🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Cương Lĩnh Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
Lª MËu H·n
C¸c c−¬ng lÜnh c¸ch m¹ng cña §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam / Lª MËu H·n, Vâ V¨n BÐ. - T¸i b¶n, cã chØnh söa, bæ sung. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2021. - 244tr. ; 19cm
ISBN 9786045766538
1. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam 2. C−¬ng lÜnh chÝnh trÞ 324.2597075 - dc23
CTH0699p-CIP
BIÊN SOẠN
PGS. LÊ MẬU HÃN Phần dẫn nhập, Cương lĩnh năm 1930, Cương lĩnh năm
1951, Cương lĩnh năm 1991
TS. VÕ VĂN BÉ Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011)
“Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đấu tranh”.
V.I. Lênin
“Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”.
Hồ Chí Minh
5
6
LỜI GIỚI THIỆU
Đảng Cộng sản Việt Nam, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mỗi cương lĩnh của Đảng là một dấu son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Các cương lĩnh cách mạng xác định các quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chính trị, cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đầu năm 1930 là những văn bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh đầu tiên - tuy vắn tắt - nhưng đã xác định được nhiều vấn đề thuộc về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam - một cương lĩnh cách mạng
7
đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn. Độc lập, tự do là tư tưởng chủ yếu, là hòn ngọc quý khảm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, cách mạng Việt Nam đã có một đường lối cách mạng và khoa học - đường lối: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Chính nhờ có cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo đó nên vừa mới ra đời, Đảng: “liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như
mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”.
Giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra quyết liệt, tháng 10/1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị quyết của Trung ương mới về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, công bố bản Dự án Luận cương chánh trị
8
của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú khởi thảo. Dự án Luận cương đã xác định được nhiều vấn đề thuộc về chiến lược của cách mạng Việt Nam. Dự án Luận cương chỉ rõ: Cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất phản đế và điền địa. Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (về sau khái niệm này được Đảng ta phát
triển là “không qua chế độ tư bản chủ nghĩa”). Dưới ánh sáng đường lối cách mạng được xây dựng trên cơ sở Cương lĩnh của Đảng, cả dân tộc đã liên tiếp vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống, quyền độc lập dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, mùa thu năm 1945, bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, nhân dân ta đã đập tan chính quyền thực dân phát xít, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Song vừa mới ra đời, nước cộng hòa non trẻ đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào nội lực là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc của Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đã nhất tề đứng lên kháng chiến. Cuộc kháng chiến diễn ra ngày càng gay go quyết liệt, thế và lực của ta ngày càng mạnh “như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến không có thoái”. Để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, tháng 2/1951, Đảng ta quyết định tiến hành Đại hội lần thứ II của Đảng. Đại hội đã thông qua bản Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Chính cương đã vạch ra những nhiệm vụ cơ bản trước mắt cũng như lâu dài của cách mạng Việt Nam để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công. Chính cương xác định, nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng Việt Nam là “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (7/1954) được ký kết, hòa bình được lập lại ở Việt Nam. Song đất nước ta còn bị tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng miền Nam còn dưới
10
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thực hiện Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”, đồng bào và chiến sĩ cả
nước đã không quản gian khổ, hy sinh kiên cường kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau 21 năm chiến đấu ròng rã, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong 10 năm đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã giành được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng vấp phải những sai lầm nghiêm trọng, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Trước tình hình đó, tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã được triệu tập. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã nghiêm khắc phê bình những sai lầm, thiếu sót trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Cùng với việc vạch ra đường lối đổi mới,
11
Đại hội xác định cần xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Thực hiện chủ trương của Đảng, sau một thời gian soạn thảo và lấy ý kiến của toàn Đảng, toàn dân, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua. Cương lĩnh đã nêu bật những thành tựu cũng như những sai lầm, hạn chế của Đảng trong suốt mấy chục năm lãnh đạo cách mạng, vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn mới. Cương lĩnh chỉ rõ: mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở chính trị, tư tưởng
12
để củng cố và tăng cường hơn nữa khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cờ chiến đấu và thắng lợi của nhân dân ta tiến lên trong thời kỳ mới.
Thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đất nước đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh năm 2011 đã kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991 trên nhiều phương diện, “là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và nhân dân ta trong những thập kỷ tới”.
Nhằm cung cấp tài liệu nghiên cứu cho bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản cuốn sách Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung cuốn sách gồm hai phần:
13
Phần I: Giới thiệu khái quát các cương lĩnh chính trị của Đảng, từ bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng cách mạng và ý nghĩa của mỗi cương lĩnh trong những giai đoạn lịch sử
nhất định.
Phần II: Nguyên văn các bản cương lĩnh chính trị của Đảng từ khi thành lập đến nay, đã được công bố trong văn kiện Đảng.
So với các lần xuất bản trước, trong lần xuất bản này, cuốn sách bổ sung thêm phần giới thiệu bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) và chỉnh sửa, bổ sung một số nội dung khác.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 2 năm 2021
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 14
Phần I
CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG,
NGỌN CỜ DẪN DẮT NHÂN DÂN TA ĐI TỪ THẮNG LỢI NÀY
ĐẾN THẮNG LỢI KHÁC
Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành rất sớm. Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trở thành Tổ quốc thiêng liêng của 54 dân tộc. Yêu nước, cố kết dân tộc, kiên cường bất khuất, nhân ái, thủy chung đã trở thành đạo lý sống, là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị
tinh thần truyền thống của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
15
nước... Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”1.
Giá trị tinh thần truyền thống đó không chỉ là một tình cảm thiêng liêng, một phẩm chất cao quý mà đã được kế thừa và phát triển thành một chủ nghĩa dân tộc, dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt tiến trình lịch sử dân tộc. Đó là động lực tư tưởng và kim chỉ đường cho cuộc đấu tranh sinh tồn và phát triển của dân tộc ta.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Từ năm 1924, Người đã nêu rõ cần phải “bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được..., củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”2. Đối với Việt Nam, Người nói:
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.38.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.509, 510, 513. Xem Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Tài liệu này không ghi tên tác giả, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì tác giả có thể là Hồ Chí Minh, người Việt Nam duy nhất ở
Mátxcơva lúc đó.
16
“Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước... Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản” là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”1. Trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc được xác định trên lập trường của giai cấp công nhân, kết hợp chủ nghĩa dân tộc truyền thống với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. “Đó là “chủ nghĩa dân tộc hướng tới chủ nghĩa cộng sản”. Đây là sự đóng góp lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin và phong trào cách mạng thế giới”2.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam... Đảng là người kế thừa và nâng lên tầm cao mới truyền thống của dân tộc, kết hợp giá trị tinh thần
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.513.
