" Các Triều Đại Trung Hoa - PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Triều Đại Trung Hoa - PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo LỜI NÓI ĐẦU Dân tộc Trung Hoa có một lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm với hàng trăm triều đại nối tiếp nhau. Song có bao nhiêu triều đại và các triều đại đó hình thành, phát triển, bại vong ra sao thì có mấy ai biết hết. Để giúp bạn đọc có những hiểu biết cơ bản, khái quát và hệ thống về sự mở đầu, tiếp tục và kết thúc của "Các triều đại Trung Hoa" là mong muốn của tác giả và Nhà xuất bản Từ Điển Bách Khoa. Tuy cuốn sách là một cố gắng lớn của tác giả trong việc sưu tầm, nghiên cứu, chắt lọc và biên soạn tư liệu để hình thành cuốn sách, song cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Lần xuất bản này chúng tôi có sửa chữa và bổ sung thêm theo tiếp thu ý kiến từ bạn đọc. Song chúng tôi vẫn rất mong bạn đọc góp thêm ý kiến để cuốn sách hoàn thiện hơn nữa ở những lần in sau. NHÀ XUẤT BẢN TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA Bảng đối chiếu các triều đại phong kiến Trung Hoa theo Công nguyên Đời vua Năm Hạ - Vào khoảng thế kỷ 21 - 17 trước CN Thương - Vào khoảng thế kỷ 17 - 11 trước CN Chu 11 đến 220 trước CN Tây Chu: Thế kỷ 11 đến 771 trước CN Đông Chu: 770 - 256 trước CN + Thời xuân thu 770-475 trước CN + Chiến Quốc(1) 475 - 221 trước CN Tần 221 - 206 trước CN Hán Tây Hán 206 trước CN - 23 sau CN Đông Hán 25 - 220 Tam Quốc Ngụy 220-265 Thục Hán 221-263 Ngô 222 - 280 Tấn Tây Tấn 265 - 317 Đông Tấn 317-420 16 nước 304-439 Nam Bắc Triều 420 đến 589 Nam Triều Tống 420 - 479 Tề 479 - 502 Lương 502 - 557 Trần 557-581 Bắc Triều Bắc Ngụy 386 - 534 Đông Ngụy 34 - 550 Tây Ngụy 535 - 557 Bắc Tề 550-577 Bắc Chu 557-581 Tùy 581 - 618 Đường 618 - 907 Đời vua Năm Ngũ Đại Thập Quốc Hậu Lương(2) 907 - 923 Hậu Đường 923 - 936 Hậu Tấn 936 - 946 Hậu Hán 947 - 950 Hậu Chu 951 - 960 Thập Quốc(3) 902 - 979 Tống Bắc Tống 960 - 1127 Nam Tống 1127 - 1279 Liêu 907 - 1125 Kim 1115 - 1234 Nguyên 1206 - 1368 Minh 1368 - 1644 Thanh 1616 - 1911 Trung Hoa Dân Quốc 1912 - 1949 XÃ HỘI NGUYÊN THỦY Thời Ngũ Đế: Vào khoảng đầu thế kỷ 26 đến thế kỷ 21 trước Công nguyên trải 5 đời vua. 1. Hoàng Đế 2. Chuyên Húc 3. Đế Cốc 4. Nghiêu 5. Thuấn Trong thời gian từ 1927 đến 1937, tại Chu Khẩu Điếm phía tây nam Bắc Kinh, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện được di tích người vượn Trung Quốc còn gọi là "Người vượn Bắc Kinh" với hài cốt đã hóa thạch và các di tích văn hóa còn tồn tại. Người vượn Trung Quốc là giống người Nguyên thủy Trung Quốc sinh sống hàng 50 đến 60 vạn năm trước đây. Họ có thể chế tạo và sử dụng đồ đá đơn giản như rìu búa, cũng biết dùng đồ xương của người xưa. Những nơi có người Bắc Kinh sống đã phát hiện được nhiều xương hóa thạch cùng các dụng cụ bằng đá, các nồi chảo đã có lửa đốt đun, chứng minh họ đã biết dùng lửa. Năm 1922 đến 1923 đã phát hiện được người "Hà Sáo" ở Nội Mông Cổ, giống người này gần người hiện đại hơn, cách đây độ 20 vạn năm. Từ 1933 đến 1934 đã phát hiện được người "Sơn Đỉnh Động" ở Chu Khẩu Điếm. Giống người này đã dùng nhiều đồ đạc chế tạo bằng xương, đồ đá ít. Xã hội Nguyên thủy thành lập các công xã không có bóc lột, không có giai cấp, cuộc sống lạc hậu, mông muội. TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỜI THƯỢNG CỔ TRUNG QUỐC Theo truyền thuyết về nguồn gốc người Trung Quốc thì ban đầu, trong thời kỳ Nguyên thủy, Trung Quốc có họ Hữu Sào (có nghĩa là: "có tổ"). Ban ngày đi hái quả ăn, ban đêm nghỉ ngơi trên tổ làm trên các cây to cao. Sau đó là họ "Toại Nhân". Đời sống từ chỗ ăn hoa quả rừng, dần dần biết săn bắn, bắt cá. Từ chỗ ăn sống, tiến tới ăn các thức ăn đã nướng chín, có thể nói dần dần từ bỏ thời kỳ mọi rợ đi lên thời kỳ bán khai. Đó là quá trình phát triển chung của loài người. Tiếp theo là họ Phục Hy: Phát minh ra chài lưới đánh cá, làm bẫy để săn muông thú, biết chăn nuôi gia súc. - Họ Nữ Oa: Theo truyền thuyết, Phục Hy ăn ở với Nữ Oa, biết giao phối, mở đầu cho việc phát triển dòng giống. - Họ Thần Nông: Phát hiện ra cách trồng trọt lúa và hoa màu, sáng chế công cụ lao động: Cày bừa, biết làm các đồ đất đem vào lò nung. Tổ chức nơi trao đổi sản phẩm. Bắt đầu hình thành chữ. Do sống cuộc thời nguyên thủy, nên lòng dạ ngay thẳng, họ chưa biết tranh cướp của nhau, nên chưa có luật pháp. Thần Nông còn có một tên nữa là "Liệt Sơn" (có nghĩa là "đốt núi"). Thời kỳ này con người đã biết khai hoang, mở rộng đất canh tác. Có ba người tiêu biểu cho họ Thượng cổ Trung Quốc: Thái Hiệu, Viêm Đế và Xuy Vưu. Viêm Đế: Theo truyền thuyết là người họ Khương, người dân tộc miền Tây, cạnh tranh với các Nam tộc. Xuy Vưu: Một trong chín bộ tộc của Man tộc đã đánh nhau với Viêm Đế. Viêm Đế xin Hoàng Đế giúp đỡ. Sau mấy trận ác ́ chiến mới diệt được Xuy Vưu. Hai thị tộc Viêm Đế và Hoàng Đế dần lớn mạnh và ngày nay vẫn được nhắc lại hai từ "Viêm Hoàng". TRUYỀN THUYẾT NGHIÊU - THUẤN Trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, thường được người đời sau nhắc đến chuyện Nghiêu, Thuấn, Vũ truyền ngôi cho nhau. Theo truyền thuyết, cả ba người đều là dòng dõi các họ đứng đầu Hoa tộc lúc bấy giờ. Nghiêu lên ngôi vua, đóng đô ở Bình Dương (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong lúc làm vua, có một lần Nghiêu đã hỏi ý kiến nhiều người và cử Thuấn thay Nghiêu làm vua. Khi Nghiêu chết, Thuấn chính thức lên ngôi kế tục sự nghiệp mà Nghiêu giao cho. Thời gian sau, Thuấn noi theo gương của Nghiêu, truyền ngôi lại cho Vũ. Trong khi Vũ đang còn làm vua, mọi người, kể cả Vũ đã cử Cao Giao thay Vũ sau này. Nhưng Cao Giao chết trước Vũ, do đó mọi người cử con của Cao Giao là Ích thay thế. Đến đây đã manh nha ý thức "cha truyền con nối". Khi Vũ chết, con của Vũ là Khải cướp ngôi của Ích, làm vua. Chế độ cử người truyền ngôi từ đây chấm dứt. CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ Chế độ chiếm hữu nô lệ bắt đầu từ nhà Hạ và nhà Thương (từ 2200 đến 1100 trước Công nguyên). NHÀ HẠ (Cuối thế kỷ 22 đầu thế kỷ 21 cho đến thế kỷ 17 trước Công nguyên) Gồm có các vua: - Vũ - Tiết - Khải - Bất Hàng - Thái Khang - Quynh - Trọng Khang - Cẩn - Trương - Khổng Giáp - Thiếu Khang - Cảo - Trữ - Phát - Hoè - Kiệt - Mang Trong thời gian Vũ trị vì, Vũ đã phát minh ra lối tát nước vào ruộng, lại bắt sống được một số người dân tộc Man về làm nô lệ. Vũ bắt đầu xây dựng thành quách để giữ gìn của riêng và người trong dòng họ. Của cải của Vũ, để lại cho con là Khải thừa hưởng. Khải lên ngôi, tình thế chưa ổn định, phải lấy đất An Ấp (thuộc tỉnh Sơn Tây bây giờ) để đóng đô. Những con cháu sau này nối ngôi Khải đều nhiều lần đánh phá lẫn nhau, luôn luôn gây ra các cuộc chiến tranh chinh phạt nhỏ. Kinh tế xã hội lúc bấy giờ đã phát triển tiến bộ. Phương pháp làm lịch bắt đầu xuất hiện. ̀ ̀ Từ khi lên ngôi, Khải đặt tên cho triều đại là Hạ. Theo truyền thuyết đời Hạ đã có đến chín cái vạc đồng do Khải đúc. Như vậy thời kỳ này đã có đồng và nghề đúc đồng. Triều đại tiếp theo là Thương (1800 đến 1100 trước Công nguyên). Nhà Thương là con cháu của vua Tiết. Thời kỳ này nông nghiệp phát triển. Theo truyền thuyết đã có xe ngựa, có cả xe trâu bò. Do nông nghiệp phát triển nên nhà Thương dời đô lên phía bắc sông Hoàng. Nhà Thương biết giao lưu và trao đổi hóa vật, và như thế phát triển thương nghiệp. Nhà Hạ có nô lệ, đến nhà Thương số nô lệ càng đông hơn. Cuối thời Hạ, có vua Kiệt là một ông vua hung bạo. Nhân dân cuối thời Hạ rất oán ghét Kiệt. Kiệt tự coi mình như "mặt trời". Dân chúng thời bấy giờ thường lãn công và chỉ lên "mặt trời" nguyền rủa "chúng tao vui lòng chết ngay, mày cũng chết đi cho rảnh". Sách sử cũ có chép: "Dân đời Hạ dùng phương thức lãn công để chống lại các chủ nô". NHÀ THƯƠNG (Thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 21 trước Công nguyên) Gồm có các vua: - Thang - Thái Tuất - Ngoại Bính - Trọng Đinh - Ngoại Nhâm - Hà Đ ản Giáp - Trọng Nhâm - T ổ Ất - Thái Giáp - Tổ Tân - Ốc Đinh - Ốc Giáp - Thái Khang - Tổ Đinh - Tiểu Giáp - Nam Khang - Ung Kỷ - Dương Giáp Thang đã diệt vua Kiệt, lập ra nhà Thương, lên ngôi vua, tự xưng là Võ Vương. Cuối thời Thương, tình hình chính trị xã hội rối loạn. Nhà vua ra sức xây dựng cung điện, quý tộc xa xỉ, dâm ô. NHÀ THƯƠNG ÂN Bàn Canh: Dời đô về đất Ân, từ đó còn gọi là Thương Ân. - Tiểu Tân - Khang Đinh - Tiểu Ất - Vũ Ất - Vũ Đinh - Thái Đinh (Văn Đinh) - Tổ Canh - Đế Ất - Tổ Giáp - Trụ - Lẫm Tân Vua Bàn Canh vào giữa thời Thương đã có công bài trừ nạn xa xỉ tham nhũng. Bàn Canh dời đô đến đất Ân và từ đó nhà Thương gọi là nhà Ân, hay là Thương Ân. Cuối thời Ân lại gọi tên nước là Thương. Vua cuối nhà Thương là vua Trụ. Trụ là vua hung bạo nhất thời Thương. Trụ bị Võ Vương nhà Chu đánh lấy mất nước. Nhà Thương có 17 đời, 30 vua, trong đó có 14 vua là em nối ngôi anh. Trong thời Thương, chế độ chiếm hữu nô lệ chiếm địa vị chủ yếu. Chữ "giáp cốt" (chữ viết trên mai rùa) được phát minh từ đây. Thời Thương, nghề chăn nuôi phát triển. Nhiều loại gia súc mà sau này dân Trung Hoa nuôi dưỡng thì thời Thương đều có. Quân lính đã biết dùng voi để đánh trận và vận chuyển. Số sinh vật bị giết cho việc cúng tế cũng khá nhiều. Các sản phẩm nông nghiệp: lúa tẻ, lúa nếp, lúa theo các vụ đã phát triển. Trung Hoa là nước đầu tiên phát minh ra việc "đào giếng" lấy nước ăn, dùng để rửa. Theo truyền thuyết, Ích là người đầu tiên biết đào giếng. Tuy chưa xác thực, nhưng chắc chắn thời Thương có giếng, do đó dân chúng ít ở ven sông. Việc này có ý nghĩa rất lớn đối với việc mở rộng diện tích ruộng đồng và tăng thêm dân số. ̀ Thời này, nhân dân được gọi là "tiểu nhân", có thể xem là tầng lớp bình dân. Phương thức sản xuất thời Thương tiếp theo chế độ Cộng sản nguyên thủy là phương thức sản xuất của chế độ nô lệ. Nô lệ làm việc cho chủ nô chính là làm nông nghiệp. Thủ công nghiệp có rất nhiều nghề và sự phân công cũng đã khá tỉ mỉ. Ở An Dương, nền cung điện xưa kia của các vua chúa người ta đã đào được di tích công trường thợ đá, thợ ngọc, thợ làm đồ bằng xương thú, thợ làm đồ đồng. Trong bốn loại thợ trên, thợ làm đồ đồng chủ yếu làm các bình, các lọ để cúng tế. Các đồ dùng bằng xương nhẵn bóng, chắc đã qua nhiều tay người dùng. Đó cũng chính là những thứ đồ mỹ nghệ. Ngoài ra các nghề như: Làm đồ da, nấu rượu, thợ đất, thợ mộc, nuôi tằm, dệt lụa, làm áo lông cừu đều có chép trong văn tự giáp cốt. Thời đại này tiền tệ đã xuất hiện. Tiền bằng vỏ trai, vỏ hến là sản vật vùng ven biển. Thiếc để chế thành đồng thau thì từ phương Nam đưa lên. Miền tây sản xuất ngọc. Thời Bàn Canh đã gọi ngọc là "bảo hóa" (của quý). Có loại tiền làm bằng xương. Thời Thương cho dân chở hàng hóa trên các xe trâu bò đi bán ở các nơi. Điều đó chứng tỏ thời Thương, thương nghiệp phát đạt. Về hình pháp: Tuân Tử có viết: "Tên gọi các hình phạt có từ thời Thương". Hàn Phi Tử thì viết: "Pháp luật thời Thương quy định ai đổ tro bẩn ra đường phố thì bị chặt tay". Giai cấp thống trị đương thời đã lợi dụng hình phạt để ép bình dân làm nô lệ và cũng để đàn áp sự phản kháng của nô lệ. Thời đó rất nhiều nô lệ bị chôn theo người chủ hoặc bị dùng làm vật cúng tế. Mãi đến thời Đông Hán (khoảng năm 300 sau Công nguyên), dân tộc thiểu số miền Tây Nam vẫn còn giữ lối phục sức có cái đuôi dài như người nô lệ thời Thương. Tổ chức quốc gia của Trung Hoa bắt đầu thành lập từ thời Thương. Thời kỳ toàn thịnh của thời Thương đã có các thuộc quốc. Phía đông có Tề, phía tây có Chu, phía nam có Quang, phía bắc có Thao. ̀ ́ Địa bàn chính trị nhà Thương gồm toàn tỉnh Hà Nam, mấy tỉnh nữa là Sơn Đông, Hà Bắc, Sơn Tây, Thiểm Tây và An Huy ngày nay. Thời Thương đã có các giai cấp đối lập. Có người giàu, người nghèo, có người bóc lột và bị bóc lột. Sử có chép: Bình dân phải nộp tô thuế. Có người hưởng nhiều quyền lợi, có người không được hưởng chút nào (nô lệ). Có thống trị, có bị trị, nên hình phạt cũng rất nặng, đã có nhà giam, chứng tỏ giai cấp thống trị áp bức nhân dân khá tàn ác. Quốc vương tổ chức quân đội sai các "Tể" tướng cầm quân đi đánh nơi này nơi khác. Các thuộc quốc không được chế tạo và tàng trữ binh khí. Vua tự xưng là "Thiên tử" (con trời). Việc hôn nhân của vua được quy định. Vua có một vợ là hoàng hậu. Ngoài ra còn có rất nhiều cung phi, tỳ thiếp. Con của hoàng hậu được nối ngôi vua cha, chẳng may con của Hoàng hậu chết, những người em khác mới được thay thế. Chế độ thế tập từ đó phát triển lên một bước. Thời Thương, thần quyền có địa vị quan trọng. Bàn Canh dạy bảo dân chúng. "Nếu các con không nghe theo lời ta, thì các "tiên vương" ở trên trời sẽ giận đấy! Tại sao các con không nghe lời ta? Tổ tiên các con sẽ kêu oan với các tiên vương, xin phạt các con thật nặng, giết hết các con không để sót giống lại". Tế lễ thời Thương có nhiều hình thức khác nhau, thứ bậc nhiều, đồ cúng rất phiền phức. Người chết đã thế thì người sống cực kỳ xa xỉ. Chuyển sang thời Chu, xã hội Trung Hoa bắt đầu chuyển sang chế độ Phong kiến. CUNG ĐIỆN VÀ LĂNG MỘ NHÀ THƯƠNG ́ ̀ ́ ́ Cung điện nhà Thương rất đồ sộ, có đến mấy chục tòa nhà, cái to nhất dài đến 60m, rộng 10m, trong cung điện có mấy trăm hầm lớn, chứa rất nhiều lương thực và của cải. Khi vua Thương chết thì chôn trong một ngôi mộ lớn. Cùng chôn theo có đến mấy trăm thứ đồ vàng, ngọc, đồng và đá chạm hoa. Ngoài ra còn có nhiều người bị tuẫn táng, có người bị chôn sống, có người bị chặt đầu rồi chôn. Những nô lệ bị tuẫn tãng như thế thường có đến mấy trăm người. Nhân dân thì ở trong những hang lều chật hẹp và sơ sài, chỉ dựng lên mấy cái cột thấp, rồi bên trên che một ít cỏ tranh là xong. Đến lúc họ chết thì chỉ được chôn vùi qua loa và đem theo một ít đồ gốm và binh khí. Từ truyền thuyết, xã hội Nguyên thủy và dựa vào khai quật, cho người ta biết xã