🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bút nghiên Ebooks Nhóm Zalo Bút nghiên Chu Thiên Nhà xuất bản Á Châu 1952 Nguồn: tve-4u.org PHẦN THỨ NHẤT Chương I - Tâm ơi, về Thầy bảo kia kìa! Đương ở trên cây ổi, nghe có tiếng gọi, Tâm vội tụt xuống gốc cây, chị Tâm đã dọa: - Chết a. Thầy đang tìm đấy a! Cho chết, về mau! Có thầy đồ sắp sửa mổ bụng mày! Tâm khép nép về đến cửa. Thầy Tâm bảo: - Con về chào thầy đồ đi, mai sang thầy dạy học. Mau ngoan! Tâm chắp tay vái chào, rồi đứng tựa vào tường và giương mắt nhìn ông khách. Khách là một ông đồ đến ngồi dạy học ở làng, bạn với ông lý Tưởng, thầy Tâm. Mỗi bận ông đồ đến chơi, ngồi nói chuyện hàng giờ, Tâm vẫn phải đứng hầu điếu đóm và việc vặt. Tâm cho là thường. Nhưng hôm nay, Tâm thấy khác. Ai cũng đều chăm chú đến mình, như đã bàn nhau cái gì ấy. Làm cho Tâm bẽn lẽn đứng lùi dần nép vào xó cửa. Chị Tâm bưng nước lên, nhìn thấy, vội hỏi: - Sao không đứng ra ngoài kia nào? Tâm lẩm bẩm: - Thèn thẹn bỏ bố đi ấy! Rồi Tâm cứ đứng yên lắng tai nghe hai người nói chuyện với nhau. Thầy Tâm nói trước: - Tôi định mai làm lễ “vỡ lòng” cho cháu, rồi sang nhờ bác dạy hộ. Cháu nó nghịch lắm. Bác cứ đánh cho. Ông đồ hỏi: - Cháu năm nay lên mấy? - Nó lên sáu, đẻ tháng hai, nên hồi Tết định “vỡ lòng” cho cháu, nhưng sợ tháng bào thai(1), mà để đến sang năm lên bảy thì lại kiêng tuổi thần đồng. - Được bác ạ, cho nó học sớm ngày nào hay ngày ấy. Nó cũng đã cứng rồi. Để chơi rông lêu lổng, nó nghịch ngợm hư thân đi, sau này khó bảo. - Vâng, bác dạy phải lắm. Thế mai chúng tôi sửa lễ rồi mời bác sang tác thành cho cháu. - Vâng, mai tôi xin sang. Ông đồ đứng dậy ra về. Ông lý Tưởng tiễn chân ra đến cổng. Lúc giở về, thấy Tâm còn đứng dựa tường, ông cười bảo: - Cho đi chơi hết ngày hôm nay, mai phải đi học. Tâm chạy ra vườn, nhưng không thiết gì chơi nữa, trong bụng vừa buồn vừa lo. Buồn sẽ không được mỗi ngày nô đùa chạy nhảy, leo cây này, trèo cây nọ, tìm hoa kiếm quả về tế đình và chia phần. Lo không biết đi học rồi ra thế nào; học là một việc rất khó, bài không thuộc, ông đồ cứ lấy roi mây mà vụt cho thì chết! Tâm rất bối rối. Thẫn thờ, Tâm chạy ra thăm cái đình của Tâm làm ở sau nhà. Cái đình bằng hai hòn gạch dựng và lợp một hòn gạch nằm ngang. Ở trong, trên hòn gạch để làm bệ, một cái chén con đựng tro lổng chổng mấy que hương, là nơi thờ thánh. Bên ngoài bát hương nhỏ ấy, bày một củ khoai lang nướng. Tất cả lễ vật tế buổi trưa mà làng chưa chia phần. Tâm ngồi xuống cúi đầu nhìn vào đình với một vẻ thành kính rõ rệt. Tâm băn khoăn nghĩ mà lo rồi đây mình đi học, con Vân, con Tẹo bên hàng xóm có quét tước cúng tế ở đình cho được chu đáo không, không thì thánh giận cho chết! Tâm chán ngán, lững thững ra đứng ở gốc cây bưởi, tay vịn vào cành mà chân không muốn trèo lên như mọi bận! Vừa lúc ấy chị Tâm đang hái chè liền đấy, trông thấy Tâm, vội reo lên: - A! A! A! Tình tính tang! Mai có đứa bị mổ bụng nhét chữ vào! Vỡ lòng là mổ bụng nhét chữ vào! Tâm càng thêm lo sợ, cứ vẩn vơ chỉ chực khóc, vội chạy sang hỏi thím ở nhà bên cạnh. Bà thím lại cười nói oang oang: - Thôi chết, thế là hết nô đùa! Ngày mai ông đồ đến, ông ấy mổ bụng ra như mổ bụng con gà ấy, rồi ông ấy nhét cả quyển sách vào. Làm cho Tâm sợ hết hồn, không biết làm thế nào mà tránh được, cứ quẩn vào với mẹ. Chúng nó cười, chúng nó chế, chúng nó nói xấu. Tâm không nhịn được òa lên khóc. Mẹ Tâm chửi toáng lên rồi ghí dỗ mãi, Tâm mới nín, nhưng Tâm vẫn nắc nỏm lo hoài. Đến lúc thầy về khuyên giải và đánh những đứa nói láo, Tâm hơi yên bụng. Rồi Tâm thiếp ngủ đi lúc nào không biết. * * * Sáng hôm sau, Tâm không ngủ trưa nữa. Tâm dậy sớm để mà lo. Ở dưới nhà, người ta đồ xôi và làmthịt gà. Trên nhà trần thiết sang trọng như một ngày có giỗ vậy. Thầy Tâm đặt một cái án thư ở giữa nhà, trên bày hai cái ống hương, ba cái đài sơn và một cây đèn dầu nam, Thấy bảo đấy là thiết lập bàn thờ Đức Thánh. Biết vậy! Mâm xôi trắng muốt với con gà béo vàng, ngẩng mỏ ngậm chiếc hoa hồng đã đặt trên bàn coi rất ngon. Nhưng Tâm không dám nghĩ đến ăn. Vì ông đồ đã đến. Tâm còn mải sợ lưỡi dao của ông. Người thế mà ác! Sao lại hay mổ bụng trẻ con. Tâm tấm tức nghĩ vậy. Trông trên bàn khói hương nghi ngút, cứ cuồn cuộn lên rồi lại toả lan ra, Tâm thấy trong lòng càng thêm nao núng, lại cả đĩa muối và con dao sáng loáng kia nữa! Thôi chính họ mổ bụng thật rồi. Càng nghĩ Tâm càng bối rối hãi hùng, biết cầu cứu vào đâu bây giờ. Mọi khi hơi có việc gì là chạy ngay đến với mẹ hay làm nũng với cha. Nhưng chuyến này, chính cha mẹ chủ tâm làm thế thì đành chịu, chứ biết kêu ai? Thôi cũng liều, có đau rồi cũng phải khỏi, đã chết đâu mà sợ! Tâm chăm chăm nhìn ông đồ từng ly, từng tí. Ông lễ bốn lễ trước bàn thờ, vái rồi quỳ, chắp tay giơ lên ngang trán, miệng lâm râm khấn. Đoạn ông cầm bút vẽ ngòng ngoèo bốn cái bùa lên tờ giấy trắng, để lên bàn thờ, quỳ khấn nữa, sau rốt, ông lại lễ bốn lễ. Rồi ông đem đốt tờ giấy, lấy than hòa với nước lã đưa cho Tâm uống. Như một bệnh nhân, mong chóng khỏi bệnh, uống thuốc một vẻ ngon lành, Tâm mạnh bạo uống một hơi hết cả chén. Ông đồ bảo Tâm vào lễ bốn lễ, Tâm không rụt rè làm theo lời ngay. Rồi ông đồ lấy ở trên bàn thờ xuống một cái bút mới, đĩa son vừa mài sẵn, và một quyển sách mới đóng có cái bìa đánh nhựa cậy dày cồm cộp. Ông nằm soài xuống giường, hai gối giáp vào bụng, hai chân song song soải đều về bên phải. Ông