🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Đại Hội Và Hội Nghị Trung Ương Của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-2018)
Ebooks
Nhóm Zalo
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Lê Mậu Hãn
Các Đại hội và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2018) / Lê Mậu Hãn, Võ Văn Bé. - H.: Chính trị quốc gia, 2019. - 508tr.; 21cm
1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Đại hội 3. Hội nghị Trung ương 4. 1930-2018 5. Việt Nam
324.2597075 - dc23
CTL0161p-CIP
“Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
4
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 12 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ đại hội là một mốc son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong hơn bảy thập kỷ qua đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.
Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Các Đại hội và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2018).
Cuốn sách gồm hai phần:
Phần thứ nhất: Các Đại hội và Hội nghị Trung ương. Phần thứ hai: Chủ tịch Đảng và các Tổng Bí thư.
5
Nội dung cuốn sách phản ánh một cách khái quát, có hệ thống các Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiểu sử tóm tắt Chủ tịch Đảng và các Tổng Bí thư từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đến nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách và mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần tái bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Tháng 1 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
Phần thứ nhất
CÁC ĐẠI HỘI VÀ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG
HỘI NGHỊ THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(NĂM 1930)
Việt Nam là một quốc gia dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến. Tiến trình đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh từ ngàn xưa đã dần dần hun đúc nên những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, đoàn kết thủy chung, tự lập tự cường, kiên cường bất khuất... tạo cho dân tộc niềm tin và bản lĩnh, vượt qua mọi thách thức, vững bước tiến lên trong dòng lớn của lịch sử - chủ nghĩa yêu nước, ý thức về dân tộc, dòng chủ lưu trong truyền thống tinh thần Việt Nam đã được các thế hệ kế thừa và nâng lên tầm cao mới theo xu thế phát triển của dân tộc và thời đại.
7
Vào giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị đế quốc phương Tây xâm lược. Đại bác của thực dân Pháp đã làm sụp đổ thành trì mục nát của triều đình nhà Nguyễn. Song, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là đông đảo quần chúng cần lao, không cam chịu rơi vào nô lệ. Ý thức về quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và phẩm giá con người là động lực thúc đẩy cả dân tộc đứng lên. Muốn sống, muốn độc lập, tự do thì phải đấu tranh, phải làm cách mạng. Song, tất cả các cuộc vận động cứu nước của các sĩ phu theo cách thức phong kiến và các cuộc vận động cách mạng theo xu hướng tư sản đương thời đều lần lượt bị thất bại. Giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào dân tộc. Những đám mây đen vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam.
Giữa lúc đó, ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành - người thanh niên yêu nước và cấp tiến đã xuất dương để tìm hiểu cuộc sống và phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới, nghiên cứu, tìm tòi con đường giải phóng cho dân tộc mình.
Sau nhiều năm bôn ba qua các lục địa, hoạt động và khảo sát cách mạng, Nguyễn Tất Thành đã vượt qua nhiều thử thách, tích tụ được vốn tri thức sâu rộng nhiều mặt về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị nô dịch và của giai cấp công nhân Âu, Mỹ.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Tất Thành lấy tên mới là Nguyễn Ái Quốc, tích cực
8
hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và đã nhanh chóng trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình, đảng viên Đảng Xã hội Pháp - chính đảng của giai cấp công nhân Pháp. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin với xiết bao sung sướng. Người coi đây là một cẩm nang thần kỳ cho con đường giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Tua (Tours) tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát đứng về phía Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bằng trí tuệ sáng suốt, hoạt động và khảo sát cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chân lý cách mạng giải phóng dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Và “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”2. Người kêu gọi phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể
làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương...
__________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.30, 563.
9
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”1.
Giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc quyết định tìm đường trở về Tổ quốc để phát động và tổ chức phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước hết là chuẩn bị tổ chức ra một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc ta, tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Vì muốn làm cách mạng thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng, đảng có vững thì cách mạng mới thành công, đảng muốn vững thì phải có lý luận cách mạng dẫn đường.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức “quá độ” đặt cơ sở cho sự ra đời của một đảng cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền tư tưởng, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; cách mạng hóa quần chúng và dân tộc, nâng nhân dân và dân tộc Việt Nam vươn lên ngang tầm cách mạng của thời đại.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40.
10
Hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc thông qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và các sách báo cách mạng đã thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Sự kết hợp ngày càng chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sục sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Tháng 3-1929, tại nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội), Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân đã họp quyết định thành lập Chi bộ Cộng sản. Đây là chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, gồm có bảy người, trong đó có bốn đồng chí trong Kỳ bộ và ba đồng chí trong Tỉnh bộ của Thanh niên1. Chi bộ chủ
trương phải tích cực vận động thành lập một đảng cộng sản thay tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên - (Hà Nội), đại biểu các tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã
__________
1. Chi bộ này thường gọi là nhóm bảy người, đáng lẽ tám người, vì có cả đồng chí Nguyễn Phong Sắc ngày ấy bận việc phải vắng mặt. Xem Bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1961, tr.114.
11
họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo Búa liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội và chính trị ở Đông Dương lúc này, Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng đã xác định tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ đầu tiên là tư sản dân chủ cách mệnh. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản là phải thực hiện khối liên minh công nông để đánh đuổi đế quốc Pháp; đánh đổ giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến và các hình thức bóc lột tiền tư bản, thực hiện cách mạng ruộng đất.
Quyết định về vấn đề tổ chức Đảng Cộng sản tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 5-1929) đã vạch rõ: “tổ chức một Đảng Cộng sản để lĩnh đạo toàn cuộc cm* ở An Nam là một sự nhu yếu đặc biệt”1. Vì vậy, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, các thành viên tiên tiến hoạt động trong bộ phận Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Trung Quốc nhận định: việc thành lập một đảng cộng sản là phù hợp với yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước và quyết định hành động
__________
* cm có nghĩa là cách mạng (B.T).
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr.126.
12
nhanh chóng để thành lập một đảng cộng sản tập trung, đúng với điều lệ của Quốc tế Cộng sản.
Ngày 25-7-1929, trong một bức thư của các thành viên tiên tiến trong bộ phận Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông Dương Cộng sản Đảng báo tin rằng, các đồng chí đó định tổ
chức một đảng cộng sản bí mật còn “Thanh niên” thì cứ giữ nguyên để cải tổ dần. Vì “số đảng viên còn ít nên Đảng Cộng sản chưa muốn công khai biểu hiện như một đảng chính trị thực sự mà chỉ cử một ban lâm thời để giải quyết công việc”1. Các chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập ở Nam Kỳ, ở Trung Kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp trong một chi bộ mang tên Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng. Chi bộ này đã liên lạc và được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và cũng liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Xuất phát từ nhận thức việc tổ chức một đảng cộng sản là một “nhu yếu đặc biệt” và trước sự phát triển nhanh chóng của Đông Dương Cộng sản Đảng, cho nên An Nam Cộng sản Đảng đã nhanh chóng hình thành. Theo Hồng Thế Công, An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8-19292, và khoảng tháng 11-1929, An Nam Cộng sản Đảng đã họp
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr.536.
2. Xem Hồng Thế Công (Hà Huy Tập): Lược khảo về lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3-1933. Bản dịch lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
13
Đại hội tại thành phố Sài Gòn để thông qua đường lối chính trị, điều lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đảng có cơ sở quần chúng ở các xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một số tỉnh ở phía Nam. An Nam Cộng sản Đảng đã nhiều lần gửi thư cho Đông Dương Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất đảng, song không đạt được sự nhất trí.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã có tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của Đảng Tân Việt. Những phần tử tiên tiến của Tân Việt đã tách ra lập các chi bộ cộng sản, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 9-1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã tuyên bố: “... những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập xóa bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ Công Nông chuyên chính tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”1.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr.404.