2. Lê Khả Phiêu: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.13-14.
17
Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã trở thành người lãnh đạo duy nhất cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu cao cả và vĩ đại của dân tộc là độc lập tự do. Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam - như Hồ Chí Minh đã nói: “Không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của Tổ quốc”. Chúng ta có thể tự hào rằng suốt mấy chục năm cách mạng, Đảng ta đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, kiên quyết và bền bỉ lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân tộc. Vì vậy, Đảng ta đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”1. Đảng ta __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.412.
18
được nhân dân tin tưởng, coi là đội tiên phong giác ngộ của mình.
Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra, bằng hành động tiên phong gương mẫu của đảng viên, trước hết là cương lĩnh, chiến lược cách mạng. Cương lĩnh và chiến lược cách mạng của Đảng được xây dựng dưới ánh sáng của lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể của đất nước và quốc tế qua mỗi thời kỳ cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn vận dụng lý luận vào thực tiễn, kết hợp những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa truyền thống văn hóa dân tộc.
Các cương lĩnh cách mạng xác định các nguyên tắc và phương hướng chính trị, cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cương lĩnh kết hợp lý luận Mác - Lênin với thực tiễn của đất nước, là sự kết hợp tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
19
Hồ Chí Minh đã từng nói: Đảng đã truyền bá lý luận Mác - Lênin vào trong nhân dân ta, có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình; Đảng kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực tiễn của cách mạng Việt Nam; Đảng áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam; Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng.
Chính nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, có cương lĩnh, đường lối và chính sách cách mạng đúng đắn, sáng tạo nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng thật sự là hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Dưới ngọn cờ của
20
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân tin tưởng và thừa nhận là đội tiên phong của mình. Vì vậy, Đảng đã khơi được nguồn lực lượng và sức sáng tạo của nhân dân, phát huy được nội lực của dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, không ngừng tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính thời đại sâu sắc.
21
CHÁNH CƯƠNG VẮN TẮT,
SÁCH LƯỢC VẮN TẮT,
CHƯƠNG TRÌNH TÓM TẮT CỦA ĐẢNG
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, mở đầu bằng cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định bằng vũ lực, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực dân Pháp đã triển khai mạnh mẽ những cuộc khai thác nước ta với quy mô ngày càng lớn nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”. Chính sách đối với thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương nói chung là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, bóc lột nặng nề về
kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp chứ không đem lại cho các nước Đông Dương một sự “khai hóa văn minh” nào. Việt Nam đã
22
thành một xứ thuộc địa của Pháp. Các giai cấp trong xã hội Việt Nam ngày càng bị phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản lần lượt ra đời. Các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa ngày càng diễn ra gay gắt trong đó nổi bật lên là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp và tay sai. Sự thống trị áp bức bóc lột, sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng tăng thì sự phản kháng của dân tộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc càng quyết liệt. Thái độ, vị trí của các giai cấp bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và cả một bộ phận trong giai cấp địa chủ đối với thực dân Pháp và tay sai đều do mâu thuẫn này chi phối.
Phong trào dân tộc ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở đi về cơ bản đều diễn ra trên cơ sở mâu thuẫn đó. Các tổ chức, các hội, đảng chính trị đã lần lượt ra đời và vươn lên giành ngọn cờ lãnh đạo phong trào dân tộc. Song tất cả các phong trào dân tộc dưới ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ tư sản đã lần lượt thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam. Giữa bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc, người thanh niên yêu nước tiên tiến của dân tộc đã ra đi tìm đường cứu nước, thực hiện
23
lý tưởng và lòng ham muốn suốt đời, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người cho rằng cần phải nghiên cứu, tìm hiểu xem các nước khác họ làm như thế nào mới có thể tìm được biện pháp thực hiện hoài bão giải phóng dân tộc. Sau một thập kỷ bôn ba, Người đã qua các lục địa Âu, Á, Phi, Mỹ. Vừa lao động kiếm sống vừa nghiên cứu và khảo sát, Nguyễn Ái Quốc đã có được một sự hiểu biết sâu sắc về tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, về thể chế chính trị cộng hòa, về đời sống và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị nô dịch.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào công nhân, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, hướng về nước Nga Xôviết, về chủ nghĩa Lênin. Người đã đứng hẳn về phía Quốc tế Cộng sản, và đã trở thành người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (12/1920), tiếp tục nghiên cứu, suy tìm chân lý giải phóng dân tộc. Sau này, Người đã nêu rõ: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
24
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”1.
Người cho rằng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa và khẳng định chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản có thể áp dụng vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng. Theo Người, chính sự thống trị tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân đã “chuẩn bị đất” cho cách mạng. “Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”2. Để thực hiện nhiệm vụ lịch sử cao cả đó, Nguyễn Ái Quốc đã dày công nghiên cứu, tiếp biến, tổng hòa và phát triển biện chứng nguồn giá trị tư tưởng văn hóa truyền thống của tổ tiên mà cốt lõi là chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập, khát vọng tự do và tinh hoa văn hóa tư tưởng phương Đông và phương Tây, đặc biệt là những giá trị phổ biến về tư tưởng cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng thành công và sáng tạo ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX một hệ thống quan điểm lý luận về
cách mạng thuộc địa trong thời đại mới mang tầm __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.563.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40.
25
vóc một học thuyết cách mạng giải phóng và phát triển vì độc lập tự do. Học thuyết cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá vào Việt Nam đã trở thành tư tưởng cách mạng chủ yếu hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng vô sản dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở nước ta vào năm 1929.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương. Người đã chủ động, kịp thời triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, đã quyết đoán, độc lập và sáng tạo nhanh chóng thống nhất các tổ chức cộng sản riêng lẻ để lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, tham gia Hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh - đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng; Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm - đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lịch sử Đảng ta, Hội nghị hợp nhất
26
mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng... Đó là các văn kiện của Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh đã xác định những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc đã nắm toàn quyền thống trị, thi hành chính sách độc quyền về kinh tế ở nước ta, làm cho tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp. Cương lĩnh vạch rõ: “Tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”1.
Xuất phát từ tình hình đó, Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
27
“tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng* để đi tới xã hội cộng sản”1. Cương lĩnh chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội là:
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, chuẩn bị cách mạng ruộng đất để tiến lên lật đổ địa chủ phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.