dí ngòi bút vào mồm, nhấm nhấm cái đầu nhọn, rồi chấm vào đĩa son lấy ra viết những chữ đỏ lên trên giấy trắng ngà ngà. Viết xong, ông bắt Tâm ngồi xếp bằng xuống chiếu, trước bàn thờ, hai chân gập lại, và ông chỉ tay vào từng chữ bảo Tâm học: - Thiên tích thông minh (Giời phú cho thông sáng). - Thánh phù công dụng (Đức Thánh giúp cho có công nghiệp ích dụng ở đời!). Tâm chăm chăm nhìn nét chữ và học rắn rỏi, được ông đồ khen: - Thằng bé học bạo dạn lắm, tất sau này học được! Đương học, Tâm sực nhớ đến con dao, vội ngước mắt nhìn lên bàn thờ thì xôi gà và dao đã chuyển đi cả rồi, Tâm lại cắm đầu học. Mâm cỗ đã đặt lên giường, Thầy Tâm, bác Tâm và ông đồ đã khề khà rượu. Tâm vẫn ngồi học tiếng to và trong, rất rõ ràng. Mọi người đều khen Tâm ngoan ngoãn mạnh bạo hơn các trẻ khác. Có ngờ đâu, chỉ vì sợ mổ bụng Tâm mới được như vậy. Bác Tâm đã ngấm hơi rượu, oang oang nhủ Tâm: - Cố học đi cháu ạ, cố học giật lấy cái “cử nhân” để rồi làm tiên chỉ làng này mà ăn thủ lợn! Ông đồ thêm: - Học thi đỗ làm quan, tước lộc vua ban thầy cũng được nhờ. Rồi mọi người cùng cười. Ông đồ cho Tâm nghỉ đi ăn cơm. Tâm lanh lẹn gấp sách lại, đứng dậy toan đi ngay xuống nhà thì ông lý Tưởng đã gọi đứng lại, bắt xin phép và mời mọi người đã. Tâm chắp tay, nói một câu đã quen: - Con xin rước thầy đồ, bác với thầy mời rượu, con xin phép xuống nhà ăn cơm ạ! Ông đồ ưỡn ngay người lên, xoa tay vào đùi, ra vẻ bằng lòng lắm, nói: - Ừ, cho xuống. Tốt lắm! Tâm đã ra đến cửa. Nhưng cái ý nghĩ con dao mổ bụng chưa thoát hẳn. Tâm lại giở lại rón rén, ngập ngừng, ông lý liền bảo: - Sao chưa đi ăn cơm? Con quên cái gì thế? Tâm chắp tay run sợ ấp úng nói: - Thưa thầy đồ, có phải mổ bụng không ạ? Mọi người đều phá ra cười rũ rượi. Cả những đầy tớ đứng hầu đấy. Những người ở nhà dưới không hiểu gì cũng phải chạy cả lên xem. Im tiếng cười, ông đồ mới ôn tồn nói: - Ai bảo con thế? Không phải đâu. Vỡ lòng là làm lễ Đức Thánh Khổng Phu Tử, rồi bắt đầu học, vì chữ là chữ của Ngài. Một chữ của Thánh là một gánh vàng, nên đi học là phải trình Ngài trước, chứ có phải mổ bụng đâu! Còn ông lý mắng bâng quơ: - Quân ranh, chỉ nói láo cho em nó sợ. Thôi xuống ăn cơm con! Thế là xong. Thế là thoát nạn! Nào chị, nào thím, nào hàng xóm, nào người nhà, họ chỉ nói láo dọa trẻ con để Tâm sợ hoảng hồn. Chứ làm gì có mổ bụng? Tâm vui vẻ xuống nhà. Tâm vui vẻ ăn cơm. Bây giờ Tâm không lo nữa. Tâm lại thích đi học kia. Chị Tâm bây giờ lại chế lối khác: - Ê, lêu lêu! Tam tự kinh là rình bú mẹ. Nhân chi sơ là sờ vú mẹ. Tính bản thiện là miệng muốn ăn. Tâm nguây nguẩy cãi: - Không phải thế kia! Không phải thế kia! Đồ nói điêu! Chương II Quá trưa, Tâm được đưa đến nhà trường. Nhà trường là nhà ông cựu Mẫn, cựu lý trưởng, ở giữa làng. Qua cái cổng ngăn tức là cái cổng có mái lợp, có hai cánh gỗ, qua cái sân lát gạch là vào đến trường. Nhà trường là một cái nhà gỗ lợp gianh dài năm gian, ba gian có chuồng cửa bức bàn, còn hai gian bên là cửa sổ. Ở gian giữa kê bàn thờ, trên có cỗ ỷ và các đồ thờ sơn son thiếp vàng chói lọi. Ngoài che một bức rèm khâu dính bằng hai đôi câu đối vóc người ta mừng khi ông cựu làm lý trưởng. Trước bàn thờ, một bộ trường kỷ quang dầu bóng lộn. Gian bên trái, kê một cái giường giải chiếu hoa, trên để cái tráp sơn đen bóng, một đĩa son, một ống sứ đựng bút, một cái gối, một cái khay chén, một ấm nước, một cái roi mây dài đưỡn đượt nằm ngang trên giường: đấy là chỗ ông đồ ngồi. Ở gian bên, một dãy phản kê liền nhau sát tận vách, chạy suốt từ cửa sổ trước đến cửa sổ sau, để học trò ngồi. Đằng gian bên phải, cũng một dãy phản kê sát nhau như vậy. Tâm đến sớm nhất, ông đồ chỉ Tâm ngồi vào góc phản liền với cửa sổ sau. Tâm ngồi xếp bằng gọn ghẽ, định thần ngắm nghía mọi nơi. - Lạy thầy! - Lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! - Bẩm lạy thầy ạ! - Thưa thầy! Những học trò lục tục đến chắp tay lên ngực vái chào. Chúng ngồi vào chỗ, giở sách vở, mở cái ống tre, dốc ra nào bút, nào mực… Lấy nghiên, đổ ít nước vào mài mực, rồi nằm soài liền nhau rất thẳng, thành hai hàng, châu đầu vào nhau, cắm cúi viết. Tâm cũng nằm soài tô những nét son của ông đồ viết ở vở. Tâmlóng ngóng hai lần đánh rơi cây bút rây nhẹt cả mực ra vở, rồi dần dần quen đi! Tâm cố hết sức tô cho kín nét ngang, nét sổ, nhưng sao vẫn trật ra ngoài. Học trò đến đông đủ nằm đặc cả phản, nói chuyện ồn ào. Thỉnh thoảng có đứa nói đến tên Tâm, buông một câu bâng quơ để chòng ghẹo. Tên nào viết xong thắp bút lại, bỏ vào ống tre đậy nắp, đút nghiên xuống gầm giường, rồi bước qua những đứa khác, đem vở lên cho ông đồ chấm. Ông lấy bút son khuyên những chữ đẹp, sổ những chữ xấu, rồi phê điểm. Đứa nào viết xấu lắm là y như bị những roi mây vào đít vào đầu. Có đứa bôi bẩn quá không thể trông được, phải dần tay kêu giời kêu đất, lạy lấy lạy để, mà cũng không được tha. Úp bàn tay xuống để người ta lấy cán dùi hay chuôi dao mà đè lên trốc dần đi dần lại, ai mà chả đau, ai mà chả khiếp! Tâm mới đi học, chưa phải đòn như thế mà sợ quá đi mất, không dám nhìn mặt ông đồ. Đấy là dãy học trò trẻ con bé như Tâm giở lên đến mười một mười hai. Còn dãy phản đằng gian cùng bên kia, toàn học trò lớn đang cắm cổ viết, tha hồ nói chuyện, ông đồ mặc kệ, không lại nơi họ. Tự nhiên Tâm ao ước được nhớn như những anh học trò ấy, để được tụ họp với họ, xa con mắt và cái roi của ông đồ. Học trò viết lách đã xong tất