"
Các Anh hùng trên đỉnh Olympus 1: Người Anh Hùng Mất Tích PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Anh hùng trên đỉnh Olympus 1: Người Anh Hùng Mất Tích PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Ebook được hoàn thành bởi skypeaful, dựa trên mục đích hoàn toàn phi thương mại, với ý muốn chia sẻ sách cho những bạn không có điều kiện đọc các ấn phẩm thông thường. Mong rằng qua ebook này các bạn sẽ có được những phút giây thư giãn và thỏa mãn niềm đam mê đọc sách của mình. Đó cũng là ước mong của tất cả mọi người. Tuy nhiên, những trường hợp nằm trong khả năng có thể, tôi vẫn hy vọng các bạn mua bản in chính gốc. Bản quyền tác phẩm thuộc về nhà xuất bản. Bản ebook thuộc về nhóm dự án. Mọi hành động sao lưu dưới mọi hình thức sang bất cứ đâu xin giữ nguyên tên những người thực hiện, như một sự tôn trọng.
Thông tin:
Tên sách: Người Anh Hùng Mất Tích
Tác giả: Rick Riordan
Dịch giả: Thiên Tứ
Khổ sách: 14,5 x 20,5
Năm xuất bản: 2012
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Thể loại: Truyện ngắn - tiểu thuyết
Số trang: 556 trang
Giá bìa: 109,000 VNĐ
Mua, đánh máy và làm ebook bởi skypeaful
––––•(-• NGƯỜI ANH HÙNG MẤT TÍCH •-)•––––
Người anh hùng mất tích là sự tiếp nối của bộ truyện thành công trước đó của Rick Riordan Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus - bộ truyện kể về những cuộc phiêu lưu của Percy Jackson, con trai thần biển Poseidon và một bà mẹ người trần. Bằng lòng dũng cảm, trí thông minh và sự trung thành tuyệt đối với bạn bè, Percy Jackson đã cùng với các á thần khác đánh bại cuộc tấn công của những người khổng lồ Titan vào thành phố New York, giúp các vị thần bảo vệ thành công đỉnh núi Olympus. Cậu được các bạn tin yêu và, cùng với cô bạn gái Annabeth, đã trở thành người đứng đầu Trại Con Lai - trại dành cho các á thần Hy Lạp ở miền đông nước Mỹ.
Trong tập sách này, tác giả Riordan đã giới thiệu với chúng ta một nhân vật mới: Jason Grace. Xuất hiện trong tình trạng bị mất trí nhớ, Jason, cùng với hai người bạn mới Piper và Leo được đưa trở về Trại Con Lai. Tại đây, Jason đã thể hiện mình là con trai của vị thần chúa tể Zeus, và bộ ba được giao nhiệm vụ giải cứu nữ thần Hera khỏi tay tên khổng lồ Porphyrion. Trải qua bao thử thách, những sự nghi ngại ban đầu, những bí mật riêng của mỗi người dần được thay thế bởi tình yêu và tình bạn chân thành. Không chỉ cứu được Hera, Jason còn gặp lại Thalia Grace, người chị xa cách đã lâu của mình. Trí nhớ dần trở lại với Jason, cậu biết rằng mình đến từ trại của các á thần La Mã nằm ở bờ Tây nước Mỹ. Chính nữ thần Hera đã thực hiện việc tráo đổi thủ lĩnh của hai trại với nhau nhằm một mục đích lớn lao hơn
Mụ c Lụ c 1. JASON 2. JASON 3. PIPER 4. PIPER 5. LEO
6. LEO
7. JASON 8. JASON 9. PIPER
10. PIPER 11. LEO
12. LEO
13. JASON 14. JASON 15. PIPER 1
17. LEO
18. LEO
19. JASON 20. JASON 21. PIPER 22. PIPER 23. LEO
24. LEO
25. JASON 26. JASON 27. PIPER 28. PIPER
29.LEO
30.LEO
31.JASON
32.JASON
33
34.PIPER
35.LEO
36.LEO
37.JASON
38.JASON
39.PIPER
40.PIPER
41.LEO
42.LEO
43.JASON
44.JASON
45.PIPER
46.PIPER
47.LEO
48.LEO
49.JASON
50
51.PIPER
52.PIPER
53.LEO
54.LEO
55.JASON
56.JASON
1. JASON
Ngay cả trước khi cậu suýt bị ngất đi, Jason đã cho mình một ngày cực kỳ tồi tệ.
Thức dậy ở ghế sau một chiếc xe buýt trường, không chắc mình đang ở đâu, tay trong tay với một cô gái mà cậu không hề quen biết. Đó cũng chưa hẳn là phần tồi tệ nhất. Cô gái đó thật xinh, nhưng cậu không thể nghĩ ra được cô là ai và cậu đang làm gì ở đây. Cậu ngồi dậy, dụi dụi mắt,
cố nghĩ về những điều mình đã thắc mắc.
Khoảng mấy chục đứa trẻ đang nằm ườn ra trên các ghế phía trước, nghe nhạc từ những chiếc iPod, nói chuyện, hay đang ngủ. Tất cả đều khoảng tuổi cậu... mười lăm tuổi sao? Hay mười sáu? Được rồi, điều này thật đáng sợ. Cậu không biết tuổi của chính mình.
Chiếc xe buýt lắc lư trên suốt đoạn đường gồ ghề. Phía ngoài cửa sổ, sa mạc trải dài bên dưới bầu trời xanh trong. Jason khá chắc là cậu không sống ở sa mạc. Cậu cố nghĩ lùi lại... điều cuối cùng cậu nhớ được...
Cô gái siết chặt tay cậu. “Jason, cậu ổn chứ?” Cô mặc một chiếc quần jean bạc màu, giày leo núi, và một chiếc áo khoác trượt tuyết bằng lông cừu. Mái tóc màu nâu sô-cô-la được cắt so le, không đều, với hai lọn tóc mỏng được tết ở hai bên. Cô không trang điểm, như thể đang cố không thu hút sự chú ý; nhưng điều đó vô hiệu. Cô khá xinh. Đôi mắt cô dường như đổi màu như một cái kính vạn hoa – nâu, và xanh lục.
Jason thả tay cô ra. “Ừm, tớ không... ”
Ở phía trước xe buýt, tiếng giáo viên vang lên,“Được
rồi, những chiếc bánh nướng nhỏ, hãy nghe đây!” Người đàn ông đó ắt hẳn là một huấn luyện viên. Chiếc mũ bóng chày được kéo xuống phía dưới tóc một chút, vì thế bạn chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt tròn, nhỏ và sáng của ông ta. Ông ta có một chùm râu dê lưa thưa và một khuôn mặt cáu kỉnh, như thể ăn phải thức ăn ôi thiu. Cánh tay và ngực đầy cơ bắp căng cứng trong chiếc áo phông có cổ màu cam tươi. Quần tập bằng vải nylon và một đôi giày Nike trắng tinh. Một chiếc còi treo lủng lẳng trên cổ, và loa được gắn vào thắt lưng. Ông ta trông sẽ khá đáng sợ nếu không cao khoảng một mét năm. Khi ông ta đứng ở giữa lối đi, một trong số các học sinh kêu lên,“Đứng thẳng lên, Huấn luyện viên Hedge!”
“Ta nghe được đấy nhé!” Vị huấn luyện viên đó nhìn khắp xe nhằm tìm kiếm người vừa nói ra điều đó. Thế rồi ánh mắt ông ta rơi vào Jason, và vẻ mặt trở nên cau có hơn.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc xuống sống lưng Jason. Cậu biết chắc rằng huấn luyện viên đã biết được cậu không thuộc về nơi này. Ông ta sẽ gọi Jason ra, hỏi cậu đang làm gì trên xe buýt – và Jason sẽ không biết mình phải nói những gì.
Nhưng Huấn luyện viên Hedge nhìn sang hướng khác và hắng giọng. “Chúng ta sẽ đến nơi trong năm phút nữa! Hãy ở cùng với cộng sự của mình. Không được để mất phiếu bài tập. Và nếu bất cứ người nào trong số những chiếc bánh nướng nhỏ bé quý giá gây ra bất cứ rắc rối nào trong chuyến đi này, cá nhân ta sẽ gửi người đó quay trở lại trại bằng cách thức chẳng nhẹ nhàng chút nào cả đâu.”
Ông ta nhặt một cây gậy bóng chày lên và thực hiện
động tác như thể ông ta đang đánh một cú homer vậy. Jason nhìn cô gái ngồi cạnh mình. “Ông ấy có thể nói với chúng ta kiểu như vậy sao?”
Cô nhún vai. “Luôn luôn như vậy. Đây là Trường học Hoang Dã,‘Nơi trẻ em là những con thú.’”
Cô nói như thể đó là một câu nói đùa mà họ đã từng chia sẻ trước đây.
“Đây là một sai lầm,” Jason nói. “Tớ không chắc là mình nên có mặt ở đây.”
Cậu bé ở phía trước cậu quay lại và cười ngặt nghẽo. “Ừ, đúng vậy,. Tất cả chúng ta đều đã tưởng tượng! Tớ đã không bỏ nhà đi đến sáu lần. Piper đã không đánh cắp một chiếc BMW.”
Cô gái đỏ mặt. “Tớ không đánh cắp chiếc xe đó, Leo!” “Ồ, tớ quên mất, Piper. Thế câu chuyện của cậu là gì? Cậu ‘đã nói chuyện’ với người bán xe hơi về việc cho cậu mượn nó à?” Cậu ta nhướn nhướn cặp lông mày về phía Jason như thể, Cậu có thể tin được cô ấy không? Leo trông giống một người lùn giúp việc cho ông già Noel, với mái tóc đen quăn tít, đôi tai nhọn, khuôn mặt trẻ con tươi cười, cùng một nụ cười tinh nghịch cho bạn biết ngay rằng anh chàng này không đáng tin lắm khi ở gần diêm và các vật thể sắc nhọn. Những ngón tay dài, khéo léo không ngừng chuyển động – gõ liên hồi lên ghế, vuốt tóc ra sau tai, nghịch vớ vẩn những chiếc nút trên áo jacket quân đội của cậu ta. Hoặc đứa trẻ này vốn kích động thái quá hoặc cậu ta nốc đường và cà-phê-in đủ để gây đau tim cho một con trâu nước.
“Dù sao đi nữa,” Leo nói,“tớ hy vọng các cậu còn giữ phiếu bài tập của mình vì tớ đã sử dụng nó cho trò bắn đạn
giấy vài ngày trước đây. Sao các cậu lại nhìn tớ như thế? Ai đó lại vẽ lên mặt tớ sao?”
“Tớ không quen cậu,” Jason nói.
Leo nhăn nhở cười với cậu. “Chắc rồi. Tớ không phải là bạn tốt nhất của cậu. Tớ là bản sao xấu xa của cậu ta.” “Leo Valdez!” Huấn luyện viên Hedge hét lên từ phía trước. “Có vấn đề gì phía sau đó sao?”
Leo nháy mắt với Jason. “Xem đây.” Cậu ta quay về phía trước. “Xin lỗi, Huấn luyện viên! Em không nghe được thầy nói. Thầy có thể dùng loa để nói rõ hơn không ạ?”
Huấn luyện viên Hedge lầm bầm như thể hài lòng với lời xin lỗi. Ông lấy loa ra khỏi thắt lưng và tiếp tục đưa ra các hướng dẫn, nhưng giọng nói của ông phát ra giống hệt giọng của Darth Vader(1). Những đứa trẻ vỗ tay ca ngợi. Huấn luyện viên cố thử lại lần nữa, nhưng lần này cái loa lại kêu inh ỏi: “Con bò kêu ụm bò!”
Những đứa trẻ cười rú lên, và huấn luyện viên đập mạnh vào cái loa. “Valdez!”
Piper nén cười. “Chúa ơi, Leo. Sao cậu làm được điều đó?”4">Leo hé đầu mũi một cái tua-vít hiệu Phillips nhỏ xíu bên dưới tay áo của cậu ta. “Tớ là một cậu bé đặc biệt.”
“Các cậu, nghiêm túc đấy,” Jason nài nỉ. “Tớ đang làm gì ở đây? Chúng ta đang đi đâu?”
Piper cau mày lại. “Jason, cậu đang đùa phải không?” “Không! Tớ chẳng biết gì...”
“Eo, đúng rồi, cậu ấy đang đùa,” Leo nói. “Cậu đang cố trả đũa về việc tớ xịt kem cạo râu lên món Jell-O của cậu, đúng không?”
Jason ngây người nhìn cậu ta.
“Không, tớ nghĩ là cậu ấy đang nói thật.” Piper cố cầm
lấy tay cậu, nhưng cậu rút tay mình lại.
“Tớ xin lỗi,” cậu nói. “Tớ không... tớ không thể...” “Đúng thế!” Huấn luyện viên Hedge hét lên từ phía trước. “Hàng phía sau vừa mới tình nguyện dọn dẹp sau bữa ăn trưa!”
Đám trẻ còn lại reo hò mừng rỡ.
“Thật là một cú sốc,” Leo làu bàu.
Nhưng Piper vẫn nhìn Jason, như thể cô không thể quyết định được liệu mình nên bị tổn thương hay lo lắng. “Cậu có va đầu vào cái gì đó không? Cậu thực sự không biết bọn tớ là ai sao?”
Jason nhún vai đầy bất lực. “Còn tệ hơn điều đó nữa kia. Tớ không biết mình là ai.”
Chiếc xe buýt thả họ xuống trước một khu liên hợp được lát vữa màu đỏ lớn như một viện bảo tàng, tọa lạc ở một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó. Có thể nó là: Bảo tàng Quốc gia của Đâu Đấy, Jason nghĩ. Một cơn gió mang theo hơi lạnh thổi ngang qua sa mạc. Jason đã không chú ý nhiều đến việc cậu đang mặc gì, nhưng nó chẳng đủ ấm: quần jeans và giày đế mềm, áo phông màu tía và áo gió mỏng màu đen.
“Vậy, khóa học cấp tốc cho chứng quên sẽ được bắt đầu,” Leo nói, với vẻ đầy quan tâm khiến Jason nghĩ điều này sẽ chẳng giúp ích được gì. “Chúng ta theo học ở ‘Trường học Hoang Dã’” – Leo dùng mấy ngón tay làm dấu mở ngoặc trong không khí. “Điều đó có nghĩa chúng ta là ‘những đứa trẻ hư’. Gia đình cậu hoặc tòa án hoặc bất cứ ai đó cho rằng cậu quá phiền hà, vì thế họ gửi cậu đến nhà tù đáng yêu này – xin lỗi,‘trường nội trú’ – ở Armpit, Neveda, nơi cậu học được các kỹ năng tự nhiên quý giá như chạy
mười dặm mỗi ngày ngang qua các cây xương rồng và đan hoa cúc thành những chiếc mũ! Và trong trường hợp đặc biệt, chúng ta sẽ thực hiện một chuyến đi thực tế ‘mang tính giáo dục’ với Huấn luyện viên Hedge, người luôn giữ trật tự với một cái mũ bóng chày. Cậu đã có thể nhớ lại mọi điều chưa?”
“Chưa.” Jason lo lắng liếc nhìn những đứa trẻ khác: có lẽ đến hai mươi cậu con trai, mười cô con gái. Không một ai trong số họ trông giống các tay tội phạm dày dạn, nhưng cậu tự hỏi tất cả họ đã làm gì để bị đưa đến một trường học dành cho tội phạm, và cậu cũng tự hỏi tại sao mình lại ở đây cùng với những người khác.
Leo tròn mắt nhìn. “Cậu thực sự diễn đến cùng phải không, hử? Được rồi, vì thế ba chúng ta đã cùng nhau theo học ở đây vào đầu năm học này. Chúng ta rất thân nhau đấy. Cậu làm mọi điều tớ bảo và đưa cho tớ phần tráng miệng của cậu và làm việc vặt cho tớ...”
“Leo!” Piper ngắt lời cậu ta.
“Được rồi. Quên phần cuối đi. Nhưng chúng ta thật sự là bạn bè. Riêng với Piper, thì cậu ấy xem cậu hơn tình bạn một chút, vài tuần trước...”
“Leo, im miệng!” Mặt Piper ửng đỏ. Jason có thể cảm nhận được mặt mình cũng đang nóng bừng. Cậu nghĩ mình sẽ nhớ ra được nếu cậu đã từng có cảm tình với một cô gái như Piper.
“Cậu ấy mắc chứng quên hay chứng bệnh gì đó khác nữa,” Piper nói. “Chúng ta phải nói cho một ai đó.” Leo chế giễu. “Ai, Huấn luyện viên Hedge ư? Ông ấy sẽ cố chữa cho Jason bằng cách đánh mạnh vào đầu cậu ấy.” Huấn luyện viên đang đứng ở phía trước nhóm, quát
tháo ầm ĩ về các nội quy và thổi còi để giữ cho những đứa trẻ đi theo hàng; nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc về phía Jason và cau có mặt mày.
“Leo, Jason cần giúp đỡ,” Piper khăng khăng. “Cậu ấy bị chấn động hoặc...”
“Này, Piper.” Một trong số các cậu con trai ở phía trước lùi ra đằng sau và gia nhập vào nhóm họ khi mọi người đi vào viện bảo tàng. Anh chàng mới đến chen người vào giữa Jason và Piper đồng thời húc ngã Leo. “Đừng nói chuyện với những thằng nhóc chưa hỉ mũi này. Cậu là cộng sự của tớ mà, nhớ không?”
Anh chàng mới đến này có mái tóc đen được cắt theo kiểu Siêu nhân, làn da rám nắng, răng thì trắng đến n chúng nên được kèm theo một biển cảnh cáo: KHÔNG ĐƯỢC NHÌN THẲNG VÀO RĂNG, SẼ BỊ MÙ VĨNH VIỄN. Cậu ta mặc áo cổ động của đội Dallas Cowboys, quần jeans Western và giày ống, và cậu ta cười như thể mình là món quà của Chúa dành tặng cho các cô gái tội phạm vị thành niên ở khắp mọi nơi. Jason ngay lập tức ghét cay ghét đắng cậu ta.
“Biến đi, Dylan,” Piper càu nhàu. “Tớ đã không yêu cầu làm việc cùng với cậu.”
“À, không thể thế được. Hôm nay là ngày may mắn của cậu đấy!” Dylan móc tay mình vào tay cô và kéo cô đi qua lối vào của viện bảo tàng. Piper ngoái đầu ra sau vai và bắn ra ánh nhìn cuối cùng, 911.
Leo đứng dậy và phủi phủi bụi khỏi người. “Tớ ghét thằng đó.” Cậu chìa tay ra cho Jason, như thể họ nên cùng nhau đi vào bên trong. “Tớ là Dylan. Tớ mới tuyệt làm sao, tớ muốn hẹn hò với chính mình, nhưng tớ không biết cách
để làm điều đó! Cậu muốn thay thế để hẹn hò với tớ sao? Cậu thật may mắn!”
“Leo,” Jason nói,“cậu thật kỳ lạ.”
“Ừm, cậu cứ nói mãi câu đó.” Leo cười toe toét. “Nhưng nếu cậu không nhớ tớ, điều đó có nghĩa tớ có thể sử dụng lại tất cả các trò chơi khăm cũ rích của tớ. Đi thôi!”