- Thủ tiêu các thứ quốc trái, thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc Pháp để giao lại cho chính phủ công nông binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ.
- Dân chúng tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
__________
* Khái niệm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” về sau được Đảng ta gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ”.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
28
Các nhiệm vụ cách mạng trên đây bao hàm hai nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Cương lĩnh chỉ rõ, Đảng phải thu phục, tập hợp được đông đảo quần chúng công nhân và nông dân khỏi ảnh hưởng của tư sản dân tộc, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản, tiểu và trung địa chủ, còn bộ
phận nào phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. Trong khi liên minh với các giai cấp, phải giữ vững nguyên tắc cách mạng, không được đi vào con đường thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi cơ bản của công nông cho một giai cấp nào khác.
Cương lĩnh khẳng định, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, người tổ chức và lãnh đạo cách mạng, đấu tranh để giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta khỏi bị đế quốc và phong kiến thống trị, áp bức và bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do.
Cương lĩnh chỉ rõ, Đảng phải tuyên truyền phổ biến khẩu hiệu Việt Nam độc lập, tự do và liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng lao động trên thế giới nhất là quần chúng vô sản Pháp.
29
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thống nhất nhất trí thông qua. Cương lĩnh tuy vắn tắt song đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, có nội dung cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thuận chiều tiến hóa của thời đại. Cương lĩnh đã thể hiện một cách nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế, trong đó thấm đẫm yếu tố dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân - yếu tố quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì độc lập tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là viên ngọc quý được khảm trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng đã thể hiện tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng vạch ra trong Cương lĩnh đó. Lời kêu gọi viết:
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm
30
giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để:
1. Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng.
2. Làm cho nước An Nam được độc lập.
3. Thành lập chính phủ công nông binh.
4. Tịch thu tất cả các nhà băng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho chính phủ công nông binh. 5. Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo.
6. Thực hiện ngày làm 8 giờ.
7. Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo.
8. Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân. 9. Thực hành giáo dục toàn dân.
10. Thực hiện nam nữ bình quyền”1.
Dưới ngọn cờ chói lọi của tư tưởng độc lập, tự do và đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, ngay từ khi ra đời Đảng đã tổ __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.22.
31
chức và lãnh đạo đông đảo nhân dân ta vùng lên đấu tranh chống đế quốc thực dân Pháp và tay sai phản động. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, một phong trào cách mạng mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh đã bùng nổ trên quy mô cả nước. Đây là một phong trào cách mạng triệt để có tính chất quần chúng rộng rãi trong đó công nhân và nông dân là hai động lực chính đã tạo ra một sức mạnh cách mạng phi thường. Qua khủng bố trắng dữ dội của đế quốc Pháp, những người cách mạng, nhân dân lao động và những người yêu nước vẫn cố gắng đi theo cách mạng và âm thầm ủng hộ cách mạng, trong đó có cả tiểu địa chủ, phú nông. Ở nông thôn Nghệ - Tĩnh thì địa chủ, phú nông, một số quan lại nhỏ đã phân hóa và phần lớn đã nghiêng về cách mạng. Họ tỏ ra quý trọng và khâm phục Đảng Cộng sản và phong trào công nông1. Đây là một hiện tượng lịch sử
hiếm có trong phong trào cộng sản. Hiện tượng lịch sử này của cách mạng Việt Nam diễn ra năm 1930, ngay sau khi Đảng Cộng sản mới ra đời không phải là ngẫu nhiên, bột phát nhất thời mà là một tất yếu
__________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.230.
32
khách quan, kết quả của một quá trình đấu tranh dân tộc, một sự lựa chọn lịch sử của quần chúng. Chính điều này đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với cương lĩnh cách mạng đúng đắn, sáng tạo xứng đáng là tổ chức đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh đã tổng kết rằng: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”1.
Sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc vào đầu năm 1930 không chỉ do những điều kiện chính trị, kinh tế trong nước mà trước hết và cơ bản là nhờ Nguyễn Ái Quốc, bằng thiên tài trí tuệ và bản lĩnh của mình đã nắm vững giá trị khoa học của phương pháp duy vật biện chứng để xem xét lại và bổ sung, __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.407.
33
củng cố cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng triết lý lịch sử phương Đông và tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam. Nghiên cứu hiện tượng lịch sử độc đáo này, Lê Duẩn viết: “Chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, Lênin đã được nhà cách mạng sáng suốt nhất và cũng đầy nhiệt huyết nhất của dân tộc Việt Nam hóa và trao lại cho giai cấp công nhân Việt Nam. Nhà cách mạng ấy là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Với vị lãnh tụ của mình, giai cấp công nhân Việt Nam đã đem lại cho toàn thể dân tộc Việt Nam một niềm tin tưởng vô hạn vào sự thành công của cách mạng.
Và với vị lãnh tụ của mình, với tất cả những điều kiện lịch sử cụ thể của nước Việt Nam, với sứ mạng lịch sử của giai cấp mình trên thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam có một lập trường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tất nhiên sẽ đưa lại độc lập tự do thực sự cho nước nhà”1.
__________
1. Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1967, tr.40.
34
DỰ ÁN LUẬN CƯƠNG CHÁNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
Vừa mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam “liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”1.
Đảng ra đời giữa lúc chủ nghĩa tư bản thế giới trong đó có tư bản Pháp đang trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế. Để bảo vệ lợi ích của “chính quốc” nhất là lợi ích của bọn tư bản lũng đoạn, thực dân Pháp đã trút gánh nặng lên vai nhân dân các thuộc địa của chúng, đặc biệt là các
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.401.
35
nước ở bán đảo Đông Dương. Chính sách “áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”1. Chính vì vậy, một làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ đã diễn ra sôi nổi trong toàn quốc mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh. Cuộc đấu tranh giữa nhân dân ta chống thực dân Pháp và tay sai phản động trở nên quyết liệt và đẫm máu. Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương lâm thời cũng như các đảng bộ địa phương, vừa mới ra đời đã bước vào một cuộc thử thách và rèn luyện trong lửa đạn đấu tranh cách mạng.
Trong cuộc khủng bố ác liệt của kẻ thù, một số đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng đã bị địch bắt hoặc bị giết chết, trong đó có một số ủy viên Trung ương Đảng và cán bộ lãnh đạo các đảng bộ địa phương.
Tháng 4/1930, Trần Phú, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) trở về nước hoạt động. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã tổ chức cho Trần Phú đi khảo sát phong trào công nhân __________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.21.
