"
Các Anh hùng trên đỉnh Olympus 2: Con trai thần Neptune PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Anh hùng trên đỉnh Olympus 2: Con trai thần Neptune PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Con trai thầnNeptune
Tác giả: Rick Riordan
Con trai thần Neptune là phần hai trong series Những anh hùng đỉnh Olympus của tác giả Rick Riordan. Series này là sự tiếp nối của bộ Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus – bộ truyện kể về những cuộc phiêu lưu của Percy Jackson, con trai thần biển Poseidon và một bà mẹ người trần. Bằng lòng dũng cảm, trí thông minh, hài hước và sự trung thành tuyệt đối với bạn bè, Percy Jackson đã cùng với các á thần khác đánh bại cuộc tấn công của những người khổng lồ Titan vào thành phố New York, giúp các vị thần bảo vệ thành công đỉnh núi Olympus. Cậu được các bạn tin yêu và, cùng với cô bạn gái Annabeth, đã trở thành người đứng đầu Trại Con Lai – trại dành cho các á thần Hy Lạp ở miền đông nước Mỹ.
Trong tập 1 của series Những anh hùng đỉnh Olympus, tác giả Riordan đã giới thiệu với chúng ta một nhân vật mới: Jason Grace. Xuất hiện trong tình trạng bị mất trí nhớ, Jason, cùng với hai người bạn mới Piper và Leo được đưa trở về Trại Con Lai. Tại đây, Jason đã thể hiện mình là con trai của vị thần chúa tể Zeus, và bộ ba được giao nhiệm vụ giải cứu nữ thần Hera khỏi tay tên khổng lồ Porphyrion. Trải qua bao thử thách, những sự nghi ngại ban đầu, những bí mật riêng của mỗi người dần được thay thế bởi tình yêu và tình bạn chân thành. Không chỉ cứu được Hera, Jason còn gặp lại Thalia Grace, người chị xa cách đã lâu của mình. Trí nhớ dần trở lại với Jason, cậu biết rằng mình đến từ trại của các á thần La Mã nằm ở bờ Tây nước Mỹ. Chính nữ thần Hera đã thực hiện việc tráo đổi thủ lĩnh của hai trại với nhau nhằm một mục đích lớn lao hơn…
Sang tập 2, Rick Riordan lại đưa bạn đọc trở về với nhân vật chính quen thuộc của series trước: Percy Jackson. Cũng như Jason Grace, Percy hoàn toàn bị mất trí nhớ, bị một thế lực huyền
bí đưa đến một nơi xa lạ… Chưa hết, những hiểm nguy luôn rình rập theo mỗi bước chân cậu. Percy sẽ làm gì để sống sót và tìm lại ký ức cho bản thân, khi mà trong đầu cậu chỉ còn lại duy nhất
gương mặt của cô bạn gái Annabeth thân thuộc? Cậu có vai trò ra sao trong ván cờ của nữ thần Hera?.
Mụ c Lụ c
I. PERCY
II. PERCY
III. PERCY
IV. PERCY
V. HAZEL
VI. HAZEL">VII. HAZEL VIII. HAZEL
IX. FRANK
X. FRANK
XI. FRANK
XII. FRANK
XIII. PERCY
XIV. PERCY
XV. PERCY
XVI. PERCY
XVII. HAZEL
XVIII. HAZEL
XIX. HAZEL
XX. HAZEL
XXI. FRANK
XXII. FRANK
XXIII. FRANK
XXIV. FRA
XXV. PERCY
XXVI. PERCY
XXVII. PERCY
XXVIII. PERCY
XXIX. HAZEL
XXX. HAZEL
XXXI. HAZEL
XXXII. HAZEL
XXXIII. FRANK XXXIV. FRANK XXXV. FRANK XXXVI. FRANK XXXVII. PERCY XXXVIII. PERCY XXXIX. PERCY XL. PERCY
XLI. HAZ
XLII. HAZEL
XLIII. HAZEL XLIV. HAZEL XLV. FRANK
XLVI. FRANK XLVII. FRANK XLVIII. FRANK XLIX. PERCY L. PERCY
LI. PERCY
LII. PERCY
Dành tặng Becky, người chia sẻ nơi ẩn náu của tôi ở Rome Mới.
Ngay cả nữ thần Hera cũng không bao giờ làm tôi quên được bạn.
I. PERCY
NHỮNG Ả TÓC RẮN đang bắt đầu làm Percy vô cùng khó chịu.
Chúng đáng lẽ đã chết cách đây ba ngày khi cậu ném một thùng banh bô-linh vào chúng ở Chợ Giảm Giá Napa. Chúng đáng lẽ đã chết cách đây hai ngày khi cậu lái một chiếc xe cảnh sát cán ngang người chúng ở Martinez. Chúng chắc chắn đã chết vào sáng nay khi bị cậu chém đứt đầu trong Công viên Tilden.
Cho dù Percy có giết chết và nhìn bọn chúng tan biến thành tro bụi bao nhiêu lần đi nữa, chúng vẫn tái tạo lại giống hệt những đống bụi hình thỏ bé bự xấu xa. Cậu thậm chí còn không thể chạy nhanh hơn chúng.
Cậu chạy đến được đỉnh đồi và đứng lại để thở. Cậu đã giết chúng được bao lâu rồi nhỉ? Có lẽ là hai tiếng. Dường như chúng không bao giờ chết lâu hơn khoảng thời gian đó.
Những ngày qua, cậu hầu như không ngủ. Cậu ăn bất cứ thứ gì cậu xoắn được – kẹo dẻo hình gấu ở máy bán hàng tự động, bánh mì vòng cũ, thậm chí cả món burrito của cửa hàng Jack in the Crack[1], một món ăn chẳng bổ béo gì cho bản thân. Áo quần cậu rách rưới, cháy xém và bị bắn đầy chất nhớt của yêu quái.
Cậu còn sống đến bây giờ vì hai ả tóc rắn đó – gorgon, chúng đã tự gọi mình như vậy – dường như cũng không thể giết chết cậu. Móng vuốt của chúng không cắt được da thịt cậu. Răng chúng gãy bất cứ khi nào chúng cố đớp cậu. Nhưng Percy không sao tiếp tục lâu hơn nữa. Ngay khi cậu ngã xuống vì mệt mỏi, và rồi lúc đó – bất kể việc giết cậu khó khăn như thế nào, cậu khá chắc rằng hai ả gorgon đó sẽ tìm được cách.
Phải trốn đến đâu bây giờ?
Cậu liếc mắt nhìn quang cảnh xung quanh. Trong những hoàn cảnh khác, có lẽ cậu sẽ đứng thật lâu để thưởng thức cảnh vật nơi đây. Bên tay trái cậu là những dãy đồi vàng rực chạy vào sâu
trong đất liền, điểm xuyết bởi các hồ nước, những cánh rừng và một vài đàn bò. Ở phía bên tay phải, các bình nguyên bằng phẳng của Berkeley và Oakland kéo dài về phía tây – hình thành nên một khu dân cư chi chít như bàn cờ khổng lồ với một vài triệu người mà chắc chắn họ không muốn buổi sáng của mình bị quấy rầy bởi hai con yêu quái và một á thần mình mẩy dơ hầy.
Xa x về phía tây, Vịnh San Francisco sáng lấp lánh dưới một tầng mây màu bạc. Qua khỏi nơi đó, một bức tường sương mù nuốt chửng lấy phần lớn San Francisco, chỉ chừa lại đỉnh các tòa nhà chọc trời và các cột tháp của cây cầu Cổng Vàng.
Một nỗi buồn mơ hồ đè nặng lên ngực Percy. Có điều gì đó mách bảo cậu rằng, trước đây cậu đã từng đến San Francisco. Thành phố này có sự kết nối nào đó với Annabeth – người trong quá khứ duy nhất cậu còn nhớ. Ký ức về cô trong cậu khá là mờ nhạt. Con sói đã cam đoan rằng cậu sẽ gặp lại cô lần nữa và có lại ký ức của mình – nếu cuộc hành trình của cậu thành công.
Liệu cậu có nên thử vượt qua vịnh không nhỉ?
Điều đó nghe thật hấp dẫn. Cậu có thể cảm nhận được sức mạnh của đại dương ở ngay phía đường chân trời kia. Nước luôn làm cậu hồi sinh trở lại. Nước biển là tốt nhất. Cậu đã khám phá ra điều đó hai ngày trước đây khi cậu siết cổ một con quái vật biển ở eo biển Carquinez đến chết. Nếu có thể đến được vịnh, cậu có thể tiến hành đợt phản công cuối cùng. Cậu thậm chí còn có thể dìm chết mấy ả gorgon đó. Nhưng bãi biển cách đây ít nhất hai dặm. Cậu sẽ phải băng qua cả một thành phố.
Cậu ngần ngừ vì một lý do khác. Bà người-sói Lupa đó đã dạy cậu mài sắc thêm các giác quan của mình – tin vào các bản năng đang hướng cậu đi về phía nam. Lúc này, radar dò đường của cậu đang réo vang một cách dồn dập. Phần cuối cuộc hành trình đã gần kề – gần như ngay ở bên dưới chân cậu. Nhưng sao có thể như thế được? Chẳng có gì trên đỉnh đồi.
Gió đổi hướng. Percy ngửi thấy mùi ôi của loài bò sát. Ở phía
sườn đồi cách nơi cậu đứng khoảng chín mươi mốt mét, có thứ gì đó vội vã băng qua các cánh rừng – tiếng cành cây gãy răng rắc, tiếng lá cây loạt soạt, tiếng xì xì.
Lũ Gorgon.
Đây là lần thứ một triệu Percy ước gì mũi chúng không nhạy như thế. Chúng luôn nói rằng chúng có thể ngửi thấy cậu vì cậu là một á thần – con lai của một vị thần La Mã cổ đại nào đó. Percy đã thử lăn qua bùn, té nước sông lên người, thậm chí còn giữ các que làm sạch không khí trong các túi quần để người cậu có mùi của một chiếc ô-tô mới; nhưng mùi á thần hình như rất khó che giấu.
Cậu trèo lên sườn phía đông của đỉnh đồi. Nó quá dốc để đi xuống. Đường dốc lao thẳng xuống độ hai mươi bốn mét, thẳng đến nóc khu căn hộ phức hợp nằm ở mé bên trong sườn đồi. Tầm hơn mười lăm mét bên dưới, một đường cao tốc hiện ra dưới chân đồi và uốn lượn về phía Berkeley.
Tuyệt. Không có lối nào khác để thoát khỏi ngọn đồi này. Cậu đã tìm cho mình một nơi không có đường lùi.
Cậu liếc nhìn dòng xe cộ đang lưu thông về phía tây đến San Francisco và ước gì mình đang ngồi trong số các chiếc xe đó. Rồi cậu nhận ra đường cao tốc ắt phải xuyên qua ngọn đồi. Phải có một đường hầm... ngay bên dưới chân cậu.
Radar bên trong cơ thể cậu gần như nổ tung. Cậu đã ở đúng chỗ, chỉ là quá cao mà thôi. Cậu phải kiểm tra đường hầm đó. Cậu cần một lối đi dẫn xuống con đường cao tốc kia – thật chóng vào.
Cậu đặt ba-lô xuống. Cậu đã lấy được rất nhiều đồ tiếp tế ở Chợ Giảm Giá Napa: một thiết bị GPS xách tay, băng keo, bật lửa, keo dán siêu dính, bình nước, thảm cắm trại cuộn tròn, Gối Ngủ Hình Gấu Trúc (như cái được quảng cáo trên tivi) và một con dao bấm đa năng – có khá nhiều dụng cụ mà một á thần hiện đại có thể sử dụng. Nhưng cậu không có thứ gì như dù nhảy hoặc xe
trượt tuyết cả.
Tình huống đó đặt ra cho cậu hai lựa chọn: nhảy xuống từ độ cao hai mươi bốn mét và ngủm củ tỏi, hoặc đứng lại và chiến đấu. Cả hai lựa chọn đều khá tệ.
Cậu rủa thầm và lấy cây bút ra khỏi túi quần.
Nó không giống bút cho lắm, chỉ là một cây bút bi rẻ tiền, nhưng khi Percy mở nắp, nó biến thành một cây kiếm đồng sáng loáng. Lưỡi kiếm cân xứng một cách tuyệt đối. Phần chuôi bọc da vừa tay như thể nó được thiết kế riêng cho cậu. Được khắc dọc tấm chắn là một từ Hy Lạp cổ, không hiểu sao Percy lại biết nghĩa: Anaklusmos – Thủy Triều.
Cậu đã thức dậy với thanh kiếm này trong đêm đầu tiên ở Nhà Sói – hai tháng trước đây? Hay lâu hơn thế? Cậu đã bị lạc đường. Cậu thấy mình ở trong sân một ngôi biệt thự đã bị thiêu rụi nằm giữa rừng, trên người mặc quần soóc, áo phông màu cam và một vòng cổ bằng da với một chùm hạt bằng đất sét trông kỳ lạ. Thủy Triều nằm trong tay cậu, nhưng Percy không biết sao mình lại
đến được đó, và chỉ lờ mờ nhận thức mình là ai. Cậu đang đi chân trần, lạnh cóng và vô cùng bối rối. Sau đó những con sói xuất hiện...
Ngay kế bên cậu, một giọng nói quen thuộc khiến cậu điếng người, quay trở lại với hiện tại: “A, ngươi đây rồi!” Percy trượt chân về phía sau tránh ả gorgon, suýt tí nữa thì rơi khỏi đỉnh đồi.
Đó là ả có khuôn mặt tươi cười – Beano.
Được rồi, thật ra tên ả ta không phải là Beano. Percy có thể ước đoán rằng, cậu mắc chứng khó đọc, vì các từ ngữ cứ xoắn xít lại với nhau khi cậu cố đọc. Lần đầu tiên cậu nhìn thấy ả gorgon, lúc này đang làm ra vẻ như một người chào đón khách tại Chợ Giảm Giá với một cái thẻ tên lớn màu xanh lục đề dòng chữ: Chào mừng! Tên tôi là STHENO, cậu đã nghĩ từ đó đọc là BEANO.
Ả vẫn đang mặc chiếc áo vest màu xanh lục của nhân viên Chợ
Giảm Giá bên ngoài một chiếc áo đầm in hoa. Nếu bạn chỉ nhìn vào cơ thể của ả ta, bạn có thể nghĩ ả là một người bà già nua béo mập của ai đó – cho đến khi bạn nhìn xuống và nhận ra ả ta có một cặp chân gà trống. Hay bạn ngước lên và nhìn thấy mớ răng nanh của lợn lòi đực bằng đồng chìa ra hai bên khóe miệng. Đôi mắt ả đỏ rực, mái tóc là một ổ những con rắn màu xanh lá mạ đang quằn quặn.
Điều kinh khủng nhất về ả á? Ả vẫn đang cầm cái đĩa phẳng lớn bằng bạc chứa các mẫu thử: Xúc xích Pho Mát Chiên Giòn. Lần nào Percy kết liễu ả ta cái đĩa cũng bị lõm vào, nhưng những mẫu thử nho nhỏ đó trông còn khá tốt. Stheno vẫn mang chúng đi khắp cả California để ả ta có thể mời Percy thử một miếng trước khi giết cậu. Percy không biết vì lý do gì ả ta cứ mãi làm điều đó, nhưng nếu có bao giờ cậu cần đến một bộ áo giáp, thì cậu sẽ làm nó từ Xúc Xích Pho Mát Chiên Giòn. Chúng cực kỳ bền. “Thử một miếng nhé?” Stheno mời cậu.
Percy đẩy ả ta bằng thanh kiếm của mình. “Em gái ngươi đâu?” “Ồ, cất thanh kiếm đó đi,” Stheno la rầy. “Ngươi biết hiện giờ ngay cả đồng Celestial không thể khiến chúng ta chết lâu hơn được. Ăn một miếng Xúc xích Pho Mát Chiên Giòn đi! Chúng sẽ được bày bán trong tuần này, và ta ghét phải giết ngươi khi ngươi có một cái dạ dày
“Chị Stheno!” ả gorgon thứ hai xuất hiện ở phía tay phải cậu ngay tức thì, đến nỗi cậu không có thời gian để phản ứng. May thay ả ta quá bận rộn với việc trừng mắt nhìn chị gái mình nên không chú ý nhiều đến cậu. “Em đã bảo chị lặng lẽ tới gần và giết chết nó cơ mà!”
Nụ cười của Stheno biến mất. “Nhưng, Euryale...” Ả ta nói cái tên nghe như cùng vần với từ Muriel. “Chị không thể cho nó ăn mẫu thử trước sao?”
“Không được, bà chị khờ kia!” Euryale quay người đối diện với Percy và nhe nanh ra.
Ngoại trừ mái tóc, ổ của lũ rắn san hô thay vì những con rắn hổ lục, ả ta trông giống hệt chị gái mình. Chiếc áo vest của Chợ Giảm Giá, chiếc áo đầm hoa hòe hoa sói, thậm chí mớ răng nanh cũng được trang trí hình dán có chữ GIẢM GIÁ 50%. Trên thẻ tên ả ta đề: Xin chào! Tên tôi là CHẾT ĐI, ĐỒ Á THẦN XẤU XA!
“Ngươi đã dẫn bọn ta chạy vòng vòng, Percy Jackson,” Euryale nói. “Nhưng giờ ngươi hết đường trốn rồi, và bọn ta sẽ cho ngươi biết tay!”
“Món Xúc Xích Pho Mát chỉ có 2 đô 99 xu,” Stheno thêm vào. “Quầy tạp hóa, gian thứ ba.”
Euryale cằn nhằn. “Chị Stheno, Chợ Giảm Giá chỉ là vỏ bọc! Chị nhập tâm vào nó quá đấy! Giờ, đặt cái khay lố bịch đó xuống và giúp em giết tên á thần này. Hay chị đã quên vụ nó làm Medusa bốc hơi rồi?”
Percy bước lùi lại. Chỉ mười lăm centimét nữa, cậu sẽ rơi xuyên qua tầng không khí loãng. “Nghe này các quý cô, chúng ta chấm dứt chuyện này ở đây đi. Tôi thậm chí còn không nhớ việc giết chết Medusa. Tôi không nhớ bất cứ điều gì! Sao chúng ta không tạm nghỉ và nói về giá đặc biệt tuần này của các cô nhỉ?”
Stheno bĩu môi nhìn em gái mình, việc đó thật khó thực hiện khi có những cái răng nanh bằng đồng khổng lồ. “Chúng ta có thể không?”
“Không được!” Đôi mắt đỏ rực của Euryale nhìn chằm chặp vào Percy. “Ta không quan tâm việc ngươi nhớ được gì, con trai của thần biển. Ta có thể ngửi thấy mùi máu Medusa trên người ngươi. Nó đã phai đi, đúng thế, cũng đã một vài năm rồi, nhưng ngươi là người cuối cùng đánh bại con bé. Nó vẫn chưa quay trở lại từ Tartaus. Đó là lỗi của ngươi!”
Percy thật sự không hiểu điều đó cho lắm. Toàn bộ khái niệm “chết đi rồi quay trở lại từ Tartarus” khiến đầu cậu đau nhức. Dĩ nhiên, cả ý tưởng rằng một cây bút bi có thể biến thành một thanh kiếm, hay những con quái vật có thể được ngụy trang bởi
thứ được gọi là Màn Sương Mù, hoặc Percy là con trai của một vị thần người bám đầy hàu từ cách đây năm ngàn năm cũng góp thêm vào nữa. Nhưng cậu có tin vào điều đó. Ngay cả khi ký ức đã bị xóa sạch, việc cậu biết mình là một á thần cũng tương tự như việc cậu biết mình tên Percy Jackson vậy. Từ cuộc đối thoại
đầu tiên với con sói Lupa, cậu đã chấp nhận cái thế giới nhập nhằng giữa các vị thần và lũ yêu quái điên khùng này là sự thật. Nội bấy nhiêu đó cũng đã đủ tệ lắm rồi.
“Vậy chúng ta xem như hòa nhau được không?” cậu nói. “Tôi chẳng giết được các người. Các người cũng chẳng giết được tôi. Nếu các người là chị gái của Medusa – như Medusa, người có thể biến mọi người thành đá – đáng lẽ giờ tôi đã bị biến thành đá rồi chứ?”
“Lũ anh hùng các ngươi!” Euryale nói với vẻ chán ghét. “Chúng luôn đề cập đến vấn đề đó, y hệt mẹ bọn ta! ‘Sao hai đứa không thể biến mọi người thành đá? Em gái con có thể biến mọi người thành đá đấy.’ Ừm, ta lấy làm tiếc vì đã khiến ngươi thất vọng,
nhóc! Rằng chỉ duy nhất Medusa là chịu lời nguyền đó. Nó là đứa ghê gớm nhất trong nhà. Nó có được mọi may mắn!” Stheno trông đầy tổn thương. “Mẹ nói chị là người ghê gớm nhất.”
“Im miệng!” Euryale cắt ngang. “Còn về phần ngươi, Percy Jackson, đúng là ngươi có dấu ấn của Achilles. Điều đó khiến việc giết ngươi khó hơn một chút. Nhưng đừng lo. Bọn ta sẽ tìm được cách thôi.”
“Dấu ấn của cái gì?”
“Achilles,” Stheno vui vẻ nói. “Ôi anh ta mới quyến rũ làm sao! Được nhúng vào sông Styx khi còn bé, ngươi biết đấy, vì thế anh ta bất khả xâm phạm, trừ một điểm bé tẻo teo ở gót chân anh ta. Đó là những gì đã xảy ra với ngươi, nhóc yêu. Ai đó ắt đã nhúng ngươi vào sông Styx và khiến ngươi trở nên mình đồng da sắt. Nhưng đừng lo lắng nhé. Lũ anh hùng bọn ngươi luôn có một
điểm yếu. Bọn ta chỉ việc tìm ra nó, và rồi bọn ta sẽ giết ngươi. Điều đó chẳng phải thật thú vị sao? Ăn một miếng Xúc Xích Pho Mát nhé!