Jason đoán nếu đây là người bạn thân nhất của mình, cuộc đời cậu ắt hẳn sẽ rối tung cả lên; nhưng cậu vẫn đi theo Leo vào viện bảo tàng.
Họ đi khắp tòa nhà, dừng lại ở chỗ này chỗ kia để Huấn luyện viên Hedge giảng bài với cái loa của ông, lần lượt biến giọng ông nghe giống giọng của Sith Lord hoặc phát ra những câu nói ngẫu nhiên như,“Con lợn kêu ủn ỉn!”
Leo tiếp tục lôi đai ốc, bu-lông và cái thông điếu ra từ những túi áo jacket quân đội và lắp chúng vào với nhau, như thể cậu ấy lúc nào cũng phải khiến cho đôi tay mình luôn bận rộn.
Jason xao lãng đến nỗi cậu chẳng chú ý gì đến các vật trưng bày, nhưng họ đang được kể về Grand Canyon, và bộ tộc Hualapai, người sở hữu bảo tàng này.
Một vài cô gái tiếp tục nhìn qua phía Piper và Dylan và cười khúc khích. Jason đoán những cô gái này là một nhóm người nổi tiếng. Họ mặc quần jeans và áo phông hồng giống nhau và trang điểm đủ để dành cho một buổi tiệc Halloween.
Một trong số họ lên tiếng,“Này, Piper, bộ tộc cậu điều hành nơi này sao? Cậu được vào đây miễn phí nếu cậu nhảy một điệu cầu mưa
Các cô gái khác cười lớn. Ngay cả người được gọi là cộng sự của Piper, Dylan cũng nín cười. Hai tay áo jacket
của Piper dài phủ hai tay cô ấy, nhưng Jason có cảm giác cô đang nắm chặt hai tay mình lại.
“Cha tôi là người Cherokee,” cô nói. “Không phải người Hualapai. Vì thế cậu cần thêm một vài tế bào não để phân biệt sự đúng sai đấy, Isabel à.”
Isabel mở to mắt trong sự ngạc nhiên giả tạo, vì thế cô ta trông như thể một con cú với thói nghiện trang điểm. “Ồ, xin lỗi! Thế mẹ cậu thuộc bộ tộc này à? Ồ, đúng rồi. Cậu chưa bao giờ biết đến mẹ mình.”
Piper tấn công cô ta, nhưng trước khi việc đó xảy ra, Huấn luyện viên Hedge cất tiếng quát tháo,“Ở phía đằng sau đó! Hãy làm gương tốt nếu không ta sẽ sử dụng cây gậy bóng chày của ta đấy!”
Cả nhóm di chuyển đến điểm trưng bày tiếp theo, nhưng các cô gái vẫn đưa ra những lời bình luận về Piper. “Thật tuyệt khi được trở về khu bảo tồn của người da đỏ nhỉ?” một cô hỏi với một giọng thật ngọt ngào. “Chắc cha cô ta say xỉn đến nỗi không thể làm việc được,” một giọng khác cất lên với sự cảm thông giả tạo. “Đó là lý do tại sao cô ta lại ăn cắp vặt.”
Piper lờ đi hầu hết những lời bàn tán đó, nhưng Jason lại như sẵn sàng tự mình đấm vào mặt bọn chúng. Cậu có thể không nhớ được Piper, hoặc thậm chí là chính bản thân cậu, nhưng cậu biết mình ghét những đứa trẻ ác ý.
Leo nắm chặt tay cậu. “Hãy bình tĩnh nào. Piper không thích chúng ta tham gia vào trận chiến của cô ấy. Ngoài ra, nếu tất cả lũ con gái kia biết được sự thật về cha của cô ấy, bọn chúng sẽ phải cúi đầu trước cô ấy và hét lên rằng,‘Bọn
tớ không xứng!’”
“Tại sao? Cha cô ấy như thế nào?”
Leo cười với sự hoài nghi. “Cậu không đùa đúng không? Cậu thật sự không nhớ rằng cha của bạn gái cậu...” “Nghe này, tớ ước gì mình có thể nhớ, nhưng tớ không thể nào nhớ được cô ấy, chứ đừng nói gì đến cha cô ấy.” Leo huýt sáo. “Sao cũng được. Chúng ta phải nói chuyện sau khi quay trở lại ký túc xá.”
“Được rồi, những chiếc bánh nướng nhỏ,” Huấn luyện viên Hedge thông báo. “Các em sắp được nhìn thấy Grand Canyon(2). Cố đừng làm vỡ nó. Cây cầu kính có thể chịu đựng được sức nặng của bảy mươi chiếc máy bay chở khách, vì thế các em với sức nặng tựa lông chim sẽ được an toàn ở ngoài kia. Nếu cần thiết, cố tránh việc đẩy nhau ra khỏi thanh chắn cầu, vì điều đó khiến ta phải làm thêm công việc liên quan đến giấy tờ.”
Huấn luyện viên mở các cánh cửa, và tất cả họ bước ra ngoài. Grand Canyon trải ra trước mặt họ, sống động và trực diện. Kéo dài ra phía ngoài rìa là một lối đi hình móng ngựa được làm bằng kính, vậy nên bạn có thể nhìn xuyên qua nó.
“Ôi trời ơi,” Leo nói. “Điều này khá nguy hiểm đấy.” Jason buộc phải đồng ý. Ngoài chứng quên và cảm giác rằng mình không thuộc về nơi này, cậu không thể không cảm thấy những gì đang diễn ra trước mắt mình thật ấn tượng.
Hẻm núi rộng và lớn hơn những gì bạn có thể thưởng thức từ một bức ảnh. Nơi họ đứng cao đến nỗi các chú chim bay vòng quanh bên dưới chân họ. Phía dưới một trăm năm mươi mét, một dòng sông uốn lượn quanh đáy hẻm núi. Các đám mây bão di chuyển phía trên đầu họ khi họ ở bên trong, cắt ngang bóng râm tạo thành những khuôn mặt giận
dữ khắp vách đá. Xa xa theo tầm mắt của Jason, các khe núi màu đỏ và xám cắt ngang sa mạc như thể một vị thần điên rồ nào đó đã sử dụng dao với nó.
Jason nhận ra một cơn đau nhói trong mắt mình. Những vị thần điên rồ... Từ đâu cậu lại có ý nghĩ như thế? Cậu cảm thấy mình đang đến gần điều gì đó quan trọng – một điều gì đó cậu nên biết. Cậu cũng có cảm giác không thể nhầm được là cậu đang gặp nguy hiểm.
“Cậu ổn chứ?” Leo hỏi. “Cậu sẽ không ném mình qua thành cầu, đúng không? Vì lẽ ra tớ nên mang theo máy ảnh.”
Jason nắm chặt thanh rào chắn. Cậu đang run và vã mồ hôi, nhưng việc đó không liên quan gì đến độ cao. Cậu chớp mắt, và cơn đau ở mắt giảm bớt đi.
“Tớ ổn mà,” cậu nói. “Chỉ là một cơn đau đầu mà thôi.” Tiếng sấm rền vang phía trên đầu. Một cơn gió lạnh gần như đẩy ngã cậu xuống khỏi thành
“Nơi này chẳng an toàn.” Leo liếc mắt nhìn những đám mây. “Bão ở ngay trên đỉnh đầu chúng ta, nhưng rõ ràng ở phía ngoài kia lại chẳng có dấu hiệu nào. Kỳ lạ, nhỉ?”
Jason ngước nhìn lên và nhận ra rằng Leo nói đúng. Một vòng tròn mây đen kịt đang đậu bên trên cầu kính, nhưng phần còn lại của bầu trời ở các hướng khác lại hoàn toàn quang đãng. Jason có cảm giác không tốt về điều đó.
“Được rồi, những chiếc bánh nướng nhỏ!” Huấn luyện viên Hedge hét lớn. Ông ta cau mày nhìn về phía cơn bão như thể nó cũng làm phiền ông ta vậy. “Chúng ta có thể sẽ rút ngắn cuộc tham quan này, vì thế hãy bắt tay vào việc nào! Hãy nhớ, hoàn thành các câu hỏi!”
Cơn bão ì ầm, và đầu Jason bắt đầu đau trở lại. Không
biết lý do tại sao cậu lại làm thế, nhưng Jason cho tay vào túi quần jeans và lấy ra một đồng xu – một đồng xu vàng có kích thước của đồng nửa đô-la, nhưng dày hơn và không bằng phẳng. Được in dấu một mặt là bức ảnh hình rìu chiến. Mặt còn lại là khuôn mặt của một gã nào đó đội vòng nguyệt quế. Câu khắc trên đồng tiền có chữ như là IVLIVS.
“Khỉ thật, đó là vàng à?” Leo hỏi. “Cậu giấu cả với tớ à!” Jason cất đồng tiền xu đi, tự hỏi sao mình có được nó, và sao cậu lại có cảm giác là cậu sẽ nhanh sử dụng nó. “Không phải đâu,” cậu nói. “Chỉ là một đồng xu thôi.” Leo nhún vai. Có lẽ đầu óc cậu ấy không hoạt động nhiều như đôi tay. “Đi thôi,” cậu ấy nói. “Đố cậu dám nhảy ra phía ngoài đó.”
Họ đã không tập trung lắm vào phiếu bài tập. Lý do đầu tiên, Jason quá bị xao lãng bởi cơn bão và cảm giác hỗn loạn của chính cậu. Lý do khác, cậu không biết gì về việc làm thế nào để “kể tên ba tầng địa chất mà bạn quan sát được” hay “nêu hai ví dụ về sự xói mòn”.
Leo chẳng giúp được gì. Cậu ấy quá bận rộn với việc tạo ra một chiếc trực thăng bằng các ống thông điếu. “Hãy nhìn nó này.” Cậu ấy ném chiếc máy bay lên thẳng. Jason đoán nó sẽ rơi thẳng xuống, nhưng mấy cái cánh quạt bằng ống thậm chí còn quay tròn. Chiếc máy bay lên thẳng nhỏ đó bay qua được một nửa hẻm núi trước khi nó mất động lực và rơi vào khoảng không.
“Sao cậu có thể làm được điều đó?” Jason hỏi. Leo nhún vai. “Nó sẽ còn tuyệt hơn nếu tớ có vài sợi dây chun.”
“Nghiêm túc nhé,” Jason nói,“chúng ta là bạn nhau sao?”
“Lần cuối cùng tớ kiểm tra là thế.”
“Cậu chắc chứ? Ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau là bao giờ? Chúng ta đã nói những gì?”
“Đó là...” Leo cau mày. “Tớ không nhớ chính xác. Tớ là một đứa trẻ tăng động giảm lực, anh bạn. Cậu không thể mong tớ nhớ được một cách chi tiết.”
“Nhưng tớ chẳng nhớ gì về cậu cả. Tớ chẳng nhớ bất cứ ai ở đây. Liệu...”
“Cậu đúng và mọi người khác sai?” Leo hỏi. “Cậu nghĩ mình chỉ vừa mới xuất hiện ở đây vào sáng hôm nay, và tất cả mọi người có ký ức giả về cậu?”
Một giọng nói nhỏ vang lên trong đầu Jason, Đó chính xác là những gì mình nghĩ.
Nhưng điều này có vẻ điên rồ. Mọi người ở đây đều cho đó là chuyện đương nhiên. Mọi người hành động như thể cậu là một thành phần bình thường của lớp học – trừ Huấn luyện viên Hedge.
“Cầm lấy bài tập hộ tớ.” Jason đưa cho Leo tờ giấy. “Tớ sẽ quay trở lại ngay.”
Trước khi Leo có thể phản đối, Jason đã chạy thẳng ra phía cầu kính.
Ở đó chỉ có duy nhất các học sinh trường cậu. Có lẽ do thời điểm này trong ngày còn quá sớm với khách du lịch, hoặc có thể do thời tiết kỳ lạ đã khiến họ hoảng sợ. Những đứa trẻ của Trường học Hoang Dã đứng thành cặp trên khắp cầu kính. Phần lớn đang đùa giỡn và nói chuyện phiếm. Một vài cậu trai đang thả những đồng xu xuống vực. Cách khoảng mười lăm mét, Piper đang cố trả lời các câu hỏi trong phiếu bài tập của mình, nhưng tên cộng sự ngu ngốc của cô, Dylan, đang tán tỉnh cô, đặt tay mình lên vai
cô và trưng cho cô nụ cười sáng chói của mình. Cô tiếp tục đẩy cậu ta ra xa, và khi nhìn thấy Jason cô nhìn cậu ý như muốn nói, Bóp cổ thằng khỉ này hộ tớ.
Jason ra hiệu cho cô hãy kiên trì. Cậu bước về phía Huấn luyện viên Hedge, người đang đứng tựahiếc gậy bóng chày và quan sát đám mây bão.
“Cậu đã làm điều này?” huấn luyện viên hỏi cậu. Jason bước lùi lại một bước. “Làm điều gì ạ?” Nghe có vẻ như huấn luyện viên vừa mới hỏi liệu cậu có gây ra cơn bão này không chứ gì.
Huấn luyện viên Hedge liếc nhìn cậu, đôi mắt nhỏ tròn và sáng lấp lánh bên dưới vành mũ của ông ta. “Đừng giỡn với ta, nhóc. Cậu làm gì ở đây, và sao cậu lại làm xáo trộn công việc của ta?”
“Ý thầy là... thầy không biết em sao?” Jason nói. “Em không phải là một trong các học sinh của thầy?” Thầy Hedge khịt khịt mũi. “ Ta chưa bao giờ thấy cậu trước ngày hôm nay.”
Jason cảm thấy nhẹ nhõm cả người đến nỗi cậu gần như muốn khóc. Ít nhất cậu cũng không bị điên. Cậu chỉ đang ở sai địa điểm. “Là vầy, thưa thầy, em không biết sao em lại có mặt ở đây. Em tỉnh dậy và thấy mình ở trên xe buýt trường. Tất cả những gì em biết là đáng ra em không nên ở đây.”
“Ta biết rồi.” Giọng nói thô lỗ của thầy Hedge hạ thấp xuống gần như thì thầm, như thể ông đang chia sẻ một bí mật vậy. “Cậu có một sức mạnh cực lớn đối với Màn Sương Mù, cậu nhóc, nếu cậu có thể khiến tất cả những người này nghĩ rằng họ biết cậu; nhưng cậu không thể lừa được ta. Ta ngửi thấy được mùi quái vật từ mấy ngày nay rồi. Ta biết
chúng ta có người xâm nhập, nhưng cậu không có mùi quái vật. Cậu có mùi như thể mùi của một con lai. Vậy – cậu là ai, và từ đâu đến?”
Jason không hiểu phần lớn những gì huấn luyện viên nói, nhưng cậu quyết định trả lời thành thật. “Em không biết mình là ai. Em không có bất cứ ký ức nào. Thầy phải giúp em.”
Huấn luyện viên Hedge nhìn chăm chú mặt cậu như đang cố đọc ý nghĩ của Jason.
“Tốt,” thầy Hedge làu bàu. “Cậu là một người đáng tin.” “Dĩ nhiên rồi. Và những điều về quái vật và con lai là gì ạ? Những từ đó là các từ dùng để làm mật mã hay gì đó sao?”
Thầy Hedge nheo mắt lại. Một phần trong Jason tự hỏi liệu người đàn ông trước mặt mình có bị điên không. Nhưng phần khác trong người cậu lại biết rõ hơn về điều đó.
“Nghe này, nhóc,” thầy Hedge nói,“Ta không biết cậu là ai. Ta chỉ biết cậu là gì, và điều đó có nghĩa là rắc rối. Giờ ta phải bảo vệ cả ba người cậu chứ không còn là hai nữa. Cậu là gói hàng đặc biệt ư? Có phải không nhỉ?”
“Thầy đang nói về điều gì vậy?”
Thầy Hedge nhìn cơn bão. Những đám mây đang ngày càng nhiều hơn và mù mịt hơn, bay lượn ngay phía trên cầu kính.
“Sáng nay,” thầy Hedge nói. “Ta nhận được tin nhắn từ trại. Họ nói một đội ứng cứu đang trên đường đến đây. Họ đến để nhận một gói hàng đặc biệt, nhưng họ không nói cho ta chi tiết. Ta nghĩ là, Tốt thôi. Hai người ta đang trông chừng khá mạnh, lớn hơn những người khác rất nhiều. Ta biết họ đang bị theo dõi. Ta có thể ngửi thấy được mùi của
một con quái vật đang có mặt trong nhóm. Ta đoán đó là lý do tại sao trại đột nhiên điên cuồng đến đón họ. Nhưng rồi cậu đột nhiên chui ra từ đâu đó. Vậy, cậu là gói hàng đặc biệt đó à?”
Cơn đau đằng sau mắt Jason trở nên đau đớn hơn bao giờ hết. Con lai. Trại. Quái vật. Cậu vẫn không biết được thầy Hedge đang nói về những gì, nhưng những từ đó khiến não cậu đau nhức – như thể trí óc cậu đang cố truy cập những thông tin mà đáng lẽ ra nó nên ở đó.
Cậu trượt chân, và Huấn luyện viên Hedge chụp lấy cậu. Với một người nhỏ con mà nói, huấn luyện viên có bàn tay cứng như thép. “Ối chà, này, chiếc bánh nướng nhỏ. Cậu nói mình không có chút ký ức nào sao, hử? Tốt. Ta chỉ phải trông chừng cậu cho đến khi đội đó đến đây. Chúng ta sẽ để cho giám đốc luận ra mọi chuyện.”
“Giám đốc nào?” Jason hỏi. “Trại nào ạ?”
“Hãy ngồi yên một chỗ nhé. Quân tiếp viện sẽ nhanh chóng đến đây. Hy vọng không có chuyện gì xấu xảy ra trước...”
Chớp giật đùng đùng phía trên đầu. Gió đột nhiên thổi dữ dội. Các tờ giấy bài tập bay xuống Grand Canyon, và toàn bộ cây cầu rung lên. Những đứa trẻ hét vang, trượt chân và nắm chặt lấy thành cầu.
“Ta phải nói gì đó thôi,” thầy Hedge càu nhàu. Ông gào lên qua cái loa: “Mọi người vào bên trong! Con bò nói ụm bò! Đi ra khỏi cây cầu ngay!”
“Em nghĩ thầy đã nói là cầu này rất vững chắc!” Jason hét át tiếng gió
“Ngày thường thôi,” thầy Hedge đồng ý,“lúc này thì không. Đi nào!”
2. JASON
Cơn bão biến thành một cơn cuồng phong nhỏ. Những đám mây hình phễu uốn lượn về phía cầu kính như xúc tua của một con sứa khổng lồ.
Những đứa trẻ la hét và chạy về phía tòa nhà. Gió giật lấy tập vở, áo jacket, mũ và ba lô của chúng. Jason trượt khắp mặt cầu kính trơn tuột.
Leo mất thăng bằng và sắp ngã khỏi thành cầu, nhưng Jason đã nắm chặt lấy áo jacket và lôi cậu bạn lại. “Cám ơn, anh bạn!” Leo hét lớn.
