🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Quyền Cơ Bản Của Trẻ Em Ebooks Nhóm Zalo HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN Chủ tịch Hội đồng Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương LÊ MẠNH HÙNG Phó Chủ tịch Hội đồng Q. Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật PHẠM CHÍ THÀNH Thành viên TRẦN QUỐC DÂN NGUYỄN ĐỨC TÀI NGUYỄN NGUYÊN NGUYỄN HOÀI ANH LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trải qua nhiều năm lịch sử của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, hàng triệu trẻ em trên thế giới bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng chưa từng có. Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu cũng là một nhân tố chính dẫn đến tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em diễn ra phổ biến thời bấy giờ. Đứng trước nguy cơ trẻ em bị xâm hại nhiều mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai của loài người, một tổ chức cứu trợ đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Năm 1924, Tuyên bố Giơnevơ được Hội quốc liên thông qua đánh dấu những bước đi đầu tiên trong bảo vệ quyền trẻ em trên thế giới. Mặc dù vậy, phải đến năm 1989, bằng sự vận động tích cực của một số quốc gia, Liên hợp quốc mới thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á, là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 20-2-1990. Lần đầu tiên trong lịch sử, một văn bản quốc tế đề cập toàn diện các vấn đề về quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng và mang tính pháp lý cao. Đây là cơ sở cho việc thúc đẩy chăm sóc và bảo vệ các quyền trẻ em trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể về quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em. 5 Nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Các quyền cơ bản của trẻ em do tác giả Đăng Trường biên soạn. Cuốn sách đề cập lịch sử phát triển của bảo vệ quyền trẻ em trên thế giới và Việt Nam, từ đó, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em hiện nay. Thêm vào đó, tác giả cũng đưa ra những nhận định cụ thể trong việc nhìn nhận vai trò của mỗi cá nhân, tổ chức trong công cuộc bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc Tháng 10 năm 2018 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 LỜI NÓI ĐẦU “Một đứa bé không phải là một chiếc lọ hoa để đổ đầy mà là một ngọn lửa cần được thắp sáng” - Rabelais từng nói. Thế giới có ngập tràn niềm vui hay là chìm trong nỗi đau phụ thuộc vào cách đối xử của xã hội đối với trẻ em. Một khi có điều kiện tốt để phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, được giáo dục về tình yêu thương nhân loại, hằng ngày được chứng kiến những hành động nhân văn thì không có lý nào trẻ em lại đem đến một màu buồn cho xã hội. Ngược lại, “những chủ nhân tương lai” lớn lên trong đói, lạnh... hay lớn lên trong sự quen thuộc của tiếng súng đạn chiến tranh thì đương nhiên không thể phát triển tốt về tinh thần và thể chất. Tác động của cuộc sống tới trẻ em là tác động sâu sắc và có ảnh hưởng rất lớn đối với nhân cách của trẻ sau này. Vì vậy, chúng ta không chỉ phải tạo điều kiện cho trẻ em phát triển đầy đủ về thể chất mà còn cần xây dựng một môi trường lành mạnh cho sự phát triển nhân cách của trẻ. Trước đây, ý thức về quyền của trẻ em chưa được chú trọng. Chẳng hạn, từ thế kỷ XIV, 7 khi châu Âu bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hàng loạt trẻ em buộc phải lao động dưới hầm mỏ. Số phận của trẻ em ngày càng bi đát khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, đẩy trẻ em vào tình cảnh khốn khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, thời kỳ đó không có những điều ước hay luật quốc tế điều chỉnh vấn đề quyền trẻ em. Cho tới tận năm 1923 mới có Hiến chương về quyền trẻ em. Và sau này, “vào ngày 26-9-1924 Hội quốc liên mới thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em; Tuyên ngôn gồm 5 điểm (do Hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trẻ em khởi thảo dựa trên Hiến chương về quyền trẻ em). Kể từ đây quyền trẻ em đã trở thành một khái niệm được khẳng định và thừa nhận”1. Phải trải qua một thời gian khá dài, vấn đề trẻ em mới được nhận thức rõ: đó là trẻ em là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai nhân loại, trẻ em không chỉ là nhóm người dễ bị tổn thương, cần được quan tâm mà ý kiến và sự tham gia đóng góp của trẻ em còn đóng vai trò đáng kể trong tiến trình phát triển bền vững của thế giới. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 ra ___________ 1. Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam: Hỏi - đáp về Công ước quyền trẻ em, http://www.nfvc.org.vn/kien-thuc tre-em/hoi-dap-ve-cong-uoc-quyen-tre-em_t114c77n477#. W5pyWh_gLIU. 8 đời, được sự đồng tình và phê chuẩn của hàng loạt các quốc gia trên thế giới cho thấy, đây là vấn đề cấp thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 vào ngày 20-2-1990. Từ đó đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia, thể hiện qua nhiều bộ luật, luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung nhằm bảo vệ quyền trẻ em như Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi, bổ sung năm 2018 (tiền thân là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004), Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2014, 2015, Bộ luật Lao động năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015... Cuốn sách này nhằm giúp độc giả hiểu rõ quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên mà các em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện, là biện pháp bảo đảm cho các em không phải là những người tiếp thu thụ động tình thương hay lòng tốt của bất cứ ai, mà trở thành chủ thể của quyền, từ đó nâng cao nhận thức về quyền trẻ em, phòng, chống thương tích, tăng cường tiếng nói và 9 khả năng tự đại diện của các em, giúp cộng đồng và chính quyền địa phương nâng cao nhận thức về quyền trẻ em và củng cố các cơ chế hiện có để bảo vệ trẻ em khỏi bị ngược đãi, lãng quên, bóc lột, tránh nguy cơ thương tích và các mối nguy hiểm trong xã hội, đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển đầy đủ và lành mạnh cho trẻ em. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. TÁC GIẢ 10 I. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ QUYỀN TRẺ EM 1. Khái niệm quyền Tri thức về quyền con người có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển và tiến bộ của nhân loại đồng thời là tiền đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗi cá nhân, là cơ sở cho hòa bình và thịnh vượng trên toàn thế giới. Tầm quan trọng của tri thức về quyền con người và vai trò của giáo dục trong việc phổ biến tri thức này đã được Liên hợp quốc khẳng định trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Một trong những mục tiêu của giáo dục là hướng tới và đạt được “sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản”1. Giáo dục nhằm thúc đẩy sự tôn trọng quyền con người còn được đề cao trong nhiều văn kiện quốc tế khác của Liên hợp quốc như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em ___________ 1. Khoản 2 Điều 26 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. 11 năm 1989, Tuyên bố Viên và Chương trình hành động tại Hội nghị thế giới về nhân quyền tổ chức tại Viên (Áo) năm 1993... Gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, trong đó mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người do sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Riêng định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được các nhà nghiên cứu trích dẫn. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc, làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Ngoài định nghĩa trên, còn một định nghĩa cũng thường được trích dẫn: quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Ở Việt Nam, định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu ra không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của 12 con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế1. Như vậy, quyền con người là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ, là kết tinh những giá trị nhân văn của nhân loại. Dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong mỗi xã hội, quyền là những đòi hỏi cơ bản và chính đáng của một con người phải được hưởng hoặc có thể được làm. Đó là quyền được công nhận về mặt pháp lý, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ buộc người khác phải tôn trọng, bảo vệ và đáp ứng. Mỗi người đòi hỏi quyền cho bản thân và những người khác cũng vậy. Vì thế, mọi thành viên trong cộng đồng và xã hội đều có nghĩa vụ phải đáp ứng quyền tương ứng. Đòi hỏi đáp ứng hay tôn trọng một quyền nào đó của bản thân; cũng có nghĩa là phải có nghĩa vụ không làm bất cứ việc gì dẫn đến xâm phạm, lấy bớt hoặc tước đi quyền của người khác. Quyền trẻ em chính là quyền con người, là các ___________ 1. Hoàng Lan Anh: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam - Luận văn thạc sĩ, 2014, http://www.fdvn.vn/wp-content/uploads/2017/08/Luan-van Bao-ve-quyen-con-nguoi-theo-Hien-phap-Viet-Nam.pdf. 13 quyền của trẻ em, được xây dựng dựa trên nhu cầu và đặc điểm của trẻ, nhằm bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của trẻ với các thuộc tính: - Bất khả xâm phạm; - Áp dụng bình đẳng với tất cả mọi trẻ em; - Liên quan với nhau và không thể tách rời, quyền phải đi đôi với trách nhiệm. 