14
Nhiều đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt đã lần lượt gia nhập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, hình thành nhiều chi bộ đảng ở Trung Kỳ, Nam Kỳ. Theo kế hoạch, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn sẽ họp Đại hội tại một địa điểm ở Hà Tĩnh vào ngày 1-1-1930, song do các đại biểu trên đường đi dự Đại hội đều bị
địch bắt giữ nên Đại hội không họp được. Tuy vậy, tổ chức Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vẫn tiếp tục hoạt động với tính chất của một đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, đến cuối năm 1929, ở Việt Nam đã có ba tổ chức đảng cộng sản lần lượt tuyên bố thành lập. Cơ sở tổ chức đảng và cơ sở quần chúng của các tổ chức đảng đã phát triển khắp cả ba miền. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước. Quốc tế Cộng sản, trong thư gửi cho những người cộng sản Đông Dương ngày 27-10-1929, đã nhấn mạnh rằng: “Sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, và cuộc đấu tranh giữa các nhóm đó là nguy cơ tai hại nhất cho toàn bộ phong trào cách mạng ở Đông Dương. Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và
15
là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương... Đảng Cộng sản Đông Dương phải được thành lập bằng cách tập hợp tất cả những phần tử thật sự là cộng sản của tất cả các nhóm cộng sản”1.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm và đã hai lần tìm đường trở về Việt Nam song chưa thành công. Người đang cố gắng đi lần thứ ba thì được một đồng chí từ Hồng Kông đến Xiêm báo tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái. Lập tức Người đi Trung Quốc và đến đó vào ngày 23-12-1929. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp Hội nghị hợp nhất thành một đảng cộng sản duy nhất vào đầu năm 1930 tại Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị họp từ ngày 6-1-1930. Tham dự Hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng.
Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ với các đại biểu những sai lầm của các đảng, và Hội nghị nhất trí
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr.614.
16
hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các điều lệ vắn tắt của công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội phản đế đồng minh và hội cứu tế do Người soạn thảo.
Chánh cương vắn tắt của Đảng nêu rõ: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền c.m* và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”1.
Chánh cương vắn tắt của Đảng đã nêu ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền về các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội là: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông, thủ tiêu hết các thứ quốc
__________
* c.m: cách mạng (B.T).
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
17
trái, thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Sách lược vắn tắt của Đảng xác định:
“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
18
nông mà đi vào đường thỏa hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”1.
Chương trình tóm tắt của Đảng nêu rõ:
“1. Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.
2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến. 3. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản.
4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, v.v..
5. Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”2.
Bản Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hội nghị thông qua có chín điểm lớn: tên Đảng, tôn
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4-5, 6.
19
chỉ, lệ vào Đảng, hệ thống tổ chức, trách nhiệm của đảng viên, quyền lợi đảng viên, các cấp đảng chấp hành ủy viên, kinh phí, kỷ luật.
Về tôn chỉ, Điều lệ đã nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”1.
Hội nghị đã quyết định thành lập cơ quan ngôn luận, tuyên truyền của Đảng là tạp chí Đỏ và báo Tranh đấu. Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, bóc lột đứng dậy theo Đảng đấu tranh giành độc lập dân tộc. Lời kêu gọi có đoạn:
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để:
1. Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng.
2. Làm cho nước An Nam được độc lập.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.7.
20
3. Thành lập chính phủ công nông binh.
4. Tịch thu tất cả các nhà băng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho chính phủ công nông binh. 5. Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo.
6. Thực hiện ngày làm tám giờ.
7. Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo.
8. Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân.
9. Thực hành giáo dục toàn dân.
10. Thực hiện nam nữ bình quyền”1.
Sau khi kết thúc Hội nghị, các đại biểu về nước đã tích cực thực hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, lập ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm có bảy ủy viên: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Hạ Bá Cang, Phạm Hữu Lầu, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến các xứ ủy cũng được thành lập. Đỗ Ngọc Du - Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Nguyễn Phong Sắc - Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ và Ngô Gia Tự - Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ.
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.16-17.
21
Song, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vẫn còn là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan.
Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng “thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hành cách mệnh cộng sản được”1. Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã yêu cầu được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24-2-1930, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu cùng với hai ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu và Ngô Gia Tự (Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam), đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một đảng cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đầu năm 1930 mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr.405.
22
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 3-2-1930 được lấy làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng1.
Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp lý luận giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, người sáng lập ra Đảng và vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam - một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Độc lập tự do là tư tưởng chủ yếu, là viên ngọc quý nhất được khảm trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Ngay khi ra đời, lực lượng của Đảng chỉ có 310 đảng viên, song Đảng có tổ chức tốt và thống nhất, có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam nên Đảng sớm tập hợp, đoàn kết được lực lượng cách mạng đông đảo và trở thành tổ chức cách mạng tiên phong, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công
__________
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 9-1960) đã quyết định lấy ngày 3-2-1930 là Ngày kỷ niệm thành lập Đảng. Xem báo Nhân dân, Ngày 14-9-1960.
23
nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta “liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”1.
Năm 1930, giữa lúc chủ nghĩa tư bản diễn ra cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế và ở Đông Dương thì “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”. Chính vì vậy, một làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ sôi nổi đã diễn ra trong toàn quốc, dẫn đến đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp và tay sai trở nên quyết liệt và đẫm máu. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, vừa mới ra đời đã bước ngay vào cuộc thử thách trên cương vị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh đó của dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Ngay từ ngày mới ra đời, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo một phong trào quần chúng mạnh lớn xưa nay chưa từng có ở nước ta - phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh năm 1930. Quần chúng công nhân và nông dân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.401.
24
nổi lên lật đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, thành lập chính quyền Xôviết công nông binh, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động.
Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xôviết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”1.
Tháng 4-1930, Trần Phú sau một thời gian học tập ở Liên Xô, đã về nước hoạt động. Ban Thường vụ Trung ương bố trí Trần Phú đi khảo sát phong trào công nhân và nông dân một số vùng ở Bắc Kỳ. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng với Ban Thường vụ chuẩn bị cho kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thảo luận dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, các nghị quyết về công nhân vận động, về nông dân vận
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.407-408.
25
động, về cộng sản thanh niên vận động, về phụ nữ vận động, về quân đội vận động, về vấn đề cứu tế, về điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương và điều lệ của các tổ chức quần chúng.
Dự án Luận cương nêu rõ mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt trong xã hội Việt Nam, Lào và Campuchia là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư
bổn và đế quốc chủ nghĩa”1. Vì thế, lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có “tánh chất thổ địa và phản đế”. “Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp trong nước được phát triển, các tổ chức vô sản được thêm mạnh, quyền lãnh đạo của vô sản sẽ thêm kiên cố... xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”2.
“Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.90, 93-94.
26
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Muốn thực hành được những điều cốt yếu ấy thì phải dựng lên chánh quyền Xôviết công nông. Chỉ có chánh quyền Xôviết công nông mới là cái khí cụ rất mạnh mà đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho dân cày có đất mà cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình”1.
“Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”2.
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.94, 100.
27
Để thực hiện được nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng vận động, tập hợp lực lượng đại đa số quần chúng, lãnh đạo đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện thì phát động quần chúng vũ trang bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông...
Cách mạng Đông Dương phải liên hệ với giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa thế giới...
Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng. Về xây dựng Đảng, Hội nghị quyết định toàn Đảng phải thảo luận, học tập các án nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Đông Dương, chính sách và kế hoạch của Đảng, lấy đó làm căn bản mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng bônsơvích hóa. Đảng phải chỉnh đốn công việc cho chặt chẽ, đồng thời phải chuẩn bị tiến hành Đại hội Đảng để giải quyết các vấn đề căn bản của cách mạng. Sau khi công tác chỉnh đốn nội bộ Đảng và quần chúng được ổn định sẽ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Bản Điều lệ mới do Hội nghị thông qua gồm các vấn đề: tên Đảng, đảng viên, cách tổ chức, chi bộ, khu bộ, huyện bộ, xứ bộ, Đông Dương Đảng hội nghị, Đông Dương
28
Đảng đại hội, Trung ương, kỷ luật, tài chính, đảng đoàn và đoàn thanh niên.
Hội nghị cũng đã bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng gồm 7 ủy viên; Ban Thường vụ gồm có 3 ủy viên; Tổng Bí thư là Trần Phú.
Tiếp theo Hội nghị thành lập Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930 đã đề ra nhiều vấn đề quan trọng về đường lối chính trị, về tổ chức,... của Đảng - những vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng nước ta - đặc biệt là đã thảo luận bản dự án Luận cương chánh trị của Đảng.
Bản dự án Luận cương chánh trị của Đảng đã xác định nhiều vấn đề thuộc chiến lược cách mạng. Song, bản dự án Luận cương đó cũng đã bộc lộ một số nhược điểm. Trải qua thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng, những nhược điểm đó đã được các hội nghị tiếp theo của Trung ương Đảng dần dần khắc phục.
Trong các năm 1930 - 1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có nhiều cố gắng để chỉ đạo phong trào cách mạng, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc có tính chất tả khuynh hoặc hữu khuynh trong chỉ đạo và tổ
chức ở một số địa phương.
Tháng 3-1931, giữa lúc địch khủng bố ác liệt phong trào cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai ở Sài Gòn, dưới sự chủ trì của
29
Trần Phú. Sau Hội nghị không lâu, các ủy viên trong Ban Chấp hành Trung ương lần lượt bị sa lưới của địch, Trần Phú cũng bị bắt ở Sài Gòn (tháng 4-1931) và đã hy sinh ngày 6-9-1931. Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ hoạt động ở nước ngoài cũng bị đế quốc Anh bắt ở
Hương Cảng (tháng 6-1931). Các cơ sở của tổ chức đảng cũng bị địch đánh phá ác liệt. Đảng bước vào một cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để duy trì tổ chức và phong trào cách mạng.
30
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
LẦN THỨ I CỦA ĐẢNG (THÁNG 3-1935)
Sau khi Xôviết Nghệ - Tĩnh bị thất bại, thực dân Pháp càng ráo riết khủng bố, đàn áp hòng dập tắt phong trào cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản bị giết, bị tù đày, giam giữ. Riêng ở Bắc Kỳ trong hai năm 1930 - 1931, chính quyền thực dân Pháp và tay sai đã mở 21 phiên tòa đại hình xử
1.094 án, trong đó có 64 án tử hình, 114 án khổ sai, 420 án lưu đày biệt xứ. Tháng 5-1933, tòa án ở Sài Gòn đã mở phiên tòa kết án 8 án tử hình, 19 án tù chung thân, ngót 100 án tù từ 5 năm đến 20 năm. Trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum giam chật các chiến sĩ cộng sản. Chỉ riêng nhà tù Côn Đảo năm 1930 có 1.992 người tù, năm 1931 có 2.146 người, năm 1932 có 2.276 người, năm 1933 có 2.483 người, năm 1934 có 2.818 người. Biết bao chiến sĩ cộng sản đã ngã xuống bởi chế độ nhà tù hà khắc và bọn cai ngục gian ác. Từ năm 1930 đến năm 1933, ở Côn Đảo đã có 708 chiến sĩ cộng sản hy sinh. Ở nhà tù Sơn La trong vòng tám tháng năm 1933 đã có
31
43 tù nhân bị giết hại. Dù bị mọi cực hình tra tấn hay lúc cổ kề máy chém, các chiến sĩ cộng sản vẫn kiên trung, bất khuất, nêu cao khí tiết của người cộng sản, kiên quyết bảo vệ Đảng, giữ vững ý chí chiến đấu. Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, các chiến sĩ
cộng sản đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để học tập lý luận, rèn đúc ý chí đấu tranh. Hồ Chí Minh đã nói: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”1. Các đảng viên thoát khỏi sự vây bắt của địch, kiên trì dựa vào sự che chở, đùm bọc của quần chúng cách mạng, bí mật hoạt động khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng, củng cố và phát triển phong trào quần chúng.
Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Thái Lan... đã tích cực giúp đỡ những người cộng sản ở Đông Dương. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên còn lại ở trong nước và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, bản
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.402.
32
Chương trình hành động của Đảng và các chương trình hành động của các tổ chức quần chúng được công bố. Chương trình hành động của Đảng đã đánh giá hai năm đấu tranh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng và khẳng định: con đường giải phóng duy nhất của nhân dân Đông Dương chỉ là con đường võ trang tranh đấu của quần chúng thôi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Đông Dương sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những nhiệm vụ phản đế và điền địa để tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Để lãnh đạo quần chúng đấu tranh thích hợp với những điều kiện lịch sử mới, Chương trình hành động của Đảng nêu ra các yêu cầu trước mắt:
1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại.
2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.
3. Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. 4. Bỏ độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện. Dựa theo Chương trình hành động của Đảng, các tổ
chức cơ sở đảng đã sử dụng các hình thức tổ chức thích hợp để tập hợp quần chúng và qua đó mà giáo dục, tổ chức quần chúng đấu tranh dưới các hình thức khác nhau. Một điều đặc sắc là đa số các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo đều giành được thắng lợi hoàn toàn hoặc từng phần, khiến cho quần chúng thêm hăng hái đấu tranh.
33
Về mặt tổ chức đảng, các đảng viên của Đảng đã bám sát dân, duy trì cơ sở đảng ở Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Cao Bằng, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở
Nam Bộ. Nhiều tỉnh ủy, thành ủy lần lượt được khôi phục. Các xứ ủy Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ cũng được lập lại. Xứ ủy Lào cũng được thành lập vào tháng 3-1934...
Tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài (còn gọi là Ban Lãnh đạo hải ngoại) của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, gồm có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt, do Lê Hồng Phong là Thư ký, làm chức năng của một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Ban này có nhiệm vụ
tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại ở trong nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng.
Trên cơ sở thắng lợi của cuộc đấu tranh để phục hồi tổ chức quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng trên toàn Đông Dương, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã triệu tập Đại hội Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp ở phố Quan Công - Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ
chức của Đảng hoạt động ở ngoài nước, trong đó có hai đại biểu của Đảng bộ Bắc Kỳ, hai đại biểu của Đảng bộ Trung Kỳ, ba đại biểu của Đảng bộ Nam Đông Dương,
34
một đại biểu Đảng bộ Lào, ba đại biểu cho các đảng viên hoạt động ở Thái Lan, hai đại biểu của Ban Chỉ huy ở ngoài. Trong thời gian này, sau khi thoát khỏi nhà tù của đế quốc Anh ở Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc đã sang Liên Xô và vào học Trường Quốc tế Lênin - trường dành cho cán bộ lãnh đạo các đảng cộng sản và công nhân châu Âu và Bắc Mỹ. Lê Hồng Phong - Trưởng Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng cùng với Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn đi Mátxcơva dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.
Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục. Đó là một thắng lợi to lớn của Đảng. Các cuộc đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo trong khoảng vài năm qua đều giành được thắng lợi ở
mức độ khác nhau, khiến cho quần chúng công nông thêm hăng hái đấu tranh. Song, hệ thống tổ chức của Đảng chưa thật thống nhất, sự liên lạc giữa các cấp bộ chưa thật thông suốt, tổ chức cơ sở của Đảng chưa được phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp... Đại hội đã nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng:
1. Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một cơ sở vững chắc của Đảng; đồng thời, phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ
35
quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và hữu khuynh1, giữ vững kỷ luật của Đảng.
2. Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng. “Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... muốn đưa cao trào cách mạng mới lên tới trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến, lập nên chính quyền Xôviết, thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời”2.
3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc...
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc thiểu số... và Điều lệ của Đảng, điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.
Điều lệ mới của Đảng do Đại hội thông qua bao gồm các vấn đề: tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, đảng viên, tổ
__________
1, 2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.23-26, 26.
36
chức đảng, dân chủ và kỷ luật của Đảng, tài chính, đảng đoàn, thanh niên cộng sản đoàn.
Đại hội đã quyết định bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gồm 13 ủy viên (song chỉ có 12 người, còn một ủy viên khác là chấp ủy viên địa phương Trung Kỳ sẽ chỉ định sau). Ban Thường vụ gồm 5 người, Lê Hồng Phong là Tổng Bí thư.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cử Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Mặc dù Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, song Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng vẫn được duy trì do Hà Huy Tập là Thư ký tiếp tục hoạt động và kịp thời thay thế khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị
địch đánh phá không thể tiếp tục chỉ đạo phong trào quần chúng trong nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến Trung ương. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới với một đội ngũ đã được tôi luyện. Song, Đại hội chưa tổng kết được những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là một số vấn đề thuộc về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương, chưa vượt qua được những hạn chế có tính lịch sử của tư tưởng “tả” khuynh để có sự điều chỉnh mới cho phù hợp với hoàn cảnh của Đông Dương - một thuộc địa của
37
thực dân Pháp, nơi yếu tố dân tộc là yếu tố chi phối quyết định đặc điểm và tính độc đáo của cách mạng; hơn nữa thời cuộc thế giới và trong nước đã có những chuyển biến mới, nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc chủ nghĩa nên không đề ra được sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược thích hợp. Mãi đến khi có Nghị quyết của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, Đảng mới bắt đầu khắc phục được những hạn chế trên.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I trở đi đã có biết bao chuyển biến to lớn diễn ra trên thế giới cũng như ở Đông Dương. Ban Chấp hành Trung ương Đảng - cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng chịu trách nhiệm trước toàn Đảng vạch ra chủ trương, chính sách, lãnh đạo và tổ chức phong trào quần chúng đưa cách mạng Đông Dương tiến lên những bước phát triển mới.
Để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, tháng 4-1935, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định đưa Ban Thường vụ về Sài Gòn vào tháng 5-1935. Song, do kế hoạch bị lộ, địch ráo riết khủng bố nên kế hoạch đó không thực hiện được.
Sau Đại hội, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục hoạt động, công tác tại Liên Xô. Một số ủy viên Trung ương lần lượt về nước đã bị địch bắt, số còn lại không liên lạc được với nhau. Hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương gặp khó khăn lớn.
38
Tháng 7-1936, sau một thời gian ở lại công tác tại Liên Xô, Lê Hồng Phong đã về Thượng Hải (Trung Quốc). Ngày 26-7-1936, tại Thượng Hải, một cuộc Hội nghị Trung ương đã họp do Lê Hồng Phong chủ trì. Tham dự Hội nghị có Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên. Hội nghị đã xác định chủ trương mới của Đảng về các vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của Đảng và nhân dân Đông Dương là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng phải lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi những quyền lợi hằng ngày, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, và để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển.
Hội nghị cũng quyết định chuyển hướng hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng liên hệ với quần chúng, giáo dục và tổ chức quần chúng đấu tranh bằng các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp. Chủ trương chuyển hướng của Trung ương Đảng đáp ứng yêu cầu cơ bản của quần chúng nên đã dấy lên một cao trào đấu tranh dân chủ rộng rãi trên toàn Đông Dương.
39
Hà Huy Tập được Hội nghị bầu làm Tổng Bí thư của Đảng và cử về nước để tổ chức Ban Chấp hành Trung ương và khôi phục liên lạc với các tổ chức của Đảng.
Ngày 12-10-1936, tại Nam Kỳ, Hà Huy Tập đã tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trung ương đã tìm cách khôi phục các mối liên lạc với Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Miên. Việc thống nhất các tổ chức đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ được chính thức thực hiện tại Hội nghị cán bộ tháng 3-19371.
Ngày 30-10-1936, Đảng Cộng sản Đông Dương công bố văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới. Văn kiện nêu rõ: “chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xôviết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của cuộc cách mạng trong giai đoạn này”2.
Nhiệm vụ trước mắt là lập “Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi... bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ. Tự do hội hiệp, tổ chức, tự do ngôn luận, xuất bản; tự do đi lại, xuất dương, ân xá hết chính trị phạm, ngày làm việc 8 giờ;
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.300, 139.
40
các luật lao động cho thợ thuyền; mở rộng các cơ quan kinh tế, tài chính, hội đồng quản hạt, các viện dân biểu, v.v. thành cơ quan tuyển cử theo lối dân chủ, thành chế độ dân chủ hội nghị,...”1 nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc.
Văn kiện nêu rõ: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng. Vì rằng tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc nếu việc tranh đấu chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước đánh đổ đế quốc rồi sau giải quyết vấn đề điền địa, nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế liên tiếp giải quyết vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động...
Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để
tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”2.
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.144, 152.
41
“Đảng nhắc lại cho các đảng viên biết rằng một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương vấn đề dân tộc giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản...
Đảng có thể bồi dưỡng một tinh thần dân tộc giải phóng mạnh mẽ trong đám dân chúng bị áp bức... theo nguyên tắc dân tộc bình đẳng, theo tinh thần quốc tế liên ái với các dân tộc bị áp bức, với vô sản thế giới và với nhân dân những xứ cách mạng đã thành công”1.
Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng của giai cấp vô sản Đông Dương. Đông Dương là một thuộc địa, công nghệ kém cỏi, thợ thuyền ít, nông dân và tiểu tư sản chiếm phần đông, nhiệm vụ của Đảng không những phải thu phục đa số thợ thuyền, mà còn cần phải thu phục quảng đại quần chúng nông dân và tiểu tư sản thành thị. Những người cộng sản Đông Dương chính là những người con ưu tú của các dân tộc ở Đông Dương, thành tâm đấu tranh vì quyền lợi của quảng đại quần chúng, của Tổ quốc đồng bào sống trên bán đảo Đông Dương. Trong điều kiện đó, Đảng Cộng sản Đông Dương phải là “đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiền phong cho cuộc dân tộc giải phóng”2.
Thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng đã diễn ra phong phú và đa dạng đòi hỏi Trung ương Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để chỉ đạo phong trào.
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.147, 156.
42
Ngày 13 và ngày 14-3-1937, Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định những chủ trương về tổ chức Mặt trận thống nhất, tổ chức các hội quần chúng, tổ chức đảng,...
Tiếp đó, trong hai ngày 2 và 3-9-1937, Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng1 nhận định: Đảng đã khôi phục lại hệ thống khắp Bắc, Trung, Nam thành một tổ chức thống nhất về chính trị và tổ chức. ảnh hưởng của Đảng phát triển nhanh chóng và chính sách của Đảng thích hợp với các điều nhu yếu của các tầng lớp nhân dân.