36
và nông dân một số vùng ở Bắc Kỳ. Tháng 7/1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng với Ban Thường vụ chuẩn bị các văn kiện chính trị kỳ
họp thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong số văn kiện đó có bản Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở nước ta đã phát triển lên đỉnh cao, chính quyền Xôviết ra đời ở một số vùng thuộc Nghệ An và Hà Tĩnh, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đã họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930 do Trần Phú chủ trì. Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thảo luận bản Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng và các văn kiện chính trị khác. Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng được thành lập do Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương đã trình bày một cách khái quát, có hệ thống bối cảnh lịch sử, chỉ rõ những đặc điểm
37
kinh tế - xã hội và xác định tính chất, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Đông Dương.
Dự án Luận cương vạch rõ, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hệ thống tư bản chủ nghĩa không thể duy trì sự ổn định tạm thời được nữa mà đã bước vào một cuộc khủng hoảng mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô - thành trì của cách mạng thế giới, giành được những thành tựu lớn, làm cho các nước đế quốc căm ghét, muốn tiến công tiêu diệt đất nước Xôviết. Nguy cơ
bùng nổ chiến tranh thế giới mới của chủ nghĩa đế quốc để tranh giành thị trường và xâm lược Liên Xô khó có thể tránh khỏi. Do giai cấp tư sản tăng cường áp bức, bóc lột, nên phong trào đấu tranh cách mạng ở “chính quốc” và các nước thuộc địa diễn ra rất gay gắt. Dự án Luận cương vạch rõ: “Cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã lên đến trình độ rất cao, có nơi đã sắp sửa cướp chánh quyền”1. Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Đông Dương, thúc đẩy phong trào cách mạng Đông Dương phát triển mạnh.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.89.
38
Là một xứ thuộc địa của đế quốc Pháp, nền kinh tế Đông Dương hoàn toàn bị lệ thuộc vào nền kinh tế của “chính quốc”. Công nghiệp chỉ phát triển những ngành đem lại lợi nhuận tối đa cho chúng và không cạnh tranh với “chính quốc”, nông nghiệp chủ yếu phục vụ cho xuất cảng. Các đồn điền phần lớn nằm trong tay tư bản Pháp. Đại bộ phận đất đai do địa chủ chiếm hữu và bóc lột theo lối phong kiến. Tư bản Pháp độc quyền về xuất - nhập cảng. Kinh tế Đông Dương nhìn chung vẫn là kinh tế nông nghiệp, canh tác theo lối phong kiến là chủ yếu. Dưới chế độ thuộc địa, nông dân phá sản, đói khổ không có việc làm, công nhân bị áp bức, bóc lột rất nặng nề. Tình hình đó đã làm cho “Sự mâu thuẫn giai cấp càng ngày càng kịch liệt: một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa”1. Vì thế cuộc đấu tranh của công nông ở Đông Dương ngày càng phát triển mạnh mẽ và có tính chất độc lập rõ rệt.
Trong thời gian đầu, cách mạng ở Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền, có tính chất thổ địa và
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.90.
39
phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cuộc cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi, chính quyền cách mạng của công nông được thành lập, công nghiệp trong nước phát triển, các tổ chức vô sản được xây dựng vững mạnh, quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản được củng cố, tương quan lực lượng đối sánh cách mạng phát triển có lợi cho giai cấp vô sản, được sự ủng hộ của vô sản chuyên chính trên thế giới, cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương sẽ “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”1.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải đấu tranh để đánh đổ các di tích phong kiến và các hình thức bóc lột tiền tư bản, thực hiện cách mạng ruộng đất và đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến có quan hệ khăng khít với nhau vì có đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc mới đánh đổ được giai cấp địa chủ, thực hiện cách mạng ruộng đất thắng lợi và ngược lại
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.94.
40
có phá tan chế độ phong kiến mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và phong kiến địa chủ thì phải thiết lập chính quyền Xôviết công nông, một công cụ sắc bén của cách mạng. Dự án Luận cương nêu lên 10 nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản dân quyền là:
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến, địa chủ.
- Lập chính phủ công nông.
- Tịch ký hết thảy ruộng đất của địa chủ ngoại quốc, địa chủ bản xứ và giáo hội, giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chính phủ công nông.
- Sung công tất cả xí nghiệp lớn của tư bản ngoại quốc.
- Bỏ các thứ sưu thuế hiện thời và lập ra thuế luỹ tiến.
- Thực hiện ngày làm tám giờ, cải thiện đời sống cho công nhân và dân nghèo.
- Đông Dương hoàn toàn độc lập và thực hiện quyền dân tộc tự quyết.
- Lập quân đội công nông.
- Nam nữ bình quyền.
41
- Ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp vô sản thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và nửa thuộc địa.
Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vai trò vị trí của các giai tầng xã hội không đều nhau. Động lực chủ yếu của cách mạng là giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, nhưng giai cấp vô sản có nắm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới giành được thắng lợi. Giai cấp vô sản là động lực chính và rất mạnh của cách mạng đồng thời là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Giai cấp nông dân chiếm số đông trong dân chúng là một động lực mạnh của cách mạng. Để giành quyền lãnh đạo nông dân, giai cấp vô sản phải lãnh đạo nông dân tiến hành cách mạng ruộng đất triệt để. Vì vậy, vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Ngoài công nông ra còn có những người lao động nghèo khổ ở thành thị là người bán hàng rong đường phố, người làm nghề thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp... vì đời sống cực khổ nên đều đi theo cách mạng. Giai cấp tư sản và tiểu tư sản do địa vị và quyền lợi khác nhau, nên thái độ đối với cách mạng không đồng nhất, thiếu kiên định. Các nhà tiểu thủ công nghiệp thì do dự, các nhà tiểu thương nghiệp thì không tán thành cách mạng. Trí thức,
42
học sinh có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ hăng hái tham gia chống đế quốc lúc ban đầu. Tư sản thương nghiệp vì quyền lợi giai cấp của họ nên đứng về phía đế quốc và địa chủ. Tư sản công nghiệp có khuynh hướng quốc gia cải lương, song cuối cùng cũng đi theo đế quốc chủ nghĩa.