“Đi đi, đi đi, đi đi!” Huấn luyện viên Hedge nói. Piper và Dylan đang giữ cánh cửa mở, kéo những đứa trẻ khác vào bên trong. Chiếc áo jacket lông cừu của Piper bị gió thổi bay phần phật, mái tóc đen phủ đầy trên mặt cô. Jason nghĩ chắc cô đang lạnh lắm, nhưng cô trông bình tĩnh và đầy tự tin – nói với những người khác là mọi việc sẽ ổn thôi, khuyến khích họ tiếp tục di chuyển.
Jason, Leo và Huấn luyện viên Hedge chạy về phía họ, nhưng việc đó giống như thể họ đang chạy qua một vùng cát lún vậy. Gió dường như đang chống lại họ, đẩy họ lùi lại phía sau.
Dylan và Piper đẩy thêm được một đứa trẻ vào bên trong, rồi trượt tay khỏi các cánh cửa. Chúng đóng sầm lại, khóa lại cầu kính.
Piper nắm lấy tay cầm. Những đứa trẻ bên trong đấm mạnh vào lớp kính, nhưng các cánh cửa dường như bị mắc kẹt.
“Dylan, giúp tớ!” Piper hét lên.
Dylan chỉ đứng đó với nụ cười ngốc nghếch, chiếc áo cổ động khẽ lay động trong gió, như thể cậu ta đột nhiên muốn thưởng thức cơn bão.
“Xin lỗi, Piper,” cậu ta nói. “Tớ đã xong việc giúp đỡ.” Cậu ta hất nhẹ cổ tay, và Piper bay ra phía sau, đâm sầm vào các cánh cửa và trượt xuống sàn cầu kính.
“Piper!” Jason cố tiến lên trước, nhưng cơn gió đang cản đường cậu, và Huấn luyện viên Hedge đẩy cậu lùi lại. “Thầy,” Jason nói,“thả em ra!”
“Jason, Leo, lùi ra phía sau,” huấn luyện viên ra lệnh. “Đây là trận chiến của ta. Đáng ra ta phải biết đó là quái vật của chúng ta.”
“Gì ạ?” Leo hỏi gặng. Một tờ bài tập tinh nghịch đập vào mặt cậu ấy, nhưng cậu ấy hất mạnh nó đi. “Quái vật gì ạ?” Chiếc mũ của huấn luyện viên bị thổi bay, và nhú ra phía trên mái tóc xoăn của ông là hai cái bướu – như mấy cục u của các nhân vật hoạt hình khi họ bị va vào đầu. Huấn luyện viên Hedge nhấc cây gậy bóng chày của mình lên – nhưng nó giờ chẳng còn là một cây gậy bình thường nữa. Bằng cách nào đó, nó đã biến thành một cây gậy có hình một nhành cây thô sơ, với các cành con và lá gắn trên đó.
Dylan vẫn trưng ra cái nụ cười hạnh phúc thần kinh đó. “Ồ, thôi nào, Huấn luyện viên. Hãy để thằng bé tấn công ta! Suy cho cùng, ngươi đang trở nên già đi với những việc như thế này. Đó chẳng phải là lý do họ cho ngươi lui về ngôi trường ngu ngốc này sao? Ta đã ở trong đội của ngươi suốt cả một học kỳ, và ngươi chẳng hề biết. Ngươi đang mất đi cái mũi của mình đó, ông già ạ.”
Huấn luyện viên phát ra một âm thanh giận dữ nghe
như tiếng be be của một loài động vật. “Đúng vậy đấy, bánh nướng nhỏ ạ. Ngươi sẽ bị đánh ngã.”
“Ngươi nghĩ mình có thể bảo vệ được một lúc ba đứa con lai sao lão già?” Dylan cười lớn. “Chúc may mắn.” Dylan chỉ tay về phía Leo, và một đám mây hình phễu hiện ra bao quanh cậu. Leo bay khỏi cầu kính như thể cậu bị ai túm lấy và quẳng đi. Bằng cách nào đó cậu cố gắng xoay tròn trong không trung, đâm sầm vào một bên vách hẻm núi. Cậu trượt xuống, cuống cuồng bám vào bất cứ cái gì có thể bíu tay vào. Cuối cùng cậu cũng bám vào được một cái gờ mỏng bên dưới cầu kính khoảng mười lăm mét và treo lơ lửng ở đó bằng các đầu ngón tay của mình. “Cứu!” cậu hét lên phía họ. “Dây thừng, làm ơn? Dây đàn hồi? Cái gì đó cũng được?”
Huấn luyện viên Hedge làu bàu nguyền rủa và ném cho Jason cây gậy của mình. “Ta không biết cậu là ai, nhóc, nhưng ta hy vọng cậu là người tốt. Hãy làm cho vật đó bận rộn,” ông chĩa một ngón tay vào Dylan, “khi ta cứu Leo.”
“Làm sao cứu được cậu ấy?” Jason gặng hỏi. “Thầy sẽ bay sao?”
“Không phải bay. Mà là leo.” Thầy Hedge cởi giày ra, và Jason gần như bị nhồi máu cơ tim. Huấn luyện viên không có bất kỳ bàn chân nào. Ông ấy có một cặp móng guốc – móng của dê. Điều đó có nghĩa là mấy cục u trên đầu ông, Jason nhận ra, không phải là những cái bướu. Chúng là một cặp sừng.
“Ông là thần nông,” Jason nói.
“Thần rừng!” Hedge bật lại. “Thần nông là cách gọi của những người La Mã. Nhưng chúng ta sẽ nói chuyện đó sau.” Thầy Hedge nhảy qua thành cầu. Ông hướng người về
phía vách hẻm núi và đáp bàn chân móng guốc của mình xuống trước. Ông nhảy xuống vách đá với sự nhanh nhẹn không thể tin được, tìm kiếm những chỗ để chân không lớn hơn dấu những con tem thư là mấy, tránh những cơn gió lốc cố tấn công ông khi ông tìm đường đến chỗ Leo.
“Điều đó chẳng dễ thương chút nào!” Dylan quay về phía Jason. “Giờ đến lượt ngươi, nhóc.”
Jason ném cây gậy. Việc đó dường như vô nghĩa vì những cơn gió quá mạnh, nhưng cây gậy bay thẳng về phía Dylan, thậm chí nó còn uốn cong lại khi hắn ta cố tránh nó, và đánh mạnh vào đầu hắn ta mạnh đến nỗi hắn ta phải quỵ gối xuống.
Piper không choáng váng như vẻ ngoài của cô. Những ngón tay cô nắm chặt quanh cây gậy khi nó lăn đến kế bên, nhưng trước khi cô có thể sử dụng nó, Dylan đứng bật dậy. Máu – máu vàng – đang nhỏ xuống từ trán hắn ta.
“Cú đánh đẹp lắm, nhóc.” Hắn ta liếc nhìn Jason. “Nhưng ngươi phải làm tốt hơn thế.”
Cây cầu kính rung lên. Những vết nứt mỏng như đường chân tóc xuất hiện trên mặt kính. Bên trong bảo tàng, những đứa trẻ ngừng việc đánh vào các cánh cửa. Chúng lùi lại, nhìn với vẻ khiếp sợ.
Cơ thể Dylan tan ra thành khói, như thể các cơ bắp của hắn ta đang được bóc ra. Khuôn mặt vẫn y như cũ, cùng một nụ cười khoe hàm răng trắng muốt đầy vẻ thông minh, nhưng toàn thân hắn đột nhiên biến thành những làn hơi màu đen xoáy tít, đôi mắt hắn ta trông giống hệt những tia lửa điện thường hay xuất hiện trong một đám mây bão. Đôi cánh khói màu đen mọc ra và bay lên khỏi mặt cầu kính. Nếu các thiên thần biến thành quỷ dữ, Jason khẳng định,
họ sẽ trông giống hệt như thế này.
“Ngươi là một ventus,” Jason nói, mặc dầu chẳng biết từ đâu mà cậu lại biết được từ đó. “Một tên tinh linh bão.” Tiếng cười của Dylan nghe như thể một cơn bão giật phăng một mái nhà. “Ta mừng vì ta đã chờ đợi, á thần. Ta đã biết về Leo và Piper nhiều tuần rồi. Có thể giết chết chúng bất cứ lúc nào. Nhưng bà chủ của ta nói rằng đứa thứ ba đang đến – một người nào đó đặc biệt. Bà ấy sẽ thưởng lớn cho ta với cái chết của ngươi.”
Thêm hai đám mây hình phễu nữa đáp xuống ở hai bên người Dylan và biến thành các ventus – các quý ông trẻ ma quái với những đôi cánh khói và đôi mắt phát ra những tia chớp.
Piper vẫn giữ nguyên tư thế, giả vờ còn đang choáng váng, tay cô vẫn nắm chặt lấy cây gậy. Mặt cô xanh mét, nhưng cô nhìn Jason với một cái nhìn cương quyết, và cậu hiểu được thông điệp: Hãy gây sự chú ý với chúng, tớ sẽ đánh vỡ đầu chúng từ đằng sau.
Xinh xắn, thông minh, và hung dữ. Jason ước gì cậu nhớ được cô ấy chính là bạn gái mình.
Cậu nắm chặt tay và sẵn sàng để tấn công, nhưng cậu không bao giờ có được cơ hội.
Dylan giơ tay lên, những cung lửa điện chạy giữa những ngón tay hắn, và bắn vào giữa ngực Jason.
Bùm! Jason phát hiện chính mình nằm sóng soài. Miệng cậu có vị như giấy nhôm đang cháy. Cậu nhấc đầu lên và nhìn thấy áo quần cậu đang bốc cháy. Tia chớp đã lan khắp người cậu và làm nổ tung chiếc giày bên trái. Đầu các ngón chân của cậu đen kịt vì bồ hóng.
Các tên tinh linh bão cười ngất ngưởng. Những cơn gió
tiếp tục thổi dữ dội. Piper bướng bỉnh gào thét, nhưng tất cả âm thanh dường như mơ hồ và ngày càng cách xa. Qua khóe mắt, Jason nhìn thấy Huấn luyện viên Hedge đang leo lên vách núi với Leo ở trên lưng. Piper đang đứng dậy, liều lĩnh vung cây gậy để tấn công hai con tinh linh bão, nhưng chúng dường như đang chơi đùa với cô. Cây gậy đi xuyên qua người chúng như thể chúng không ở đó. Và Dylan, cơn lốc xoáy với đôi cánh màu đen, đang bao trùm lấy Jason.
“Ngừng lại,” Jason rền rĩ. Cậu loạng choạng đứng lên, và cậu không chắc ai là người ngạc nhiên hơn: cậu, h những tên tinh linh bão.
“Sao ngươi có thể sống sót?” cơ thể Dylan lập lòe. “Chừng đó sét đủ để giết chết hai mươi người đàn ông đấy!”
“Đến lượt ta,” Jason nói.
Cậu cho tay vào túi và lấy ra đồng xu vàng. Cậu để bản năng của mình chỉ bảo, búng đồng xu lên không trung như thể cậu đã làm điều đó cả ngàn lần. Cậu bắt lấy nó trong lòng bàn tay, và đột nhiên cậu đang cầm một thanh kiếm – một vũ khí hai lưỡi bén nhọn đầy nguy hiểm. Chuôi kiếm vừa khít với tay cậu, và toàn bộ thanh kiếm đều được làm bằng vàng – cán, tay cầm, và cả lưỡi kiếm.
Dylan gầm gừ và lùi lại. Hắn ta nhìn đồng bọn của mình và hét lớn,“Sao? Giết nó đi!”
Hai tên tinh linh bão đó trông chẳng vui vẻ gì với mệnh lệnh đó, nhưng chúng bay về phía Jason, những ngón tay của chúng lách tách đầy tia lửa điện.
Jason vung kiếm vào tên đầu tiên. Lưỡi kiếm của cậu xuyên qua hắn, và cơ thể bằng khói của sinh vật đó tan
biến đi. Con thứ hai phóng ra một tia chớp, nhưng lưỡi kiếm của Jason cản được cú tấn công đó. Jason bước lên – với một cú thọc kiếm nhanh gọn, con thứ hai tan ra thành bột phấn màu vàng.
Dylan kêu gào trong sự giận dữ. Hắn ta nhìn xuống như thể đang trông chờ đồng bọn tái tạo lại, nhưng lớp bụi vàng di thể của chúng bị phân tán trong gió. “Không thể thế được! Ngươi là ai, con lai kia?”
Piper cũng choáng váng đến nỗi đánh rơi cây gậy của mình. “Jason, sao...?”
Và rồi Huấn luyện viên Hedge nhảy lên cầu kính và thả Leo xuống như thả một bao bột mì.
“Lũ tinh linh kia, sợ ta chưa!” Thầy Hedge kêu rống lên, gập hai cánh tay ngắn ngủn lại. Rồi ông nhìn quanh và nhận ra rằng chỉ còn một mình Dylan ở đó.
“Ta nguyền rủa điều đó, nhóc!” ông cáu kỉnh nói với Jason. “Sao cậu không để lại cho ta một vài tên? Ta thích sự thử thách!”
Leo đứng lên, đang thở dốc. Người cậu ấy chỗ nào cũng bị thương, hai bàn tay chảy máu vì bám vào các tảng đá. “Này, Huấn luyện viên Dê siêu nhân, cho dù ông là ai – tôi vừa mới rơi xuống Grand Canyon đầy đáng sợ kia! Ngừng việc thách thức đó
Dylan rít lên với họ, nhưng Jason có thể nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt hắn ta. “Ngươi không biết ngươi vừa mới đánh thức bao nhiêu kẻ thù của mình đâu, con lai. Bà chủ của ta sẽ tiêu diệt hết các á thần. Ngươi sẽ không thể chiến thắng trong trận chiến này.”
Ở phía trên họ, cơn dông tố biến thành một cơn bão đầy sức mạnh. Các vết nứt ngày càng lan rộng trên cầu
kính. Một màn mưa đổ xuống, và Jason phải cúi người xuống để giữ thăng bằng.
Một lỗ hổng xuất hiện trong những đám mây – một cơn lốc xoáy màu đen và bạc.
“Bà chủ đang gọi ta quay trở về!” Dylan hét lớn với niềm vui sướng. “Và ngươi, á thần, sẽ đi cùng với ta!” Hắn ta tấn công Jason, nhưng Piper chặn con quái vật lại từ đằng sau. Mặc dầu hắn ta được làm từ khói, bằng cách nào đó Piper đã đánh trúng được hắn ta. Cả hai người ngã sóng soài. Leo, Jason, và huấn luyện viên lao tới để giúp đỡ, nhưng tên tinh linh bão gào lên giận dữ. Hắn ta bắn ra một cơn mưa lớn đánh bật mọi người lùi lại phía sau. Jason và Huấn luyện viên Hedge ngã dập mông xuống đất. Thanh kiếm của Jason trượt dài trên mặt kính. Leo bị đập mạnh vào gáy và cuộn người lại, choáng váng và rên rỉ. Piper dính đòn nặng nhất. Cô bị ném khỏi lưng Dylan và va vào thanh chắn cầu, ngã nhào xuống cho đến khi cô treo lơ lửng một tay phía trên vực thẳm.
Jason bắt đầu đi về phía cô, nhưng Dylan hét lớn,“Ta sẽ kết thúc mọi chuyện ở đây!”
Hắn ta túm lấy cánh tay của Leo và bắt đầu bay lên, kéo theo Leo gần như bất tỉnh đi cùng với hắn ta. Cơn bão chuyển động ngày càng dữ dội hơn, hút họ lên cao như một cái máy hút bụi.
“Cứu với!” Piper hét lên. “Có ai không!”
Thế rồi cô trượt tay, la hét dữ dội khi cô rơi xuống. “Jason, đi đi!” thầy Hedge hét lên. “Cứu cô bé đi!” Huấn luyện viên quăng mình về phía tên tinh linh bão
với một vài thế võ đáng sợ của loài dê – tấn công bất ngờ với móng guốc của mình, giải thoát Leo khỏi sự nắm giữ
của tên tinh linh đó. Leo an toàn rơi xuống sàn cầu, nhưng Dylan lại túm được tay của huấn luyện viên. Thầy Hedge cố húc đầu vào hắn ta, sau đó đá và gọi hắn ta là đồ bánh nướng. Họ bay ngày càng cao lên không tr
Huấn luyện viên Hedge hét vọng xuống thêm một lần nữa,“Cứu lấy cô bé! Ta đã tóm được thằng quỷ sứ này!” Thế rồi thần rừng cùng tên tinh linh bão bay theo đường xoắn ốc vào bên trong các đám mây và biến mất. Cứu cô ấy? Jason nghĩ. Cô ấy đã chết!
Nhưng một lần nữa bản năng của cậu đã chiến thắng. Cậu vừa chạy về phía thành cầu vừa nghĩ, Mình là một thằng điên, và nhảy ra khỏi cầu.
Jason không sợ độ cao. Cậu sợ việc va mạnh vào đáy hẻm núi cách một trăm năm mươi mét bên dưới. Cậu đoán mình sẽ chẳng đạt được bất cứ điều gì ngoài việc sẽ chết cùng Piper, nhưng cậu khép hai tay lại và để đầu rơi xuống trước. Hai bên sườn hẻm núi trôi nhanh như một thước phim được tua nhanh. Cậu có cảm giác như mặt mình đang bị bóc ra.
Ngay lập tức, cậu đuổi theo kịp Piper, người đang rơi rất nhanh. Cậu giữ được eo cô và nhắm mắt lại, chờ đợi cái chết. Piper vẫn kêu thét. Gió rít gào bên tai Jason. Cậu tự hỏi chết sẽ có cảm giác như thế nào. Chắc cũng chả tốt đẹp gì. Cậu ước bằng cách này hay cách khác họ sẽ không bao giờ rơi xuống đáy vực.
Đột nhiên tiếng rít gào của gió tan biến đi. Tiếng hét của Piper biến thành tiếng thở hổn hển nghẹn ngào. Jason nghĩ họ chắc đã chết, nhưng cậu không cảm nhận được bất cứ sự va chạm nào.
“J-J-Jason,” Piper nói.
Cậu mở mắt ra. Họ không còn rơi xuống nữa. Họ đang bay lơ lửng giữa không trung, ba mươi mét phía trên con sông.
Cậu ôm chặt Piper, và cô cũng đổi vị trí của mình để cô cũng ôm được cậu. Mũi họ chạm vào nhau. Tim cô đập nhanh, Jason có thể cảm nhận được nó qua lớp áo quần của cô.
Hơi thở của cô có mùi quế. Cô nói,“Sao cậu...” “Tớ chẳng làm gì cả,” cậu nói. “Tớ nghĩ tớ sẽ biết nếu tớ có thể bay...”
Nhưng rồi cậu lại nghĩ: Tớ thậm chí còn không biết mình là ai.
Cậu hình dung việc bay lên cao. Piper hét lớn khi họ bắn lên cao hơn một vài mét. Họ chính xác không phải đang lơ lửng, Jason nghĩ. Cậu có thể cảm nhận được áp lực bên dưới chân mình như thể họ đang giữ thăng bằng phía trên một mạch nước phu
“Không khí đang giúp chúng ta,” cậu nói.
“Ừm, thế thì bảo nó hãy giúp chúng ta thêm! Hãy đưa chúng ta ra khỏi đây!”
