống kê gần đây của mạng xã hội Facebook cũng đã chứng minh sự bùng nổ của việc sử dụng thiết bị smartphone trong giới trẻ và chính Mark Zuckerberg - người sáng lập Facebook cũng từng nhận định rằng, những người truy nhập, kết nối mạng xã hội qua di động hoạt động tích cực hơn qua các thiết bị khác, điều đó đang biến mạng xã hội Facebook trở thành nền tảng ưu tiên cho di động. Ngoài ra, thanh, thiếu niên học sinh còn truy nhập mạng xã hội từ các thiết bị công nghệ khác như: máy tính xách tay (24%), máy tính để bàn (20,5%) hoặc máy tính bảng (6,8%). Phần lớn đối tượng được khảo sát đều cho biết nơi truy nhập mạng xã hội phổ biến nhất của họ chính là trên bàn học tại nhà và ngay cả ở trường học.
4. Thời gian, tần suất học sinh truy nhập Internet
Nghiên cứu "Trẻ em với kỹ thuật số khu vực châu Á - Thái Bình Dương" của nhóm tác giả Lê Anh Vinh, Phạm Đức Quang, Đỗ Đức Lân do UNESCO Bangkok
64
hợp tác với Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện cho thấy, học sinh Việt Nam sử dụng Internet thường xuyên hơn so với học sinh ở Bănglađét và Phigi. Theo đó có 38,9% học sinh Việt Nam sử dụng Internet trong khoảng 3-4 giờ một ngày và 14,7% trong khoảng 5-6 giờ một ngày.
Dự án DKAP tại Việt Nam thực hiện khảo sát tại 20 trường học từ 5 tỉnh, thành phố ở Việt Nam (Lào Cai, Hà Nội, Đà Nẵng, Lâm Đồng và Cần Thơ), nghiên cứu tổng số 1.061 học sinh trong độ tuổi 15 tuổi (lớp 10). Quá trình khảo sát được thực hiện vào tháng 9/2018. Kết quả của phía Việt Nam được so sánh với các thông số có được từ cuộc khảo sát tại Hàn Quốc, Bănglađét, Phigi.
Theo báo cáo DKAP, hầu hết các trường học tại Việt Nam được đầu tư và trang bị máy tính, máy chiếu để dạy và học. Theo báo cáo của các sở giáo dục địa phương, tổng số máy tính trong các trường từ tiểu học tới trung học phổ thông là 487.889 chiếc. Nhiều tổ chức giáo dục đã phát triển tài liệu học tập điện tử. Hiện nay, tỷ lệ giáo viên trong giáo dục mầm non, tiểu học và trung học có thể áp dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp giảng dạy trong lớp là khoảng 76%. Tỷ lệ giáo viên có khả năng thiết kế bài giảng e-Learning là khoảng 28%.
Cũng trong báo cáo DKAP, hầu hết học sinh ở Việt Nam bắt đầu sử dụng Internet từ rất sớm, chủ yếu là trong độ tuổi 9-12 (42%) vào thời điểm học sinh
65
bắt đầu được học môn tin học trong trường và độ tuổi 12-15 (28%), rất ít học sinh bắt đầu truy nhập Internet từ năm 15 tuổi (3%).
Ở các thành phố lớn, học sinh có xu hướng bắt đầu sử dụng Internet sớm hơn so với học sinh từ các tỉnh khác. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng, tỷ lệ học sinh bắt đầu sử dụng Internet từ 5 đến 9 tuổi chiếm phần lớn (37%). Trong khi đó, hầu hết học sinh từ các tỉnh khác (Thái Nguyên, Hòa Bình, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Kiên Giang) bắt đầu sử dụng Internet khi ở độ tuổi 9-12 (45%).
Bằng câu hỏi: “Khi bạn sử dụng Internet, tần suất những người sau đây đề xuất các cách sử dụng Internet một cách an toàn”, nhóm thực hiện đã nhận được kết quả: khoảng 22% học sinh không bao giờ nhận được hướng dẫn của phụ huynh, 15% không bao giờ nhận được hướng dẫn của giáo viên, 15% khác không bao giờ nhận được hướng dẫn của người thân, người chăm sóc để sử dụng và học Internet an toàn.