2. Vấn đề trẻ em trong lịch sử phát triển của nhân loại Ngay từ thế kỷ XIV, XV ở châu Âu đã có những tổ chức cộng đồng hoạt động trên lĩnh vực bảo vệ trẻ em, tiêu biểu là Bệnh viện Spedan Digerli Innosanti ở Floren (Italia). Thời kỳ này, quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em trên thế giới vào hoàn cảnh cùng khổ. Vì vậy, năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em được thành lập ở Anh và Thụy Điển. Những năm tiếp theo, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, những văn kiện thời kỳ đó chưa đặt vấn đề dưới góc độ “quyền” trẻ em. Năm 1923, Eglantyne Jebb soạn thảo Hiến chương về quyền trẻ em và chỉ đến năm 1924, 14 khái niệm quyền trẻ em được khẳng định và thừa nhận trong bản Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hội quốc liên thông qua (Tuyên ngôn này do Hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trẻ em khởi thảo dựa trên Hiến chương về quyền trẻ em)1. Ngày 11-12-1946, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) một quỹ cứu tế được thành lập với tôn chỉ, mục đích ban đầu của tổ chức này là giúp trẻ em châu Âu gặp hoàn cảnh khó khăn sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền con người. Năm 1953, UNICEF mở rộng tôn chỉ, mục đích của mình hướng tới các mục tiêu: chăm sóc, phục vụ và bảo vệ mọi quyền lợi cho sự phát triển của trẻ em trên toàn thế giới, đặc biệt là trẻ em ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Các hình thức giúp đỡ phổ biến là: cung cấp các dịch vụ cơ bản về y tế kể cả thuốc thiết yếu, chăm sóc sức khỏe ban đầu, dinh dưỡng; nước và vệ sinh môi trường, giới và phát triển; các lĩnh vực liên quan đến trẻ em và phụ nữ. ___________ 1. Quỹ bảo trợ trẻ em: Hỏi đáp về Công ước quyền trẻ em, http://www.nfvc.org.vn/kien-thuc-tre-em/hoi-dap ve-cong-uoc-quyen-tre-em_t114c77#.W5pyWh_gLIU. 15 Đặc biệt, UNICEF còn tham gia các hoạt động cứu trợ khẩn cấp. Mọi hỗ trợ của UNICEF tập trung vào các chương trình của cộng đồng với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho trẻ em ở khắp mọi nơi trên thế giới. UNICEF trở thành một bộ phận thường trực của Liên hợp quốc - bắt đầu chiến dịch bài trừ bệnh yaws, một chứng bệnh tàn phá cơ thể hàng trăm triệu trẻ em nhưng có thể chữa bằng thuốc penicillin. Năm 1959, Liên hợp quốc thông qua bản Tuyên ngôn thứ hai, phát triển nội dung của Tuyên ngôn Giơnevơ năm 1924. Tuyên ngôn này đề cập quyền trẻ em: mọi trẻ em có quyền được bảo vệ, giáo dục, chăm lo sức khỏe, chỗ ở và dinh dưỡng. Năm 1961, UNICEF đưa ra chương trình giáo dục, thúc đẩy và giúp đỡ các quốc gia về vấn đề giáo dục trẻ em. Năm 1965, UNICEF được trao giải Nobel Hòa bình vì đã khích lệ tình thương và sự tương trợ giữa các quốc gia. Năm 1979, năm quốc tế thiếu nhi. Công việc soạn thảo Công ước về quyền trẻ em bắt đầu tiến hành. Năm 1981, UNICEF đưa ra chương trình vận động nuôi con bằng sữa mẹ nhằm làm giảm một số chứng bệnh ở trẻ em. Năm 1982, UNICEF phát động phong trào “Cách mạng về sự sống còn và phát triển của trẻ em” 16 dựa trên bốn nguyên tắc: theo dõi sức lớn của trẻ, nước uống, sữa mẹ và tiêm ngừa miễn nhiễm. Năm 1987, UNICEF tiến hành nghiên cứu “Thay đổi kinh tế và bộ mặt nhân loại” khiến thế giới phải lưu tâm đến vấn đề bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đối phó với các tác hại của thay đổi kinh tế tại các quốc gia nghèo. Các nỗ lực của UNICEF đã dẫn tới Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em được Liên hợp quốc tổ chức vào tháng 9-1990 và tháng 5-2002 tại New York với sự tham gia của nhiều nước và sự hiện diện của các nguyên thủ quốc gia. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em tháng 9-1990 đã nhất trí thông qua 27 mục tiêu về y tế, giáo dục và phúc lợi cho trẻ em và phụ nữ. Nội dung chính của các mục tiêu này là1: - Giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi. - Giảm 1/2 tỷ lệ tử vong của các bà mẹ. - Giảm 1/2 tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi. - Bảo đảm đa số người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch. - Phổ cập giáo dục cơ bản; hoàn thành 80% ___________ 1. Bộ Ngoại giao Việt Nam - Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/ctc_quocte/ un/nr040819155753/nr060928111253/ns070731090359. 17 giáo dục cấp tiểu học cho trẻ em ở độ tuổi đến trường. Cùng với sự phát triển lịch sử, vấn đề lao động trẻ em trở thành vấn đề nghiêm trọng, nhức nhối ở nhiều nơi trên thế giới. Do đó, vấn đề quyền trẻ em đã được đặt ra. Với sự nỗ lực của các quốc gia, Công ước quốc tế về quyền trẻ em được thông qua và ký kết ngày 20-11-1989, còn gọi là Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, có hiệu lực từ ngày 2-9-1990. Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Ngoài Lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung. Lần đầu tiên, vấn đề “trẻ em” được xác định, làm cơ sở cho việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực (mà rất nhiều quyền chưa được đề cập ở các văn kiện trước đó) đã được Công ước ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Không chỉ đề cập trẻ em nói chung, Công ước 18 còn đề cập việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em đặc biệt (tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...), đồng thời, xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, ảnh hưởng của chất ma túy, bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang... Cùng với các điều đó, Công ước còn xác lập một cơ chế quốc tế để giám sát việc thực hiện các quyền trẻ em trên thế giới, tạo điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ. Công ước được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em. Năm 1996, UNICEF đã thông qua Tuyên ngôn UNICEF với nội dung1: - Thực hiện mọi chủ trương của Liên hợp quốc về bảo vệ các quyền của trẻ em đồng thời hỗ trợ, đáp ứng những yêu cầu cơ bản của trẻ em. - Hỗ trợ các quốc gia thực hiện những cam kết về trẻ em do Hội nghị thượng đỉnh về trẻ em của Liên hợp quốc (1990) đề ra. - Huy động mọi ý chí chính trị và các nguồn lực vật chất nhằm giúp các nước xây dựng năng lực, ___________ 1 Bộ Ngoại giao Việt Nam - Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/ctc_quocte/ un/nr040819155753/nr060928111253/ns070731090359. 19 đề ra các chính sách phù hợp để chuyển giao dịch vụ trẻ em tới các hộ gia đình. - Cam kết bảo vệ những trẻ em gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như trẻ em là nạn nhân của xung đột vũ trang; trẻ em nghèo khó; trẻ em lang thang cơ nhỡ... - Thông qua các chương trình quốc gia nhằm khuyến khích quyền bình đẳng cho phụ nữ và trẻ em gái, đồng thời hỗ trợ họ tham gia các hoạt động phát triển kinh tế cũng như chính trị của các quốc gia và cộng đồng. UNICEF hợp tác với tất cả các chính phủ, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ (NGO's) trong khuôn khổ Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 nhằm đạt được các mục tiêu về trẻ em do Hội nghị thượng đỉnh về trẻ em (1990) đề ra. Để thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh thế giới mới nhằm phục vụ trẻ em một cách hiệu quả nhất, trong những năm gần đây, UNICEF đã xác định sứ mệnh và trách nhiệm của mình như sau: - Thực hiện trách nhiệm do Đại hội đồng Liên hợp quốc giao phó là chăm lo bảo vệ các quyền của trẻ em, giúp đỡ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của trẻ em và tạo thêm cơ hội giúp trẻ em phát huy đầy đủ tiềm năng của mình. - Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, phải phấn đấu thiết lập các quyền của trẻ em như những nguyên tắc đạo lý bền vững 20 và các chuẩn mực quốc tế trong việc đối xử với trẻ em. - Nhấn mạnh sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em là những đòi hỏi phát triển toàn cầu gắn liền với sự tiến bộ của con người. - Động viên ý chí chính trị và nguồn lực vật chất để giúp đỡ các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, bảo đảm phương châm trước tiên cho trẻ em và xây dựng năng lực, đề ra các chính sách phù hợp và cung ứng các dịch vụ cho trẻ em và gia đình của các em. - Cam kết bảo đảm sự bảo vệ đặc biệt đối với trẻ em chịu thiệt thòi nhất như nạn nhân của chiến tranh, thiên tai, đói nghèo cùng cực, của mọi hình thức bạo lực và bóc lột cũng như trẻ em bị tàn tật. - Ứng phó trong các trường hợp khẩn cấp để bảo vệ các quyền của trẻ em. Trong việc phối hợp với các đối tác của Liên hợp quốc và các cơ quan nhân đạo, UNICEF dành cho họ những phương tiện đáp ứng nhanh của mình nhằm giảm bớt những đau khổ của trẻ em và thực hiện việc chăm sóc đối với trẻ em. - UNICEF là một tổ chức không thiên vị và sự hợp tác của UNICEF là không phân biệt đối xử trong mọi hoạt động của mình, dành ưu tiên cho các trẻ em bị thiệt thòi nhất và những nước cần giúp đỡ nhất. 21 - Thông qua các chương trình quốc gia, thúc đẩy các quyền bình đẳng của phụ nữ và trẻ em gái, hỗ trợ họ tham gia đầy đủ vào sự phát triển chính trị, kinh tế và xã hội của cộng đồng. - Hợp tác với mọi đối tác để đạt được những mục tiêu phát triển con người bền vững đã được cộng đồng thế giới thông qua cũng như thực hiện triển vọng hoà bình và tiến bộ xã hội được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em tháng 5-2002, các nguyên thủ các nước đã nhất trí thông qua bản Tuyên bố và kế hoạch hành động cho thập kỷ tới bằng văn kiện chính của khóa họp mang tên Một thế giới phù hợp với trẻ em. Tuyên bố gồm các điểm khẳng định nghĩa vụ phát huy, bảo vệ quyền và phúc lợi của trẻ em và kế hoạch hành động với các mục tiêu chính như sau1: - Giảm ít nhất 1/3 tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi để đến năm 2015 giảm được 2/3. - Giảm ít nhất 1/3 tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan thai sản để đến năm 2015 giảm được 2/3. - Giảm ít nhất 1/3 tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi. - Giảm ít nhất 1/3 tỷ lệ các hộ gia đình không được tiếp cận với nước sạch và hố xí hợp vệ sinh. ___________ 1 Bộ Ngoại giao Việt Nam - Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/ctc_quocte/ un/nr040819155753/nr060928111253/ns070731090359. 