hội Nguyên thủy mở đầu và chuẩn bị cho các thời đại sau. VĂN HÓA THƯƠNG - ÂN Lịch sử Trung Quốc cho biết đầu thời Thương Ân mới bắt đầu có chữ viết được ghi chép trên đồ dùng đồng xanh với văn giáp cốt. Trên đồ đồng đã khắc Minh văn. Thời Tống bắt đầu ghi chép nghiên cứu Minh văn. Cuối thời Thanh, đồ vật đào được có nhiều đồ đồng khắc Văn Giáp Cốt, Văn Giáp Cốt đều là ghi chép lại sử liệu văn hóa Thương Ân. Ngày nay, Văn Giáp Cốt là một loại chữ cổ nhất của văn tự Trung Quốc, thứ chữ này là hình tượng đơn giản nhất. TRỤ VƯƠNG (Thọ Tân Hoàng Đế) Vào khoảng từ năm 1166 đến 1134 trước Công nguyên, ông vua cuối cùng của nhà Thương, vua Trụ đã trị vì thiên hạ Trung Hoa. Vua Trụ là người rất thông minh, có tài hùng biện. Vì vậy khi nghe các quan đại thần tâu qua một việc gì, Trụ hiểu sâu, nắm vững và hành động kịp thời. Nếu Trụ làm những việc sai trái, có quan Can gián, Trụ dùng lý lẽ để bào chữa rất lưu loát, thuyết phục được mọi người, khiến ai cũng cho là có lý. Vua Trụ có sức mạnh phi thường. Sử chép "Vua Trụ chỉ tay không mà vật ngã 9 con trâu mộng, bưng nổi cột nhà, làm gãy cả xà chính”. Sức mạnh của Trụ không kém gì Hạng Vũ và không thua gì Héc Quyn trong thần thoại Hy Lạp. Nhưng vua Trụ tính tình lại tàn bạo, nên càng thông minh bao nhiêu, Vua càng tàn ác bấy nhiêu. Nếu so sánh phương Đông với phương Tây thì vua Trụ chẳng khác gì bạo chúa Nê-rông của La Mã. Và cũng như Nê-rông, vua Trụ vì đam mê tửu sắc, vùi đắm trong truy hoan, kết cục bị giết chết thảm hại và mất nước. Sử cũ có viết: “Để thỏa mãn thú vui, ăn chơi trụy lạc, vua Trụ cho người đi khắp nơi tìm chim lạ, thú ác, đào hố nuôi rắn độc, nếu ai không theo ý nhà Vua, lập tức bị xô xuống hố, chết thảm thương. Vua Trụ còn cho đào ao, đổ đầy rượu, thò cổ xuống ao uống như trâu bò, treo thịt nướng trên cây, rứt từng miếng to ăn uống nhồm nhoàm. Mọi người hành lạc với Vua đều trần truồng thác loạn suốt ngày đêm”. Đất Ký Châu do Tô Hộ thống quản, dân chúng Ký Châu sống khổ cực do thiên tai, nhưng triều đình vẫn không tha bắt cống nạp ̀ ́ ́ ̀ ̀ nặng nề, nếu không sẽ đem quân đánh chiếm. Nhiều lần Tô Hộ dâng sớ tâu bày, nhưng vua Trụ vẫn không nghe. Trước tình hình nguy cấp, Tô Hộ tìm các nước láng giềng cầu viện, một láng giềng thân tình là Tây Bá Hầu, sau này là Chu Văn Vương. Nhiều lần bàn bạc cùng các cận thần, Tô Hộ và Tây Bá Hầu tìm cách "lấy sắc đẹp" để làm cho vua Trụ sa đọa, đánh trúng vào chỗ yếu của vua Trụ là hiếu sắc. Cuối cùng Tô Hộ đã dâng con gái là Đát Kỷ cho vua Trụ. Từ ngày vua Trụ có Đát Kỷ, một cô gái có nhan sắc lộng lẫy, sắc sảo, ăn đứt tất cả các phi tần cung nữ của Vua, nhà Vua chê bỏ các cung nữ, phi tần, bỏ bê việc nước, không còn nghe ai Can gián. Triều đình Trụ ngày càng hủ bại, khắp nơi dân tình đều đồng loạt nổi lên chống lại. Miệt mài trong cuộc truy hoan, đắm say tửu sắc, vua Trụ bất cứ việc gì cũng nghe theo lời Đát Kỷ. Do làm những việc tàn bạo, dân chúng đã đặt cho y cái biệt hiệu "ác lai". Nghe lời Đát Kỷ, vua Trụ đã cho xây Lộc đài rộng 3 dặm, cao hơn một ngàn thước, (thước Trung Quốc = 0,25m), bắt dân đóng thuế thật nặng. Vua Trụ cho xây cất kho "Cự Kiều" rất lớn để chứa đầy thóc lúa. Vua Trụ cho xây "Khuyển Đài" ở Sa Khưu để nuôi hàng nghìn, chó, ngựa, hổ, báo, khỉ, để cho Đát Kỷ săn bắn, dựng hí trường bắt nhân dân đến ca hát mua vui. Vua Trụ rất tàn ác, kẻ nào phạm tội đều bị trói tay, dẫn đến trước mặt đông đủ bá quan, Vua sai lính chất một đống củi to, cháy đỏ, bắc ngang trên đống lửa một thanh đồng tròn bôi mỡ bóng, nóng và trơn, vua Trụ bắt phạm nhân leo qua thanh đồng, tội nhân bị bỏng, trơn trượt nhào xuống đống lửa, Vua và Đát Kỷ khoái chí cười sặc sụa. Vua còn bắt triều thần đứng chung quanh phải cười theo tán thưởng. Các quan đều sợ, phải cười theo để được lòng Vua. Dã sử có ghi: "Vua Trụ giết người đến mức say máu, có khi ăn cả thịt người. Một chư hầu đến dâng vua Trụ một cô gái đẹp. Đát Kỷ ghen xui vua Trụ giết cả hai cha con cô gái, lấy thịt làm mắm ăn. ̀ ́ ́ ́ Ngạc hầu đem lời Can gián, vua Trụ bắt giết luôn, lấy thịt làm nem". Chính sách và hành động của vua Trụ khiến cho các quan đại thần cương trực trong triều phẫn uất. Các quan đại thần như: Vi Tử, Cơ Tử và Tỉ Can chú ruột của vua đều khuyên răn. Nhưng nghe lời Đát Kỷ, vua Trụ đã mổ bụng Tỉ Can xem gan to đến đâu mà dám khuyên can vua. Tỉ Can chết, mọi người đều oán giận. Khắp nơi trong cả nước, dân chúng nổi dậy chống lại vua Trụ, chống lại triều đình. Tin chiến sự cấp báo từ biên cương dồn dập đổ về. Quân các nước chư hầu vượt biên giới vào Trung Nguyên. Quân Trụ đều cởi giáp qui hàng. Được tin xấu, vua Trụ chạy vào Lộc Đài mặc quần áo đẹp, chung quanh quấn đầy ngọc ngà châu báu, nhảy vào lửa tự thiêu. Chu Vũ Vương, chỉ huy đội quân chiến thắng, cầm cây cờ Đại Bạch thẳng tới hoàng thành, chỗ vua Trụ tự sát, thấy xác đã cháy đen chỉ còn cái đầu cháy nham nhở, Chu Vũ Vương rút gươm chặt đầu vua Trụ, treo lên cây cờ trắng. Thế là nhà Thương trị vì thiên hạ được 661 năm, đến đời vua Trụ, đã sụp đổ. BẮT ĐẦU CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN NHÀ TÂY CHU (Từ thế kỷ 11 đến năm 771 trước Công nguyên) Gồm các triều vua: Vũ Vương Cơ Phát Thành Vương Cơ Tung Khang Vương Cơ Chiêu Chiêu Vương Cơ Hà Mục Vương Cơ Mãn Công Vương Cơ Tử Ý Ý Vương Cơ Kiên Hiếu Vương Cơ Bích Di Vương Cơ Tạ Lệ Vương Cơ Hồ Tuyên Vương Cơ Tính U Vương Cơ Cung Thăng CHU CÔNG ̀ ́ Bộ tộc Chu, khởi đầu ở lưu vực sông Vị, tỉnh Thiểm Tây. Lúc bấy giờ hai bộ tộc lớn là Ân và Chu luôn đấu tranh với nhau. Bộ tộc Chu trôi dạt đến vùng Tây Bắc khoảng 1200 năm trước Công nguyên rồi định cư, chủ yếu sinh sống bằng nghề chăn nuôi. Còn bộ tộc Ân trước cùng phát triển song song với bộ tộc Chu, nhưng do nội bộ mâu thuẫn nên bộ tộc Ân quay ra đối đầu với bộ tộc Chu, hai bộ tộc đã có nhiều cuộc chiến tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng. Chu Công là người kiệt xuất của tộc Chu, ông chủ trương thương lượng, mọi mặt đều có thể ngồi lại với nhau để bàn bạc. Ông luôn nói, ông chỉ là người đại diện cho toàn bộ tộc để chấp chính, mong muốn ổn định cho bộ tộc và hòa bình với các bộ tộc khác. Mặt khác, Chu Công có nhiều biện pháp kiên quyết trấn áp phiến loạn. Chu Công đã tổ chức một cuộc Đông chinh, cuộc chiến tranh về phía đông này đã diễn ra trong 3 năm ròng, giết được Vũ Khang và Quản Thúc, đánh đuổi được đồng bọn của Khang, Thúc, đã chinh phục được cả vùng hạ du rộng lớn sông Hoài. Sau khi Chu Công Đông chinh thắng lợi đã thực hiện các biện pháp cai trị quan trọng như xây dựng kinh độ Lạc Dương, (nay gần Tây An) khống chế và theo sát vùng phía đông, phân hóa toàn bộ những người trong bộ tộc Ân còn lại, đưa vào các ấp của người tộc Chu. Ông tổ chức khai khẩn, trồng cây và lao động sản xuất. Ngoài ra tộc Chu được Chu Công cho phép anh em họ hàng có thể lấy nhau, tạo nên sự vững mạnh của dòng họ, củng cố lực lượng phòng chống sự tấn công của bộ tộc địch bên ngoài. Thời bấy giờ văn hóa xã hội đã có những hoạt động đạt được trình độ khá cao. Về chính trị Chu Công đặt ra thể chế có qui định chặt chẽ, trật tự. ̀ ̀ Những điều qui định này có bộ sách Chu Lễ đã ghi chép đầy đủ. Chu Lễ: Trước đây có tên là Chu Quan, là bộ sách ghi chép những qui chế chính trị phân chia chức tước quan lại đời xưa. Gồm có 6 thiên: - Thiên quan Chủng tể - Địa quan Tư đồ - Xuân quan Tây bá - Hạ quan Tư mã - Thu quan Tư khấu. - Đông quan Tư không. Do thiên "Đông quan" bị thất lạc, đời Hán có bổ sung "Khảo công ký" cho nên còn gọi là: Đông quan Khảo công ký Chu Dịch: còn gọi là Chu Dị hay Kinh Dịch. Trước đây là loại sách liệt vào sách bói cổ đại, về sau các nhà nghiên cứu đã phát hiện nội dung cuốn sách có nhiều nguyên lý làm sáng tỏ sự biến hóa vạn vật có nội dung triết học. Bộ phận cơ bản trong Chu Dịch là đề cập đến 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, hợp lại thành 384 hào. Quẻ: có quẻ từ, hào có hào từ. Quẻ từ, hào từ cấu tạo thành phần kinh của Chu Dịch. Nội dung sách còn giải thích hào từ, tính chất của hào từ và bát quái và khởi đầu của chúng có 10 loại vấn đề nếu đi sâu phải nắm vững khá nhiều tri thức triết học. Tác phẩm Chu Dịch trước đây do Trịnh Huyền chú giải hiện nay đã mất mát thất truyền. Bản thường dùng ngày nay là bản của Ngụy do Vương Bột chú giải. ̀ "Chu Dịch tập giải" do nhiều nhà nghiên cứu chú giải là bản rõ ràng. CHU VŨ VƯƠNG Là ông vua khai quốc của vương triều Chu, ông họ Cơ tên Phát: Cơ Phát. Tộc Chu vốn chiếm cả một vùng Kỳ Sơ tỉnh Thiểm Tây, Văn Vương cố gắng phát triển, thống nhất được cả vùng lưu vực sông Vị, thế lực dần lớn mạnh. Những năm cuối triều Thương, Cơ Phát kế vị vua cha làm Tây Bá. Vua Trụ, triều Thương Ân - hoang dâm vô độ, Vũ Vương thừa cơ liên hợp với nhiều bộ tộc tiến hành đông chinh, vua Trụ đại bại ở Hà Nam, triều Thương bị diệt vong. Vũ Vương, xây dựng triều Chu, tự xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Cảo Kinh, nay là Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Hoạt động chính của Vũ Vương vào khoảng thế kỷ 11 trước Công nguyên. Nội bộ triều Chu mâu thuẫn phải dời đô về phía đông. CHU LỆ VƯƠNG Để có nhiều của cải, Chu Lệ Vương lấy quyền chúa tể đặt ra nhiều luật lệ để mình dễ vơ vét, biến của công làm của riêng. Cuộc đấu tranh nội bộ trong triều đình xảy ra giữa bọn quý tộc với nhau, phái mạnh đã dùng thủ đoạn áp chế để đối phó với bọn bất mãn và chống đối. Kết quả đã lật đổ được Chu Lệ Vương, ủng hộ Cộng Bá Hòa lên làm chủ và ngồi vững trên ghế cầm quyền từ năm 841 đến 828 trước Công nguyên tất cả 14 năm với chế độ "Cộng Hòa" Năm 841 trước Công nguyên, lịch sử Trung Quốc được xác thực bắt đầu. Từ đó về sau lịch sử Trung Quốc mới có niên đại chuẩn xác. ́ ́ Chu Lệ Vương chết, Chu Tuyên Vương lên ngôi kế vị, nhà Chu bắt đầu xuống dốc, chư hầu khắp nơi nổi dậy. Năm 781 trước CN, Chu U Vương lên ngôi, triều đình loạn lạc, nhiều thế lực ngay cả Thái tử cũng tấn công Chu U Vương. Cuối cùng Chu U Vương bị giết chết. Năm 770 trước CN, Chu Bình Vương lên ngôi. Chu Bình Vương đã chuyển về phía đông cho nên gọi là Đông Chu. Chu Bình Vương bỏ mất kinh thành Lạc Ấn, thế lực yếu kém dần, đất nước rơi vào tay các chư hầu, tranh giành ảnh hưởng và quyền lực, xã hội loạn lạc. ĐÔNG CHU (Từ 770 đến năm 206 trước Công nguyên) Bình Vương Cơ Nghi Cưu - 771 đến 719 Trước CN Hoàn Vương Cơ Lâm - 719 đến 696 - Trang Vương Cơ Đà - 696 đến 681 - Hy Vương Cơ Hồ Tề - 681 đến 676 - Huệ Vương Cơ Lương - 676 đến 651 - Trương Vương Cơ Trịnh - 651 đến 618 - Khoanh Vương Cơ Nhâm Thần - 618 đến 612 - Khương Vương Cơ Du - 612 đến 606 - Định Vương Cơ Du - 606 đến 585 - Giản Vương Cơ Di - 585 đến 571 - Linh Vương Cơ Di - 571 đến 544 - Cảnh Vương Cơ Tiết Tâm - 544 đến 520 - Hiệu Vương Cơ Mãnh - 520 đến 519 - Kính Vương Cơ Cái - 519 đến 475 - Nguyên Vương Cơ Nhân - 475 đến 468 - Trinh Đinh Vương Cơ giới - 468 đến 441 Trước CN Ai Vương Cơ Khứ Tật - 441 - Tư Vương Cơ Thúc - 441 đến 440 - Khảo Vương Cơ Vĩ - 440 đến 425 Uy Liệt Vương Cơ Ngọ - 425 đến 401 Bình Vương Cơ Nghi Cưu - 771 đến 719 Trước CN An Vương Cơ Kiều - 401 đến 375 Liệt Vương Cơ Hỉ - 375 đến 368 Hiển Vương Cơ Thiên - 368 đến 320 Thâm Vương Cơ Đinh - 320 đến 314 Noãn Vương Điện - 314 THỜI XUÂN THU (770 - 475 trước Công nguyên) Năm 770 trước CN, Chu Bình Vương chuyển về phía đông bỏ lại kinh đô Lạc Ấp cho ba nước Hàn, Triệu, Ngụy tranh giành quyền lực gây tổn hại về người và của cải, sử gọi là "Xuân Thu" Thời "Xuân Thu", do nhu cầu phát triển của xã hội và cuộc sống, lao động, nên việc chế tạo đồ dùng, nhất là nông cụ bằng sắt đã trở thành chuyên nghiệp. Sắt còn dùng để chế tạo binh khí, trang bị cho chinh chiến nên nó càng có địa vị quan trọng trong xã hội. Từ đó kỹ thuật rèn dũa được nâng cao, các dụng cụ cũng tinh xảo hơn. Đến thời Chiến Quốc (403 - 221 trước CN), công cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi nên nghề thủ công phát triển kéo theo thương nghiệp cũng phát triển do sự trao đổi hàng hóa bằng kim loại. NGŨ BÁ VÀ THẤT HÙNG Sau khi Chu Bình Vương dời đô về phía đông, nhà Chu đã rơi vào bước đường suy nhược, yếu kém đến không thể tự tồn tại được. Còn các nước Chư hầu do trong chiến tranh chiếm đoạt lẫn nhau nên sinh ra mối quan hệ kiêm tính. Đến thời Xuân Thu, dần dần các nước lớn có thế lực buộc các nước khác phải hàng phục qui thuận, nên đã hình thành một số nước lớn. Lúc bấy giờ, các nước ở Sơn Đông phải qui hàng nước Tề, vùng tây bắc nổi lên nước Tần, vùng Hoa Bắc, Sơn Tây có nước Tấn. Vùng Giang Hán Hoài có nước Sở. Hồi đầu triều Chu, toàn Trung Quốc có 1800 nước, đến thời Xuân Thu chỉ còn hơn 100 nước nhưng chỉ có những nước lớn là, ̀ ́ ̀ ́ ̀ Tần, Tấn, Sở, Lỗ, Tề, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Sái, Trịnh, Ngô, Việt, tất cả là 14 nước. Trong đó có 4 nước mạnh trội hẳn là: Tần, Tấn, Tề, Sở. Các nước mạnh lại tranh giành, để làm Bá, đứng đầu bá chủ thiên hạ, buộc các nước nhỏ phải cống nạp. Tử Sản nước Trịnh đã nói: “Mỗi lần cống nạp, phải cống 100 lạng vàng và 1000 người”. Nếu nước nhỏ cống nạp không đúng theo yêu cầu của nước lớn, sẽ bị các nước lớn đem quân khảo phạt và hoạch họe, nhân dân sẽ làm nô lệ. Trong xã hội lúc bấy giờ, do biến động về kinh tế, nói chung, những người sản xuất nhỏ có người đã trở thành kẻ sĩ. Đương thời, vua các nước như Tề Uy Vương, Ngụy Huệ Vương, Yên Chiêu Vương có một thời đã làm kẻ sĩ, được mọi người nuôi dưỡng, còn những người nuôi kẻ sĩ được các nước gọi là “Quân". Ví dụ: Mạnh Thường quân nước Tề. Tín Lăng quân nước Ngụy. Bình Nguyên quân nước Triệu. Xuân Thân quân nước Sở. Có lúc những người nuôi dưỡng kẻ sĩ đã nuôi trong nhà đến 3000 kẻ sĩ. Kẻ sĩ là tiền thân của bọn quan liêu sau này, nhưng đối với chính trị đương thời nó vẫn có tác dụng nhất định. MẶC TỬ (480 - 420 trước Công nguyên) Mặc Tử