5. Ngôn ngữ sử dụng trên Internet
Việc giới trẻ nói chung và các em học sinh nói riêng sử dụng ngôn từ trên mạng xã hội khi viết dòng trạng thái, tán gẫu, bình luận theo những cách riêng của họ đang được xem như một sự thể hiện cá tính hay sự khác biệt với những người khác trong cộng đồng mạng.
Kết quả từ cuộc khảo sát cho thấy, bộ phận học sinh thường sử dụng hoàn toàn tiếng Việt để giao
66
tiếp trên mạng xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất (45,7%). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, tiếng Việt dùng để giao tiếp trên mạng xã hội của học sinh hiện nay không thuần nhất như vốn tiếng Việt truyền thống mà họ đã tự “sáng tạo” cho mình một kiểu/loại ngôn ngữ riêng không theo quy chuẩn của tiếng Việt, được gọi nôm na là ngôn ngữ tuổi teen. Trong nhiều trường hợp, tiếng Việt được các bạn trẻ thay đổi từ cách viết đến cấu trúc câu, hay cố tình viết chệch âm, sai lỗi chính tả,... Đó là các dạng thức ngôn ngữ được tạo ra bằng cách thay đổi từng chi tiết của các chữ cái tiếng Việt, với việc kết hợp tiếng Việt với ngôn ngữ khác (tiếng Anh...) (38,8%) hay những cách viết sáng tạo, viết tắt, sử dụng tiếng lóng hoặc kết hợp nhiều loại ký hiệu khác nhau (29,7%). Tất cả những sự tự "sáng tạo" ấy có thể xem như cách thể hiện sự khác biệt của học sinh trên mạng xã hội. Ví dụ, hiện có thể dễ dàng bắt gặp một số xu hướng sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ để diễn đạt lời nói, cảm nghĩ, ý tưởng,... của mình trên mạng xã hội như sau: diễn đạt theo xu hướng đơn giản hóa như: wá (quá), wen (quen), wên (quên), u (bạn, mày), ni (nay), gato (ghen ăn tức ở)... hay diễn đạt theo xu hướng phức tạp hóa ngôn ngữ: dzui (vui), thoai (thôi), nóa (nó), đóa (đó), dzìa (về), roài (rồi),... hoặc cố tình viết chệch âm nhằm tạo sự vui vẻ, tinh nghịch trong lời nói như: hem (không), lun (luôn), bùn (buồn), bitk? (biết không?), xiền (tiền),... Một số khác thích sử dụng các từ tiếng Anh viết tắt
67
để diễn đạt như: tks=thanks (cảm ơn), pm=private message (nói chuyện riêng),... Liên quan đến những hiện tượng ngôn ngữ trên, cơ quan tiếp thị truyền thông xã hội Ôxtrâylia đã từng bình luận rằng, học sinh sử dụng các chữ viết tắt như là một chiến thuật để đẩy nhanh tốc độ trong giao tiếp văn bản, trong khi một số khác thì dùng chúng như một mật mã để những người lớn tuổi không thể hiểu.
Nhận định về các kiểu/loại ngôn ngữ riêng mà giới trẻ đã “sáng tạo” và sử dụng làm công cụ giao tiếp trên mạng xã hội hiện có không ít người phê phán, cho rằng đó là thứ ngôn ngữ xa lạ với tiếng phổ thông, thậm chí là làm mất đi sự trong sáng, cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, do vậy, cần phải có giải pháp khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên, một số quan điểm lại nhìn nhận đó là nhu cầu phát triển ngôn ngữ tất yếu của giới trẻ trong xã hội hiện đại và ở góc độ nào đó thì hiện tượng này cũng cần được thừa nhận. Mặc dù vậy, những động thái hướng tới việc giảm thiểu những tiêu cực của loại ngôn ngữ mang phong cách ngôn ngữ tuổi teen này cũng cần được quan tâm.