Jason nhìn xuống. Việc nhẹ nhàng đáp xuống đáy vực là điều dễ dàng nhất. Rồi cậu ngước nhìn lên. Mưa đã ngừng rơi. Các đám mây dông dường như không còn hung dữ như lúc trước nữa, nhưng sấm chớp vẫn đì đùng. Không có gì đảm bảo là lũ tinh linh đó đã biến mất. Cậu cũng không biết chuyện gì đã xảy ra với Huấn luyện viên Hedge. Và cậu đã để Leo lại ở phía trên đó, gần như bất tỉnh.
“Chúng ta phải giúp họ,” Piper nói, như thể đọc được ý nghĩ của cậu. “Cậu có thể...”
“Để xem.” Jason nghĩ lên cao, và ngay lập tức họ bắn
vọt lên trời.
Việc cậu đang cưỡi trên những cơn gió có thể sẽ thật tuyệt nếu ở trong trường hợp khác, vì giờ cậu có quá nhiều sự kinh ngạc. Ngay khi đáp xuống cầu kính, họ chạy vội về phía Leo.
Piper xoay người Leo lại, và cậu ấy bật ra tiếng rên rỉ. Chiếc áo khoác quân đội của cậu ấy ướt sũng vì nước mưa. Mái tóc xoăn lấp lánh bột vàng từ việc lăn quanh lớp bụi của con quái vật. Nhưng ít nhất cậu ấy không chết.
“Con dê... ngu ngốc... xấu xí,” cậu làu bàu.
“Thầy ấy đã đi đâu?” Piper hỏi.
Leo chỉ tay thẳng lên trời. “Chưa xuống. Làm ơn nói với tớ rằng thực sự ông ấy đã không cứu sống tớ.” “Hai lần,” Jason nói.
Leo rên rỉ còn lớn hơn. “Chuyện gì đã xảy ra? Anh chàng bão táp, thanh kiếm bằng vàng... tớ đã bị đánh mạnh vào đầu. Đúng vậy không? Tớ đang bị ảo giác, đúng không?”
Jason đã quên lửng chuyện thanh kiếm. Cậu bước về phía nơi nó đang nằm và nhặt nó lên. Lưỡi kiếm vẫn còn tốt. Bằng linh tính, cậu vụt ném nó. Được nửa đường, thanh kiếm co lại thành một đồng xu và đáp xuống trong lòng bàn tay cậu.
“Ừ,” Leo nói. “Đúng là tớ đang bị ảo giác.”
Piper run rẩy trong bộ áo quần ướt nước mưa. “Jason, những người
“Venti,” cậu nói. “Các tên tinh linh bão.”
“Được rồi. Cậu cư xử như thể... như thể cậu đã từng nhìn thấy chúng trước đây. Cậu là ai?”
Cậu lắc đầu. “Đó là những gì mà tớ đang cố nói với cậu.
Tớ không biết.”
Cơn dông đã biến mất. Những đứa trẻ khác của Trường học Hoang Dã đang nhìn chằm chằm từ các cánh cửa kính với vẻ mặt đầy khiếp sợ. Các nhân viên bảo vệ đang cố để mở khóa, nhưng dường như họ không gặp may lắm.
“Huấn luyện viên Hedge nói ông ấy phải bảo vệ ba người,” Jason nhớ lại. “Tớ nghĩ ba người đó chính là chúng ta.”
“Và cái thứ Dylan biến thành...” Piper rùng mình. “Chúa ơi, tớ không thể tin được là cái thứ đó lại có cảm tình với tớ. Hắn ta gọi chúng ta... là gì nhỉ, các á thần?”
Leo nằm xuống, nhìn thẳng lên trời. Cậu ấy dường như chẳng thiết tha gì chuyện ngồi dậy. “Không biết từ một phần có nghĩa là gì,” cậu ấy nói. “Nhưng tớ không có cảm giác mình là thần chút nào. Các cậu có cảm giác gì không?”
Có một tiếng vỡ giòn như thể cành khô bị gãy, và các vết nứt trên cầu kính bắt đầu lan rộng.
“Chúng ta cần ra khỏi nơi này,” Jason nói. “Có thể nếu chúng ta...”
“Đưưược rồi,” Leo cắt ngang. “Hãy nhìn lên và nói cho tớ biết liệu đó có phải là những con ngựa bay không.” Lúc đầu Jason đã nghĩ Leo bị đập vào đầu quá mạnh. Nhưng rồi cậu nhìn thấy một bóng đen đang đáp dần xuống từ phía đông – quá chậm so với một chiếc máy bay, quá lớn so với một con chim. Khi nó tiến đến gần hơn cậu có thể nhìn thấy một cặp động vật có cánh – màu xám, bốn chân, y chang những con ngựa – ngoại trừ mỗi một con có một đôi cánh dài sáu mét. Và chúng đang kéo theo một chiếc hộp được sơn phết rực rỡ có hai bánh xe: một cỗ xe ngựa. “Quân tiếp viện,” cậu nói. “Thầy Hedge đã nói với tôi
đội ứng cứu đang đến chỗ chúng ta.”
“Đội ứng cứu?” Leo cố gượng dậy. “Điều đó nghe thật đau đớ
“Và nơi họ sẽ mang chúng ta đến là ở đâu?” Piper hỏi. Jason nhìn cỗ xe ngựa đáp xuống ở phía xa cuối cây cầu kính. Những con ngựa bay gập cánh lại và dè dặt chạy nước kiệu trên mặt kính, như thể chúng cảm nhận được nó sắp sập. Hai thiếu niên đứng trên cỗ xe ngựa – một cô gái tóc vàng cao ráo có thể lớn tuổi hơn Jason một chút, và một anh chàng to lớn với cái đầu được cạo nhẵn bóng và một khuôn mặt trông như một đống gạch. Cả hai người họ đều mặc quần jean và áo phông màu cam, với những tấm khiên ở phía sau lưng. Cô gái nhảy ra khỏi cỗ xe trước khi nó ngừng hẳn lại. Cô ta rút một con dao ra và chạy về phía nhóm Jason trong khi anh chàng to lớn đang ghì cương ngựa.
“Ông ấy đâu?” cô gái hỏi. Đôi mắt màu xám của cô trông sắc bén và hơi sửng sốt.
“Ai ở đâu?” Jason hỏi lại.
Cô cau mày như thể câu trả lời của cậu là không chấp nhận được. Rồi cô quay sang Leo và Piper. “Thế còn Gleeson? Người bảo vệ các cậu, Gleeson Hedge đâu rồi?”
Tên của huấn luyện viên là Gleeson? Jason có thể sẽ cười lớn nếu như buổi sáng nay không có quá nhiều điều kỳ lạ và đáng sợ xảy ra. Gleeson Hedge: huấn luyện viên môn bóng đá, người dê, người bảo vệ của các á thần. Chắc vậy. Sao lại không thể cơ chứ?
Leo hắng giọng. “Ông ấy đã bị thứ gọi là bão gì đó... mang đi.”
“Venti,” Jason nói. “Các tên tinh linh bão.”
Cô gái tóc vàng cau mày lại. “Ý cậu là anemoi thuellai ư? Đó là từ Hy Lạp. Cậu là ai, và chuyện gì đã xảy ra?” Jason cố hết sức để giải thích, mặc dầu thật khó khi gặp phải đôi mắt xám bén ngót đó. Được khoảng một nửa câu chuyện, người còn lại trên cỗ xe ngựa tiến đến. Anh ta có một hình xăm hình cầu vồng trên bắp tay, điều đó dường như hơi kỳ lạ.
Khi Jason kết thúc câu chuyện của mình, cô gái tóc vàng trông không hài lòng. “Không, không, không! Bà ấy đã nói rằng cậu ấy sẽ ở đây. Bà ấy nói rằng nếu tớ đến đây, tớ sẽ có được câu trả lời.”
“Annabeth,” anh chàng đầu trọc càu nhàu. “Nhìn kìa.” Anh ta chỉ tay về chân
Jason không nghĩ nhiều về nó, nhưng cậu đã mất chiếc giày bên trái khi bị tia chớp thổi bay. Bàn chân trần của cậu vẫn ổn, nhưng nó trông như một cục than.
“Anh chàng với một chiếc giày,” anh chàng đầu trọc nói. “Cậu ta chính là câu trả lời.”
“Không phải, Butch,” cô gái khẳng định. “Không thể là cậu ta. Tớ đã bị lừa.” Cô liếc nhìn bầu trời như thể nó đã làm điều gì sai trái vậy. “Bà muốn gì ở tôi?” cô hét lớn. “Bà đã làm gì cậu ấy?”
Cây cầu kính lắc mạnh, và những con ngựa hí lên kêu cứu.
“Annabeth,” anh chàng trọc đầu tên Butch nói,“chúng ta phải đi thôi. Hãy mang ba người này quay về trại và tìm hiểu ở đó. Những tên tinh linh bão đó có thể quay trở lại.”
Cô cáu kỉnh trong giây lát. “Tốt thôi.” Cô căm phẫn nhìn Jason. “Chúng ta sẽ giải quyết chuyện này sau.” Cô quay gót và đi về phía cỗ xe ngựa.
Piper lắc đầu. “Cô ta có vấn đề gì nhỉ? Chuyện gì đang xảy ra?”
“Không phải đùa đâu,” Leo đồng ý.
“Chúng tôi phải đưa các cậu rời khỏi đây,” Butch nói. “Tôi sẽ giải thích trên đường đi.”
“Tôi sẽ không đi đâu với cô ta.” Jason ra hiệu về phía cô gái tóc vàng. “Cô ta trông như thể muốn giết tôi vậy.” Butch lưỡng lự. “Annabeth không tệ lắm đâu. Cậu hãy khoan dung với cô ấy một chút. Cô ấy nằm mộng thấy người nào đó bảo cô ấy đến đây để tìm một chàng trai chỉ với một chiếc giày. Đó dường như là lời giải đáp cho rắc rối của cô ấy.”
“Rắc rối gì?” Piper hỏi.
“Cô ấy đang tìm kiếm một trong số các trại viên của chúng tôi, người đã mất tích được ba ngày rồi,” Butch nói. “Cô ấy đang mất bình tĩnh vì lo lắng. Cô ấy hy vọng cậu ấy sẽ có mặt ở đây.”
“Người đó là ai?” Jason hỏi.
“Bạn trai của cô ấy,” ch nói. “Một anh chàng có tên là Percy Jackson.”
3. PIPER
Sau một buổi sáng với các tên tinh linh bão, người-dê, và cậu bạn trai biết bay, Piper lẽ ra nên mất trí mới phải. Thay vào đó, tất cả những gì cô cảm nhận được là sự khiếp sợ.
Nó đang bắt đầu, cô nghĩ. Y hệt như những gì giấc mơ đã nói.
Cô đứng phía sau cỗ xe ngựa với Leo và Jason, trong khi anh chàng trọc đầu, Butch, cầm dây cương, và cô gái tóc vàng, Annabeth, điều chỉnh thiết bị định vị bằng đồng. Họ bay cao lên phía trên Grand Canyon và hướng về phía đông, cơn gió lạnh lẽo thổi xuyên qua áo khoác của Piper. Phía sau họ, thêm nhiều đám mây dông đang hình thành.
Cỗ xe ngựa tròng trành và xóc nảy. Nó chẳng có dây an toàn và phía sau lại trống không, vì thế Piper tự hỏi liệu Jason sẽ bắt được cô thêm một lần nữa không nếu cô bị rơi xuống. Đó là phần buồn phiền nhất trong sáng nay – không phải là vì Jason có thể bay, mà là cậu ấy ôm cô trong tay nhưng lại không nhớ được cô là ai.
Trong suốt cả học kỳ, cô đã phải tạo ra mối quan hệ, cố làm cho Jason chú ý tới cô nhiều hơn so với một người bạn. Cuối cùng cô cũng làm cho anh chàng đần đó hôn cô. Một vài tuần trước đã từng là thời gian tuyệt vời nhất trong cuộc đời cô. Và rồi, ba đêm trước, cơn mơ đã hủy hoại đi tất cả – giọng nói xấu xa đó, mang đến cho cô những tin tức khủng khiếp. Cô đã không kể cho bất cứ ai về điều đó, ngay cả với Jason.
Giờ cô thậm chí còn không có được cậu ấy. Như thể có
ai đó đã xóa sạch hết trí nhớ của cậu, và cô đang bị mắc kẹt trong “sự cải tiến” tồi tệ nhất mọi thời đại. Cô những muốn hét lên. Jason đứng ngay bên cạnh cô: đôi mắt màu xanh da trời đó, mái tóc vàng cắt rất sát, vết sẹo nhỏ xinh xắn ở môi trên của cậu ấy. Khuôn mặt hiền lành và dịu dàng, nhưng luôn có gì đó buồn bã của cậu ấy. Và cậu ấy chỉ nhìn về phía đường chân trời, không thèm chú ý gì đến cô cả.
Trong khi đó, Leo lại đang quấy rối, như thường lệ. “Điều này thật tuyệt!” Cậu ấy nhổ lông một con pegasus ra khỏi miệng. “Chúng ta sẽ đi đâu?”
“Một nơi an toàn,” Annabeth nói. “Đó là nơi an toàn duy nhất cho những đứa trẻ như chúng ta. Trại Con Lai.” “Con Lai?” Piper đề phòng ngay lập tức. Cô ghét từ đó. Cô đã được gọi là con lai quá nhiều lần – một nửa người Cherokee, một nửa người da trắng – và đó không bao giờ là lời khen ngợi. “Đó có phải là một kiểu nói đùa tệ hại không?”
“Ý cô ấy nói chúng ta là các á thần,” Jason nói. “Nửa thần, nửa người thường.”
Annabeth ngoái đầu nhìn lại. “Cậu dường như biết khá nhiều đấy, Jason. Nhưng, đúng vậy, các á thần. Mẹ tôi là nữ thần Athena, nữ thần của sự khôn ngoan. Butch đây là con trai của nữ thần cầu vồng Iris.”
Leo ngắt lời. “Mẹ anh là một nữ thần cầu vồng ư?” “Có vấn đề gì với điều đó sao?” Butch hỏi.
“Không, không,” Leo đáp. “Cầu vồng. Rất khuôn mẫu.” “Butch là người cưỡi ngựa tốt nhất của chúng tôi,” Annabeth nói. “Cậu ấy rất hòa thuận với những chú pegasus.”
“Cầu vồng, ngựa con,” Leo lẩm bẩm.
“Tôi sẽ quăng cậu khỏi cỗ xe đấy,” Butch cảnh cáo. “Á thần,” Piper nói. “Ý cô là cô nghĩ cô là... cô nghĩ chúng tôi là...”
Một tia chớp lóe lên. Cỗ xe ngựa lắc mạnh, và Jason hét lớn,“Bánh xe trái đang cháy!”
Piper bước lùi lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, bánh xe đang cháy, những ngọn lửa màu trắng đang phủ lấy một bên cỗ xe ngựa.
Gió gào thét. Piper liếc nhìn ra phía sau và nhìn thấy những bóng đen đang hình thành trong các đám mây, thêm nhiều tên tinh linh bão đang di chuyển về phía cỗ xe ngựa – ngoại trừ việc chúng giống ngựa hơn là các thiên thần.
Cô bắt đầu nói,“Sao chúng lại...”
“Anemoi có thể xuất hiện dưới các hình dáng khác nhau,” Annabeth nói. “Đôi khi là con người, đôi khi là ngựa, phụ thuộc vào sự hỗn loạn mà chúng tạo ra. Bám chắc vào. Chuyến này sẽ nhọc nhằn lắm đây.”
Bu vụt nhẹ dây cương. Những con pegasus bắt đầu phi nước đại, và cỗ xe mờ đi. Dạ dày Piper như leo lên đến tận cổ. Tầm nhìn cô trở nên tối đen, và khi nó quay trở lại bình thường, họ đã ở một nơi hoàn toàn khác.
Đại dương màu xám lạnh lẽo trải dài ở phía bên trái. Các cánh đồng, con đường và các cánh rừng phủ đầy tuyết nằm ở bên phải. Ngay phía bên dưới họ là một thung lũng xanh mướt, như một hòn đảo lúc vào xuân, được bao quanh bởi những quả đồi tuyết ở ba mặt và nước ở phía bắc. Piper nhìn thấy một cụm nhà như những ngôi đền Hy Lạp cổ đại, một ngôi nhà lớn màu xanh, các sân banh, một cái hồ, một bức tường leo núi dường như đang cháy. Nhưng
trước khi cô có thể thực sự xử lý hết tất cả những gì mình nhìn thấy, những chiếc bánh xe rơi ra và cỗ xe rời khỏi bầu trời.
Annabeth và Butch cố duy trì sự kiểm soát. Những con pegasus cố gắng giữ vững cỗ xe để hạ cánh, nhưng chúng dường như khá mất sức sau cú phi nước đại, và việc chịu đựng cỗ xe cùng sức nặng của năm người là quá lớn.
“Cái hồ!” Annabeth hét lớn. “Hướng về phía hồ!” Piper chợt nhớ điều gì đó cha cô có lần đã nói với cô, về việc đâm sầm xuống nước từ trên cao tệ như việc đâm sầm vào xi măng.
Và rồi – BÙM.
Điều gây choáng váng nhất là sự lạnh giá. Cô đang ở dưới nước, quá bối rối đến nỗi cô không biết cách để ngoi lên.
Cô chỉ vừa có đủ thời gian để nghĩ: Đây sẽ là cách chết ngu ngốc nhất. Rồi những khuôn mặt xuất hiện trong bóng tối màu xanh lục – những cô gái với mái tóc đen dài và đôi mắt vàng rực rỡ. Họ mỉm cười với cô, nắm chặt vai và kéo cô lên khỏi mặt nước.
Họ quẳng cô, đang thở hổn hển và run lẩy bẩy, lên bờ. Gần đó, Butch đứng trong hồ nước, cắt bộ yên cương đã bị hỏng khỏi những con pegasus. May mắn thay, những con ngựa vẫn ổn, nhưng chúng đang vỗ cánh và bắn nước đi khắp nơi. Jason, Leo, và Annabeth đã ở trên bờ, bị vây quanh bởi những đứa trẻ đang đưa mền và đặt những câu hỏi với họ. Một người nào đó kéo tay Piper và giúp cô đứng lên. Hình như những đứa trẻ rơi xuống hồ rất nhiều lần, vì một nhóm trại viên chạy đến với ống bễ hình chiếc lá bằng đồng lớn – tìm kiếm và thổi khí nóng vào người Piper, và chỉ
trong hai giây, áo quần của cô đã khô ngay.
Có ít nhất hai mươi trại viên quanh quẩn quanh đó – người nhỏ nhất có lẽ khoảng chín tuổi người lớn nhất có độ tuổi theo học đại học, mười tám hay mười chín – và tất cả họ đều mặc áo phông màu cam như áo của Annabeth. Piper nhìn lại hồ nước và nhìn thấy những cô gái kỳ lạ đó ở ngay bên dưới mặt nước, mái tóc họ trôi lềnh bềnh theo dòng nước. Họ vẫy tay như thể, chào tạm biệt, và lặn xuống đáy hồ. Một giây sau những mảnh vụn của cỗ xe ngựa ở trong hồ được ném lên và đáp xuống gần đó cùng với tiếng nước chảy tong tong.
“Chị Annabeth!” Một anh chàng với cung và ống tên sau lưng chen ngang qua đám đông. “Em nói chị có thể mượn cỗ xe, chứ không phải phá hủy nó!”