Percy cố nghĩ. Cậu không nhớ gì về chuyện được nhúng vào sông Styx. Thêm nữa, cậu cũng chẳng nhớ được nhiều lắm. Da cậu không hề giống sắt, nhưng nó giải thích được việc cậu có thể chống chọi lâu như thế với những ả gorgon này.
Có lẽ nếu cậu rơi xuống núi... liệu cậu có sống sót không? Cậu không muốn liều mạng – khi chẳng có thứ gì để làm cú rơi chậm lại, hoặc một cái xe trượt tuyết, hoặc...
Cậu nhìn cái đĩa bạc lớn chứa các mẫu thử của Stheno. Ừm...
“Đang xem xét lại sao?” Stheno hỏi. “Thông minh lắm, nhóc yêu. Ta đã cho thêm ít máu gorgon vào trong những thứ này, vì thế cái chết của ngươi sẽ đến thật nhanh và không đau đớn.”
Cổ họng Percy như siết chặt lại. “Ngươi cho thêm máu mình vào món Xúc xích Pho Mát sao?”
“Chỉ một ít thôi.” Stheno mỉm cười. “Một vết cắt nhỏ trên cánh tay ta, nhưng ngươi thật tử tế khi tỏ ra quan tâm đến ta như thế. Máu từ phía bên phải bọn ta có thể chữa trị bất cứ loại bệnh tật nào, ngươi biết đấy, nhưng máu từ bên trái lại làm chết người...”
“Bà chị ngu đần kia!” Euryale rít lên. “Chị không được phép nói nó nghe điều đó! Nó sẽ không ăn mẫu xúc xích đó nếu như chị nói cho nó biết chúng đã bị tẩm độc!”
Stheno trông sửng sốt. “Nó sẽ không ăn sao? Nhưng chị đã nói việc đó sẽ thật nhanh và không đau đớn mà.”
“Đừng bận tâm!” Những cái móng tay của Euryale biến thành những cái vuốt. “Chúng ta sẽ ra tay thật hăng vào – cứ việc chém cho đến khi chúng ta tìm thấy điểm yếu của nó. Một khi chúng ta đánh bại được Percy Jackson, chúng ta sẽ nổi tiếng hơn cả Medusa! Người bảo trợ sẽ thưởng lớn cho chúng ta đấy!”
Percy nắm chặt lấy thanh kiếm. Cậu phải tính toán kỹ hành
động của mình – một vài giây hỗn loạn, chộp lấy cái đĩa bằng tay trái...
Phải làm cho bọn chúng tiếp tục nói chuyện, cậu ngh “Trước khi các ngươi chém ta thành từng mảnh nhỏ,” cậu nói, “người bảo trợ mà các ngươi nhắc đến là ai?”
Euryale cười khẩy. “Nữ thần Gaea, dĩ nhiên rồi! Người đã mang chúng ta quay trở lại từ cõi quên lãng! Ngươi sẽ chẳng sống được bao lâu để mà gặp được bà ấy đâu, nhưng các bạn ngươi ở bên dưới sẽ nhanh chóng đón nhận cơn thịnh nộ của bà ấy. Còn bây giờ, các đội quân dưới trướng bà ấy đang đi về phía nam. Vào ngày Lễ hội Cầu May, bà ấy sẽ tỉnh thức, và các á thần sẽ bị chém chết như... như...”
“Như các mức giá giảm của chúng ta ở Chợ Giảm Giá!” Stheno gợi ý.
“Gừ!” Euryale lao sầm sập về phía chị gái mình. Percy ra tay trước. Cậu chụp lấy cái đĩa của Stheno, hất đổ các miếng Xúc Xích Pho Mát thử đã bị tẩm độc và chém thanh Thủy Triều ngang qua hông Euryale, cắt ả ta ra thành hai.
Cậu giơ cái đĩa lên cao, và Stheno nhìn thấy cái bóng gớm ghiếc của chính mình trong ấy.
“Medusa!” ả hét lên.
Cô em gái Euryale của ả ta vỡ vụn thành tro bụi, nhưng đang bắt đầu tái tạo lại, như là một người tuyết không tan vậy. “Stheno, bà chị ngu ngốc kia!” ả ta nói ríu rít khi khuôn mặt mới tái tạo lại được một nửa của ả trồi lên từ đống bụi. “Đó chỉ là bóng của chị mà thôi! Tóm nó ngay!”
Percy đánh mạnh cái khay kim loại vào đỉnh đầu Stheno, và ả ta hoàn toàn bất tỉnh.
Cậu đặt cái đĩa phía sau mông, thầm cầu nguyện với bất cứ vị thần La Mã nào đó trông coi các mánh lới trượt tuyết ngu ngốc và nhảy xuống khỏi sườn đồi.
II. PERCY
VIỆC LAO THẲNG XUỐNG DỐC với tốc độ năm mươi dặm một giờ trên một cái đĩa đựng đồ ăn nhẹ – nếu bạn nhận ra đó là một ý tưởng ngốc nghếch khi bạn đang lao xuống được nửa đường, thì cũng đã quá muộn rồi.
Percy suýt đâm sầm vào một cái cây, bay lướt qua một tảng đá và quay một vòng ba trăm sáu mươi độ khi cậu bắn thẳng về phía đường cao tốc. Cái khay đựng đồ ăn ngu ngốc này không có khả năng bẻ lái.
Cậu nghe tiếng chị em nhà gorgon kêu gào và thoáng nhìn thấy cái đầu rắn san hô của Euryale trên đỉnh đồi, nhưng cậu không có nhiều thời gian lo nghĩ đến việc đó. Mái của khu căn hộ lờ mờ hiện ra bên dưới cậu như một mũi tàu chiến. Việc đâm đầu vào nhau sẽ diễn ra trong mười, chín, tám...
Cậu cố xoay người sang hướng khác để tránh việc chân mình sẽ bị gãy khi va chạm. Cái đĩa đựng đồ ăn bay lướt qua mái ngói và lao thẳng vào giữa không trung. Cái đĩa đi một đường. Percy đi một nẻo.
Khi Percy ngã về phía đường cao tốc, một viễn cảnh kinh dị xuất hiện chớp nhoáng trong tâm trí cậu: cơ thể cậu đâm sầm vào kính chắn gió một chiếc SUV, một người đi làm khó chịu nào đó đang cố phủi cậu xuống khỏi tấm kính bằng cần gạt nước. Một thằng nhóc mười sáu tuổi ngu ngốc rơi từ trên trời xuống! Mình trễ giờ rồi!
Kỳ diệu thay, một cơn gió mạnh đã thổi cậu qua một bên – vừa đủ để tránh khỏi đường cao tốc và đâm vào một lùm cây bụi. Đấy không phải là một điểm tiếp đất mềm mại, nhưng dẫu sao còn tốt hơn nhiều so với nhựa đường.
Percy rên rỉ. Cậu muốn nằm đó và ngất đi, nhưng cậu phải tiếp tục di chuyển.
Cậu cố đứng dậy. Hai tay cậu đều trầy xước, nhưng hình như
không có cái xương nào bị gãy. Ba lô của cậu vẫn còn. Thanh kiếm thì bị thất lạc đâu đó trên đường trượt xuống dốc, nhưng Percy biết nó cuối cùng cũng sẽ xuất hiện trong túi quần mình trong hình dáng một cây bút bi. Đó là một phần sức mạnh của nó.
Cậu liếc nhìn lên đồi. Lũ gorgon thật khó mà bỏ qua, với mái tóc rắn đầy màu sắc và những chiếc áo vest màu xanh lá mạ của Chợ Giảm Giá. Chúng đang trên đường đi xuống đồi, đi chậm hơn Percy nhưng kiểm soát tốt hơn. Những đôi chân gà ắt là giúp ích nhiều trong việc leo trèo của chúng. Percy ước chừng cậu có khoảng năm phút trước khi chúng tóm được cậu.
Kế bên cậu, một hàng rào mắt cáo thật cao ngăn cách đường cao tốc với một khu vực dân cư có đường sá quanh co, những ngôi nhà ấm cúng và những rặng bạch đàn cao vút. Hàng rào tồn tại ở đó chắc là để giữ cho con người không vọt lên trên đường cao tốc và làm những điều ngu ngốc – chẳng hạn như lao vào làn xe cao tốc trên khay đựng đồ ăn nhẹ – nhưng mắt cáo có rất nhiều lỗ lớn. Percy có thể dễ dàng chui qua đó vào khu dân cư. Có thể cậu sẽ tìm được một chiếc ô-tô và lái về hướng đại dương ở phía tây. Cậu không thích việc ăn cắp xe, nhưng trong vài tuần qua, trong những tình huống sống còn, cậu đã “mượn” một vài thứ, trong đó có cả một chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Cậu cũng có ý trả lại tất cả, nhưng chúng dường như chưa bao giờ tồn tại được lâu.
Cậu liếc nhìn về phía đông. Đúng y những gì cậu đoán, một con đường cao tốc dốc dài chín mươi mốt mét cắt xuyên qua chân vách đá. Hai lối vào đường hầm, mỗi một cái dành cho một hướng lưu thông, nhìn chằm chằm xuống cậu như hai hốc mắt của cái đầu lâu khổng lồ. Ở chính giữa, nơi sẽ là cái mũi, một bức tường xi-măng nhô ra từ sườn đồi, với một cánh cửa bằng kim loại giống hệt lối vào của một boong-ke.
Đó có thể là một đường hầm bảo trì. Chắc hẳn những người
phàm đã nghĩ vậy, nếu họ có chú ý chút nào đó đến cánh cửa. Nhưng họ không thể nhìn xuyên qua Màn Sương Mù. Percy biết rõ về cánh cửa đó hơn họ nhiều.
Hai đứa trẻ mặc áo giáp đứng canh ở hai bên lối vào. Trang phục của chúng là một kiểu phối đồ kỳ lạ giữa những chiếc mũ giáp La Mã được tô điểm bằng lông vũ, giáp che ngực, bao kiếm, quần jeans, áo phông màu tía và giày thể thao màu trắng. Người canh giữ ở mé bên phải có vẻ là một cô gái, mặc dầu thật khó mà nhận biết chắc chắn với bộ áo giáp như thế. Người ở bên trái trông chắc nịch, mang cung và ống tên ở sau lưng. Cả hai bọn họ đều cầm gậy gỗ dài có mũi bịt sắt nhọn, như những cây lao kiểu xưa.
Radar bên trong cơ thể Percy kêu ping ping như điên. Sau quá nhiều ngày tồi tệ, cuối cùng cậu cũng đã đến được đích. Các bản năng mách bảo với cậu rằng nếu cậu có thể đi vào bên trong cánh cửa đó, cậu có thể tìm thấy nơi an toàn đầu tiên kể từ khi những con sói đưa cậu đi về phía nam.
Vậy sao cậu lại cảm thấy sợ hãi đến thế?
Xa trên đồi, hai chị em nhà gorgon đang trườn qua mái khu căn hộ phức hợp. Chỉ còn ba phút nữa – hoặc có thể ít hơn. Một phần trong cậu muốn chạy đến cánh cửa ở trên đồi. Cậu chỉ cần vượt qua dải phân cách của đường cao tốc, rồi sau đó chạy hết tốc lực trong một quãng đường ngắn. Cậu có thể thực hiện điều đó trước khi hai ả gorgon tóm được cậu. Phần còn lại trong cậu muốn đi theo hướng tây về phía đại dương. Đó sẽ là nơi cậu được an toàn nhất. Đồng thời là nơi sức mạnh của cậu phát huy mạnh mẽ nhất. Hai đứa trẻ gác cửa người La Mã kia khiến cậu không thoải mái. Một giọng nói bên trong cậu vang lên: Đây không phải là lãnh thổ của tôi. Nơi này rất nguy hiểm.
“Ngươi nói đúng, dĩ nhiên là thế rồi,” một giọng nói vang lên kế bên cậu.
Percy nhảy dựng lên. Lúc đầu cậu nghĩ Beano lại ú òa mình lần nữa, nhưng bà lão đang ngồi trong bụi cây thậm chí còn ghê sợ hơn cả một ả gorgon. Bà ta trông giống một người híp-pi đã bị đá ra đường chắc chừng được bốn mươi năm rồi. Và kể từ đó, đây là nơi bà ta thu lượm rác cùng giẻ rách. Bà ta mặc một chiếc áo đầm được làm từ loại vải nhuộm màu loang lổ, một cái mền rách te tua và một cái túi tạp hóa bằng nhựa. Mái tóc nâu xoăn bù xù của bà nhuốm màu hoa râm như bọt của bia xá xị, được cột ra sau bằng dây buộc đầu có biểu tượng hòa bình. Mụn cóc và nốt ruồi phủ đầy mặt bà ta. Khi mỉm cười, miệng bà ta chỉ lộ ra đúng ba cái răng.
“Đó chẳng phải là một đường hầm bảo trì đâu,” bà ta hé lộ. “Mà là lối vào một khu trại.”
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Percy. Trại. Đúng thế, cậu đến từ đó. Một cái trại. Có lẽ đây là nhà cậu. Không biết chừng Annabeth đang ở đâu đó trong trại.
Nhưng có điều gì đó không đúng.
Mấy ả gorgon vẫn còn trên mái khu căn hộ. Rồi Stheno kêu rít lên vì vui sướng và chỉ tay về phía Percy.
Bà lão híp-pi nhướn mày. “Không còn nhiều thời gian, nhóc. Cậu cần phải đưa ra lựa chọn của mình.”
“Bà là ai?” Percy hỏi, mặc dầu cậu không chắc mình muốn biết điều đó. Điều cuối cùng cậu cần là một người phàmô hại đột nhiên biến thành một con quái vật.
“Ồ, ngươi có thể gọi ta là June.” Đôi mắt bà lão đó sáng lên như thể bà ta vừa mới kể một chuyện cười hay ho nào đó. “Loài người có tháng Sáu, chẳng phải sao? Họ đã đặt tên tháng theo tên của ta!”
“Được rồi... Nghe này, tôi phải đi thôi. Hai ả gorgon sắp đuổi đến. Tôi không muốn chúng làm hại bà.”
Bà June siết chặt hai bàn tay phía trên trái tim mình. “Cậu mới dễ thương làm sao! Nhưng đó là một phần lựa chọn của cậu!”
“Lựa chọn của tôi...” Percy bồn chồn liếc nhìn về phía ngọn đồi. Hai ả gorgon đã cởi bỏ những chiếc áo vest màu xanh lá mạ ra. Sau lưng mỗi ả mọc ra một đôi cánh – những đôi cánh dơi nhỏ, sáng lấp lánh như được làm từ đồng thau.
Chúng có cánh từ khi nào nhỉ? Đó có thể chỉ là vật trang trí. Có thể hai đôi cánh quá nhỏ để mang hai ả gorgon kia bay vào không trung. Rồi hai chị em nhảy khỏi mái nhà của khu căn hộ và bay về phía cậu.
Tuyệt. Thật tuyệt.
“Đúng, một lựa chọn,” bà June nói, như thể bà ta chẳng lấy gì làm vội vã vậy. “Cậu có thể để ta ở lại đây, phó mặc ta cho lũ gorgon kia rồi đi về phía đại dương. Cậu sẽ an toàn đến được đó, ta bảo đảm đấy. Lũ gorgon kia sẽ khá là vui vẻ tấn công ta và thả cậu đi. Dưới biển sẽ chẳng có con quái vật nào làm phiền cậu. Cậu có thể bắt đầu một cuộc sống mới, sống cho đến khi già đi, thoát khỏi vô số nỗi đau và bất hạnh sắp xảy ra trong tương lai của cậu.”
Percy khá chắc rằng mình sẽ không thích lựa chọn thứ hai. “Hoặc?”
“Hoặc cậu có thể làm một việc tốt cho một bà già,” bà ta nói. “Hãy mang theo ta về phía trại với cậu.”
“Mang theo bà?” Percy hy vọng bà ta chỉ đang nói đùa. Nhưng rồi bà June kéo phần váy của mình lên, để lộ đôi chân sưng đỏ. “Ta không thể tự mình đến đó,” bà ta nói. “Mang ta đến trại – băng qua đường cao tốc, đi xuyên qua đường hầm, vượt qua một con
Percy không biết bà ta muốn nhắc đến con sông nào, nhưng việc này nghe chẳng dễ dàng gì cho lắm. Bà June trông khá nặng. Lũ gorgon giờ chỉ còn cách cậu có bốn mươi lăm mét – chúng chao liệng về phía cậu thật nhàn nhã như thể chúng biết được rằng cuộc đi săn sắp kết thúc.
Percy nhìn bà lão trước mặt mình. “Và tôi sẽ mang bà đến trại
đó vì...?”
“Vì điều đó biểu hiện cho lòng tốt!” bà ta nói. “Và nếu cậu không làm thế, các vị thần sẽ chết, thế giới mà chúng ta biết sẽ diệt vong, và mọi người trong cuộc sống trước đây của cậu sẽ mất mạng. Dĩ nhiên, cậu sẽ không nhớ họ, vì thế ta cho rằng điều đó chẳng có vấn đề gì. Cậu sẽ an toàn ở bên dưới đáy biển...”
Percy nuốt xuống. Đám gorgon cười đinh tai nhức óc khi chúng bay vút lên, chuẩn bị cho đòn kết liễu.
“Nếu tôi đến trại,” cậu nói, “liệu tôi sẽ có lại ký ức của mình không?”
“Vào thời điểm thích hợp,” bà June nói. “Nhưng ta cảnh báo cậu, cậu sẽ phải hy sinh khá nhiều đấy! Cậu sẽ mất đi dấu ấn của Achilles. Cậu sẽ cảm nhận được sự đau đớn, khổ sở và mất đi tất cả những gì cậu từng biết. Nhưng cậu có thể có được cơ hội cứu sống những người bạn cũ và gia đình cậu, giành lại được cuộc sống trước đây của mình.”
Đám gorgon đang bay thành vòng tròn ngay phía trên đầu cậu. Chắc là chúng đang săm soi thật kỹ bà lão này, cố đoán người chơi mới là ai trước khi chúng tấn công.
“Thế còn những người gác cửa thì sao?” Percy hỏi. Bà June mỉm cười. “Ồ, chúng sẽ để cậu vào. Cậu có thể tin tưởng hai đứa bé đó. Vậy, cậu sẽ nói gì đây? Cậu sẽ giúp bà già yếu ớt này chứ?”
Percy thấy nghi ngờ về việc bà June là một bà lão yếu ớt. Trong trường hợp xấu nhất, đây sẽ là một cái bẫy. Còn nếu may mắn thì sẽ là một kiểu kiểm tra nào đó.
Percy ghét các bài kiểm tra. Kể từ khi mất đi ký ức, toàn bộc cuộc đời cậu l một bài điền vào chỗ trống thật lớn. Cậu là_______, đến từ________. Cậu cảm giác như_____, và nếu bị những con yêu quái tóm được, cậu sẽ _______.
Rồi cậu nghĩ về Annabeth, phần duy nhất trong cuộc sống trước kia mà cậu khá chắc chắn. Cậu phải tìm được cô.
“Tôi sẽ mang bà đến trại.” Cậu bế bổng bà ta lên. Bà ta nhẹ hơn cậu tưởng. Percy cố lờ đi hơi thở hôi thối và đôi tay chai sạn đang bám vào cổ mình. Cậu lao qua làn đường thứ nhất. Một người lái xe bấm còi. Những người khác hét điều gì đó, tiếng hét tan biến vào trong làn gió. Phần lớn mọi người đều bẻ lái và trông phát cáu, như thể họ phải đối phó với khá nhiều thanh thiếu niên lập dị đang mang một người phụ nữ híp-pi băng qua đoạn đường cao tốc này ở Berkeley.
Một cái bóng bao trùm khắp người cậu. Stheno gọi với xuống một cách vui sướng. “Thằng nhóc thông minh! Đã tìm thấy và mang theo một nữ thần sao?”
Một nữ thần?
Bà June cười khúc khích với vẻ thích thú, lầm bầm, “Ối!” khi một chiếc xe suýt đâm sầm vào họ.
Ở đâu đó phía bên tay trái cậu, Euryale hét lớn, “Tóm lấy chúng! Hai phần thưởng thì tốt hơn một!”
Percy lao nhanh qua các làn đường còn lại. Bằng cách nào đó cậu đã đến được dải phân cách mà vẫn còn sống. Cậu nhìn thấy lũ gorgon đang sà xuống, xe cộ chệch hướng khi những con yêu quái bay qua phía trên chúng. Cậu tự hỏi những người phàm đã nhìn thấy gì qua Màn Sương Mù – những con bồ nông khổng lồ ư? Hay những người chơi dù lượn đang thi tài? Con sói Lupa từng nói với cậu rằng tâm trí của con người có thể tin vào bất cứ điều gì – ngoại trừ sự thật.
Percy chạy về phía cánh cửa trên sườn đồi. Theo từng bước chân, bà June đang dần trở nên nặng hơn. Tim Percy đập thình thịch. Các xương sườn của cậu đau nhói.
Một trong hai người canh gác hét lớn. Là cậu nhóc cầm cung lắp mũi tên vào. Percy gào lên, “Đợi đã!”
Nhưng cậu bé đó không nhắm vào cậu. Mũi tên bay qua đầu Percy. Một ả gorgon kêu the thé lên vì đau đớn. Người canh cửa thứ hai lăm lăm ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu, vẫy tay điên
cuồng về phía Percy nhằm thúc giục cậu nhanh chân lên. Cậu chỉ cách cánh cửa mười lăm mét. Chín mét.
“Tóm được các ngươi rồi!” Euryale rít lên. Percy quay người lại khi một mũi tên cắm phập vào trán ả ta. Euryale bay nhào vào làn đường cao tốc. Một chiếc xe tải đâm sầm vào ả ta và đẩy ả ta lùi lại khoảng chín mươi mốt mét, nhưng ả ta chỉ việc leo lên phía trên ca-bin, giật mũi tên ra khỏi đầu và bay trở lại vào không trung.