Hội nghị xác định: trong giai đoạn hiện tại, ta chưa ở vào tình thế trực tiếp cách mạng mà ở vào thời kỳ đấu tranh đòi các điều cải cách và đòi những điều tự do dân chủ cho toàn thể nhân dân, nên Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh phải tránh những hành động kịch liệt, bạo động, có thể khiêu khích quân thù khủng bố vô ích; phải tùy theo tinh thần, lực lượng quần chúng và thái độ của kẻ thù để quyết định mức độ đấu tranh; phải biết giữ gìn và phát triển lực lượng quần chúng; phải biết kết thúc cuộc đấu tranh đúng lúc để giữ lấy ảnh hưởng của phong trào.
__________
1. Thời gian tiến hành hội nghị này, các tài liệu ghi không giống nhau. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào Báo cáo của Hội nghị toàn thể Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban Trung ương Quốc tế Cộng sản. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.299.
43
Vào thời gian này, việc tổ chức lại các tổ chức đảng và tổ chức quần chúng phát triển khá nhanh, nhất là nhờ hoạt động của các đảng viên cộng sản từ các nhà tù được ân xá sau thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp. Về đảng viên, chỉ tính riêng hoạt động bất hợp pháp, ở cả
Bắc, Trung, Nam đã có 925 người, trong đó Nam Kỳ có 590 đảng viên. Phần đông các tỉnh đã có tổ chức đảng. Ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã có xứ ủy. Ở Trung Kỳ chưa có điều kiện tổ chức lại xứ ủy nên các tổ chức đảng ở Thanh, Nghệ, Tĩnh đặt dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ương đã lập ra một ủy ban liên tỉnh để lãnh đạo hoạt động của các tỉnh khác. Ban Chấp hành Trung ương gồm có 11 người, trong đó Ban Thường vụ là 5 người. Đây là hạt nhân lãnh đạo phong trào dân chủ sôi
nổi trong toàn quốc trên tất cả các mặt trận đấu tranh. Để đẩy mạnh hơn nữa việc tập hợp quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong hai ngày 29 và 30-3-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định thực hiện Mặt trận thống nhất dân chủ1, coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Về tổ chức, Đảng phải củng cố những cơ sở đã có, lập thêm cơ sở mới, chú trọng phát triển cơ sở đảng ở các châu, thành, các đồn điền, các vùng kỹ nghệ tập trung. Các cơ sở tổ chức dù hoạt động công khai hay bí mật đều phải
__________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.349.
44
phục tùng cơ quan chỉ huy của Đảng ở các cấp. Tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập1.
Theo báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, ở Nam Kỳ có 655 đảng viên, ở Trung Kỳ có 740 đảng viên và ở Bắc Kỳ có 202 đảng viên. Về tổ chức ở ba kỳ đều có xứ ủy. Ở Nam Kỳ, có 4 liên tỉnh ủy, 11 tỉnh ủy và 122 chi bộ. Ở Trung Kỳ có các tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ở Bắc Kỳ có các đảng bộ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, Cao Bằng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm có 11 ủy viên, trong đó có 9 ủy viên hoạt động ở trong nước còn 2 ủy viên hoạt động ở ngoài nước2.
Cuộc vận động dân chủ của Đảng trong những năm 1936 - 1939 diễn ra sôi nổi, rộng lớn đã chứng minh chủ trương chuyển hướng mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng, hợp với ý nguyện của nhân dân, phù hợp với tình hình đất nước.
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đã thi hành chính sách kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với bọn thực dân Pháp càng trở nên gay gắt. Vấn đề mất còn của các dân tộc ở Đông Dương đặt ra một cách cấp thiết.
__________
1, 2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.370, 369.
45
Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) dưới sự chủ trì của Nguyễn Văn Cừ. Dự Hội nghị có Lê Duẩn, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, v.v.. Hội nghị quyết định điều chỉnh chiến lược cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Lúc này, “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”1. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết. Khẩu hiệu cách mạng ruộng đất phải tạm gác lại và thay bằng khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc đem chia cho dân cày nghèo. Để thực hiện nhiệm vụ chính trị ấy phải lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị chủ trương Đảng phải kiên quyết tập trung mũi nhọn các cuộc đấu tranh của quần chúng vào
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.536.
46
việc chống đế quốc và tay sai, chuẩn bị tiến tới làm cuộc bạo động cách mạng để giải phóng dân tộc. Hoạt động trong điều kiện chế độ thống trị của Pháp - Nhật ở Đông Dương đã phát xít hóa, cho nên tổ chức của Đảng, đặc biệt là cơ quan đầu não của Đảng, luôn bị địch đánh phá ác liệt. Trong vòng một năm, kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, gần như hầu hết ủy viên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bị địch bắt. Tháng 11-1940, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị bàn về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Đông Dương. Hội nghị tiếp tục khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị cuộc “võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”. Tình hình chính trị quốc tế Đông Dương diễn ra rất khẩn trương. Phát xít Đức ráo riết chuẩn bị tấn công Liên Xô. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến ở Đô Lương bùng nổ là “những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương”.
Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Dự Hội nghị có Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại biểu của các xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ... do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
47
Hội nghị xác định mâu thuẫn chủ yếu đang diễn ra sâu sắc trên bán đảo Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Do đó, trong lúc này “khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1. Hội nghị tiếp tục nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công cho công bằng, giảm tô và giảm tức.
Nhằm khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần dân tộc, ý chí độc lập tự cường của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hội nghị chủ trương vấn đề dân tộc phải được giải quyết trong từng nước. Vì thế, phải thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Đó là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh, Cao Miên độc lập đồng minh. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp - Nhật thì các dân tộc
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.112-113.
48
sống trên cõi Đông Dương sẽ tự mình quyết định lấy vận mệnh của mình. Nền độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận. Riêng đối với dân tộc Việt Nam sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kỳ.
Công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được coi là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn này. Trong quá trình chuẩn bị để tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận khi có thời cơ để
mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa toàn quốc. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng chính thức, trong đó Ban Thường vụ gồm có Trường Chinh là Tổng Bí thư, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt là Ủy viên Ban Thường vụ.
Nhân dịp Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”1.
Giữa lúc nhân dân ta đang tích cực phát triển lực lượng gấp rút “sắm vũ khí đuổi thù chung” thì đêm 9-3-1945, phát xít Nhật gây ra cuộc đảo chính lật đổ Pháp ở Đông Dương. Cũng ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại Đình Bảng
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230.
49
(Từ Sơn, Bắc Ninh). Ban Thường vụ xác định kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân các dân tộc ở Đông Dương là phát xít Nhật, nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân” để chống lại chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật và phát động một cao trào kháng Nhật, cứu
nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra sôi nổi, phong phú về nội dung và hình thức. Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện. Cơ hội ngàn năm cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã đến. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào - Sơn Dương - Tuyên Quang, gồm có đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu của Đảng hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong khởi nghĩa là phải chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, phải phối hợp quân sự với chính trị, phải làm tan rã tinh thần quân địch, dụ chúng ra hàng trước khi đánh.
Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về đối nội và đối ngoại cần thi hành ngay sau khi giành được chính quyền: thi hành 10 chính sách lớn của
50
Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng; thực hiện chính sách thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng và hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số ủy viên: Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Vũ Anh và Võ Nguyên Giáp.