là nhà đại tư tưởng thời Xuân Thu, Chiến Quốc, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, nhà sáng lập ra học phái Mặc gia. Mặc Tử họ Mặc, tên là Địch, người nước Lỗ (có thuyết nói người nước ́ ́ ́ Tống) xuất thân là công nhân thủ công nghiệp. Học thuyết của ông trên cơ bản đại biểu cho lợi ích của tầng lớp tiểu tư hữu đương thời, là những người thợ thủ công, nông dân và tiểu thương tự do. Học thuyết của ông đối lập với học thuyết Nho Gia, đại biểu cho tầng lớp sĩ phu. Trên quan điểm luân lý xã hội, ông phản đối chế độ Tông pháp lấy quan hệ huyết duyên làm cơ sở, ông đề xuất học thuyết "Kiêm ái", cho rằng con người không phân: phú quý, bần tiện, thân và sơ, nên "Thương yêu nhau, trao đổi cái lợi cho nhau”. Về chính trị, Mặc Tử chủ trương đề cao người hiền những người quản lý chính trị phải có tài cán đạo đức cao quý, xây dựng hệ thống, thống trị nghiêm khắc từ trên xuống dưới, và thực hành thuyết “phi công”. Ông phản đối cuộc sống "Lễ Nhạc" của bọn quý tộc đương thời, ăn chơi sa đọa lãng phí tài sản xã hội. Ông đưa ra học thuyết "tiết kiệm", "phi lạc" và "tiết kiệm trong lễ tang". - Về quan điểm triết học, Mặc Tử là một người thờ thần, sùng bái Thượng đế và quỷ thần. Nhưng phản đối tín ngưỡng mù quáng, chủ trương có sức mạnh để làm việc. Cho rằng con người chỉ có cố gắng làm việc thì mới có được cuộc sống ấm no giàu có. Ông cũng nghiên cứu vấn đề trí thức và đưa ra học thuyết "Tam biểu": - Người có bản lĩnh. - Người có nguồn gốc - Người có tài năng dùng được. Tất cả học thuyết và ngôn luận đều phải có tiêu chuẩn chính xác. Ông cho rằng ngôn luận và tư tưởng chính xác trước hết phải căn cứ vào lịch sử, sau đó phải phù hợp với tình hình thực tế của nhân dân quần chúng mà tai nghe mắt thấy. Cuối cùng thực hiện đem lại lợi ích cho nhân dân và nước nhà. ̀ Đây là nhận thức luận và phương pháp luận có tinh thần duy vật khoa học. Học phái do Mặc Tử là người sáng lập là một học phái quan trọng xuất hiện sau Khổng Tử. Thời kỳ đầu học phái này là một tập đoàn chính trị mang mầu sắc tôn giáo. Mặc Tử là lãnh tụ của tập đoàn này, đã có nhiều năm Mặc Tử là người lao động bằng sức lực, sống cuộc đời nghèo khổ. Ông và đồng sự đã sống theo cương lĩnh chung và có kỷ luật nghiêm khắc. Trên thực tế, Mặc Tử đã tham gia hoạt động chính trị của nhiều nước và các cuộc chiến tranh phòng vệ của một số nước. Sau khi Mặc Tử chết, các nhà thuộc học phái Mặc gia vẫn tiếp tục hoạt động, đưa tư tưởng của Mặc gia đi theo con đường kỹ thuật sản xuất và khoa học tự nhiên. Hiện nay còn giữ được 53 thiên tác phẩm của Mặc Tử, do chính Mặc Tử viết. Đây là tài liệu cơ bản nghiên cứu của Mặc Tử và học thuyết Mặc gia. VƯƠNG TRIỀU TẦN (Đế quốc Tần: Từ 221 đến 206 trước CN) Năm Kỷ Tỵ (-256) Chu Nạn Vương, nước Tần tiêu diệt nhà Chu. Năm 255 trước Công nguyên, vua Tần, Chiêu Tương Vương trị vì cho đến Tần Vương Chính, năm Ất Mão (- 222) bắt đầu đánh chiếm các nước khác, chuẩn bị thống nhất Trung Hoa. Năm 221 trước CN Tần Vương Chính hoàn thành thống nhất Trung Hoa, lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế. Vương triều Tần gồm có các vua: Chiêu Tương Vương Cơ Tắc - 306 đến 250 trước CN Hiếu Văn Vương Doanh Trụ - 250 đến 249 trước CN Trang Tương Vương - Doanh Từ Sở - 249 đến 246 - trước CN Tần Thủy Hoàng Doanh chính - 246 đến 209 - Tần Nhị Thế Doanh Hồ Hợi - 208 đến - 206 - SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẦN - BIẾN PHÁP THƯƠNG ƯỞNG Trong 7 nước thời Chiến Quốc, kinh tế chính trị văn hóa nước Tần lạc hậu hơn cả. Năm 362 đến 359 trước CN dưới triều Tần từ khi Tần Hiếu Công cầm quyền đã thực hiện biện pháp Thương Ưởng, tích cực xây dựng đất nước hùng mạnh, tranh giành địa vị với 6 nước khác. Nguyên tắc của biến pháp Thương Ưởng là "Theo tình hình đương thời mà định ra luật pháp, vì sự việc mà đặt ra lễ nghi". ̀ ́ ́ Tần Hiếu Công đã ra lệnh cưỡng chế dân chúng thực hiện các loại cải cách. Về xã hội, cấm các tập quán cũ, sinh hoạt cũ như chế độ thị tộc. Nhiều hương ấp gom lại thành một huyện, đặt Lệnh thừa, đặt các thể chế hành chính mới, bỏ các cương giới về đất đai cư trú theo kiểu thị tộc tự tập của xã hội cũ, mở nhiều vùng đất đai trồng trọt mới. - Về nội chính, cứ 5 hộ dân lập một bảo; 10 hộ lập một liên, nếu thấy kẻ gian cùng phát hiện tố giác, không cáo giác thì trói, nếu cáo giác thì được thưởng, kẻ gian bị xử phạt, nếu ai giấu diếm kẻ gian thì đồng tội. Từ đó xã hội có tôn ti trật tự hơn, và nhà nước qui định phục chế, ruộng đất và nữ tì. Về quân sự, có quân công, chiếu theo công mà phong tước, nếu cá nhân tự tư thì tùy theo nặng nhẹ mà xử phạt. Quý tộc không có quân công thì không được hưởng chức tước. Về các chính sách kinh tế: Định các thứ thuế, định các đơn vị đo lường như đấu, thùng, cân, thước tấc, khuyến khích sản xuất, ai cũng phải cố gắng trồng trọt, cày cấy dệt vải, nếu sản lượng được nhiều thì được miễn trừ gánh nặng tạp dịch. Nếu thu hoạch yếu kém, lười làm, ít của cải thì trách phạt và bắt làm nô lệ. Pháp lệnh của Thương Ưởng, một mặt khuyến khích sản xuất, khen thưởng chiến sĩ, mặt khác hạn chế quyền lực của quý tộc, phá tan chế độ thế khanh (công khanh cha truyền con nối). Ngoài ra còn có chính sách cho phép nhân dân mua bán ruộng đất, còn buộc nhân dân lao động ba nước Hàn, Triệu, Ngụy đến nước Tần cày cấy, khai khẩn để tráng đinh nước Tần đi đánh giặc ở bên ngoài. Tất cả những việc làm này đều phù hợp với yêu cầu phát triển của nước Tần. Cho nên một thời gian ngắn không phải nước Tần "Hợp tung" mà là "Liên hoành" để vơ lấy phú quý cho mình. Trong 10 năm nước Tần phát triển nhảy vọt. Biếp pháp Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất để Tần hơn hẳn 6 nước. ̀ ́ Tần hùng mạnh, là sự uy hiếp lớn cho "6 nước Sơn Đông". Một số môn khách lợi dụng tình hình này hoạt động chính trị làm thuyết khách, nên phát sinh hai phái "Hợp tung" và "Liên hoành". "Hợp tung" là một phái hoạt động có sách lược chính trị liên hợp chống Tần theo hướng nam bắc từ Yên đến Sở. Còn "Liên hoành" do nước Tần đề ra để liên hợp với các nước phía đông. Cả 2 phái đều có một số thuyết khách hoạt động. Có 2 người nổi trội lên là Trương Nghi và Tô Tần. Năm 322 trước CN, Ngụy Huệ vương hợp tác với nước Tần, lấy Trương Nghi là tướng nước Tần làm tướng nước Ngụy. Năm nước: Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, thấy bị uy hiếp, nên năm 319 trước Công nguyên thay Công Tôn làm tướng nước Ngụy hình thành thế "Hợp tung" Năm 317 trước CN, 6 nước liên minh với nhau đánh Tần. Về sau, năm 298 trước CN, Mạnh Thường quân đề xướng, ba nước: Tề, Hàn, Ngụy cùng tấn công nước Tần. Tháng 12 năm đó, 6 nước tôn nước Tề làm chủ, tấn công nước Tần. Hai năm, 298, 288 trước CN phái "Hợp tung" thu được thắng lợi. Tô Tần được cử đứng đầu phái Hợp tung. Nhưng về sau, Trương Nghi là thuyết khách cho phái "Liên hoành", đã hợp tác các nước phía đông phá nước Tề, là nước đối đầu hùng mạnh trong sáu nước. Cuối cùng Tề đại bại, 5 nước khác đều hàng phục (gọi là "Thất hùng"), nước Tần trở thành cường quốc, thống nhất Trung Hoa. VĂN HÓA TIÊN TẦN Thời Xuân Thu do biến động gay gắt của kinh tế xã hội và hình thái ý thức đã nảy sinh hiện tượng "Chư tử" đua nhau tranh giành ảnh hưởng và trăm nhà đua tiếng". Khổng Tử người sáng lập và đứng đầu Nho gia rất sùng Lễ trị, ông chủ trương chế độ tông pháp, thân thân, tôn tôn, luôn có ý đồ ́ Ô ́ khôi phục trật tự đẳng cấp quý tộc. Ông luôn phản đối quan hệ huyết duyên thời Tây Chu. Rõ ràng Khổng Tử là người phát ngôn của tầng lớp quý tộc cũ. Nhưng ông đã nói với tinh thần "hữu giáo vô loại" (đã dạy thì ai cũng có thể dạy được) truyền thụ cho học sinh, đã có tác dụng đối với sự phát triển văn hóa xã hội Trung Quốc. Muộn hơn Khổng Tử một chút đã xuất hiện Mặc Địch nhà tư tưởng kiệt xuất của cổ đại Trung Hoa, ông đã gần gũi người lao động, với thực tiễn và cải cách của người lao động. Mặc Địch phản đối bóc lột áp bức người, phản đối cuộc sống lãng phí của quý tộc giàu có và chiến tranh cướp bóc. Ông chủ trương tất cả mọi việc làm không thể xuất phát từ phúc lợi của muôn dân, tất cả đều là bất nghĩa. Ông cho rằng người với người phải thương yêu lẫn nhau. Ông phản đối chế độ chính trị có quan hệ huyết duyên của Nho gia. Mặc Địch còn là nhà khoa học sớm nhất của Trung Quốc ông đã có nhiều thành tựu ở các lĩnh vực: Kỹ hà học, Quang học và biên soạn sách từ xưa không có ai sánh được. Ngoài một số "nhà" thuộc các xu hướng chính trị hoặc tích cực hoặc tiêu cực ra, còn có phái Lão Trang chủ trương hư vô, phản đối tất cả văn minh tiến bộ, chủ trương khôi phục cuộc sống xã hội nguyên thủy nước nhỏ. Nhưng họ đã không từ thể nghiệm đau khổ của quý tộc sa sút nên đã phát triển các "Biến" của mọi mâu thuẫn của sự vật, họ đã qui "Biến" vào "Đạo", qui về "Tĩnh". Họ chủ trương "Vô vi" phản đối sáng tạo và phát triển của loài người. Điều này đã phản ánh ý thức tư tưởng của tầng lớp quý tộc mất hết lòng tin vào thực tiễn. Thời Chiến Quốc, tư tưởng Nho gia phát triển thành hai phái Mạnh Tử và Tuân Tử. Mạnh tử đề xuất tư tưởng: "Người lao tâm trị người, người lao lực thì người trị. Người trị là người được ăn, người bị trị thì được cho ăn". Mạnh Tử đã tổng kết thành tựu văn hóa từ thời Xuân Thu trở đi, nêu lên chủ trương "Pháp lễ" phát triển lễ pháp của Khổng Tử. ́ Hàn Phi Tử tiếp tục học thuật của Tuân Tử, đã phê phán sự phục cổ của học thuyết này, phát triển "Lễ" thành "Hình" (pháp luật) đề xướng pháp trị, yêu cầu hơn nữa củng cố chính quyền quốc gia và lợi ích của giai cấp thống trị. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, khoa học tự nhiên có bước tiến bộ rực rỡ. Các nhà thiên văn học đã nhận thức được vị trí các ngôi sao chủ yếu có phương pháp tính toán. "Cam thanh tinh kinh" là bộ sách ghi chép về sao xưa nhất của thế giới. Về Văn học có Kinh Thi, cuối thời kỳ Chiến Quốc ở nước Sở có nhà thơ yêu nước vĩ đại Khuất Nguyên (340 trước CN) đã có tác phẩm Ly Tao nổi tiếng. Về sử học có bộ biên niên sử Xuân Thu, có Tả truyện, có Quốc ngữ, tất cả đều là tư liệu quý giá phong phú của lịch sử cổ đại Trung Quốc để lại. MỘT SỐ HỌC GIẢ Khổng Tử: (Từ 551 đến 479 trước Công nguyên). Là nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc, người sáng lập ra học phái Nho gia, ông tên Khâu tự Trọng Ni, người nước Sở thời Xuân Thu. Tổ tiên của ông là quý tộc nước Tống đã sa sút. Từ năm 30 tuổi Khổng tử hoạt động chính trị, cũng đã làm Trung Đô Tể nước Lỗ (quan cai trị địa phương) và quan Tư khấu, đi qua nhiều nước chư hầu, nhưng cuối cùng vẫn không có cơ hội thực hiện được lí tưởng. Cuối đời, ông chuyên làm nghề dạy học viết sách. Trước khi có Khổng Tử, tri thức học vấn là vật độc chiếm của tầng lớp quý tộc. Ông chủ trương ai cũng có thể giáo dục được. Tương truyền Khổng Tử đã có hơn 3000 học trò trong đó 72 học sinh ưu tú Khổng Tử cũng đã biên soạn lại bộ "Kinh Thi" "Thượng Thư”, ông là người đã biên soạn bộ Xuân Thu, sau khi ra đời và sau này bộ Xuân Thu đã thành kinh điển của Nho gia, có ảnh hưởng lớn trong đời sống văn hóa và chính trị thời đại phong kiến. ́ ́ ́ ́ Lão Tử: Lão Tử là nhà Triết học nổi tiếng thời Chiến Quốc. Lão Tử còn là tên tác phẩm, ông là người sáng lập học thuyết Đạo gia. Theo "Sử ký" có ghi chép Lão Tử họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Nhiễm, người huyện Khổ nước Sở đã làm quan Thủ tàng sử nhưng có tài liệu ghi là Lão Lai Tử người nước Sở, hoặc là Chu Thái Sử. Những nhà sử học đời nay, nói về Lão Tử cũng không nhất trí với nhau. Có thuyết nói Lão Tử là Lý Nhĩ đã viết bộ sách "Lão Tử" nhưng không phải là Lý Nhiễm. Theo nhiều ý kiến Lý Nhiễm không có, chẳng phải là ai cả, chỉ là một người thuộc Đạo gia nào đó. Nhưng ý kiến của nhiều người cho rằng Lão Tử sống ở thời đại Chiến Quốc, là tác giả của bộ sách Lão Tử. Quan niệm trung tâm của triết học Lão Tử là "Đạo" và "Đức", cho nên Lão Tử có bộ sách "Đạo Đức kinh". Triết lý của Lão tử có nhân tố duy vật thô sơ, đối lập với thế giới quan tôn giáo truyền thống. Lão Tử công kích kịch liệt hiện tượng giàu nghèo cách nhau quá xa trong xã hội và các loại chính sách cai trị của quý tộc, đồng thời ông lại đưa ra kế sách xảo quyệt cho bọn thống trị, ông chủ trương" Vô Vi nhi trị" và chính sách "Ngu dân". Lão Tử có nhiều biểu hiện tư tưởng muốn quay lại thời đại công xã Nguyên thủy. TẦN CHINH PHỤC LỤC QUỐC Sau khi nước Tần thực hiện Biến pháp Thương Ưởng dần dần xâm lược và cướp đoạt các nước láng giềng. Đến khi Tần Thủy Hoàng chấp chính khoảng năm 247 trước Công nguyên, lãnh thổ của nước Tần gồm có: + Quan Trung + Ba Thục (Tứ xuyên) + Hán Trung (phía nam tỉnh Thiểm Tây) + Uyển (Nam Dương - Hà Nam) + Ảnh - Thượng Quận (Bắc tỉnh Thiểm Tây) + Hà Đông - Thái Nguyên - Thượng Đảng (Ba quận này ở vùng biên giới tỉnh Sơn Tây). Trong đó có vùng Vinh Dương, nơi triều Chu đóng đô, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Về lãnh thổ mà nói, nước Tần so với 6 nước kia có ưu thế tuyệt đối, nói chung đất đai màu mỡ, sau khi được nước Trịnh giúp làm thủy lợi thì mùa màng bội thu. Thương nghiệp cũng phát triển, nhưng thương nhân loại vừa và bé vẫn bị áp bức, bóc lột. Thương nghiệp Tần phát triển dẫn đến chính trị cũng có nhiều biến đổi lớn. SỰ CAI TRỊ CỦA TẦN THỦY HOÀNG Năm 221 trước Công nguyên Tần Thủy Hoàng chinh phục thắng lợi sáu nước Sơn Đông, uy quyền to lớn đã khiến cả nước phải thống nhất trên mọi phương diện, xe pháo cho vua chúa dùng, văn bản dùng một thứ tiếng, chế độ đo lường đều thống nhất. Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng còn qui định tiền tệ đều là do kim thuộc đúc chế, chia làm 2 loại: Một là bằng vàng, gọi là Thương tệ Loại thứ hai bằng đồng gọi là Đồng tệ. Để tiện lợi cho phát triển công thương nghiệp, năm 220 trước CN, Tần Thủy Hoàng cho tu bổ đường sá, lấy Hàm Dương làm trung tâm phía đông nối liền với Yên, Tề, phía nam đến Ngô, Sở. Tất cả các chính sách và biện pháp kinh tế đều thích ứng với yêu cầu phát triển của xã hội lúc ấy. Nó đã có tác dụng thúc đẩy nhất định đối với việc phát triển kinh tế xã hội. Tần Thủy Hoàng đã thắng lợi trong cuộc phát động chiến tranh chinh phục lớn nhất, sau đó xây dựng đại đế quốc Tần. ́ ̀ Đối với nông nghiệp, Tần Thủy Hoàng cho xây dựng thủy lợi, sửa chữa hạ tầng cơ sở, xây Vạn Lý Trường thành. Nhưng cũng là điều oái oăm do chính sách tàn bạo khắc nghiệt, để thực hiện những công việc này, Tần Thủy Hoàng bắt dân chúng phục dịch quá sức nên đã làm tiêu hao số lớn nhân lực vật lực, khiến sản xuất xã hội đã bị tổn hại nặng nề. Với tình hình đó nhân dân lao động không còn con đường nào khác là vùng lên khởi nghĩa. Thế rồi cuộc khởi nghĩa Ngô Quảng, Trần Thắng đã bùng nổ. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị thế Hồ Hợi mưu sát anh cả để cướp ngôi là Phù Tô. Nhị Thế còn hung ác tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng. Ngoài cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng, Ngô Quảng ra sáu nước Sơn Đông cũ cũng thừa cơ khởi binh trong đó có 2 tập đoàn Lưu Bang và Hạng Vũ là mạnh hơn hết. Lưu Bang người huyện Bái tỉnh Giang Tô, năm 203 trước CN đã liên lạc với huyện lại huyện Bái giết huyện lệnh chiếm huyện Bái, Lưu Bang tự xưng là Bái Công. Tập đoàn khởi nghĩa của Lưu Bang gồm các tầng lớp tiểu nông, tiểu sản xuất như Phàn Khoái, Chu Bột, Quán Anh, các quan lại của vương triều Tần như Tiêu Hà, Tào Tham v.v. Hạng Vũ đại biểu cho thế lực quý tộc cũ của nước Sở. Năm 209 trước CN, khởi binh ở Cối Kê, vùng Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang vì Lưu Bang là cháu của Sở Hoài Vương nên lấy hiệu là Sở Vương. Hạng Vũ và Lưu Bang cùng chung sức đánh bại nhà Tần. Nền thống trị của Đế quốc Tần đến đây tan rã. TẦN THỦY HOÀNG (209 - 210 trước Công nguyên) ̀ ̀ Tần Thủy Hoàng họ là Doanh, tên là Chính gọi là Tần Doanh Chính. Cha là Tần Trang vương (năm 147 trước CN) qua đời, Thái tử Doanh Chính nối ngôi. Lúc đó Doanh Chính mới 13 tuổi, mọi quyền lực đều ở trong tay Tướng quốc Lã Bất Vi. Còn trẻ, Doanh Chính có tư tưởng cởi mở, biết trọng kiến nghị của trí thức đương thời. Năm 238 trước CN (năm thứ 9 vương triều Tần), Doanh Chính đã 22 tuổi, mới thực sự nắm quyền điều hành đất nước. Năm sau bãi miễn chức Tướng quốc của Lã Bất Vi, tập trung quyền lực vào tay mình. Tần Thủy Hoàng là một vị Hoàng Đế phong kiến đầu tiên thống nhất được toàn Trung Hoa. Sau khi thống nhất đất nước, Tần Thủy Hoàng tự xưng là Thủy Hoàng Đế, gọi là Nhất thế. Ông mong muốn họ Tần kéo dài mãi từ Nhất thế, Nhị thế... cho đến Vạn thế. Đối với Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng biết hắn có nhiều âm mưu thủ đoạn nhằm lũng đoạn triều đình, nên sau khi bãi chức Tướng quốc còn bắt giam giữ hắn tại Hà Nam. Đương nhiên Lã Bất Vi không chịu sự quản chế của Tần Thủy Hoàng nên đã cam tâm lợi dụng điều kiện đất Trung Nguyên, liên kết với các chư hầu, âm mưu hoạt động chống triều đình nhà Tần. Kết quả, năm thứ 12 Tần Doanh Chính, Lã Bất Vi bị bức vào đất Thục, cuối cùng tự sát. Vương triều Tần, từ lúc Tần Doanh Chính chính thức lên ngôi Hoàng Đế, gọi là Tần Vương Chính. Năm Tần Vương Chính thứ 14, nước Hàn cắt đất dâng để cầu hòa với Tần, xin làm thần triều cống và phái công tử Hàn Phi làm sứ giả. Trước đây Hàn Phi thấy nước Hàn ngày càng trở nên suy yếu, nhiều lần dâng tờ trình cho Hàn vương, mong nhà vua hãy áp dụng lý luận của Pháp gia để cải cách cai trị đất nước, nhưng bị để ngoài tai. ́ ́ Do đó, Hàn Phi tức giận viết đến 10 tờ trình mang tên "Cô Phẫn" (tức giận một mình) và Thuyết Nan (khó nói) đến hơn 10 vạn chữ, tập hợp lại thành bộ sách "Hàn Phi Tử", bộ sách lý luận Pháp gia. Tần Vương Chính sau khi đọc tờ trình của Hàn Phi, rất khâm phục nói: - Rất tinh tế! Nếu như tôi may được giao du với người này, có chết cũng không ân hận. Khi quân Tần tấn công nước Hàn, nước Hàn cầu hòa, Tần Vương Chính đã mời Hàn Phi đến nước Tần làm cố vấn. Về sau Tần Vương Chính nghe lời dèm pha của Lý Tư buộc Hàn Phi uống thuốc độc. Hàn Phi chết, Tần Vương Chính tỉnh ra, cho người đến cứu thì đã muộn. Tội ác tầy đình của Tần Thủy Hoàng là "đốt sách, chôn học trò", lịch sử ghi chép lại, muôn đời sau đều nguyền rủa chuyện này. Năm 34 tuổi, Tần Thủy Hoàng mở tiệc rượu ở cung Hàm Dương, tất cả những quan đại thần trí thức đều phải đến trình diện, ca công tụng đức Tần Thủy Hoàng. Lúc bấy giờ, có người đòi Tần Thủy Hoàng phải thi hành chế độ phong kiến phân quyền. Tần Thủy Hoàng nghe theo lời Tể tướng Lý Tư giữ vững chế độ quận huyện, phản đối chế độ phong kiến phân quyền, tâm lý độc tài của Tần Thủy Hoàng ngày càng phát triển. Tần Thủy Hoàng cho rằng, chẳng những phải thống nhất hành chính mà còn phải thống nhất tư tưởng. Rồi thì triều đình Tần đã thực hiện nền độc tài phong kiến, có nhiều biện pháp cứng rắn. Về văn hóa, cấm lưu hành "Thư" của Bách gia chư tử, chỉ cho phép dùng những loại sách nói về y lý, bói toán và trồng cây, chỉ được ghi chép sử sách của nước Tần, còn tất cả đều đốt sạch. Lúc sự việc mới bắt đầu, có nhiều phản ứng trong xã hội. Năm sau ́ ́ ̀ mượn cớ các "Nhà nho chống đối", Tần Thủy Hoàng đã dùng biện pháp trấn áp tư tưởng, từ đốt sách đến chôn học trò. Có lần đã chôn đến 160 nhà trí thức. Do tàn bạo, ác độc, nhiều tội ác với nhân dân nên Tần Thủy Hoàng rất sợ người ta ám sát, mọi hành tung đều được giữ bí mật, đi đâu làm gì, không để cho ai biết. Có một hôm, Tần Thủy Hoàng Đến cung Lương Sơn, từ trên đỉnh núi nhìn xuống bỗng nhìn thấy xe ngựa tùy tùng của Tể tướng Lý Tư rất đông, bụng Hoàng Đế không vui. Một hoạn quan đã đem chuyện này báo cho Lý Tư biết, Lý Tư hoảng sợ. Về sau mỗi lần đi ra ngoài đều giảm hẳn số xe ngựa. Tần Thủy Hoàng nghi hoặc, đặt câu hỏi trong đầu: Tại sao Lý Tư lại biết ý của Hoàng Đế? Như vậy việc bí mật trong cung đã tiết lộ ra ngoài. Tần Thủy Hoàng liền dùng hình phạt truy cung, bức mọi người trong cung phải khai ra, nhưng chẳng có kết quả, bèn giết sạch các nội thị hầu cận quanh mình. Tần Thủy Hoàng thường tổ chức các cuộc tuần du, để có thể tìm hiểu được động hướng chính trị, phong tục tập quán, tình hình nhân dân ở các địa phương, lại có thể trấn áp được bọn phản loạn, nêu cao thanh thế ban phát ân uy, củng cố thống trị. Mỗi khi đến địa phương nào đó Tần Thủy Hoàng đều xem bút tích văn chương khắc trên các vách đá. Năm 37 tuổi, Tần Vương Chính, trong lần cuối cùng đi tuần du, tình hình có biến cố. Tần Thủy Hoàng có hơn hai chục người con trai nhưng vẫn chưa lập Thái tử. Con trưởng là Phù Tô, vì đã dám trực tiếp Can gián chính sách "đốt sách chôn học trò" trước mặt cha, cho nên bị tống ra biên cương phương Bắc, giám sát quân đóng ở trại quân của đại tướng Mông Điềm. Những người con trai khác đều ở tại kinh thành, duy chỉ có Hồ Hợi, người con thứ 18 được Tần Thủy Hoàng yêu mến thường cho theo tuần du. ́ ̀ ́ Tháng 7 trời rất nóng, đoàn xe tuần du đi đến Sa Khâu (nay là Địa Bình Đài, thuộc tỉnh Hà Bắc), Tần Thủy Hoàng lâm bệnh nặng gọi Triệu Cao là quan Phổ lệnh chuyên sắp xếp việc ăn ở, bảo quản ấn tín đến thảo di chúc, giao cho con trưởng Phù Tô "đem quân của Mông Điềm về làm lễ chịu tang tại kinh thành Hàm Dương". Thực tế là để Phù Tô về kinh thành chủ trì tang lễ, kế thừa ngôi báu. Nhưng di chúc chưa kịp đưa ra thì Tần Thủy Hoàng đã chết. Thi hài của Hoàng Đế được để nguyên trong xe, không khí mát mẻ như ngủ, hàng ngày vẫn đóng kịch dâng cơm, trăm quan vẫn tâu trình, quan hoạn vẫn truyền lệnh của vua từ xe ra. Nhưng vì đường về kinh xa xôi, khi trời nóng bức dần, không giữ được, thi thể bốc ra mùi hôi thối. Tể tướng Lý Tư đã nghĩ ra một cách: Ra lệnh mang theo cả xe ruột cá làm tan mùi thây người chết, về đến Hàm Dương mới phát tang. Người đời sau cho Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa. Trong gần 40 năm ngồi trên ngôi Hoàng Đế, Tần Thủy Hoàng đã có nhiều tội ác. Đó là: Xây Vạn lý trường thành, xây cung Lương Sơn, đốt sách chôn học trò và xây lăng mộ. Lịch sử ghi chép tuy chưa đầy đủ, nhưng đã phản ảnh được nhiều hoạt động của vị Hoàng Đế nổi tiếng của Trung Hoa: Tần Thủy Hoàng. VƯƠNG TRIỀU LƯỠNG HÁN (Từ 206 trước CN đến 220) TÂY HÁN (Từ 206 đến năm 25 sau CN) Kể cả Vương Mãng từ năm 9 đến năm 23 và Cánh Thủy Đế từ năm 23 đến 25 Cao đế: Từ năm 206 đến 194 trước CN Huệ đế: Từ năm 194 đến 187 trước CN Cao hậu họ Lã: Từ năm 187 đến 179 trước CN Văn đế: Từ năm 179 đến 156 trước CN Cảnh đế: Từ năm 156 đến 140 trước CN Vũ đế: Từ năm 140 đến 86 trước CN Chiêu đế: Từ năm 86 đến 73 trước CN Tuyên đế: Từ năm 73 đến 48 trước CN Nguyên đế: Từ năm 48 đến 32. trước CN Thành đế: Từ năm Từ - 32 đến + 20 trước CN Ai đế: Từ năm 20 đến 23 sau CN Bình Đế: Từ năm 1 CN đến 6 sau CN Nhũ Tử Anh: Từ năm 6 CN đến 9 Vương Mãng: Từ năm 9 CN đến 23 Cánh Huyền Đế: Từ năm 9 CN đến 23 CHIẾN TRANH SỞ HÁN VÀ TÂY HÁN PHONG KIẾN TẬP QUYỀN ̀ ̀ ́ Lưu Bang lần đầu tiên vào Quan Trung đến tận Hàm Dương, đã niêm phong các phòng, phủ và kho tàng, cung điện của triều Tần. Lưu Bang đã họp các bô lão nhà Tần cùng nhau thề ước: "Giết người thì phải trả bằng mạng, đánh bị thương thì chịu tội, theo giặc thì bị tội”, đồng thời bãi bỏ tất cả những luật pháp hà khắc của nhà Tần. Việc làm này của Lưu Bang đã thỏa mãn khát vọng của nhân dân thời Chiến Quốc cho đến lúc bấy giờ, nên dân nước Tần rất vui mừng, tranh nhau đem bò dê rượu và thức ăn hiến cho quân sĩ. Ngược lại Hạng Vũ đã đem 40 vạn quân hung dữ kéo đến đất Tần. Lưu Bang tuy vào Quan Trung trước song trước sức mạnh của Hạng Vũ tạm thời Lưu Bang phải tuân theo lệnh phán phong của Hạng Vũ, làm vua Ba Thục - Hán Trung gọi là Hán Vương. Hạng Vũ sau khi chiếm đất phía đông lên ngôi tự xưng là "Tây Sở Bá Vương”, đóng đô ở Bành Thành tỉnh Giang Tô. Không lâu tướng nước Tề là Đoàn Vinh làm loạn ở Liêu Đông. Bành Việt đã liên kết Tề với Sở, Trần Dư tướng nước Triệu cũng tìm cách diệt Hạng Vũ và cả dãy đất phía Bắc Trường giang, Hạng Vũ không sao khống chế được. Trong lúc Hạng Vũ đem quân đi thảo phạt các nước phía đông, Lưu Bang đã thừa cơ xuất quân vào Quan Trung, rồi thừa thắng đánh xuống phía đông chiếm Lạc Dương từ đó gây nên cuộc chiến tranh kéo dài gần 5 năm (206 đến 202 trước CN) Lúc đầu, quân lực của Hạng Vũ mạnh hơn Lưu Bang rất nhiều, cho nên thắng lợi liên tiếp. Nhưng Lưu Bang sau khi chiếm được đất đai đều chú trọng ổn định trật tự xã hội, còn Hạng Vũ ngược lại, chỉ muốn khôi phục bộ mặt của thời đại Chiến Quốc cũ, điều này đã quyết định chuyển biến chiến cục. Lưu Bang càng đánh càng mạnh. Về sau quân Hán diệt Triệu, phá Tề, bắt Yên đầu hàng, chiếm cả một vùng phía sông Hoàng. Rồi Sở cũng đầu hàng Hán, trở thành vùng đất uy hiếp hậu phương của Hạng Vũ. ́ Quân của Bành Việt chiếm cứ cả vùng tây nam Sơn Đông, lúc nào cũng có thể cắt đứt quân vận chuyển lương thảo của quân Sở. Cuối cùng quân Hán và quân Sở đụng đầu ở Cai Hạ (nay là huyện Linh Bính tỉnh An Huy) hai đội quân quyết chiến, Hạng Vũ đại bại chết ở sông Ô (nay là huyện Hòa, tỉnh An Huy). Năm 206 trước CN, sau khi Hạng Vũ chết, Lưu Bang xưng đế, tức Hán Cao Tổ, và kiến lập chính quyền đế quốc Hán nổi tiếng trên toàn đất nước Trung Hoa. Lúc đầu nhà Hán đóng đô ở Lạc Dương sau dời về Trường An. Từ khi Lưu Bang xưng đế cho đến khi Vương Mãng làm loạn, sử gọi là Tây Hán hay Tiền Hán. Qua thời gian đầu, chiến tranh liên miên, khi chấm dứt cuộc chiến, nhà Hán khôi phục kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông thôn. Nhà Tây Hán đã khai khẩn đất đai bỏ hoang, phục hồi sản xuất, khôi phục trật tự ở nông thôn, nhà Hán rất chú trọng thủy lợi, tu sửa các công trình thủy lợi đủ nước tưới cho ruộng công ruộng tư. Thời Hán Vũ Đế thủy lợi càng phát triển mạnh. Thủ công nghiệp cũng phát triển. Thời Hán Văn Đế nhiều người được tự do kinh doanh nên thuê nhân công có đến hàng nghìn người. Các nghề thủ công như đúc đồ đồng, rèn đồ sắt rất thịnh vượng. Thủ công nghiệp dân gian thời Tây Hán còn rất thịnh vượng là nghề dệt. Ngạn ngữ đương thời có câu "Nam nếu không cầy cấy thì đói, nữ không dệt thì lạnh". Thủ công nghiệp phát đạt, kích thích hoạt động thương nghiệp. Ngoài Trường An là trung tâm thương nghiệp ra, còn có các đô thị: Lạc Dương, Thành Đô, Hàm Đan, Lâm Tri, Dương Định rất phồn hoa. Tình hình kinh tế chính trị xã hội phát triển ổn định làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Trung Hoa lúc bấy giờ được nâng cao nhiều. VƯƠNG MÃNG THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ Cuối đời Tây Hán có nhiều cuộc đấu tranh chống đối của: nô tì, nông nô, nông dân và xâm chiếm ruộng đất. Về vấn đề xâm chiếm ruộng đất chủ yếu là bọn quý tộc đại địa chủ chiếm hữu ruộng đất, bọn đại thương nhân muốn mở rộng tài sản của mình và hưởng thụ cuộc sống xa hoa đã bóc lột áp bức những người ở tầng lớp trung tiểu chủ, địa chủ và tiểu chủ, sản xuất nhỏ. Chúng điên cuồng dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo để kiêm tính đất đai và chiếm đoạt nhân khẩu. Thời Hán Vũ Đế triều đình đã dùng biện pháp trả tiền để mua tài vật, mua nô tỳ, và mua chức tước quan vị. Do đó thương nhân loại trung và nhỏ phá sản, tiểu nông bị trực tiếp ảnh hưởng. Sau đời Hán Chiêu Đế (86 trước CN) trở đi cuộc sống của nông nô và nô tỳ chẳng khác gì trâu ngựa, nhất là nô tỳ, nếu không vừa lòng ông chủ thì bị giết hại ngay. Đã bị áp bức cùng cực nông nô, nô tỳ phải vùng lên khởi nghĩa. CUỘC CẢI CÁCH THỂ CHẾ CỦA VƯƠNG MÃNG VÀ THẤT BẠI Nguy cơ xã hội nghiêm trọng này, Vương Mãng đã trông thấy và nghĩ rằng phải hành động. Vương Mãng xuất thân là ngoại thích quý tộc. Trên thực tế ngay những năm cuối đời Hán Nguyên Đế nắm chính quyền Tây Hán, nhất là khi Bình Đế lên ngôi hãy còn nhỏ mới 9 tuổi, Thái hậu phải lâm triều, ủy quyền hành cho