Đối với tư sản dân tộc, Đảng là phải chỉ rõ tính chất quốc gia cải lương của họ, kéo quần chúng ra khỏi ảnh hưởng quốc gia cải lương, làm cho quần chúng hiểu rõ rằng những người quốc gia cải lương chỉ muốn thỏa hiệp với chủ nghĩa đế quốc. Đối với gia cấp tiểu tư sản, Đảng phải nhận rõ tính chất và địa vị của họ, phải phân tách giới hạn của Đảng Cộng sản với các đảng phái tiểu tư sản. Đảng có thể tạm thời hợp tác với các đảng phái tiểu tư sản, nếu các đảng phái ấy thật sự tranh đấu chống chủ nghĩa đế quốc và không ngăn trở việc tuyên truyền cộng sản trong quần chúng công nông. Trong khi hợp tác, Đảng phải giữ cho phong trào công nông có tính chất giai cấp, đồng thời phê phán những hành động không triệt để, thiếu kiên quyết và chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi của họ, phải đánh đổ ảnh hưởng của họ trong quần chúng, giành lấy quyền lãnh đạo cho giai cấp vô sản.
43
Cách mạng muốn thành công, phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đưa cách mạng đến thành công. Dự án Luận cương nhấn mạnh “Điều kiện cốt yếu cho sự
thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”1. Muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử ấy, trước hết Đảng cần phải tổ
chức ra các đoàn thể quần chúng của Đảng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, v.v., phải lôi cuốn cho được đại đa số công nhân và nông dân. Không chỉ công tác trong các công hội, Đảng còn phải chú ý công tác trong các đoàn thể công nhân còn chịu ảnh hưởng bọn phản động hoặc cải lương, để thu phục quần chúng.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.100.
44
Đảng phải hết sức liên kết những hoạt động công khai và bí mật để mở rộng công nhân vận động. Đảng phải lãnh đạo dân cày chống đế quốc và địa chủ. Bần và trung nông là phần tử hăng hái làm cách mạng ruộng đất, phải ra sức tổ chức họ khắp trong xứ. Đảng phải tổ chức Công hội công nhân nông nghiệp một cách vững chắc và làm cho họ trở thành người lãnh đạo quần chúng nông dân. Chú ý không cho phú nông xen vào Nông hội và ảnh hưởng đến trung và bần nông.
Để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, phải có phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Dự án Luận cương nêu rõ, trong lúc định chiến lược, Đảng phải xem xét kỹ tình hình trong nước và thế giới, lực lượng kẻ địch và phong trào đấu tranh của quần chúng, thái độ của các giai cấp đối với cách mạng mà định ra phương thức đấu tranh. Đấu tranh cách mạng thường phát triển từ thấp đến cao. Lúc bình thường phải nêu ra các khẩu hiệu thấp nhằm bênh vực quyền lợi trước mắt cho quần chúng như đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm, giảm thuế, chống thuế, chống sinh hoạt đắt đỏ, v.v.. Từ đó Đảng dẫn dắt quần chúng tiến lên thực hiện mục tiêu giành chính quyền khi có tình thế cách mạng. Dự án Luận
45
cương nêu rõ: “Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bổ về phe cách mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sanh phấn đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”1. Lúc đó Đảng phải nêu các khẩu hiệu cao như lập Xôviết, lập hội đồng tịch ký ruộng đất, sản nghiệp giao cho công nhân kiểm soát, võ trang cho công nông..., mở rộng các hình thức đấu tranh của quần chúng như bãi công, vừa bãi công vừa thị uy, võ trang thị uy, tổng bãi công, bạo động võ trang. Dự án Luận cương nhấn mạnh, bạo động không phải là một việc bình thường mà phải nổ ra khi có tình thế cách mạng trực tiếp, phải bảo đảm nguyên tắc cách mạng, “theo khuôn phép nhà binh”, phải nổ ra đúng thời cơ, tránh manh động, khởi nghĩa non...
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hiện đoàn kết quốc tế, tạo nên sức mạnh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.101-102.
46
Dự án Luận cương xác định: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản Pháp, để làm... cho sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên”1. Trong công tác, Đảng Cộng sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ.
Để chống lại nguy cơ chiến tranh đế quốc đang đến gần, Đảng phải tuyên truyền và tổ chức đấu tranh phản đối chiến tranh đế quốc, nêu khẩu hiệu biến chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách mạng, đánh đổ đế quốc và các giai cấp bóc lột, ủng hộ
Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới. Những nội dung cơ bản nêu trên cho thấy, Dự án Luận cương chánh trị đã trình bày những tư tưởng cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam, như tiến hành cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và chống phong kiến nhằm giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân, thiết lập nhà nước công nông, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là hai động lực chính của cách mạng; xác lập quyền
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.103.
47
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong cách mạng là Đảng Cộng sản; cách mạng Việt Nam phải liên kết với giai cấp vô sản các nước tư bản và nhân dân các nước thuộc địa trên thế giới. Dự án Luận cương còn xác định rõ con đường giành chính quyền phải là con đường khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Song Dự án Luận cương chưa phân tích làm rõ tính chất và đặc điểm của cách mạng ở một nước thuộc địa trong đó yếu tố dân tộc là yếu tố cơ bản quyết định tính độc đáo của nó, không thấy được đặc điểm và khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư
sản, mặt tích cực của tư sản dân tộc, của một số người trong tầng lớp tiểu và trung địa chủ, nhấn mạnh quá mức những hạn chế của tư sản dân tộc và tiểu tư sản; chưa thấy hết vai trò quan trọng của liên minh dân tộc rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và tay sai. Trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng những năm về sau, các nhược điểm mang tính “tả” khuynh, giáo điều của Dự án Luận cương chánh trị đã được các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khắc phục.
Vào mùa hè 1936, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Lào và Campuchia, kinh nghiệm lịch sử đã tích luỹ được và chủ trương chuyển hướng hoạt
48
động của Quốc tế Cộng sản được xác định tại Đại hội lần thứ VII (7/1935), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chủ trương chuyển hướng lãnh đạo về chính trị, tổ chức và đấu tranh. Trung ương đã đặt vấn đề phải nhận thức lại ảnh hưởng của yếu tố dân tộc trong cách mạng thuộc địa, quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và phản phong trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương. Trung ương Đảng đặc biệt nhấn mạnh và chỉ rõ mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ dân chủ: “một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương vấn đề dân tộc giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản... Đảng có thể bồi dưỡng một tinh thần dân tộc giải phóng mạnh mẽ trong đám dân chúng bị áp bức không trái với nguyên tắc dân tộc tự quyết của Quốc tế Cộng sản, không trái với quyền lợi của vô sản giai cấp, nghĩa là cuộc dân tộc giải phóng theo nguyên tắc dân tộc bình đẳng, theo tinh thần quốc tế liên ái với các dân tộc bị áp bức, với vô sản thế giới và với nhân dân những xứ
cách mạng đã thành công”1.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.147.