22 - Bảo đảm các chính sách phát triển tuổi thơ thông qua các chính sách và chương trình để trẻ em được phát triển cả về thể lực, xã hội, tình cảm và tinh thần. - Phát triển và thực hiện các chính sách với trẻ vị thành niên. - Bảo đảm cho mọi trẻ em ở các lứa tuổi phù hợp được tiếp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu và sức khỏe sinh sản. Khóa họp này không chỉ chú trọng vào cam kết chính trị mà đặt ra yêu cầu cao là phải hành động và thực hiện cam kết. Tóm lại, từ đầu thế kỷ XX đến nay, một loạt văn kiện quốc tế đã được thông qua, trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập các quyền của trẻ em. Các văn kiện ban đầu hoặc không có tính ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú trọng đến những nhu cầu đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế. Mục đích đặt ra là trẻ em phải được sống trong hòa bình, trong xã hội thân ái; cần phải được sự chăm sóc của Nhà nước, xã hội, gia đình và cần có sự bảo vệ về mặt pháp lý. Điều này đặc biệt có ý nghĩa ở những quốc gia đang phát triển. Năm 1996, báo cáo của Machel: “Tác hại của chiến tranh vũ khí đối với trẻ em” do UNICEF bảo trợ, cảnh báo việc xâm phạm quyền trẻ em. Năm 2000, để hỗ trợ cho Công ước quốc tế về 23 quyền trẻ em năm 1989, Liên hợp quốc đã thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập việc cấm sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang, cấm buôn bán, bóc lột mại dâm trẻ em, cấm văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em. Nhìn chung, từ đầu thế kỷ XX đến nay, các văn kiện quốc tế liên quan đến quyền trẻ em liên tiếp được ban hành. Đây là thành quả đấu tranh liên tục của nhân loại nhằm cải thiện vị thế và cuộc sống trẻ em. Ngay sau khi Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 có hiệu lực, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về trẻ em đã được tổ chức tại New York từ ngày 29 đến 30-9-1990. Hội nghị thông qua Tuyên bố thế giới và kế hoạch hành động về sự sống còn, phát triển và bảo vệ trẻ em, đề cập những thách thức và mục tiêu cụ thể nhằm bảo đảm cuộc sống và các quyền của trẻ em trong giai đoạn 1990 - 2000. Kết thúc giai đoạn này, nhân loại đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng rất to lớn trong việc bảo đảm quyền trẻ em. Bằng các chiến dịch tiêm chủng và phổ biến dùng muối iốt mà hàng năm, gần 3 triệu trẻ em trên thế giới được cứu sống, 75 vạn trẻ em khỏi bị tàn tật về thể chất, 12 triệu trẻ em thoát khỏi nguy cơ mắc bệnh tâm thần. Bằng việc phổ biến dùng nước sạch, vệ sinh môi trường, nuôi con bằng sữa mẹ... mà 24 hàng năm có hàng chục triệu trẻ em không bị suy dinh dưỡng. Bằng việc giáo dục, tuyên truyền về quyền trẻ em, nhận thức về vị thế của trẻ em trong các xã hội đã thay đổi. Trẻ em từ chỗ bị xem là đối tượng phụ thuộc, phải chịu sự chi phối hoàn toàn của người lớn đến chỗ được thừa nhận, đối xử với tư cách là những chủ thể của quyền chứ không đơn thuần chỉ là đối tượng của tình thương hay lòng nhân đạo. So với các điều ước quốc tế nói chung, Điều ước quốc tế về quyền con người nói riêng, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 có những điểm nổi bật sau: - Thời gian từ khi ký đến khi Công ước có hiệu lực rất ngắn (9 tháng 18 ngày) và là điều ước quốc tế đa phương có số lượng các quốc gia thành viên lớn nhất (197 quốc gia) so với tất cả các điều ước quốc tế được ký trên thế giới. Đặc điểm này phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ. - Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 lần đầu tiên khái quát được các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền của trẻ em; mối quan hệ giữa quyền trẻ em với quyền con người nói chung. 25 - Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Ủy ban về quyền trẻ em được thành lập nhằm xem xét sự tiến bộ mà các quốc gia thành viên đạt được trong việc thực hiện các nghĩa vụ mà họ đã cam kết thông qua các báo cáo định kỳ. Đồng thời bên cạnh Ủy ban về quyền trẻ em, các cơ quan chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và các tổ chức khác thuộc Liên hợp quốc cũng có thẩm quyền giám sát, giúp đỡ các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện Công ước. Năm 2001, Chiến dịch “Nói đồng ý với trẻ em”- một phong trào toàn cầu khuyến khích mọi người thay đổi thế giới bằng cách lưu tâm đến trẻ em. Hàng triệu người đã ký tên xác định sẽ tìm cách nâng cao đời sống trẻ em. Ngoài Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, còn rất nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động vì quyền lợi của trẻ em, chẳng hạn tổ chức Children Action - Tổ chức hành động vì trẻ em, là một quỹ từ thiện, cung cấp mọi loại trợ giúp cho các trẻ em bất hạnh, trong đó có chăm sóc y khoa, phẫu thuật, giúp đỡ tâm lý, chăm sóc phòng ngừa thanh thiếu niên tự tử v.v.. Tổ chức này được Bernard Sabrier thành lập năm 1994, có trụ sở ở Thụy Sĩ. Tổ chức đã tiến hành một số công việc giúp hỗ trợ trẻ em như Dự án phòng ngừa bỏ rơi trẻ em, trường học cho các trẻ em thiếu thốn, các phẫu thuật ngoại khoa cho trẻ em, thành lập Trung tâm dành cho 26 trẻ em khiếm thị, trợ giúp trẻ em bị nhiễm AIDS, trợ giúp trẻ em bị bệnh ung thư. Một số tổ chức phi chính phủ khác - như Tổ chức theo dõi nhân quyền đã quan tâm tới vấn đề lao động trẻ em, trẻ em đường phố, đòi chấm dứt sử dụng lính trẻ em trong chiến tranh... Bước sang thế kỷ XXI, mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc cũng đưa ra vấn đề về quyền trẻ em - một trong những nhóm dễ bị tổn thương, cần phải quan tâm vì đây là tương lai của nhân loại. II. KHÁI NIỆM TRẺ EM VÀ QUYỀN TRẺ EM 1. Khái niệm trẻ em Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp của quốc gia thành viên quy định tuổi thành niên sớm hơn. Theo Điều 1, Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi, bổ sung năm 2018 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Mỗi trẻ em là một con người với những đặc điểm riêng về thể chất và tâm sinh lý. Những đặc điểm và khả năng của trẻ rất khác nhau theo từng độ tuổi và sự trưởng thành, vì thế rất khác so với người trưởng thành. 27 Năng lực của trẻ được hình thành, thay đổi và phát triển. Do vậy, trẻ em có quyền được sống, trưởng thành, phát triển khỏe mạnh và hạnh phúc trong tình yêu thương của cha mẹ, gia đình và cộng đồng. 2. Xác định quyền trẻ em Cuốn sách Quyền trẻ em (The Rights of Infants) xuất bản năm 1796 của Thomas Spence là một trong những cuốn sách đầu tiên viết bằng tiếng Anh, xác nhận các quyền của trẻ em. Trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, các nhà hoạt động vì quyền trẻ em đã nhóm họp, đòi hỏi quyền cho trẻ em vô gia cư và giáo dục công cộng. Tiếp đó, cuốn Quyền được tôn trọng của trẻ em (The Child’s Right to Respect) xuất bản năm 1927 của Janusz Korczak đã gây sự chú ý lớn về lĩnh vực này. Hiện nay, hàng chục tổ chức quốc tế đang hoạt động trên khắp thế giới để cổ động cho quyền trẻ em1. ___________ 1. Hoàng Minh Khôi: Hoàn thiện hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên ở một số nước và những nội dung có thể tham khảo, website của Trung tâm tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh - Trung ương Hội Luật gia Việt Nam, http://nguoibaovequyenloi.com/user/ thongtin_chitiet-aspx?MaTT=168201672110123641& MAMT=26. 28 Định nghĩa: Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn mà các em còn là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển của nhân loại. Các quyền phải thực hiện ngay: - Các quyền dân sự, chính trị. - Các vấn đề như sự phân biệt đối xử, quyền được lắng nghe, quyền có họ tên, quốc tịch, quyền tự do biểu đạt và lập hội, quyền được đoàn tụ với gia đình, quyền được bảo vệ khỏi sự hành hạ và ngược đãi. - Những quy định đặc biệt về sự bảo vệ, can thiệp của nhà nước trong những tình huống và điều kiện mà theo đó, trẻ em có thể bị tước đoạt tự do. Các quyền thực hiện từng bước: - Các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; - Các quyền về y tế và giáo dục; - Các quyền không thuộc nhóm quyền thứ nhất. Các quyền này được công nhận tại Điều 4 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 với nội dung: “... Về các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp như vậy ở mức tối đa theo khả năng 29 sẵn có của mình, và khi cần thiết, trong khuôn khổ hợp tác quốc tế”. Quá trình theo dõi, giám sát và thực hiện quyền: - Thành lập một ủy ban quốc gia giám sát việc thực hiện. - Đề ra các mục tiêu cụ thể trong một thời gian nhất định để thực hiện. - Thông qua các luật phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. - Thực hiện các chương trình và hoạt động. - Xem xét tình hình hiện tại của trẻ em. - Xác định xem đã làm được những gì và những điều cần phải làm. - Báo cáo lần thứ nhất sau hai năm, sau đó, cứ năm năm một lần. III. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM Các nguyên tắc của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là những quy định bắt buộc phải tuân thủ khi thực hiện bất kỳ quyền nào của trẻ em, được quy định trong Công ước. Các nguyên tắc của Công ước là công cụ định hướng giúp diễn giải rõ ràng tinh thần và thông điệp của Công ước. Các nguyên tắc này phải được bảo đảm thực hiện bất kỳ điều khoản nào của 30 Công ước. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 bao gồm bốn nguyên tắc: * Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt đối xử trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Nguyên tắc này được thể hiện qua các điều 5, 17, 27, 38, 41 của Công ước. Theo các điều này, trước hết, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, của các thành viên trong gia đình mở rộng, của cộng đồng theo phong tục địa phương, của những người giám hộ pháp lý, những người chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với đứa trẻ trong việc chỉ bảo và hướng dẫn trẻ thực hiện những quyền trong Công ước, phù hợp với mức độ phát triển về năng lực của trẻ. Trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ này phải được các quốc gia thành viên tôn trọng. Chức năng quan trọng của các phương tiện thông tin đại chúng trong mỗi quốc gia phải bảo đảm giúp trẻ em nắm được thông tin và tư liệu từ nhiều nguồn quốc gia và quốc tế, đặc biệt là những thông tin nhằm cổ vũ lợi ích xã hội, tinh thần, đạo đức cũng như sức khỏe thể chất và tinh thần của trẻ em. Trẻ em có quyền được có mức sống thích đáng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. Muốn đạt được điều này, cha mẹ hoặc những người chịu trách nhiệm về trẻ em phải bảo đảm các điều kiện sống cần thiết cho sự phát 31 triển của trẻ em theo năng lực và khả năng tài chính của mình. Nhà nước, dựa theo khả năng thực tế của mình, phải thi hành các biện pháp thích hợp, giúp cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về trẻ em thực hiện quyền này. Trường hợp cần thiết, phải thực hiện những chương trình hỗ trợ và giúp đỡ vật chất, đặc biệt là về dinh dưỡng, quần áo, nhà ở, bảo đảm phục hồi việc nuôi dưỡng trẻ từ cha mẹ hay những người có trách nhiệm về tài chính đối với trẻ em tại quốc gia thành viên đó cũng như ở nước ngoài. Cụ thể, nếu người có trách nhiệm về tài chính đối với trẻ em sống ở một quốc gia khác thì các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc gia nhập các thỏa thuận quốc tế hay ký kết những thỏa thuận như vậy, cũng như đặt ra những cơ chế thích hợp khác. Trong các cuộc xung đột vũ trang, phải bảo đảm tôn trọng những quy tắc về Luật Nhân đạo quốc tế liên quan đến trẻ em, không được để trẻ em dưới 15 tuổi trực tiếp tham gia chiến sự, không tuyển mộ trẻ vào lực lượng vũ trang đồng thời dùng mọi biện pháp có thể để bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang. Tóm lại, phải tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền trẻ em theo luật quốc tế và pháp luật của quốc gia thành viên, tức là mọi trẻ em đều được 32 hưởng các quyền trẻ em trong Công ước, không phụ thuộc vào các yếu tố dân tộc, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, khuyết tật, dòng dõi gia đình, tài sản... và bất kỳ yếu tố nào khác. Trẻ em có quyền được sống, không ai được xâm hại tính mạng của trẻ, bảo đảm đến mức tối đa sự sống còn và phát triển của trẻ em. * Nguyên tắc thứ hai, xem lợi ích của trẻ em là mối quan tâm hàng đầu trong mọi hành động liên quan đến trẻ em. Nguyên tắc này được thể hiện trong Điều 3 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Đó là mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, do các cơ quan, tổ chức của nhà nước hay tư nhân như phúc lợi xã hội, tòa án, hành chính hoặc pháp luật đều phải đặt lợi ích của trẻ em lên hàng đầu khi thực hiện bất kỳ công việc gì. Phải dành cho trẻ em sự bảo vệ và chăm sóc cần thiết, cân nhắc đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, người giám hộ hợp pháp hay bất kỳ cá nhân nào có trách nhiệm pháp lý với trẻ em, trên cơ sở đó, tiến hành biện pháp lập pháp và hành pháp thích hợp. Những tổ chức, cơ quan, cơ sở chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc bảo vệ trẻ em phải tuân thủ các tiêu chuẩn đã được nhà nước quy định, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm an toàn và sức khỏe cho trẻ. Nhà nước phải kiểm tra giám sát về số lượng, 33 trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên ở đó có thích hợp với việc chăm sóc trẻ không. * Nguyên tắc thứ ba, trẻ em có quyền được sinh tồn và phát triển. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong Điều 6 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Phải thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền vốn có là được sống. Vì thế, phải bảo đảm đến mức tối đa sự sống còn cũng như sự phát triển của trẻ em. * Nguyên tắc thứ tư, ý kiến của trẻ em phải được tôn trọng. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong Điều 12 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Theo nguyên tắc này, trẻ em phải được bảo đảm để có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những vấn đề tác động đến trẻ em. Quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ. Muốn làm tốt điều này, phải tạo cơ hội để trẻ có thể nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc, thủ tục của pháp luật quốc gia. Bốn nguyên tắc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa 34 các quyền của trẻ em đồng thời là nền tảng để chính phủ cụ thể hóa các cam kết của mình đối với quyền trẻ em. IV. CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TRẺ EM NĂM 1989 1. Các quy định của Công ước Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là luật quốc tế để bảo vệ trẻ em, gồm 54 điều khoản, nội dung đề ra các quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn thế giới đều được hưởng, và được Liên hợp quốc thông qua năm 1989. Nội dung cụ thể như sau: PHẦN I Điều 1. Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Điều 2. 1. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm những quyền được nêu ra trong Công ước này đối với mọi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào về 35 chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, thành phần xuất thân hay địa vị khác của trẻ em hoặc cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của trẻ em đó. 2. Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp thích hợp để bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ trước mọi hình thức phân biệt đối xử hoặc trừng phạt vì các lý do địa vị, hoạt động, những ý kiến phát biểu hoặc tín ngưỡng của cha mẹ, người giám hộ pháp lý hoặc những thành viên khác trong gia đình của trẻ em. Điều 3. 1. Trong mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu. 2. Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm dành cho trẻ em sự bảo vệ và chăm sóc cần thiết cho hạnh phúc của các em, có tính đến những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, người giám hộ hợp pháp hay những cá nhân khác có trách nhiệm pháp lý đối với trẻ em và nhằm mục đích đó, sẽ tiến hành mọi biện pháp lập pháp và hành pháp thích hợp. 36 3. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng những tổ chức, cơ quan và cơ sở chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc bảo vệ trẻ em phải tuân thủ những tiêu chuẩn do các nhà chức trách có thẩm quyền quy định, đặc biệt trong các lĩnh vực an toàn, sức khỏe, về số lượng và tính phù hợp của đội ngũ nhân viên các cơ quan đó, cũng như về sự giám sát trình độ chuyên môn. Điều 4. Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp lập pháp, hành pháp thích hợp và các biện pháp khác để thực hiện những quyền của trẻ em được thừa nhận trong Công ước này. Về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp như vậy ở mức độ tối đa theo khả năng sẵn có của mình, và khi cần thiết, trong khuôn khổ hợp tác quốc tế. Điều 5. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ các bậc cha mẹ, hoặc trong trường hợp thích hợp, của các thành viên trong gia đình mở rộng hay của cộng đồng theo phong tục địa phương quy định, của những người giám hộ pháp lý hay những người khác chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với trẻ em, trong việc chỉ 37 bảo và hướng dẫn thích hợp cho trẻ em thực hiện những quyền được thừa nhận trong Công ước này, theo cách thức phù hợp với mức độ phát triển về năng lực của trẻ em. Điều 6. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng mọi trẻ em đều có quyền vốn có là được sống. 2. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm đến mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em. Điều 7. 1. Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời, và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc. 2. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm việc thực hiện những quyền đó phù hợp với pháp luật quốc gia, với những nghĩa vụ của họ theo các văn kiện quốc tế có liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt trong trường hợp mà nếu không làm như thế thì đứa trẻ sẽ không có quốc tịch. Điều 8. 1. Các quốc gia thành viên cam kết tôn trọng quyền của trẻ em được giữ gìn bản sắc của 38 mình, kể cả quốc tịch, họ tên và các quan hệ gia đình được pháp luật thừa nhận, mà không có sự can thiệp bất hợp pháp nào. 2. Khi trẻ em bị tước đoạt một cách bất hợp pháp một số hoặc tất cả những yếu tố thuộc về bản sắc của các em, thì các quốc gia thành viên phải cung cấp sự trợ giúp và bảo vệ thích hợp, nhằm mục đích nhanh chóng khôi phục lại bản sắc cho các em đó. Điều 9. 1. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng trẻ em không bị tách khỏi cha, mẹ trái với ý muốn của trẻ, trừ trường hợp do các cơ quan có thẩm quyền quyết định với sự thẩm định của Tòa án rằng theo pháp luật và các thủ tục áp dụng thì việc tách khỏi cha, mẹ như vậy là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định này có thể là cần thiết trong những trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay bỏ mặc, hoặc khi cha mẹ sống ly thân và cần có một quyết định về nơi cư trú của trẻ em. 2. Trong mọi quá trình tố tụng theo như khoản 1, mọi bên liên quan phải được có cơ hội tham gia và bày tỏ quan điểm của mình. 3. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền của đứa trẻ phải sống cách ly khỏi cha, mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ, được duy trì những quan hệ 39 riêng tư và được tiếp xúc trực tiếp với cả cha và mẹ một cách đều đặn, trừ khi việc này trái với lợi ích tốt nhất của đứa trẻ. 4. Khi việc tách khỏi cha, mẹ như vậy là kết quả của bất kỳ hành động nào của một quốc gia thành viên như giam giữ, bỏ tù, trục xuất khỏi đất nước, đày đi xa hay chết (gồm cả những cái chết xảy ra do bất kỳ nguyên nhân nào khi người đó đang bị nhà nước giam giữ), của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ của đứa trẻ, hay của bản thân đứa trẻ, thì quốc gia thành viên đó phải cung cấp theo yêu cầu cho cha mẹ, cho đứa trẻ, hoặc nếu thích hợp, cho một thành viên khác của gia đình, những thông tin thiết yếu về địa chỉ của một hay nhiều thành viên vắng mặt của gia đình, trừ khi việc cung cấp thông tin như thế sẽ phương hại đến phúc lợi của đứa trẻ. Các quốc gia thành viên cũng phải bảo đảm rằng việc đề ra yêu cầu như vậy sẽ không tự nó gây nên những hậu quả có hại cho người (hoặc những người) liên quan. Điều 10. 1. Phù hợp với nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo Điều 9, khoản 1, các đơn của đứa trẻ hoặc của cha mẹ đứa trẻ yêu cầu được nhập cảnh vào hay xuất cảnh khỏi một quốc gia thành viên vì mục đích đoàn tụ gia đình phải được các quốc gia thành viên xử lý một cách tích cực, nhân đạo 40 và nhanh chóng. Hơn nữa, các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng việc đưa một yêu cầu như thế sẽ không gây ra những hậu quả có hại cho những người đứng đơn yêu cầu và cho các thành viên gia đình họ. 2. Trẻ em có cha mẹ mà mỗi người cư trú ở các quốc gia khác nhau phải có quyền được duy trì đều đặn, trừ khi gặp hoàn cảnh đặc biệt, các quan hệ cá nhân và tiếp xúc trực tiếp với cả cha và mẹ. Nhằm mục đích đó và phù hợp với nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo Điều 9, khoản 2, các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền của trẻ em và của cha mẹ trẻ em được rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả chính quốc gia của họ và quyền trở về quốc gia họ. Quyền được rời khỏi bất kỳ quốc gia nào sẽ chỉ lệ thuộc vào những điều hạn chế được ghi trong pháp luật và cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế, đạo đức hoặc các quyền và sự tự do của những người khác, và phù hợp với các quyền khác được thừa nhận trong Công ước này. Điều 11. 1. Các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp để chống việc mang trẻ em ra nước ngoài bất hợp pháp và việc không đưa trẻ em trở về từ nước ngoài. 2. Để đạt được mục đích này, các quốc gia 41 thành viên sẽ thúc đẩy việc ký kết những hiệp định song phương hoặc đa phương có liên quan, hay tham gia các hiệp định hiện có. Điều 12. 1. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em, và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em. 2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc thủ tục trong pháp luật quốc gia. Điều 13. 1. Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến tất cả các loại thông tin và tư tưởng ở mọi lĩnh vực, bằng lời nói, văn bản viết tay hoặc bản in, hay dưới hình thức nghệ thuật hoặc bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác mà trẻ em lựa chọn. 42 2. Việc thực hiện quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, nhưng những hạn chế này phải được quy định bằng pháp luật và là cần thiết: a. Để tôn trọng các quyền và danh dự của người khác; hoặc b. Để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức và sức khỏe của cộng đồng. Điều 14. 1. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em. 2. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng quyền, nghĩa vụ của các bậc cha mẹ, và trong trường hợp thích hợp, của những người giám hộ pháp lý, trong việc hướng dẫn trẻ em thực hiện quyền này một cách phù hợp với mức độ phát triển của các em. 3. Quyền tự do thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể chịu những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an ninh công cộng, trật tự xã hội, y tế hay đạo đức của cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Điều 15. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận các 43 quyền của trẻ em được tự do kết giao và hội họp hòa bình. 2. Các quốc gia thành viên không được đặt ra bất kỳ một hạn chế nào với việc thực hiện các quyền này, ngoài những điều đề ra phù hợp với pháp luật và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia, an ninh công cộng, trật tự xã hội, y tế, đạo đức của cộng đồng, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Điều 16. 1. Không trẻ em nào phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh của các em. 2. Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp hay công kích như vậy. Điều 17. Các quốc gia thành viên thừa nhận chức năng quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng và phải bảo đảm rằng trẻ em được thu nhận thông tin và tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau, ở phạm vi quốc gia và quốc tế, đặc biệt là những thông tin, tư liệu nhằm mục đích cổ vũ cho lợi ích xã hội, tinh thần và đạo đức cũng như sức khỏe về thể chất và tinh thần của trẻ em. 44 Nhằm mục đích này, các quốc gia thành viên sẽ: 1. Khuyến khích các cơ quan truyền thông đại chúng phổ biến những thông tin và tư liệu có lợi về xã hội và văn hóa cho trẻ em và phù hợp với tinh thần của Điều 29; 2. Khuyến khích sự hợp tác quốc tế trong việc sản xuất, trao đổi và phổ biến những thông tin và tư liệu như thế từ nhiều nguồn văn hóa khác nhau ở quốc gia và quốc tế; 3. Khuyến khích việc sản xuất và phổ biến sách dành cho trẻ em; 4. Khuyến khích các cơ quan thông tin đại chúng đặc biệt lưu ý đến những nhu cầu về ngôn ngữ của trẻ em thuộc các nhóm thiểu số hay bản địa; 5. Khuyến khích phát triển những hướng dẫn thích hợp cho việc bảo vệ trẻ em chống lại những thông tin và tư liệu có hại cho lợi ích của các em, có lưu ý đến những quy định được nêu trong các Điều 13 và 18. Điều 18. 1. Các quốc gia thành viên phải có những cố gắng cao nhất để bảo đảm việc thừa nhận nguyên tắc là cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của con cái. Cha mẹ, và tùy trường hợp có thể là người giám hộ hợp pháp, có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi dưỡng và sự phát triển của trẻ em. 45 Những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là điều quan tâm cơ bản của họ. 2. Vì mục đích bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện các quyền được quy định trong Công ước này, các quốc gia thành viên phải dành sự giúp đỡ thích đáng cho các bậc cha mẹ và những người giám hộ hợp pháp trong việc thực hiện trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ em, và phải bảo đảm phát triển những thể chế, phương tiện và dịch vụ cho việc chăm sóc trẻ em. 3. Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp thích hợp để bảo đảm cho con cái của những cha mẹ đang làm việc có quyền được hưởng các dịch vụ và phương tiện chăm sóc trẻ em mà họ có đủ tư cách được hưởng. Điều 19. 1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị đánh đập hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao lãng chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả sự xâm phạm tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, của một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em. 46 2. Những biện pháp bảo vệ như vậy, trong chừng mực thích hợp, cần bao gồm các thủ tục hữu hiệu để thành lập các chương trình xã hội nhằm dành sự hỗ trợ cần thiết cho trẻ em và những người chăm sóc trẻ em, cũng như các hình thức phòng ngừa khác và cho việc xác định, báo cáo, chuyển cấp, điều tra, xử lý và tiến hành những bước tiếp theo trong các trường hợp ngược đãi trẻ em như đã mô tả trước đây, và, nếu thích hợp, cho sự can thiệp về mặt tư pháp. Điều 20. 1. Một trẻ em, tạm thời hay vĩnh viễn bị tước mất môi trường gia đình của mình, hoặc vì những lợi ích tốt nhất của chính bản thân mình mà không được phép tiếp tục ở trong môi trường gia đình, có quyền được hưởng sự bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước. 2. Các quốc gia thành viên phải cho các trẻ em như thế được hưởng sự chăm sóc thay thế tương ứng, phù hợp với pháp luật quốc gia. 3. Sự chăm sóc như thế có thể bao gồm nhiều hình thức, chẳng hạn như gửi nuôi, hình thức Kafala theo luật Hồi giáo, việc nhận làm con nuôi, hoặc nếu cần thiết, gửi vào những cơ sở chăm sóc trẻ em thích hợp. Khi cân nhắc các giải pháp, phải quan tâm thích đáng đến mong muốn nuôi dạy trẻ em lâu dài cũng như đến nền tảng dân tộc, tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ của đứa trẻ. 47 Điều 21. Các quốc gia thành viên mà thừa nhận hoặc cho phép việc nhận làm con nuôi phải bảo đảm rằng những lợi ích tốt nhất của trẻ em là mối quan tâm cao nhất trong vấn đề này, và phải: 1. Bảo đảm rằng, việc nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được tiến hành với sự cho phép của những cơ quan có thẩm quyền mà, phù hợp với pháp luật và các thủ tục, và trên cơ sở các thông tin thích hợp và đáng tin cậy, quyết định rằng việc nhận trẻ em làm con nuôi là có thể chấp nhận được khi xét đến thân phận của trẻ em về cha, mẹ, họ hàng, người giám hộ hợp pháp và rằng, nếu được yêu cầu, những người có liên quan đó đồng ý một cách có hiểu biết việc nhận con nuôi trên cơ sở tham khảo ý kiến khi cần thiết; 2. Thừa nhận rằng, việc cho trẻ em ra nước ngoài làm con nuôi có thể coi như một biện pháp thay thế để chăm sóc trẻ em, nếu như đứa trẻ đó không thể gửi gắm được cho một gia đình chăm nom hay được một gia đình nhận nuôi, hoặc không thể nhận được sự chăm sóc bằng bất cứ cách thức thích hợp nào khác tại nước nguyên quán của em; 3. Bảo đảm rằng trẻ em được người nước ngoài nhận làm con nuôi cũng được hưởng những sự bảo vệ và điều kiện tương đương theo các quy định hiện hành của việc làm con nuôi trong nước; 48 4. Thi hành tất cả các biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng, trong trường hợp nhận con nuôi ở nước ngoài, việc nhận con nuôi không dẫn đến sự trục lợi không chính đáng về tài chính của những người liên quan trong việc nhận con nuôi; 5. Khi thích hợp, thúc đẩy những mục tiêu của Điều này bằng cách ký kết những dàn xếp hoặc thỏa thuận song phương hay đa phương và cố gắng trong khuôn khổ đó, bảo đảm rằng việc đưa trẻ em sang nước khác làm con nuôi do những cơ quan hay bộ phận có thẩm quyền tiến hành. Điều 22. 1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện những biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng những trẻ em xin quy chế tị nạn hoặc được xem là người tị nạn theo pháp luật và thủ tục quốc gia hay quốc tế có liên quan, dù có cha mẹ hay bất kỳ một người nào khác đi cùng hay không đi cùng, sẽ nhận được sự bảo vệ và giúp đỡ nhân đạo thích đáng trong việc hưởng các quyền thích hợp nêu ra trong Công ước này, và trong những văn kiện quốc tế khác về quyền con người hay nhân đạo mà những quốc gia có liên quan là thành viên. 2. Nhằm mục đích đó, các quốc gia thành viên, nếu xét thấy thích hợp, cần hợp tác trong mọi cố gắng của Liên hợp quốc hoặc các tổ chức liên chính phủ hay phi chính phủ có thẩm quyền đang 49 hợp tác với Liên hợp quốc, để bảo vệ, giúp đỡ những trẻ em như thế, và để tìm kiếm cha mẹ hoặc những thành viên khác trong gia đình của bất kỳ trẻ em tị nạn nào, nhằm có được những thông tin cần thiết để đưa trẻ em đó đoàn tụ gia đình. Trong trường hợp không thể tìm ra cha mẹ hay các thành viên khác của gia đình em thì đứa trẻ đó phải được hưởng sự bảo vệ giống như bất kỳ trẻ em nào mà vĩnh viễn hay tạm thời bị mất môi trường gia đình vì bất kỳ lý do gì, như đã được nêu trong Công ước này. Điều 23. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em tàn tật về tinh thần hay thể chất cần được hưởng một cuộc sống đầy đủ và tươm tất trong những điều kiện bảo đảm phẩm giá, thúc đẩy khả năng tự lực và tạo cơ sở cho trẻ em tham gia tích cực vào cộng đồng. 2. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em tàn tật được chăm sóc đặc biệt và tùy theo các nguồn lực sẵn có, phải khuyến khích và bảo đảm dành cho trẻ em tàn tật và cho những người có trách nhiệm chăm sóc sự giúp đỡ mà họ yêu cầu, thích hợp với điều kiện của trẻ em đó và với hoàn cảnh của cha mẹ hay những người khác chăm sóc trẻ em đó. 3. Trên cơ sở thừa nhận các nhu cầu đặc biệt 50 của trẻ em tàn tật, sự giúp đỡ dành cho trẻ em tàn tật theo khoản 2 của Điều này phải được cung cấp miễn phí, bất kỳ khi nào có thể, có tính đến khả năng tài chính của cha mẹ hay những người khác chăm sóc trẻ em tàn tật và sự giúp đỡ đó sẽ được sắp xếp để bảo đảm rằng trẻ em tàn tật được tiếp cận một cách hiệu quả và được nhận sự giáo dục, đào tạo, các dịch vụ y tế và dịch vụ phục hồi chức năng, chuẩn bị công ăn việc làm và các cơ hội vui chơi, giải trí theo cách thức có lợi cho việc trẻ em có thể hòa nhập tối đa vào xã hội và phát triển các năng lực cá nhân, kể cả sự phát triển văn hóa và tinh thần của những trẻ em đó. 4. Trên tinh thần hợp tác quốc tế, các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc trao đổi thông tin thích hợp trên lĩnh vực phòng bệnh và về lĩnh vực chữa trị y tế, tâm lý và chức năng cho trẻ em tàn tật, kể cả việc phổ biến và tiếp cận các thông tin liên quan đến phương pháp giáo dục, phục hồi chức năng và đào tạo nghề với mục tiêu giúp cho các quốc gia thành viên nâng cao khả năng và trình độ của họ để mở rộng kinh nghiệm của họ trong những lĩnh vực này. Về mặt này, cần đặc biệt chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển. Điều 24. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe ở mức 51 cao nhất có thể được và được tiếp cận các cơ sở chữa bệnh và phục hồi sức khỏe. Các quốc gia thành viên phải cố gắng bảo đảm không một trẻ em nào bị tước đoạt quyền được hưởng những dịch vụ chăm sóc sức khỏe như vậy. 2. Các quốc gia thành viên phải theo đuổi việc thực hiện đầy đủ quyền này, và đặc biệt, phải thực hiện những biện pháp thích hợp để: a. Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em; b. Bảo đảm dành sự giúp đỡ y tế và chăm sóc sức khỏe cần thiết cho mọi trẻ em, trong đó chú trọng phát triển công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu; c. Chống bệnh tật và nạn suy dinh dưỡng, kể cả trong khuôn khổ công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, chẳng hạn qua việc áp dụng các công nghệ sẵn có và qua việc cung cấp thức ăn đầy đủ dinh dưỡng và nước uống sạch, có tính đến những nguy cơ ô nhiễm môi trường; d. Bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe thích hợp cho người mẹ trước và sau khi sinh; e. Bảo đảm rằng mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là những bậc cha mẹ và trẻ em, được thông tin, tiếp thu giáo dục và được hỗ trợ trong việc sử dụng các kiến thức cơ bản về sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em, về những ưu điểm của việc nuôi con bằng sữa mẹ, về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và phòng ngừa các tai biến; 52 f. Phát triển công tác phòng bệnh, hướng dẫn cha mẹ, cũng như các hoạt động giáo dục và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. 3. Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm xóa bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe của trẻ em. 4. Các quốc gia thành viên cam kết thúc đẩy và khuyến khích sự hợp tác quốc tế nhằm dần dần đạt đến sự thực hiện đầy đủ các quyền được thừa nhận trong điều này. Về vấn đề này, phải đặc biệt tính đến nhu cầu của các quốc gia đang phát triển. Điều 25. Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng những trẻ em được những nhà chức trách có thẩm quyền bố trí chăm sóc, bảo vệ, hoặc điều trị sức khỏe về thể chất hay tinh thần có quyền được hưởng sự xem xét lại theo định kỳ chế độ điều trị và mọi điều kiện khác liên quan đến sự bố trí nói trên. Điều 26. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền hưởng an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội, và phải thi hành những biện pháp cần thiết để thực hiện đầy đủ quyền này phù hợp với pháp luật nước mình. 2. Khi thích hợp, các quyền lợi này cần được cung cấp trên cơ sở có tính đến các nguồn lực, 53 hoàn cảnh của trẻ em và của những người chịu trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ em, cũng như yếu tố khác có liên quan đến việc xin được hưởng những quyền lợi đó do trẻ em hay người đại diện cho trẻ em thực hiện. Điều 27. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của mọi trẻ em được có mức sống thích đáng để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. 2. Cha mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ hay những người khác chịu trách nhiệm về trẻ em có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo đảm các điều kiện sống cần thiết cho sự phát triển của trẻ em theo năng lực và khả năng tài chính của mình. 3. Các quốc gia thành viên, phù hợp với điều kiện của nước mình và trong phạm vi các phương tiện sẵn có của mình, phải thi hành các biện pháp thích hợp để giúp đỡ các bậc cha mẹ và những người khác chịu trách nhiệm về trẻ em thực hiện quyền này, và trong trường hợp cần thiết, phải thực hiện những chương trình hỗ trợ và giúp đỡ vật chất, đặc biệt là về dinh dưỡng, quần áo và nhà ở. 4. Các quốc gia thành viên phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp để bảo đảm phục hồi việc nuôi dưỡng trẻ em từ cha mẹ hay những 54 người khác có trách nhiệm về tài chính đối với trẻ em tại quốc gia thành viên đó cũng như ở nước ngoài. Cụ thể, nếu người có trách nhiệm về tài chính đối với trẻ em sống ở một quốc gia khác thì các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc gia nhập các thỏa thuận quốc tế hay ký kết những thỏa thuận như vậy, cũng như đặt ra những cơ chế thích hợp khác. Điều 28. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em được học hành, và để từng bước thực hiện quyền này trên cơ sở bình đẳng về cơ hội, phải: a. Thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người; b. Khuyến khích phát triển nhiều hình thức giáo dục trung học khác nhau, kể cả giáo dục phổ thông và dạy nghề, làm cho những hình thức giáo dục này có sẵn và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận, và thi hành các biện pháp thích hợp như đưa ra loại hình giáo dục miễn phí và cung cấp hỗ trợ tài chính trong trường hợp cần thiết; c. Dùng mọi phương tiện thích hợp để giúp cho tất cả mọi người, trên cơ sở khả năng của mình, đều có thể tiếp cận với giáo dục đại học; d. Làm cho những hướng dẫn và thông tin về giáo dục và dạy nghề sẵn có và mọi trẻ em đều có thể tiếp cận được; 55 e. Có biện pháp khuyến khích việc đi học đều đặn ở trường và giảm tỷ lệ bỏ học. 2. Các quốc gia thành viên phải thi hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng kỷ luật nhà trường được thực hiện phù hợp với nhân phẩm của trẻ em và theo đúng Công ước này. 3. Các quốc gia thành viên phải thúc đẩy và khuyến khích sự hợp tác quốc tế trong những vấn đề liên quan đến giáo dục, đặc biệt nhằm đóng góp vào việc xóa bỏ nạn dốt nát và mù chữ trên toàn thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các kiến thức khoa học, kỹ thuật và các phương pháp giảng dạy hiện đại. Về mặt này, nhu cầu của các quốc gia đang phát triển phải được đặc biệt chú ý. Điều 29. 1. Các quốc gia thành viên nhất trí rằng, việc giáo dục trẻ em phải được hướng tới: a. Phát triển tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất của trẻ em; b. Phát triển sự tôn trọng quyền con người và các tự do cơ bản, tôn trọng những nguyên tắc được ghi trong Hiến chương Liên Hợp quốc; c. Phát triển sự tôn trọng đối với cha mẹ của trẻ em, tôn trọng bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và các giá trị của bản thân trẻ em, tôn trọng những giá trị quốc gia của đất nước mà trẻ em đang sống 56 và của đất nước là nguyên quán của trẻ em, tôn trọng những nền văn minh khác với nền văn minh của nơi mà trẻ em sinh ra; d. Chuẩn bị cho trẻ em sống một cuộc sống có trách nhiệm trong xã hội tự do, theo tinh thần hiểu biết, hòa bình, khoan dung, bình đẳng giữa nam và nữ và tình hữu nghị giữa các dân tộc, các nhóm chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo và những người gốc bản địa; e. Phát triển sự tôn trọng đối với môi trường tự nhiên. 2. Không một quy định nào trong Điều này hay trong Điều 28 sẽ được giải thích theo hướng làm tổn hại đến quyền tự do của các cá nhân và tập thể được thành lập và điều hành những tổ chức giáo dục, với điều kiện phải luôn tuân thủ nguyên tắc được nêu trong khoản 1 của Điều này và phù hợp các yêu cầu là giáo dục do các tổ chức đó cung cấp phải tuân theo các tiêu chuẩn tối thiểu mà nhà nước đặt ra. Điều 30. Tại những quốc gia có các nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ hoặc những người bản địa, trẻ em thuộc một nhóm thiểu số đó hoặc trẻ em bản địa sẽ không bị khước từ quyền được hưởng nền văn hóa của mình, được bày tỏ, thực hành tôn giáo của mình và sử dụng ngôn ngữ của 57 mình khi sinh hoạt trong cộng đồng với các thành viên khác của nhóm. Điều 31. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em được nghỉ ngơi và thư giãn, được tham gia vui chơi và những hoạt động giải trí, được tự do tham gia các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi. 2. Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy quyền của trẻ em được tham gia đầy đủ vào sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật, và sẽ khuyến khích việc dành cho trẻ em những cơ hội bình đẳng, thích hợp trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, giải trí và thư giãn. Điều 32. 1. Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em được bảo vệ không bị bóc lột về kinh tế và không phải làm bất kỳ công việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội của trẻ em. 2. Các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp lập pháp, hành chính, xã hội và giáo dục để bảo đảm thực hiện điều này. Để đạt mục tiêu này, và tính đến những điều khoản thích 58 hợp của những văn kiện quốc tế khác, các quốc gia thành viên phải: a) Quy định một hay nhiều mức tuổi tối thiểu được phép thu nhận vào làm công; b) Có các quy định thích hợp về giờ giấc và điều kiện lao động của người làm công; c) Có các hình thức phạt tiền hay các hình thức phạt thích hợp khác để bảo đảm thực hiện điều này. Điều 33. Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp, bao gồm những biện pháp lập pháp, hành pháp, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em khỏi bị lôi kéo vào việc sử dụng bất hợp pháp các chất ma túy và kích thích thần kinh như đã được quy định trong các điều ước quốc tế có liên quan, và để ngăn ngừa việc sử dụng trẻ em vào việc sản xuất, buôn bán bất hợp pháp các chất đó. Điều 34. Các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em trước mọi hình thức bóc lột và lạm dụng tình dục. Vì mục đích này, các quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện mọi biện pháp thích hợp ở cấp quốc gia, song phương và đa phương để ngăn ngừa: 1. Việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động tình dục trái pháp luật nào; 59 2. Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong hoạt động mại dâm hay các hoạt động tình dục trái pháp luật khác; 3. Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong các cuộc biểu diễn hay trong các tài liệu khiêu dâm. Điều 35. Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp song phương và đa phương thích hợp để ngăn ngừa việc bắt cóc, buôn bán trẻ em vì bất kỳ mục đích gì, dưới bất kỳ hình thức nào. Điều 36. Các quốc gia thành viên phải bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bóc lột khác làm phương hại về bất kỳ phương diện nào đến phúc lợi của trẻ em. Điều 37. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng: 1. Không trẻ em nào bị tra tấn hay bị đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. Những người dưới 18 tuổi nếu gây ra những hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng được phóng thích; 2. Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện. Việc bắt, giam giữ 60 hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất; 3. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng phẩm giá vốn có của con người, theo cách thức có tính đến các nhu cầu của những người ở lứa tuổi các em. Đặc biệt, mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly với người lớn, trừ trường hợp vì lợi ích tốt nhất của trẻ mà không nên làm như vậy, và các em phải có quyền duy trì sự tiếp xúc với gia đình qua thư từ và các cuộc viếng thăm, trừ những trường hợp ngoại lệ; 4. Mọi trẻ em bị tước tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận sự trợ giúp pháp lý và những trợ giúp thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước tự do đó trước một Tòa án hay cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô tư khác và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ hành động nào như vậy. Điều 38. 1. Các quốc gia thành viên cam kết tôn trọng và bảo đảm tôn trọng những quy tắc về Luật Nhân đạo quốc tế trong các cuộc xung đột vũ trang có liên quan đến trẻ em mà có hiệu lực với nước mình. 61 2. Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp khả thi có thể thực hiện được nhằm bảo đảm rằng những người chưa đến tuổi 15 không phải trực tiếp tham gia chiến sự. 3. Các quốc gia thành viên phải tránh tuyển mộ bất kỳ người nào chưa đến 15 tuổi vào lực lượng vũ trang của mình; khi tuyển mộ trong số những người đó đến 15 tuổi nhưng chưa đến 18 tuổi, các quốc gia thành viên phải cố gắng ưu tiên tuyển mộ những người nhiều tuổi nhất trong số đó. 4. Phù hợp với nghĩa vụ của mình theo Luật Nhân đạo quốc tế là bảo vệ dân thường trong các cuộc xung đột vũ trang, các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp có thể thực hiện được nhằm bảo đảm sự bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang. Điều 39. Các quốc gia thành viên phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp để thúc đẩy sự phục hồi về thể chất, tâm lý và tái hòa nhập xã hội của trẻ em là nạn nhân của bất kỳ hình thức bỏ mặc, bóc lột hay lạm dụng nào; tra tấn hay bất kỳ hình thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm nào khác; hoặc của các cuộc xung đột vũ trang. Sự phục hồi và tái hòa nhập đó phải diễn ra trong môi trường giúp cho 62 sức khỏe, lòng tự trọng và phẩm giá của trẻ em được phát triển. Điều 40. 1. Các quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi phạm luật hình sự được đối xử theo cách thức phù hợp với việc thúc đẩy nhận thức của trẻ em về nhân cách và phẩm giá vốn có, một cách thức tăng cường sự tôn trọng của trẻ em đối với những quyền và tự do cơ bản của người khác và có tính đến độ tuổi của trẻ em cũng như mong muốn thúc đẩy sự tái hòa nhập của trẻ và giúp trẻ em đảm đương một vai trò có tính chất xây dựng trong xã hội. 2. Nhằm mục đích đó và xét đến những điều khoản thích hợp trong các văn kiện quốc tế, cụ thể, các quốc gia thành viên sẽ bảo đảm rằng: a) Không một trẻ em nào bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi phạm Luật Hình sự vì những hành động hay không hành động mà luật quốc gia và quốc tế không cấm vào thời điểm xảy ra; b) Mọi trẻ em bị tình nghi hay bị cáo buộc là đã vi phạm Luật Hình sự được có ít nhất những điều bảo đảm sau đây: i. Được coi là vô tội cho tới khi bị chứng minh rằng đã phạm tội theo pháp luật; 63 ii. Được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về lời buộc tội và nếu thích hợp, được thông báo qua cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của mình, được trợ giúp về mặt pháp lý hoặc những trợ giúp thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày lời bào chữa của mình; iii. Được một nhà chức trách, hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền, độc lập và vô tư xem xét vụ việc một cách khẩn trương tại một phiên tòa công bằng theo pháp luật có sự trợ giúp về mặt pháp lý hay trợ giúp thích hợp khác, trừ trường hợp không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đặc biệt xét đến độ tuổi và tình trạng của trẻ em, của cha mẹ hay những người giám hộ hợp pháp; iv. Không bị ép buộc phải đưa ra lời khai hoặc nhận tội; được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những người làm chứng chống lại mình; được tham gia và thẩm vấn những người làm chứng cho mình theo những điều kiện bình đẳng; v. Nếu bị coi là đã vi phạm luật hình sự, thì có quyền yêu cầu một nhà chức trách hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền cao hơn, độc lập và vô tư xem xét lại quyết định và những biện pháp thi hành của quyết định đó theo pháp luật; vi. Được trợ giúp phiên dịch miễn phí nếu trẻ em không hiểu hay không nói được ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng; vii. Mọi điều riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong mọi giai đoạn tố tụng. 64 3. Các quốc gia thành viên phải tìm cách thúc đẩy việc thiết lập những đạo luật, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho những trẻ em bị tình nghi, bị cáo buộc hay bị xác nhận là đã vi phạm luật hình sự, và cụ thể là: a) Xác định độ tuổi tối thiểu mà dưới độ tuổi đó trẻ em sẽ được coi là không có khả năng vi phạm Luật Hình sự; b) Bất kỳ khi nào thấy thích hợp và cần thiết cần đề ra các biện pháp xử lý những trẻ em vi phạm pháp luật hình sự mà không phải sử dụng đến thủ tục tư pháp, miễn là các quyền con người và những bảo vệ pháp lý được tôn trọng đầy đủ. 4. Đưa ra nhiều biện pháp khác nhau như ra lệnh chăm sóc, hướng dẫn và giám sát; tư vấn; thử thách; chăm nuôi; các chương trình giáo dục và dạy nghề và những biện pháp thay thế khác cho việc quản lý tại cơ sở nhằm bảo đảm cho trẻ em được đối xử phù hợp với phúc lợi của trẻ và tương xứng với hoàn cảnh cũng như hành vi phạm tội của trẻ. Điều 41. Không một quy định nào trong Công ước này làm ảnh hưởng tới bất kỳ quy định nào khác mà tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc thực hiện quyền trẻ em, mà có thể được nêu trong: a) Pháp luật của một quốc gia thành viên; hay, b) Pháp luật quốc tế có hiệu lực với quốc gia đó. 65 PHẦN II Điều 42. Các quốc gia thành viên cam kết phổ biến rộng rãi những nguyên tắc và quy định của Công ước này tới người lớn cũng như trẻ em, bằng các phương tiện thích hợp và tích cực. Điều 43. 1. Nhằm mục đích xem xét sự tiến bộ mà các quốc gia thành viên đạt được trong việc thực hiện những nghĩa vụ họ đã cam kết trong Công ước này, một Ủy ban về quyền trẻ em được thành lập để thực hiện các chức năng quy định dưới đây: 2. Ủy ban này bao gồm 18 chuyên gia có đạo đức tốt và có năng lực được thừa nhận trong lĩnh vực mà Công ước đề cập. Các thành viên của Ủy ban sẽ do những quốc gia thành viên bầu ra trong số công dân của mình và họ sẽ làm việc với tư cách cá nhân, có tính đến sự phân bố công bằng về địa lý cũng như các hệ thống pháp luật chính. 3. Các thành viên của Ủy ban được bầu bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách những người do các quốc gia thành viên đề cử. Mỗi quốc gia thành viên có thể đề cử một công dân của nước mình. 4. Cuộc bầu cử đầu tiên sẽ được tiến hành không muộn hơn 6 tháng kể từ ngày Công ước có hiệu lực và sau đó cứ 2 năm tiến hành một lần. Ít 66 nhất 4 tháng trước mỗi cuộc bầu cử, Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ gửi thư tới các quốc gia thành viên mời họ đề cử trong vòng 2 tháng. Sau đó, Tổng thư ký sẽ chuẩn bị một danh sách theo thứ tự trong bảng chữ cái những người đã được đề cử, trong đó nêu rõ quốc gia thành viên đề cử họ, và sẽ gửi danh sách đó cho các quốc gia thành viên của Công ước này. 5. Các cuộc bầu cử được tổ chức trong phiên họp của các quốc gia thành viên do Tổng thư ký triệu tập tại trụ sở Liên hợp quốc. Các phiên họp này phải có ít nhất hai phần ba số các quốc gia thành viên tham dự, những người được bầu vào Ủy ban là những người nhận được số phiếu cao nhất và chiếm đa số tuyệt đối trong tổng số phiếu của đại diện các quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu. 6. Các thành viên của Ủy ban được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Họ có quyền tái cử nếu như được đề cử lại. Nhiệm kỳ của 5 trong số những thành viên được bầu trong lần bầu cử đầu tiên sẽ kết thúc sau 2 năm. Ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên, tên của 5 thành viên này sẽ được Chủ tịch phiên họp chọn bằng rút thăm. 7. Nếu một thành viên của Ủy ban chết hoặc từ chức hay tuyên bố rằng vì bất kỳ một lý do nào khác mà không thể đảm nhiệm công việc trong Ủy ban, quốc gia thành viên đã đề cử thành viên đó sẽ có quyền bổ nhiệm một chuyên gia khác là công 67 dân nước mình làm việc trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ, với sự chấp thuận của Ủy ban. 8. Ủy ban sẽ đề ra các quy tắc thủ tục riêng của mình. 9. Ủy ban sẽ bầu ra các quan chức của mình theo nhiệm kỳ 2 năm. 10. Thông thường, các phiên họp của Ủy ban được tổ chức tại trụ sở của Liên hợp quốc hay bất kỳ nơi thuận tiện nào khác do Ủy ban quyết định. Thông thường Ủy ban họp hàng năm. Thời gian các phiên họp của Ủy ban sẽ được quyết định và xem xét lại, nếu cần thiết, bằng một phiên họp của các quốc gia thành viên Công ước này, với sự thông qua của Đại hội đồng Liên hợp quốc. 11. Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ cung cấp nhân sự và phương tiện cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả các chức năng của Ủy ban theo Công ước này. 12. Với sự thông qua của Đại hội đồng, các thành viên của Ủy ban được thành lập theo Công ước này được nhận thù lao của Liên hợp quốc theo những quy định và điều kiện mà Đại hội đồng quy định. Điều 44. 