Percy đến được chỗ cánh cửa. “Cám ơn,” cậu nói với những người gác cổng. “Cú bắn đẹp đấy.”
“Cú đó đáng lý phải giết được ả ta chứ!” anh chàng cung thủ phản đối.
“Chào mừng đến với thế giới của tôi,” Percy lầm bầm. “Anh Frank,” cô gái nói. “Chúng ta phải đưa họ vào bên trong, nhanh nào! Chúng là lũ gorgon.”
“Gorgon?” Giọng của cậu bé cung thủ the thé. Thật khó để miêu tả nhiều về cậu ta bên dưới cái mũ giáp, nhưng cậu ta trông chắc nịch hệt một tay đô vật, có lẽ là mười bốn hay mười lăm tuổi gì đấy. “Liệu cánh cửa này có thể cầm chân chúng không?”
Nằm trong hai cánh tay của Percy, bà June bất ngờ cất tiếng. “Không được đâu. Đi về phía trước, Percy Jackson! Xuyên qua đường hầm, vượt qua con sông!”
“Percy Jackson?” Cô gái giữ cửa hầm có nước da ngăm đen, mái tóc xoăn lấp ló bên dưới chiếc mũ giáp. Cô trông nhỏ tuổi hơn Frank – có thể là khoảng mười ba tuổi. Bao kiếm của cô dài đến gần mắt cá chân. Dù vậy, cung cách cô nói chuyện nghe như thể cô là một chỉ huy. “Được rồi, rõ ràng anh là một á thần. Nhưng bà lão này là...?” Cô liếc nhìn bà June. “Quên đi. Cứ đi vào trong cái đã. Em sẽ giữ chân chúng.”
“Hazel,” cậu nhóc nói. “Đừng có điên như thế.”
“Đi đi!” cô bé cương quyết.
Frank chửi rủa bằng một ngôn ngữ nào đó – có phải là tiếng
Latinh không nhỉ? – và mở cánh cửai thôi!”
Percy đi theo, bước chân loạng choạng với sức nặng của bà lão, người chắc chắn đang mỗi lúc một trở nên nặng hơn. Cậu không biết làm thế nào mà cô bé tên Hazel đó có thể tự mình cầm chân được hai ả gorgon, nhưng cậu quá mệt mỏi để tranh cãi thêm nữa.
Đường hầm cắt xuyên qua một khối đá rắn, có chiều rộng và chiều cao của một hành lang trường học. Lúc đầu, nó trông giống một đường hầm bảo trì điển hình với đường dây điện, biển cảnh báo và hộp cầu chì trên các bức tường, những cái bóng đèn trong các lồng kim loại treo dọc trên trần đường hầm. Khi họ chạy sâu hơn vào bên trong sườn đồi, nền đường hầm bằng xi-măng biến thành các miếng đá lát ghép. Các bóng đèn được thay bằng những ngọn đuốc sậy, cháy nhưng không bốc khói. Cách đó vài trăm mét đằng trước, Percy nhìn thấy một ô vuông ánh sáng.
Bà lão mà cậu mang theo giờ còn nặng hơn một đống túi cát. Hai cánh tay Percy run rẩy vì quá sức. Bà June lầm bầm một bài hát bằng tiếng Latinh, nghe như một bài hát ru, điều đó chẳng giúp gì cho Percy trong việc tập trung.
Phía sau họ, giọng của hai ả gorgon vang vọng trong đường hầm. Hazel hét lớn. Percy muốn được ném phịch bà June xuống và quay lại giúp đỡ, nhưng rồi toàn bộ đường hầm rung chuyển với tiếng đá rơi ầm ầm. Rồi tiếng quác quác vang lên, giống hệt như tiếng kêu của lũ gorgon khi Percy thả một thùng banh bô-linh vào chúng lúc ở Napa. Cậu ngoái đầu nhìn lại. Phía tây của đường hầm giờ phủ đầy bụi.
“Chúng ta có nên quay trở lại xem Hazel không?” cậu hỏi. “Cô ấy sẽ ổn thôi – tớ hy vọng thế,” Frank nói. “Cô ấy rất giỏi với những việc có liên quan đến dưới mặt đất. Cứ tiếp tục đi nào! Chúng ta cũng gần đến nơi rồi.”
“Gần đến đâu cơ?”
Bà June cười khúc khích. “Mọi con đường đều dẫn đến đó, nhóc
con. Cậu nên biết điều đó.”
“Nhà giam sao?” Percy hỏi.
“Rome, nhóc con,” bà lão nói. “Rome.”
Percy không chắc mình có nghe đúng những gì bà ta nói không. Đúng là ký ức không còn nữa. Cậu cảm thấy đầu óc mình có gì đó không ổn kể từ khi cậu tỉnh dậy ở Nhà Sói. Nhưng cậu khá chắc rằng Rome không ở California.
Họ vẫn tiếp tục chạy về phía trước. Ánh sáng ở phía cuối đường hầm ngày càng sáng hơn, và cuối cùng họ lao vào trong ánh mặt trời chiếu rọi.
Percy đứng khựng lại. Trải dài dưới chân cậu là một thung lũng hình cái bát rộng vài dặm. Phía đáy lòng chảo lổm nhổm những ngọn đồi nhỏ hơn, các đồng bằng vàng rực và các dải rừng. Một con sông nhỏ trong vắt uốn lượn quanh co bắt nguồn từ một cái hồ ở chính giữa và bao quanh một vành đai, trông như một chữ G hoa.
Các đặc điểm địa lý cho thấy đây có thể là một địa điểm bất kỳ ở phía bắc California – nơi sinh trưởng của cây sồi và cây bạch đàn, những ngọn đồi màu vàng và bầu trời xanh ngắt. Ngọn núi to nằm sâu trong đất liền đó – nó được gọi là, Núi Diablo, phải không nhỉ? – vươn lên cao ở phía xa kia, đúng ngay nơi nó nên tồn tại.
Nhưng Percy có cảm giác như mình sắp bước vào một thế giới bí ẩn. Ở ngay giữa trung tâm thung lũng, nép mình kế bên hồ là một thành phố nhỏ với các tòa nhà được xây bằng đá hoa cương trắng và lợp ngói màu đỏ. Một số có mái vòm và mái cổng hình trụ, giống hệt các di tích quốc gia. Những ngôi nhà khác lại trông giống các cung điện, với cửa ra vào mạ vàng và khuôn viên vườn tược rộng lớn. Cậu có thể nhìn thấy một quảng trường lộ thiên với các cây cột tưởng niệm, đài phun nước và các bức tượng. Đấu trường La Mã cao năm tầng tỏa sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, kế đó là một đấu trường hình ô-van dài trông giống một trường
đua ngựa.
Ở phía bên kia hồ về hướng nam, một ngọn đồi khác được điểm xuyết bằng những công trình thậm chí còn ấn tượng hơn – các đền thờ, Percy đoán thế. Vài cây cầu đá bắc ngang qua con sông khi nó lượn quanh cả thung lũng. Ở phía bắc, một dải dài các vòm cầu xây bằng gạch kéo dài từ phía các ngọn đồi hướng vào thành phố. Percy cứ ngỡ nó là tuyến một đường sắt trên cao. Rồi cậu nhận ra đó ắt hẳn là cầu dẫn nước[2].
Phần khác lạ nhất trong thung lũng nằm ngay dưới chân cậu. Cách đấy khoảng một trăm tám mươi hai mét, chỉ cần vượt qua sông là đến được một doanh trại quân đội. Nơi đó rộng khoảng bốn trăm lẻ hai mét vuông, có các bức tường thành bằng đất mọc lên ở cả bốn phía với các thanh rào nhọn bên trên. Bên ngoài tường thành là một đường hào cạn rải chông nhọn hoắt. Các chòi canh gỗ nhô lên ở mỗi g được canh gác bởi lính gác trang bị nỏ có giá ngoại cỡ. Những lá cờ màu tía bay phấp phới phía trên các ngọn tháp. Một cổng ra vào rộng rãi để ngỏ ở phía bên kia của trại, dẫn thẳng đến thành phố. Một cánh cửa hé mở nằm kế bên bờ sông. Bên trong, pháo đài tấp nập các hoạt động: hàng tá những đứa trẻ hối hả ra vào các doanh trại, mang theo đủ loại vũ khí và mặc áo giáp sáng loáng. Percy nghe thấy tiếng búa gõ lanh canh từ một xưởng rèn và mùi thịt nướng thơm nức mũi.
Nơi này có vẻ vô cùng quen thuộc, nhưng có gì đó không đúng. “Trại Jupiter,” Frank nói. “Chúng ta sẽ an toàn một khi...” Tiếng bước chân vang vọng trong đường hầm sau lưng họ.
Hazel lao vọt ra trong luồng sáng. Cả người cô bé phủ đầy bụi đá và hơi thở nặng nhọc. Cô đã bị mất cái mũ giáp, vì thế mái tóc nâu xoăn tít xõa ra ngang hai bờ vai cô. Phía trước áo giáp có các vết chém dài do móng vuốt của một ả gorgon gây ra. Một trong hai con yêu quái đã dán nhãn GIẢM 50% lên người cô.
“Em đã làm chậm chân bọn nó lại,” cô bé nói. “Nhưng chúng sẽ đến đây bất cứ lúc nào.”
Frank nguyền rủa. “Chúng ta phải vượt sông.”
Bà June siết cổ Percy chặt hơn. “Ồ, đúng thế, làm ơn đi. Ta không thể để cho áo đầm của ta bị ướt được.”
Percy chỉ im lặng. Nếu quý bà đây là một nữ thần, bà ta ắt hẳn là nữ thần của những người híp-pi nặng mùi, thô lỗ, vô dụng. Nhưng cậu đã đến tận đây rồi. Tốt hơn là cậu vẫn nên mang bà ta theo cùng.
Điều đó biểu hiện cho lòng tốt, bà ta đã nói. Và nếu cậu không làm thế, các vị thần sẽ chết, thế giới mà chúng ta biết sẽ diệt vong và mọi người trong cuộc sống trước đây của cậu sẽ mất mạng.
Nếu đây là một bài kiểm tra, cậu đã không thể có được một điểm F.
Khi chạy về phía con sông, cậu suýt trượt ngã vài lần. Frank và Hazel đã giúp cậu đứng vững.
Họ đến được bờ sông, và Percy ngừng lại để thở. Dòng chảy khá xiết, nhưng mực nước có vẻ không sâu lắm. Chỉ một quã ngắn nữa là đến được hai cánh cửa của một pháo đài ở bờ đối diện.
“Đi đi, Hazel.” Frank lắp cùng một lúc đến hai mũi tên. “Hãy hộ tống Percy để lính gác không bắn cậu ấy. Giờ đến lượt anh chặn đám người xấu lại.”
Hazel gật đầu và lội xuống nước.
Percy chuẩn bị đi theo, nhưng có điều gì đó khiến cậu ngần ngừ. Thường thì cậu rất yêu thích nước, nhưng con sông này dường như... có uy lực ghê gớm và hoàn toàn chẳng thân thiện chút nào.
“Tiểu Tiber,” giọng bà June đầy thông cảm. “Mang theo sức mạnh từ con sông Tiber nguyên bản, con sông của đế chế. Đây là cơ hội cuối cùng để cậu rút lui đấy nhóc. Dấu ấn của Achilles là lời chúc phúc của Hy Lạp. Cậu không thể giữ lại nó nếu cậu đi vào
lãnh thổ La Mã. Dòng sông Tiber sẽ quét sạch nó đi.”
Percy quá mệt mỏi để thông suốt tất cả mọi chuyện, nhưng cậu đã hiểu được điểm cốt yếu. “Nếu vượt qua con sông, tôi sẽ không còn mình đồng da sắt nữa sao?”
Bà June mỉm cười. “Vậy cậu quyết định thế nào đây? An toàn, hoặc một tương lai đầy đau đớn và có khả năng thành công?” Phía sau cậu, lũ gorgon rít lên khi bay ra từ đường hầm. Frank bắn tên.
Từ giữa dòng nước, Hazel hét lớn, “Đi thôi, anh Percy!” Tiếng tù và vang lên phía trên các tháp canh. Lính gác hét lớn và xoay nỏ về phía những ả gorgon.
Annabeth, Percy nhớ đến cô, sau đó bước xuống sông. Làn nước lạnh như băng và chảy xiết hơn cậu tưởng, nhưng điều đó không khiến cậu phiền lòng. Luồng sức mạnh mới trào dâng khắp các cơ bắp cậu. Các giác quan trong cậu râm ran như thể cậu vừa mới tiêm cafein vào cơ thể. Cậu đến được bờ bên kia và đặt bà lão xuống khi các cánh cửa trại mở ra. Hàng tá các đứa trẻ mặc áo giáp ùa ra.
Hazel xoay người lại với một nụ cười nhẹ nhõm. Rồi cô nhìn qua vai Percy và nét mặt cô trở nên kinh hoàng. “Anh Frank!” Frank mới lội ra giữa dòng thì những ả gorgon t được cậu ấy. Chúng từ trên trời lao xuống và mỗi ả một bên hai cánh tay cậu ấy. Frank hét lên đau đớn khi bị móng vuốt của chúng đâm vào da thịt.
Các lính canh hét lên, nhưng Percy biết họ không tài nào bắn trúng chúng. Frank sẽ chết mất thôi. Những đứa trẻ khác rút kiếm ra và sẵn sàng lao xuống nước, nhưng có thể sẽ quá trễ. Chỉ có một cách duy nhất.
Percy duỗi hai tay ra. Một cảm giác lôi kéo mạnh mẽ tràn đầy trong bụng, và dòng Tiber đã vâng theo ý cậu. Nước sông dâng lên. Các xoáy nước hình thành ở hai bên người Frank. Những bàn tay nước khổng lồ từ dòng chảy nhú ra, sao chép các động tác của Percy. Các bàn tay đó tóm lấy hai ả gorgon, giờ đã thả rơi
Frank vì ngạc nhiên, sau đó nhấc hai con yêu quái đang kêu quác quác lên trong hai gọng kìm bằng nước.
Percy nghe thấy những đứa trẻ khác thét lên và lùi ra xa, nhưng cậu vẫn đứng yên. Cậu làm động tác đập vỡ bằng nắm tay mình, và những bàn tay nước khổng lồ đó đập mạnh hai ả gorgon vào trong dòng Tiber. Đám yêu quái rơi xuống tận đáy con sông và biến thành tro bụi. Những đám bụi phát sáng lấp lánh, linh hồn của hai ả gorgon, đang cố tái tạo lại, nhưng dòng sông đã tách chúng ra như một cái máy xay. Chẳng mấy chốc, mọi dấu vết của chị em nhà gorgon đều bị cuốn trôi đi. Các xoáy nước biến mất, và dòng chảy trở lại như cũ.
Percy đứng trên bờ sông. Áo quần và da thịt cậu bốc hơi nghi ngút như thể nước của con sông Tiber vừa gột rửa cậu bằng acid vậy. Cậu cảm thấy mình không còn lớp da sắt nữa, đau đớn... yếu ớt.
Ở giữa dòng Tiber, Frank đi loạng choạng, trông choáng váng nhưng hoàn toàn ổn. Hazel lội ra và giúp cậu ấy lên bờ. Chỉ đến lúc đó Percy mới nhận ra những đứa trẻ khác đều im thin thít, không có lấy một tiếng động nào.
Mọi người đều nhìn chằm chằm vào cậu. Chỉ có bà lão June là có vẻ chẳng bối rối chút nào.
“Chà, thật là một chuyến đi thú vị,” bà ta nói. “Cám ơn cậu, Percy Jackson, vì đã mang ta đến Trại Jupiter.”
Một trong số các cô gái cất lên giọng nghèn nghẹt. “Percy... Jackson?”
Nghe như thể cô ta biết cậu. Percy nhìn kỹ cô ta, hy vọng nhận ra một gương m quen thuộc nào đó.
Cô ta ắt hẳn là một người đứng đầu. Cô ta khoác một chiếc áo choàng vương giả màu tía bên trên áo giáp. Phần ngực được trang trí huy hiệu. Cô ta khoảng bằng tuổi Percy, với đôi mắt đen sắc bén và mái tóc đen dài thượt. Percy không nhận ra cô ta, nhưng cô gái chăm chú nhìn cậu như thể cô ta đã từng gặp qua
cậu trong những cơn ác mộng.
Bà June thích thú cười lớn. “Ồ, đúng thế. Các ngươi rồi sẽ vui vẻ với nhau!”
Rồi, như thể ngày hôm nay vẫn còn chưa đủ kỳ lạ, bà lão đó bắt đầu phát sáng và biến đổi. Bà ta lớn dần lên cho đến khi trở thành một nữ thần cao hai mét tỏa sáng rực rỡ trong chiếc áo đầm màu xanh dương, với một cái áo choàng trông giống da dê phủ lên hai vai. Khuôn mặt bà ta lạnh lùng và trang nghiêm. Bà ta cầm trong tay một quyền trượng có đỉnh là một bông hoa sen.
Nếu việc đó khiến cho các trại viên trông kinh ngạc hơn, thì đúng là thế. Cô gái mặc áo choàng tía quỳ gối. Những người khác cũng làm theo. Một đứa trẻ quỳ xuống vội vàng đến nỗi suýt nữa đã xiên chính mình qua cây kiếm của cậu ta.
Hazel là người đầu tiên nói. “Nữ thần Juno.”
Cô và Frank cùng quỳ xuống, để lại Percy là người duy nhất còn đứng. Cậu biết đáng lý ra cậu cũng nên quỳ, nhưng sau khi ôm bà lão đó đi một quãng khá xa, cậu thấy mình không nên tỏ ra tôn kính bà ta quá nhiều như thế.
“Nữ thần Juno, hử?” cậu nói. “Nếu tôi vượt qua bài kiểm tra của bà, liệu tôi có thể có lại ký ức và cuộc sống của mình không?” Nữ thần mỉm cười. “Sẽ sớm thôi, Percy Jackson, nếu ngươi thành công ở trại này. Hôm nay ngươi đã làm rất tốt, đó là một khởi đầu tốt. Có lẽ ngươi vẫn còn hy vọng.”
Bà ta quay sang những đứa trẻ khác. “Hỡi những người con La Mã, ta giới thiệu với các ngươi, con trai của thần Neptune. Cậu ta đã chìm sâu vào giấc ngủ trong nhiều tháng qua, nhưng giờ đã thức tỉnh. Vận mệnh của cậu ta nằm trong tay các ngươi. Lễ hội Cầu May sắp diễn ra, và Tử Thần sẽ phải được giải thoát nếu các ngươi muốn có bất cứ hy vọng nào trong trận chiến. Đừng làm ta thất vọng!”
Nữ thần Juno tỏa sáng lung linh và Percy nhìn Hazel và Frank nhằm tìm kiếm một lời giải thích nào đó, nhưng dường như họ
cũng bối rối không kém gì cậu. Frank đang giữ thứ gì đó mà lúc trước Percy đã không chú ý đến – hai bình sứ nhỏ được chặn bằng nút bần, như thể là chất lỏng, mỗi tay mỗi bình. Percy không rõ chúng ở đâu ra, nhưng cậu thấy Frank thả chúng vào trong túi quần. Frank nhìn cậu như muốn nói: Chúng ta sẽ nói chuyện về nó sau.
Cô gái khoác áo choàng tía bước lên trước. Cô ta chăm chú nhìn Percy, và Percy không thể xua đi cái cảm giác rằng cô ta muốn rút dao găm ra mà đâm cậu cho rồi.
“Vậy là,” cô ta lạnh lùng nói, “một người con của thần Neptune đã đến chỗ chúng ta cùng với lời chúc phúc của nữ thần Juno.” “Nghe này,” cậu nói, “ký ức của tôi có hơi mờ nhạt. Ừm, thật ra thì nó đã biến mất. Tôi có quen cô không?”
Cô gái ngần ngừ. “Tôi là Reyna, pháp quan của Quân đoàn Mười hai. Và... không, tôi không quen cậu.”
Câu sau rõ ràng là một lời nói dối. Percy có thể nhận ra điều đó từ ánh mắt của cô ta. Nhưng đồng thời cậu cũng hiểu được rằng nếu mình tranh cãi với cô ta ngay tại đây, trước mặt binh lính của cô ta, cô ta sẽ không đánh giá cao hành động đó.
“Hazel này,” Reyna nói, “đưa cậu ta vào trong. Chị muốn thẩm vấn cậu ta ở bộ chỉ huy. Rồi chúng ta sẽ đưa cậu ta đến gặp Octavian. Chúng ta phải xác nhận các điềm báo trước khi quyết định phải làm gì với cậu ta.”
“Ý cô là gì,” Percy hỏi, “khi nói ‘quyết định phải làm gì’ với tôi?” Reyna nắm chặt lấy con dao trong tay. Chắc chắn cô ta không quen với việc mệnh lệnh của mình bị bàn cãi. “Trước khi chấp nhận bất cứ người nào vào trại, chúng tôi phải thẩm vấn họ và xem xét các điềm báo. Nữ thần Juno vừa nói vận mệnh của cậu nằm trong tay chúng tôi. Chúng tôi phải biết liệu nữ thần đã mang cậu đến cho chúng tôi với tư cách là một thành viên mới...” Reyna nhìn Percy chòng chọc như thể cô ta thấy điều đó thật đáng ngờ vậy.
“Hay,” giọng cô ta đầy hy vọng, “bà ấy đã mang đến cho chúng tôi một kẻ thù để tiêu diệt.”
III. PERCY
PERCY KHÔNG SỢ MA, điều đó thật may mắn. Một nửa số người trong trại đều là người đã khuất.