49
Từ nhận thức đó, Trung ương nêu rõ: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng. Vì rằng tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc nếu việc tranh đấu chống đế quốc là cần kíp..., còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước đánh đổ đế quốc rồi sau giải quyết vấn đề điền địa, nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế liên tiếp giải quyết vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động... Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”1.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nhật xâm chiếm Đông Dương. Nhân dân các dân
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.152.
50
tộc Đông Dương bị Pháp - Nhật áp bức nặng nề. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Vận mệnh các dân tộc ở Đông Dương nguy vong không lúc nào bằng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ sáu (11/1939), đặc biệt là Hội nghị lần thứ tám (5/1941) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết định thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bằng chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trên cơ sở phân tích tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai, sự thay đổi về kinh tế, chính trị, sự thay đổi về thái độ chính trị và lực lượng của các giai cấp ở Đông Dương dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) nhấn mạnh cần phải “thay đổi chiến lược” cách mạng mới có thể đưa cách mạng đến thành công. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp, “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc
51
cách mạng dân tộc giải phóng”1. Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh trong Thư gửi đồng bào toàn quốc (6/6/1941): “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm”2.
Quyết định thay đổi chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) là một cột mốc đánh dấu sự trưởng thành về tư duy chính trị của Đảng, về
năng lực lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc, là sự phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng đã được xác định từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Hội nghị thống nhất Đảng thông qua. Sự thay đổi chiến lược này đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, nguyện vọng của nhân dân, nên đã tạo nên lực hút kỳ diệu đối với mọi người
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.119.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230.
52
Việt Nam yêu nước, dẫn đến sự vùng dậy mãnh liệt với khí thế xung thiên của cả một dân tộc, đập tan bộ máy thống trị của phát xít Nhật và tay sai, kiến lập nên nhà nước dân chủ cộng hòa, nhà nước của dân, do dân và vì dân (8/1945). Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”1.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do, của chiến lược đại đoàn kết dân tộc; của nghệ thuật vận động tổ chức dẫn dắt quần chúng lên trận tuyến đấu tranh giành lại quyền độc lập tự do và phẩm giá dân tộc của Đảng, của Hồ Chí Minh.
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3.
53
CHÍNH CƯƠNG
CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Cách mạng Tháng Tám thành công và sự kiến lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiên cường trụ vững giữa vòng vây của kẻ thù, vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc!”. Tiếp đến nhân dân ta đã bước vào cuộc chiến đấu chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp với ý chí “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào nội lực là chính, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng, càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng. Vì thế “lực lượng của ta ngày càng
54
thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”1. Đến đầu năm 1951, lực lượng kháng chiến của Việt Nam, Lào và Campuchia đã có nhiều biến chuyển quan trọng. Tình hình thế giới cũng có những biến chuyển mới có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh đó Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp từ ngày 11/2 đến ngày 19/2/1951 tại Vinh Quang2, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Đại hội đã quyết định thành lập ở Việt Nam, Lào và Campuchia mỗi nước một đảng Mác - Lênin riêng biệt thích hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc. Đại hội quyết định ở Việt Nam lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta và thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân,
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.355.
2. Nay là xã Kim Bình.
55
tiến tới chủ nghĩa xã hội* của Trường Chinh và bản Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội lần thứ II của Đảng là một sự kiện trọng đại trong lịch sử Đảng ta. Đường lối, chủ trương, chính sách do Đại hội đề ra thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, hoàn thành độc lập, thống nhất, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bản Chính cương Đảng Lao động Việt Nam do Đại hội thông qua đã trình bày một cách cô đọng, súc tích bối cảnh trong nước và quốc tế, đặc điểm, tính chất của xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam, nêu rõ chính sách của Đảng Lao động Việt Nam trong kháng chiến và sau kháng chiến.
Chính cương nêu rõ, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), tương quan lực lượng giữa các lực lượng cách mạng với chủ nghĩa đế quốc và phản động phát triển có lợi cho các lực lượng cách mạng: “Phe dân chủ ngày một mạnh, phe đế quốc ngày một suy. Cán cân lực lượng giữa hai phe đã nghiêng hẳn về
__________
* Bản báo cáo được xuất bản với tiêu đề là Bàn về cách mạng Việt Nam.
56
phe dân chủ”1. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và nửa thuộc địa phát triển mạnh mẽ, làm chuyển lay tận gốc toàn bộ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Cuộc đấu tranh đó đã trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào đấu tranh chống đế quốc gây chiến, bảo
vệ hòa bình và giành dân chủ trên thế giới. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình và dân chủ thế giới. Vì vậy, cách mạng Việt Nam và cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ thế giới có quan hệ với nhau: “Nhờ những thắng lợi của phe dân chủ trên thế giới đặc biệt là sự thành công vĩ đại của nhân dân Trung Quốc và do sự cố gắng của toàn thể dân tộc, cách mạng Việt Nam nhất định sẽ thành công”2...
Xã hội Việt Nam trước khi bị thực dân Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Ruộng đất thuộc quyền sở hữu của vua quan và địa chủ phong kiến, nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề. Vì vậy, nông dân đã liên tiếp vùng dậy
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.429, 431.
57
khởi nghĩa nhưng vì điều kiện kinh tế và xã hội chưa đủ, thiếu một giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ lãnh đạo cho nên các cuộc đấu tranh của nông dân không thể làm thay đổi được tính chất phong kiến của xã hội Việt Nam.