1. Các quốc gia thành viên cam kết trình lên Ủy ban, thông qua Tổng thư ký Liên hợp quốc, các báo cáo về những biện pháp mà họ đã đề ra nhằm thực hiện các quyền được thừa nhận trong Công 68 ước này, và về những tiến bộ mà họ đã đạt được trong việc thực hiện các quyền này: a. Trong vòng 2 năm kể từ khi Công ước có hiệu lực đối với quốc gia thành viên liên quan; b. Sau đó cứ 5 năm một lần. 2. Các báo cáo được đệ trình theo điều này phải nêu ra những nhân tố và các khó khăn, nếu có, mà ảnh hưởng đến việc thực hiện những nghĩa vụ nêu ra trong Công ước này. Các báo cáo cũng phải cung cấp đầy đủ thông tin để Ủy ban có thể hiểu biết toàn diện về tình hình thực hiện Công ước ở nước có liên quan. 3. Một quốc gia thành viên đã trình báo cáo tổng thể đầu tiên với Ủy ban không cần nhắc lại trong các báo cáo tiếp theo được gửi theo khoản 1 (b) những thông tin cơ bản đó cung cấp trước đó. 4. Ủy ban có thể yêu cầu các quốc gia thành viên cung cấp thêm bất kỳ thông tin nào khác liên quan đến việc thực hiện Công ước. 5. Ủy ban sẽ trình báo cáo về hoạt động của mình cho Đại hội đồng Liên hợp quốc hai năm một lần, thông qua Hội đồng kinh tế và xã hội. 6. Các quốc gia thành viên phải công bố rộng rãi những báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước cho công chúng nước mình. Điều 45. Để thúc đẩy sự thực hiện có hiệu quả Công ước 69 và khuyến khích sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực mà Công ước này đã đề cập: a. Các tổ chức chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và những cơ quan khác của Liên hợp quốc có quyền có đại diện trong khi xem xét việc thực hiện những quy định của Công ước này thuộc phạm vi trách nhiệm của các cơ quan đó. Ủy ban có thể mời các tổ chức chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và những cơ quan có thẩm quyền khác mà Ủy ban coi là thích hợp để cung cấp các ý kiến tư vấn chuyên môn về việc thực hiện Công ước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm của những cơ quan này. Ủy ban có thể đề nghị các tổ chức chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và những cơ quan khác của Liên hợp quốc cung cấp các báo cáo về việc thực hiện Công ước trong những lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của họ; b. Nếu xét thấy thích hợp Ủy ban sẽ chuyển tới các tổ chức chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và những cơ quan có thẩm quyền khác bất kỳ báo cáo của các quốc gia thành viên mà đưa ra đề nghị hoặc nêu nhu cầu tư vấn hay trợ giúp kỹ thuật, cùng với những nhận xét và gợi ý của Ủy ban, nếu có, về những đề nghị hay nhu cầu đó; c. Ủy ban có thể khuyến nghị Đại hội đồng yêu cầu Tổng thư ký thay mặt mình tiến hành các nghiên cứu về những vấn đề cụ thể liên quan tới quyền trẻ em; 70 d. Ủy ban có thể nêu những gợi ý và khuyến nghị chung dựa trên các thông tin nhận được theo Điều 44 và 45 của Công ước này. Những gợi ý và khuyến nghị chung này sẽ được chuyển tới bất kỳ quốc gia thành viên nào có liên quan và sẽ được báo cáo với Đại hội đồng, cùng với các bình luận, nếu có, của những quốc gia thành viên. PHẦN III Điều 46. Công ước này để ngỏ cho mọi quốc gia ký. Điều 47. Công ước này phải được phê chuẩn. Các văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Điều 48. Công ước này được để ngỏ cho bất kỳ quốc gia nào gia nhập. Các văn kiện gia nhập sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Điều 49. 1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ ngày văn kiện phê chuẩn thứ 20 được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. 2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn hay gia 71 nhập Công ước sau khi văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ 20 được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ văn kiện phê chuẩn hay gia nhập của quốc gia đó được nộp lưu chiểu. Điều 50. 1. Bất kỳ quốc gia thành viên nào đều có quyền đề xuất sửa đổi và đệ trình đề xuất này cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Ngay sau đó, Tổng thư ký sẽ thông báo những đề xuất sửa đổi cho các quốc gia thành viên, đồng thời đề nghị các quốc gia thành viên cho biết có tán thành hay không tán thành việc triệu tập một hội nghị các quốc gia thành viên để xem xét và biểu quyết về các đề xuất đó. Nếu trong vòng 4 tháng kể từ ngày thông báo có ít nhất một phần ba số quốc gia thành viên tán thành triệu tập một hội nghị như vậy thì Tổng thư ký triệu tập hội nghị này dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Bất kỳ sửa đổi nào được chấp nhận bởi đa số các quốc gia thành viên có mặt và biểu quyết tại hội nghị sẽ được đệ trình cho Đại hội đồng để thông qua. 2. Mọi sửa đổi, bổ sung được thông qua theo khoản 1 của Điều này sẽ có hiệu lực khi được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và được đa số 2/3 các quốc gia thành viên chấp nhận. 3. Khi một sửa đổi có hiệu lực, sửa đổi đó sẽ có 72 hiệu lực ràng buộc với những quốc gia thành viên đã chấp nhận nó, các quốc gia thành viên khác vẫn bị ràng buộc bởi những quy định của Công ước này và mọi sửa đổi trước đó mà họ đã chấp nhận. Điều 51. 1. Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ nhận và gửi tới mọi quốc gia thành viên văn bản bảo lưu của các quốc gia khi phê chuẩn hay gia nhập Công ước. 2. Mọi bảo lưu không phù hợp với đối tượng và mục đích của Công ước này sẽ không được chấp nhận. 3. Có thể rút những điều bảo lưu vào bất cứ lúc nào bằng gửi một thông báo tới Tổng thư ký Liên hợp quốc, sau đó Tổng thư ký phải thông báo cho mọi quốc gia thành viên. Thông báo rút lui bảo lưu này sẽ có hiệu lực từ ngày Tổng thư ký nhận được. Điều 52. Mọi quốc gia thành viên đều có thể tuyên bố rút khỏi Công ước này bằng một thông báo bằng văn bản gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc. Tuyên bố rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ khi Tổng thư ký nhận được thông báo. Điều 53. Tổng thư ký Liên hợp quốc được chỉ định làm người lưu chiểu Công ước này. 73 Điều 54. Công ước này được làm bằng tiếng Ảrập, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha, các văn bản đều có giá trị như nhau, sẽ được lưu chiểu tại Cơ quan lưu trữ của Liên hợp quốc. Để làm bằng, các đại diện có đủ thẩm quyền ký tên dưới đây được ủy quyền hợp lệ bởi Chính phủ nước mình, đã ký vào văn bản Công ước này. Có thể nói Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 đã bao quát được tất cả các khía cạnh của quyền trẻ em. Đặc biệt trong Phần I, bên cạnh định nghĩa, các nguyên tắc chung của việc bảo vệ quyền trẻ em, Công ước còn đề cập các biện pháp bảo vệ đối với trẻ em tị nạn, trẻ em trong khu vực có xung đột quân sự, trẻ em bị bóc lột và trẻ em thuộc dân tộc thiểu số. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là điều ước quốc tế đa phương phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ. Lần đầu tiên, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 đã khái quát được các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền của trẻ em và mối quan hệ giữa quyền trẻ em với quyền con người nói chung. 74 Để thực thi Công ước, Điều 43 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định thành lập Ủy ban về quyền trẻ em nhằm xem xét sự tiến bộ mà các quốc gia thành viên đạt được trong việc thực hiện các nghĩa vụ mà họ đã cam kết thông qua các báo cáo định kỳ. Đồng thời theo Điều 45 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, bên cạnh Ủy ban về quyền trẻ em thì các cơ quan chuyên môn, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc và các tổ chức khác thuộc Liên hợp quốc cũng có thẩm quyền giám sát, giúp đỡ các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện Công ước. 2. Các nhóm quyền cơ bản của trẻ em theo quy định của Công ước 2.1. Những nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em Tựu trung lại, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản mà bất cứ trẻ em nào trên thế giới cũng được hưởng như sau: - Mọi trẻ em phải được hưởng quyền của mình dù là gái hay trai, giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay ốm đau, khuyết tật, đa số hay thiểu số, theo có tôn giáo hay không tôn giáo... - Trẻ em có quyền được đăng ký khai sinh ngay khi sinh ra, và có quyền có họ tên và có quốc tịch ngay từ khi ra đời. - Vì chưa đạt đến sự trưởng thành về mặt thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm 75 sóc đặc biệt, trước cũng như sau khi ra đời. Các bậc cha mẹ là những người chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái của mình, cung cấp cho các em cơm ăn, áo mặc. Khi vắng nhà, phải lo thu xếp sao cho trẻ em luôn được người lớn có trách nhiệm trông nom, hoặc đưa các em đến nhà trẻ, trường học để các em được an toàn và chăm sóc tốt. - Trong trường hợp trẻ sống riêng với cha hoặc mẹ của mình, các em có quyền gặp gỡ với người cha hay người mẹ mà các em không được sống chung. Nếu vì một lý do nào đó mà một trong hai người đang ở nơi khác, trẻ em có quyền được biết nơi ở và tình hình của cha, mẹ mình. Khi cha mẹ không sống với con mình, họ cần phải chu cấp cho các em một khoản tiền trợ cấp bảo đảm cho các em cuộc sống đầy đủ. - Các bậc cha mẹ cần phải chăm sóc sức khỏe của con cái mình, giữ cho các em luôn sạch sẽ, được tiêm phòng và trong trường hợp các em bị ốm đau, được đưa tới các trung tâm y tế, nơi có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho các em. - Trẻ em cần nhận được sự giáo dục cần thiết, được giúp đỡ để phát triển tốt về thể chất, trí tuệ và xã hội, trở thành người công dân có trách nhiệm và biết tôn trọng những quyền của người khác. - Nghĩa vụ của thầy cô giáo là lên lớp và giảng dạy tốt, uốn nắn trẻ em không được xúc phạm hay 76 làm tổn hại đến các trẻ em khác. Các bậc cha mẹ cần phối hợp với nhà trường trong việc giám sát để bảo đảm điều này được thực hiện. - Trẻ em có quyền được sống và hưởng một môi trường lành mạnh và tự nhiên. Để có được điều này, người lớn phải có trách nhiệm hướng dẫn và giáo dục trẻ em biết giữ gìn thiên nhiên, nguồn nước, bầu không khí, cây cối và các loài vật. - Trẻ em có quyền được vui chơi, giải trí, tham gia vào bất kỳ hoạt động nào cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân cách và thể chất của các em. - Trẻ em có quyền được đọc sách báo, xem các chương trình truyền hình và nghe các chương trình phát thanh phù hợp với lứa tuổi của trẻ em. Các bậc cha mẹ cần biết con cái mình đọc gì và xem gì, để hướng dẫn các em tránh đọc và xem những điều làm cho các em sợ hãi, nhầm lẫn hoặc làm hại đến các em. - Trẻ em cũng có quyền được tự do kết giao và tập hợp nhau theo những nhóm bạn cùng chung sở thích, cũng như tổ chức những cuộc họp mang tính chất hòa bình. - Trong tất cả mọi quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em được đưa ra trong gia đình, trường học, tòa án, bệnh viện hay tại bất kỳ một cơ quan nào khác, người lớn cần lắng nghe ý kiến của trẻ em và làm những điều tốt nhất cho các em. 77