Các chiến binh mặc áo màu tía mờ mờ đang đứng bên ngoài kho vũ khí đánh bóng những thanh kiếm vô hình. Những người khác lại tụ tập phía trước các doanh trại. Một cậu bé ma đuổi theo một con chó ma nơi cuối đường. Và tại chuồng ngựa, một anh chàng to lớn phát ra ánh sáng đỏ với cái đầu sói canh giữ một đàn... Đó có phải là những con kỳ lân không nhỉ?
Các trại viên chẳng để tâm nhiều đến mấy con ma, nhưng khi Percy đi ngang qua, với Reyna dẫn đầu và Frank cùng Hazel đi hai bên, mọi hồn ma đều ngừng việc họ đang làm và nhìn chằm chằm vào Percy. Một vài người trông có vẻ giận dữ. Một cậu bé ma còn rít lên từ gì đó nghe như “Greggus!” và trở nên vô hình.
Percy ước gì mình cũng có thể biến thành vô hình như thế. Sau vài tuần làm bạn với chính mình, tất cả sự chú ý này khiến cậu cảm thấy ngột ngạt. Cậu ẩn vào giữa Hazel và Frank, cố không lộ mình ra.
“Anh đang nhìn thấy gì thế này?” cậu hỏi. “Hay đó có phải là...”
“Các hồn ma?” Hazel quay lại. Cô bé có đôi mắt sáng lấp lánh như vàng mười bốn ca-ra. “Họ là các thần Lar. Các vị thần giữ nhà.”
“Các vị thần giữ nhà,” Percy nói. “Giống như... nhỏ hơn các vị thần thật sự, nhưng lại lớn hơn các vị thần căn hộ sao?” “Họ là các hồn ma tổ tiên,” Frank giải thích. Cậu ấy cởi mũ giáp ra, để lộ một khuôn mặt trẻ thơ chẳng ăn nhập gì với mái tóc húi cua hay cơ thể vạm vỡ to lớn. Cậu ấy trông giống một đứa bé mới biết đi uống steriod[3] và gia nhập Hải quân. “Các thần L tương tự như vật đem lại phước lành,” cậu ấy nói tiếp. “Phần lớn họ đều vô hại, nhưng tớ chưa bao giờ nhìn thấy
họ kích động đến thế.”
“Họ cứ nhìn tớ không chớp mắt,” Percy nói. “Con ma nhỏ đó gọi tớ là Greggus. Tên tớ không phải là Greg.”
“Graecus,” Hazel chỉnh lại. “Khi đã ở đây được một thời gian, anh sẽ bắt đầu hiểu tiếng Latinh. Các á thần có khả năng bẩm sinh về điều đó. Graecus có nghĩa là người Hy Lạp.” “Điều đó không tốt sao?” Percy hỏi.
Frank hắng giọng. “Có thể không. Cậu có kiểu nước da đó, mái tóc đen và mọi thứ. Có lẽ họ nghĩ cậu thật sự là người Hy Lạp. Gia đình cậu ở đó sao?”
“Không biết. Như tớ đã nói, ký ức của tớ đã biến mất.” “Hoặc có lẽ...” Frank ngần ngừ.
“Là gì?” Percy hỏi.
“Chắc chẳng có gì đâu,” Frank nói. “Người La Mã và người Hy Lạp có sự kình địch từ rất lâu rồi. Đôi khi người La Mã dùng từ graecus như một lời lăng mạ đối với người nào đó ở ngoài trại – một kẻ thù. Tớ sẽ không lo lắng điều đó lắm đâu.”
Giọng cậu ấy khá lo lắng thì có.
Họ dừng lại ở giữa trại, nơi có hai con đường lát đá rộng giao nhau thành hình chữ T.
Biển tên đường của con đường hướng ra cổng chính đề là ĐƯỜNG CHÍNH. Con đường còn lại cắt ngang giữa trại, được viết là ĐƯỜNG BẮC-NAM. Ở bên dưới hai biển chỉ dẫn đó là các ký hiệu được sơn bằng tay như BERKELEY 5 DẶM; ROME MỚI 1 DẶM; ROME CŨ 7280 DẶM; HADES 2310 DẶM (chỉ thẳng xuống bên dưới); RENO 208 DẶM, và CHẾT CHẮC: BẠN Ở ĐÂY!
Ở địa điểm đề chữ CHẾT CHẮC, nơi đó trông khá sạch và ngăn nắp. Các khu nhà vừa mới quét vôi trắng và bố trí thành các hàng ngang dọc gọn gàng như thể trại đã được một thầy giáo dạy toán khó tính thiết kế. Các doanh trại có mái hiên che nắng, nơi trại viên nằm ườn ra trên các tấm võng hay chơi bài và uống soda. Mỗi doanh trại có một bộ cờ riêng biệt, mặt trước hiển thị các chữ
số La Mã và các loài động vật khác nhau – đại bàng, gấu, chó sói, ngựa và thứ gì đó trông giống hệt một con hamster. Dọc theo Đường Chính, các dãy cửa hàng bán thức ăn, áo giáp, các loại vũ khí, café, các trang bị dành cho đấu sĩ và cho thuê áo choàng toga. Một đại lý phân phối xe ngựa đua trưng ra một bảng quảng cáo lớn ở phía trước: CAESAR XLS VỚI HỆ THỐNG THẮNG CHỐNG TRƯỢT, KHÔNG TRẢ TRƯỚC BẰNG ĐỒNG DENARIUS!
Ở một góc giao lộ hiện ra một tòa nhà đứng sừng sững trông vô cùng ấn tượng – cao hai tầng, xây bằng đá hoa cương trắng với mái cổng có trụ chống hình cột giống hệt một nhà băng kiểu cổ. Lính gác La Mã đứng ở bên ngoài. Phía trên cánh cửa treo một lá cờ lớn màu tía thêu các chữ SPQR màu vàng bên trong một vòng nguyệt quế.
“Tổng hành dinh của cậu sao?” Percy hỏi.
Reyna nhìn cậu, ánh mắt cô ta vẫn lạnh lùng và thù địch. “Nó gọi là bộ chỉ huy.”
Cô ta liếc nhìn đám đông các trại viên tò mò đã đi theo họ từ lúc ở ngoài sông. “Mọi người quay lại với nhiệm vụ của mình đi. Tôi sẽ cập nhật thông tin cho mọi người trong buổi điểm danh tối nay. Nhớ là, sau bữa tối, chúng ta có các trò đánh trận đấy.”
Ý nghĩ về bữa tối khiến dạ dày Percy kêu ùng ục. Mùi thịt nướng từ nhà ăn khiến miệng cậu đầy nước miếng. Tiệm bánh ở cuối con đường cũng tỏa mùi khá thơm, nhưng cậu không chắc Reyna có để mình đi không.
Đám đông miễn cưỡng giải tán. Vài người lầm bầm bình luận về các cơ hội của Percy.
“Cậu ta chết chắc,” một người nói.
“Dĩ nhiên vì hai người đó tìm được cậu ta mà,” người khác lên tiếng.
“Đúng thế,” một người lại lẩm bẩm. “Hãy để cậu ta gia nhập Đội quân Số Năm. Người Hy Lạp và những kẻ lập dị.”
Vài đứa trẻ cười nghiêng ngả trước câu nói đó, nhưng Reyna quắc mắt nhìn chúng, và chúng bỏ đi.
“Hazel nói. “Đi cùng bọn chị. Chị muốn em báo cáo về những gì đã xảy ra ở cổng trại.”
“Cả tớ nữa?” Frank nói. “Percy đã cứu mạng tớ. Chúng ta phải để cậu ấy...”
Reyna nhìn Frank bằng ánh mắt khe khắt, cậu ấy bước lùi lại. “Tôi phải nhắc cho cậu nhớ, Frank Trương,” cô ta nói, “bản thân cậu cũng đang ở trong giai đoạn thử thách. Cậu đã gây đủ rắc rối trong tuần này rồi.”
Hai tai Frank đỏ bừng. Cậu ấy nghịch vớ vẩn tấm thẻ nhỏ trên sợi dây thừng đeo trên cổ. Percy đã không chú ý nhiều đến nó, nhưng nó trông giống một cái thẻ tên làm bằng chì.
“Cậu đến kho vũ khí đi,” Reyna bảo cậu ấy, “Kiểm kê lại kho của chúng ta. Tôi sẽ gọi khi nào cần cậu.”
“Nhưng...” Frank chợt ngừng lại. “Vâng, Reyna.”
Cậu ấy vội vàng chạy đi.
Reyna vẫy tay ra hiệu cho Hazel và Percy đi về phía bộ chỉ huy. “Giờ thì Percy Jackson, hãy xem xem liệu chúng ta có thể cải thiện được trí nhớ của cậu không.”
Bên trong bộ chỉ huy thậm chí còn ấn tượng hơn nhiều. Trên trần nhà, một bức tranh ghép mô tả Romulus và Remus[4] nằm bên dưới mẹ người-sói nuôi của họ (Lupa đã kể cho Percy câu chuyện đó cả triệu lần) hiện ra thật tráng lệ. Sàn nhà lát đá hoa cương sáng bóng. Các bức tường được treo màn nhung, vì thế Percy có cảm giác như mình đang ở trong cái lều cắm trại xa hoa nhất trên thế giới. Dọc theo các bức tường đằng sau là một dãy cờ và các cột gỗ được khảm các huy hiệu làm bằng đồng – các biểu tượng quân sự, Percy đoán thế. Ở chính giữa là một cái giá trưng bày trống, như thể lá cờ chính đã bị lấy xuống để chùi rửa hay đại khái thế.
Ở góc phía sau là một cầu thang hướng xuống bên dưới. Một
dãy các thanh sắt giống như cửa nhà tù chặn nơi đó lại. Percy thắc mắc có gì ở bên dưới – lũ quái vật sao? Kho báu? Các á thần mắc chứng quên đã theo phe chống lại Rey
Ở giữa phòng là một cái bàn gỗ dài bừa bộn các cuộn giấy, sổ ghi chép, máy tính bảng, dao găm và một tô lớn chứa đầy kẹo dẻo, dường như là một đồ vật không hợp lắm với không gian này. Hai bức tượng chó săn thỏ to như chó thật – một con bằng bạc, một bằng vàng – nằm hai bên bàn.
Reyna đi ra phía sau bàn và ngồi vào một trong hai cái ghế có lưng cao. Percy ước gì mình được ngồi vào cái còn lại, nhưng Hazel vẫn đứng yên tại chỗ. Percy có cảm giác rằng cậu cũng phải làm như thế.
“Vậy...” cậu cất tiếng.
Hai bức tượng chó nhe nanh và gầm gừ.
Percy cứng người lại. Thường thì cậu thích chó, nhưng những con này đang gườm gườm cậu bằng đôi mắt hồng ngọc. Răng nanh của chúng sắc như dao cạo.
“Bình tĩnh nào, hai đứa,” Reyna bảo hai con chó săn thỏ đó. Chúng thôi gầm gừ nhưng vẫn nhìn chằm chằm vào Percy như thể đang hình dung cậu là thứ gì đó nằm trong túi đựng thức ăn thừa.
“Chúng sẽ không tấn công đâu,” Reyna nói, “trừ khi cậu cố đánh cắp cái gì, hoặc khi nào tôi bảo chúng làm thế. Đây là Argentum và Aurum.”
“Bạc và Vàng,” Percy nói. Nghĩa tiếng Latinh xuất hiện trong đầu cậu y hệt như những gì Hazel đã nói. Cậu suýt thì hỏi tên từng con một. Nhưng rồi cậu nhận ra đó sẽ là một câu hỏi vô cùng ngu ngốc.
Reyna đặt con dao của mình lên bàn. Percy có cảm giác mơ hồ rằng trước đây họ đã từng gặp nhau. Mái tóc đen bóng như một viên đá núi lửa của cô ta được tết thành bím sau lưng. Cô ta có dáng dấp của một kiếm sĩ – bình tĩnh nhưng cảnh giác, như thể
cô ta sẵn sàng lao vào cuộc chiến bất cứ giây phút nào. Các nếp nhăn quanh mắt khiến cô ta trông già dặn hơn tuổi thật. “Chúng ta đã từng gặp nhau,” cậu khẳng định. “Tôi không nhớ khi nào. Làm ơn, nếu cô có thể nói cho tôi bất cứ điều gì...” “Chuyện gì cần ưu tiên phải được thực hiện trước,” Reyna nói. “Tôi muốn nghe chuyện của cậu. Cậu nhớ được gì? Sao cậu lại đến được đây? Và đừng nói dối. Những con chó của tôi không thích người dối trá.”
Argentum và Aurum gầm ghè để nhấn mạnh thêm câu nói của Reyna.
Percy kể lại chuyện của mình – cậu đã tỉnh dậy ở một biệt thự đổ nát trong cánh rừng nào đó ở Sonoma như thế nào. Cậu mô tả lại quãng thời gian ở cùng với Lupa và đàn của bà ta, học ngôn ngữ cử chỉ và biểu cảm của họ, học cách sống còn và chiến đấu.
Lupa đã dạy cho cậu về á thần, quái vật và các vị thần. Bà ta giải thích rằng bà là một trong số các vị thần bảo hộ cho La Mã Cổ đại. Các á thần như Percy sẽ vẫn chịu trách nhiệm kế thừa các truyền thống của người La Mã trong thời hiện đại – chiến đấu với quái vật, phụng sự các vị thần, bảo vệ người phàm và gìn giữ ký ức về đế chế. Bà đã huấn luyện cậu trong nhiều tuần, cho đến khi cậu đủ mạnh mẽ, dẻo dai và dữ dội như một con sói. Khi đã hài lòng với các kỹ năng của cậu, bà phái cậu đi về phương nam, bảo với cậu rằng nếu cậu sống sót trong chuyến hành trình này, cậu có thể tìm thấy nhà mới của mình và có lại ký ức.
Không điều nào mà Percy nói ra làm Reyna ngạc nhiên. Sự thật là, dường như cô ta cảm thấy nó khá bình thường – ngoại trừ một việc.
“Không một chút ký ức nào cả sao?” cô ta hỏi. “Cậu vẫn không nhớ được bất cứ điều gì sao?”
“Chỉ vài chuyện vụn vặt mờ nhạt.” Percy liếc nhìn những con chó. Cậu không muốn nhắc đến Annabeth. Chuyện đó có vẻ quá riêng tư, và cậu vẫn còn bối rối không biết nên tìm cô ở đâu. Cậu
tin chắc là họ đã gặp nhau ở một ngôi trại – nhưng hình như không phải nơi này.
Ngoài ra, cậu không sẵn lòng chia sẻ một ký ức rõ ràng duy nhất: khuôn mặt của Annabeth, với mái tóc vàng và đôi mắt màu xám tro, cách cô cười, quàng tay quanh người cậu và hôn cậu mỗi khi cậu làm chuyện gì đó ngốc nghếch.
Hẳn là cô ấy đã hôn mình rất nhiều, Percy nghĩ.
Cậu sợ nếu cậu nói cho ai nghe về ký ức đó, nó sẽ tan biến như một giấc mơ. Cậu không thể mạo hiểm làm vậy. Reyna quay quay con dao trong tay. “Phần lớn những gì cậu đề cập đều bình thường đối với á thần. Ở một độ tuổi nào đó, bằng cách này hay cách khác, chúng ta sẽ tìm đường đến Nhà Sói. Chúng ta sẽ được thử thách và huấn luyện. Nếu Lupa nghĩ chúng ta xứng đáng, bà sẽ phái chúng ta đi về phương nam để gia nhập vào quân đoàn. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe chuyện ai bị mất ký ức cả. Sao cậu tìm được Trại Jupiter?”
Percy kể cho cô ta nghe những gì đã diễn ra trong ba ngày qua – lũ gorgon bất tử, bà lão hóa ra là một nữ thần, và cuối cùng là việc gặp được Hazel và Frank ở đường hầm bên trong một ngọn đồi.
Hazel tiếp tục câu chuyện từ đó. Cô bé bảo Percy là gan dạ và quả cảm, điều đó khiến cậu cảm thấy ngượng nghịu. Vì tất cả những gì cậu đã làm là bế một bà già híp-pi vô gia cư.
Reyna chăm chú nhìn cậu. “Cậu quá lớn tuổi để là một tân binh. Cậu bao nhiêu, mười sáu sao?”
“Tôi nghĩ thế,” Percy đáp.
“Nếu nhiều năm qua cậu chỉ có một mình, không có bất cứ sự giúp đỡ hay huấn luyện nào, đáng lý cậu phải chết rồi chứ. Con trai của thần Neptune sao? Cậu toát ra sức mạnh thu hút tất cả các loại quái vật.”
“Ừm,” Percy nói. “Tôi có nghe người ta nói tôi bốc mùi.” Reyna gần như nở nụ cười, điều đó mang lại cho Percy hy
vọng. Có thể rốt cuộc cô ta cũng là một con người. “Cậu ắt phải ở nơi nào đó trước khi đến Nhà Sói,” cô ta nói. Percy nhún vai. Nữ thần Juno từng nói gì đó về giấc ngủ của
cậu, và cậu có cảm giác mơ hồ rằng mình đã chợp mắt – có lẽ là trong một thời gian dài. Nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì cả. Reyna thở dài. “Được rồi, lũ chó đã không xơi cậu, nên tôi cho rằng cậu đang nói thật.”
“Tuyệt quá,” Percy nói. “Lần tới liệu có thể dùng máy kiểm tra nói dối với tôi không?”
Reyna đứng dậy. Cô ta đi tới đi lui phía trước các lá cờ. Những con chó kim loại giương mắt nhìn cô ta đi đi lại l
“Ngay cả khi tôi chấp nhận rằng cậu không phải là kẻ thù,” cô ta nói, “cậu cũng không phải là một tân binh điển hình. Nữ hoàng của đỉnh Olympus không đơn giản xuất hiện ở trại chỉ để thông báo về một á thần mới. Lần cuối cùng một vị thần lớn đích thân đến thăm chúng tôi như thế...” Cô ta lắc đầu. “Tôi chỉ nghe kể các truyền thuyết về những chuyện như thế. Và con trai của thần Neptune... không phải là một điềm tốt. Đặc biệt là thời điểm hiện tại.”
“Có vấn đề gì với thần Neptune sao?” Percy hỏi. “Và ý cô là gì khi nói ‘đặc biệt là thời điểm hiện tại’?”
Hazel ném cho cậu một cái nhìn cảnh báo.
Reyna tiếp tục đi tới đi lui. “Cậu vừa đánh bại hai người chị của Medusa, những người đã biệt tích cả mấy ngàn năm. Cậu làm cho các thần Lar kích động, những người đã gọi cậu là graecus ấy. Và cậu mang các biểu tượng kỳ lạ – cái áo đó, chùm hạt trên chiếc vòng cổ. Chúng có nghĩa là gì?”
Percy nhìn xuống cái áo phông rách tả tơi của mình. Có lẽ từng có chữ ở trên đó vào một lúc nào đó, nhưng chúng đã quá mờ nên không đọc được. Cậu nên ném chiếc áo này đi cách đây vài tuần. Nó đã bị xé rách bươm, nhưng cậu không nỡ vứt nó. Cậu vẫn tiếp tục giặt nó trong các dòng suối, các đài phun nước sao
cho sạch nhất và mặc lại nó.
Còn về phần vòng cổ, bốn hạt bằng đất sét, mỗi hạt được trang trí với một biểu tượng khác nhau. Một hạt là hình cây đinh ba. Hạt khác là Bộ Lông Cừu Vàng thu nhỏ. Hạt thứ ba khắc hình một mê cung, và hạt cuối cùng là hình một tòa nhà – có lẽ là Tòa nhà Empire State? – với những cái tên khắc chung quanh mà Percy không tài nào nhận ra được. Những hạt đó dường như rất quan trọng, như các bức ảnh trong album ảnh gia đình, nhưng cậu không nhớ chúng có nghĩa là gì.
“Tôi không biết,” cậu nói.
“Còn thanh kiếm của cậu?” Reyna hỏi.
Percy kiểm tra túi quần. Cây bút lại tái xuất hiện như thường lệ. Cậu lấy nó ra, nhưng rồi nhận ra rằng mình chưa bao giờ cho Reyna thấy thanh kiếm. Hazel và Frank cũng không nhìn thấy. Làm thế nào Reyna lại biết về n
Đã quá muộn cho việc vờ như nó không tồn tại... Cậu mở nắp cây bút. Thanh Thủy Triều xuất hiện. Hazel há hốc miệng. Những con chó săn thỏ sủa một cách sợ hãi.
“Đó là gì vậy?” Hazel hỏi. “Em chưa bao giờ nhìn thấy một thanh kiếm như thế.”
“Tôi thì đã từng,” Reyna buồn rầu nói. “Nó xưa lắm rồi... một kiểu kiếm của người Hy Lạp. Chúng ta từng có vài thanh trong kho vũ khí trước khi...” Cô ta khựng lại. “Kim loại đó được gọi là đồng Celestial. Nó có thể chém chết lũ quái vật, giống vàng Imperial vậy, nhưng hiếm hơn nhiều.”
“Vàng Imperial?” Percy hỏi.
Reyna rút con dao của mình ra. Không còn nghi ngờ gì, lưỡi dao được làm bằng vàng. “Kim loại được thờ cúng trong thời cổ đại ở đền Pantheon của La Mã. Sự tồn tại của nó là một bí mật được truyền đời của các hoàng đế – giúp họ chiến thắng lũ quái vật đe dọa đế chế. Chúng tôi từng có nhiều loại vũ khí như thế, nhưng giờ thì... ừm, chúng tôi hiếm khi dùng nó. Tôi sử dụng con
dao này. Hazel có một thanh trường kiếm spatha[5], thanh kiếm dành cho các kỵ binh. Phần lớn binh lính của quân đoàn sử dụng loại kiếm ngắn hơn, được gọi là đoản kiếm gladius[6]. Còn vũ khí của cậu không phải kiểu kiếm người La Mã sử dụng. Một dấu hiệu khác cho thấy rằng cậu không phải là một á thần điển hình. Và cánh tay cậu...”
“Có vấn đề gì sao?”