Với sự phát triển mạnh mẽ trong gần chục năm trở lại đây, các trang mạng xã hội ở Việt Nam như Facebook, YouTube, Zalo, Zingme,... ngày càng thu hút đông đảo thành viên tham gia, trong đó đại đa số là học sinh. Có thể nói, mạng xã hội ra đời là một trong những bước tiến của các phương tiện truyền
68
thông mới, bởi thực sự nó đã mang đến nhiều tiện ích, đáp ứng nhu cầu, mục đích vô cùng đa dạng của mỗi cá nhân, từ công việc, học tập, kinh doanh, đặc biệt là khả năng mở rộng cũng như thiết lập các mạng lưới giao tiếp một cách nhanh chóng mà không bị giới hạn về không gian, thời gian với chi phí rẻ nhất. Bên cạnh đó, mạng xã hội cũng trở thành một kênh giải trí hoàn hảo khi trở thành nơi lý tưởng để học sinh giải tỏa áp lực trước những vấn đề mà họ phải đối mặt trong cuộc sống hằng ngày. Trước hàng loạt tiện ích ấy, mạng xã hội dường như đang trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của học sinh. Mặc dù sự ảnh hưởng của mạng xã hội đến bộ phận này đang được nhìn nhận theo nhiều chiều hướng khác nhau, song dù thế nào cũng cần thừa nhận những bước tiến khả quan của các trang mạng xã hội ở Việt Nam với số lượng người sử dụng có thể tiếp tục gia tăng trong tương lai.
6. Mức độ chi phối của Internet đối với việc học tập của học sinh
Các lập luận trên cho thấy, có tới gần một nửa số học sinh bị chi phối khá nhiều bởi mạng Internet. Ngày nay, khi mạng Internet trở nên phổ biến và là một phần không thể thiếu trong đời sống học sinh thì việc thức khuya để online đã trở thành một thói quen rất khó sửa của học sinh. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần là do xu hướng chung và lối sống đô thị ồn ào, nhộn nhịp, làm học sinh không
69
thể tập trung học bài và phải lên mạng học bài, làm bài vào đêm khuya. Việc thức khuya có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Học sinh thức khuya thường cảm thấy mệt mỏi vào ngày hôm sau, không thể tập trung học tập và luôn cảm thấy đầu óc căng thẳng. Thức khuya trong một thời gian dài sẽ dễ gây giảm sút trí tuệ và sức đề kháng, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe và hiệu quả học tập của học sinh. Bên cạnh việc học tập, học sinh còn thức khuya online với mục đích để giải trí như xem phim, lang thang trên các trang mạng xã hội,... Việc thức khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng và tiếp xúc với ánh sáng trắng bóng đèn làm mắt phải điều tiết nhiều, khiến học sinh dễ gặp các căn bệnh về mắt và gây mất ngủ về lâu dài. Việc vừa học bài vừa online thường dẫn đến sự mất tập trung, dễ bị xao nhãng và ảnh hưởng đến hiệu quả học tập. Điển hình như có nhiều học sinh vừa học bài vừa chat - trò chuyện với bạn bè qua Facebook mà quên cả thời gian. Không thể phủ nhận việc vừa học bài vừa online các trang mạng xã hội cũng có những tác động tích cực vì mạng xã hội tạo cơ hội cho học sinh có thể cùng bàn luận, trao đổi về các vấn đề học tập cũng như thảo luận làm bài nhóm,... nhưng nếu học sinh sử dụng chúng không đúng cách thì lâu dần sẽ dẫn đến học tập kém hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG FACEBOOK CỦA HỌC SINH
Ra đời năm 2003 từ một phiên bản nội bộ của
70
trường Đại học Harvard bởi sinh viên năm nhất Mark Zuckerberg, đến nay Facebook đã trở thành mạng xã hội thành công nhất thế giới với gần 1,5 tỷ người sử dụng, đưa người sáng lập của nó trở thành tỷ phú trẻ tuổi nhất hành tinh. Gần 20 năm thăng trầm, với những khoản đầu tư khổng lồ từ các tập đoàn lớn và những thương vụ sáp nhập tốn nhiều giấy mực của báo chí, đến nay Facebook được xem là cuộc sống thứ hai của rất nhiều người, trong đó có một bộ phận không nhỏ học sinh Việt Nam.
Bằng khả năng nhanh nhạy với những điều mới lạ, học sinh không khó để nắm bắt phương thức sử dụng của một trang web kết bạn lớn như Facebook, khám phá mọi tiện ích và phát triển các mối quan hệ xã hội. Trong quá trình đó, nếu học sinh sáng suốt, Facebook sẽ trở thành công cụ đắc lực, hữu ích cho cuộc sống tốt đẹp hơn, ngược lại Facebook sẽ khiến các em lệ thuộc, thậm chí thay đổi cuộc sống của học sinh một cách tiêu cực.