Tiếp theo Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16-8- 1945, Đại hội đại biểu quốc dân đã khai mạc tại Tân Trào. Đại hội đã nghe báo cáo của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng về hai vấn đề lớn: tổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ phát xít Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng ở địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Đại hội đã nhất trí chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, của Tổng bộ Việt Minh, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Quốc dân đại hội Tân Trào là một biểu hiện sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực hiện từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Quốc dân đại hội đại diện cho toàn dân Việt Nam thông qua
51
quyết sách chuyển xoay vận nước bằng tổng khởi nghĩa giành lấy độc lập tự do, dựng lên một chính quyền cách mạng của dân, do dân và vì dân.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”1.
Độc lập tự do - tư tưởng cách mạng chủ yếu của Hồ Chí Minh - được phác thảo trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã được thể hiện bằng chủ trương tiến hành cách mạng giải phóng của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) và chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh biến thành hiện thực cách mạng bằng sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3.
52
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG (THÁNG 2-1951)
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đưa nhân dân Việt Nam từ người dân nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, tự mình quyết định vận mệnh lịch sử của mình. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành một đảng nắm chính quyền trong toàn quốc. Song, vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đương đầu với những thế lực đế quốc quốc tế và bọn phản động trong nước cấu kết với nhau để hòng tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn”... Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”... “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh
53
vào chúng”1. Trước mắt, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc và nhiều chỉ thị quan trọng khác của Trung ương Đảng chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân ta là củng cố và bảo vệ
chính quyền cách mạng. Nhờ có chủ trương đúng đắn và nhiều quyết sách kịp thời và sáng tạo, dũng cảm và sáng suốt, Đảng đã cứu vãn được tình thế, giữ vững chính quyền, tranh thủ từng phút hòa bình để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã bội ước, khiêu khích và tấn công ta về quân sự, lần lượt đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đến ngày 18-12-1946, chúng đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước khí giới, đòi để cho chúng kiểm soát Thủ đô Hà Nội.
Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp khẩn cấp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạ quyết tâm chiến lược tiến hành kháng chiến trên quy mô cả
nước và vạch ra những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.26.
54
Đêm 19-12-1946, cả nước đã nhất tề đứng lên chiến đấu với tinh thần quyết tử và một niềm tin tất thắng theo lời kêu gọi kháng chiến của Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước...
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”1. Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến phác họa một số điểm vắn tắt về đường lối, chủ trương, chính sách kháng chiến của Đảng. Chỉ thị nêu rõ mục đích của cuộc kháng chiến là “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”; tính chất của kháng chiến là trường kỳ, toàn diện; kháng chiến ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công; chính sách kháng chiến: cách đánh, chương trình kháng chiến, cơ quan lãnh đạo kháng chiến; khẩu hiệu tuyên truyền
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534.
55
trong kháng chiến, v.v. nhằm hướng dẫn các cấp bộ đảng thực hiện.
Điều cơ bản có tính quyết định lúc bấy giờ là Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh biết hạ quyết tâm chiến lược phát động kháng chiến đúng lúc và xác định đúng những quan điểm cơ bản trong đường lối kháng chiến là chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài và nhất định thắng lợi. Thông qua thực tiễn lãnh đạo và tổ chức toàn dân, toàn quân bằng mọi vũ khí chiến đấu chống giặc, Đảng từng bước bổ sung đường lối, xây dựng và phát triển đường lối chiến tranh, khoa học và nghệ thuật quân sự để chiến thắng kẻ thù. Từ năm 1947 trở đi, Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị cán bộ Trung ương cũng như hội nghị cán bộ quân sự để triển khai chỉ đạo kháng chiến.
Từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (mở rộng) họp ở Việt Bắc. Hội nghị nhận định: chiến dịch Việt Bắc đã mang lại cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc ta một chuyển biến mới. Nó đang đẩy ta chuyển sang giai đoạn cầm cự, giai đoạn thứ hai. Vì vậy, Trung ương Đảng quyết định đề ra nhiều biện pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xây dựng Đảng nhằm thúc đẩy kháng chiến tiến lên giai đoạn mới.
Từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949, Hội nghị cán bộ Trung ương họp ở Việt Bắc. Đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng đã đọc báo cáo Về tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công. Hội nghị cũng đã nghe các
56
báo cáo về nhiệm vụ quân sự, về củng cố chính quyền nhân dân, về công tác mặt trận và dân vận, về những nhiệm vụ kinh tế, về tình hình Đảng và kế hoạch công tác nội bộ, chuẩn bị Đại hội Đảng. Đại hội Đảng sẽ: sửa đổi chính cương, điều lệ, đúc kết kinh nghiệm toàn quốc về mọi mặt (quân sự, chính quyền, dân vận, Đảng) và định rõ nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn mới của kháng chiến và bầu Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị quyết định các nhiệm vụ và biện pháp thực hiện kế hoạch chiến lược “tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công”.
Trước những biến chuyển của tình hình quốc tế, nhất là thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng. Tại Hội nghị, đồng chí Trường Chinh đọc báo cáo Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công; đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc báo cáo Về nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công. Trên cơ sở đánh giá tình hình, Hội nghị quyết định “cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sức giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, trước mưu mô của đế quốc Mỹ - Anh, mà gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công trong năm 1950 này”1. “Ta phải tích cực phát huy khả
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.11, tr.199.
57
năng của ta, triệt để lợi dụng nhược điểm của địch, làm cho thế lực của ta lớn mạnh hơn, để trong năm 1950 ta có thể chuyển sang tổng phản công được”1. Muốn chuyển sang tổng phản công, ta cần chiếm ưu thế về
quân sự trên chiến trường chính, trong khi ở các chiến trường khác, ta đủ sức kiềm chế địch. Ưu thế quân sự đó phải được giữ vững và phát triển để tiếp tục phản công cho đến toàn thắng... Mục đích của tổng phản công là: tiêu diệt sinh lực của địch; thu hồi toàn bộ lãnh thổ
của Tổ quốc và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng2. Để thực hiện nhiệm vụ chiến lược chuyển sang tổng phản công, Hội nghị quyết định phải thực hiện nhiệm vụ quân sự, trước mắt là chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân; củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và công tác dân vận; củng cố chính quyền nhân dân; tổng động viên toàn lực, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để chiến thắng!” và “Thi đua ái quốc”; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Hội nghị toàn quốc của Đảng, bên cạnh những thành tích to lớn, nhiều ngành, nhiều địa phương đã phạm những khuyết điểm, sai lầm trong công tác xây dựng
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.11, tr.200.
2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.11, tr.200.
58
lực lượng quân sự, trong thực hiện phương châm tác chiến, trong công tác tổng động viên, v.v.. Sai lầm có tính chất phổ biến trong nhiều ngành, nhiều cấp là do sự chi phối của khuynh hướng chủ quan duy ý chí, “tả” khuynh, nóng vội của Hội nghị toàn quốc của Đảng trong việc hạ quyết tâm chiến lược chuyển sang giai đoạn tổng phản công năm 1950. Vào giữa năm 1950, Trung ương Đảng đã phát hiện những khuynh hướng sai lầm chủ quan nóng vội trên, cho nên đã kịp thời có chủ trương uốn nắn, sửa chữa. ý thức kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính tiếp tục được quán triệt. Mọi mặt trận kháng chiến tiếp tục phát triển vững chắc và tiến lên giành những thắng lợi to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II vào đầu năm 1951.
Kể từ Đại hội I đến Đại hội II của Đảng đã trải qua hơn 15 năm với biết bao biến đổi đã diễn ra trên thế giới và Đông Dương. Cách mạng và kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Thực tiễn phong phú của cách mạng đòi hỏi Đảng phải tổng kết, khẳng định và bổ sung hoàn chỉnh về đường lối. Từ năm 1930 đến năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tình hình xã hội, kinh tế, chính trị của mỗi nước có những thay đổi khác nhau. Cách mạng và kháng chiến của mỗi nước cũng có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình
59
đó đòi hỏi mỗi nước cần phải và có thể thành lập một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng được triệu tập nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết đó.
Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang trong 19 ngày. Những ngày họp trù bị, Đại hội đã thảo luận, bổ sung Dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho Đại hội trù bị, chỉ rõ: “Đại hội ta là Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Vậy việc thảo luận cần đặt trọng tâm vào hai việc đó”1. Đại hội họp công khai từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Thái Lan.
Sau Diễn văn khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương và các
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.15.
60
báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính và về văn nghệ. Ngoài ra còn một số tham luận khác.
Báo cáo chính trị đã khái quát những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước những năm nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau. Về quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng trong 20 năm qua, báo cáo đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng và những bài học kinh nghiệm của các thời kỳ vận động cách mạng của Đảng. Thắng lợi của cách mạng và kháng chiến đã khẳng định đường lối, chính sách của Đảng nói chung là đúng; cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ dũng cảm, tận tụy hy sinh, được quần chúng tin yêu... Song, chúng ta có những khuyết điểm cần sửa chữa như học tập chủ nghĩa Mác - Lênin còn yếu, tư tưởng cán bộ chưa vững vàng, công tác tổ chức, lề lối làm việc còn chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần. Để khắc phục những khuyết điểm trên, Đảng phải tìm cách giáo dục, phổ biến chủ
nghĩa Mác - Lênin để nâng cao tư tưởng chính trị cho đảng viên, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, đề cao tinh thần kỷ luật, tính nguyên tắc của đảng viên, mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan đoàn thể, trên báo chí cho đến nhân dân một cách thường xuyên, thiết thực, dân chủ và phải có sự kiểm tra chặt chẽ.
61
Căn cứ vào sự phân tích cụ thể tình hình thế giới và trong nước, báo cáo nêu lên khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới.
Bản báo cáo cũng nêu lên mấy nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của chúng ta:
1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. 2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, cần phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về mọi mặt, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất; phát huy tinh thần yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc, triệt để giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân và Việt gian chia cho dân cày nghèo, bảo vệ
nền tảng kinh tế, tài chính của ta, đấu tranh kinh tế với địch, thực hiện công bằng hợp lý về thuế khóa; tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Cao Miên và Lào, tiến tới thành lập Mặt trận thống nhất Việt - Miên - Lào, v.v..
Muốn làm tròn nhiệm vụ trên, cần phải có một đảng hoạt động công khai, tổ chức phải phù hợp với tình hình thế giới và trong nước để lãnh đạo toàn dân kháng chiến đến thắng lợi. Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Mục đích trước mắt của Đảng là đoàn kết lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện nền dân chủ mới, chuẩn bị điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội.
62
Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”1.
Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua nghị quyết khẳng định: đường lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng, Đảng cần kiện toàn thêm sự lãnh đạo kháng chiến, tập trung lực lượng lớn hơn nữa để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; phải xây dựng Đảng Lao động Việt Nam có chính cương, điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam...
Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặc dù ba dân tộc Việt Nam, Lào, Cao Miên cùng ở trên bán đảo Đông Dương, cùng đấu tranh chống kẻ thù chung, có một lịch sử đấu tranh cách mạng gắn bó mật thiết với nhau, song tình hình mới đòi hỏi phải đặt vấn đề cách mạng mỗi nước khác nhau cho nên đồng chí Trường Chinh chỉ trình bày trước Đại hội về vấn đề
cách mạng Việt Nam. Còn cách mạng Lào và cách mạng Cao Miên sẽ được nêu ra trong một báo cáo khác.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.
63
Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam đã phân tích tính chất của xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp là một xã hội phát triển không đều, một xã hội có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Trong lòng xã hội ấy chứa chất những mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược; mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với địa chủ phong kiến; mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược là chính. Nó đang diễn ra dưới hình thức quyết liệt là chiến tranh. Cho nên, đối tượng chính của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp, can thiệp Mỹ) và bù nhìn Việt gian phản nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ, phong kiến phản động và tư sản mại bản. Kẻ thù số một của cách mạng Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gian phản nước, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất; xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...
Nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến khăng khít với nhau. Lúc này phải tập trung mọi lực
64
lượng để kháng chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc... Nhiệm vụ phản phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ phản đế, nhưng làm có kế hoạch, từng bước một, để vừa đoàn kết kháng chiến, vừa bồi dưỡng lực lượng cách mạng đặng mau tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc”1.
Phân tích thái độ các giai cấp trong xã hội Việt Nam đối với các nhiệm vụ cách mạng, bản báo cáo sắp xếp lực lượng cách mạng ở Việt Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, rồi đến giai cấp tư sản dân tộc. Ngoài ra là những cá nhân thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ hiện đứng vào hàng ngũ nhân dân. Những giai cấp đó hợp thành nhân dân, mà công nông là nền tảng. Động lực2 của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công nông. Giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng minh trung thành và lớn mạnh nhất của giai cấp công nhân. Tiểu tư sản là bạn đồng minh tin cậy. Tư sản dân tộc là bạn đồng minh có điều kiện.
Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến, do nhân dân làm động lực và giai cấp công nhân
__________
1. Trường Chinh: Bàn về cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xuất bản, 1952, tr.55 - 56. 2. Khái niệm "động lực" trong những lần xuất bản sau này của cuốn Bàn về cách mạng Việt Nam được đồng chí Trường Chinh sửa lại thành "lực lượng" (T.G).
65
lãnh đạo, là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thấm nhuần quan điểm của Lênin: không qua nhiều bước quá độ, nhiều trình độ khác nhau thì không thể biến cách mạng dân chủ tư sản ở một nước lạc hậu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa được, báo cáo xác định: con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta phải trải qua một thời gian dài gồm nhiều giai đoạn. Thời gian dài đó tùy theo sự thay đổi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, tùy theo những biến hóa trong hàng ngũ kẻ thù và bạn đồng minh của giai cấp công nhân.
Báo cáo chỉ rõ: “Trong hoàn cảnh chính quyền dân chủ nhân dân tồn tại và được củng cố, những giai đoạn cách mạng sẽ kế tục nhau một cách thuận lợi”1.
“Giai đoạn thứ nhất hiện nay là một cuộc bùng nổ cách mạng kéo dài (kháng chiến). Những giai đoạn sau có thể là những quá trình cải cách vừa ôn hòa, vừa bạo lực dưới chính quyền dân chủ nhân dân... Sau khi đánh bại bọn đế quốc xâm lược, chính quyền nhân dân sẽ có thể và phải thi hành một loạt cải cách mạnh bạo, hay nói cho đúng hơn, một loạt cải biến cách mạng, dựa trên sự ủng hộ nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Dưới chính quyền nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhiều cuộc cải biến tiếp tục và lần lần, cộng lại
__________
1. Trường Chinh: Bàn về cách mạng Việt Nam, Sđd, tr.84. 66
cũng dẫn đến một kết quả quan trọng ngang như một cuộc cách mạng”1.
Sau khi “Chủ nghĩa đế quốc xâm lược bị tiêu diệt và những di tích phong kiến, nửa phong kiến bị xóa bỏ thì nhất định kinh tế quốc dân sẽ phát triển mạnh. Hai nhân tố kinh tế, nhân tố tư bản chủ nghĩa và nhân tố xã hội chủ nghĩa... lúc đó sẽ đồng thời nảy nở. Song nước Việt Nam sẽ không qua một thời đại phát triển tư bản êm đềm mà phát triển trong cuộc đấu tranh giữa hai nhân tố nói trên. Vì có chính quyền nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, nên nhân tố xã hội chủ nghĩa sẽ thắng nhân tố tư bản chủ nghĩa... Tóm lại, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta sẽ quanh co và dài. Không thể nói đến triệt để cải tạo xã hội, xóa bỏ chế độ người bóc lột người ngay một lúc”2.