“Will, chị xin lỗi,” Annabeth thở dài. “Chị sẽ sửa nó, chị hứa đấy.”
Will giận dữ nhìn cỗ xe ngựa đã nát vụn. Rồi cậu ta đánh giá Piper, Leo và Jason. “Đây là những người đó sao? Hình như lớn hơn mười ba tuổi. Sao họ vẫn chưa được thừa nhận?”
“Được thừa nhận?” Leo hỏi.
Trước khi Annabeth có thể giải thích, Will hỏi,“Có dấu hiệu gì của anh Percy không?”
“Không,” Annabeth thừa nhận.
Các trại viên thì thầm. Piper không biết anh chàng tên Percy đó là ai, nhưng sự biến mất của anh ta dường như là một rắc rối lớn.
Một cô gái khác bước lên phía trước – cao, người châu Á, tóc đen được buộc trong những chiếc vòng nhỏ, đeo rất nhiều đồ nữ trang, và trang điểm hoàn hảo. Bằng cách nào
đó cô ta đã khiến cho chiếc quần jeans và áo phông màu cam trông thật quyến rũ. Cô ta liếc nhìn Leo, chăm chú nhìn Jason như thể cậu ấy đáng nhận được sự chú ý của cô ta, sau đó bĩu môi với Piper như thể cô là món burrito một tuần tuổi vừa mới được lấy ra từ thùng rác Dumpster vậy. Piper biết kiểu con gái này. Cô đã phải đối đầu với những cô gái như vậy ở Trường học Hoang Dã và bất cứ trường học nào khác mà cha cô gửi cô theo học. Piper biết ngay rằng họ sẽ trở thành kẻ thù của nhau.
“Ừm,” cô gái nói,“Tớ hy vọng họ đáng để phiền hà.” Leo khịt khịt mũi. “Lạ thật, cám ơn. Chúng tôi là gì, những con thú cưng mới của cô sao?”
“Không đùa nữa,” Jason nói. “Thế thì một vài câu trả lời trước khi các người bắt đầu đánh giá chúng tôi thì thế nào – như, đây là nơi nào, sao chúng tôi ở đây, chúng tôi phải ở đây trong bao lâu
Piper cũng có cùng những câu hỏi như thế, nhưng một sự sợ hãi đã cuốn đi tất cả. Đáng để phiền hà. Giá họ biết được giấc mơ của cô. Họ chẳng biết gì cả...
“Jason,” Annabeth nói,“Tôi hứa chúng tôi sẽ trả lời các câu hỏi của cậu. Còn Drew,” cô ấy cau mày nhìn cô gái quyến rũ đó,“tất cả á thần đều xứng đáng được cứu sống. Nhưng tôi phải thừa nhận, chuyến đi không mang lại những
gì tôi đã hy vọng.”
“Này,” Piper nói,“chúng tôi không yêu cầu được đưa đến đây.”
Drew khịt khịt. “Và chẳng ai muốn cô, cưng à. Tóc cô luôn trông giống một con lửng chết vậy sao?”
Piper bước tới trước, sắp sửa tát tai cô ta, nhưng Annabeth đã lên tiếng,“Piper, ngừng lại đi.”
Piper làm theo như Annabeth bảo. Cô không sợ Drew một chút nào, nhưng Annabeth dường như là người mà cô không muốn trở thành kẻ thù.
“Chúng ta phải làm cho những người mới đến cảm nhận được sự chào đón,” Annabeth nói, với cái nhìn chĩa thẳng vào Drew. “Mỗi một người trong số họ sẽ có một người hướng dẫn, đưa họ đi tham quan một vòng quanh trại. Hy vọng vào dịp lửa trại tối nay, họ sẽ được thừa nhận.”
“Có ai nói cho tôi được thừa nhận có nghĩa là gì không?” Piper hỏi.
Đột nhiên mọi người xung quanh đều há hốc miệng vì kinh ngạc. Các trại viên lùi lại. Lúc đầu Piper nghĩ cô đã làm điều gì sai. Rồi cô nhận ra khuôn mặt của họ được bao phủ bởi một ánh sáng đỏ kỳ lạ, như thể ai đó vừa mới đốt đuốc phía sau lưng cô. Cô quay người lại và gần như quên cách để thở.
Trôi bềnh bồng trên đầu Leo là một hình ảnh không gian ba chiều rực sáng – một cây búa lửa.
“Cậu ấy,” Annabeth nói,“đang được thừa nhận.” “Tớ đã làm gì?” Leo lùi lại về phía hồ nước. Rồi cậu ngước nhìn lên và hét lớn. “Tóc tớ đang cháy sao?” Cậu cúi đầu xuống, nhưng biểu tượng đó vẫn đi theo, đung đưa và lắc lư vì thế trông như thể cậu ấy đang cố viết cái gì đó trong lửa bằng đầu vậy.
“Điều này không tốt,” Butch làu bàu. “Lời nguyền...” “Butch, im miệng,” Annabeth nói. “Leo, cậu vừa mới được thừa nhận...”
“Bởi một vị thần,” Jason cắt ngang. “Đó là biểu tượng của thần Vulcan, phải vậy không?”
Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cậu ấy.
“Jason,” Annabeth nói đầy cẩn trọng,“sao cậu biết điều đó?”
“Tôi không chắc.”
“Vulcan?” Leo hỏi gặng. “Tớ thậm chí còn không THÍCH Star Trek. Mọi người đang nói về điều gì vậy?” “Thần Vulcan là tên La Mã của thần Hephaestus,” Annabeth nói,“thần của thợ rèn và lửa.”
Cây búa lửa mờ dần, nhưng Leo vẫn tiếp tục đập không khí như thể cậu sợ nó đang đi theo mình. “Thần của gì? Là ai?”
Annabeth quay về phía anh chàng có cây cung. “Will, cậu vui lòng nhận Leo, dẫn cậu ấy đi tham quan nhé? Hãy giới thiệu với cậu ấy những người bạn cùng phòng ở Nhà số Chín.”
“Chắc rồi, chị Annabeth.”
“Nhà số Chín là gì?” Leo hỏi. “Và tôi không phải là một Vulcan!”
“Đi thôi, cậu Spock, tôi sẽ giải thích mọi thứ.” Will đặt một tay lên vai cậu và hướng cậu ấy đi về phía các khu nhà.
Annabeth quay lại nhìn chăm chú vào Jason. Thông thường Piper không thích khi những cô gái khác nhìn chăm chú bạn trai mình, nhưng Annabeth dường như không quan tâm đến việc cậu ấy là một anh chàng xinh trai. Cô nhìn khắp lượt như thể cậu là một bản thiết kế nhà. Cuối cùng cô nói,“Đưa tay cậu ra.”
Piper nhìn thấy những gì cô ấy nhìn thấy, và mắt cô mở to ra.
Jason đã cởi chiếc áo gió sau khi cậu ngâm mình dưới hồ, để lộ hai cánh tay trần, và ở một bên cẳng tay phải là
một hình xăm. Sao Piper lại không bao giờ chú ý đến điều đó trước đây nhỉ? Cô đã nhìn cánh tay Jason hàng triệu lần. Hình xăm không thể vừa mới xuất hiện, nhưng nó được xăm khá đậm, không thể dễ dàng bỏ sót được: một tá đường thẳng như một mã vạch, và phía trên là hình một con đại bàng với những chữ cái SPQR.
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy các dấu hiệu như vậy,” Annabeth nói. “Cậu lấy nó
Jason lắc đầu. “Tôi đang thực sự mệt mỏi khi phải nói điều này, nhưng tôi không biết.”
Những trại viên khác lấn tới trước, cố để nhìn được hình xăm của Jason. Những dấu hiệu dường như làm họ rất lo lắng – gần như là một lời tuyên chiến.
“Chúng trông như thể được đóng vào da cậu vậy,” Annabeth nhận xét.
“Chúng là,” Jason nói. Rồi cậu cau mày như thể đầu cậu đang đau nhức vậy. “Ý tôi là... tôi nghĩ vậy. Tôi không nhớ.”
Không ai nói lời nào. Rõ ràng các trại viên coi Annabeth là thủ lĩnh. Họ đang chờ đợi phán quyết của cô. “Cậu ấy cần đến chỗ bác Chiron,” Annabeth quyết định. “Drew, cô có thể...”
“Chắc chắn rồi.” Drew đan tay mình vào tay Jason. “Lối này, cưng. Tớ sẽ giới thiệu cậu với giám đốc của chúng ta. Bác ấy... là một người thú vị.” Cô ta nhìn Piper với vẻ tự mãn và dẫn Jason về phía ngôi nhà lớn màu xanh trên đồi.
Đám đông giải tán, chỉ còn lại duy nhất Annabeth và Piper.
“Bác Chiron là ai?” Piper hỏi. “Có phải Jason lại gặp rắc rối gì không?”
Annabeth ngập ngừng. “Câu hỏi hay, Piper. Đi thôi, chị sẽ dẫn em đi tham quan. Chúng ta cần nói chuyện.”
4. PIPER
Piper nhanh chóng nhận ra tâm hồn Annabeth không đặt vào chuyến tham quan này.
Cô ấy nói về tất cả những thứ tuyệt vời mà trại mang đến – thuật bắn cung phép thuật, việc cưỡi ngựa pegasus, bức tường dung nham, chiến đấu với quái vật – nhưng cô ấy chẳng có chút phấn khích. Cô ấy chỉ về phía nhà ăn ngoài trời có tầm nhìn ra Long Island Sound. (Đúng vậy, Long Island, New York; họ đã đi xa đến chừng đó trên một cỗ xe ngựa.) Annabeth giải thích vì sao Trại Con Lai gần như là một trại hè, nhưng có một vài đứa trẻ đã ở lại đây quanh năm, và họ thêm vào rất nhiều trại viên khác, vì thế hiện giờ trại luôn đông đúc, ngay cả trong mù
Piper tự hỏi ai là người điều hành trại, và sao họ biết được Piper và những người bạn của mình thuộc về nơi này. Cô tự hỏi liệu mình có thể ở đây quanh năm hoặc có thể thích ứng được với các hoạt động ở đây không. Liệu có bị đuổi học vì thi trượt môn tiêu diệt quái vật không? Hàng triệu câu hỏi xuất hiện trong đầu cô, nhưng với tâm trạng hiện nay của Annabeth, cô quyết định tốt hơn hết là im lặng.
Khi họ leo lên một ngọn đồi giáp ranh với trại, Piper quay người lại và có một tầm nhìn tuyệt vời về toàn bộ thung lũng – một cánh rừng lớn trải dài về phía tây bắc, một bãi biển xinh đẹp, sông con, hồ chứa xuồng, những bãi cỏ xanh mướt tươi tốt, và khối kiến trúc của những ngôi nhà – các ngôi nhà được sắp xếp một cách kỳ quái như chữ cái omega O trong tiếng Hy Lạp, với những ngôi nhà xếp thành
hình tròn bao quanh một sân cỏ, và hai nhánh mọc ra từ phần đáy của mỗi bên. Piper đếm được có tất cả hai mươi ngôi nhà. Có một ngôi nhà có màu vàng rực rỡ, ngôi khác lại có màu bạc. Có nhà thì có cỏ trên mái. Nhà khác lại có màu đỏ tươi với những hào chứa đầy dây thép gai. Còn có ngôi nhà có màu đen với những ngọn đuốc cháy lửa xanh ở phía trước nhà.
Toàn bộ khu trại giống như một thế giới khác ngoài những quả đồi phủ đầy tuyết và những cánh đồng bên ngoài.
“Cả thung lũng đều được bảo vệ khỏi mắt của người thường,” Annabeth nói. “Như em thấy đấy, khí hậu ở trại cũng được điều chỉnh. Mỗi một nhà đại diện cho một vị thần Hy Lạp – nơi dành cho những đứa con của các vị thần trú ngụ.”
Cô ấy nhìn Piper như thể đang cố đánh giá cách Piper xử lý thông tin đó như thế nào.
“Chị nói mẹ mình là một nữ thần.”
Annabeth gật đầu. “Em tiếp nhận tin đó khá điềm tĩnh.” Piper không thể nói cho cô ấy lý do. Cô không thể thừa nhận rằng điều này chỉ củng cố thêm một vài cảm giác kỳ lạ mà cô có được trong nhiều năm qua, những tranh cãi cô có với cha mình về việc sao chẳng có bức ảnh nào của Mẹ trong nhà, và sao Cha không bao giờ kể cho cô chính xác tại sao hay làm thế nào mà mẹ cô lại rời bỏ họ. Nhưng trên hết, giấc mơ đã cảnh báo cô rằng điều này sắp xảy ra. Chúng sẽ nhanh chóng tìm ra ngươi thôi, á thần, giọng nói đó quát tháo. Khi chúng làm thế, hãy làm theo các chỉ dẫn của ta. Hợp tác, và cha ngươi có thể sống.
Piper hít một hơi. “Em đoán sau sáng nay,y dễ dàng
chấp nhận hơn. Vậy mẹ em là ai?”
“Chúng ta sẽ sớm biết thôi,” Annabeth nói. “Em bao nhiêu... mười lăm tuổi sao? Các thần đáng lẽ phải thừa nhận em khi em được mười ba tuổi. Đó là thỏa thuận.” “Thỏa thuận gì?”
“Họ đã đưa ra một lời hứa vào mùa hè năm ngoái... ừm, một câu chuyện dài... nhưng họ đã hứa sẽ không lờ đi những đứa con á thần của mình nữa, sẽ thừa nhận chúng vào năm chúng được mười ba tuổi. Đôi khi việc đó phải hơi mất thời gian hơn, nhưng em đã thấy Leo được thừa nhận nhanh như thế nào ngay khi cậu ấy đến đây. Việc đó sẽ nhanh chóng xảy ra với em thôi. Tối nay ở lửa trại, chị chắc chúng ta sẽ có được một dấu hiệu.”
Piper tự hỏi liệu mình có thể có một cây búa đang cháy phía trên đầu mình không, hoặc với may mắn của mình, cô còn có thể nhận được thứ còn đáng xấu hổ hơn. Một con gấu túi đang cháy, chẳng hạn. Cho dù mẹ mình có là ai, Piper không nghĩ bà ấy đủ can đảm để thừa nhận một cô con gái thích ăn cắp với những rắc rối đủ lớn. “Sao phải đến mười ba tuổi ạ?”
“Vì em càng lớn lên,” Annabeth nói,“càng có nhiều quái vật chú ý đến em, cố giết chết em. Thường thì việc đó bắt đầu xảy ra khi các con lai được mười ba tuổi. Đó là lý do tại sao chúng ta gửi những người bảo vệ đến các trường học để tìm kiếm những người như bọn em, đưa về trại trước khi quá muộn.”
“Như Huấn luyện viên Hedge ạ?”
Annabeth gật đầu. “Ông ấy... ông ấy là một thần rừng, nửa người, nửa dê. Các thần rừng làm việc cho trại, tìm kiếm các á thần, bảo vệ và mang họ về trại khi đến thời
điểm thích hợp.”
Piper không gặp rắc rối chút nào khi tin rằng thầy Hedge là nửa dê. Cô đã nhìn thấy ông ăn. Cô chưa bao giờ thích ông, nhưng cô không thể tin được rằng ông đã hy sinh chính mình để cứu họ.
“Điều gì sẽ xảy ra với ông ấy?” cô hỏi. “Khi chúng ta bay lên các đám mây, liệu ông ấy có thoát được không?” “Khó nói lắm.” Vẻ mặt của Annabeth đầy đau đớn. “Những tên tinh linh bão đó thật... khó để chống lại. Ngay cả với những vũ khí tốt nhất của chúng ta, đồng Celestial, cũng chỉ sẽ đi xuyên qua người chúng trừ phi em có thể tấn công chúng bất ngờ
“Kiếm của Jason có thể biến chúng thành tro bụi,” Piper nhớ lại.
“Thế thì cậu nhóc đó may mắn đấy. Nếu em đánh trúng được một con quái vật, em có thể làm nó tan biến đi, đưa linh hồn nó quay trở lại Tartarus.”
“Tartarus?”
“Một vực thẳm khổng lồ ở Địa ngục, nơi bắt nguồn của những con quái vật đáng sợ nhất. Kiểu như một cái hố trong đáy đầy quỷ dữ. Dù sao đi nữa, mỗi khi các con quái vật bị phân hủy, chúng sẽ phải mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm mới có thể tái tạo lại. Nhưng vì tên tinh linh bão có tên Dylan đó đã trốn thoát – ừm, chị không biết tại sao hắn vẫn để cho Hedge được sống. Tuy nhiên, Hedge là một người bảo vệ. Ông ấy biết rõ những nguy hiểm. Các thần rừng không có linh hồn của con người. Ông ấy sẽ lại tái sinh dưới hình dáng một cái cây, một bông hoa hoặc thứ gì đó tương tự.”
Piper cố tưởng tượng ra hình ảnh Huấn luyện viên
Hedge là một khóm hoa păng-xê giận dữ. Điều đó càng làm cô cảm thấy tồi tệ hơn.
Cô liếc nhìn về phía những ngôi nhà ở bên dưới, và một cảm giác bồn chồn khó chịu xuất hiện khắp người cô. Thầy Hedge đã chết để giúp cô an toàn đến được đây. Nhà của mẹ cô ở đâu đó bên dưới kia, điều đó có nghĩa cô còn các anh chị em khác nữa, thêm nhiều người cô sẽ phải phản bội. Hãy làm theo những gì ta sẽ chỉ bảo, giọng nói đó đã nói. Hoặc hậu quả sẽ cực kỳ đau đớn. Cô nhét hai bàn tay mình xuống bên dưới hai cánh tay, cố làm cho chúng ngừng run rẩy.
“Sẽ ổn thôi,” Annabeth hứa. “Em sẽ có nhiều bạn bè ở đây. Tất cả bọn chị đều đã trải qua khá nhiều điều kỳ lạ. Bọn chị biết những gì em đang trải qua.”
Mình nghi ngờ điều đó, Piper nghĩ.
“Em đã bị đuổi ra khỏi năm trường khác nhau trong vòng năm năm qua,” cô nói. “Cha em đã hết chỗ để đưa em theo học.”
“Chỉ năm thôi sao?” Giọng Annabeth không tỏ vẻ gì là đang đùa cợt. “Piper, tất cả chúng ta đều được dán nhãn là những kẻ gây rắc rối. Chị đã rời khỏi nhà năm chị lên bảy tuổi.”
“Thật sao?”
“Ồ, đúng vậy. Phần lớn chúng ta được chẩn đoán là hiế động thái quá và suy giảm khả năng chú ý hay không đọc được chữ viết, hoặc cả hai...”
“Chứng bệnh của Leo,” Piper nói.
“Đúng vậy. Đó là vì chúng ta được lập trình để chiến đấu. Hiếu động, bốc đồng – chúng ta không phù hợp với những đứa trẻ thông thường. Em nên biết được về những
rắc rối mà Percy...” Khuôn mặt cô ấy đỏ bừng. “Dù sao đi nữa, các á thần luôn có tiếng xấu. Em gặp phải rắc rối gì?” Thông thường nếu ai đó hỏi câu đó, Piper bắt đầu gây với người đó, hoặc đổi đề tài, hoặc gây ra sự xao lãng nào đó. Nhưng vì lý do nào đó cô thấy mình đang nói lên sự thật.