cả, xếp gọn vở lại, rồi ngồi dậy mở sách ra học. Chúng thi nhau kêu rõ to, để chóng thuộc. Ồn như cái chợ. Tâm vẫn “kêu” hai câu học ban sáng. Nhưng mải nhìn xem chúng nó học, Tâm quên ngay đi mất. Tâm lo sợ không dám hỏi ông đồ, vội phải bẹo thằng Bích ngồi cạnh để hỏi. Thằng Thân ngồi bên này thấy vậy liền chỉ tay lên mọi chữ bảo: - Học đi! “Thiên tích thông minh. Thánh phù công dụng”. Thằng Bích gọi giật: - Tâm ơi Tâm! Nó bảo láo đấy, mày phải đòn mày chết. Cái thằng Thân kia chỉ bảo láo nó thôi! Đây mày nghe tao dạy: - Thiên tách thong manh, thánh phò chỏng gọng! Giữa lúc ấy, véo véo, hai roi mây vụt xuống lưng một tên học trò ngồi gần đấy. Tên ấy quằn quại, hai tay xoa lưng, mặt nhăn nhó, nước mắt chạy quanh. Thằng Bích lại nhanh nhẩu nói thêm: - Đấy mày mà học sai cũng phải đòn như thế. Thằng Mẫn nó học chữ nọ xọ chữ kia, thầy đánh đấy. - Thằng Bích nó xui dại đấy, đừng nghe! Thằng Thân nói vậy rồi lại ngửa mặt gào chữ. Sợ không dám đến hỏi ông đồ, Tâm băn khoăn không biết nên tin đứa nào. Định hỏi đứa khác, nhưng chúng còn mải học. Tâm lẩm bẩm nghĩ một lúc: - À phải rồi có “gáy phò” thì mới “nằm chỏng gọng”! Rồi Tâm cũng cố đỏ mặt gào: - Thiên tách thong manh ư! Thánh phò chỏng gọng. Chợt ông đồ gọi: - Tâm! Thiên tích thông minh. Thánh phù công dụng, chứ! Tâm giật nẩy mình, vừa học bé tiếng lại vừa chửi: - Mẹ mày Bích ạ! Mẹ mày xui ông! Thằng Bích khì khì cười rồi thè lưỡi nhăn mặt nạt lại Tâm. Ông đồ trông thấy cầm roi vụt đánh vèo một cái, thằng Bích giãy người lên, mặt sa như cái thớt, ngồi khóc ti tỉ. Mặt giời đã lặn. Sắp tối đến nơi, gà đã về đặc sân sắp sửa lên chuồng. Học trò gấp sách lại, cắp lên nách, tay cầm ống bút, tay cầm nghiên, đi ra cửa vái chào ông đồ: - Lạy thầy, con về! - Lạy thầy, con về! Rồi ùa nhau chạy tản mát như đàn chim sẻ tán về các lối. * * * Sáng hôm sau, Tâm đến trường, đã đông đủ học trò. Buổi học sắp sửa bắt đầu. Học trò vây quanh giường ông đồ vòng trong vòng ngoài. Những đứa bé ngồi sát, để sách lên giường còn các trò lớn đứng quanh quẩn ở ngoài. Một đứa mang đĩa son ra bể lấy nước mài đã về, để đĩa son lên giường. Màu son đỏ tươi phủ kín đĩa lố nhố những bóng bọt nổi lên trông rất đẹp. Hòn son nhẵn thín nằm gọn lỏn ở giữa đĩa như hòn núi giả trong cái bể con. Ông đồ cầm lấy bút, dầm ngòi vào nghiên son lấy ra chấm sách. Tay ông thoăn thoắt điểm rất nhanh. Thỉnh thoảng ông sổ một cái ngắn, hay khuyên tròn nhỏ như cái cúc. Một chồng sách cao để trước mặt ông phút chốc đã hết. Đoạn ông viết mấy bài mới cho những đứa trẻ mới học. Rồi buổi học bắt đầu. Đứa ngồi gần chỉ tay vào sách, đứa đứng ngoài chĩa sách vào, chúng thi nhau hỏi, tranh nhau hỏi, đứa nọ cướp lời đứa kia: - Thưa thầy chữ gì đây? - Bẩm thầy câu này nghĩa là gì? Ông đồ ngảnh đi ngảnh lại, miệng nói, tay trỏ luôn luôn không ngớt, lắm lúc mồm bắn cả nước bọt ra. Tâm thỉnh thoảng trố mắt nhìn ông đồ và lũ học trò, có cảm tưởng đứng nhìn một đàn chim con thấy mẹ về, nghển cổ đòi ăn vậy. Thế mà có đứa hỏi ba bốn lần mới được một câu. Lác đác vài đứa ở xa đến trễ, ông đồ ngừng lại, chấm sách, trong khi học trò vẫn học ồn ào. Tâm may được ngồi gần ông đồ, học bài mới, ông chỉ tay bảo luôn không phải hỏi, Tâm rang rảng học: - Thượng đại nhân, thánh ất dĩ, hóa tam thiên, thất thập sĩ. Nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử, giai tác nhân, khả tri lễ dã (đại ý nói: vị thánh nhân ngày trước dạy ba nghìn học trò được bảy mươi người tài giỏi. Lũ chúng bây, bây giờ còn nhỏ, lên bảy lên tám tuổi, học mà làm điều nhân, như thế khá là biết lễ vậy). Bỗng có tiếng roi đập luôn mấy nhát xuống giường ra hiệu im. Tất cả đều thôi học và lặng lẽ ngoảnh mặt ra cửa. Một người đàn bà tất tả vào láu táu thưa: - Bẩm lạy thầy, thằng Bân nhà cháu trốn học lười lắm, lại ương ngạnh nữa, về nhà bảo không nghe, cháu đã lôi lại được đây. Xin thầy đánh cho nó chừa, chúng cháu được nhờ. Tâm trông ra thấy thằng Bân đang khóc sướt mướt trong tay mẹ nó. Còn ông đồ thì mặt đỏ bừng, mắt ông long lên, ông bảo bà kia rằng: - Được bà cứ về, để nó đấy tôi. Rồi ông sai ba đứa học trò lớn lôi thằng Bân vào nọc căng xác ra. Một thằng đè đầu, một thằng kéo hai chân, một thằng giữ quặt hai tay lên lưng. Bân nằm như con ếch ở dưới đất, mông đít trật ra để nhận lấy những roi: Vút! Vút! Roi cứ luôn luôn vút xuống đít, những cái lằn roi nổi lên như những con đỉa đui! Bân quằn quại khóc không ra tiếng nữa. Cả trường đều im lặng, ai nấy đều sợ hãi, nhất là Tâm. Khi ông đồ vụt đã mỏi tay và đã thay hai roi rồi, Bân chì còn ức ức không nói được câu “Lạy thầy con xin chừa” ông đồ mới thôi đánh, cho Bân đứng dậy, bắt lễ bốn lễ rồi mới cho về chỗ ngồi. Bân chập choạng đứng lên như người say rượu, lễ xong bò về xó nhà, còn nức nở khóc mãi. Học trò lại bắt đầu học: - Thưa thầy chữ gì đây ạ? - Bẩm thầy chữ minh nghĩa là gì? Ông đồ bảo: - Minh là sáng. Thông minh là thông sáng. Chúng lại thi nhau hỏi, ông đồ lại mỏi mồm bảo. Trong trường lại ồn ào như chim vỡ tổ. Tâm cũng cố học, nhận lấy bài mới: - Thượng đại nhân, Thánh ất dĩ… Tâm chợt nhớ hôm rằm tháng giêng vừa rồi đi xem hát chèo, bọn phường chèo cũng học bài như thế, mà sao chúng học vần vần là kia, Tâm hãy còn nhớ. À, phải rồi, hay là chúng học cả nghĩa. Tâm cũng thuận mồm học theo: - Rước Vua đi trước là Thượng đại nhân, quần thần theo sau thánh ất dĩ, hai bên thủ thỉ là nhĩ tiểu sinh, quan viên tế đình là khả tri