Vương Mãng. Năm thứ tám sau Công nguyên, Vương Mãng giết Hán Bình Đế rồi tự xưng là Châu Hoàng Đế. ́ ́ Quốc hiệu là Tân, phế hoàng tử còn bé là Anh, nhà Tây Hán cáo chung. Sau đó để cứu vãn nguy cơ xã hội nghiêm trọng và củng cố chính quyền của mình, Vương Mãng liền dựa vào kinh nghiệm của đời trước mà thực hiện hàng loạt biện pháp cải cách thể chế. Cấm việc mua bán nô tỳ và đất đai, ảo tưởng qui định các mảnh đất cụ thể cho từng đầu người. Đổi tên nô tỳ là "tư thuộc", nô tỳ coi như là thành viên trong gia đình chủ, cũng có địa vị, cấm buôn bán nô tỳ. Quản chế công thương nghiệp, bình quân vật giá ở Trường An và 5 thành phố lớn: Lạc Dương, Hàm Đan, Lâm Tri, Uyển và Thành Đô, nhà nước quản lý rượu, muối, đồ sắt, tiền đồng. Buôn bán hàng hóa phải đóng thuế, có trừ miễn cho dân nghèo. Cải cách thể chế tiền tệ, phát hành 5 loại tiền kim loại, thay thế cho các loại tiền trước đây. Nghiêm cấm tư nhân cướp bóc. Cải cách thể chế của Vương Mãng đã đảo lộn phép tắc phát triển xã hội lúc bấy giờ. Vương Mãng tuyên bố trước hết đất đai là của nhà vua, như vậy là đã thủ tiêu chế độ tư hữu ruộng đất, có lợi cho việc phát triển sản xuất, nhưng cũng làm bế tắc con đường phát triển mở rộng sức sản xuất. Vương Mãng đổi tên nô tỳ thành "tư thuộc", không được buôn bán nô tỳ chứ không phải là giải phóng nô tỳ, nên các quan vẫn được dùng nô tỳ, vì vậy con số nô tỳ ở Trường An đã là mười vạn con số “tư thuộc” nhà vua cũng chẳng ít. Vì vậy cải cách thể chế của Vương Mãng đã thất bại, kết quả: Nông dân thất nghiệp, hàng hóa trì trệ, kẻ giầu không được bảo vệ, người nghèo không thể tồn tại, cả xã hội đình trệ. ́ ́ ́ Vương Mãng, bị áp lực chống đối của nhân dân, cuối cùng phải giải tán chính quyền mới, Vương Mãng đã phải hạ đài. TRIỀU ĐÔNG HÁN ĐÔNG HÁN (Từ năm 25 đến 220) Quang Vũ Đế: Từ năm 25 đến 58 Minh đế: Từ năm 58 đến 76 Chương đế: Từ năm 76 đến 89 Hòa Đế: Từ năm 89 đến 106 Trang đế: Từ năm 106 đến 126 An đế: Từ năm 107 đến 126 Thuận đế: Từ năm 126 đến 145 Xung đế: Từ năm 145 đến 146 Chất đế: Từ năm 146 đến 147 Hoàn đế: Từ năm 147 đến 168 Linh đế: Từ năm 168 đến 190 Hiến đế: Từ năm 190 đến 220 Lưu Tú nhân cơ hội quần chúng và nông dân bạo động chống lại Vương Mãng, dựa vào lực lượng vũ trang để thực hiện lời cam kết của vương triều Lưu Hán. Năm 25, Lưu Tú xưng là Quang Vũ Đế, đóng đô tại Lạc Dương, sử gọi là Đông Hán hoặc Hậu Hán (25 - 220). Năm 217, Lưu Tú đánh bại quân Xích Mi do Phàn Sùng cầm đầu và quân khởi nghĩa Lục Lâm, cả hai cánh quân này do quần chúng quá đói khổ tập trung lại. Nhưng phải mất 10 năm, Lưu Tú mới thống nhất được đất nước. Chính quyền Đông Hán đứng vững được, đương nhiên là do giai cấp địa chủ ủng hộ, nên sau khi xây dựng lại, vương triều Hán lại phải cướp bóc chiếm đoạt ruộng đất và gây các cuộc chiến tranh kiêm tính. Như đại tướng của Hán Quang Vũ là Ngô Hán đem quân đi chinh chiến, vợ con của hắn mua ruộng đất ở hậu phương, cha vợ ́ của Quang Vũ thì kinh doanh và cho vay nặng lãi, chiếm hơn 300 mẫu ruộng, Phàn Hùng là con cháu đại tướng Phàn Sùng đã bắt hàng nghìn con em nghèo khổ làm gia thuộc tôi tớ. Còn như Quang Vũ cũng không quên ruộng đất gia tư của mình, phái người đi thu thập lại. Hán Minh Đế (từ 58 - 75) có anh em ngoại thích là Mã Phòng, bỏ tiền mua rẻ rất nhiều đất ở Lạc Dương. Tế Nam là người hoàng tộc cũng chiếm đến 8000 khoảnh ruộng. Người bấy giờ có câu: "Hà Nam đế thành nhiều cận thần, Nam Dương đế thành nhiều người thân nhà cửa đất đai đếm không xuể". Vì vậy xã hội ngày càng loạn, bọn địa chủ quý tộc nổi loạn để bảo vệ quyền lực cá nhân, nông dân nổi dậy vì bị áp bức đói khổ, Hán Quang Vũ phải thi hành một số cải cách, những biện pháp này tạm thời hòa hoãn được mâu thuẫn giai cấp, có tác dụng nhất định đối với việc phát triển nông nghiệp, về khách quan đã thúc đẩy kinh tế phong kiến phát triển. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA ĐÔNG HÁN Lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của Đông Hán những năm đầu, cùng với nền thống trị chưa ổn định, các dân tộc chung quanh thừa cơ gây ra những cuộc chiến tranh cướp bóc lẫn nhau, trong đó có cuộc chiến tranh với Hung Nô là đặc biệt nhất. Đó là lúc dân tộc Hung Nô phục thù đế quốc Hán. Do thế lực chưa được khôi phục, Hán Quang Vũ chỉ có thể phòng ngự với Hung Nô. Năm 46 đến năm 48, mâu thuẫn nội bộ Hung Nô gay gắt, chia làm hai phái Nam và Bắc, Bắc Hung Nô chạy về tây bắc, còn Nam Hung Nô đầu hàng nhà Hán. Năm 50, Bắc Hung Nô vẫn chờ dịp cướp bóc nhân dân vùng biên giới. ́ ́ ́ ̀ Đời Hán Minh Đế do thế lực đất nước mạnh dần, lại có vị tướng tài là Ban Siêu đến đóng quân trấn giữ Tây Vực, đã loại trừ được thế lực của Hung Nô. Nam Hung Nô đã liên kết với quân Hán, tiến công Bắc Hung Nô, giành thắng lợi. Dẹp yên Bắc Hung Nô, nhà Đông Hán có hướng phát triển quan hệ với châu Âu, bắt đầu mở đường thông thương với phương Tây. Ban Siêu ở Tây Vực, đã có những thỏa hiệp với các nước phương Tây. Ông đã học tập và kế thừa những kinh nghiệm của các nhà ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Hoạt động của Ban Siêu đã có tác dụng tích cực đối với việc mở đường quan hệ với các nước ở miền Tây của phương Tây. Đời Hán An Đế (năm 70) do mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng sâu sắc, bộ tộc Tây Khương quấy đảo ở biên giới phía tây, nhà Đông Hán bất lực không kiểm soát nổi Tây Vực. Tây Vực yếu dần. Cuối đời Đông Hán, các dân tộc thiểu số phương Bắc càng quấy đảo, thế lực của triều đình suy yếu, nên trong quan hệ lúc bấy giờ nhà Đông Hán đành hòa hiếu là chính. Tuy thế nhà Đông Hán vẫn đẩy mạnh qui mô hướng ngoại. Do tiềm lực suy yếu, kho tàng khánh kiệt, nên triều đình thực hiện chế độ bán chức quan để thu tiền cho ngân quỹ. Định giá tiền là: hai nghìn thạch gạo chức quan bình thường. Tước "Công" 1 triệu quan tiền. Tước "Khanh" 50 vạn quan. Ngoài ra còn thu nhiều khoản khác nữa như: tiền hoa hồng để có kết quả sớm hơn. Thường tiền được trả trước một ít, đến khi đã được làm quan mới thanh toán nốt. Cho nên lúc bấy giờ trong dân gian có câu: "Công khanh chăn giắt dân thì đều là chó đội mũ”. (Nguyên là Công khanh mục thủ, đô thị đối mao cẩu). Câu ca dao này nói rõ thái độ bất mãn và miệt thị loại quan mua chức tước như thế. ̀ Trong triều đình Đông Hán, bọn ngoại thích, quan hoạn và quan liêu luôn luôn tranh quyền đoạt lợi, luôn phát sinh mâu thuẫn và xung đột. Các Hoàng Đế Đông Hán đều chết sớm các thái tử lên kế vị còn nhỏ, triều đình thường do Thái hậu và ngoại thích chấp chính, từ đó lũng đoạn triều chính. Khi Hoàng Đế đã đến tuổi điều hành không có ai giúp đã bị cô lập, bèn dựa vào bọn quan hoạn để đoạt lại chính quyền trong tay ngoại thích. Do đó, sau khi đấu tranh với ngoại thích thắng lợi; chính quyền lại do bọn quan hoạn thao túng. Từ đời Hán Hòa Đế trở đi, hoạn quan giết ngoại thích bừa bãi, triều đình bắt đầu có sự tranh giành thôn tính lẫn nhau giữa hoạn quan và ngoại thích. Đó là bối cảnh tranh chấp của các bè phái thời Đông Hán. Bọn quan hoạn, ngoại thích đều lập đảng riêng để mở rộng thế lực của mình, tăng cường áp bức đối với nhân dân, làm nhân dân khổ đau oán giận. Bọn quan hoạn vì vậy thế lực ngày càng lớn, cũng bố trí họ hàng thân thích ở các châu quận. Lưu Đào, thái học sinh đời Hán Hoàng Đế đã vạch tội bọn bè đảng quan hoạn cướp bóc của nhân dân như hổ báo. Cuộc đấu tranh chống bọn quan hoạn cũng ngày càng kịch liệt, lớp người đi đầu trong cuộc đấu tranh này có thái học sinh và bộ phận gọi là "Quan liêm thanh cao". Họ phê phán triều chính suy đồi và vạch trần tội ác của bọn quan hoạn. Tuy họ làm việc này là để ủng hộ chính quyền Đông Hán và quyền lợi địa vị của mình, nhưng khách quan mà nói, ở mức độ nhất định nó cũng phù hợp với yêu cầu của xã hội lúc bấy giờ. VĂN HÓA THỜI LƯỠNG HÁN ́ ́ Theo đà phát triển của kinh tế, thời Tây Hán mâu thuẫn giai cấp càng ngày càng sâu sắc. Để củng cố nền thống trị của mình, triều đình Đông Hán đã để cho phần tử ưu tú của giai cấp thống trị nắm chính quyền. Đời Hán Vũ Đế (năm 140) đã ban bố chiếu lệnh "Hiền lương phương chính", bởi các quan các kẻ sĩ "Cổ kim trị đạo", trọng dụng Nho gia, sùng bái Nho thuật, theo ý kiến của Bách gia, thực hiện kìm chế tư tưởng. Năm thứ 5 Kiến Nguyên (-136), đã định ra Bác sĩ Ngũ kinh, quy định chỉ có khả năng nghiên cứu ngũ kinh của Nho gia mới trở thành Bác sĩ được. Bác sĩ cũng chọn từ con cháu của các giáo sư Ngũ kinh. Đến cuối thời Tây Hán, mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, nông dân buộc phải vùng lên phản kháng dẫn đến chính quyền lung lay. Để cứu vãn nền thống trị của mình, bọn thống trị Tây Hán lại lợi dụng các truyền thuyết về âm dương ngũ hành, dựa vào các nho gia, công bố với dân chúng: "Thiên tử là do mệnh trời". Đầu thời Đông Hán xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học, nhà sử học và văn học v.v.. MỘT SỐ NHÀ KHOA HỌC THỜI LƯỠNG HÁN VƯƠNG SUNG (27 - 973) Nhà vô thần luận, nhà triết học Duy vật nổi tiếng thời Đông Hán, tự là Trọng Nhiệm, người ở Cối Kê, tỉnh Chiết Giang. Thời thanh niên là thái học sinh, đã từng nhận chức quan lại châu, huyện, về sau bị bãi chức ở nhà, đời sống rất khổ cực. Cả cuộc đời, ông viết nhiều trước tác, nhưng do bọn thống trị cấm đoán nên thất ̀ ́ tán. Lưu truyền đến ngày nay còn có bộ "Luận Hành". Vương Sung sống trong giai đoạn sau khi các cuộc khởi nghĩa nông dân cuối Tây Hán bị thất bại, là lúc giai cấp thống trị phong kiến Đông Hán lợi dụng mê tín tôn giáo để củng cố địa vị thống trị của mình. Vương Sung đã dùng tác phẩm nổi tiếng của mình để khiêu chiến với các tư tưởng lạc hậu phản động của giai cấp thống trị, bộ Luận Hành thể hiện đầy đủ quan điểm tư tưởng của ông. Ông đã công khai tư tưởng vô thần luận, giữ vững trận địa duy vật. Ông cho rằng thế giới là vật chất tiền tài mãi mãi, 4 khí làm nên tự nhiên, vì vậy, các loại hiện tượng tự nhiên đều là bộ phận của khí". Con người cũng là do khí của vật chất cấu tạo nên. Do vận động của bản thân khí, sản sinh của tự nhiên là vạn vật, tự nhiên sinh ra vạn vật. Xuất phát từ quan điểm này, ông đã phê phán thế giới quan của mục đích luận, căn bản phủ nhận có chúa tể siêu tự nhiên, từ đó đả kích mạnh mẽ lý luận phản động, lạc hậu của giai cấp thống trị theo tư tưởng tôn giáo thần bí. Ông nêu: Trời không có ý chí, Trời không thể gây phúc họa cho người ta được, cũng không báo trước được điềm lành dữ cho người. Biện pháp chính trị của giai cấp thống trị không thể dẫn đến tai ách của tự nhiên. "Tai ách" của tự nhiên là do kết quả của sự biến hóa, bản thân "khí" không biểu thị trừng phạt đối với loài người. Vương Sung còn đưa ra những lập luận về vấn đề quan hệ tinh thần và nội thể. Ông cho rằng tinh khí là nhân tố vật chất và tinh thần cấu tạo thành con người, không có tinh khí, không có tinh thần và ý thức, tinh khí của con người dựa vào huyết mạch. Khô háo của huyết mạch, hư hoại của hành thể, ý thức tinh thần cũng theo đó diệt vong, điều này đã phủ định ý thức siêu thân thế mà độc lập tồn tại. Đồng thời, cũng phủ nhận quỷ thần, siêu tự nhiên mà độc lập tồn tại. Từ đó Vương Sung tiến lên lật đổ hoàn toàn tất cả các luận cứ của những người lập luận có quỷ thần. Ông nói: - Quỷ chỉ là do người tưởng tượng ra, là một loại ảo giác trong lúc con người sợ hãi. Về nhận thức luận, Vương Sung đã nhận thức được, nguồn gốc của nhận thức là có từ cảm giác cho rằng không có chuyện "Sinh nhi tri chi" (mới sinh ra đã biết). Đồng thời, ông cho rằng nhận thức sự vật không thể dựa vào cảm giác kinh nghiệm, còn phải dùng lý trí tư duy, nếu không thì không có "thực sự". Nhưng ông lại không thể từ cơ sở thực tiễn xã hội để khảo sát hoạt động nhận thức, do đó nhận thức luận của ông vẫn là trực quan. Vương Sung, nhà triết học duy vật có nhiều quan điểm tiến bộ. Song vẫn còn có khuyết điểm, khuyết điểm chủ yếu của ông đã đưa vấn đề xã hội và vấn đề tự nhiên ra để trình bày cùng một lúc. Khuyết điểm này đã phản ánh tính mềm yếu không có đủ sức chống đối giai cấp thống trị của tri thức và giai cấp trung tiểu địa chủ khi gặp phải áp bức. TRƯƠNG HÀNH (78 - 139) Nhà Thiên văn học, nhà Văn học nổi tiếng thời Đông Hán, tự là Bình Tử, người huyện Dương tỉnh Hà Nam. Lúc còn nhỏ học Văn học. Ông có các tác phẩm rất nổi tiếng: - Đồng Thanh ca - Tứ sầu thi - Lưỡng kinh phú. Về sau, làm công việc nghiên cứu Thiên văn - Khoa học; năm 38 tuổi, ông làm Thái Sử Lệnh (chức quan nắm lệnh, sắc phong và tiền). Ông là người đã chế ra "Hỗn Nghi" lợi dụng sức nước chuyển động, là người sáng chế đầu tiên ra máy Thiên văn thủy lực cổ Trung Quốc. Ông còn sáng chế ra một số máy móc đặc biệt như ́ "Hậu phong địa động nghi" (máy đo khí hậu, gió, chấn động của đất) có thể đo biết được chấn động và phương hướng của các trận động đất. Trương Hành cũng có nghiên cứu số học, lịch pháp địa lý, lịch sử. HOA ĐÀ Hoa Đà là một danh y thời Tam Quốc, tự là Nguyên Hóa, người đất Bái, tỉnh An Huy. Ông có rất nhiều thành tựu về ngoại khoa, thuốc, châm cứu, phụ sản, chuẩn đoán và thuật dưỡng sinh. Ông rất thành thạo về chữa ma túy và phẫu thuật ngoại khoa. Do tài y thuật cao siêu, nên Tào Tháo cho mời ông đến chữa bệnh đau đầu, Tháo cưỡng bức ông chữa bệnh nhưng bị Hoa Đà cự tuyệt. Về sau Tháo giết Hoa Đà. Kỹ thuật ngoại khoa xuất sắc của Hoa Đà đã bị thất truyền. NHỮNG TÁC PHẨM NỔI TIẾNG - Tác phẩm "Luận Hành" của Vương Sung đả kích mạnh mẽ về sự mơ hồ của thuyết âm dương ngũ hành mà bọn thống trị đã khai thác để củng cố nền thống trị, lừa bịp nhân dân. Ông cho rằng, vũ trụ là hệ thống tự nhiên máy móc, vạch rõ, biến động vô cùng của thiên nhiên không phải là vui buồn của thần thánh. Ông đã phủ nhận sự tồn tại ý thức của trời. Sử ký của Tư Mã Thiên Sử ký của Tư Mã Thiên đã sáng tạo có qui mô về việc viết thông sử, mở ra thể Ký - Truyện cho Văn học, từ đó Lưỡng Hán