“Em ăn cắp vặt,” cô nói. “Ừm, không hẳn là ăn cắp...” “Gia đình em nghèo lắm sao?”
Piper mỉm cười đầy chua chát. “Không đâu. Em chỉ làm thế thôi... em cũng không biết tại sao. Vì muốn gây sự chú ý, em đoán thế. Cha em không bao giờ dành thời gian cho em, trừ phi em gây ra rắc rối gì đó.”
Annabeth gật đầu. “Chị có thể hiểu. Nhưng em nói em không hẳn là ăn cắp? Ý em là sao?”
“Ừm... không ai tin em. Cảnh sát, giáo viên – ngay cả những người mà em lấy đồ đạc từ họ: họ quá xấu hổ, họ phủ nhận những gì đã xảy ra. Nhưng sự thật là, em không đánh cắp bất cứ thứ gì. Em chỉ hỏi mọi người những thứ đó. Và họ đưa cho em. Ngay cả một chiếc BMW mui trần. Em chỉ việc hỏi. Và người bán xe nói,‘Chắc rồi. Mang nó đi đi.’
Sau đó, ông ta nhận ra những gì mình đã làm, em đoán thế. Rồi cảnh sát đến bắt giữ em.”
Piper chờ đợi. Cô đã quen với việc mọi người gọi cô là kẻ nói dối, nhưng khi cô nhìn lên, Annabeth chỉ đang gật đầu.
“Thật thú vị. Nếu cha em là một vị thần, chị có thể nói ngay em là con của thần Hermes, thần của kẻ trộm cắp. Ông ấy là một bằng chứng khá thuyết phục. Nhưng cha em là một người thường...”
“Đúng là vậy,” Piper đồng ý.
Annabeth lắc đầu, với vẻ mặt khó hiểu. “Chị cũng không biết nữa. Nếu may mắn, mẹ em sẽ thừa nhận em vào tối nay.”
Piper gần như hy vọng không xảy ra. Nếu mẹ cô là một nữ thần, liệu bà ấy có biết gì về giấc mơ đó không? Liệu bà ấy có biết những gì Piper đã được yêu cầu làm theo? Piper tự hỏi liệu các vị thần trên đỉnh Olympus đã bao giờ làm nổ tung những đứa con của họ bằng tia chớp vì chúng trở nên xấu xa, hoặc cầm tù chúng dưới Địa ngục không.
Annabeth đang quan sát cô. Piper quyết định kể từ nay cô sẽ phải cẩn thận với những gì cô nói. Annabeth hiển nhiên là rất thông minh. Nếu bất cứ người nào có thể đoán được những bí mật của Piper...
“Đi thôi,” cuối cùng Annabeth cũng cất tiếng. “Chị có một số việc cần phải kiểm tra.”
Họ đi xa hơn một chút nữa cho đến khi gặp phải một cái hang gần đỉnh đồi. Xương và những thanh kiếm cũ bày bừa trên mặt đất. Các ngọn đuốc nằm ở lối vào được che bởi một tấm màn nhung được thêu hình những con rắn. Nó trông giống một cảnh dựng của một buổi trình diễn rối.
“Có gì trong đó?” Piper hỏi.
Annabeth ló đầu vào bên trong, sau đó thở dài và khép tấm màn lại. “Không có gì, hiện tại. Nơi ở của một người bạn. Chị đang chờ cô ấy mấy ngày nay, nhưng cho đến giờ, cô ấy vẫn chưa đến.”
“Bạn chị sống trong một cái hang sao?”
Annabeth gần như nở một nụ cười. “Thật ra, gia đình cô ấy có một căn hộ sang trọng ở Queens, và cô ấy đang theo học ở một trường tư thục dành cho nữ sinh ở Connecticut. Nhưng khi cô ấy ở trại, ừ, cô ấy sống trong một cái hang.
Cô ấy là nhà tiên tri của chúng ta, tiết lộ về tương lai. Chị đang mong cô ấy có thể giúp chị...”
“Tìm anh Percy,” Piper đoán.
Tất cả sức lực dường như đang biến khỏi người Annabeth, như thể cô ấy đã cố giữ nó càng lâu càng tốt. Cô ngồi xuống trên một tảng đá và gương mặt đầy đau khổ, Piper cảm thấy mình như một người tò mò tọc mạch.
Cô buộc chính mình phải nhìn sang hướng khác. Đôi mắt cô lang thang đến đỉnh đồi, nơi một cây thông đơn độc chi phối đường chân trời. Có thứ gì đó đang lấp lánh trên cành thấp nhất của nó – như một tấm thảm chùi chân bằng vàng xoắn tít.
Không... phải là một tấm thảm chùi chân. Đó là bộ lông cừu.
Ổn thôi, Piper nghĩ. Trại Hy Lạp. Họ có một bản sao của Bộ Lông Cừu Vàng.
Rồi cô chú ý đến phần gốc cây. Lúc đầu cô nghĩ nó được bọc bởi một đống dây cáp màu tía đồ sộ. Nhưng dây cáp có những lớp vảy của loài bò sát, đôi chân có móng vuốt, và một cái đầu giống đầu rắn với đôi mắt vàng và cái lỗ mũi bốc khói.
“Đó là... một con rồng,” cô lắp bắp. “Đó là Bộ Lông Cừu Vàng thật sao?”
Annabeth gật đầu, nhưng rõ ràng là cô ấy không thực sự lắng nghe. Hai vai cô buông thõng xuống. Cô chà xát mặt mình và run rẩy hít một hơi thật sâu. “Xin lỗi. Chị hơi mệt.”
“Chị trông như sắp kiệt sức ấy,” Piper nói. “Chị đã tìm kiếm bạn trai mình trong bao lâu?”
“Ba ngày, sáu giờ, và mười hai phút.”
“Và chị không biết chuyện gì đã xảy ra với anh ấy sao?” Annabeth lắc đầu đầy khổ sở. “Bọn chị rất phấn khích vì bọn chị bắt đầu kỳ nghỉ đông sớm. Bọn chị gặp nhau ở trại vào ngày thứ Ba, tính toán bọn chị sẽ có được ba tuần bên nhau. Điều đó sẽ thật tuyệt. Rồi sau buổi lửa trại, cậu ấy... cậu ấy hôn chúc chị ngủ ngon, rồi quay về nhà mình, và vào buổi sáng, cậu ấy biến mất. Bọn chị đã tìm kiếm khắp trại. Bọn chị đã gọi cho mẹ cậu ấy. Cố liên lạc với cậu ấy với bất cứ cách nào mà bọn chị có thể biết được. Nhưng chẳng có gì. Cậu ấy chỉ biến mất.”
Piper đang nghĩ: Ba ngày trước sao. Cùng đêm cô mơ thấy giấc mơ của mình. “Bọn chị đã quen nhau được bao lâu?”
“Từ tháng Tám,” Annabeth nói. “Mười tám tháng Tám.” “Gần như chính xác với ngày em gặp Jason,” Piper nói. “Nhưng bọn em chỉ ở bên nhau được một vài tuần.” Annabeth cau mày. “Piper... về chuyện đó. Có thể em nên ngồi xuống.”
Piper biết điều này sẽ dẫn đến đâu. Sự sợ hãi bắt đầu hình thành bên trong cô, như thể phổi cô đang được đổ đầy nước. “Nghe này, em biết Jason đã nghĩ – cậu ấy đã nghĩ cậu ấy chỉ mới xuất hiện ở trường bọn em ngày hôm nay. Nhưng điều đó không đúng. Em biết cậu ấy đã bốn tháng n
“Piper,” Annabeth buồn bã nói. “Đó là do Màn Sương Mù.”
“Đã bỏ lỡ... cái gì?”
“Màn-Sương-Mù. Đó là một lớp màn ngăn thế giới thường với thế giới phép thuật. Trí óc của con người – họ không thể xử lý được những chuyện kỳ lạ như thần thánh và quái vật, vì thế Màn Sương Mù bẻ cong đi sự thật. Nó
khiến những người thường nhìn thấy những điều theo cách họ có thể hiểu được – như mắt họ có thể hoàn toàn bỏ qua thung lũng này hoặc họ có thể nhìn con rồng đó và thấy một đống dây cáp.”
Piper nuốt xuống. “Không. Chính chị nói em không phải là một người bình thường. Em là một á thần.”
“Ngay cả các á thần cũng bị ảnh hưởng. Chị đã nhìn thấy rất nhiều lần. Khi quái vật thâm nhập vào vài nơi như một trường học, mạo nhận chính mình như con người, và mọi người nghĩ mình nhớ về người đó. Họ tin rằng cậu ta luôn ở quanh đây. Màn Sương Mù có thể thay đổi ký ức, thậm chí tạo ra ký ức về những việc mà chưa bao giờ xảy ra..”
“Nhưng Jason không phải là quái vật!” Piper khăng khăng. “Cậu ấy là một con người, hay á thần, hay bất cứ cái tên nào mà chị muốn gọi cậu ấy. Các ký ức của em không phải là giả tạo. Chúng rất thật. Thời điểm bọn em đốt quần của Huấn luyện viên Hedge. Lúc Jason và em cùng nhau ngắm mưa sao băng trên mái nhà ký túc xá và em cuối cùng cũng làm cho anh chàng ngốc đó hôn em...”
Cô nhận ra chính mình đang nói huyên thuyên, kể cho Annabeth nghe về toàn bộ học kỳ của mình ở Trường học Hoang Dã. Cô thích Jason ngay từ tuần đầu tiên họ gặp nhau. Cậu ấy rất tốt với cô, và cực kỳ nhẫn nại, cậu ấy thậm chí còn chịu đựng được cả anh bạn Leo hiếu động thái quá và cả những trò đùa ngốc nghếch của cậu ta. Cậu ấy đã chấp nhận cô vì chính con người cô và đã không xét đoán cô vì những gì cô đã làm. Họ đã dành hàng giờ nói chuyện, ngắm sao, và cuối cùng – cuối cùng – đã nắm tay nhau. Và tất cả những điều đó không thể là giả được.
Annabeth bĩu môi. “Piper, các ký ức của em mạnh mẽ hơn nhiều so với hầu hết mọi người. Chị phải thừa nhận điều đó, và chị không biết tại sao lại như thế. Nhưng nếu em biết cậu ta đủ rõ...”
“Em biết mà!”
“Thế cậu ta từ đâu đến?”
Piper cảm thấy như thể cô vừa mới bị thụi một đấm vào giữa mặt. “Cậu ấy hẳn đã nói với em, nhưng...” “Em đã bao giờ chú ý đến hình xăm của cậu ta trước ngày hôm nay không? Cậu ta có bao giờ kể cho em bất cứ điều gì về cha mẹ, bạn bè hay trường học cuối cùng của cậu ta không?”
“Em... em không biết, nhưng...”
“Piper, thế họ của cậu ta là gì?”
Trí óc cô hoàn toàn trống rỗng. Cô đã không biết họ của Jason. Sao có thể như thế được?
Cô bật khóc. Cô cảm giác như mình là một con ngốc, nhưng cô ngồi xuống trên một tảng đá cạnh Annabeth và cảm thấy như người mình tan ra từng mảnh. Điều đó là quá nhiều. Có phải mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống khốn khổ, ngu ngốc của cô đã bị lấy đi mất không?
Đúng rồi, giấc mơ đã nói với cô. Đúng vậy, trừ phi ngươi làm theo chính xác những gì chúng ta nói.
“Này,” Annabeth nói. “Chúng ta sẽ tìm ra. Giờ Jason đang ở đây. Ai biết được? Có thể nó sẽ thật sự có ích với bọn em.”
Không bao giờ, Piper nghĩ. Không thể khi mà giấc mơ nói với cô sự thật. Nhưng cô không thể nói ra điều đó. Cô lau đi giọt nước mắt vương trên má. “Chị mang em đến đây để không ai có thể nhìn thấy em khóc sao?”
Annabeth nhún vai. “Chị đoán điều đó sẽ thật khó với em. Chị biết sẽ như thế nào khi mất đi một người bạn trai.” “Nhưng em vẫn không thể tin được... Em biết bọn em có gì đó. Và giờ nó đã biến mất, cậu ấy thậm chí còn không nhận ra em. Nếu cậu ấy thực sự chỉ mới xuất hiện ngày hôm nay, vậy thì tại sao? Sao cậu ấy lại có thể đến đó? Sao cậu ấy lại không thể nhớ được bất cứ điều gì?” “Những câu hỏi hay,” Annabeth nói. “Hy vọng bác Chiron có thể luận ra được điều đó. Nhưng giờ thì, chúng ta cần phải tìm chỗ cho em trú ngụ. Em đã sẵn sàng xuống dưới kia chưa?”
Piper liếc nhìn về sự sắp xếp điên khùng của các ngôi nhà trong thung lũng. Ngôi nhà mới của cô, được cho là hiểu cô – nhưng sẽ nhanh thôi, họ lại chỉ là một nhóm người thất vọng vì cô, lại chỉ là một nơi khác mà cô bị đá ra khỏi đó. Ngươi sẽ phải phản bội chúng vì chúng ta, giọng nói cảnh báo. Hoặc ngươi sẽ mất đi mọi thứ.
Cô không có sự lựa chọn.
“Ừm,” cô nói dối. “Em đã sẵn sàng.”
Trên bãi cỏ xanh mướt ở giữa, một nhóm các trại viên đang chơi bóng rổ. Họ là những tay ném bóng siêu chuẩn. Không có quả bóng nào nảy ra khỏi vành rổ. Những cú ném ba điểm được thực hiện một cách thuần thục.
“Nhà thần Apollo,” Annabeth giải thích. “Một nhóm những tay phô trương với những loại vũ khí có thể phóng ra – như cung tên, bóng rổ.”
Họ đi qua lò lửa được đặt ở giữa, nơi có hai anh chàng đang đánh nhau bằng kiếm.
“Đó là những lưỡi kiếm thật sao?” Piper chú ý. “Chẳng phải nó sẽ rất nguy hiểm sao?”
“Điều đó mang lại hiệu quả,” Annabeth nói. “Ừm, xin lỗi. Chơi chữ không được hay lắm. Nhà chị ở đằng kia. Số Sáu.” Cô ấy hất đầu về phía tòa nhà màu xám với một con cú được khắc phía trên cửa. Qua cánh cửa đang mở, Piper có thể thấy các giá sách, các món vũ khí được trưng bày, và một trong số các Màn hình Thông minh được vận hành bằng máy vi tính mà họ có trong các phòng học. Hai cô gái đang vẽ một bản đồ trông giống như một biểu đồ chiến tranh.
“Nói về các lưỡi kiếm,” Annabeth nói,“đến đây nào.” Cô dẫn Piper đi vòng qua một bên hông nhà, đi đến một nhà xưởng bằng kim loại lớn trông giống như một nhà chứa các dụng cụ làm vườn. Annabeth mở nó ra, và bên trong không phải dụng cụ làm vườn, trừ khi bạn muốn gây chiến với các cây cà chua của bạn. Khu nhà có tất cả các loại vũ khí – từ kiếm đến giáo và ngay cả những chiếc dùi cui như của huấn luyện viên Hedge.
“Mỗi một á thần đều cần có vũ khí,” Annabeth nói. “Thần Hephaestus làm ra những vũ khí tốt nhất, nhưng chúng ta cũng có một lựa chọn tốt nữa. Tất cả những gì mà nữ thần Athena quan tâm là chiến lược – chọn ra vũ khí thích hợp với người thích hợp. Để xem...”
Piper không cảm thấy thích thú gì với việc mua sắm những vật dụng chết người này, nhưng cô biết Annabeth đang cố làm đó tốt cho cô.
Annabeth đưa cho cô một thanh kiếm lớn, mà ắt hẳn Piper khó lòng nhấc nó lên nổi.
“Không,” cả hai cùng lên tiếng.
Annabeth lục lọi sâu hơn trong nhà kho và mang ra một thứ gì đó.
“Một khẩu súng ngắn?” Piper hỏi.
“Mossberg 500.” Annabeth kiểm tra cò súng như thể nó chẳng có gì nguy hại vậy. “Đừng lo. Nó không gây tổn thương cho người thường. Nó được sửa đổi để bắn đạn được làm từ đồng Celestial, vì thế nó sẽ chỉ giết chết quái vật thôi.”
“Ừm, em không nghĩ nó hợp với phong cách của em,” Piper nói.
“Ừm, đúng vậy,” Annabeth đồng ý. “Quá hào nhoáng.” Cô ấy đặt khẩu súng xuống và bắt đầu mò mẫm khắp cái giá chứa đầy những cái nỏ thì có thứ gì đó nằm ở một góc xưởng đập vào mắt Piper.
“Đó là cái gì thế?” cô nói. “Một con dao ư?”
Annabeth lấy nó ra và thổi bụi khỏi vỏ dao găm. Nó có vẻ như chưa được nhìn thấy ánh sáng ban ngày trong nhiều thập kỷ.
“Chị không biết, Piper.” Annabeth nói với vẻ lo lắng. “Chị không nghĩ em muốn con dao này. Dùng kiếm thì tốt hơn nhiều.”
“Chị sử dụng một con dao mà.” Piper chỉ vào con dao gắn dưới thắt lưng Annabeth.
“Ừm, nhưng...” Annabeth nhún vai. “Thôi, em cứ xem nếu em muốn.”
Vỏ của con dao găm được bọc da đen, khảm đồng. Không có gì hấp dẫn, lôi cuốn. Tay cầm bằng gỗ sáng bóng vừa khít trong lòng bàn tay Piper. Khi cô rút nó ra khỏi vỏ, cô thấy đó là một lưỡi dao hình tam giác dài bốn lăm xăng
ti mét – bằng đồng sáng bóng cứ như mới được lau chùi vào hôm qua. Hai cạnh của nó khá sắc. Hình ảnh phản chiếu của chính mình trên lưỡi dao khiến cô ngạc nhiên. Cô
nhìn già hơn, đứng đắn hơn, và không có cảm giác sợ hãi. “Nó rất hợp với em,” Annabeth thừa nhận. “Kiểu lưỡi đó được gọi là parazonium. Đây gần như là món đồ vật trang được những người chỉ huy hàng đầu trong các đội quân Hy Lạp mang bên mình. Nó chỉ cho mọi người thấy người sở hữu nó là một người giàu có và quyền lực, nhưng trong một trận chiến, nó có thể bảo hộ tốt chủ nhân của mình.” “Em thích nó,” Piper nói. “Sao chị lại nghĩ em không nên dùng nó?”
Annabeth thở ra. “Lưỡi dao đó là cả một câu chuyện dài. Hầu hết mọi người đều sợ phải thừa nhận nó. Người chủ đầu tiên của nó... ừm, mọi việc đối với cô ta không được tốt cho lắm. Tên cô ta là Helen.”
Piper suy nghĩ cẩn thận những gì Annabeth nói. “Chờ chút, ý chị là cái cô Helen đó sao? Helen thành Troy?” Annabeth gật đầu.
Đột nhiên Piper cảm giác như thể cô nên mang găng tay dùng trong phẫu thuật khi cầm con dao này. “Và nó có mặt trong phòng vũ khí của chị sao?”