Báo cáo nêu ra 12 chính sách của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: 1- Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất; 2- Thi hành từng bước chính sách ruộng đất, xóa bỏ các hình thức bóc lột phong kiến và nửa phong kiến; 3- Xây dựng, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân về chính trị, kinh tế và văn hóa, chuẩn bị tiến lên giai đoạn cách mạng xã
__________
1, 2. Trường Chinh: Bàn về cách mạng Việt Nam, Sđd, tr.82, 83.
67
hội chủ nghĩa; 4- Củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc xâm lược; 5- Xây dựng và phát triển quân đội nhân dân; 6- Xây dựng chính sách dân tộc; 7- Chính sách đối với tôn giáo; 8- Chính sách đối với vùng tạm bị chiếm; 9- Chính sách đối với ngoại kiều; 10- Chính sách đối ngoại; 11- Ra sức ủng hộ cách mạng Lào và Cao Miên; 12- Tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và độc lập dân tộc của nhân dân thế giới.
Bản báo cáo dành một phần quan trọng nói về công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng.
Bản Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam gồm ba chương: Chương I- Thế giới và Việt Nam; chương II Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam; chương III Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
Về cách mạng Việt Nam, Chính cương nêu rõ: “1. Hiện nay cách mạng Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam và những thế lực phản động, khiến cho chế độ ấy phát triển mạnh mẽ và thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thế lực phản động chính đang ngăn cản sự phát triển của xã hội Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Những di tích phong kiến cũng làm cho xã hội
68
Việt Nam đình trệ. Do đó cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ
thể lúc này là phong kiến phản động.
2. Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược.
3. Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân.
...
5. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội... “Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ
69
chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ
dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập trung lực lượng vào đó mà thực hiện”1.
Điều lệ mới của Đảng gồm có phần mục đích và tôn chỉ, 13 chương và 71 điều. Điều lệ xác định rõ mục đích của Đảng là phấn đấu để “phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam”2. Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một đảng vô sản kiểu mới. Điều lệ đã nêu ra những quy định chặt chẽ về việc kết nạp đảng viên, về nhiệm vụ học tập lý luận của đảng viên, về chế độ đề cao kỷ luật và dân chủ trong
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.435, 444.
70
Đảng và việc khuyến khích giúp đỡ quần chúng phê bình chủ trương, chính sách của Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên.
Bản Điều lệ mới do Đại hội thông qua là một bước tiến mới trong công tác xây dựng Đảng. Đây là một trong những cơ sở để tăng thêm sức mạnh đoàn kết chiến đấu và tính tiên phong cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu hợp thức trong một đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội, bổ sung thêm các chủ trương, chính sách mới cho thích hợp với những biến đổi mới của tình hình, để biến Nghị
quyết của Đại hội thành hiện thực đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Ngày 3-3-1951, tại buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: mục đích của Đảng có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc. Nhiệm vụ của Đảng là kiên quyết lãnh đạo toàn dân đi đến: Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
71
Đảng viên của Đảng gồm những người mà: - Giàu sang không thể quyến rũ,
- Nghèo khó không thể chuyển lay,
- Uy lực không thể khuất phục1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng ra công khai hoạt động với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, có cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước có ý nghĩa quyết định đưa kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi ngày càng lớn. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân thêm gắn bó và sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt kháng chiến càng thêm thuận lợi. Sức mạnh của Đảng được tăng cường. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được gọi là Đại hội kháng chiến.
Trong quá trình chấp hành Nghị quyết Đại hội II của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề do yêu cầu thực tiễn của cuộc kháng chiến đề ra trên tất cả các mặt của cuộc kháng chiến.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào trung tuần tháng 3-1951, nhằm giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và cung cấp cho quân đội.
__________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.49-50. 72
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, đã ra nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ chung; Về công tác củng cố nội bộ; Về nhiệm vụ quân sự; Về nhiệm vụ
kinh tế, tài chính trước mắt... Đặc biệt, Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá, xác định nhiệm vụ và phương châm công tác vùng tạm bị chiếm và vùng du kích nhằm đưa phong trào đấu tranh của nhân dân vùng sau lưng địch tiến lên kịp với đà phát triển chung của cuộc kháng chiến.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 22 đến ngày 28-4-1952, đã đặt ra các bốn nhiệm vụ chính: đẩy mạnh sản xuất; đẩy mạnh đấu tranh vùng sau lưng địch; nâng cao sức chiến đấu của quân đội và xây dựng Đảng. Đảng coi công tác chỉnh Đảng, chỉnh quân là công tác trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng quân đội. Hội nghị này có ý nghĩa rất to lớn trong việc tăng cường sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 30-1-1953, đã kiểm điểm về tình hình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và đi đến quyết định: “Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở
Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở
73
hữu ruộng đất của nông dân”1. Để chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất, trong năm 1953 chúng ta phải phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, ruộng của đế quốc và Việt gian cho dân nghèo.
Giữa lúc cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 bắt đầu được triển khai, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào trung tuần tháng 11-1953 và Hội nghị cán bộ toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã họp từ ngày 14 đến ngày 23-11-
1953 bàn về nhiệm vụ cải cách ruộng đất. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất và Tổng Bí thư Trường Chinh đọc báo cáo về Thực hiện cải cách ruộng đất, đẩy mạnh kháng chiến và phát triển sản xuất.
Hội nghị quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” trong kháng chiến, thông qua Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề ruộng đất. Cương lĩnh xác định:
“Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, hoàn toàn giải phóng dân tộc.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.129.
74
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc.
Cần phải xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng”1.
Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng theo đường lối của Đảng ở nông thôn: “dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến”2.
Quyết định của Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã gây đà phấn khởi rất lớn khắp hậu phương và tiền tuyến.
Cùng với cuộc tiến công lớn của quân và dân ta trên mặt trận quân sự, nhân dân ta còn đẩy mạnh cuộc tiến công địch trên mặt trận ngoại giao, mở đầu là nội dung các câu trả lời của Hồ Chí Minh với chủ bút báo Expressen (Thụy Điển) ngày 26-11-1953 về tình hình chiến tranh ở Việt Nam và lập trường của Chính phủ
Việt Nam về cách thức lập lại hòa bình ở Việt Nam.
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.499, 502.
75
Những câu trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tiếng vang lớn ở trong nước và thế giới.
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 đã kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại ngày 7-5-1954, đập tan hoàn toàn kế hoạch quân sự của Nava. Hôm sau, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơnevơ về
Đông Dương đã khai mạc trong tình hình mới: thế và lực của cách mạng nước ta lên cao chưa từng thấy. Cuộc đấu tranh của ta trên mặt trận ngoại giao đã diễn ra gay gắt. Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ sáu (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết của Hội nghị nhận định: “Sau chín năm kháng chiến, những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất, cũng như về mặt tài chính kinh tế, văn hóa giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng Đảng, v.v., đã đánh dấu một bước tiến rất lớn của quân và dân ta. Những thắng lợi ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược... chúng ta cũng cần nhận rõ do chiến tranh trường kỳ, nhân dân ta phải đóng góp sức người, sức của cũng nặng. Nếu chiến tranh kéo dài thì có thể sinh ra những hiện tượng mệt mỏi và khó khăn của chúng ta có thể nhiều hơn”1.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.223-224.
76