lễ dã. Mọi học trò và cả ông đồ đều phá ra cười. Ông đồ hỏi Tâm: - Ai bảo mày thế? Tâm sợ tái mặt thưa: - Bẩm thầy con học nghĩa. - Nhưng ai dạy mày? - Bẩm thầy con học phường chèo! Lại một chập cười nữa, một tiếng roi đập mạnh xuống giường, hết thẩy đều im. Ông đồ nghiêm trang dõng dạc nói: - Từ đây hễ chữ nào không biết phải hỏi. Không được học láo. Hễ học sai là mười roi này, nghe chưa? Tâm run run thưa: - Lạy thầy, vâng ạ. Chương III Hôm sau, Tâm đến trường được học sang bài mới, bài bắt đầu trong sách Tam tự: Tam tự kinh Nhân chi sơ Tính bản thiện Tính tương cận Tập tương viễn (Sách ba chữ Người chưng xưa Tính vốn lành Tính cùng gần Tập cùng xa)2 Tâm học ngoan ngoãn rõ ràng, ai cũng phải chú ý. Tâm cẩn thận từng tí, không dám sai thú điều gì thầy bảo. Mối lo sợ của Tâm cứ mỗi lúc mỗi tăng, khi thấy những trẻ bị đòn phạt. Nhất là những đứa không thuộc bài bị phạt “luồn khố”. Một đứa nhất đứng dạng cẳng, ở dây lưng buộc thõng xuống hai quả sung hay hai quả cà. Đứa bị phạt phải ngồi xuống ngẩng mồm đớp hai quả, rồi chui đầu sang bên kia, trong khi đứa thứ nhất cầm roi vụt mạnh vào lưng vào đít và hỏi: - Từ rày mày có thuộc bài không? - Bẩm có ạ. Chui đi chui lại hai lượt, đớp quả hai lượt, và bị đánh hai lượt, thế là xong cái tội “luồn khố”. Thực là nhục nhã, thực là xấu hổ. Đi học mà như vậy thà chết quách đi, học làm gì? Tâm nghĩ thế nên quyết chí học thật thuộc, thật giỏi, không để bao giờ bị phạt. Nghĩ vậy nên về đến nhà Tâm mang ngay sách ra học rang rảng: Tam tự kinh Nhân chi sơ Tính bản thiện Tâm vừa học thì chị Tâm vin ngay lấy câu ấy mà chòng: - Tam tự kinh là rình bú mẹ, sắp sửa vào bú mẹ bây giờ. - Nhân chi sơ là sờ vú mẹ, mân mê để mà bú. - Tính bản thiện là miệng muốn ăn, suốt ngày chỉ vòi ăn. Tâm một mực cãi: - Không phải thế kia! Không phải thế kia! Nhưng tất cả người nhà, đầy tớ, bà thím, bà bác đều hòa với chị Tâm mà chế giễu, Tâm không chịu được, chửi toáng tất cả, rồi òa lên khóc, bỏ không học nữa. Tâm khóc ti tỉ mãi. Ông lý Tưởng đi đâu về ghí Tâm và hỏi đầu đuôi, đánh cho chị Tâm một trận, rồi bế Tâm đi ngủ. Sáng hôm sau Tâm tới trường, bài không thuộc, nghĩ đến tội “luồn khố” mà lo. Tâm cố học nhẩm mãi mà vẫn không thuộc. Đến lúc ông đồ gọi lên đọc, Tâm cứ đứng đực người ra. Ông đồ nghiêm nghị trừng mắt bảo: - Thế chữ mày để đâu cả? Cuống quít, thầy hỏi, Tâm vội đáp: - Bẩm thầy chữ con để ở nhà ạ! Cả bọn học trò phá lên cười. Tâm thẹn quá cúi gầm mặt xuống, tay mân mê cuộn gấu áo. * * * Nhưng xấu hổ nhất đối với Tâm có lẽ là lần đầu tiên phải quét nhà! Nhà trường mỗi ngày phải hai lượt quét, buổi sáng và buổi chiều. Công việc ấy giao cho những đứa bét ở lớp trẻ con. Buổi sáng thì bài học, buổi chiều thì chữ viết. Đứa nào học quên mất nửa bài thì phải luồn gầm giường để soi móc cho sạch. Tâm đã quyết chí học bài nào cũng thuộc nên luôn một tháng không lần nào bị phạt. Chữ tô đẹp, bài học thuộc. Tâm chỉ nhận được những lời khen lao. Nhưng học ròng rã luôn một tháng giời không được nghỉ ngày nào, chỉ lo với sợ, Tâm đã thấy chán, nhớ những buổi nô đùa thỏa thích khi trước, Tâm buồn rầu than thở cho số phận học trò. Ai đời, đi học cặm cụi mãi suốt ngày đêm vào sách vở mà vẫn phập phồng lo sợ, không lúc nào rảnh thì có khổ không? Khổ hơn bác cu Tẹo đi cày, khổ hơn con ở đun bếp thổi cơm, chăn trâu cắt cỏ! Chúng còn có lúc rỗi, có lúc chơi, và hết việc hôm nay không lo gì đến ngày mai! Tâm thì cứ phải lo nối nhau mãi mãi… May sao, hôm mùng tám tháng tư ngày “Bụt sinh Bụt đẻ”, ở chùa và ở đình làng, người ta bày đàn lễ “cầu mát” tiễn quan ôn, nhà ông Cựu Mẫn đến lượt “đương cai” các học trò đều được nghỉ cả ngày! Tâm mừng quá, sáng tinh sương, Tâm đã chạy ra đình xem đàn, và thuyền rồng, voi ngựa mũ mã, hình nhân. Tâm mãi chơi suốt cả ngày, chỉ về ăn cơm bữa trưa. Tối lại lên chùa xem “tắm Phật”. Khuya về mệt quá, Tâm đi ngủ ngay, không nhìn đến bài. Sáng hôm sau, Tâm ở nhà ra đi, ngần ngừ mãi để chờ gặp đàn ông cho may. Nhưng rủi thay, lúc ra đến ngã ba lại gặp ngay cô đĩ Tít, Tâm vừa tức và càng thêm sợ. Đến trường, tuy học bài mới mà Tâm vẫn mở lại nhẩm qua bài cũ. Nhưng vẫn không thuộc. Đến lúc đọc, Tâm chỉ đọc lõm bõm được mấy câu, rồi tay mân mê cuộn áo, mắt cứ chớp chớp trông lên sà nhà! Ở ngoài chúng nó reo: - A ha, thằng Tâm không thuộc. Ông đồ trừng mắt hỏi: - Tại sao mày không thuộc? Hôm qua lại mải chơi phải không. Hai ngày một bài mà ngắc ngứ. - Bẩm thầy không ạ. - Thế sao không thuộc? - Bẩm tại con gặp cô đĩ Tít. Học trò đều cười, ông đồ cáu, vụt Tâm một roi và hỏi: - Mày nói láo, gặp cô ấy làm sao lại không thuộc bài? Tâm sụt sịt giơ cánh tay lên mặt thưa: - Bẩm thầy, con học kỹ rồi, nhưng gặp cô ấy dông, nên đến lúc đọc lại quên mất. Mặc dầu, Tâm cũng bị phê chữ “liệt” vào sách như thường và phải quét nhà luồn gầm giường! Đến lúc sắp tan, lũ học trò giục: - A ha! Thằng Tâm phải quét nhà. Sao không đi lấy chổi quét đi mau lên? Tâm còn đứng ngần ngại thè lưỡi chửi lại bọn học trò. Tưởng bé mọn, ông đồ tha cho cái phạt khó nhọc ấy, nhưng thằng cu Tạo, xưa nay vẫn bị quét nhà luôn, đứng lên thưa: - Bẩm thầy thằng Tâm nó không quét nhà! Ông đồ đang cắm đầu viết vội mấy quyển vở tô, ngẩng lên hỏi: - Sao thằng kia lại không đi quét nhà? Hay muốn phải đòn? Cuống quít, Tâm vội chạy xuống nhà dưới lấy cái chổi lên phe phẩy quét từ đầu đằng kia lại. Ở nhà, Tâm không phải quét thế bao giờ nên cầm đến