mới khuếch trương tiếng tăm với nước ngoài, đặt cho các nhà sử học viết "Chính sử" sau này con đường viết sử mới. Sách "Hán Thư" của Ban Cố là sáng tạo cách viết lịch sử về một giai đoạn, thời đại, nhưng cũng là phỏng theo cách viết Sử Ký của Tư Mã Thiên Sách "Hán thư địa lý chí" ghi chép về các sự việc của địa phương Tây Vực và In-đô-nê-xia. Văn học nghệ thuật thời Lưỡng Hán, thịnh hành là Từ và Phú, đại bộ phận là Ca công tụng đức và thời đại thịnh vượng của đế ́ ́ ́ ̀ quốc Hán, thế nhưng trong Ngũ ngôn thi cũng có rất nhiều bài nói lên nỗi khổ của nhân dân lao động, phản ảnh được tình hình xã hội. Đời Hán có nhiều dân ca, sau khi chọn và bổ sung đã thành Nhạc Phủ. Về hội họa, thịnh hành là bích họa, có nhiều tranh nhân vật. Điêu khắc chuyển từ khắc trên đồng sang khắc trên đá, đa số là khắc người. Đa thần giáo: Đầu Tây Hán các thần giáo phát triển, Hoàng Đế, Lão Tử được đưa lên đàn tế. Phật giáo truyền vào Trung Quốc có thể từ sau khi Hán Vũ Đế đi chinh phạt Tây Vực. Đến thời Hán Minh Đế - Đông Hán, đạo Phật bắt đầu được tin sùng, trong cung đã xây chùa và bắt đầu dịch kinh Phật. Phật Giáo trở thành tín ngưỡng của một số người trong giai cấp thống trị. Cuối đời Đông Hán đã xuất hiện đạo "Thái Bình" và đạo "Ngũ Đấu Mễ" (năm đấu gạo). Đạo Giáo nguyên thủy cũng bắt đầu. Do Đạo Giáo trên tinh thần tổ chức đã tiếp thu được một số tập quán lưu lại của công xã nguyên thủy cho nên có lúc hoạt động trong dân gian, nông dân không thể chấp nhận sự áp bức tàn bạo của giai cấp thống trị, do đó họ đã tập hợp lực lượng, chịu ảnh hưởng tập quán bình đẳng của lối sống công xã nguyên thủy phát động cuộc khởi nghĩa Khăn vàng. Tóm lại: Sự phát triển văn hóa thời Lưỡng Hán hoàn toàn không phải ngẫu nhiên được sản sinh ra mà do công lao của nhiều tầng lớp trong xã hội đóng góp. HÁN CAO TỔ - LƯU BANG (Từ 206 đến -194 trước CN) Lưu Bang, người huyện Bái, nay thuộc tỉnh Giang Tô, tên tự là Quý, chỉ huy nghĩa quân nông dân huyện Bái chống lại Vương triều Tần. ̀ Về sau, Lưu Bang ngày càng được tín nhiệm, được nghĩa quân huyện Bái tôn lên làm Bái Công. Được Tiêu Hà, Tào Tham và Phàn Khoái giúp đỡ, Lưu Bang ngay buổi đầu đã chiêu tập được hơn 2, 3 nghìn con em đất Bái, có thể nói sự nghiệp đế vương của Lưu Bang bắt đầu từ đây. Lưu Bang dẫn nghĩa quân đi đánh ở phía tây, cùng lúc đó Hạng Vũ dẫn quân nước Sở đánh lên phía bắc, chiến đấu với quân Tần do tướng Chương Hàn thống lĩnh. Do có lực, có trí, Lưu Bang nhanh chóng vượt qua Nam Dương vượt Vũ Quang, tiến thẳng đến thành Hàm Dương, kinh đô nước Tần Tháng 10 năm 206 trước CN, năm thứ nhất của triều Hán, đại quân của Bái Công tiến công như vũ bão. Vua Tần Tử Anh thua trận đem xe, ngựa, ấn tín Hoàng Đế dâng cho Bái Công để đầu hàng. Quân của Lưu Bang vào thành Hàm Dương, Lưu Bang tuyên bố: - Vương triều Tần diệt vong. Lúc mới vào kinh đô nước Tần, nhiều nghĩa quân đã hoa mắt vì sự phồn hoa của đế đô Hàm Dương, tranh nhau cướp ngựa, xe, tiền của, vàng bạc và gái đẹp. Bản thân Lưu Bang, vừa thấy cung điện, nghi trượng, xe ngựa, ngọc quý, vô số gái đẹp của triều Tần đã vào ngay hoàng cung để hưởng thú vinh hoa phú quý, biểu hiện đầy đủ bản chất của một tên tham lam. Về sau, Phàn Khoái, Trương Lương nhẫn nại Can gián, Lưu Bang mới hạ lệnh nghiêm cấm, gạt bỏ những việc đồi bại. Nhờ có Tiêu Hà cho sưu tập các loại giấy tờ công văn để lưu trữ làm tư liệu, mà quân của Lưu Bang mới biết rõ núi sông địa lý, tình hình kinh tế, xã hội của nước Tần. Thế lực của Lưu Bang lúc bấy giờ so với Hạng Vũ còn yếu, nhưng nhờ có quần thần đều là những người có tài năng giúp như Trương Lương, Tiêu Hà có tầm mắt nhìn xa trông rộng sớm chuẩn bị cho việc thống nhất và xây dựng một quốc gia mới. Tiêu Hà đã tham mưu cho Lưu Bang không nên thỏa mãn với thắng lợi trước mắt, mà cần được lòng dân. Vào tháng 11 năm đó. Lưu Bang cho triệu tập các phụ lão, thân hào các địa phương trong nước cùng thống nhất 3 chương pháp luật, Lưu Bang nói: - Hiện nay ta là vua của các ngươi, ta thống nhất với các bô lão anh em mấy chương luật như sau: "Giết người thì phải chết. Đánh bị thương thì chịu tội. Các hình phạt hà khắc khác bỏ hết”. Nhân dân các địa phương ai ở đâu về đấy hết, an cư lạc nghiệp. Ta đi đến đâu thì đề cao chính nghĩa, trừ hại cho dân, không bắt hương lý cung cấp cá thịt, không hạch sách dân, không bao giờ phải làm cho dân kinh sợ... Xin mọi người hãy bàn bạc thống nhất, mọi người cứ yên tâm"... Các chương luật trong thời gian chiến tranh đã có tác dụng thu phục lòng dân, ổn định tinh thần, được nhân dân ủng hộ. Câu chuyện "Tiệc Hồng Môn" còn lưu lại trong dân gian đã làm nổi bật tính cách của hai nhân vật lịch sử Lưu Bang và Hạng Vũ. Khi Hạng Vũ dẫn liên quân diệt Tần, vào đất Tần, Hạng Vũ đã mở "Tiệc Hồng Môn". Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở Bá Vương, xem Lưu Bang như tay chân, phong cho Lưu Bang làm Hán Vương, giữ đất Ba Thục và Hán Trung Lưu Bang rất tức giận. Các chủ tướng của Lưu Bang như Phàn Khoái, Quán Anh đã tức giận khuyên Lưu Bang không được khuất phục, cho nên Lưu Bang quyết tử chiến với Hạng Vũ. Lúc đó, Tiêu Hà là quan đại thần của Lưu Bang đã khuyên. - Ngài đến Hán Trung để xưng vương, đương nhiên đây là chuyện không vui, nhưng làm như thế so với cái chết vẫn hơn! Lưu Bang hỏi: ́ ́ - Làm sao mà đến mức độ nghiêm trọng phải chết được? Tiêu Hà nói: - Hiện nay lực lượng của Tướng công không mạnh bằng Hạng Vũ, tình hình bất lợi cho ta, không đánh không được, còn đánh thì thua. Chẳng khác gì trứng chọi đá, không chuốc lấy diệt vong thì thế nào? Chuyện lịch sử thời trước, Chu Vũ Vương gặp lúc tình thế bất lợi phải tạm thời khuất phục các bạo chúa như vua Trụ, mới được hàng vạn nhân dân tín nhiệm. Tướng công đi Hán Trung, để nhân dân nghỉ ngơi, thu nạp hiền tài, giữ sức tại Ba Thục, lúc tình thế có lợi nhanh chóng ra quân bình định cả nước, lúc đó mới có thể tranh giành thiên hạ được. Lưu Bang phải chịu nghe theo. Chuyện Lưu Bang thu nạp hiền tài như Hàn Tín là một tướng có tài, trước đầu quân cho Hạng Vũ, nhưng Hạng Vũ hẹp hòi, không biết người anh hùng, chỉ cho Hàn Tín giữa chức Lang trung thấp kém.Hàn Tín bỏ Sở đầu Hán, nhưng lại phạm pháp nên bị xử chém, may có quan giám trảm là Hạ Hầu Anh cứu và còn nâng đỡ nữa. Nhưng Lưu Bang vẫn chưa biết tài Hàn Tín nên chỉ phong cho ông làm Đô úy. Sau đó Hàn Tín trốn khỏi doanh trại quân Hán. Tiêu Hà hết sức kinh hoàng thậm chí không kịp báo cho Lưu Bang biết, đã lên đường giục ngựa đuổi theo. Lúc đó có người báo với Lưu Bang. - Thừa tướng Tiêu Hà đã bỏ trốn Hán Vương Lưu Bang vừa nghe đã hết sức kinh ngạc, Lưu Bang nổi trận lôi đình như mất chân tay, không biết làm thế nào. Hai ngày sau Tiêu Hà trở về bái kiến Lưu Bang và nói: ̀ ́ ̀ - Thần không dám chạy trốn, thần chỉ đuổi theo một người chạy trốn. Lưu Bang vội hỏi: - Nhà ngươi đuổi theo ai vậy? Tiêu Hà trả lời: - Hàn Tín. Lưu Bang chưa tin. - Các tướng lĩnh bỏ trốn hơn mười người, nhà ngươi chẳng đuổi theo ai, lại đuổi theo Hàn Tín một tên vô danh tiểu tốt, như thế là lừa gạt ta. Tiêu Hà thản nhiên. - Hàn Tín là một vị tướng tài có một không hai. Đại vương muốn tranh thiên hạ, ngoài Hàn Tín ra không có ai đảm nhiệm được, đây là quyết sách mà Đại vương cần xem xét. Lưu Bang vui vẻ nói: - Được, ta sẽ cho Hàn Tín làm Đại tướng, thống soái các tướng. Thế rồi Lưu Bang hạ lệnh mời Hàn Tín đến phong làm Đại tướng. Từ đó Hàn Tín hết lòng phò tá Lưu Bang, tranh giành thiên hạ với Hạng Vũ. Năm thứ 5 đời Hán, Hạng Vũ bị thua chết ở Cai Hạ. Tháng 2 năm đó, Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế làm lễ đăng quang ở Nam cung, Lạc Dương, xưng là Hán Cao Tổ. Sau khi Hạng Vũ chết, Lưu Bang thống nhất thiên hạ. Năm thứ 7 đời Hán, Lưu Bang cho dời đô từ Lạc Dương về Trường An, mở tiệc ăn mừng ở cung Vị Ương. Nhưng bản chất của Hán Cao Tổ Lưu Bang vẫn không thoát khỏi tầm thường. Sau khi thống nhất thiên hạ, sự ghét bỏ nghi ngờ của Lưu Bang đối với các công thần ngày một tăng, bèn tìm cách loại trừ họ, Hàn Tín bị ngờ có ý mưu phản đã bị tước mất. Hoài Âm hầu, bị cầm giữ ở kinh thành. Cuối cùng Hàn Tín đã bị Lã Hậu cho võ sĩ mai phục bắt, áp dẫn đến cung Trường Lạc hành hình. Lưu Bang nghe tin Hàn Tín chết vừa kinh sợ, lại vừa mừng. Cuối đời, Hán Cao Tổ Lưu Bang đã làm mất lòng mến phục của nhân dân trong buổi đầu dấy quân khởi nghĩa đánh Tần. Năm 194, Hán Cao Tổ truyền ngôi cho con là Lưu Doanh - Hán Huệ Đế CAO HẬU - NHÀ HÁN (187 - 179 trước CN) Lã Hậu là một phụ nữ cứng cỏi, quyết đoán và tàn nhẫn. Sau khi Hán Cao Tổ (Lưu Bang) chết, mọi hoạt động của Lã Hậu đều nhằm diệt vây cánh của họ Lưu (họ nhà chồng), gây dựng lực lượng cho dòng họ mình. Họ Lã tiến tới đoạt ngôi vua của nhà Hán. Cuộc nhân duyên của Lã Hậu và Lưu Bang diễn ra như một chuyện tình cờ. Thuở hàn vi Lưu Bang từng làm chức Đình trưởng (một chân quan lại cấp thấp) ở đất Bái, tính tình thì phóng khoáng vui vẻ, hay đùa, rất mê rượu và gái. Gia đình họ Lã là một nhà giàu ở nơi khác, vì tránh kẻ thù nên di cư đến đất Bái. Trong một bữa tiệc lớn, nhà họ Lã nảy ra ý định muốn gả con gái lớn của mình họ Lã tên Trĩ cho Lưu Bang. Đang lúc nửa tỉnh nửa say, chưa hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, song thấy có người gả con gái cho thì Lưu Bang vui vẻ nhận lời ngay, Lưu Bang và người con gái họ Lã đã cùng nhau nếm trải đủ mọi gian truân trong những năm tháng dấy binh phá Tần, diệt Sở. ́ Sau khi bình định được thiên hạ, Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế. Người vợ họ Lã được phong làm Chính cung Hoàng hậu. Lã Hậu, sinh hạ được một con trai, tên là Doanh lập làm Thái tử (sau là Hiếu Huệ Đế). Hán Cao Tổ còn có thứ phi rất được sủng ái là nàng Thích Cơ xinh đẹp và tài hoa. Thích Cơ cũng có một con trai đặt tên là Như Ý, được phong làm Triệu Vương. Quá yêu Thích Cơ. Hán Cao Tổ nhiều lần muốn truất bỏ Doanh, lập Như Ý làm Thái tử. Nhưng ý định không thực hiện được bởi thế lực của Lã Hậu lúc đó khá mạnh, mấy người anh Lã Hậu được phong hầu, giữ chức đại tướng quân, với nhiều binh mã. Cuối đời, Hán Cao Tổ biết rằng khi mình chết đi Thích Cơ và Như Ý khó được vẹn toàn nên ở lỳ Tây Cung cùng Thích Cơ uống rượu giải sầu, đôi khi lại kẻ đàn, người hát, lời lẽ bi ai, ngầm coi Lã Hậu là cái gai trước mắt. Lã Hậu biết hết tất cả qua tay chân và lấy làm căm tức. Một lần Hán Cao Tổ uống rượu say, gối lên đùi Thích Cơ để ngủ. Lấy tư cách là Chánh cung hoàng hậu, Lã Hậu đi thẳng sang Tây Cung vạch tội Thích Cơ rằng đã dùng sắc đẹp lời ca để đưa đức Thánh thượng vào con đường đam mê tửu sắc, hơn nữa thấy Chánh cung đến mà không lạy chào. Thích Cơ đành phải tạ tội song lại nói đỡ lời một câu đại ý: Chúa thượng đang gối lên đùi mình, sợ kinh động giấc ngủ của Người nên không thể ra nghênh tiếp được. Câu nói ấy như thùng dầu đổ vào lửa. Nếu không có Hán Cao Tổ can ngăn thì không biết kết cục sẽ ra sao. Song Thích Cơ coi như bị lãnh án tử hình của Lã Hậu kể từ đấy. Việc chính của Lã Hậu là cai quản mọi việc nơi cung cấm nên bà ta luôn tỏ ra là người có bản lĩnh, cơ mưu trong việc triều chính, diệt phản, dẹp loạn. Chẳng hạn như vụ giết Hàn Tín. Cùng với một số danh tướng khác, Hàn Tín có công đầu trong việc giúp Lưu Bang diệt Hạng Vũ, thâu tóm thiên hạ, lập ra nhà Hán, sau bị dèm pha, nghi kỵ nên có mưu đồ chống lại nhà Hán. Do việc bị bại lộ, Hàn Tín đang là chư hầu vương ở nước Lỗ bị Hán giết, sau giáng làm Hoài Âm hầu, giữ tại kinh đô để dễ cai quản. Ngay tiếp đó lại xảy ra vụ Trần Hy làm phản, Hán Cao Tổ phải thân chinh đi đánh dẹp. ̀ ̀ Hàn Tín có đưa mật thư khuyên Trần Hy nên kéo quân về đánh úp kinh đô Hàm Dương. Do sự phản chủ của kẻ gia nô của Hàn Tín mật báo, Lã Hậu đã cùng thừa tướng Tiêu Hà bày mưu dụ Hàn Tín vào triều rồi gọi vào nội cung. Sau đó sai võ sĩ xông vào bắt trói lại. Hàn Tín kêu vô tội. Lã Hậu bèn nói thác ra rằng Trần Hy đã bị giết, khám trong người thấy bức thư của Hàn Tín, nét chữ rành rành, (thực tế lúc đó Trần Hy chưa bị giết, còn đang cầm quân, chuẩn bị kéo về kinh đô) Hàn Tín đành phải cúi đầu, im lặng không thể chối cãi được gì. Lã Hậu bèn ra lệnh cho trói Hàn Tín vào cột điện Vị Ương đâm chết, cắt lấy đầu, rồi sai Lục Giả mang đầu Hàn Tín ra trận tiền giương cao lên cho Trần Hy thấy. Quân Trần Hy tan vỡ. Riêng Trần Hy thì lọt vào trận địa phục kích, bị tướng của Hán Cao Tổ cắt lấy thủ cấp. Về tới hoàng thành, khi biết rõ âm mưu giết Hàn Tín diệt Trần Hy là do Lã Hậu bày đặt, mặc dầu hết lòng ca ngợi, song trong lòng Hán Cao Tổ cũng thấy ghê sợ người đàn bà này. Hán Cao Tổ qua đời sau thời gian ốm nặng ở tuổi 63 (năm 194 trước Công nguyên). Đã quá 4 ngày, song Lã Hậu vẫn chưa cho phát tang vì còn bận bàn mưu tính kế với Thẩm Tự Cơ vốn là người tình cũ, định lừa triệu các đại thần vây cánh của họ Lưu vào trong cung cấm, sai người giết chết hết rồi mới cho Hiếu Huệ lên ngôi trước linh sàng. Cuối cùng âm mưu này đành phải gác bỏ do thế lực của họ Lưu phía ngoài thành còn quá mạnh. Lã Hậu bèn quyết định làm tờ di chiếu cho Hiếu Huệ nối ngôi, còn mình thì đích thân điều hành triều chính. Sau khi nắm được quyền lớn, công việc đầu tiên của bà ta là sai người chặt tay, chân của Thích Cơ, cắt tai, móc mắt, cho uống thuốc thành câm, rồi nhốt vào nhà xí gọi là "con lợn người" và cho Hiếu Huệ đến xem. Là người có từ tâm, nhìn cảnh tượng thê thảm ấy Hiếu Huệ chợt khóc rống lên, lấy vạt áo long bào che mặt nói; Việc ấy chẳng phải là việc con người đang tâm làm? Tôi là con Thái hậu tôi không thể trị vì thiên hạ được nữa. Thế là từ đó Thái hậu coi Hiếu Huệ Đế - đứa con mà mình đứt ruột đẻ ra như kẻ thù. Sau vụ hành hình Thích Cơ, bà ta cho gọi Như Ý (được Hán Cao Tổ phong vương ở đất Triệu) về kinh, Hiếu Huệ đã biết có chuyện chẳng lành, nên tìm mọi cách để bảo vệ Như Ý. Song có một hôm khi Hiếu Huệ đi săn sớm, Lã Hậu bèn cho người mang thuốc độc đổ vào ̀ Ý ́ ́ ̀ mồm, Như Ý lúc bấy giờ đang ngủ say, khi Hiếu Huệ quay về thì Như Ý đã chết rồi. Buồn bực vì những hành động tàn bạo của mẹ, Hiếu Huệ chẳng thiết gì đến chính sự, sinh ra rượu chè rồi ốm nặng, ít lâu sau thì qua đời. Lã Hậu đến viếng "khóc mà không có nước mắt". Người con hờ của Hiếu Huệ Đế lên ngôi. Gọi là con hờ vì theo mưu kế của Lã Hậu nhằm tạo thêm vây cánh của họ Lã. Hiếu Huệ bị ép lấy người cháu gái (con chị ruột) mang họ Lã. Do người này không sinh đẻ được nên Lã hậu bắt đóng giả là người có mang, đủ tháng, đủ ngày thì lấy con của người khác thế vào và giết luôn mẹ của đứa bé đó để bịt đầu mối. Biết được việc làm này, vị Hoàng Đế con hờ căm tức lắm, đe là sẽ báo thù cho mẹ đẻ. Khi biết được chuyện, Lã Hậu bèn tuyên cáo rằng vua bị bệnh nặng không ra coi triều được và sai người đưa ông ta tới ngôi nhà khuất nẻo trong Cấm thành thủ tiêu luôn. Sau lập một thiếu niên khác trong hoàng tộc lên ngôi (Hán Thiếu Đế). Cho đến những ngày cuối đời, Lã Hậu đã giết rất nhiều các vương công đại thần thuộc phe cánh của họ Lưu đưa anh em họ hàng tay chân vào nắm giữ hầu hết các chức vị quan trọng trong triều. Hàng loạt người thân tín khác được phong vương ở các địa phương, nắm trong tay mọi quyền hành với đội quân lớn. Thẩm Tự Cơ được cử làm Thái phó. Song người đàn bà đáng sợ ấy không thoát khỏi tuổi già và sức yếu. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, bà ta còn kịp để lại tờ di chiếu ban cho mỗi "chư hầu vương" một ngàn cân vàng. Toàn bộ bá quan văn võ trong triều đều được ban phát một số vàng khá lớn. Tất cả đều nhằm mục đích khuyến khích họ cố gắng thực hiện mưu đồ đưa người họ Lã lên ngôi. Song cuối cùng sự việc đã không diễn ra như ý muốn của Lã Hậu. Sau khi Lã Hậu mất, các đại thần văn võ trung thành với Hán Cao Tổ đã tổ chức một cuộc phản kích với quy mô lớn, trong thời gian ngắn đã tiêu diệt hết vây cánh họ Lã, buộc Hán Thiếu Đế phải tự thú, tôn một người con của Hán Cao Tổ lên ngôi là Hiếu Văn Đế. HÁN VŨ ĐẾ (140 đến 87 trước Công Nguyên) Niên hiệu: Kiến Nguyên - 140 trước CN Nguyên Quang - 134 trước CN Nguyên Sóc - 128 trước CN Nguyên - 122 trước CN Nguyên Đỉnh - 116 trước CN Nguyên Phong - 110 trước CN Thái Sơ - 104 trước CN Thiên Hán - 100 trước CN Thái Thuỷ - 96 trước CN Chinh Hòa - 92 trước CN Hậu Nguyên - 88 trước CN Hán Vũ Đế tên là Lưu Triệt, Hoàng Đế thứ 16, của triều Tây Hán, một vị Hoàng Đế có tiếng tăm trong lịch sử Trung Hoa. Ông sinh năm 157 trước CN, năm 140 lên ngôi Hoàng Đế. Trong 54 năm trên ngôi Hoàng Đế, Hán Vũ Đế đã làm nhiều việc củng cố nền thống trị và mở cửa ra bên ngoài. Về đối nội, Hán Vũ Đế chủ trương thi hành chính sách dẹp hết Bách gia, chỉ để cho Nho thuật độc tôn. Về đối ngoại, Hán Vũ Đế đã khuếch trương thế lực, ngăn chặn được cuộc xâm lăng lúc nào cũng phải bận tâm của Hung Nô ở phương Bắc từ thời Chiến Quốc. Nhưng Hán Vũ Đế là vị Hoàng Đế đã thi hành nhiều chính sách bóc lột nhân dân thậm tệ, vét hết, vét sạch của cải trong dân nên không được lòng dân.Tương truyền Hán Vũ Đế tính tình hung bạo, nét mặt đanh ác, giết người không ghê tay, nên trong dân chúng ̀ ́ mọi người thường hù dọa nhau bằng tên của Hoàng Đế. Trẻ con khóc, mẹ nói đến tên Hán Vũ Đế là nín thít ngay. Những người yếu bóng vía, mỗi khi Hán Vũ Đế xuất hiện trên đường đều không dám nhìn mặt. Trong cuộc đời của Hán Vũ Đế, công trạng của ông được mọi người nhắc đến là đánh tan được sự uy hiếp và xâm nhập biên cương của Hung Nô. Sau khi Hán Vũ Đế lên ngôi tình hình vương triều Hán đã khác trước, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống ấm no, chuẩn bị điều kiện đầy đủ cho Hoàng Đế khuếch trương thế lực ra bên ngoài. Mấy năm đầu, Hán Vũ Đế vẫn tiếp tục chính sách hòa thân với Hung Nô, lợi dụng lòng tham lam của bọn quý tộc Hung Nô, mở rộng cửa quan buôn bán. Mặt khác, Hán Vũ Đế chuẩn bị lực lượng chuyển thế thủ thành thế công. Năm 129 trước CN, đế quốc Tây Hán chính thức tiến công Hung Nô, kéo dài đến năm 127 trước CN, đã thu được nhiều thành trì như nội Mông Cổ, Hà Nam. Từ năm 124 đến năm 119 trước CN, Hán Vũ Đế thường xuyên dùng từ 10 đến 20 vạn quân đánh phá Hung Nô, nhiều lần quân Hung Nô bại trận, người và của tổn thất rất nhiều. Từ đó quân Hung Nô chạy xa không dám quay lại, xóa được nạn Hung Nô uy hiếp triều đình. Chính sách đối ngoại khuếch trương của Hán Vũ Đế, không những dẹp yên nạn xâm lăng, mở rộng bờ cõi phương Bắc, mà còn đánh chiếm và thò bàn tay thống trị về phía nam và tây chiếm đất đai, biên cương mở rộng. Nước Trung Hoa thời đại Hán Vũ Đế, không những là một nước lớn trong vùng Đông Á mà còn là một nước lớn trên thế giới, nhân khẩu đông, của cải giàu có. ́ ̀ Hán Vũ Đế có một đội ngũ cận thần phò tá có tài năng như: Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh đã có tác dụng xây dựng vương triều Hán Vũ Đế cường thịnh. Những năm cuối đời, do chính sách bóc lột thậm tệ nhân dân của Hán Vũ Đế, xã hội đã xảy ra nhiều cuộc bạo động của nông nô, nô tỳ và tiểu nông ở các nơi như: Nam Dương có Nai Diễn, Bách Chính. Đất Sở có Đoạn Trung, Đỗ Chiến. Đất Tề có Từ Bột. Đất Yên, Triệu có Kiên Lô, Phạm Chủ. Đông đảo quần chúng đã tham gia đánh phá các thành, các ấp, chiếm kho lương, thả tù nhân, làm nhục quan lại quận huyện vạch tội ác của chúng, giết chết bọn ác ôn. Hán Vũ Đế chết, Hán Chiêu Đế nối ngôi, tình hình đất nước vương triều Tây Hán ngày càng sút kém khiến cho Vương Mãng cướp ngôi. VƯƠNG MÃNG (9 - 23 sau CN) Niên hiệu: Thủy Kiến Quốc Thiên Phượng Địa Hoàng Vương Mãng là cháu của Hoàng hậu Vương Chính Quân thời Tây Hán, Nguyên Đế. Cha chết sớm, gia đình nghèo nhưng Vương Mãng ham học, đối xử với mọi người thận trọng. Năm 18 tuổi, anh em của Hoàng hậu Vương Chính Quân đều có chức vị trong triều đình. Ngũ Phượng làm Đại tư mã, Đại tướng ̀ quân. Có 5 người được phong tước hầu là Vương Đàm, Vương Phương, Vương Vân, Vương Căn và Vương Phùng. Những người này đều kiêu xa lộng hành. Riêng Vương Mãng an phận thực thà khác hẳn với những người anh em, cho nên được nhiều người có thiện cảm, đặc biệt khi Vương Phương lâm bệnh nặng, Vương Mãng chăm sóc thuốc men ngày đêm không nghỉ, quên ăn, khiến cho Vương Phương hết sức cảm động. Trước khi chết đã gửi gắm Vương Mãng cho Hoàng hậu Vương Chính Quân, vì vậy Vương Mãng được vào làm thị vệ cho Hoàng Đế, chức Hoàng môn lang, truyền đạt chiếu mệnh của Hoàng Đế xuống các quan đại thần. Do có sự đỡ đần của Hoàng hậu Vương Chính Quân, Vương Mãng lại được thăng chức Kỵ đô úy Quang Lộc đại phu, từ đó, địa vị của Vương Mãng ngày càng cao. Thường ngày Vương Mãng cần kiệm liêm chính, luôn tu dưỡng, giữ hiếu đạo. Có một lần, trong bữa tiệc thịnh soạn, nhiều lần Vương Mãng rời chiếu tiệc đứng lên đi ra, y nói là phải về cho mẹ ốm uống thuốc, để giữ cho được "hiếu thuận" với mẹ già, thậm chí còn đem của cải tài sản chia cho dân nghèo, được xã hội khen ngợi, cuối cùng Vương Mãng được phong Đại tư mã. Vương Mãng lại rất kính trọng thầy giáo, thường Vương Mãng đến học đường của con cháu họ Vương thăm hỏi các thầy giáo. Năm thứ 7 trước Công Nguyên, Hán Thành Đế lâm bệnh chết, Hán Ai Đế kế vị, triều đình không cho ngoại thích tham chính. Vương Mãng bị buộc rút khỏi triều chính về quê nhà, Vương Mãng tiếp tục thu phục nhân tâm. Có một lần, con trai của Vương Mãng là Vương Hoạch giết một nữ nô tì, y đã buộc con tự sát đền mạng. Vương Mãng còn đem tài sản cứu tế cho dân nghèo và dân bị tai nạn. Nhiều người viết thư yêu cầu Vương Mãng xuống núi nhận chức Đại tư mã. ́ ́ ́ Năm thứ một trước Công nguyên, Ai Đế ốm chết. Thái hậu hạ chiếu để các quan đại thần chọn một người làm Đại tư mã. Các quan đại thần từ trên xuống dưới đều chọn Vương Mãng làm, duy chỉ có Tiền tướng quân Hà Vũ; Tả tướng quân Công Tôn Lộc, sợ thế lực của ngoại thích quá lớn, về sau gây hại nên không đồng ý. Được sự ủng hộ của Thái hậu Vương Chính Quân, Vương Mãng lại làm Đại tư mã, Thượng thư. Từ đó vương triều Tây Hán lại đi vào con đường ngoại thích chuyên quyền, đất nước lâm nguy bước vào thời kỳ mới. Về sau, Thái hậu lại phong cho Vương Mãng làm Thái phó, tặng hiệu An Hán công, hưởng bổng lộc 28.000 hộ, Vương Mãng ba lần từ chối, giả vờ ốm, ba lần các quan đại thần tái cử, Vương Mãng mới nhận. Vương Mãng tinh khôn đã dâng biểu lên Thái hậu, yêu cầu phong cho con cháu, tôn thất, cho con cháu công thần cùng các quan trong triều tước hầu. Từ đó có 36 người được phong hầu và hàng trăm người thân tín trở thành quý tộc. Hoàng tộc có tội bị phế, đều được khôi phục chức tước, quan lại là lão chí sĩ, vẫn được cấp một phần ba bổng lộc được nuôi suốt đời. Đồng thời, Vương Mãng cho tuyển đến hàng vạn Thái học sinh, trưng tập hàng nghìn nhân sĩ trong thiên hạ đến kinh thành, ai ai cũng cảm kích ân đức của Vương Mãng. Khi có sâu cắn hại mùa màng, Vương Mãng chủ động hiến một trăm vạn quan tiền, hàng vạn mẫu ruộng cho nông dân gặp tai họa. Noi theo Vương Mãng, có 230 quan lại trong triều, cũng quyên tiền ruộng giúp đỡ dân, cho nên, Vương Mãng được hầu hết nông dân ca tụng, thanh danh vang khắp nơi. Hoàng tử ngày càng lớn, bắt đầu tuyển cung nữ, phi tần. Trong số những người được dự tuyển hoàng hậu, một nửa là con gái các ́ ̀ vương gia. Để phòng lời qua tiếng lại, Vương Mãng cầm bản danh sách dự tuyển đi tìm Thái hậu nói: - Thần vốn không có đức, con gái thì vô tài, không nên tuyển, cho nên gạch tên đi. Sự thật thì, con gái của Vương Mãng lại là người nổi trội nhất. Tuy Thái hậu do không tìm hiểu ý kiến của Vương Mãng nhất luật gạch danh sách các con gái nhà vương gia nhưng các quan đại thần nhất loạt dâng thư lập con gái của Vương Mãng làm hoàng hậu. Vương Mãng ba lần gặp Thái hậu để tâu trình, xin loại bỏ con gái mình, nhưng ý của Thái hậu vẫn kiên quyết giữ, thế là Vương Mãng trở thành Quốc trượng, Hán Bình Đế đã ban thưởng cho Vương Mãng 25.000 khoảnh ruộng tốt ở Tân Dã. Vương Mãng từ chối không nhận, lại được cả nước ngợi khen. Chính lúc tên tuổi, thanh danh của Vương Mãng đang lẫy lừng thiên hạ, quyền uy khắp triều đình thì xảy ra một chuyện kỳ lạ trước cửa nhà của Vương Mãng. Nửa đêm, trước cửa nhà Vương Mãng có một xác người bị chém máu chảy lênh láng, Vương Mãng hạ lệnh tra xét ngay. Nào ngờ đó lại là do con trưởng của Vương Mãng là Vương Vũ gây ra. Vốn Vương Vũ thấy cha dần dần nắm hết triều chính, không muốn cho người khác có chút quyền hành nào, cho rằng nếu để lâu sẽ sinh hậu họa, nhiều lần khuyên can, nhưng Vương Mãng không chịu nghe lời, Vương Vũ cho rằng cha võ đoán, không nghe lời khuyên. Muốn cho cha nghe lời khuyên, nên gây ra chuyện như thế. Kết cục Vương Vũ bị xử tử, vợ đang mang thai, chờ sinh con xong sẽ xét. Cũng từ đó Vương Mãng bắt tay vào tàn sát, nhiều người vì chuyện đó bị trảm hoặc diệt tộc. Vương Mãng bức bách Công chúa Kính Vũ em gái của Hán Nguyên Đế không hợp với Vương Mãng. Hồng Dương hầu Vương Lập, Bình A hầu Vương Nhân, cùng Hà Vũ, Bào Tuyên, và con cái ̀ ̀ nhiều công hầu khanh tướng do không thuận theo ý của Vương Mãng, bị buộc phải tự vẫn hoặc xử tử. Thiên hạ đều hoảng sợ kinh ngạc, tại sao đến lúc này Vương Mãng quay ngoắt trở thành con người hung ác tàn bạo đến vậy, nhiều quan đại thần sợ quá đã treo ấn ra đi. Năm Hán Bình Đế 14 tuổi, dần dần hiểu được sự tình, rất bất mãn về những hành động ngang nhiên của Vương Mãng, đặc biệt là sát hại nhiều thân thuộc của hoàng gia. Vương Mãng sợ Hán Bình Đế lớn lên sẽ báo thù, liền nghĩ phải "chém một nhát đứt đoạn, không thì loạn". Vương Mãng hành động ngay. Hắn dâng rượu thuốc độc cho Bình Đế uống. Từ khi Hán Bình Đế uống rượu của Vương Mãng dâng cảm thấy khó chịu, bệnh của Hoàng Đế không giảm đi, sức khỏe sút kém, người đau đớn, nhất là trong bụng. Hoàng Đế nào có biết, Vương Mãng đã bỏ thuốc độc với liều đủ làm cho Hoàng Đế chết dần. Lúc đó, Vương Mãng vờ xót thương, cả ngày mặt mày ủ dột, luôn vào cung thăm hỏi, còn đến miếu thờ các vua Hán đời trước nguyện lấy thân mình thay bệnh cho Bình Đế. Được mấy ngày Bình Đế chết, mới 14 tuổi. Sau khi Hán Bình Đế chết, Lưu Anh là đứa con 2 tuổi của Bình Đế được lập làm Thái tử, lúc bấy giờ Vương Mãng mới giở hết thủ đoạn, thi hành nhiều chính sách quái dị. Vương Mãng đã sắp xếp một sự việc khác thường, để mọi người khi đào giếng moi lên được một phiến đá trắng trên mặt có khắc "tuyên bố An Hán Công Vương Mãng là Hoàng Đế và cho đó là ý trời để Vương Mãng lấy ngôi nhà Tây Hán. Năm thứ nhất niên hiệu Sơ Thủy, vào tháng 11 năm 8 Công nguyên, Vương Mãng buộc Thái hậu trao quyền xưng chế khi thiết triều, phế bỏ đế hiệu của họ Lưu, tự xưng là Hoàng Đế, đổi quốc hiệu là Tân ngồi trên ngôi Hoàng Đế được 14 năm. Để bình luận về Hoàng Đế Vương Mãng, nhà tư tưởng đời Bắc Tống tên là Lý Cấu, trong bài thơ "Hán Cung" có viết: ́ ́ ̀ Ai Đế ngoại lập quốc quyền phân, Chỉ vi đương thời phiếm tự quân. Thức vấn Mãng Tân thùy tá mệnh, Tối ưng Phi Yến, thị Nguyên huân. (Tạm dịch: Hán Ai Đế đã chia quyền lập quốc cho ngoại thích. Chỉ vì lúc bấy giờ thiếu tự quân. Thử hỏi Vương Mãng, triều Tân, ai đã giao mệnh cho, ắt là Triệu Phi Yến, Vương Mãng trở thành người khai quốc Nguyên huân). Nội dung bài thơ có ý nói: Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán là do thiếu vua kế vị, đồng thời còn do đàn bà, ngầm ví hoàng hậu Vương Chính Quân như Triệu Phi Yến. Ngày nay đối với sự việc này, các sử gia cho rằng, ngay lúc đầu chưa chắc Vương Mãng đã có dã tâm muốn cướp ngôi làm Hoàng Đế, nhưng dần dần do có thời cơ, hoàn cảnh nên khơi dậy dã tâm ẩn náu trong con người y. THỜI TAM QUỐC (220 - 280) NGỤY: 220 - 265 Gồm các triều vua: Văn Đế: 220 - 227 Minh Đế: 227 - 240 Tề Vương: 240 - 254 Cao quý Hương Công: 254 - 260 Nguyên Đế: 260 - 264 Sau bị giáng xuống làm Trần Lưu Vương. THỤC HÁN: 221 - 263 Gồm các triều vua: Chiêu Liệt