Không khó khăn khi có thể tìm kiếm những bài phân tích, nghiên cứu và thông tin trên phương tiện truyền thông về diễn biến tâm lý khi tham gia Facebook. Về mặt tích cực, người sử dụng Facebook biết thiết lập và duy trì tốt nhiều mối quan hệ, bên cạnh việc tìm lại những mối quan hệ từ lâu đã bị đánh mất. Hoặc nhận được nhiều cơ hội phát triển kinh tế và nghề nghiệp nhờ tận dụng được tính chất lan truyền của mạng xã hội. Ngoài ra, một học sinh cũng
71
có thể phát triển cơ hội học tập thông qua sự kết nối của Facebook với các thầy cô, gia sư và bạn bè cùng đam mê tri thức. Ngược lại, về mặt tiêu cực, nhiều nghiên cứu đã dẫn ra những dấu hiệu tâm lý điển hình như định hướng giá trị lệch lạc, tâm tính bất ổn, thái độ cư xử kém, thu hẹp “cái ta” và bành trướng “cái tôi”,... Hay một số nghiên cứu tìm ra các yếu tố cốt lõi dẫn đến chứng nghiện Facebook, đó là nhu cầu nổi bật, thay đổi tâm trạng, lòng khoan dung, phản hồi, xung đột và phản ứng mạnh.
1. Mục đích sử dụng Facebook
Trước hết, lý do tham gia Facebook của học sinh chủ yếu là bị lôi kéo bởi bạn bè hoặc theo phong trào (45%), sau đó mới nhận thấy tính thú vị của mạng xã hội này (43%). Chỉ có khoảng 10% lựa chọn mạng xã hội này cho mục đích học tập. Khi được hỏi cụ thể, thì các bạn cho biết sử dụng Facebook để nhận thông báo từ ban cán sự lớp và tải tài liệu do thầy cô và các bạn khác đưa lên. Về mục đích sử dụng, phần lớn các bạn học sinh cho rằng, ban đầu tham gia Facebook để giao lưu, kết bạn, gia nhập các nhóm và tham gia bình luận các chủ đề (62%). Nhưng sau quá trình sử dụng, thì các bạn thừa nhận rằng mình tham gia chủ yếu để chia sẻ tài liệu hoặc thông tin liên quan đến hoạt động học tập (64%). Như vậy, ý thức sử dụng mạng xã hội phục vụ việc học đã hình thành khá tốt trong học sinh, mặc dù thời gian đầu sử dụng thì mục đích đó không quá lớn (21%).
72
2. Tính chất sử dụng Facebook
Phần lớn các học sinh đã sử dụng Facebook từ khi học trung học cơ sở, đây cũng là thời gian trung bình một học sinh có thể biết và tìm hiểu về một mạng xã hội. Một điều thú vị là các em cho rằng mình không “nghiện” mạng xã hội này, nhưng phần lớn thừa nhận thường mở trang Facebook ngay trong lúc sử dụng máy tính để học tập. Từ đó cho thấy, vẫn có một bộ phận khá lớn học sinh mang những hoạt động giao lưu ảo tham gia cùng công việc thực tế hằng ngày, mặc dù ý thức sử dụng vẫn ở mức khá tích cực.
Sự tích cực trên cũng được thể hiện ở việc chỉ có 19% học sinh tiêu tốn thời gian từ 3 đến 5 giờ cho Facebook và 10% học sinh sử dụng trên 5 giờ một ngày. Mặc dù số giờ trung bình các bạn bỏ ra để tương tác thông tin trên mạng xã hội này là 1 giờ (33% cho biết), nhưng con số 10% học sinh sử dụng trên 5 giờ như kể trên quả là đáng báo động. Hiện nay, trên Facebook, xuất hiện nhiều trò chơi (game) trực tuyến khá hấp dẫn, thậm chí không giới hạn thời gian chơi. Vì thế, bản thân học sinh cũng thừa nhận, việc bỏ ra trên 5 giờ để “cày game” trên Facebook cũng là điều không quá xa lạ.