“Bọn chị có rất nhiều các vật dụng Hy Lạp cổ đại,” Annabeth nói. “Đây không phải là một viện bảo tàng. Các vũ khí giống như thế – chúng được tạo ra để được sử dụng. Chúng là tài sản thừa kế với tư cách là các á thần. Đó là một món quà cưới của Menelaus, người chồng đầu tiên của Helen. Cô ta đã đặt tên cho nó là Katoptris.”
“Nghĩa là gì?”
“Là gương,” Annabeth nói. “Một cái gương soi. Chắc chắn là vì Helen sử dụng nó cho mục đích duy nhất đó. Chị không nghĩ nó đã từng tham gia một trận đánh nào.” Piper nhìn vào lưỡi dao một lần nữa. Trong giây lát,
hình ảnh chính cô nhìn chằm chằm vào cô, nhưng rồi hình ảnh phản chiếu thay đổi. Cô nhìn thấy lửa, và một khuôn mặt méo mó như một thứ gì đó được khắc trên tầng đá nền. Cô nghe được cùng một giọng cười như trong giấc mơ. Cô nhìn thấy cha mình bị xích trên một cây trụ phía trước một đống lửa đang cháy.
Cô thả con dao xuống.
“Piper?” Annabeth gọi những đứa trẻ thuộc nhà thần Apollo đang ở trong sân quần vợt,“Medic! Chị cần giúp đỡ ở đằng này!”
“Không, em không sao,” Piper khăng khăng.
“Em
“Ừm. Em chỉ...” Cô phải làm chủ bản thân mình. Với những ngón tay run rẩy, cô nhặt con dao lên. “Em chỉ hơi choáng thôi. Quá nhiều việc đã xảy ra trong hôm nay. Nhưng... nếu được, em muốn giữ con dao này.”
Annabeth chần chừ. Rồi cô vẫy tay ra hiệu cho những đứa trẻ nhà Apollo. “Được rồi, nếu em muốn. Mặt em trở nên tái xanh. Chị nghĩ em đang mắc chứng co giật hay gì đó.”
“Em không sao,” Piper cam đoan, mặc dầu trái tim cô vẫn đang đập mạnh. “Ở đây... ừm, có điện thoại không ạ? Em có thể gọi cho cha em không?”
Đôi mắt màu xám của Annabeth cũng đáng sợ gần như lưỡi dao vậy. Cô ấy dường như đang suy tính một triệu khả năng, cố đọc các ý nghĩ của Piper.
“Chúng ta không được phép dùng điện thoại,” cô nói. “Với phần lớn các á thần, nếu chúng ta sử dụng điện thoại di động, việc đó giống như em đang gửi đi một tín hiệu, cho các tên quái vật biết được chỗ của em. Nhưng... chị có một
cái.” Cô ấy lấy nó ra khỏi túi. “Hồ như chống lại luật, nhưng nếu điều này có thể là bí mật của chúng ta thì...” Piper cầm lấy nó với sự cảm kích, cố hết sức để hai tay cô không run rẩy. Cô rời khỏi nơi Annabeth đang đứng và quay mặt về phía khu vực chung.
Cô gọi vào đường dây riêng của cha cô, mặc dầu cô biết điều gì sẽ xảy ra. Thư thoại. Cô đã cố gọi trong ba ngày, kể từ khi cô mơ giấc mơ đó. Trường học Hoang Dã chỉ cho phép gọi điện một lần một ngày, nhưng cô đã gọi vào mỗi đêm mà chẳng đâu đến đâu.
Cô miễn cưỡng bấm một số khác. Thư ký riêng của cha cô trả lời ngay lập tức. “Văn phòng McLean nghe.” “Jane,” Piper nghiến răng nói. “Cha tôi đâu?”
Jane im lặng trong một lát, chắc chắn đang tự hỏi liệu cô ta có thể cúp máy không. “Piper, tôi nghĩ cô không được phép gọi điện từ trường chứ.”
“Ừm, có thể tôi đang không ở trường đây,” Piper nói. “Có thể tôi đã bỏ trốn để sống giữa các sinh vật sống trong rừng.”
“Ừm.” Giọng Jane nghe chẳng mấy quan tâm. “Tốt, tôi sẽ nói cho ông ấy cô đã gọi.”
“Ông ấy đâu?”
“Đi ra ngoài.”
“Cô không biết gì sao?” Piper hạ thấp giọng, hy vọng Annabeth đủ tử tế để không nghe trộm. “Khi nào thì cô sẽ gọi điện cho cảnh sát hả Jane? Ông ấy có thể đang gặp rắc rối.”
“Piper, chúng ta sẽ không biến chuyện này thành đề tài khai thác béo bở của báo giới. Tôi chắc ông ấy vẫn ổn. Ông ấy thỉnh thoảng lại đi đâu đó. Ông ấy luôn quay trở lại.”
“Vậy điều đó là đúng. Cô không biết...”
“Tôi phải đi đây, Piper,” Jane cắt ngang lời cô. “Học hành vui vẻ nhé.”
Đường dây bị cắt đứt. Piper thầm nguyền rủa. Cô bước về lại chỗ Annabeth và đưa trả lại điện thoại cho cô ấy. “Không gặp may sao?” Annabeth hỏi.
Piper không trả lời. Cô không tin chính mình lại không bắt đầu khóc lần nữa.
Annabeth liếc nhìn màn hình điện thoại và lưỡng lự. “Họ em là McLean sao? Xin lỗi, đó không phải là việc của chị. Nhưng nó nghe rất quen.”
“Một cái họ thông dụng ấy mà.”
“Ừm, chị cũng đoán thế. Cha em làm gì?”
“Ông ấy có văn bằng về nghệ thuật,” Piper đáp một cách vô thức. “Ông ấy là nghệ sĩ người Cherokke.” Đó là câu trả lời chuẩn của cô. Không phải là một lời nói dối, chỉ không hoàn toàn là sự thật mà thôi. Với phần lớn mọi người, khi nghe điều đó, họ thường đoán rằng cha cô bán các đồ lưu niệm của người da đỏ ở một quầy bán hàng ven đường trong khu bảo tồn. Tượng Sitting Bull(3)lúc lắc đầu, các vòng cổ làm bằng vỏ sò, các cuốn vở tập viết Big Chief – những thứ đại loại như thế.
“Ồ.” Annabeth trông không bị thuyết phục lắm, nhưng cô ấy cất điện thoại đi. “Em cảm thấy ổn chứ? Muốn đi tiếp không?”
Piper buộc chặt con dao vào dây thắt lưng và tự hứa rằng, sau này, khi ở một mình, cô sẽ tìm hiểu cách sử dụng nó. “Có chứ,” cô nói. “ muốn xem tất cả.”
Tất cả các ngôi nhà đều rất tuyệt, nhưng không một ngôi nhà nào trong số đó gây ấn tượng với Piper như nhà
của cô. Không có dấu hiệu bị đốt cháy – gấu túi(4) hay những con thú khác – xuất hiện phía trên đầu cô. Nhà số Tám hoàn toàn được làm bằng bạc và sáng lấp lánh như ánh trăng.
“Nhà nữ thần Artemis?” Piper đoán.
“Em biết về thần thoại Hy Lạp,” Annabeth nói. “Em đã đọc một vài cuốn sách về thần thoại Hy Lạp khi cha em thực hiện một dự án vào năm ngoái.” “Chị nghĩ ông ấy làm các tác phẩm nghệ thuật về người Cherokke.”
Piper kiềm chế để không bật ra lời nguyền rủa. “Ồ, đúng thế. Nhưng... chị biết đấy, ông ấy cũng làm những món đồ khác nữa.”
Piper nghĩ cô đã nói lộ ra: McLean, thần thoại Hy Lạp. May thay, Annabeth dường như không kết nối những chuyện đó lại với nhau.
“Dù sao đi nữa,” Annabeth tiếp tục nói,“nữ thần Artemis là nữ thần của mặt trăng, nữ thần của việc săn bắn. Nhưng không có các trại viên. Nữ thần Artemis là một thiếu nữ bất tử, vì thế bà không có bất cứ người con nào.”
“Ồ.” Điều đó làm Piper khá thất vọng. Cô luôn thích những câu chuyện về nữ thần Artemis, và đoán bà sẽ là một người mẹ tốt.
“À, đó là nhóm Thợ Săn của nữ thần Artemis,” Annabeth bổ sung. “Thỉnh thoảng họ lại ghé thăm. Họ không phải là con của nữ thần Artemis, nhưng họ là những người hầu của bà – đó là nhóm những thiếu nữ cùng nhau thực hiện các cuộc phiêu lưu, săn đuổi các con quái vật, và những thứ như thế.”
Piper cảm thấy vui vẻ hơn. “Điều đó thật tuyệt. Họ được
trở nên bất tử sao?”
“Trừ phi họ chết khi chiến đấu, hoặc phá vỡ lời thề của mình. Chị đã kể cho em nghe về việc họ phải từ bỏ các chàng trai chưa nhỉ? Không hẹn hò – mãi mãi. Vì sự bất tử đó.”
“Ồ,” Piper nói. “Không sao hết.”
Annabeth cười lớTrong giây lát, cô ấy trông thật hạnh phúc, và Piper nghĩ rằng cô sẽ là một người bạn tuyệt vời để đi chơi cùng vào những thời điểm khác.
Quên chuyện đó đi, Piper tự nhắc nhở chính mình. Mày sẽ không kết bạn với bất cứ ai ở đây. Không vì rồi họ cũng sẽ phát hiện ra.
Họ đi qua căn nhà kế bên, số Mười, được trang trí như nhà của búp bê Barbie với màn cửa bằng ren, cửa ra vào màu hồng và những chậu hoa cẩm chướng được bày trên các ô cửa sổ. Họ đi ngang cửa ra vào, và mùi nước hoa gần như khiến Piper nôn khan.
“Gừ, đó có phải là nơi các siêu mẫu đi chết không?” Annabeth cười điệu. “Đó là nhà của nữ thần Aphrodite. Nữ thần tình yêu. Drew là người đứng đầu.”
“Em có thể đoán được,” Piper lầm bầm.
“Không hẳn tất cả họ đều xấu,” Annabeth nói. “Người đứng đầu tiền nhiệm là một người thật tuyệt.” “Thế chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?”
Khuôn mặt Annabeth chợt tối sầm lại. “Chúng ta nên đi tiếp.”
Họ nhìn vào các nhà khác, nhưng Piper chỉ ngày càng buồn rầu hơn. Cô tự hỏi liệu mình có thể là con gái của nữ thần mùa màng Demeter không. Nhưng rồi chợt nhớ ra cô đã giết chết bất cứ cái cây nào mà cô đã chạm vào. Nữ
thần Athena cũng tốt. Hoặc có thể là nữ thần phép thuật, Hecate. Nhưng điều đó thực sự không quan trọng. Ngay cả ở đây, nơi đáng ra mọi người có thể tìm thấy cha mẹ thất lạc của mình, cô biết mình vẫn sẽ là một đứa trẻ không được mong muốn. Cô chẳng trông mong gì đến lửa trại tối nay.
“Chúng ta bắt đầu với mười hai vị thần trên đỉnh Olympus,” Annabeth giải thích. “Các nam thần ở bên trái, các nữ thần ở bên phải. Rồi cho đến năm ngoái, chúng ta đã thêm vào một cụm nhà mới dành cho các vị thần khác, những người không có ngai trên đỉnh Olympus như nữ thần Hecate, thần Hades, nữ thần Iris...”
“Hai ngôi nhà lớn ở mỗi đầu thuộc về ai?” Piper hỏi. Annabeth cau mày. “Thần Zeus và nữ thần Hera. Vua và nữ hoàng của các vị thần.”
Piper đi thẳng về phía đó, và Annabeth bước theo sau, mặc dầu cô ấy chẳng lấy làm vui vẻ chút nào. Nhà của thần Zeus gợi cho Piper nhớ về một ngân hàng. Đó là một tòa nhà bằng đá hoa cương trắng với những chiếc cột lớn ở phía trước và những cánh cửa bằng đồng sáng bóng với những hoa văn hình tia chớp.
Nhà của nữ thần Hera nhỏ hơn nhưng cũng cùng một kiểu, ngoại trừ những cánh cửa được khắc với những thiết kế hình lông công, tỏa ra các màu sắc khác nhau.
Không giống những ngôi nhà khác, ồn ào, luôn mở rộng cửa và có rất nhiều các hoạt động, nhà của thần Zeus và nữ thần Hera trông im lìm và khép kín.
“Chúng không có ai ở sao?” Piper hỏi.
Annabeth gật đầu. “Thần Zeus đã không có thêm bất kỳ đứa con nào trong một thời gian dài. Ừm, gần như là
không. Thần Zeus, thần Poseidon, và thần Hades là những người lớn nhất trong số các thần – họ được gọi là Bộ Tam Vĩ Đại. Những đứa con của họ rất mạnh, cực kỳ nguy hiểm. Trong vòng khoảng bảy mươi năm trước, họ đã cố tránh không có thêm bất cứ đứa con á thần nào.”
“Đã cố tránh là sao?”
“Đôi khi họ... ừm, ngoại tình. Chị có một người bạn, Thalia Grace, là con gái của thần Zeus. Nhưng cô ấy đã từ bỏ cuộc sống ở trại và trở thành Thợ Săn của nữ thần Artemis. Bạn trai của chị, Percy, cậu ấy là con trai thần Poseidon. Và có một cậu bé thỉnh thoảng lại xuất hiện, Nico – con trai của thần Hades. Ngoài họ, chẳng có thêm đứa trẻ á thần nào là con của Bộ Tam Vĩ Đại. Chí ít, đó là những gì mà chúng ta biết được.”
“Còn nữ thần Hera?” Piper nhìn các cánh cửa được trang trí bằng lông công. Ngôi nhà đó khiến cô bận tâm, mặc dầu cô không chắc lý do tại sao.
“Nữ thần của hôn nhân.” Tông giọng của Annabeth cực kỳ kiềm chế, như thể cô ấy đang cố tránh việc nguyền rủa. “Bà ấy không có con với bất cứ ai trừ thần Zeus. Vì vậy, ừm, nên chẳng có á thần nào. Ngôi nhà đó được dựng lên chỉ để vinh danh bà ấy.”
“Chị không thích bà ấy,” Piper nhận ra.
“Bọn chị có cả một câu chuyện dài,” Annabeth thừa nhận. “Chị nghĩ bọn chị sẽ hòa thuận với nhau, nhưng khi Percy biến mất... Chị có cảnh mộng kỳ lạ về chuyện đó từ bà ấy.”
“Bảo chị đến đón bọn em sao,” Piper nói. “Nhưng chị đã nghĩ Percy sẽ ở đó.”
“Tốt hơn hết là chị không nói v,” Annabeth nói. “Giờ thì
chị chẳng có điều gì tốt để nói về nữ thần Hera.” Piper nhìn xuống bệ cửa. “Vậy ai sẽ ở trong này?” “Không ai cả. Ngôi nhà này được dựng lên chỉ để vinh
danh bà ấy, như chị đã nói. Không có ai đi vào đây cả.” “Có ai đó đã đi vào.” Piper chỉ về phía một dấu chân trên ngưỡng cửa phủ đầy bụi. Theo bản năng, cô đẩy các cánh cửa và chúng nhẹ nhàng mở ra.
Annabeth bước lùi lại. “Ừm, Piper, chị không nghĩ chúng ta nên...”
“Chúng ta được cho là sẽ làm điều gì đó khá nguy hiểm, đúng không?” Và Piper bước vào bên trong.
Nhà của nữ thần Hera không phải là nơi Piper muốn ngụ lại. Nó lạnh lẽo như một cái tủ đông, với một vòng tròn những cột trắng bao quanh một bức tượng của nữ thần ở chính giữa, cao ba mét, ngồi trên ngai với bộ áo vàng mềm mại. Piper luôn nghĩ rằng những bức tượng Hy Lạp luôn có màu trắng với đôi mắt vô hồn, nhưng bức tượng này được tô vẽ rực rỡ vì thế nó trông gần giống với con người – ngoại trừ việc nó quá lớn. Đôi mắt sắc lẻm của nữ thần Hera dường như đang dõi theo Piper.
Ở dưới chân bức tượng, một ngọn lửa được đốt trong một lò than bằng đồng. Piper tự hỏi ai sẽ trông nom nó nếu ngôi nhà luôn không có người. Một con chim ưng bằng đá đậu trên vai nữ thần Hera, và trong tay bà ấy là một cây quyền trượng với đỉnh đầu là một bông hoa sen. Mái tóc đen mượt của nữ thần được tết đơn giản phía sau. Khuôn mặt bà ấy mang ý cười nhưng đôi mắt thì lạnh lẽo và tàn nhẫn, như thể bà ấy đang nói: Mẹ là người biết rõ nhất. Giờ thì đừng có mà chống đối lại ta nếu không ta sẽ đạp lên ngươi đấy.
Chẳng có gì ở trong nhà – không giường, không đồ đạc, không phòng tắm, không cửa sổ, chẳng có gì dành cho bất cứ người nào thực sự có thể sử dụng để trú ngụ. Với một nữ thần gia đình và hôn nhân, nơi ở của nữ thần Hera gợi cho Piper nhớ đến một hầm mộ.
Không, đây không phải là nhà của mẹ cô. Ít nhất Piper chắc chắn về điều đó. Cô không vào đây vì cô cảm thấy một sự gắn kết tuyệt đối, nhưng vì cô cảm thấy một nỗi khiếp sợ mạnh mẽ ở trong này. Giấc mơ của cô – tối hậu thư khủng khiếp mà cô có trong tay đó – có liên quan đến ngôi nhà này.
Cô cứng người lại. Không chỉ có mình họ trong này. Đằng sau bức tượng, ở bệ thờ phía sau, là một nhân ảnh được che phủ trong một khăn choàng màu đen. Chỉ có hai bàn tay của người đó hiển hiện, lòng bàn tay đưa lên cao. Cô ta dường như đang ngâm nga một điều gì đó như một câu thần chú hay một lời nguyện cầu.
Annabeth há hốc miệng vì kinh ngạc. “Rachel?” Cô gái đó quay người lại. Chiếc khăn choàng rơi xuống, để lộ mái tóc bờm màu đỏ quăn và một khuôn mặt đầy tàn nhang chẳng ăn nhập gì với sự trang trọng của căn nhà hay khăn choàng màu đen. Cô ta trông khoảng mười bảy tuổi, hoàn toàn là một thiếu nữ bình thường với áo cánh màu xanh lục và chiếc quần jeans xé rách với những hình vẽ nguệch ngoạc trên đó. Bất chấp sàn nhà lạnh lẽo, cô ta đi chân trần.
“Chào!” Cô ta chạy đến và ôm chặt lấy Annabeth. “Tớ xin lỗi! Tớ đã đến nhanh nhất có thể.”
Họ trò chuyện trong một vài phút về người bạn trai của Annabeth và lý do tại sao chẳng có lấy một tin tức nào,
vâng vâng, cho đến khi cuối cùng Annabeth cũng nhớ tới Piper, người đang đứng đó không lấy gì thoải mái cho lắm. “Chị thật bất lịch sự,” Annabeth xin lỗi. “Rachel, đây là Piper, một trong số các á thần mà chúng ta đã cứu hôm nay. Piper, đây là Rachel Elizabeth Dare, nhà tiên tri của chúng ta.”