cái chổi, tay cứ luống cuống quét chỗ nọ tạt sang chỗ kia. Lại thêm chúng nó kéo đàn chạy theo sau, hạch sách từng ly từng tí, bắt rúc hẳn vào gầm giường, bắt soi hẳn vào chân phản. Rồi ở ngoài chúng nó khúc khích cười. Tâm loay hoay hì hục mãi mới ra khỏi một gầmgiường, mặt đỏ bừng, mũi thò lò chảy ra. Tâm đứng ngay người lên, trông cái nhà rộng năm gian mà chán, quét đến bao giờ cho xong. Tâm nghĩ: - Thế này ỉa vào đi học nữa! Nhưng chúng nó lại giục, Tâm lại khom lưng cắm đầu quét. Lâu lâu học trò tản mát về dần. Còn mấy đứa ranh mãnh ở lại để trông coi Tâm quét nhà cho sạch. Đến mãi trưa rặt. Tâm mới quét xong, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm cả áo, cắp sách ra đến cổng, trông thấy người nhà đứng đón, Tâm òa lên khóc, mấy đứa trẻ cùng về thấy vậy, được thể reo: - Ê, ê, ê! Lêu Lêu, có đứa bị chui vào gầm giường! Quét nhà chui gầm giường, a, a! Tâm tức quá, vừa khóc vừa phát khùng: - Ông ỉa vào, ông không đi học nữa! Xem chúng mày còn chế vào đâu nữa! Chương IV Cuối tháng tư. Ngoài đồng những bông lúa đã là là trĩu xuống, đổ màu vàng nhạt. Lác đác đã có người gặt. Trường cũng sắp nghỉ mùa để ông đồ về nhà trông gặt và để cho ông chủ, ông cự Mẫn dọn nhà dựng lúa. Hôm nay là hai mươi tháng tư, buổi học cuối cùng đã định vào hai mươi nhăm, nhưng đã có đứa xin nghỉ từ hôm rằm. Nhất là bọn học trò nhớn, phần nhiều nghỉ về đi gặt thuê. Ở trường, buổi học có vẻ rời rạc. Những đứa tinh nghịch ranh mãnh đã vắng cả rồi. Học nghĩa xong sớm, vì thưa người dễ học, bọn học trò túm năm tụm ba nói chuyện bàn về nghỉ mùa, về tết thầy đồ, Tâm cũng mon men lại gần nghe lỏm. Thằng Bích trông thấy Tâm đến, vội gọi lại: - Tâm ơi Tâm, bao giờ mày nghỉ mùa? Tâm cười đáp lại: - Tao à, tao bao giờ trường nghỉ, tao mới nghỉ. Thằng Bích có vẻ buồn rầu nói: - Tao hết ngày hôm nay, tao phải nghỉ rồi! - Sao mày nghỉ sớm thế? - Tao nghỉ sớm để giữ em cho mẹ tao đi gặt thuê nhà ông Bá Nghị lấy tiền tết thầy đồ. Thằng Cân, thằng Bân đều nói vào: - Tao cũng vậy. Học hết ngày hôm nay là tao nghỉ, chỉ có thằng Tâm, thằng Chắt, thằng Ngọc với cậu Quý, con ông Bá là được học mãi thôi nhỉ, vì nhà họ khá. Tâm không hiểu, liền hỏi: - Lại phải tết ông đồ nữa kia à? Tết thế nào? Thằng Bân lau láu gắt: - Mày ngu lắm. Không tết thì thầy lấy gì mà tiêu pha ở nhà. Này nhé, ông Lý Cựu nuôi cơm thầy đồ cho bốn anh ấy học, một năm may hai quần, hai áo dài và ba áo cộc. Còn học trò ngoài như chúng ta, mỗi đứa một năm bốn quan tiền và mồng năm ngày Tết tùy tâm được thế nào hay thế. Tiền công thì bắt đầu nghỉ mùa tháng năm, thầy đồ lấy một nửa tức là hai quan, thầy đã mặc cả trước. Thằng Thân nói xen vào: - Thế là còn nhẹ đấy nhỉ chúng mày nhỉ? Bên ông đồ Tiến đằng cụ chỉ Hai, mỗi đứa mỗi năm những ba quan với hai thùng thóc. Mà ông đồ bỏ đi đánh tổ tôm luôn, bảo ban chẳng ra gì cả! Bây giờ Tâm mới hiểu đi học phải góp tiền như thế để đền công thầy đồ. Tâm là người biết nghĩ, biết lo rất sớm, Tâm vẫn vơ nghĩ đến công cha mẹ đã nuôi mình, may quần áo cho mình mặc, mua giấy bút cho mình đi học, giết gà đồ xôi làm lễ vỡ lòng, lại luôn luôn lễ vật biếu xén ông đồ và ông chủ, biết bao phí tổn vì mình: - Mình phải chăm học thế nào cho bõ cái công ấy. Nhưng nghĩ lại, theo óc non nớt của Tâm, Tâm thấy đi học là vô ích, vừa khổ thân mình vừa khổ cha mẹ nên Tâm quyết chí thôi học, Tâm nghĩ bụng: - Thế thì đi học làm gì? Thà ở nhà nghịch còn hơn. Song Tâm còn hoài nghi những lời nói của các bạn. Về nhà, Tâm vội hỏi ngay mẹ cho chắc ăn: - Mẹ ơi! Nhà ta có phải tết thầy đồ à? Bà mẹ thực tình đáp: - Có chứ, mai chờ thầy con về thầy con vào tết thầy đồ và nói lại cả với ông lý cựu nữa. - Có phải mỗi đứa mỗi năm phải nộp bốn quan tiền không hở mẹ? - Ừ, bốn quan tiền và ba cái Tết: Tết mồng năm, Tết cơm mới và Tết cả. - Thế thì con không đi học nữa, mẹ ạ. Con đi học mất nhiều tiền quá! Bà mẹ mắng yêu: - Ranh con, đừng láo! Tức thì Tâm bỏ chạy ngay ra vườn nhảy nhót mong ôn lại những giờ phút khi xưa… Buổi chiều, Tâm nhất định không đi học nữa. Mẹ Tâm ghí ngọt mãi và nói: - Không đi học rồi chịu khổ suốt đời. Đấy như chú cu Thìn làm thuê cho nhà ta ấy. Chữ nhất là một không biết, nên ai người ta cũng bắt nạt được. Vậy cố mà đi học con ạ, cha mẹ không ngại tốn công khó nhọc đâu, chỉ mong cho con ra người hay. Còn học thầy, thì phải giả công thầy chứ. Chữ thánh những gánh vàng, người ta lấy mỗi năm bốn quan, có thấm vào đâu, con… Rồi bà đọc luôn bài thơ truyền tụng để khuyên con: Đen thời dùng mực, đỏ dùng son, Cố học cho hay, con hỡi con! Cái bút cái nghiên là của báu Câu kinh câu kệ ấy mùi ngon! Vàng mua chừa để, vàng bay hết Chữ bán dư ăn, chữ hãy còn Nhờ phận một mai nên kẻ cả Bõ công cha mẹ mới là khôn! Nhưng Tâm vẫn còn ngần ngừ chưa muốn đi học. Bà nóng tiết rút ngay cái roi tre ở cửa bếp và dọa: - À thằng này giỏi, mày không nghe lời bà, phải roi mới chuyển được mày. Bé không vin, nhớn gẫy cành, có cắp ngay sách đi học không nào? Bà cầm roi đập mạnh xuống phản, Tâm vội vơ lấy sách chạy một mạch đến trường. Bà mẹ ở nhà cười khanh khách nói với hàng xóm: - Xưa nay chìu nó quen, ra nó nhờn. Cầm đến roi, cu cậu đi ngay tức khắc! * * * Nhá nhem tối hôm hai mươi bốn, gió phe phẩy đuổi tan cái nóng ban ngày. Trên nền trời xanh thẳm, đã lốm đốm mấy ngôi sao lấp lánh như cúc bạc đính lên bức thảm xanh. Ông lý Tưởng với Tâm cùng một tên người nhà đội một cái quả đỏ đi