Reyna giơ cao cẳng tay lên. Lúc trước Percy đã không chú ý đến nó, nhưng cô ta có một hình xăm ở trên đó: các chữ cái SPQR, một thanh kiếm và ngọn đuốc bắt chéo, và bên dưới đó, bốn đường thẳng song song giống các đường vạch đánh dấu.
Percy liếc nhìn Hazel.
“Tất cả chúng tôi đều xăm chúng,” cô xác nhận, đồng thời giơ cao cánh tay mình lên. “Tất cả các thành viên chính thức của quân đoàn đều có.”
Hình xăm của Hazel cũng có dòng chữ SPQR, nhưng chỉ có một vạch, và biểu tượng của cô hoàn toàn khác: một hình trang trí màu đen giống cây thánh giá với hai cánh tay uốn cong và một cái
Percy nhìn xuống tay mình. Vài vết xước, một ít bùn và các mảnh vụn của món Xúc Xích Pho Mát Chiên Giòn, nhưng chẳng có lấy một hình xăm nào.
“Vậy cậu chưa bao giờ là thành viên của quân đoàn,” Reyna nói. “Những cái dấu này không xóa được. Tôi nghĩ có thể...” Cô ta lắc đầu, như thể đang không thừa nhận ý nghĩ của mình vậy.
Hazel nghiêng người ra trước. “Nếu anh ấy sống sót như một kẻ cô độc trong suốt thời gian qua, có thể anh ấy đã gặp anh Jason.” Cô quay sang Percy. “Anh có bao giờ gặp một á thần giống bọn em không? Một anh chàng mặc áo phông màu tía với những dấu xăm trên tay ấy...”
“Hazel.” Giọng Reyna trở nên thận trọng. “Percy đã có đủ việc để lo lắng rồi.”
Percy chạm vào mũi kiếm và thanh Thủy Triều biến lại vào trong cây bút. “Tôi chưa từng gặp bất cứ ai như các cậu. Jason là ai?”
Reyna nhìn Hazel với ánh mắt bực dọc. “Cậu ấy... cậu ấy đã từng là đồng đội của tôi.” Cô ta vẫy tay về phía chiếc ghế trống thứ hai. “Quân đoàn thường có hai pháp quan được bầu ra. Jason Grace, con trai thần Jupiter, là một pháp quan của chúng tôi cho đến khi cậu ấy biến mất vào tháng Mười năm ngoái.”
Percy nhẩm tính. Khi còn ở ngoài thiên nhiên hoang dã, cậu không chú ý mấy đến ngày tháng, nhưng nữ thần Juno đã từng nhắc đến rằng hiện đang là tháng Sáu. “Ý cô là cậu ta đã biến mất cách đây tám tháng, và cô vẫn chưa thay thế cậu ta sao?”
“Có lẽ anh ấy chưa chết,” Hazel nói. “Bọn em chưa từ bỏ đâu.” Reyna nhăn mặt. Percy có cảm giác rằng anh chàng tên Jason này không đơn giản chỉ là đồng đội với cô ta thôi đâu. “Các cuộc bầu chọn chỉ xảy ra trong hai trường hợp,” Reyna nói. “Hoặc là khi quân đoàn nâng ai đó trên khiên sau một chiến thắng quan trọng nhất ở chiến trường – mà cho đến giờ chúng tôi không có bất cứ trận chiến nào như thế – hoặc chúng tôi tổ chức bỏ phiếu kín vào tối 24 tháng Sáu, ở Lễ hội Fortuna. Sự kiện đó sẽ diễn ra trong năm ngày nữa.”
Percy cau mày. “Bọn cậu có lễ hội dành cho cừ sao?” “Fortuna,” Hazel sửa lại. “Bà ấy là nữ thần may mắn. Bất cứ điều gì xảy ra vào ngày lễ hội của bà đều có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ những ngày còn lại trong năm. Bà ấy có thể mang đến vận may... hoặc các điều rất xấu cho trại.”
Reyna và Hazel đều liếc nhìn về phía giá trưng bày trống, như thể đang nghĩ về thứ đã bị mất.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Percy. “Lễ hội Cầu May... Lũ gorgon đã nhắc đến nó. Nữ thần Juno cũng thế. Họ nói rằng trại sẽ bị tấn công vào ngày đó, điều gì đó về một nữ thần xấu xa tên là Gaea, một đội quân, và Tử Thần phải được giải thoát. Hai
người đang nói với tôi rằng ngày đó là trong tuần này sao?” Reyna siết chặt lấy cán dao của mình. “Một khi đã bước ra khỏi căn phòng này, cậu không được hé miệng nói gì về chuyện ấy,” cô ta ra lệnh. “Tôi sẽ không để cậu mang đến thêm sự hoảng loạn nào cho trại đâu.”
“Vậy thì đó là sự thật rồi,” Percy nói. “Cô có biết chuyện gì sắp xảy ra không? Liệu chúng ta có ngăn được nó không?” Percy chỉ vừa mới gặp những người này. Cậu còn không chắc liệu mình có thích Reyna không. Nhưng cậu muốn giúp đỡ. Họ là các á thần, giống như cậu. Họ có cùng chung kẻ thù. Ngoài ra, Percy nhớ lại những gì nữ thần Juno từng nói với mình: không chỉ mỗi trại này gặp nguy hiểm. Cuộc đời trước kia của cậu, các vị thần và toàn bộ thế giới này có thể sẽ bị hủy diệt. Bất cứ điều gì diễn ra sắp tới đều sẽ vô cùng khủng khiếp.
“Nói vậy là đủ rồi,” Reyna nói. “Hazel, đưa cậu ta đến Đồi Đền thờ. Tìm Octavian. Trên đường đi em có thể trả lời các câu hỏi của Percy. Kể cho cậu ta nghe về quân đoàn.”
“Vâng, chị Reyna.”
Percy vẫn có quá nhiều thắc mắc, cậu có cảm giác như não mình sẽ tan chảy. Nhưng Reyna đã chỉ rõ rằng việc tiếp kiến đã xong. Cô ta tra dao vào bao. Hai con chó kim loại đứng dậy và gầm gừ, nhích từng bước về phía Percy.
“Chúc may mắn với lời điềm báo, Percy Jackson,” cô ta nói. “Nếu Octavian để cho cậu sống, có thể chúng ta sẽ trao đổi... về quá khứ của cậu.
IV. PERCY
TRÊN ĐƯỜNG RA KHỎI TRẠI, Hazel mua cho cậu một ly espresso và một cái bánh nướng xốp anh đào từ Bombilo, người bán café hai đầu.
Percy hít hít cái bánh. Café thật ngon. Giờ thì, Percy nghĩ, nếu cậu được tắm, thay quần áo và chợp mắt một chút, nhất định cậu sẽ tỏa sáng. Thậm chí còn lấp lánh hơn cả vàng Imperial nữa ấy chứ.
Cậu nhìn một đám con nít mặc đồ bơi và choàng khăn tắm đi về phía tòa nhà có hơi nước bay lên từ một dãy ống khói. Tiếng cười và tiếng nước chảy từ bên trong vọng ra, như thể đó là một bể bơi trong nhà – nơi yêu thích của Percy.
“Nhà tắm,” Hazel nói. “Hy vọng sẽ kịp đưa anh đến đó trước bữa tối. Anh không sống đúng nghĩa cho đến khi anh thử qua nhà tắm của người La Mã đâu.”
Percy thở dài mong đợi.
Khi họ đến cổng trước, các doanh trại lớn hơn và đẹp hơn. Thậm chí các con ma trông cũng khá khẩm hơn – với áo giáp bắt mắt và vầng sáng bao quanh họ cũng sáng hơn. Percy cố giải mã cờ hiệu và các biểu tượng được treo phía trước các tòa nhà.
“Bọn em được chia thành các nhà khác nhau sao?” cậu hỏi. “Đại loại thế.” Hazel cúi đầu xuống khi một đứa trẻ cưỡi một con đại bàng khổng lồ lao bổ xuống phía trên đầu cô ấy. “Bọn em có năm đội quân với bốn mươi người mỗi đội. Mỗi một đội quân được phân vào các doanh trại gồm mười người – kiểu như bạn cùng phòng vậy.”
Percy chưa bao giờ giỏi môn toán, nhưng cậu thử làm phép tính nhân. “Em nói có hai trăm người ở trại sao?”
“Xấp xỉ thế.
“Và tất cả họ đều là con của các thần sao? Các vị thần hẳn đã rất bận rộn.”
Hazel cười lớn. “Không phải họ đều là con của các vị thần chính đâu. Người La Mã còn có hàng trăm tiểu thần khác nữa. Ngoài ra, rất nhiều trại viên là người kế thừa – thế hệ thứ hai hay thứ ba. Có thể cha mẹ họ là á thần. Hoặc ông bà của họ.”
Percy chớp mắt. “Con của các á thần?”
“Sao thế? Điều đó làm anh ngạc nhiên sao?”
Percy không chắc lắm. Vài tuần vừa qua, cậu đã quá mệt mỏi với việc phải sống sót qua ngày. Ý tưởng sống đủ lâu để trở thành người lớn và có những đứa con của chính mình – dường như là một giấc mơ xa vời.
“Các đồ lego đó...”[7]
“Người kế thừa,” Hazel sửa lại.
“Họ có sức mạnh giống á thần sao?”
“Đôi khi có. Đôi khi không. Nhưng họ có thể được huấn luyện. Tất cả các tướng lĩnh và hoàng đế La Mã xuất chúng nhất – anh biết đấy, đều tự nhận mình có nguồn gốc từ các vị thần. Đa phần họ nói thật. Thầy bói của trại mà chúng ta sắp gặp, Octavian, là một người kế thừa, hậu duệ của thần Apollo. Anh ta được cho là có tài tiên tri.”
“Được cho là?”
Hazel nhăn nhó. “Rồi anh sẽ biết.”
Vẻ mặt đó làm Percy cảm thấy không tốt chút nào nếu anh chàng tên Octavian đó nắm được vận mệnh của Percy. “Vậy còn về phần phân chia nhóm,” cậu hỏi, “các đội quân, gọi là gì cũng được, bọn em được phân chia theo ai là cha mẹ thần thánh của mình sao?”
Hazel liếc nhìn cậu. “Đó là một ý tưởng kinh dị lắm đấy! Không ạ, các chỉ huy mới là người quyết định các tân binh thuộc về nơi nào được chia theo các thần thì các đội quân sẽ không đều. Em sẽ phải ở một mình.”
Percy cảm nhận được một nỗi buồn ray rứt, như thể cậu đã từng ở trong tình huống đó. “Tại sao? Tổ tiên của em là ai?”
Trước khi cô bé kịp trả lời, ai đó ở phía sau họ hét lớn, “Đợi đã!”
Một con ma chạy về phía họ – một ông lão bụng bự như trái bóng mặc áo toga dài lệt phệt khiến ông cứ giẫm lên nó. Ông bắt kịp họ và hít lấy hít để không khí, quanh người ông phát ra ánh sáng màu tía.
“Có phải cậu ta không?” con ma thở hổn hển. “Lính mới cho đội Số Năm, chắc thế nhỉ?”
“Ông Vitellius,” Hazel nói, “bọn cháu đang rất vội.” Con ma cau có nhìn Percy và đi quanh người cậu, săm soi cậu kỹ càng như xem xét một chiếc xe đã qua sử dụng. “Ta không biết,” ông ta càu nhàu. “Chúng ta chỉ cần những người giỏi nhất cho đội quân. Răng cậu ta còn đủ chứ? Cậu ta có thể chiến đấu không? Cậu ta có lau chùi chuồng ngựa không?”
“Có, có và không,” Percy nói. “Ông là ai thế?”
“Anh Percy, đây là ông Vitellius.” Nét mặt Hazel như muốn nói: Hãy chiều theo ông ấy. “Ông ấy là một trong số các thần Lar của bọn em; rất hứng thú với các tân binh.”
Ở mái hiên gần đó, những con ma khác cười khúc khích khi ông Vitellius đi tới đi lui, vấp phải vạt áo toga và kéo đai đeo gươm của mình lên.
“Đúng thế,” Vitellius nói, “quay trở lại thời Caesar – cậu chàng Julius Caesar, cậu hãy nhớ kỹ nhé – Đội quân Số Năm đã rất có tiếng tăm! Quân đoàn Mười hai Fulminata, niềm tự hào của Rome! Nhưng còn ngày nay thì sao? Thật hổ thẹn với những gì chúng ta được thừa hưởng. Hãy nhìn Hazel đây, đang sử dụng một thanh trường kiếm spatha. Một thứ vũ khí lố bịch đối với một chiến binh La Mã – đó là dành cho kỵ binh! Và cậu, cậu nhóc – cậu có mùi như một cái cống Hy Lạp. Cậu đã không tắm à?”
“Cháu hơi bận vì phải đánh bại mấy ả gorgon
“Ông Vitellius ơi,” Hazel cắt ngang, “chúng ta cần lời điềm báo cho anh Percy trước khi anh ấy có thể gia nhập với chúng ta. Sao
ông không đi xem Frank nhỉ? Anh ấy đang kiểm kê trong kho vũ khí ạ. Ông biết anh ấy xem trọng sự giúp đỡ của ông như thế nào mà.”
Cặp lông mày màu tía rậm rạp của con ma dựng đứng lên. “Thần Mars Toàn năng! Họ để cho người trong giai đoạn thử thách kiểm tra áo giáp sao? Chúng sẽ bị làm hỏng mất!”
Ông ta loạng choạng đi về cuối con đường, cứ vài mét thì ngừng lại một chốc để nhặt kiếm và chỉnh sửa áo toga của mình. “Đ-đ-đ-ược rồi,” Percy nói.
“Em xin lỗi,” Hazel nói. “Ông ấy là một người lập dị, nhưng là một trong số các Lar lớn tuổi nhất. Đã có từ khi quân đoàn mới được thành lập.”
“Ông ấy đã gọi quân đoàn là... Fulminata?” Percy hỏi. “‘Được vũ trang bằng Sấm sét’,” Hazel dịch ra. “Đó là phương châm của bọn em. Quân đoàn Mười hai tồn tại trong suốt thời kỳ Đế chế La Mã. Khi Rome sụp đổ, rất nhiều quân đoàn biến mất. Chúng em hoạt động trong bóng tối, thực hiện các mệnh lệnh bí mật trực tiếp từ thần Jupiter: sống sót, tuyển chọn các á thần và con cái của họ, giữ cho Rome tiếp tục sinh tồn. Kể từ đó chúng em đã sống như thế, di chuyển đến bất cứ nơi nào mà ảnh hưởng của La Mã mạnh mẽ nhất. Cách đây vài thập kỷ, bọn em đã chuyển đến Mỹ.”
Cũng kỳ quái như chính câu chuyện, Percy tin nó ngay tắp lự. Thật ra nó nghe khá quen tai, như thể cậu đã biết rõ về điều đó. “Và em ở trong Đội quân Số Năm,” cậu đoán, “nơi có lẽ chẳng nổi tiếng lắm phải không?”
Hazel nhăn mặt. “Đúng thế. Em chỉ vừa mới gia nhập vào tháng Chín năm ngoái.”
“Vậy là... chỉ có vài tuần trước khi anh chàng tên Jason biến mất.”
Percy biết cậu đã chạm đúng đề tài nhạy cảm. Hazel cụp mắt xuống. Cô ấy im lặng lâu đến độ có thể đếm được từng viên đá
lát đường.
“Đi thôi,” cuối cùng cô cất tiếng. “Em sẽ chỉ cho anh thấy quang cảnh yêu thích của em.”
Họ dừng chân bên ngoài cổng chính. Pháo đài nằm ở nơi cao nhất trong thung lũng, vì thế họ có thể ngắm toàn cảnh khá rõ. Con đường dẫn xuống dòng sông và bị tách ra. Một ngả hướng về phía nam băng qua một cây cầu, dẫn lên ngọn đồi với tất cả các đền thờ. Ngả còn lại xuôi về hướng bắc vào thành phố, một phiên bản thu nhỏ của Rome Cổ đại. Không giống doanh trại quân đội, thành phố trông ồn ã và rực rỡ sắc màu, với các tòa nhà chen chúc mọc lên ở các góc tùy ý. Ngay cả khi ở xa như thế này, Percy vẫn có thể nhìn thấy mọi người tụ tập ở quảng trường, những người mua sắm đi thơ thẩn khắp khu chợ trời, các bậc phụ huynh cùng con cái đang chơi đùa trong các công viên. “Bọn em cũng sống chung với các gia đình sao?”
“Dĩ nhiên rồi, ở thành phố ấy ạ,” Hazel nói. “Khi anh được nhận vào quân đoàn, anh sẽ phải phục vụ mười năm. Sau đó, anh có quyền giải ngũ bất cứ khi nào anh muốn. Phần lớn các á thần hòa mình vào thế giới người phàm. Nhưng vì một vài – ừm, ngoài kia khá nguy hiểm. Thung lũng này là một thánh địa. Anh có thể theo học đại học trong thành phố, kết hôn, có con, về hưu khi anh già đi. Đây là nơi an toàn duy nhất trên trái đất cho những người như chúng ta. Vì thế, rất nhiều cựu chiến binh đã xem nơi này như nhà của mình, dưới sự bảo vệ của quân đoàn.”
Á thần trưởng thành, những người có thể sống mà không cần phải sợ hãi, kết hôn, tạo dựng một gia đình. Có thế nào thì Percy cũng chẳng thể hình dung ra cảnh tượng đó được. Dường như nó quá tốt đẹp để trở thành sự thật. “Nhưng nếu thung lũng này bị tấn công?”
Hazel bĩu môi. “Bọn em có hàng rào bảo vệ. Các đường biên giới được phù phép. Nhưng sức mạnh của bọn em không còn như xưa nữa. Gần đây, các cuộc tấn công của quái vật ngày càng gia
tăng. Việc anh nói rằng lũ gorgon bất tử ấy... bọn em cũng đã nhận ra, cả những con quái vật khác nữa.”
“Em có biết nguyên nhân gây ra hiện tượng đó không?” Hazel nhìn sang hướng khác. Percy khẳng định rằng cô bé đang giữ kín bí mật gì đó – một điều mà cô không được phép nói đến.
“Chuyện đó... chuyện đó khá phức tạp,” cô bé nói. “Em trai em nói rằng Tử Thần đã không...”
Một con voi cắt ngang lời cô định nói.
Ai đó từ sau lưng họ hét lên, “Tránh đường!”
Hazel kéo Percy tránh sang bên đường khi một á thần cưỡi một con voi trưởng thành mình mẩy phủ giáp làm từ sợi Kevlar màu đen băng ngang qua họ. Chữ VOI được in hoa ở một bên giáp, với Percy mà nói thì hình như điều đó hơi không cần thiết.
Con voi chạy sầm sập về phía cuối đường và hướng về phía bắc, thẳng tiến đến một cánh đồng bao la bát ngát, nơi một vài công sự đang được xây dựng.
Percy phun bụi ra khỏi miệng. “Cái gì...?”
“Voi,” Hazel giải thích.
“Ừm, anh thấy cái chữ ký đó rồi. Sao bọn em lại có một con voi mặc áo chống đạn?”
“Dành cho trò đánh trận tối nay,” Hazel nói. “Đó là Hannibal. Nếu bọn em không tính nó vào, nó sẽ buồn.”
“Không phải chứ.”
Hazel cười lớn. Thật khó tin rằng cách đây vài giây cô bé trông khá buồn rầu. Percy lấy làm ngạc nhiên về những gì cô vừa nói. Cô nói mình có một em trai. Thế nhưng cô lại khẳng định sẽ chỉ đơn độc một thân một mình nếu trại được phân chia theo cha mẹ thần thánh.
Percy không thể hiểu thấu cô. Cô có vẻ tốt bụng và dễ tính, đồng thời chín chắn hơn nhiều so với độ tuổi mười ba của mình. Nhưng dường như cô đang che giấu một nỗi buồn sâu kín nào đó,
như thể cô cảm thấy có lỗi về điều gì đó.
Hazel chỉ về hướng nam, phía bên kia con sông. Những đám mây đen kịt đang vần vũ phía trên Đồi Đền thờ. Những tia chớp đỏ bao phủ ánh sáng đỏ như máu lên khắp các đài tưởng niệm.
“Anh Octavian bận rộn lắm,” Hazel nói. “Tốt hơn chúng ta nên đi về phía đó.”
Trên đường đi, họ đi ngang qua vài người có cặp chân dê đi thơ thẩn ở hai bên đường.
“Hazel!” một trong số họ hét lớn.
Người đó chạy lóc cóc về phía họ với nụ cười rạng rỡ trên mặt. Anh ta mặc áo sơ mi Hawaii đã bạc màu và không có gì làm quần ngoại trừ lớp lông dê màu nâu đậm. Mái tóc xoăn rậm và dày cui rung rinh theo mỗi bước chân. Cặp mắt kính tròn nhỏ bảy sắc cầu vồng che mất đôi mắt anh ta. Trên tay anh ta cầm một tấm bảng các-tông viết: SẼ
“Chào Don,” Hazel nói. “Xin lỗi, bọn em không có nhiều thời gian...”
“Ồ, điều đó thật tuyệt! Thật tuyệt!” Don chạy lon ton theo họ. “Này, đây là anh chàng mới của trại!” Anh ta cười toe toét với Percy. “Cậu có ba đồng denarius để đi xe buýt không? Vì tôi đã để ví ở nhà, và tôi phải đến chỗ làm, và...”
“Don,” Hazel mắng. “Thần nông không có ví. Hay công việc. Hay nhà. Và chúng ta không có xe buýt.”
“Đúng thế,” anh ta vui vẻ nói, “nhưng hai người có đồng denarius nào không?”
“Tên anh là Don thần nông sao?” Percy hỏi.
“Ừm. Thì sao?”
“Không có gì.” Percy cố nghiêm mặt. “Sao thần nông lại không có việc làm? Chẳng phải họ làm việc cho trại sao?” Don kêu be be. “Thần nông! Làm việc cho trại! Điều đó mới vui làm sao!”