Từ khi bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị, Việt Nam biến thành một thị trường độc chiếm của tư bản Pháp, nơi bóc lột tài nguyên, cho vay nặng lãi của chúng. Tính chất phong kiến của xã hội Việt Nam bị lay chuyển. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành nhanh chóng. Tư sản Việt Nam cũng đã xuất hiện song bị tư bản độc quyền Pháp chèn ép nên không phát triển được. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là một chính sách hẹp hòi, bảo thủ nhằm kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, làm cho Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào “chính quốc”. Pháp kết hợp những hình thức áp bức bóc lột tư bản với những hình thức áp bức bóc lột phong kiến và nửa phong kiến, làm cho cuộc sống của nhân dân Việt Nam, nhất là công nhân và nông dân vô cùng thống khổ. Từ một xã hội thuần tuý có tính chất phong kiến, Việt Nam đã trở thành một xã hội thuộc địa và nửa phong kiến. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật xâm lược Việt Nam, chế độ
58
thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng phát xít hóa. Dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, cuộc sống của nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam đã bùng nổ. Tháng 8/1945, chớp thời cơ chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tổng khởi nghĩa thắng lợi lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xã hội Việt Nam bước vào con đường dân chủ nhân dân. Nhưng đế quốc Pháp đã trở lại xâm lăng, lập lại chế độ thuộc địa trên một phần đất nước ta. Xã hội Việt Nam hiện tại là một xã hội phát triển không đều và phức tạp bao gồm ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân với tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết dưới hình thức chiến tranh cách mạng.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển xã hội, cách mạng Việt Nam lúc này phải giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam với những thế lực phản động, để cho chế độ ấy phát triển mạnh mẽ và thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đế quốc xâm lược là thế lực phản động chính đang ngăn cản
59
sự phát triển của xã hội Việt Nam. Các tàn tích phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam bị đình trệ. Do đó: “Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động”1.
Xóa bỏ các đối tượng trên, đưa xã hội tiến lên là nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chính cương nêu rõ: “Nhiệm vụ cơ bản... của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”2.
Ba nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, song trước mắt phải tập trung lực lượng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Để thực hiện các nhiệm vụ đó, Chính cương xác định các lực lượng cách mạng Việt Nam gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.433, 434.
60
thức và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công nông và trí thức. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Cuộc cách mạng nhằm thực hiện các nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập và thống nhất dân tộc và người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải trải qua một cuộc nội chiến cách mạng.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam phải trải qua một thời gian dài bao gồm nhiều giai đoạn. Chính cương nêu rõ về đại thể phải trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực
61
hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Ba giai đoạn đó không tách rời mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm của nó.
Trong giai đoạn thứ nhất, mũi nhọn của cách mạng nhằm vào đế quốc xâm lược. Đảng phải vận động tập hợp mọi lực lượng dân tộc, tổ chức thành một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn chống đế quốc xâm lược và bọn Việt gian, đồng thời phải cải thiện đời sống cho nhân dân, nhất là nhân dân lao động để họ hăng hái tham gia kháng chiến.
Sang giai đoạn thứ hai, Đảng phải tập trung lực lượng xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ
dân chủ nhân dân, chống đế quốc xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Đến giai đoạn thứ ba, trọng tâm của cách mạng là phát triển cơ sở xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước tiến cụ thể của giai
62
đoạn này phải tùy theo điều kiện cụ thể trong nước và quốc tế mà quyết định.
Mục tiêu của Đảng là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ tự
do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở cho việc xây dựng đất nước, Đảng chủ trương thi hành các chính sách lớn sau đây:
- Kiên quyết kháng chiến đến cùng chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ để giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc. Thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài qua ba giai đoạn phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Tổng tổng động viên nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến, đồng thời luôn luôn bồi dưỡng lực lượng kháng chiến về mọi mặt. Các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích giành thắng lợi về quân sự. Đấu tranh quân sự phải phối hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế. Kết hợp tác chiến ở tiền phương với chiến tranh du kích vùng sau lưng địch.
- Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân nghĩa là chính quyền của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các
63
thân sĩ yêu nước và tiến bộ. Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức theo nguyên tắc dân chủ
tập trung.
- Thực hiện đoàn kết tất cả mọi đảng phái, đoàn thể, thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam nữ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất để cùng nhau kháng chiến - kiến quốc. Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng chủ trương đoàn kết với các đảng phái, các đoàn thể, các thân sĩ trong Mặt trận theo nguyên tắc: đoàn kết thành thực, thống nhất hành động, hợp tác lâu dài vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
- Quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân có tính chất dân tộc, dân chủ và hiện đại, do nhân dân tổ chức, vì nhân dân mà chiến đấu. Nguồn bổ sung chủ yếu của quân đội là bộ đội địa phương và dân quân du kích. Vũ khí trang bị của quân đội chủ yếu là “lấy súng địch đánh địch”. Kỷ luật quân đội phải nghiêm minh trên nguyên tắc tự giác và dân chủ. Vừa tác chiến vừa tiến hành công tác chính trị, làm
64
cho quân đội ta trên dưới một lòng, quân dân nhất trí, tinh thần binh lính địch suy sụp.
- Nguyên tắc của chính sách kinh tế là đảm bảo quyền lợi công - tư, của tư bản và lao động tăng gia sản xuất mọi mặt để cung cấp cho nhu cầu kháng chiến và cải thiện dân sinh, đặc biệt là cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Trong các ngành sản xuất, hiện tại phải chú trọng việc phát triển nông nghiệp, phát triển tiểu công nghệ và thủ công nghiệp, đồng thời xây dựng kỹ nghệ phát triển thương nghiệp. Phát triển nền tài chính theo nguyên tắc dựa vào sản xuất và đẩy mạnh sản xuất. Chính sách tài chính là tăng thu giảm chi bằng tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Thực hiện chế độ đóng góp dân chủ. Chú trọng gây cơ sở kinh tế nhà nước và phát triển kinh tế hợp tác xã, đồng thời giúp đỡ tư nhân trong việc sản xuất, khuyến khích, giúp đỡ và hướng dẫn tư sản dân tộc kinh doanh. Đi đôi với việc mở mang kinh tế quốc dân, phải tùy nơi, tùy lúc mà phá hoại và bao vây kinh tế địch một cách phù hợp. Giải phóng đến đâu, tịch thu tài sản của địch đến đó, thủ tiêu kinh tế thực dân của chúng.
- Thực hiện giảm tô, giảm tức, quy định lại chế độ lĩnh canh, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và
65
Việt gian cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, sử dụng hợp lý ruộng đất vắng chủ và ruộng hoang. - Bài trừ những di tích văn hóa giáo dục thực dân và phong kiến, phát triển nền văn hóa giáo dục theo nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng. Xóa nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở mang các trường chuyên nghiệp, phát triển khoa học, kỹ thuật và văn nghệ nhân dân, phát triển tinh hoa của văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa tiến bộ, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo mà phản quốc.
- Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc. Tôn trọng tín ngưỡng, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số. Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
- Đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố chính quyền cách mạng, phá ngụy quyền, ngụy quân trong vùng tạm bị chiếm. Trừng trị bọn cầm đầu trong hàng ngũ địch nếu
66
không hối cải, khoan hồng những kẻ lầm đường lạc lối biết ăn năn. Đoàn kết an dân khu mới giải phóng. - Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất của các quốc gia, bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới. Đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện và lập quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước tôn trọng chủ quyền, độc lập của Việt Nam theo nguyên tắc tự do, bình đẳng cùng có lợi. - Đoàn kết, hợp tác chặt chẽ, lâu dài vì lợi ích chung với Lào và Campuchia. Ra sức giúp đỡ Lào, Campuchia cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông Dương. - Bảo đảm sinh mệnh, tài sản, quyền cư trú, làm ăn tự do tại Việt Nam của mọi ngoại kiều tôn trọng pháp luật Nhà nước Việt Nam. Những người ngoại quốc đấu tranh cho độc lập, dân chủ, hòa bình, bị các chính phủ phản động truy nã mà lánh nạn vào Việt Nam được bảo vệ, giúp đỡ.
- Tích cực đấu tranh cho hòa bình thế giới. Phối hợp cuộc kháng chiến của ta với phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, nhất là của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ nhân dân và nhân dân Pháp.
67
- Đẩy mạnh thi đua ái quốc nhằm giết giặc ngoại xâm, tăng gia sản xuất và diệt giặc dốt.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là một bản cương lĩnh cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tiến triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa có giá trị lý luận và tính thực tiễn chính trị sâu sắc. Chính cương thể hiện tư duy biện chứng trong tư tưởng và phương pháp, trong lý luận cách mạng và kháng chiến của Hồ Chí Minh và của Đảng ta dựa trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin, triết lý lịch sử phương Đông, tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam được vận dụng vào điều kiện cách mạng và kháng chiến của
dân tộc trong những năm 50 của thế kỷ XX. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi với chiến công lịch sử hiển hách là chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến công đó cắm cái mốc vàng chói lọi trong lịch sử dân tộc, đồng thời đã ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Thắng lợi đó là một minh chứng hùng hồn về tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, của Chính cương, đường lối cách mạng và kháng chiến của Đảng Lao động Việt Nam, do Hồ Chí Minh đứng đầu.
68
CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Từ tháng 7/1954, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược và thống trị. Đảng ta đã xác định đường lối chung của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, trước mắt nhằm mục tiêu chung là thực hiện thống nhất đất nước.
Thực hiện đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo đó, giương cao ngọn cờ “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đồng bào và chiến sĩ cả nước không quản hy sinh gian khổ, với sự ủng hộ mạnh mẽ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới đã tiến
69
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ. Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đến mùa Xuân 1975 bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại, quân và dân ta đã hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong 10 năm đầu từ khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976-1986), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi thử thách mới, đã hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Đại hội lần thứ IV, Đại hội lần thứ V của Đảng và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa IV và V đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định mục tiêu, phương hướng cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như ước nguyện
70
của Hồ Chí Minh. Song bên cạnh những kết quả quan trọng, Đảng ta cũng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài. Nguyên nhân cơ bản khiến Đảng ta phạm những sai lầm, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, trước hết là do chưa nhận thức đầy đủ quan điểm và đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam do Đại hội lần thứ II của Đảng (2/1951) vạch ra, rằng con đường để đưa đất nước ta lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình đầy khó khăn và lâu dài. Không thể giang chân ra mà bước một bước khổng lồ đi đến ngay chủ nghĩa xã hội. Phải bước nhiều bước, chia nhiều giai đoạn tiến lên. Hơn nữa lại chưa nắm bắt được đầy đủ thực tiễn của đất nước, bị tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội chi phối đã làm hạn chế thêm năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan của cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Trong nhận thức của Đảng lúc bấy giờ về chủ nghĩa xã hội có nhiều quan điểm lạc hậu, nhất là những quan niệm về chế độ sở hữu, về những hình thức sở hữu, về nền kinh tế nhiều thành phần, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về công nghiệp hoá, về quản lý kinh tế, về phân phối, lưu thông, v.v..
Trước tình hình đó, tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã họp tại Hà Nội.
71
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng thành tích và những khuyết điểm, sai lầm trong công tác lãnh đạo của Đảng, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ thực tiễn cách mạng trong những năm đã qua, Đảng đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học lớn là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng”1.
Để khắc phục khuyết điểm, sai lầm, đưa đất nước vượt qua khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta chủ trương trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. “Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng chung của xã hội”2.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội.
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.30.
72
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội VI, cùng với việc vạch ra đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định, cần xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Đại hội chỉ rõ việc thảo ra một cương lĩnh cách mạng hoàn chỉnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự chỉ đạo cách mạng trong một thời kỳ tương đối dài, đặt nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội1.
Thực hiện quyết định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, ngay từ tháng 2/1987, Trung ương Đảng đã chỉ đạo việc soạn thảo cương lĩnh và chiến lược kinh tế - xã hội.
Ban soạn thảo cương lĩnh và chiến lược kinh tế do Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban. Tiểu ban soạn thảo Cương lĩnh do Trường Chinh làm Trưởng tiểu ban. Sau khi Trường Chinh qua đời, Nguyễn Văn Linh trực tiếp làm Trưởng tiểu ban. Trong quá trình
__________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.41.
73
soạn thảo Cương lĩnh và các văn kiện chính trị của Đảng, đại bộ phận đảng viên, đông đảo các tầng lớp nhân dân, các vị lão thành cách mạng, đoàn viên, hội viên các đoàn thể, các nhà khoa học, nhân sĩ trí thức đã tích cực góp ý kiến vào Cương lĩnh và các văn kiện chính trị do các tiểu ban Trung ương chuẩn bị.
Tháng 6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Hà Nội. Tại Đại hội này Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng và Sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) đã được thông qua.
Ý nghĩa trọng đại của Đại hội VII là lần đầu tiên Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đây là những văn kiện quan trọng nhất xuyên suốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài.
Cương lĩnh đã đề cập một cách sâu sắc, có hệ thống những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trên tất cả các phương diện.
74
Cương lĩnh trình bày khái quát quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Cương lĩnh khẳng định những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, khẳng định thành quả của công cuộc đổi mới cũng như khó khăn, thử thách của đất nước trong bước đầu đổi mới.
Từ thực tiễn cách mạng, Cương lĩnh rút ra năm bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ mà Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh,
75
xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống các nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa biến chất của cán bộ, đảng viên. Cương lĩnh xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những thuận lợi, khó khăn của đất nước trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Đó là cuộc cách mạng
76