“Là người bạn sống trong cái hang của chị,” Piper đoán. Rachel cười toe toét. “Đúng là chị.”
“Vậy chị là nhà tiên tri sao?” Piper hỏi. “Chị có thể nói về tương lai?”
“Giống như là tương lai cướp lấy chị hết lần này đến lần khác thì phải,” Rachel nói. “Chị nói những lời tiên tri. Linh hồn của nhà tiên tri thường chiếm đoạt con người chị trong một lúc và nói những điều quan trọng mà chẳng có ý nghĩa gì với bất cứ ai. Nhưng đúng thế, những lời tiên tri thường nói về tương lai.”
“Ồ.” Piper chuyển từ chân này sang chân kia. “Điều đó thật tuyệt.”
Rachel cười lớn. “Đừng lo lắng. Mọi người đều thấy nó khiến họ rùng mình sởn gáy. Ngay cả chị cũng vậy. Nhưng thường thì chị vô hại.”
“Chị là á thần sao?”
“Không,” Rachel nói. “Chỉ là người thường thôi.” Nụ cười trên môi Rachel tắt dần. Cô liếc nhìn Annabeth, rồi lại nhìn Piper. “Chỉ là một linh cảm mà thôi. Có điều gì đó về ngôi nhà này và sự biến mất của Percy. Bằng cách nào đó chúng kết nối với nhau. Chị chỉ đang làm theo linh tính của mình, đặc biệt là tháng trước, kể từ khi các vị thần đột nhiên im lặng.”
“Đột nhiên im lặng?” Piper hỏi.
Rachel cau mày nhìn Annabeth. “Cậu chưa kể cho cô bé nghe chuyện đó sao?”
“Tớ đang chuẩn bị kể chuyện đó,” Annabeth nói. “Piper, trong tháng qua... ừm, thường thì các vị thần không nói chuyện nhiều lắm với con cái họ, nhưng chúng ta có thể thường dựa vào một vài thông điệp. Một vài người trong số chúng ta thậm chí còn có thể ghé thăm đỉnh Olympus. Chị gần như có mặt suốt cả học kỳ ở Tòa nhà Empire State.” “Xin lỗi?”
“Lối vào đỉnh Olympus ngày nay.”
“Ồ,” Piper nói. “Chắc thế. Tại sao không?”
“Annabeth đang tái thiết kế lại đỉnh Olympus sau khi nó bị phá hủy trong Cuộc chiến với các thần Titan,” Rachel giải thích. “Cô ấy là một kiến trúc sư tuyệt vời. Em nên nhìn thấy quầy phục vụ món salad...”
“Dù sao đi nữa,” Annabeth nói,“bắt đầu từ cách đây một tháng, đỉnh Olympus trở nên tĩnh lặng. Lối vào đã bị đóng lại, không ai có thể đi vào. Không ai biết lý do tại sao. Như thể các vị thần đã tự phong bế chính họ. Ngay cả mẹ của chị cũng không đáp lại những lời cầu nguyện của chị, và giám đốc trại của chúng ta, thần Dionysus, đã bị triệu hồi.”
“Giám đốc trại của chị là thần... rượu nho sao?” “Đúng thế, nó là...”
“Một câu chuyện dài,” Piper đoán. “Đúng rồi. Chị nói tiếp đi.”
“Điều đó là thật đấy,” Annabeth nói. “Các á thần vẫn được thừa nhận, nhưng chỉ vậy thôi. Không có lấy một lời nhắn. Không có những chuyến viếng thăm. Không có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ các thần đang lắng nghe. Như thể
có điều gì đó đã xảy ra – điều gì đó thật sự tồi tệ. Rồi Percy biến mất.”
“Và Jason xuất hiện trong chuyến đi thực tế của bọn em,” Piper bổ sung. “Không có một chút ký ức nào.” “Ai là Jason?” Rachel hỏi.
“Là...” Piper ngừng lại trước khi cô có thể nói “bạn trai,” nhưng nỗ lực đó khiến ngực cô đau nhói. “Bạn của em. Nhưng chị Annabeth, chị chẳng phải đã nói nữ thần Hera đã gởi cho chị một cảnh mộng.”
“Đúng thế,” Annabeth nói. “Giao thiệp đầu tiên từ một vị thần trong một tháng là nữ thần Hera, vị nữ thần ít giúp đỡ nhất, và bà ấy liên lạc với chị, á thần mà bà ấy chẳng yêu thích mấy. Bà ấy nói rằng chị sẽ khám phá ra được chuyện gì đã xảy ra với Percy nếu chị đến cầu kính ở Grand Canyon và tìm một chàng trai chỉ mang duy nhất một chiếc giày. Thay vào đó, chị tìm thấy bọn em, và anh chàng với một chiếc giày là Jason. Việc đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Có chuyện gì tồi tệ đang diễn ra,” Rachel đồng ý. Cô nhìn Piper, và Piper cảm thấy một khát khao dồn dập muốn nói cho họ nghe về giấc mơ của mình, thú nhận rằng cô biết điều gì đang xảy ra – ít nhất là một phần của câu chuyện. Và điều tồi tệ đó chỉ mới là màn khởi đầu.
“Các chị ơi,” cô nói. “Em... em cần...”
Trước khi cô có thể tiếp tục, cơ thể Rachel căng cứng. Đôi mắt cô ấy bắt đầu phát ra ánh sáng màu xanh lục nhạt, và cô ấy nắm chặt lấy vai Piper.
Piper cố lùi lại, nhưng đôi tay của Rachel cứng như thép.
Hãy giải thoát ta, cô ấy nói. Nhưng đó không phải là giọng của Rachel. Nó nghe như của một người phụ nữ lớn
tuổi hơn, phát ra từ một nơi xa xôi nào đó, bên dưới một chiếc ống dài, vang vọng. Hãy giải thoát cho ta, Piper McLean, nếu không mặt đất sẽ nuốt chửng chúng ta mất. Việc đó phải được thực hiện vào điểm chí.
Căn phòng bắt đầu quay tròn. Annabeth cố tách Piper ra khỏi Rachel, nhưng chẳng ích gì. Một làn khói xanh lục bao quanh họ, và Piper không còn chắc liệu mình đang tỉnh hay đang mơ. Bức tượng nữ thần khổng lồ dường như đang đứng lên khỏi chiếc ngai của mình. Nó nghiêng người về phía Piper, đôi mắt như đang nhìn xuyên qua người cô.
Miệng bức tượng mở ra, hơi thở có mùi nước hoa nồng nặc. Cũng vẫn là cái giọng vang vọng đó: Các kẻ thù của chúng ta chuyển mình. Tên thở ra lửa đó chỉ là sự khởi đầu. Khuất phục trước nguyện vọng của hắn ta, và vị vua của chúng sẽ nổi dy, kết án tất cả chúng ta. HÃY GIẢI THOÁT CHO TA!
Hai đầu gối của Piper oằn xuống, và mọi thứ trở nên tối đen.
5. LEO
Chuyến tham quan của Leo thật tuyệt cho đến khi cậu biết về con rồng.
Anh bạn bắn cung, Will Solace, có vẻ như khá ngầu. Mọi thứ cậu ta chỉ cho Leo đều thật đáng kinh ngạc, và lẽ ra là bất hợp pháp. Những chiếc tàu chiến Hy Lạp thật sự đậu ở bãi biển đôi lúc được dùng cho việc tập trận với những mũi tên lửa và thuốc nổ ấy à? Thật thú vị! Khu vực thủ công & nghệ thuật, nơi bạn có thể tạo ra các tác phẩm điêu khắc bằng các loại cưa xích và đèn hàn ư? Leo giống như thể, Hãy điền tên tớ vào! Các cánh rừng cất giữ đủ loại quái vật nguy hiểm, và không ai được phép vào trong đó một mình? Tuyệt! Và trại có rất nhiều các cô gái xinh đẹp.
Leo không hiểu nhiều về những chuyện liên-quan-đến các-vị-thần, nhưng cậu hy vọng rằng điều đó không có nghĩa cậu là anh/em họ với những quý cô xinh đẹp đó. Điều đó thật tệ. Chí ít, cậu muốn kiểm tra những cô gái dưới nước trong hồ một lần nữa. Họ cũng đáng để phải chết đuối đấy chứ.
Will chỉ cho cậu các ngôi nhà, sảnh ăn, và trường đấu kiếm.
“Liệu tớ có được nhận một thanh kiếm không?” Leo hỏi. Will liếc nhìn cậu như thể cậu ta nhận thấy ý tưởng đó thật phiền não. “Cậu chắc chắn sẽ tự tạo lấy cho mình, nếu cậu thuộc về Nhà số Chín.”
“Ừm, thế có gì liên quan chứ? Thần Vulcan sao?” “Thường bọn tớ không gọi các vị thần theo tên La Mã,” Will nói. “Các tên gốc được bắt đầu bằng tiếng Hy Lạp. Cha
của cậu là thần Hephaestus.”
“Festus?” Leo đã từng nghe ai đó nói về cái tên đó trước đây, nhưng cậu vẫn bất an. “Nghe như là một vị thần của các anh chàng cao bồi vậy.”
“He-phaestus,” Will chỉnh lại. “Thần của các thợ rèn và lửa.”
cũng đã từng nghe điều đó, nhưng cậu đang cố không nghĩ về nó. Thần của lửa... không đùa chứ? Xét đến những gì đã xảy ra với mẹ cậu, điều đó dường như là một trò đùa rẻ tiền.
“Vậy hình ảnh chiếc búa lửa phía trên đầu tớ,” Leo nói. “Điều tốt, hay điều xấu?”
Will ngừng một lát rồi mới trả lời. “Cậu được thừa nhận gần như ngay lập tức. Thường thì đó là điều tốt.” “Nhưng anh chàng Rainbow Pony đó, anh Butch ấy – anh ta nhắc đến một lời nguyền.”
“À... nghe này, không phải vậy đâu. Vì từ khi người đứng đầu Nhà số Chín chết đi...”
“Chết ư? Như thế nào, có đau đớn lắm không?” “Tớ nên để những người bạn cùng phòng nói cho cậu biết điều đó.”
“Ừm, vậy những người bạn trong nhà tớ đâu? Chẳng phải người đứng đầu của họ nên đưa tớ đi tham quan sao?” “Cậu ấy, ừm, không thể. Cậu sẽ biết tại sao.” Will tiến
về phía trước trước khi Leo có thể hỏi thêm bất cứ điều gì. “Các lời nguyền và cái chết,” Leo tự nói với chính mình. “Mọi việc ngày càng trở nên tuyệt hơn bao giờ hết.” Cậu đang băng qua nửa bãi cỏ thì nhận ra người trông trẻ lúc xưa của mình. Và bà ấy không phải là kiểu người cậu mong chờ nhìn thấy ở một trại á thần.
Leo đứng khựng lại.
“Có chuyện gì thế?” Will hỏi.
Dì Callida. Bà đã tự gọi mình như thế, nhưng Leo đã không gặp bà kể từ hồi cậu đi nhà trẻ. Bà ấy chỉ đang đứng đó, trong bóng râm của một ngôi nhà lớn màu trắng ở phía cuối bãi cỏ, nhìn về phía cậu. Bà mặc một chiếc áo đầm bằng vải linen màu đen dành cho các góa phụ, với một tấm khăn choàng đen phủ hết cả mái tóc. Khuôn mặt bà không thay đổi – làn da nhăn nheo, đôi mắt đen đầy xoi mói. Đôi bàn tay teo tóp của bà trông như những cái móng vuốt. Bà trông già đi, nhưng không khác biệt nhiều lắm so với những gì Leo nhớ được.
“Người phụ nữ lớn tuổi đó...” Leo nói. “Bà ta đang làm gì ở đây thế?”
Will cố nhìn theo ánh mắt của ậu. “Người phụ nữ lớn tuổi nào?”
“Anh bạn, người phụ nữ lớn tuổi. Người trong bộ đồ đen ấy. Có bao nhiêu người phụ nữ lớn tuổi cậu nhìn thấy ở quanh đây?”
Will cau mày. “Tớ nghĩ cậu đã có một ngày thật dài, Leo. Màn Sương Mù có thể vẫn đang đánh lừa trí óc cậu. Chúng ta đi thẳng đến nhà của cậu ngay bây giờ nhé?”
Leo muốn phản đối, nhưng khi cậu nhìn lại về phía ngôi nhà lớn màu trắng đó, Dì Callida đã biến mất. Cậu chắc bà ấy đã ở đó, cứ như thể cậu đang nghĩ về việc mẹ cậu đã mời Callida đến trong quá khứ.
Và điều đó chẳng tốt tí nào, vì Dì Callida đã cố giết cậu. “Chỉ làm rối cậu một chút thôi, anh bạn.” Leo lấy một vài dụng cụ và đòn bẩy từ mấy cái túi ra và bắt đầu nghịch vớ vẩn với chúng để trấn tĩnh các dây thần kinh của mình.
Cậu không thể để cho mọi người ở trại nghĩ rằng cậu bị điên. Ít nhất, không điên hơn con người thật của cậu. “Hãy đi đến Nhà số Chín nào,” cậu nói. “Tớ đã sẵn sàng cho một lời nguyền tốt.”
***
Nhìn từ bên ngoài, nhà của thần Hephaestus trông giống một chiếc RV ngoại cỡ với các bức tường kim loại bóng loáng và những ô cửa sổ giát bằng kim loại. Lối vào giống hệt cửa kho tiền ngân hàng, hình tròn và dày khoảng vài phân. Nó được mở ra với vô số bánh răng bằng đồng đang quay và các pit-tông hơi nước nhả ra khói.
Leo huýt sáo. “Họ có cỗ máy thuộc thập niên bảy mươi đang hoạt động, hử?”
Bên trong, căn nhà có vẻ như không có người ở. Giường ngủ bằng thép được gập sát vào tường như những chiếc giường Murphy công nghệ cao. Trên mỗi giường có một bảng điều khiển số, đèn LED nhấp nháy, những viên đá quý sáng lấp lánh, và những bánh răng cài vào nhau. Leo đoán mỗi một trại viên có khóa số riêng để mở giường, và chắc chắn có một hốc tường đằng sau đó để làm kho, hoặc có thể là một vài cái bẫy để ngăn những vị khách không mong muốn. Ít nhất, đó là cách Leo sẽ thiết kế nó. Một cột cứu hỏa chĩa xuống từ tầng hai, mặc dầu căn nhà dường như chẳng có lấy tầng thứ hai nếu nhìn từ bên ngoài. Một cầu thang hình tròn dẫn xuống một nơi tựa như một tầng hầm. Trên các vách tường chứa đủ các loại công cụ mà Leo có thể tưởng tượng ra, cùng với một bộ sưu tập khổng lồ đủ các loại dao, kiếm, và các phương tiện phá hủy khác. Một bàn làm việc lớn chứa đầy các m kim loại – nào là đinh vít, bu-lông, rông-đen, đinh, đinh tán, và hàng triệu bộ phận
máy móc khác. Leo có ước muốn mạnh mẽ là dọn sạch chúng vào trong các túi áo khoác của mình. Cậu yêu thích những thứ như thế. Nhưng cậu cần có thêm một trăm chiếc áo khoác nữa để chứa hết tất cả những thứ đó.
Nhìn quanh nhà, cậu có thể gần như tưởng tượng ra cậu đã quay trở lại xưởng máy của mẹ cậu. Không có vũ khí, có lẽ thế – nhưng công cụ, các đống phế liệu, mùi dầu mỡ và kim loại cùng những động cơ đang hoạt động. Bà sẽ thích nơi này.
Cậu nhanh chóng thoát khỏi ý nghĩ đó. Cậu không thích những ký ức đau buồn. Tiếp tục tiến lên nào... đó là phương châm của cậu. Không chăm chú vào điều gì. Không ở một nơi quá lâu. Đó là cách duy nhất để thoát khỏi sự buồn bã.
Cậu nhấc một dụng cụ dài trên tường. “Một dụng cụ cắt cỏ ư? Thần lửa muốn làm gì với dụng cụ cắt cỏ nhỉ?” Một giọng nói vang lên từ trong bóng tối,“Cậu sẽ ngạc nhiên cho xem.”
Từ phía sau căn phòng, một trong những chiếc giường đang được sử dụng. Một tấm màn với chất liệu vải ngụy trang màu đen được kéo lùi lại, và Leo có thể nhìn thấy một cậu trai, người vừa mới tàng hình một giây trước đây. Thật khó để nói nhiều về cậu ta vì toàn bộ cơ thể cậu ta bị phủ kín băng chỉnh hình. Đầu cậu ta được quấn gạc chỉ chừa ra khuôn mặt sưng húp và thâm tím. Cậu ta trông như anh chàng Pillsbury Dough Boy(5) sau khi bị đánh.
“Tớ là Jake Mason,” cậu chàng nói. “Tớ sẽ bắt tay cậu, nhưng...”
“Ừm,” Leo nói. “Đừng ngồi dậy.”
Anh chàng đó nở nụ cười, rồi cau mày lại như thể chỉ
chuyển động mặt thôi cũng đủ làm cho cậu ta đau đớn. Leo tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với cậu ta, nhưng cậu ngại phải hỏi điều đó.
“Chào mừng cậu đến Nhà số Chín,” Jake nói. “Đã gần một năm kể từ khi chúng ta có một đứa trẻ mới. Vào thời điểm này tớ đang là người đứng đầu.”
“Chỉ trong thời điểm này thôi sao?” Leo hỏi.
Will Solace hắng giọng. “Vậy mọi người đâu rồi, Jake?” “Đang ở các xưởng rèn,” Jake nói đầy tiếc nuối. “Họ đang làm việc... cậu biết đó, vấn đề đó.”
“Ồ.” Will thay đổi chủ đề. “Vậy, cậu có một chiếc giường trống dành cho Leo chứ?”
Jake xem xét Leo cẩn thận, đánh giá cậu. “Cậu tin vào các lời nguyền không, Leo? Hay những hồn ma?” Tôi vừa mới nhìn thấy người trông trẻ tà ác Dì Callida của mình, Leo nghĩ. Bà ấy ắt hẳn đã phải chết sau từng ấy năm. Và tôi không thể trải qua một ngày mà không nhớ đến mẹ tôi trong xưởng máy bị cháy đó. Đừng nói với tôi về những con ma, anh chàng bột nhào kia.
Nhưng ngoài miệng, cậu nói,“Ma ư? À. Ừ. Tớ ổn thôi. Một tên tinh linh bão đã thả tớ xuống Grand Canyon vào sáng nay, nhưng cậu biết đấy, đó chỉ là chuyện thông thường vẫn làm hằng ngày thôi, đúng không?”
Jake gật đầu. “Điều đó thật tốt. Vì tớ sẽ cho cậu chiếc giường tốt nhất trong nhà – giường của anh Beckendorf.” “Ối, Jake,” Will nói. “Cậu chắc chứ?”
Jake gọi lớn tiếng. “Giường I-A, làm ơn.”
Cả ngôi nhà rung lên bần bật. Một khu vực hình tròn trên sàn nhà di chuyển theo đường xoắn ốc mở ra như một thấu kính máy ảnh, và một chiếc giường lớn xuất hiện.
"""