“Thần nông, ừm, là các thần tự do,” Hazel giải thích. “Họ tập
hợp lại đây vì, ừm, đây là nơi an toàn để trú ngụ và xin xỏ. Bọn em không phản đối sự hiện diện của họ, nhưng...” “Ồ, Hazel tuyệt vời lắm đấy,” Don nói. “Cô ấy rất tốt! Các á thần khác đều nói, ‘Biến đi, Don.’ Nhưng cô ấy lại nói, ‘Làm ơn đi đi, Don.’ Tôi yêu cô ấy!”
Thần nông này có vẻ vô hại, nhưng Percy vẫn cảm thấy anh ta thật đáng lo. Cậu không thể thoát khỏi cảm giác rằng thần nông là một kiểu người nào đó khác chứ không chỉ là những người vô gia cư xin xỏ từng đồng denarius.
Don nhìn xuống mặt đất phía trước họ và há hốc miệng. “Vận may!”
Anh ta vươn tay lấy thứ gì đó, nhưng Hazel hét lớn, “Don, không!”
Cô đẩy anh ta ra khỏi đường và vồ lấy một vật bé xíu sáng lấp lánh. Percy thoáng kịp thấy nó trước khi Hazel thả vào túi. Cậu có thể thề rằng đó là một viên kim cương.
“Thôi nào, Hazel,” Don than phiền. “Anh có thể mua một năm bánh donut với cái đó!”
“Don, làm ơn,” Hazel nói. “Đi đi.”
Giọng cô bé run run, như thể cô vừa mới cứu Don khỏi cú tấn công của một con voi mặc áo chống đạn.
Thần nông thở dài. “Èo, anh không thể giận em được. Nhưng anh thề, đó là may mắn của em. Mỗi một khi em bước đi...” “Tạm biệt anh, Don,” Hazel vội ngắt lời. “Chúng ta đi thôi, anh Percy.”
Cô cất bước đi tiếp. Percy phải chạy thật nhanh mới bắt kịp cô bé.
“Chuyện đó là sao thế?” Percy hỏi. “Viên kim cương trên đường...”
“Xin anh đấy,” cô bé nói. “Đừng hỏi em.”
Họ im lặng suốt quãng đường dẫn dến Đồi Đền thờ. Một lối đi lát đá ngoằn nghèo dẫn họ băng qua một loạt bệ thờ nhỏ xíu lộn
xộn và các mái vòm đồ sộ. Các bức tượng thần dường như đang dõi theo Percy.
Hazel chỉ về phía Đền thờ của nữ thần Bellona. “Nữ thần chiến tranh,” cô ấy nói. “Đó là mẹ của chị Reyna.” Rồi họ đi ngang qua một hầm mộ khổng lồ màu đỏ được trang trí hình đầu sọ trên các chấn song bằng sắt.
“Làm ơn nói với anh rằng chúng ta sẽ không đi vào trong đó,” Percy
Hazel lắc đầu. “Đó là Đền thờ của thần Mars Ultor.” “Thần Mars... thần Ares, thần chiến tranh.”
“Đó là tên Hy Lạp của ông ấy,” Hazel nói. “Nhưng, đúng thế, cùng một người. Ultor có nghĩa là ‘Người Báo thù’. Ông là vị thần quan trọng thứ hai của người La Mã.”
Percy không hề sợ hãi khi nghe thấy điều đó. Vì một lý do nào đó, nội việc nhìn thấy công trình màu đỏ xấu xí đó không thôi cũng đủ khiến cậu giận dữ.
Cậu chỉ về phía đỉnh đồi. Các đám mây xoáy tròn phía trên đền thờ lớn nhất, một sảnh tròn với một vòng các cột trắng chống trụ cho mái nhà hình vòm. “Anh đoán đó là đền thờ của thần Zeus – ừm, ý anh là, thần Jupiter, đúng không? Đó là nơi chúng ta sẽ đến sao?”
“Đúng thế.” Giọng Hazel nghe có vẻ cáu kỉnh. “Anh Octavian đọc các điềm báo ở đó – Đền Thờ của thần Jupiter Optimus Maximus.”
Percy buộc phải nghĩ về cụm từ đó, nhưng nghĩa của các từ Latinh đó tự động hiện ra trong đầu cậu. “Thần Jupiter... người giỏi nhất và vĩ đại nhất?”
“Chính xác.”
“Thế danh hiệu của thần Neptune là gì?” Percy hỏi. “Người điềm tĩnh và tuyệt vời nhất sao?”
“Ừm, không hẳn thế.” Hazel khoát tay về phía tòa nhà nhỏ màu xanh to cỡ một nhà kho. Một cây đinh ba phủ đầy mạng
nhện được gắn vào phía trên cánh cửa.
Percy ló đầu nhìn vào bên trong. Trên bệ thờ be bé là một cái bát với ba trái táo khô mốc meo cả lên.
Trái tim cậu đau nhói. “Một nơi được nhiều người yêu thích đấy.”
“Em rất tiếc, anh Percy,” Hazel nói. “Chỉ là... người La Mã luôn sợ biển. Họ chỉ sử dụng thuyền khi nào họ buộc phải làm thế. Ngay cả trong thời hiện đại, việc một đứa con của thần Neptune hiện diện ở trại luôn là điềm xấu. Lần cuối cùng một người như thế gia nhập quân đoàn... ừm, đó làăm 1906, khi Trại Jupiter còn nằm phía bên kia vịnh ở San Francisco. Một trận động đất lớn...”
“Đừng nói với anh là con của thần Neptune đã gây ra chuyện đó nhé?”
“Người ta đã kể với em như thế.” Hazel nhìn cậu đầy hối tiếc. “Dù sao thì... người La Mã e sợ thần Neptune, nhưng họ không thích ông ấy lắm.”
Percy liếc nhìn đám mạng nhện phía trên cây đinh ba. Tuyệt, cậu nghĩ. Cho dù gia nhập vào trại, cậu cũng sẽ không bao giờ được mọi người yêu thích. Hy vọng lớn nhất của cậu hóa ra là nỗi sợ hãi đối với những người bạn trong trại mới. Có lẽ nếu cậu làm tốt, họ sẽ cho cậu vài trái táo mốc meo.
Thế nhưng... khi đứng trước bàn thờ của thần Neptune, cậu cảm nhận được điều gì đó khuấy động bên trong cậu, như những đợt sóng đang dâng tràn khắp các tĩnh mạch vậy.
Cậu lục lọi trong ba lô và lấy ra mẩu thức ăn cuối cùng từ chuyến hành trình của mình – một cái bánh mì vòng cũ. Không nhiều nhặn gì, nhưng cậu vẫn đặt nó lên bàn thờ.
“Chào... ừm, Cha.” Cậu cảm thấy mình thật ngốc khi nói chuyện với một cái bát đựng trái cây. “Nếu cha nghe thấy con, hãy giúp con cha nhé? Hãy mang ký ức của con quay trở lại. Nói cho con... nói cho con, con cần phải làm gì.”
Giọng cậu như vỡ òa. Cậu đã cố không tỏ ra xúc động, nhưng
cậu kiệt sức, sợ hãi và đã bế tắc trong một thời gian dài, vì thế cậu sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để lấy vài lời chỉ dẫn. Cậu muốn biết một vài điều gì đó chắc chắn về cuộc đời mình, mà không cần phải bám víu vào các ký ức đang bị mất đi.
Hazel đặt tay lên vai cậu. “Mọi việc sẽ ổn thôi. Giờ anh đã ở đây. Anh là một trong số bọn em.”
Cậu cảm thấy lúng túng vì được một cô bé lớp tám mới quen an ủi, nhưng cậu vui vì có cô ở đây.
Sấm chớp đì đùng phía trên đầu họ. Những tia chớp màu đỏ bừng sáng cả ngọn đồi.
“Anh Octavian đã gần xong việc,” Hazel nói. “Chúng ta đ thôi.” So với cái kho chứa dụng cụ của thần Neptune, đền thờ thần Jupiter rõ ràng là tốt nhất và vĩ đại nhất.
Các câu nói bằng tiếng Latinh và các bức tranh ghép vui mắt được khắc trên sàn nhà đá hoa cương. Trần nhà mái vòm cao mười tám mét sáng lấp lánh ánh vàng. Toàn bộ đền thờ rộng mở đón gió.
Ở giữa ngôi đền, tại bệ thờ bằng đá hoa cương, một anh chàng mặc áo toga đang thực hiện nghi thức nào đó trước bức tượng vàng khổng lồ của sếp lớn: chúa tể bầu trời – thần Jupiter, mặc một chiếc áo toga lụa màu tía cỡ XXXL, tay cầm một tia chớp.
“Nó không giống như thế,” Percy lầm bầm.
“Cái gì?” Hazel hỏi.
“Tia chớp nguyên thủy,” Percy nói.
“Anh đang nói về điều gì thế?”
“Anh...” Percy cau mày. Trong một giây, cậu cho là mình đã nhớ ra được điều gì đó. Giờ nó đã biến mất. “Không có gì, anh chỉ đoán bừa thôi.”
Anh chàng trẻ tuổi ở bệ thờ giơ hai tay lên trời. Càng thêm nhiều tia chớp đỏ lóe lên trên bầu trời, làm rung chuyển cả đền thờ. Sau đó anh ta buông thõng hai tay xuống và những tiếng đì đùng ngưng bặt. Các đám mây biến từ màu xám sang màu trắng
và tan ra.
Một trò bịp thật ấn tượng, xét đến việc anh chàng đó chẳng có vẻ gì như thế. Anh ta cao dong dỏng và gầy nhom, tóc màu vàng nhạt, mặc quần jeans quá cỡ, áo phông rộng lùng thùng cùng áo toga cứ chực rủ xuống. Nhìn anh ta trông giống một con bù nhìn phủ khăn trải giường lên người.
“Anh ta đang làm gì thế?” Percy thì thầm.
Anh chàng trong chiếc áo toga quay người lại. Anh ta sở hữu một nụ cười gian tà và ánh mắt hơi điên khùng như thể vừa mới chơi xong một trò cảm giác mạnh. Một tay anh ta cầm dao. Trên tay còn lại là thứ gì đó giống một con vật bị chết. Cảnh tượng đó không khiến anh ta trông bớt điên khùng hơn chút nào.
“Anh Percy,” Hazel nói, “đây là anh Octavian.”
“Một nhóc graecus!” Octavian nói. “Thật thú vị làm sao.” “Ừm, chào,” Percy nói. “Anh đang sát hại những con thú nhỏ sao?”
Octavian nhìn vào cái thứ xơ xác trên tay mình và cười lớn. “Không, không. Ngày xửa ngày xưa thì đúng là thế. Bọn ta từng đọc ý của các vị thần bằng cách phân tích ruột các loài vật như – gà, dê, những con tương tự như thế. Ngày nay, bọn ta dùng những thứ này.”
Anh ta quẳng vật xơ xác kia về phía Percy. Đó là một con gấu bông bị moi ruột. Rồi Percy để ý thấy một đống thú nhồi bông đã bị moi ruột nằm dưới chân tượng thần Jupiter.
“Không đùa chứ?” Percy hỏi.
Octavian bước ra khỏi bệ thờ. Anh ta chắc khoảng mười tám tuổi, nhưng lại quá gầy còm và vô cùng xanh xao như thể sẽ chết yểu không bằng. Ấn tượng đầu tiên là anh ta trông vô hại, nhưng khi anh ta đến gần hơn, Percy không chắc lắm. Đôi mắt Octavian lấp lánh vẻ tò mò tàn nhẫn, như thể anh ta có khả năng rút ruột Percy dễ như moi ruột một con gấu bông nếu anh ta nghĩ mình có thể biết được gì từ việc làm đó.
Octavian nheo nheo mắt. “Cậu có vẻ lo sợ.”
“Anh làm tôi nhớ đến một người nào đó,” Percy nói. “Tôi không nhớ được là ai.”
“Dĩ nhiên là người trùng tên với ta, Octavian – Augustus Caesar. Mọi người đều nói ta có nét tương tự rất dễ nhận biết.” Percy không nghĩ vậy, nhưng cậu không thể nào nhớ được. “Sao anh lại gọi tôi là ‘người Hy Lạp’?”
“Ta nhìn thấy điều đó trong các điềm báo.” Octavian vẫy vẫy con dao về phía đống thú bông trên bệ thờ. “Lời phán truyền nói rằng: Người Hy Lạp đã đến. Hoặc có thể là: Con ngỗng đã kêu thét lên. Ta nghĩ lời diễn giải đầu tiên là chính xác. Cậu xin gia nhập quân đoàn sao?”
Hazel giải thích hộ cậu. Cô bé kể cho Octavian nghe mọi chuyện kể từ khi họ gặp nhau ở đường hầm – lũ gorgon, trận đánh bên bờ sông, sự xuất hiện của ữ thần Juno, cuộc đối thoại của họ với Reyna.
Khi cô nhắc đến nữ thần Juno, Octavian trông khá ngạc nhiên. “Nữ thần Juno,” cậu ta suy ngẫm. “Bọn ta gọi bà ấy là Juno Moneta. Juno Người Cảnh báo. Bà xuất hiện vào những thời điểm khủng hoảng để cảnh báo Rome về những mối đe dọa vô cùng nguy hiểm.”
Anh ta liếc nhìn Percy, như thể muốn nói: ví dụ như, những tên Hy Lạp bí ẩn.
“Tôi nghe nói Lễ hội Fortuna diễn ra trong tuần này,” Percy nói. “Lũ gorgon đã cảnh báo rằng sẽ có một cuộc xâm chiếm vào ngày đó. Anh có thấy được điều đó từ đống thú bông không?”
“Buồn thay là không.” Octavian thở dài. “Khó mà biết rõ ý các thần lắm. Và những ngày này, lời tiên đoán của ta càng lúc càng mơ mơ hồ hồ hơn.”
“Thế mọi người không có... tôi không biết nữa,” Percy nói, “một nhà tiên tri hay đại loại thế?”
“Một nhà tiên tri!” Octavian mỉm cười. “Thật là một ý tưởng dễ
thương. Không, ta e rằng bọn ta đã sử dụng hết các lời tiên tri. Giờ, nếu chúng ta tiến hành tìm kiếm các cuốn sách Sibylline[8], như ta đã đề nghị thì...”
“Siba gì chứ?” Percy hỏi.
“Những cuốn sách tiên tri,” Hazel nói, “là thứ mà anh Octavian bị ám ảnh. Người La Mã thường tra cứu chúng khi các tai họa ập đến. Hầu hết mọi người tin rằng chúng đã bị thiêu hủy khi thành Rome sụp đổ.”
“Vài người tin thôi,” Octavian sửa lại. “Tiếc là người lãnh đạo hiện tại của chúng tôi đã không cấp phép tìm kiếm chúng...” “Vì chị Reyna không ngốc,” Hazel nói.
“... vì thế chúng tôi chỉ có vài mảnh nhỏ còn sót lại từ những cuốn sách đó,” Octavian nói tiếp. “Một vài lời dự báo đầy thần bí, như những lời này.”
Anh ta gật đầu về phía những câu khắc trên s đá hoa cương. Percy chăm chú nhìn kỹ các dòng chữ, không thật sự mong là mình hiểu được chúng. Cậu gần như chết lặng.
“Câu đó.” Cậu đưa tay chỉ vào và dịch nó khi cậu đọc lớn: “Bảy con lai sẽ đáp lại lời hiệu triệu. Mang giông bão đến hoặc thiêu cháy thế giới sẽ phải sụp đổ...”
“Đúng, đúng.” Octavian nói hết câu mà chẳng cần nhìn. “Một lời thề được giữ đến hơi thở cuối cùng, và kẻ thù hướng các cánh quân về phía Các Cánh Cửa Của Tử Thần.”
“Tôi... tôi biết câu đó.” Percy nghĩ chắc sấm chớp lại đang làm đền thờ rung chuyển lần nữa. Rồi cậu nhận ra là cả cơ thể mình đang run rẩy. “Điều đó rất quan trọng.”
Octavian cau mày. “Dĩ nhiên nó quan trọng chứ. Chúng tôi gọi đó là Lời Tiên Tri Về Nhóm Bảy, nhưng nó xuất hiện cách đây vài ngàn năm rồi. Chúng tôi không biết nó nghĩa là gì. Mỗi lần ai đó cố thử dịch nó... Ừm, Hazel có thể kể cho cậu. Những chuyện không may lại xảy ra.”
Hazel giận dữ nhìn anh ta. “Chỉ cần đọc điềm báo dành cho
anh Percy là được. Liệu anh ấy có thể gia nhập vào quân đoàn không?”
Percy gần như có thể thấy được bộ não của Octavian hoạt động, tính toán xem liệu Percy hữu dụng hay không. Anh ta vươn tay về phía ba lô của Percy. “Đó là một mẫu vật xinh đẹp. Cho phép tôi nhé?”
Percy chưa kịp hiểu anh ta muốn gì thì Octavian đã giật cái gối gấu trúc ở Chợ Giảm Giá ló ra phía trên ba lô. Nó chỉ là một món đồ chơi nhồi bông vớ vẩn, nhưng Percy đã mang nó theo cả một chặng đường dài. Cậu khá là thích nó. Octavian quay về phía bệ thờ và giơ con dao lên.
“Này!” Percy phản đối.
Octavian rạch toác bụng con gấu trúc và trải bông nhồi của nó lên khắp bệ thờ. Anh ta quẳng vỏ con gấu sang một bên, lầm bầm một vài từ phía trên đống bông nhồi và quay lại với một nụ cười rạng rỡ trên mặt.
“Tin tốt!” anh ta nói. “Percy có thể gia nhập quân đoàn. Chúng ta sẽ phân cậu ta vào một đội quân nào đó trong buổi tập trung tối nay. Nói với Reyna rằng tôi chấp thuận.”
Hai vai Hazel buông lỏng. “Ừm... tuyệt. Đi thôi anh Percy.” “Ồ, còn Hazel này,” Octavian nói. “Tôi rất vui được chào đón Percy vào quân đoàn. Nhưng khi lễ bầu chức pháp quan diễn ra, tôi hy vọng cô nhớ...”
“Anh Jason chưa chết,” Hazel bật lại. “Anh là thầy bói. Lẽ ra anh phải tìm kiếm anh ấy chứ!”
“Ồ, tôi đang làm đấy thôi!” Octavian chỉ tay về phía đống ruột thú nhồi bông. “Ngày nào tôi chả hỏi ý các vị thần! Than ôi, sau tám tháng, tôi chẳng nhận được tin tức gì. Dĩ nhiên là tôi vẫn đang tiếp tục tìm kiếm. Nhưng nếu Jason không quay trở lại vào Lễ hội Fortuna, chúng ta buộc phải hành động. Chúng ta không thể để trống vị trí đó mãi. Tôi hy vọng cô sẽ ủng hộ tôi ứng cử vào ghế pháp quan. Việc đó sẽ có ý nghĩa rất lớn với tôi.”
Hazel siết chặt nắm tay lại. “Tôi. Ủng hộ. Anh?”
Octavian cởi cái áo toga ra, đặt nó và con dao lên bệ thờ. Percy nhận ra trên cánh tay Octavian có bảy vạch – bảy năm ở trại, Percy đoán thế. Dấu hiệu của Octavian là cây đàn hạc, biểu tượng của thần Apollo.
“Xét cho cùng,” Octavian nói với Hazel, “biết đâu tôi giúp được cô thì sao. Sẽ là một điều hổ thẹn nếu những lời đồn thổi tệ hại về cô tiếp tục lan truyền... hoặc, lạy trời, nếu chúng biến thành sự thật.”
Percy cho tay vào túi và nắm chặt cây bút của mình. Gã này đang đe dọa Hazel. Rõ ràng là như vậy. Chỉ cần một dấu hiệu nào đó từ Hazel thôi, Percy sẵn sàng mở cây Thủy Triều ra và nhìn xem Octavian sẽ phản ứng thế nào khi đối diện với đầu mũi kiếm.
Hazel hít một hơi thật sâu. Các khớp ngón tay cô trắng bệch. “Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó.”
“Tuyệt,” Octavian nói. “Nhân tiện, em trai cô đang ở đây.” Hazel cứng người lại. “Em trai tôi? Mà sao?”
Octavian nhún vai. “Mà sao là sao? Ai mà biết cơ chứ? Cậu ta đang đợi cô ở điện thờ của cha cô. Chỉ là... à, đừng mời cậu ta ở lại quá lâu đấy nhé. Cậu ta khiến những người khác có cảm giác bị quấy rầy. Giờ, nếu các cậu không phiền, tôi phải tiếp tục tìm kiếm anh bạn mất tích tội nghiệp của chúng ta, Jason. Rất vui được gặp cậu, Percy.”
Hazel đi một mạch ra ngoài đền thờ và Percy theo sau. Cậu tin chắc rằng trong cuộc đời mình, cậu chưa bao giờ thấy vui khi rời khỏi một ngôi đền như lúc này.
Khi Hazel đi xuống dưới đồi, cô nguyền rủa bằng tiếng Latinh. Percy không hiểu hết, nhưng cậu nghe được những câu như là con trai của lũ gorgon, con rắn thèm khát quyền lực, và một vài gợi ý về nơi Octavian có thể đâm con dao của anh ta.
“Em ghét gã đó,” cô lầm bầm. “Nếu em có cách...” “Thực tế thì anh ta sẽ không được bầu làm pháp quan đâu,
đúng không?” Percy hỏi.
“Em ước gì mình có thể chắc cú chuyện đó. Octavian có rất nhiều bạn bè, phần lớn trong số họ là bị mua chuộc. Các trại viên còn lại thì sợ anh ta.”
“Sợ cái gã nhỏ bé gầy còm đó sao?”
“Đừng đánh giá thấp anh ta. Bản thân chị Reyna không xấu, nhưng nếu Octavian chia sẻ quyền lực với chị ấy...” Hazel rùng mình. “Chúng ta đi gặp em trai em đi. Em ấy muốn gặp anh.”