lại nhà ông cựu Mẫn. Đến nơi, nhà đã lên đèn. Tên người nhà đặt cái quả lên cái bàn cao ở giữa bộ trường kỷ, mở nắp ra, trong có hai quan tiền kẽm nằm song song và một cái thủ lợn với một bình rượu. Ông đồ ra ngồi ở trường kỷ, mời ông lý Tưởng cùng ngồi. Ông cựu Mẫn ở nhà dưới cũng lên tiếp chuyện, nói ba hoa một lúc về mùa màng, gặt hái rồi ông lý Tưởng đứng lên chắp tay nói: - Thưa thầy đồ và cụ Cựu, thằng bé cháu nhà tôi may được sang đây nhờ thầy chỉ bảo và quấy quá cụ Cựu, thật là cái ơn to lắm. Nay nhân thầy đồ sắp về nghỉ mùa, chúng tôi gọi là có chút quà lễ mọn lòng thành đến tết thầy và cụ Cựu. Tôi nói tình thực, xin thầy và cụ Cựu thứ lỗi cho… Ông đồ và ông Cựu đều nói: - Tôi không dám, ông dạy quá vậy! - Cháu nó bé dại, tôi không dám cho đi chung vào với các ông kia. Vậy nên phải đi riêng thế này. Hai quan tiền này xin kính dâng thầy đồ. Còn cái lễ mặn này gọi là tết thầy và cụ Cựu cho phải phép. Xin hai cụ vui lòng nhận cho. Ông lý Tưởng nói xong ngồi xuống. Ông đồ vui vẻ tiếp lời: - Chỗ tôi với ông lý, ông cho thế nào tôi cũng xin bái lĩnh. Còn đây tùy ông Cựu. Ông cựu Mẫn cười khà khà nói: - Ông lý chỉ khéo bày vẽ, chỗ tôi với ông, ông cho ăn miếng giầu là đủ. Nhờ Giời và Phật Thánh phù hộ, tôi mời được cụ đồ về đây, các ông có lòng mến cho các cháu đến học là quý. Tôi chỉ mong đông thêmtrẻ học để cụ đồ được rộng món tiêu, nay ông lý bày đặt tết nhất thế này, tôi không bằng lòng đâu! Ông tết thầy đồ rồi, còn phần tôi, tôi xin đa tạ, ông mang về, làm thế mang tiếng ông ạ! Ông lý Tưởng lại phải nói: - Xin thầy đồ và cụ Cựu xét lại cho chúng tôi được yên lòng. Kể nhà cụ Cựu đây chả thiếu gì, nhưng chỗ nhờ vả, gặp mồng năm, ngày tết mà không có cái gì lại hầu, trong bụng chúng tôi lấy làm hổ thẹn. Vậy xin cụ lấy lòng độ lượng mà nhận cho. Ông đồ cũng nói thêm vào: - Thôi cụ Cựu ạ, ông lý ông ấy đã nói thế, cụ cũng nên thể tất một chút cho ông ấy bằng lòng. Ông cựu Mẫn bấy giờ mới quả quyết: - Vâng, thầy đồ và ông lý dạy như thế, tôi xin tuân. Hai quan tiền đã vào tráp ông đồ, cái thủ lợn với chai rượu đã đưa xuống nhà dưới, tên người nhà mang quả không cùng với Tâm chào ông đồ và ông cựu Mẫn rồi ra về. Ngồi nói chuyện hồi lâu nữa, ông lý Tưởng đứng lên xin về. Ông đồ và ông Cựu cố mời ở lại. Ông cựu nói kháy: - Ông lý này, ông mà về, tôi sai người mang giả lễ ông đấy! Ông lý Tưởng nói một cách rất khiêm tốn: - Quả thật nhà tôi bận lắm, giá không, ở lại hầu thầy đồ và cụ là phải. Nhưng mùa màng đến nơi, công việc bề bộn, nhà cháu lại vừa gặt mấy mẫu lúa sớm, nên cần phải về ngay cho họ đập. - Vâng, thế thì ông về tôi không dám giữ. Ông mời giầu đã! Ông Cựu vừa nói vừa bưng đĩa giầu lên trước mặt ông lý Tưởng. Chương V Nghỉ mùa rồi, nhà lại bận gặt nhiều, Tâm tha hồ chơi nghịch. Gặt đang đông, trên những tấm ruộng thênh thang trong cánh đồng bát ngát một mầu vàng ối, lố nhố những người nhấp nhô gặt lúa, tiếng hái đưa ngang từng túm lúa, soèn soẹt ngọt như bổ cau… những đàn châu chấu bị động vè vè bay sang tấm ruộng chửa gặt… một vài cô thợ gặt hát lên vồng vộng… Những thợ gánh lội vào ruộng lấy những lúa cắt rồi để trên trốc rạ, lượm thoăn thoắt thành đon đặt lên bờ bó lại . Rồi sóc đòn càn vào ngang bó, gánh chạy te te về làng, những bông lúa cứ rung rinh theo nhịp bước và kêu rào rào. Tâm được theo mẹ ra đồng coi gặt thích lắm, năm nay Tâm cứng và đã đi học nên mới được đi, Tâmchăm chú xem người ta làm việc gì. Mấy hôm đầu Tâm còn ngồi trên gò, nhờ thợ gặt bắt hộ châu chấu, nhưng dần dần mạnh bạo và quen biết thêm nhiều người, Tâm chạy cả xuống ruộng để bắt lấy và “mót” những bông lúa sót lại trên ruộng rạ… Thật là sung sướng nhất đời. Hôm nào nắng quá, ông lý không cho Tâm đi, Tâm ở nhà cậy đất dẻo về nặn kiệu, nặn tượng và nặn nồi chõ để đồ xôi tế đình. Tâm lại hội họp những trẻ con hàng xóm lại nặn thi pháo. Đem hòn đất dẻo nặn thành hình cái nồi, trôn cho rõ mỏng rồi vật úp xuống đất, tức thời cái pháo nồi ấy kêu đánh bốp một cái, thủng trôn ra. Kêu càng to thì thủng càng rộng. Những cái không nổ bị thua phải bẹo đất ra vá vào chỗ thủng ấy… Lắm lúc, Tâm lại đổi trò chơi, lấy lá chuối cuộn làm kèn thổi toe toe. Cuộn xong rồi, Tâm nói một câu thường lệ trước khi thổi : - Kèn kèn cuống cuống, mày ra bờ muống, mày khóc ba tiếng, cho kèn tao kêu, kèn tao không kêu, tao lấy đỉa đói tao bêu đầu này! Hễ kèn kêu thét lên, là cả bọn cùng cười vang. * * * Ông lý Tưởng thấy con mải nghịch quá sợ để lãn canh (3) lúc đi học khó bảo, ông bắt về đem sách ra học ôn cho khỏi quên. Tâm cũng vui vẻ về học lại quyển “Tam tự kinh” và mấy tờ đầu quyển “Sơ học vấn tân” mới học được. Tâm gọi đứa em bé và mấy đứa hàng xóm sang Tâm dạy học, Tâm chỉ tay và đọc lên cho chúng nó học theo: Sơ học vấn tân Hỗn mang chi sơ Vị phân thiên địa Khi chúng đã học theo rồi, Tâm bắt chước ông đồ giảng nghĩa: - Này, chúng mày nghe: Hỗn mang chi sơ là ăn hỗn lắm nó chốc mép mọc mang ra như mang cá trê ấy, nghe không? Cả bọn không hiểu, ùa nhau cười. Tâm tức mình đập xe điếu xuống giường dọa im, làm y như ông đồ vậy. Những người nhớn quanh đấy thấy vậy đều phì lên cười, và bảo nhau: - Cậu bé ranh mãnh và lém lỉnh quá! Làm cho Tâm thẹn đỏ mặt bỏ chạy đi chỗ khác. * * * Nghỉ đã một tháng mười ngày rồi. Hôm nay là mồng sáu tháng sáu. Mùa màng xong tất cả. Người ta đương bắt đầu ngả cấy. Ông đồ đã đến. Học trò lại đi học nhưng chưa được đông đủ, vì còn