Đế: 221 - 223 Hậu Chủ: 223 - 263 NGÔ 222 - 280 Gồm các triều vua: Đại đế: 222 - 252 Cối Kê Vương: 252 - 258 Cảnh Đế: 258 - 264 Ô Trình hầu: 264 - 280 HÌNH THÀNH THỜI TAM QUỐC Thời đại Tam Quốc nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn vàng cuối đời Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa khăn vàng là cuộc khởi nghĩa do nông dân bị áp bức vùng lên. Quân khởi nghĩa đã đánh tan nhiều đội quân của triều đình, nhưng cuối cùng do lực lượng yếu bị thất bại. Bọn quan lại lợi dụng thừa cơ đã nắm lực lượng vũ trang ở Trung ương, bọn ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu đã câu kết với các thế lực quan liêu quý tộc do Viên Thiệu cầm đầu. Bọn hoạn quan đã nổi lên giết chết Hà Tiến, Viên Thiệu cũng giết đến hơn hai ngàn ́ hoạn quan. Thế lực của bọn quan hoạn tan tác. Đổng Trác nhân cơ hội đó tiến vào kinh thành lấy cớ phò tá triều đình, nắm quyền lực phế bỏ vua Hán Thiếu Đế lập vua mới là Hán Hiến Đế. Viên Thiệu đem quân chạy ra Quan Đông, các châu quận đều đi theo Viên Thiệu, bầu Viên Thiệu làm minh chủ, phát động một cuộc chiến tranh đi thảo phạt Đổng Trác. Hán Hiến Đế đầu tiên đã rơi vào tay Đổng Trác, sau lại bị Tào Tháo kiềm chế ép buộc rời đô về Hứa Xương. Nhà Đông Hán chỉ có danh mà không có thực. Thời kỳ đầu, thế lực các địa phương chia cắt đất đai, đánh nhau hỗn loạn, tập đoàn Tào Tháo chiếm giữ vùng tây nam Sơn Đông và tỉnh Hà Nam. Tập đoàn Viên Thiệu chiếm cứ vùng Hà Bắc, phía đông và bắc tỉnh Sơn Đông và tỉnh Sơn Tây. Tập đoàn Công Tôn Toản chiếm cứ phía đông và bắc tỉnh Hà Bắc. Đào Khiêm và Lã Bố chiếm vùng Từ Châu, Trương Tú chiếm Nam Dương, Viên Thuật chiếm Dương Châu (tức là vùng hạ du Trường Giang, nắm giữ Trường Giang và sông Hoài) Lưu Biểu chiếm Kinh Châu (tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam). Tôn Sách và sau là Tôn Quyền đã tiếp thu vùng Kinh Châu. Lưu Ích chiếm vùng Tứ Xuyên, Mã Đằng, Hàn Toại chiếm Cam Túc. Lưu Bị lúc bấy giờ không có địa bàn nhất định nên phải lần lượt về nương tựa Tào Tháo, Viên Thiệu và Lưu Biểu. Các tập đoàn đánh nhau liên miên năm này qua năm khác, thôn tính lẫn nhau bằng đủ mọi cách. Như Viên Thiệu mượn đội quân dân tộc thiểu số để đánh Công Tôn Toản. Trong cuộc hỗn chiến, nhân dân bị sát hại rất nhiều, sản xuất bị phá hoại, thảm cảnh này được khái quát trong 2 câu thơ. "Xuất môn vô sở kiến Bạch cốt tệ bình nguyên" Có nghĩa là: "Ra cửa chẳng trông thấy gì ́ ̀ ̀ Xương trắng phơi đầy đồng" Ví dụ như Đổng Trác đã ép Hán Hiến Đế rời đô về Trường An, trước khi đi đã đốt sạch, phá sạch Lạc Dương. Nhân dân đói cực khốn cùng, xác chết phơi đầy đường, kinh đô phồn hoa đã biến thành đống tro tàn. Về sau Vương Sung và Lã Bố đã giết Đổng Trác. Bộ tướng của Đổng Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ chống lại, đánh chiếm Trường An thả quân tàn phá giết người, kinh thành Trường An để trống không hơn 40 ngày, cả kinh thành không có người, không có lửa nấu ăn. Lý, Quách sau bị Tào Tháo diệt, Tào Tháo tiến đánh Đào Khiêm, chiếm 5 huyện Từ Châu, giết nam nữ thanh niên đến hơn 10 vạn người, xác trôi đầy sông, nước không chảy được. Lúc bấy giờ khắp các nơi dân chạy tứ tán, ruộng đất bỏ hoang, lính thiếu ăn xơ xác. Năm 196, sau khi ép Hán Hiến Đế rời đô về Hứa Xương, để ổn định sự thống trị của mình, Tào Tháo đã ban bố lệnh lập các đồn điền, ổn định phục hồi sản xuất, tăng thêm lương thực, xây dựng các công trình thủy lợi, tập hợp các quân lưu vong hàng trăm vạn người hợp lực cùng binh sỹ canh tác sản xuất. Sau khi Tào Tháo thực hiện chế độ đồn điền, giải quyết được vấn đề lương thực, cho quân lính, ổn định tương đối trật tự xã hội và trong vòng mấy năm đã tiêu diệt được Lã Bố, Viên Thuật, Trương Tú. Lúc bấy giờ, Viên Thiệu ở Hà Bắc thế lực cũng rất mạnh. Sau khi phá được Công Tôn Toản đã chiếm được 4 châu: Ký, Thanh, Viêm, U thuộc đông bắc tỉnh Hà Nam. Sau Tào Tháo đại phá Viên Thiệu, cho đến năm 205 mới chiếm được đất đai của Viên Thiệu, đại phá Mã Đằng, Hàn Toại. Năm 208, Tào Tháo quay về phía Nam tấn công Kinh Châu, Lưu Tôn con Lưu Biểu hàng Tào Tháo. Nhân đà Tào Tháo muốn tấn công chiếm Giang Đông, nhưng đại bại ở Xích Bích do liên quân Tôn Quyền và Lưu Bị chặn đánh. Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền lập ra thế "chân vạc". ́ ́ Sau trận Xích Bích, Lưu Bị chiếm vùng phía bắc Kinh Châu, phía nam có Vũ Lăng, Trường Sa (tỉnh Hồ Nam) tiếp tục phát triển lên thượng du Trường Giang. Năm 214, Lưu Chương đầu hàng Lưu Bị, nên Lưu Bị được cả Ích Châu. Tôn Quyền và Lưu Bị lại đánh nhau chia Kinh Châu. Tào Tháo quay về bắc lấy Hán Trung. Năm 219, Lưu Bị chiếm Hán Trung, năm đó Tôn Quyền cũng chiếm toàn bộ Kinh Châu. Thế chân vạc từ lúc đó hình thành lâu dài. Năm 220, Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ Hán Hiến Đế tự lên ngôi Hoàng Đế, quốc hiệu là Ngụy, đóng đô ở Lạc Dương. Năm 221, Lưu Bị xưng đế ở đất Thục, lấy quốc hiệu là Hán đóng đô ở Thành Đô. Năm đó, Lưu Bị đem quân đi đánh Tôn Quyền, bị tướng Ngô là Lục Tốn đánh bại, phải rút về thành Bạch Đế thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Năm 223, Lưu Bị chết, con trai là Lưu Thiền lên kế vị, Gia Cát Lượng làm Phụ chính. Chủ trương của Thục Hán là hòa hiếu với Ngô, phát triển về hướng tây nam, chinh phục các dân tộc thiểu số vùng cao nguyên Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, từ đó ổn định hậu phương, tăng nhân lực vật lực. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế, quốc hiệu là Ngô, đóng đô ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Ngô một mặt dựa vào Trường Giang hiểm yếu, huấn luyện thủy quân, phòng ngự Tào Ngụy. Mặt khác, hướng về vùng phía nam sông Dương Tử mở rộng, bổ sung thế lực, cắt cứ vùng đất các tỉnh trung hạ du Trường Giang, Phúc Kiến, Lưỡng Quảng và còn xa hơn. Thời Tam Quốc kéo dài từ năm 220 cho đến năm 280, khi Tây Tấn diệt Ngô mới kết thúc. LƯỠNG TẤN (265 - 420) TÂY TẤN (265 - 317) Vũ Đế 265 - 304 Huệ Đế 304 - 307 Hoài Đế 307 - 313 Mẫn Đế 313 - 317 ĐÔNG TẤN (317 - 420) Nguyên Đế 317 - 322 Minh Đế 322 - 325 Thành Đế 325 - 343 Khang Đế 343 - 345 Mục Đế 347 - 362 Ai Đế 362 - 366 Hải Tây Công 366 - 371 Giản Văn Đế 371 - 373 Hiếu Vũ Đế 373 - 397 An Đế 397 - 419 Cung Đế 419 - 420 TÂY TẤN THỐNG NHẤT - TƯ MÃ VIÊM LÊN NGÔI Năm 265 Tư Mã Viêm lên ngôi Hoàng Đế, xây dựng vương triều phong kiến Tấn, đóng đô ở Lạc Dương, sử gọi là Tây Tấn. Mãi đến năm 280, Tấn diệt Ngô mới thực sự có chính quyền thống nhất. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm diệt Ngụy lên ngôi Hoàng Đế đã phong cho con em thân thuộc hơn 20 người làm vua các vùng đất khác ̀ nhau. Lúc đầu các ông vua chỉ làm quan ở kinh thành, không đi đến đất được phong. Mãi đến năm 277 họ mới chịu đến địa phương riêng, rồi cũng có quân đội, tự tuyển quan lại văn võ, trực tiếp nắm dân chính, tài chính với quân chính. Khi Tư Mã Viêm chưa chết, tuy bên ngoài chính quyền trung ương là thống nhất nhưng thực ra tình hình đất nước đã chia cắt. Để thỏa mãn dã tâm tư lợi, các ông vua chư hầu tiến một bước cát cứ tranh quyền đoạt vị, tất nhiên sẽ mâu thuẫn với chính quyền trung ương. TẤN HUỆ ĐẾ (Năm 290 - 307) Sau khi Tư Mã Viêm chết (290), Tấn Huệ đế lên kế vị. Ngoại thích Dương Tuấn làm phụ chính vì Hoàng Đế hãy còn nhỏ. Triều đình rơi vào cảnh hỗn loạn kéo dài hơn 15 năm (291 - 306) phá hoại sản xuất ở miền Bắc, đem lại tai họa cho nhân dân làm lung lay nền thống trị của Tây Tấn. Đất nước sau thời Tam Quốc, kinh tế chưa hoàn toàn được phục hồi; thế mà lại rơi vào tình trạng hỗn loạn cảnh tiêu điều, nhân dân đau khổ lại tái diễn. Bè lũ thống trị thì sống phè phỡn, sa đọa, trụy lạc trên mồ hôi nước mắt của nhân dân lao động, mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc. Tấn Huệ Đế ngu đần, mẹ là Giả hậu phóng đãng hoang dâm, công khai nhận hối lộ, thêm vào tám ông vua chư hầu làm loạn, tình hình trở nên nghiêm trọng, thế nước suy yếu, dân chúng phải lưu vong kiếm sống. Như vậy cái gọi là thống nhất của Tây Tấn chỉ được hơn 10 năm, lại rơi vào tình trạng chia cắt "Bát vương chi loạn". CÁC TỘC TÂY VÀ BẮC TIẾN VÀO BẮC TRUNG QUỐC Cuộc đời nhà Tây Hán cho đến lúc bấy giờ các bộ tộc phương bắc bắt đầu dòm ngó nội địa Trung Hoa, đến đời Đông Hán, Tam Quốc, thì việc đó càng nghiêm trọng hơn. Người Hung Nô, dân du mục lấn dần về phía nam vùng Hà Sáo, thừa lúc Trung Nguyên hỗn loạn tiến xuống phía nam tỉnh Sơn Tây. Các bộ tộc chọn người Hung Nô bầu làm Chủ soái, cử người Hán làm Tư Mã để giám sát. Dân năm bộ tộc Hung Nô lúc bấy giờ đã lên đến 3 vạn người, đều sinh sống ở vùng Đông Nam tỉnh Sơn Tây. Những năm đầu của Tây Tấn, triều đình đã thực hiện nhiều chính sách vỗ về phủ dụ. Năm 289 các bộ tộc: Hung Nô, Tiên Ti và Ô Hoàn đã có con số lên đến 40 vạn người, người Khương ở Quan Trung lên đến hơn 50 vạn, chiếm một nửa nhân khẩu Quan Trung. Hủ bại và nổi loạn của giai cấp thống trị Tây Bắc là cơ hội có lợi cho các tộc phương Bắc tiến vào Trung Nguyên. Khi lực lượng thống trị vương triều Tây Tấn suy yếu, các dân tộc nhập cư ở phía Tây và Bắc xây dựng lực lượng vũ trang, bạo động. LOẠN VĨNH GIA Loạn "Tám Vua, Hung Nô vùng Sơn Tây, tập hợp lại bầu Lưu Uyên làm thủ lĩnh, trước hết xây dựng thế lực độc lập. Năm 304, Lưu Uyên chiếm Lý Thành tỉnh Sơn Tây tự xưng là Hán vương. Năm 308 xưng Hoàng Đế, quốc hiệu là Hán, năm sau dời đô về Bình Dương tỉnh Sơn Tây. Năm 310 Lưu Uyên chết, Lưu Thông lên kế vị. Năm sau Lưu Thông phát binh đánh chiếm Lạc Dương, giết hơn 3 vạn quân Tấn, Tấn Vương Công, trăm quan và dân thường, đã lấy Lạc Thủy làm điểm tựa đuổi Tấn Hoài Đế, sử gọi là "Loạn Vĩnh Gia" (Vĩnh Gia là niên hiệu của vương triều Tấn lúc bấy giờ). ́ ́ ́ ́ ̀ Tấn Hoài Đế chết, con lên kế vị, dời đô về Trường An. Quân của Lưu Thông tấn công Trường An, Hoàng Đế triều Tấn đầu hàng, từ đó các bộ tộc thiểu số ở phía Tây và phía Bắc mặc sức hoành hành. Trước đó vào năm 307, Tấn vương Tư Mã Duệ, phụng mệnh làm Đô đốc Dương Châu, Giang Nam thống lĩnh quân đội địa phương, đóng đại bản doanh tại Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Năm 317, Tư Mã Duệ lên ngôi Hoàng Đế tức Tấn Nguyên Đế, đóng đô tại Kiến Nghiệp, sử gọi là Đông Tấn. ĐÔNG TẤN VÀ HỖN CHIẾN CÁC TỘC BẮC TRUNG QUỐC Từ năm 304, Lưu Uyên đứng đầu Hung Nô chiếm cứ Sơn Tây, Lạc Dương và Trường An luôn bị vây hãm. Năm 317, chính quyền vương triều Tấn dời về phía Nam, thì các tộc phía Bắc chia nhau chiếm cứ, đất nước hoàn toàn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Tình trạng này kéo dài mãi trong 35 năm, từ 304 đến 439 mới lập ra mười mấy nước, lịch sử gọi là "Ngũ Hồ loạn Hoa - Thập lục quốc". Sự thực không phải là "Ngũ Hồ (5 tộc thiểu số) và không chỉ 16 nước, mà còn có nhiều tộc, nhiều nước rải rác ở nhiều thời kỳ. Bảng các tộc Bắc Trung Quốc lập quốc từ TK 4 đến TK 5 Dân tộc Tên nước Kinh đô Người Sáng lập Niên đại Mất vì nước nào Bị chú Hán Bắc Yên Hòa Long Phùng Bạt 409- 436 Bắc Ngụy Không trong 16 nước. Dân tộc Tên nước Kinh đô Người Sáng lập Niên đại Mất vì nước nào Bị chú Thành Đô Thành Đô Tiêu Tủng 405- 413 Đông Tấn Tây Lương Đôn Hòa Lý Cảo 400- 420 Bắc Lương Sử gọi Hậu Thục không trong 16 nước. Ngụy Tiền Nghiệp Nhiễm Mần 350- 352 Tiền Yên Lương Cô Tang Trương Quỹ 345- 376 Tiền Tần Khương Hậu Tần Trường An Diêu Dực Trọng 384- 417 Đông Tấn Tự xưng Vương Kế Đế Hậu Lương Cô Tang Lã Quang 385- 403 Hậu Tần Tự xưng Vương Kế Tiền Tần (Cam Túc) Trường An Phù Hồng 351- 394 Tây Tần Tùng Thành (sau là) Hậu Hán Thành Đô Lý Đặc 304- 347 Đông Tấn Tiên Ty Nam Yên Quảng Cố (Sơn Đông) Mộ Dung Đức 398- 410 Đông Tấn Nam Lương Lạc Đô Tú Phát Ô 397- 414 Tây Tần Tây Yên Trường Tử (Sơn Tây) Mộ Dung Vĩnh 386- 394 Hậu Yên Không kể trong 16 nước Tây Tần Cam Túc Dũng Sĩ Xuyên Ngật Phục Quốc Nhân 385- 431 Hạ Hậu Yên Trung Sơn (Hà Bắc) Mộ Dung Thùy 384- 409 Bắc Yên Tiền Yên Nghiệp Mộ Dung Quỹ 337- 370 Tiền Tần Tự xưng Vương Kế Đại Thịnh Lạc Thạnh Bật Kỵ Lư 310- 350 Nhiễm Ngụy Hung Nô Hạ Thống Vạn (Thiểm Tây) Hách Liên Bột Bột 407- 431 Diên Cốc Hỗn Sau khi mất nhập vào Bắc Ngụy Bắc Lương Trương Dạ Lộ Cừ Mông Tôn 397- 439 Bắc Ngụy Dân tộc Tên nước Kinh đô Người Sáng lập Niên đại Mất vì nước nào Bị chú Tiền Triệu (còn xưng Hán) Trường An Lưu Uyên 304- 329 Hậu Triệu. CHỐNG ÁP BỨC CHỦNG TỘC Loạn Vĩnh Gia cuối thời Tây Tấn, trong bốn quan liêu địa chủ chạy về phía Nam chỉ có Tổ Địch là kiên trì đánh lên phía Bắc, chinh phạt các bộ tộc xâm nhập Trung Nguyên, thu hồi đất đai bị mất. Lang Nha vương đóng bản doanh tại Kiến Nghiệp tuy không cự tuyệt thẳng thừng lời thỉnh cầu của Tổ Địch nhưng không ủng hộ. Năm 313, Tổ Địch lấy danh nghĩa là quan đứng đầu Dự Châu, đem quân Bắc phạt, xin Tư Mã Duệ cấp cho 1000 quân cùng lương thực và 3000 quần áo. Tổ Địch còn tự mình chiêu mộ quân Bắc phạt, được nhân dân các nơi hưởng ứng và ủng hộ. Đồng thời, Tổ Địch cũng nhận thức được sức mạnh của nhân dân, dựa vào nhân dân, nên lực lượng ngày càng nhiều, nhân dân các nơi đem lương thực đến nuôi quân. Năm 317, Tổ Địch đánh bại quân của Thạch Hổ ở Hạ ấp, tỉnh Hà Nam. Năm 319, nhân lúc Thạch Lặc đánh nhau với Lưu Diên (quân của Lưu Uyên), Tổ Địch lại đem quân Bắc phạt, liên tiếp báo tin vui. 113 Năm 320 Tổ Địch đại phá quân của Thạch Lặc, tiến quân vào huyện Kỷ, tỉnh Hà Nam, thu hồi được toàn bộ đất đai vùng phía nam sông Hoàng, bắt được nhiều quân giặc, buộc Thạch Lặc không được phá phách Hà Nam. Năm 321, sau khi Tổ Địch chết Thạch Lặc nổi dậy nhanh chóng chiếm lĩnh Hà Nam và vùng sông Hoài. Năm 334, triều đình Đông Tấn phái Dĩu Lượng Bắc phạt. Dĩu Lượng âm mưu thông qua Bắc phạt để củng cố địa vị chính trị, nên đến Tương Dương, Dũi Lượng mượn danh bổ sung đầy đủ quân lương, lập đồn điền nhưng không tiến quân nữa. Lúc bấy giờ số quân của Dĩu Lượng là 10 vạn. Nhưng Dĩu Lượng không dựa vào lực ́ ́ """