Hơn nữa, với 13% các em kiểm tra Facebook với mỗi 15 phút một lần và 16% kiểm tra Facebook mỗi khi điện thoại hoặc máy tính thông báo, cho dù con số này không quá lớn, nhưng cũng đã cho thấy một bộ phận học sinh khá “nghiện” mặc dù chính họ không thừa nhận điều đó. Còn lại, con số lớn nhất là 50%
73
nằm ở các bạn lựa chọn trả lời “khoảng nửa ngày một lần” khi được hỏi về tần suất kiểm tra Facebook.
3. Nội dung sử dụng Facebook
Học sinh với độ tuổi trẻ trung, mới lớn, luôn muốn thể hiện “cái tôi” mọi lúc, mọi nơi. Theo đó, với câu hỏi “Những thông tin cá nhân của chính mình được bạn công khai như thế nào?”, thì câu trả lời nhận được chỉ 7% là “bí mật tuyệt đối”, 73% “một ít” và 20% “công khai hoàn toàn”. Tuy các bạn học sinh có thể ý thức được tính phức tạp của việc luân chuyển thông tin trên Facebook, nhưng vẫn còn những cá nhân tự tin quá mức, không ngại ngần khi công bố những thông tin riêng tư (tên, tuổi, nơi ở, nơi học, mối quan hệ gia đình, email, số điện thoại).
Còn về nội dung được thể hiện trên Facebook, những ý trả lời thu được cũng đã phản ánh khá rõ nét đặc trưng tâm lý của lứa tuổi học sinh.
Với những chủ đề được đăng trên trang cá nhân, phần lớn đó là những câu chuyện, tâm trạng của chính người sử dụng, sau đó là những bài học về lối sống đẹp. Với chủ đề được chia sẻ hoặc tham khảo từ các trang thông tin của người khác, các bạn tập trung vào các câu chuyện hoặc hình ảnh cảm động, kế đến là chủ đề học tập và những bài học về lối sống đẹp. Bên cạnh đó, học sinh thường tham gia bình luận những câu chuyện hoặc tâm trạng của bạn bè, tuy không rõ ràng lắm.
74
Như vậy, học sinh có định hướng khá nội tâm và tinh tế về những chủ đề được thể hiện trên trang mạng cá nhân. Điều này phần nào thể hiện nét tính cách phổ biến của học sinh.
4. Biểu hiện tâm lý trên Facebook
Một trong những hướng nghiên cứu nổi bật của các đề tài trong và ngoài nước liên quan đến Facebook là đặc điểm tâm lý của người sử dụng. Sau đây là một số biểu hiện:
Thứ nhất, sau khi đăng một dòng trạng thái trên trang cá nhân, 47% số học sinh được hỏi mong muốn có nhiều người bình luận về thông tin của mình và cũng cùng tỷ lệ đó chỉ viết trạng thái vì thích chứ không mong muốn gì. Qua đó cho thấy, học sinh không quá tập trung vào sự nổi bật của mình trên Facebook thông qua những thông tin cá nhân. Tương tự, có đến 81% câu trả lời là “bình thường”, trong khi đó chỉ có 12% cảm thấy bứt rứt, khó chịu và 7% cho rằng mình thoải mái với việc một ngày không thể truy nhập vào Facebook.
Thứ hai, với câu hỏi về thói quen đăng tâm trạng (status), câu trả lời thu được thật sự không nổi bật, cụ thể như sau: 37% có chú ý chỉnh sửa hình ảnh và viết nội dung cẩn thận trước khi đăng, 30% thể hiện tâm trạng vào bất cứ thời điểm nào, 20% viết ra bất cứ ý nghĩ nào trong đầu và 19% chụp ảnh rồi đăng ngay kèm một vài chú thích.
75
Thứ ba, một nửa số học sinh được hỏi thường đọc kỹ và ngẫm nghĩ trước khi bấm nút “Thích” hoặc “Bình luận”. Tuy vậy, vẫn có nhiều em (41%) có thói quen bấm nút “Thích” ngay khi vừa bắt gặp những thông tin mình quan tâm.
Tóm lại, đa phần các bạn học sinh tiếp cận và sử dụng Facebook với biểu hiện tâm lý không quá cuồng nhiệt. Các bạn quan tâm, yêu thích mạng xã hội này một cách chừng mực và cũng cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thể hiện “cái tôi” trong thế giới ảo. Đây được xem là những yếu tố tích cực trong xu hướng của học sinh, biết lựa chọn, yêu thích những sản phẩm và ứng dụng thực tế, nhưng không quá lệ thuộc vào chúng mà dẫn đến những bất ổn về mặt tâm lý.