nhiều đứa phải ở nhà giúp việc vặt trong nhà. Tâm phải đi học, trong lòng cũng buồn, tiếc những lúc nô đùa. Nhưng đã quen với lề thói nhà trường Tâm không quá bỡ ngỡ sợ sệt như trước nữa. Sự học có phần khó lên. Vì Tâm bắt đầu phải học nghĩa và kể nghĩa như những đứa khác. Học chữ thuộc mặt rồi, lại phải học nghĩa để mà kể, Tâm hỏi nghĩa rồi dõng dạc học: - Vũ vương phạt trụ là Vũ vương đánh người trụ! Tâm nhìn ra rằng hễ khuyên son phải gọi là ông, tức là những người đáng kính trọng, nét son chấmbên trái mặt chữ chỉ người, những người tầm thường hay gian nịnh. Và những sổ ngắn là tên nhà, tên đất hay tên họ. Nên Tâm học mau thuộc. Học thuộc thông đâu đấy, Tâm ngồi im xem chúng nó kể, bắt chước giọng của chúng nó, cái giọng kể thong thả rõ ràng và ngân nga như hát. Đứa nào kể xong cũng ngân một tiếng “ạ” rồi nói: - Bẩm thầy con hết rồi ạ. Ông đồ ”ừ” một tiếng rồi giảng nghĩa, giảng từng câu một cho đến hết bài, cứ theo cái nghĩa trong bài, ông đọc lại , thỉnh thoảng ông nói rộng ra tí chút, song mồm ông đọc thao thao như nước chảy, học trò theo không kịp, tay cứ chăm chú cầm giấy để chực mở sang trang. Mỗi người đều kể một lượt như thế, nên số học trò càng đông thì buổi học càng tan muộn. Mà ít, cố nhiên, học trò được về sớm… Tâm nghĩ mình bắt chước được cả rồi, đến lượt, è è lên giọng: - Xin thầy con kể ạ. Rồi Tâm ngắc ngứ ư a, đọc hết bài cho đến lúc nói: - Bẩm thầy con hết ạ. Ông đồ không “ừ”, ông bảo: - Thong thả chứ nào, làm gì mà như đi ăn cướp ấy, ư a ư a mãi như chó nhai vã mắm. Bắt chước chúng nó mà kể chứ! Rồi ông mới dẫn giảng đến bài. Ông cũng dẫn lượt đi như những đứa khác. Tâm ngồi ngơ ngác, như vịt nghe sấm; trố mắt nhìn ông đồ cho đến lúc xong Tâm lôi sách, rẽ đám học trò ra ngoài, nói với lũ thằng Bích rằng: - Tao cố bắt chước như chúng bây mà sao cấm được, cứ phải ư a, mà đọc như người học ấy, chẳng hay tí nào! Thằng Bân nói: - Cho còn là ăn hại cơm giời, uống hại nước sông, con ạ. Kể khổ lắm, chứ dễ đấy à! * * * Học luôn ba tháng rưỡi giời, đã sắp sửa đến vụ gặt mùa tức là vụ tháng mười. Những tấm ruộng cấy lúa sớm, lúa thường tân, đã gặt rồi. Gọi là thường tân theo đúng cái nghĩa của nó là nếp cái mới, tức là cái lúa nếp để làm cơm mới vậy. Ở các đình chùa, người ta đã làm lễ cơm mới. Trong những tư gia đã mua hồng cốm, thịt rượu đi tết nhau. Trên những cánh đồng phẳng phiu đến tận chân tre các làng xanh biếc, làn lúa sắp chín rung rinh lướt theo chiều gió bốc lên mùi thơm phưng phức như cốm non, thỉnh thoảng đưa. Một vài nhà đã gặt lỏi về ăn… Ở nhà ông lý Tưởng, các bố mẹ học trò và những học trò lớn đến đông đủ, ngồi rải rác khắp ba gian nhà. Sau lượt trầu nước thường lệ, ông lý Tưởng lấy địa vị là người chiêu tập buổi hội họp này đứng lên nói trước: - Xin trên các cụ, các ông và đông đủ các anh em đây định cho. Đến hai mươi này thầy đồ về nghỉ, ta phải có thế nào để tiễn chân thầy chứ! Tức thì nhao nhao lên ai cũng muốn nói trước. Người nói thế này, kẻ nói thế khác, huyên thuyên ồn ào, Một cụ già gắt: - Kim chỉ phải có đầu chứ, kẻ cả nói trước, đàn em ngồi mà nghe, có gì không phải thì nói sau, chứ cá mè một lứa thế không được! Mấy người đều nói: - Vâng, cụ dạy chính phải, xin cụ chỉ định. - Không, tôi nói thế thôi, còn cái việc cắt định phần các ông, tôi không dám. Lại đến lượt ông lý Tưởng. Ông đứng lên nói rành mạch: - Bẩm trên các cụ, dưới đông anh em cả. Năm nay được mùa to, chúng ta cũng nên nghĩ tết ông đồ kha khá. Ròng rã suốt một năm giời mới có bốn quan tiền công đã nhất định vào tháng năm và gần Tết rồi. Vậy tôi bàn với các cụ và anh em nên bổ mỗi người nửa quan. Tất cả bốn mươi nhăm người, vị chi hai mươi hai quan rưỡi. Hai mươi quan ta để tiền, còn hai quan rưỡi ta mua cốm hồng và lễ vật gì đấy, đến hai mươi đem hẳn đến nhà thầy. Có thờ thầy mới được làm thầy… Một người nói: - Có con ông ngày sau mới được làm thầy, chứ con chúng tôi thì nước gì? Ông lý có vẻ không bằng lòng nói: - Các ông nói khí quá, chứ con tôi vắt mũi chưa sạch đã mong gì làm thầy người ta. Ông xã Tân đẻ ra thằng Bân, nói tiếp: - Ông lý nói phải đấy, phương ngôn có câu: “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Chúng ta cũng phải nghĩ đến công thầy tử tế. Nhưng nửa quan thì khí nặng cho những người nghèo như tôi chẳng hạn. Vậy xin các cụ bớt đi tí chút. Còn cái lễ tết ông chủ nữa kia mà. Mấy ông cụ nói theo: - Phải đấy, bác xã nói phải, ta nên châm chước thế nào cho nhè nhẹ thì hơn. Hồi lâu, ngã ngũ, cả bọn đều đồng ý về số tiền nhất định là nửa quan , để mười sáu quan tiền, còn chia đôi mua lễ Tết ông đồ và ông cựu Mẫn. Và sau rốt cử những đứa đi tiễn ông đồ về đến tận nhà. Khi các người đã về rồi, Tâm nằng nặc đòi với ông lý đến hai mươi, cho đi xuống nhà ông đồ. Ông lý cười bảo: - Khốn, nhưng đi từ sáng đến trưa mới đến nơi, không biết ông có cứng chân đi được! Rồi đến nửa đường lại nheo nhéo đòi về! Chương VI Mùa đông đã đến từ lâu. Những ngày mưa phùn gió bấc kéo dài liên tiếp làm cho cái nhà quê phẳng lặng buồn tênh lại càng thêm tiêu điều ảm đạm. Những làng mạc như lu mờ thấp bé xuống, mà cánh đồng mông mênh bát ngát hình như cao lên, giãn ra và bao trùm tất cả. Cảnh tượng giống như lúc trời chiều dần dần đi vào đêm tối. Giời rét, người co ro trong những áo bông, áo đụp! Và chân tay nhiều khi nứt nẻ đau buốt đến xương! Thỉnh thoảng được ngày có mặt giời xinh tươi trong sáng giữa nền giời quang đãng, là