Percy không tranh cãi. Cậu muốn gặp cậu em trai thần bí đó, biết đâu cậu có thể biết thêm gì đó về hoàn cảnh của Hazel – cha cô là ai, bí mật cô đang che giấu là gì. Percy không tin cô đã làm điều gì đó tội lỗi. Cô có vẻ rất tốt bụng. Nhưng Octavian đã hành xử như thể anh ta nắm thông tin đáng hổ thẹn hiếm có nào đó của Hazel.
Hazel dẫn Percy đến hầm mộ màu đen được xây mé bên trong một sườn đồi. Đứng phía trước hầm mộ là một thiếu niên mặc quần jeans đen và áo khoác phi công.
“Chào,” Hazel gọi lớn. “Chị mang theo một người bạn đến.” Cậu con trai quay người lại. Những hình ảnh thoáng qua vô cùng kỳ lạ đó lại ùa đến trong đầu Percy: như thể đây là người mà cậu từng quen biết. Cậu ta cũng xanh xao y hệt Octavian, nhưng đôi mắt thì đen như hạt huyền và mái tóc đen thì rối tít. Cậu ta trông chẳng giống Hazel chút nào cả. Cậu ta đeo một chiếc nhẫn hình đầu lâu, một dây xích thay cho dây nịt và mặc áo phông đen với họa tiết hình đầu lâu. Ở bên hông giắo một thanh kiếm đen tuyền.
Trong một phần triệu giây khi cậu ta nhìn Percy, cậu con trai đó dường như sửng sốt – thậm chí là kinh hoàng, như thể cậu ta bị đèn pha rọi phải.
“Đây là anh Percy Jackson,” Hazel nói. “Anh ấy là một người tốt. Anh Percy, đây là em trai em, con trai của thần Pluto.” Cậu con trai có vẻ lấy lại bình tĩnh và chìa tay ra. “Rất vui được
gặp anh,” cậu ta nói. “Em là Nico di Angelo.”
V. HAZEL
HAZEL CÓ CẢM GIÁC NHƯ MÌNH VỪA GIỚI THIỆU hai quả bom nguyên tử với nhau. Giờ cô đang chờ đợi xem trái bom nào sẽ phát nổ trước.
Cho đến sáng hôm nay, Nico là á thần mạnh nhất mà cô từng biết. Những người khác ở Trại Jupiter lại xem cậu như là một kẻ du hành lập dị, vô hại giống các thần nông. Hazel biết là không phải thế. Cô không lớn lên cùng Nico, thậm chí còn không biết đến sự hiện diện của cậu trên đời này trong một thời gian dài. Nhưng cô thừa biết Nico còn nguy hiểm hơn Reyna, Octavian, hay thậm chí là cả Jason nữa.
Rồi cô gặp Percy.
Lúc đầu, khi cô nhìn thấy anh loạng choạng trên đường cao tốc với một bà già trên tay, Hazel đã cho rằng anh có thể là một vị thần đang cải trang. Mặc dù bị đập tơi bời, dơ bẩn và cúi gập xuống thở dốc, người anh vẫn tỏa ra vầng hào quang sức mạnh. Anh có vẻ ngoài ưa nhìn của một vị thần La Mã với đôi mắt màu xanh nước biển và mái tóc đen rối tung trong gió.
Cô đã bảo Frank đừng bắn anh. Cô nghĩ có lẽ các vị thần đang kiểm tra họ. Cô từng được nghe kể các câu chuyện thần thoại như thế: một thiếu niên đi cùng một bà lão van nài chỗ trú ẩn, và khi những người phàm vô lễ chối từ – bùm, họ bị biến thành những con sên chuối
Thế rồi Percy điều khiển dòng sông và tiêu diệt hai ả gorgon. Anh biến một cây bút thành một thanh kiếm đồng. Anh khiến cho toàn trại phải bàn tán xôn xao về graecus.
Con trai của thần biển ư...
Cách đây lâu lắm rồi, có người đã nói với Hazel rằng hậu duệ của thần Neptune sẽ giải thoát cho cô. Nhưng liệu Percy có thực sự phá bỏ được lời nguyền của cô không? Điều đó dường như quá nhiều để mà hy vọng.
Percy và Nico bắt tay nhau. Họ đưa mắt nhìn đối phương đầy thận trọng, và Hazel buộc phải cưỡng lại thôi thúc muốn bỏ chạy. Nếu hai người này đều rút hai thanh kiếm ma thuật kia ra, mọi việc sẽ ngày càng trở nên tệ hơn.
Thoạt nhìn Nico chẳng có vẻ gì đáng sợ. Cậu gầy còm và nhếch nhác trong bộ đồ đen nhàu nhĩ. Mái tóc cậu, như mọi khi, trông giống như thể cậu vừa mới rời giường vậy.
Hazel nhớ lại lúc cô gặp được em trai mình. Lần đầu tiên thấy cậu rút thanh kiếm đen tuyền kia ra, sém chút nữa cô cười lớn. Cái cách cậu gọi nó là “sắt Stygian” vô cùng nghiêm túc đó khiến cậu trông thật buồn cười. Cậu con trai da trắng bệch và gầy giơ xương này không phải là một chiến binh. Cô đã từng nghĩ rằng cô và cậu không có quan hệ họ hàng với nhau.
Cô đã phải thay đổi ý nghĩ của mình khá nhanh sau đó. Percy cau mày. “Tôi... tôi biết cậu.”
Nico nhướn mày. “Phải không?” Cậu nhìn Hazel nhằm tìm kiếm một lời giải thích.
Hazel ngần ngừ. Có điều gì đó không đúng trong phản ứng của em cô. Cậu đang cố hết sức để cư xử như bình thường, nhưng lần đầu tiên cậu nhìn thấy Percy, Hazel đã để ý đến cái nhìn sợ hãi thoáng qua của em mình. Nico có quen biết với Percy. Cô tin chắc như vậy. Sao em cô lại giả vờ như không quen nhỉ?
Hazel ép mình lên tiếng. “Ừm... anh Percy đã mất hết ký ức.” Cô kể cho em trai nghe những chuyện đã xảy ra kể từ lúc Percy đến gần cổng trại.
“Vậy, Nico này...” cô cẩn thận nói tiếp, “chị cho là... em biết đấy, em đi khắp nơi. Có thể trước đây em đã gặp các á thần như anh Percy, hoặc...”
Nét mặt Nico sầm lại, tối đen như Tartarus. Hazel không hiểu tại sao, nhưng cô nhận được thông điệp: Quên chuyện đó đi. “Thế còn câu chuyện về đội quân của Gaea,” Nico nói. “Anh đã cảnh báo Reyna về điều đó sao?”
Percy gật đầu. “Thế nhưng Gaea là ai thế?”
Miệng Hazel trở nên khô khốc. Chỉ cần nghe thấy cái tên đó... Tất cả những gì cô có thể làm là giữ cho hai đầu gối mình khỏi nhũn xuống. Cô nhớ lại giọng nói ngái ngủ nhẹ nhàng của bà ta, và cảm giác như phổi mình chứa đầy dầu đen.
“Bà ta là nữ thần đất.” Nico liếc nhìn xuống mặt đất như thể nó có thể nghe thấy điều đó. “Vị thần già cỗi nhất. Phần lớn thời gian bà ta chìm sâu vào giấc ngủ, nhưng bà ta ghét các vị thần và con cái của họ.”
“Đất Mẹ... là kẻ xấu xa ư?” Percy hỏi.
“Đúng thế,” Nico nói với vẻ nghiêm trọng. “Bà ta đã thuyết phục con trai mình, thần Titan Kronos – ừm, ý em là, thần Saturn[9] – giết cha mình, thần Uranus, và tiếp quản thế giới. Các thần Titan đã cai trị trong một thời gian dài. Rồi con của các thần Titan, các vị thần trên đỉnh Olympus, đã lật đổ họ.”
“Câu chuyện đó nghe quen quen,” giọng Percy nghe ngạc nhiên, giống như một ký ức cũ đã phần nào thức tỉnh. “Nhưng anh không nghĩ mình đã từng được nghe về nữ thần Gaea.”
Nico nhún vai. “Bà ta nổi điên lên khi các vị thần tiếp quản. Bà ta đã chọn một người chồng mới – Tartarus[10], linh hồn cõi địa ngục – và sinh ra một dòng dõi các tên khổng lồ mới. Chúng cố tiêu diệt đỉnh Olympus, song cuối cùng các vị thần cũng đánh bại được chúng. Ít nhất... lần đầu tiên.”
“Lần đầu tiên?” Percy lặp lại.
Nico liếc nhìn Hazel. Cậu hầu như không có ý khiến cô cảm thấy tội lỗi, nhưng cô không thể ngăn mình lại. Nếu Percy biết sự thật về cô, và những tệ hại mà cô đã làm...
“Hè năm ngoái,” Nico nói tiếp, “thần Saturn đã cố quay trở lại. Đó chính là cuộc chiến với các thần Titan lần thứ hai. Các á thần La Mã ở Trại Jupiter đã tấn công cơ quan đầu não của hắn trên núi Othrys, phía bên kia vịnh, và phá hủy ngai của hắn ta. Thần Saturn đã biến mất...” Cậu ngần ngừ, quan sát khuôn mặt của
Percy. Hazel có cảm giác em trai cô lo sợ rằng Percy sẽ nhớ ra thêm nhiều chuyện.
“Ừm, dù sao đi nữa,” Nico tiếp tục, “rất có thể thần Saturn đã lui về địa ngục. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng chiến tranh đã kết thúc. Giờ thì có vẻ như sự thất bại của các thần Titan đã khích động đến Gaea. Bà ta bắt đầu thức tỉnh. Em đã được nghe báo cáo về các gã khổng lồ đang tái sinh. Nếu chúng định thách thức các vị thần lần nữa, chắc chắn chúng sẽ bắt đầu bằng việc tiêu diệt các á thần...”
“Cậu đã nói cho Reyna điều này chưa?” Percy hỏi. “Dĩ nhiên.” Hàm Nico căng cứng. “Người La Mã không tin em. Đó là lý do em hy vọng cô ấy nghe lời anh. Những đứa con của thần Pluto... ừm, em không có ý gì đâu, nhưng họ nghĩ bọn em còn tệ hơn nhiều so với con của thần Neptune. Bọn em là điều xúi quẩy.”
“Họ để Hazel ở đây,” Percy lưu ý.
“Chuyện đó hoàn toàn khác,” Nico nói.
“Tại sao?”
“Anh Percy,” Hazel cắt ngang, “nghe này, những tên khổng lồ không phải là vấn đề tồi tệ nhất. Thậm chí... thậm chí cả Gaea cũng không phải nốt. Những điều anh nhận xét về lũ gorgon, cách chúng bất tử, đó mới chính là nỗi lo lớn nhất của chúng ta.” Cô nhìn Nico. Cô hiện đang mạo hiểm với bí mật của chính bản thân cô, nhưng vì một vài lý do nào đó, Hazel tin tưởng Percy. Có thể vì anh cũng là một người ngoài cuộc, hoặc có thể vì anh đã cứu Frank ở dòng sông. Anh xứng đáng được biết về thứ mà họ đang phải đối mặt.
“Nico và em,” cô cẩn trọng dùng từ, “bọn em nghĩ rằng những gì đang diễn ra là... Cái Chết không...”
Trước khi cô có thể nói hết câu, một tiếng gọi lớn vang lên từ dưới đ
Frank chạy chầm chậm về phía họ. Anh mặc quần jeans, áo sơ-
mi màu tía của trại và áo khoác denim. Hai tay dính đầy dầu mỡ do lau chùi vũ khí.
Y hệt như mỗi khi cô nhìn thấy Frank, trái tim Hazel bắt đầu trình diễn điệu nhảy-claket điên cuồng – điều thật sự khiến cô phát cáu. Rõ rồi, anh là một người bạn tốt, một trong số những người duy nhất ở trại không đối xử với cô như thể cô mắc phải căn bệnh truyền nhiễm nào đó. Nhưng cô không thích anh theo cách đó.
Anh lớn hơn cô ba tuổi, và không hẳn là Bạch mã Hoàng tử, với sự kết hợp kỳ lạ giữa khuôn mặt trẻ con và thân hình vạm vỡ của một vận động viên đô vật. Anh trông giống một con gấu koala thích được ôm ấp đầy cơ bắp. Việc mọi người thường cố ghép đôi họ với nhau – hai đứa vô tích sự nhất ở trại! Hai người thật hoàn hảo với nhau – chỉ khiến Hazel thêm cương quyết không thích anh.
Nhưng trái tim cô không đập theo những gì đã được lập ra. Nó trở nên điên cuồng mỗi khi Frank ở gần đó. Cô đã không có cảm giác như vậy kể từ khi... ừm, kể từ khi ở bên Sammy.
Chấm dứt việc đó đi, cô nghĩ. Có lý do khác cho việc mày ở đây – và đó không phải là việc có một cậu bạn trai mới. Ngoài ra, Frank chẳng biết gì về bí mật của cô. Một khi biết rồi, anh sẽ chẳng còn đối xử tốt với cô nữa đâu.
Anh chạy đến hầm mộ. “Chào em, Nico...”
“Anh Frank.” Nico mỉm cười. Cậu dường như thấy Frank thú vị, có lẽ vì Frank là người duy nhất ở trại chẳng hề bực bội khó chịu khi ở bên những đứa con của thần Pluto.
“Reyna bảo anh tới đón Percy,” Frank nói. “Anh Octavian đã chấp nhận cậu ấy rồi chứ?”
“Ừm,” Percy nói. “Anh ta đã ‘thịt’ con gấu trúc của tớ.” “Anh ta... Ừ. Thuật xem bói phải không? Ừm, những con gấu bông ắt sẽ có những cơn ác mộng về anh ta. Nhưng cậu đã được chấp nhận! Bọn tớ cần phải đưa cậu đi tắm rửa trước buổi điểm
danh tối.
Hazel nhận ra mặt trời đang dần lặn xuống phía trên những ngọn đồi. Sao ngày lại trôi qua quá nhanh như thế? “Anh ấy nói đúng,” cô nói. “Chúng ta cần phải...”
“Anh Frank này,” Nico chen ngang, “sao anh không đưa anh Percy đi nhỉ? Chị Hazel và em sẽ đến sau.”
Ối chà, Hazel nghĩ. Cô cố tỏ ra không có gì lo lắng. “Đó là... đó là một ý hay,” cô khẳng định. “Hai người đi trước đi. Bọn em sẽ bắt kịp hai người.”
Percy nhìn Nico thêm một lần nữa, cứ như anh vẫn đang cố nhớ lại. “Anh muốn nói chuyện với em lâu hơn nữa. Anh không thể từ bỏ cái cảm giác...”
“Chắc rồi,” Nico đồng ý. “Gặp anh sau. Tối nay em sẽ ngủ lại đây.”
“Em sẽ ở lại sao?” Hazel buột miệng hỏi. Các trại viên sẽ thích mê vụ này cho xem – con trai thần Neptune và con trai thần Pluto xuất hiện cùng trong một ngày. Giờ tất cả những gì họ cần là vài con mèo đen và mấy cái gương vỡ.
“Đi đi, anh Percy,” Nico nói. “Hãy thích nghi anh nhé.” Cậu quay sang nhìn Hazel, và cô có cảm giác rằng chuyện tệ hại nhất trong ngày của mình vẫn chưa đến. “Chị gái em và em cần nói chuyện.”
“Em biết anh ấy, đúng không,” Hazel nói.
Họ ngồi trên mái hầm mộ của thần Pluto, nơi được bao phủ bởi xương và kim cương. Từ khi Hazel bắt đầu hiểu biết, đám xương đã luôn có ở đây. Còn những viên kim cương là lỗi của cô. Nếu cô ngồi ở nơi nào quá lâu, hay chỉ cần trở nên lo lắng, chúng lại thình lình xuất hiện xung quanh cô như nấm mọc sau mưa. Những viên đá trị giá hàng triệu đô la sáng lấp lánh phía trên mái nhà, nhưng may mắn là các trại viên khác sẽ không chạm vào chúng. Họ biết tốt hơn hết là không nên trộm đồ từ các đền thờ – đặc biệt là từ đền thờ của thần Pluto – và các thần nông không
bao giờ leo lên đến tận trên này.
Hazel rùng mình, nhớ đến cú thoát hiểm trong gang tấc của cô với Don chiều nay. Nếu cô không hành động nhanh chóng và chộp lấy viên kim cương đó khỏi đường... Cô không muốn nghĩ về điều đó. Cô không muốn có thêm bất cứ mặc cảm tội lỗi nào nữa.
Nico đung đưa chân như trẻ nhỏ. Thanh kiếm bằng sắt Stygian được đặt bên cạnh cậu, kế bên thanh trường kiếm spatha của Hazel. Cậu lướt nhìn khắp thung lũng, nơi các đội xây dựng đang làm việc trên Cánh đồng Thần Mars, xây dựng công sự cho các trò chơi tối nay.
“Percy Jackson.” Cậu đọc cái tên đó như một lời bùa chú. “Chị Hazel, em phải cẩn thận với những gì em nói. Có những việc hệ trọng đang diễn ra ở đây. Một vài bí mật cần phải được giữ kín. So với tất cả mọi người, chị – chị nên hiểu điều đó.”
Hai gò má Hazel nóng bừng. “Nhưng anh ấy không giống... không giống chị sao?”
“Không,” Nico nói. “Em xin lỗi, em không thể kể với chị nhiều hơn. Em không được phép can thiệp vào. Anh Percy phải tìm ra đường đi riêng của mình ở trại này.”
“Anh ấy có nguy hiểm không?” cô hỏi.
Nico rặn ra một nụ cười khô khốc. “Rất nguy hiểm. Nhưng chỉ với kẻ thù thôi. Còn đối với Trại Jupiter thì không sao cả. Chị có thể tin vào anh ấy.”
“Như chị tin vào em vậy,” Hazel nói đầy chua chát. Nico xoay xoay chiếc nhẫn đầu lâu. Quanh cậu, mớ xương bắt đầu rung rung như thể chúng đang cố tạo thành một bộ xương mới. Bất cứ khi nào Nico buồn rầu, cậu tạo ra ảnh hưởng như thế đối với người chết, tựa như lời nguyền của Hazel vậy. Hai người họ, đại diện cho hai phạm vi kiểm soát của thần Pluto: cái chết và sự giàu có. Đôi khi Hazel nghĩ Nico đã có được phần tốt hơn cô.
“Nghe này, em biết việc này thật khó khăn,” Nico nói. “Nhưng
chị có cơ hội thứ hai. Chị có thể sửa sai những gì chị đã làm.” “Trong chuyện này thì chẳng có gì đúng cả,” Hazel nói. “Nếu họ phát hiện được sự thật về chị...”
“Họ sẽ không,” Nico hứa. “Họ sẽ sớm kêu gọi một nhiệm vụ mới. Họ buộc phải làm thế. Chị sẽ làm em tự hào. Tin em đi, Bi...”
Cậu khựng lại, nhưng Hazel biết rõ cậu suýt gọi cô là gì: Bianca. Chị ruột của Nico – người cậu đã cùng lớn lên. Có lẽ Nico quan tâm lo lắng cho Hazel thật đấy, nhưng cô không bao giờ là Bianca cả. Hazel chỉ đơn giản là người thay thế tốt nhất mà Nico có thể có được – một giải khuyến khích từ Địa ngục.
“Em xin lỗi,” cậu nói.
Miệng Hazel có vị như nếm phải sắt, như thể các quặng vàng đang trồi lên bên dưới lưỡi cô. “Thế chuyện về Tử Thần là có thật à? Alcyoneus là người gây ra sao?”
“Em nghĩ thế,” Nico nói. “Dưới Địa ngục tình hình đang trở nên ngày càng xấu đi. Cha đang điên lên vì phải giữ cho mọi thứ trong phạm vi kiểm soát. Từ những gì anh Percy nói về lũ gorgon, mọi việc ở đây cũng đang tồi tệ không kém gì đâu. Nhưng nghe này, đó là lý do vì sao chị ở đây. Mọi việc trong quá khứ của chị – chị có thể tạo ra điều gì đó tốt đẹp từ những chuyện đó. Chị thuộc về Trại Jupiter.”
Điều đó nghe khá là buồn cười, Hazel suýt nữa bật cười. Cô không thuộc về nơi này. Cô thậm chí còn chẳng thuộc về thế kỷ này nữa.
Cô biết tốt hơn hết không nên cứ mãi ôm lấy quá khứ, nhưng cô nhớ đến cái ngày mà cuộc đời trước đây của mình bị đảo lộn. Cô bất tỉnh đột ngột đến nỗi cô thậm chí còn không kịp kêu một tiếng A ối. Cô đã trở về thân xác mình đúng lúc. Không một giấc mơ hay cảnh mộng. Ký ức dâng trào trong cô vô cùng rõ ràng, cô cảm giác rằng mình thật sự đã từng ở đó.
Lần sinh nhật gần đây nhất của cô. Cô vừa mới bước sang tuổi
mười ba. Nhưng không phải vào tháng Mười hai năm ngoái – mà là ngày 17 tháng Mười hai năm 1941, ngày cuối cùng cô sống ở New Orleans.
VI. HAZEL
HAZEL ĐANG MỘT MÌNH ĐI BỘ VỀ NHÀ từ chuồng ngựa. Mặc cho đêm tối lạnh lẽo, cô đang vô cùng phấn chấn vì khích động. Sammy đã hôn lên má
Ngày hôm nay đúng là buồn vui lẫn lộn. Đám trẻ ở trường cứ chòng ghẹo về mẹ của cô, chúng gọi bà là phù thủy và nhiều tên khác nữa. Dĩ nhiên chuyện đó đã diễn ra lâu rồi, nhưng giờ đây nó ngày càng trở nên tệ hơn. Các tin đồn về lời nguyền của Hazel đang lan khắp. Ngôi trường cô theo học là Học viện Thánh Agnes, nơi dành cho Những Đứa Trẻ Da Màu và Da Đỏ, một cái tên bất biến cả trăm năm nay. Cũng như tên gọi, nơi này che giấu vô số hành động tàn nhẫn bên dưới lớp ngụy trang lòng tốt mỏng dính.