III. THỰC TRẠNG NGHIỆN GAME TRỰC TUYẾN Ở LỨA TUỔI HỌC SINH
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, nhiều dịch vụ công nghệ truyền thông ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Một trong những dịch vụ hàng đầu hiện nay là các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là sự phát triển của Internet. Internet được sử dụng như một công cụ đắc lực phục vụ việc học hành, nghiên cứu, làm việc và giải trí... Trong đó, game trực tuyến là một trong những hình thức giải trí được giới trẻ yêu thích. Hiện nay, tình trạng chơi và nghiện game trực tuyến trong giới trẻ chiếm tỷ lệ
76
khá cao. Không thể phủ nhận những lợi ích giải trí mà game trực tuyến đem lại, song việc chơi game liên tục, không kiểm soát sẽ dẫn tới những hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến kết quả học tập, sức khỏe, nhân cách, lối sống của các em... Bên cạnh những tác động tích cực, tình trạng nghiện game trực tuyến đang trở thành vấn đề bức xúc của gia đình, nhà trường và xã hội. Với ưu thế là một loại hình giải trí hiện đại, dễ chơi, nhất là đối với lứa tuổi học đường, nhưng game trực tuyến cũng tiềm ẩn nhiều tác hại. Môi trường game trực tuyến rất sống động, thậm chí trong nhiều trường hợp còn ly kỳ hơn cuộc sống bên ngoài. Càng dành nhiều thời gian chơi, niềm đam mê đầu tư cho nhân vật càng lớn. Săn lùng, nhặt đồ, bán đồ,... sôi động chẳng khác nào thế giới thật. Và rồi họ trở thành dân “nghiện” lúc nào không biết. Bệnh nghiện game sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh khiến các em học hành sa sút, bị đuổi học, sức khỏe giảm sút, thậm chí trầm cảm, loạn thần,... nhiều trường hợp trộm cắp, cướp giật, thậm chí giết người vì nghiện game trực tuyến cũng đã xảy ra và được báo chí đăng tải nhiều trong thời gian vừa qua. Tình trạng nghiện game trực tuyến ở giới trẻ đã trở nên đáng báo động bởi nó có thể để lại nhiều hậu quả khôn lường, cần có sự quan tâm và trách nhiệm vào cuộc của toàn xã hội hiện nay.
1. Khái niệm cơ bản
1.1. Trò chơi trực tuyến
“Trò chơi trực tuyến” hay “game trực tuyến” là thuật ngữ để gọi tên một trong các ứng dụng giải trí
77
của Internet. Trò chơi trực tuyến thực chất là trò chơi điện tử nhưng cho phép người chơi tham gia cùng lúc với nhiều người chơi khác. Các trò chơi trực tuyến có nhiều tính năng khác nhau nhưng có chung đặc điểm sau: hệ thống nhiệm vụ và tài sản ảo của trò chơi; hệ thống trao đổi buôn bán và lập nhóm, hội; hệ thống quản lý,...
1.2. Nghiện game trực tuyến
“Nghiện game trực tuyến” là một trường hợp của nghiện Internet, có thể được định nghĩa là một rối loạn kiểm soát xung lực (impulse control disorder) không liên quan đến chất gây nghiện. Trong đó, người sử dụng dành hơn 38 giờ đồng hồ hoặc hơn thế mỗi tuần và có biểu hiện ít nhất một triệu chứng gồm khó ngủ hay mất tập trung, khát khao được lên mạng, cáu giận và đau đớn về thể xác hay tinh thần là biểu hiện của nghiện Internet - game trực tuyến.
2. Thực trạng nghiện game trực tuyến
Game trực tuyến là một sản phẩm của công nghệ cao, của tri thức, cũng là trò chơi giải trí hiện đại và thông dụng với học sinh ngày nay. Có thể nói, chơi game là để giảm bớt căng thẳng trong học tập nhưng ranh giới giữa giải trí và “nghiện ngập” ngày càng trở nên mong manh. Game trực tuyến đưa con người vào thế giới ảo được thiết kế với các tính năng gần như thế giới thật, người chơi được tạo hình nhân vật và hoà mình vào một thế giới mới, mà ở đó người chơi có thể biến những điều kiện không thể thành có thể
78