Hazel không hiểu tại sao những đứa trẻ da đen khác lại xấu tính như thế. Chúng đáng lẽ phải biết rõ điều đó hơn cô, vì chính chúng cũng luôn phải chịu đựng những lời mạt sát. Vậy mà chúng đã hét vào mặt và cướp đi bữa trưa của cô, đồng thời luôn hỏi xin những viên đá quý đẹp mê hồn: “Mớ kim cương bị nguyền rủa kia đâu, con nhóc kia? Đưa cho tao vài viên, bằng không tao sẽ đánh mày đấy!” Chúng xô ngã cô ở vòi phun nước và ném đá vào cô nếu cô cố đến gần chúng trong sân chơi.
Dù chúng có quá đáng thế nào đi nữa, Hazel không bao giờ đưa kim cương hay vàng cho chúng. Cô không căm ghét ai nhiều đến mức đó. Ngoài ra, cô cũng còn một người bạn – Sammy – và thế là đã quá đủ.
Sammy thích đùa rằng cậu là học sinh xuất sắc của trường Thánh Agnes. Cậu là người Mỹ gốc Mexico, vì thế cậu cho rằng mình chính là người da màu và da đỏ. “Họ nên tặng mình hai phần học bổng chứ,” cậu nói.
Cậu không to cao hay vạm vỡ, nhưng cậu sở hữu một nụ cười ngu ngơ và cậu làm cho Hazel bật cười.
Chiều hôm đó, cậu đã đưa cô đến chuồng ngựa, nơi cậu làm
người giữ ngựa. Đó là câu lạc bộ cưỡi ngựa hiển nhiên là “chỉ dành cho người da trắng”, nhưng nó đóng cửa vào cuối tuần. Và khi mà chiến tranh đang nổ ra, mọi người xì xào rằng câu lạc bộ có thể phải đóng cửa hoàn toàn cho đến khi người Nhật rút đi và những người lính quay trở về. Sammy thường lén đưa Hazel vào để giúp chăm sóc bầy ngựa. Thỉnh thoảng họ lại cùng nhau cưỡi ngựa.
Hazel yêu thích những chú ngựa. Chúng dường như là sinh vật sống duy nhất không sợ cô. Con người ghét cô. Những con mèo rít ầm lên. Đám chó gầm gừ. Thậm chí cả con hamster ngu ngốc trong lớp Cô Finley cũng kêu the thé sợ hãi mỗi khi cô mang cà rốt cho nó. Nhưng những con ngựa thì không thế. Khi đến chuồng ngựa, cô có thể cưỡi chúng và phi thật nhanh, đến nỗi chẳng viên đá quý nào trồi lên kịp theo gót. Cô h như cảm thấy được giải thoát khỏi lời nguyền của mình.
Chiều hôm đó, cô đã dắt một chú ngựa đực màu lang sậm có cái bờm đen tuyệt đẹp ra ngoài. Cô nhanh chóng phi như bay vào những cánh đồng, để mặc Sammy lại phía sau. Khi đuổi kịp cô, cả cậu và con ngựa đều gần như hết cả hơi.
“Sao cậu lại chạy như ma đuổi thế?” Cậu cười lớn. “Tớ không xấu trai đến thế, phải không nào?”
Thời tiết hôm đó quá lạnh cho việc dã ngoại, nhưng dẫu sao thì họ cũng đã có một chuyến đi như thế, ngồi bên dưới bóng cây mộc lan trong khi lũ ngựa được buộc vào hàng rào gỗ. Sammy mang cho cô một cái bánh nướng nhỏ có cắm một ngọn nến sinh nhật phía trên, và dù đã bị nát bét do vụ cưỡi ngựa rượt theo, nhưng cái bánh đó là thứ dễ thương nhất mà Hazel từng thấy. Họ phân nó ra làm hai và chia sẻ với nhau.
Sammy nói về cuộc chiến. Cậu ước gì mình đủ tuổi để tham gia. Cậu hỏi Hazel rằng liệu cô có viết thư cho cậu nếu cậu trở thành một người lính đi chiến đấu ở nước ngoài không. “Dĩ nhiên là có rồi, ngốc à,” cô nói.
Cậu cười rạng rỡ. Rồi, như bị thôi thúc bởi một ý muốn bất chợt nào đó, cậu vươn người tới trước và hôn lên má cô. “Chúc mừng sinh nhật, Hazel.”
Việc đó chẳng nhiều nhặn gì. Chỉ là một nụ hôn, thậm chí chẳng phải ở môi nữa. Nhưng Hazel cảm giác như thể mình đang bay bổng. Cô hầu như chẳng nhớ mình đã cưỡi ngựa quay lại chuồng hay chào tạm biệt Sammy như thế nào. Cậu nói, “Gặp cậu vào ngày mai nhé,” như mọi lần. Nhưng cô vĩnh viễn chẳng bao giờ gặp lại cậu nữa.
Vào thời điểm cô về đến Khu phố Pháp, trời đã nhá nhem tối. Gần về đến nhà, cảm giác ấm áp trong cô tan biến, thay thế bằng sự sợ hãi.
Hazel và mẹ cô – Nữ hoàng Marie, bà thích mọi người gọi vậy – sống trong căn hộ cũ kỹ phía trên một câu lạc bộ nhạc jazz. Bất chấp chiến tranh đã bắt đầu, ở đây khắp nơi đều có không khí hội hè. Các tân binh lang thang trên đường, cười đùa và bàn tán về những trận đánh với người Nhật. Họ đi xăm hình trong các cửa tiệm hay cầu hôn người yêu ngay trên vỉa hè. Vài người sẽ lên trên gác để mẹ Hazel đoán tương lai hay mua dăm ba loại bùa từ Marie Levesque, nữ hoàng bùa chú nổi tiến
“Cậu có nghe thấy không?” ai đó nói. “Hai mươi lăm xu cho cái bùa may mắn này đấy. Tớ mang nó đến cho một người quen biết xem, anh ta bảo vật này bằng bạc thật. Đáng giá đến hai mươi đô-la! Mụ pháp sư đó bị điên rồi!”
Chỉ trong giây lát, cuộc trò chuyện kiểu đó đã mang đến cho Nữ hoàng Marie vô số mối hàng. Lời nguyền của Hazel phát huy một cách từ từ. Lúc đầu, nó có vẻ như là một lời chúc phúc. Đá quý và vàng chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện, không bao giờ với số lượng lớn. Nữ hoàng Marie đã dùng nó để trang trải các hóa đơn. Họ ăn tối bằng món bít-tết mỗi tuần một lần. Hazel còn được mua cho áo đầm mới. Nhưng rồi các câu chuyện lan truyền khắp nơi. Dân chúng trong vùng bắt đầu nhận thấy chuyện vô cùng tồi
tệ xảy ra với những ai mua bùa may mắn hay được thanh toán bằng châu báu của Nữ hoàng Marie. Charlie Gasceaux bị máy gặt làm mất cánh tay khi đang mang vòng tay bằng vàng. Ông Henry ở cửa hàng tạp hóa lên cơn đau tim và chết bất đắc kỳ tử sau khi Nữ hoàng Marie trả tiền mua hàng bằng một viên hồng ngọc.
Họ hàng thân thuộc thầm thì xôn xao về Hazel – việc cô có thể tìm thấy các món đồ trang sức bị nguyền rủa chỉ bằng việc đi ra phố như thế nào. Hiện tại, chỉ có những người không ở trong thành phố mới đến gặp mẹ cô, và dĩ nhiên là chẳng có nhiều người như thế. Mẹ Hazel càng lúc càng nóng tính. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy căm phẫn.
Hazel leo lên cầu thang theo cách lặng lẽ nhất mà mình có thể, phòng trường hợp mẹ cô có khách hàng. Trong câu lạc bộ ở dưới gác, ban nhạc đang lên dây nhạc cụ. Tiệm bánh kế bên đã bắt đầu làm món bánh rán cho sáng ngày mai, thế là cả cầu thang tràn ngập mùi bơ đang tan chảy.
Khi lên đến bậc thang trên cùng, Hazel nghĩ mình nghe được hai giọng nói vang lên trong nhà. Nhưng khi cô ghé nhìn trộm vào phòng khách, mẹ cô đang ngồi một mình ở bàn cầu hồn, đôi mắt nhắm lại như thể đang ở trong trạng thái xuất thần.
Hazel từng thấy bà như vậy nhiều lần rồi, giả vờ nói chuyện với các linh hồn giúp các khách hàng – nhưng chưa bao giờ bà làm thế khi ở một mình. Nữ hoàng Marie luôn bảo Hazel rằng bùa chú của bà là “nhảm nhí và vớ vẩn”. Bà thật sự không tin vào bùa phép, thuật bói toán hay hồn ma. Bà chỉ là một nghệ sĩ, như ca sĩ hay nữ diễn viên vậy, đang biểu diễn để lấy tiền.
Nhưng Hazel thừa biết mẹ cô có tin vào vài trò phù phép nào đó. Lời nguyền của Hazel chẳng vớ vẩn đâu. Nữ hoàng Marie chỉ không muốn nghĩ đó là lỗi của bà – rằng bằng cách nào đó bà đã làm cho Hazel thành như hiện tại.
“Đều là do lão cha trời đánh thánh vật của con mà ra,” hẳn Nữ hoàng Marie sẽ cằn nhằn với tâm tình chẳng sáng sủa gì.
“Đến đây trong bộ vest màu bạc và đen kỳ lạ của ông ấy. Lần đầu tiên và duy nhất ta thực sự triệu hồi được một vị thần, và ta được gì nào? Đáp ứng mong ước của ta và làm đời ta bét nhè. Đáng lẽ ta phải là một nữ hoàng đích thực. Đó là lỗi của ông ấy khi con thành ra thế này.”
Bà sẽ không bao giờ giải thích rõ ý bà là gì, và Hazel cũng biết là không nên hỏi về cha mình. Điều đó chỉ khiến mẹ cô tức giận hơn mà thôi.
Hazel quan sát, Nữ hoàng Marie đang lầm bầm gì đó. Nét mặt bà điềm tĩnh và thoải mái. Hazel hết sức kinh ngạc vì vẻ đẹp của mẹ mình, khi bà không giận dữ và cau có. Bà có mái tóc dày màu nâu vàng giống hệt Hazel và nước da ngăm đen y như hạt café được rang chín. Bà hiện không mặc chiếc váy dài màu vàng nghệ hay đeo các chuỗi hạt bằng vàng mà bà thường dùng để gây ấn tượng với khách hàng – chỉ là một chiếc váy trắng kiểu dáng đơn giản. Thế nhưng, bà tỏa ra khí thế vương giả, đồng thời ngồi thẳng người và cao quý trong chiếc ghế mạ vàng như thể bà là một nữ hoàng thật sự vậy.
“Đến đó ngươi sẽ được an toàn,” bà lầm bầm. “Cách xa đám thần thánh đó.”
Hazel kìm lại để không phải thét lên. Giọng nói phát ra từ miệng mẹ cô không phải là của bà. Nghe như giọng một người phụ nữ lớn tuổi hơn. Giọng nói đó vừa nhẹ nhàng và êm ái, vừa uy nghi – giống như một nhà thôi miên đang ra lệnh vậy.
Nữ hoàng Marie cứng cả người. Đang xuất thần, bà nhăn mặt lại rồi nói bằng giọng bình thường của mình: “Nơi đó quá xa. Quá lạnh. Quá nguy hiểm. Ông ấy bảo tôi đừng làm thế.”
Giọng nói kia đáp lại: “Nó đã từng làm gì cho ngươi nào? Nó đã ban cho ngươi một đứa trẻ bị nguyền rủa! Nhưng chúng ta có thể tận dụng món quà của con bé. Chúng ta có thể đánh trả lại lũ thần linh. Ở phương bắc, ngươi sẽ được ta bảo vệ, tránh xa khỏi lãnh địa của đám thần thánh. Ta sẽ thu xếp để con trai ta trở
thành người bảo hộ của ngươi. Cuối cùng, ngươi cũng sẽ được sống như một nữ hoàng.”
Nữ hoàng Marie cau mày. “Nhưng còn Hazel thì...” Sau đó khuôn mặt bà vặn vẹo mỉm cười khinh bỉ. Cả hai giọng nói vang lên cùng lúc, như thể họ đã tìm thấy điểm chung: “Một đứa trẻ bị nguyền rủa.”
Hazel lẩn nhanh xuống cầu thang, mạch cô đập thình thịch. Dưới chân cầu thang, cô đâm sầm vào một người đàn ông mặc vest đen. Ông ta giữ chặt hai vai cô bằng những ngón tay mạnh mẽ và lạnh lẽo.
“Bình tĩnh nào, bé con,” người đàn ông nói.
Hazel chú ý đến chiếc nhẫn hình đầu lâu trên ngón tay ông, kế đó là loại vải kỳ lạ của bộ vest mà ông đang mặc. Trong bóng tối, lớp vải len đen tuyền đó dường như chuyển động và sôi sùng sục, định dạng thành những khuôn mặt đau đớn tột cùng, như thể các linh hồn lạc lối đang cố thoát khỏi những nếp gấp trên quần áo của ông ta.
Ông ta mang cà vạt màu đen với những vệt sọc màu bạch kim. Áo sơ-mi có màu xám của bia mộ. Khuôn mặt – tim Hazel gần như vọt khỏi lồng ngực. Da ông ta trắng nhợt đến độ gần như trở thành màu xanh, hệt như sữa lạnh. Mái tóc nhờn nhờn đen bóng. Tuy ông ta mỉm cười khá ân cần nhưng ánh mắt thì cáu bẳn và giận dữ, đầy uy quyền và cuồng điên. Hazel đã từng trông thấy cái nhìn đó trong các bộ phim thời sự ở rạp chiếu bóng. Người đàn ông này trông giống hệt gã Adolf Hitler đáng sợ đó. Ông ta không có ria mép, nếu không thì ông ta có thể là anh em sinh đôi của Hitler – hoặc là cha gã ta.
Hazel cố thoát thân. Nhưng ngay cả khi ông ta buông cô ra rồi, dường như cô chẳng nhúc nhích gì được. Đôi mắt ông ta làm cô đông cứng tại chỗ.
“Hazel Levesque,” ông ta nói bằng giọng u sầu. “Con đã lớn thật rồi.”
Hazel bắt đầu run lẩy bẩy. Bậc thềm xi măng ở chân cầu thang rạn nứt dưới bước chân của ông ta. Từ lớp bê-tông, một viên đá lấp la lấp lánh trồi lên như thể mặt đất vừa mới phun ra một hạt dưa hấu vậy. Người đàn ông nhìn nó, chẳng hề mảy may ngạc nhiên. Ông ta cúi xuống.
“Đừng!” Hazel hét lớn. “Nó bị nguyền rủa!
Ông ta nhặt viên đá lên – một viên ngọc lục bảo tuyệt đẹp. “Đúng thế, nó bị nguyền rủa. Nhưng không phải với ta. Quá đẹp... có giá trị hơn cả tòa nhà này, ta đoán thế.” Ông ta nhét viên ngọc vào trong túi áo. “Ta xin lỗi vì số mệnh của con, con gái. Ta cho
là con sẽ ghét ta lắm.”
Hazel không hiểu gì cả. Giọng người đàn ông này nghe rầu rĩ, như thể chính bản thân ông là người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời cô. Thế rồi cô nhận ra chân tướng sự việc: một vị thần trong trang phục màu bạc và đen, người đã đáp ứng các mong ước của mẹ cô và hủy hoại cuộc sống của cô.
Mắt cô mở lớn. “Ông? Ông là...”
Ông ta khum khum tay nâng cằm cô lên. “Ta là Pluto. Cuộc đời chưa bao giờ ưu ái những đứa con của ta, nhưng gánh nặng trên vai con rất đặc biệt. Giờ con đã mười ba tuổi, chúng ta phải chuẩn bị...”
Cô đẩy tay ông ta ra.
“Ông đã làm việc này với tôi sao?” cô gặng hỏi. “Ông đã nguyền rủa tôi và mẹ tôi sao? Ông đã bỏ rơi chúng tôi ư?” Nước mắt dâng đầy khiến mắt cô cay xè. Người đàn ông da trắng giàu có trong bộ vest bảnh bao này là cha cô sao? Mãi đến giờ, khi cô được mười ba tuổi, ông ta mới xuất hiện và nói rằng ông ta lấy làm tiếc ư?
“Ông thật độc ác!” cô hét lớn. “Ông đã hủy hoại cuộc đời chúng tôi!”
Thần Pluto nheo mắt lại. “Mẹ con đã kể với con những gì thế, Hazel? Mẹ con đã bao giờ giải thích ước muốn của bà ấy chưa?
Bà ấy có kể cho con nghe lý do con được sinh ra với lời nguyền đi cùng không?”
Hazel giận đến độ không thể đáp lại, nhưng hình như thần Pluto đọc được câu trả lời trên mặt cô.
“Không...” Ông ta thở dài. “Ta đoán bà ấy sẽ không làm thế. Đổ lỗi cho ta thì dễ hơn nhiều.”
“Ý ông là gì?”
Thần Pluto lại thở dài. “Đứa trẻon được sinh ra quá sớm. Ta không thể nhìn thấy tương lai của con một cách rõ ràng, nhưng một ngày nào đó con sẽ tìm thấy nơi mà con thuộc về. Hậu duệ của Neptune sẽ xóa đi lời nguyền và mang đến cho con sự bình yên. Thế nhưng, ta e là, chuyện đó còn lâu mới xảy ra...”
Hazel không hiểu ông ta nói gì hết. Trước khi cô kịp đáp lại, thần Pluto chìa tay ra. Một cuốn tập vẽ và một hộp bút chì màu xuất hiện trong lòng bàn tay ông ta.
“Ta biết con thích vẽ và cưỡi ngựa,” ông nói. “Những thứ này là dành cho sở thích vẽ của con. Còn về ngựa thì...” Đôi mắt ông lóe sáng. “Chuyện đó, con phải tự mình xoay xở thôi. Giờ ta phải nói chuyện với mẹ con. Chúc mừng sinh nhật, Hazel!”
Ông ta quay người lại và đi thẳng lên cầu thang – chỉ có thế, như thể ông ta vừa mới loại Hazel ra khỏi danh sách “việc phải làm” và đã hoàn toàn quên mất cô. Chúc mừng sinh nhật. Đi vẽ tranh đi con. Gặp lại con sau mười ba năm nữa nhé.”
Cô quá sửng sốt, quá giận dữ, quá bối rối đến nỗi cô chỉ biết đứng đờ người ra dưới chân cầu thang. Cô muốn ném hết bút chì màu xuống đất và giẫm lên chúng. Cô muốn chạy bừa tới chỗ thần Pluto và đá ông ta. Cô muốn bỏ chạy, tìm Sammy, trộm một
con ngựa, sau đó rời khỏi thị trấn và không bao giờ quay trở lại. Nhưng cô đã không thực hiện bất cứ điều nào trong số đó. Ở trên lầu, cửa ra vào của căn hộ bật ra, và thần Pluto bước vào bên trong.
Hazel vẫn còn run rẩy từ cái chạm lạnh cóng ban nãy, nhưng
cô đi rón rén lên cầu thang để xem ông ta sẽ làm gì. Ông ta sẽ nói gì với Nữ hoàng Marie đây? Ai sẽ là người đáp lại – mẹ của Hazel hay giọng nói kinh khủng kia?
Khi đến gần cánh cửa, Hazel nghe thấy tiếng cãi vã. Cô lén nhìn vào. Mẹ cô dường như đã trở lại bình thường – đang la hét và đùng đùng nổi giận, ném đồ vật trong phòng khách bay tứ tán trong khi thần Pluto cố nói chuyện lý lẽ với bà.
“Marie, việc đó thật điên rồ,” ông ta nói. “Em sẽ ở quá xa, sức mạnh của anh không thể bảo vệ được cho em.”
“Bảo vệ tôi?” Nữ hoàng Marie hét lớn. “Anh đã bảo vệ tôi từ khi nào?”
Bộ vest đen của thần Pluto l lòe, như thể các linh hồn bị mắc kẹt trong lớp vải đang khích động vậy.
“Em chẳng biết được đâu,” ông ta nói. “Anh đã giúp em sống sót đến bây giờ, em và con. Kẻ thù của anh ở khắp nơi, cả thần linh lẫn người phàm. Giờ một khi chiến tranh nổ ra thì chỉ thêm rắc rối thôi. Em phải ở lại nơi mà anh có thể...”
“Cảnh sát cho rằng tôi là một kẻ giết người!” Nữ hoàng Marie hét tướng lên. “Các khách hàng muốn treo cổ tôi cứ như tôi là một mụ phù thủy không bằng! Còn Hazel nữa – lời nguyền của con bé ngày càng ghê gớm hơn. Sự bảo vệ của anh làm chúng tôi chết dần chết mòn.”
Thần Pluto dang hai tay ra như muốn nài nỉ. “Marie, nghe này...”
“Không!” Nữ hoàng Marie quay về phía tủ để đồ lấy ra một túi du lịch bằng da rồi ném nó lên bàn. “Chúng tôi sẽ đi,” bà nói. “Anh cứ giữ lại sự bảo vệ của mình. Chúng tôi sẽ đi về phía bắc.”
“Marie, đó là một cái bẫy,” thần Pluto cảnh báo. “Cho dù là ai đang thì thầm vào tai em, cho dù bất cứ ai đang điều khiển em chống đối lại anh đi nữa...”
“Anh là người đã khiến tôi chống đối anh!” Bà cầm một cái bình sứ lên và ném về phía ông. Nó vỡ tan thành từng mảnh trên
"""