người ta nô nức tắmgiặt, tiếng đổ nước uồm uồm và tiếng vỗ giặt quần áo bôm bốp truyền từ cầu ao nọ đến cầu ao kia vang dậy. Tâm chưa nhận rõ được ngày tháng. Nhưng hàng năm Tâm thấy hễ tiết giời rét mướt như thế là gần Tết rồi. Vì hễ Tết là Tâm được ăn nhiều thứ ngon: giò, mọc, nem, bánh và được mặc áo đẹp, đi mừng tuổi được tiền nữa. Năm nay đã đi học rồi, nên Tâm lại càng mong chóng Tết. Gió bấc đã nhiều lần từng cơn lạnh buốt giục giã ngoài hiên. Tâm khấp khởi hỏi mẹ: - Mẹ ơi mẹ, dễ gần Tết rồi nhỉ? Bà mẹ âu yếm: - Đã Tết thế nào con, còn lâu lắm. Cứ cố học cho giỏi đi, hễ bao giờ Tết, mẹ bảo con! Và đến trường, Tâm lăm le đố các bạn: - Tao đố mày còn mấy ngày nữa là Tết nào? - Còn non một tháng nữa chứ mấy! - Nhưng là bao nhiêu ngày kia? - Mày dở lắm, non một tháng là hai mươi ngày đấy. Hôm nay đã là mồng tám tháng chạp rồi còn gì? Tâm nghĩ bụng: - A ha! Còn có hai mươi ngày nữa là đến Tết! Và từ đấy Tâm cứ nhẩm tính từng ngày một! Lòng mong mỏi của Tâm đã thỏa. Ngày hai mươi hai, ông đồ về nghỉ. Hai mươi ba nhà Tâm quét dọn bàn thờ sạch sẽ, trên bàn thờ ông công, bày thêm cỗ mũ tám đầu rồng, mười hai mắt kính và hai tai xanh điểm đổ chổng ngược lên như hai con thỏ. Ngày chạp ông công, Tâm được ăn một bữa ngon lành no nê! Mà Tâm vẫn nhớ rằng đến ngày chạp ông công thì còn bảy ngày nữa là Tết. - Còn bảy ngày nữa là Tết, sướng quá. Tâm nghĩ vậy rồi vui vẻ chạy đi chơi hàng xóm. Quang cảnh nhà quê đã dần dần náo nhiệt vì Tết. Người đi chợ đông lên. Các công việc làm vội vàng, mau hơn. Ở đầu cầu ao mỗi nhà đã chễm chệ một cuộn lá dong để gói bánh. Rồi những tiếng lợn bị chọc tiết kêu í éc ở mọi xóm, tiếng giã giò chí chát ở mọi nhà cùng tiếng lên bột bánh gai thùm thụp đã làm rõ ràng cái cảnh Tết rồi, không ai còn dối Tâm được nữa! Ba mươi Tết, cây nêu dựng sừng sững giữa sân, câu đối đỏ lòm trước cửa càng làm cho Tâm hớn hở mừng khôn xiết. Sáng sớm mồng một, tràng pháo của nhà vừa nổ, Tâm vội vàng choàng dậy giụi mắt rồi ra mắc lấy áo dài mới nhuộm nâu giãi bùn mặc vào, diện cái quần vải mới may trắng bốp. Tâm nghiêm trang đi đến trước mặt ông bà lý Tưởng chúc mừng năm mới: - Con chúc mừng thầy mẹ sang năm mới mạnh khỏe sống lâu và giàu bằng mười năm ngoái! Ông lý khen: - Tốt lắm, thầy cũng chúc cho con năm nay học giỏi hơn những trẻ khác. Năm nay con lên bảy rồi phải chăm chỉ mà học nhé. Đây thầy mừng tuổi cho con một tiền này. Bà lý cũng cho một tiền nữa, Tâm vui sướng nhận lấy tiền ra khoe với chị: - Tao có những hai kia, để tao mua thắt lưng đỏ. Đến nửa buổi, cơm nước xong rồi, ông lý với Tâm đem giầu đi lễ và mừng tuổi các nhà thân thuộc. Đi đến nhà nào, Tâm cũng thấy ông lý nói: - Năm cũ đã qua, bước sang năm mới, tôi đến mừng tuổi cho ông bà sống lâu mạnh khỏe, giầu có bằng năm bằng mười năm ngoái. Và ai cũng xoa đầu Tâm, cho Tâm tiền rất nhiều, nhiều hơn mọi năm. Người nào cũng bảo: - Năm nay cậu đã là học trò cắp sách đi học, không bé bỏng như năm trước nữa. Tôi mừng tuổi để cậu mua giấy này. Tâm sung sướng quá và bụng bảo dạ: - Ra, đi học có lợi thật! Hôm mồng bốn, Tâm mải đang nô đùa ở sân đình chợt có người nhà ra tìm về. Tâm mải vui, phát khùng lên mắng tên đầy tớ: - Về làm gì, ông không về. - Không về ông nhà đánh chết, ông cho tôi ra tìm ngay anh về ông bảo. Tâm ngần ngại đành phải theo về. Đến nhà, thấy ông lý đang ngồi xếp bằng trên sập, Tâm được yên lòng, Tâm chỉ sợ có việc gì đến, làm Tâm phải đòn thì chết! Ông lý sai Tâm lấy nghiên mài mực, Tâmvâng theo ngay. Ông lý mở tráp ra lấy tờ giấy hoa tiên đỏ tươi và một ngọn bút mới, ông bảo Tâm: - Hôm nay tốt ngày, thầy với con khai bút nhé. Tâm không hiểu hỏi: - Khai bút là thế nào hở thầy? - Khai bút là sang năm mới phải chọn ngày tốt, giờ tốt, bắt đầu viết lên tờ giấy hoa tiên hay tờ giấy đỏ, rồi dán lên cột hay sà nhà. Sau viết gì mới được viết. Ngộ chưa khai bút mà cứ viết thì dông suốt năm, đi học thì chịu dốt, mà làm việc thì cũng hỏng. Ngộ gặp phải giờ xấu, còn sinh ra ốm đau, bệnh tật, tai vạ bất kỳ nữa. Con nghe chưa? Phải cẩn thận đấy. - Bẩm vâng ạ! Rồi ông lý nằm xuống, dầm ngòi bút mới vào nghiên mực, lấy ra viết một dòng dài ở giữa tờ hoa tiên. Viết xong ông ngoảnh lại bảo Tâm: - Con chưa viết được, thầy viết cho một chữ bút, còn để phần con một nét sổ. Tâm cầm bút run run ấn toẹt lên tờ giấy rồi kéo dài xuống trông rõ một vệt mực to tướng. Xong Tâmcầm bút, giương mắt nhìn ông, ông cau mày bảo: - Thôi! Rồi ông cầm lấy tờ giấy ngắm nghía. Sau cùng nói: - Thôi cũng được, vào trong nhà lấy tí bánh chưng ra đây. Tâm lấy mang ra. Ông lý dính một ít vào đầu tờ giấy đem dán lên xà nhà. Cơn gió nhẹ lướt qua cửa sổ thổi bay cong tờ giấy là là. Tâm vui mừng thoát nạn, chạy xuống nhà dưới. Chương VII Mồng tám tháng giêng, Tâm mải vui với trẻ hàng xóm, rủ nhau leo lên cây bắt tổ chim. Chị Tâm đi tìm khắp cả không thấy, đứng bờ ao réo ngậu lên: - Tâm ơi Tâm, ớ Tâm ơi! Ở đâu thì về! Ở trên cây sung bên bác xã Cán, Tâm thưa một cách gắt gỏng: - Ơi! Đây chứ đâu mà ngậu lên thế! Trông theo tiếng thưa, thấy Tâm đang bám chặt lấy cành sung như con mèo ngồi rình chuột, chị Tâmdọa: - Giỏi nhỉ! Trèo cây! Tao về tao bảo thầy cho mày! Tâm vội tụt xuống cây, đấu dịu hỏi: - Nhưng gọi về làm gì đã nào? - Có cậu ở trên Mỹ Lý xuống chơi, thầy sai gọi mày về. - Cậu nào thế chị? - Cậu đồ Trí ấy mà! Nghe đến đấy, Tâm hơi rùng mình, hai tay phủi bụi áo, rụt rè đi về. Tâm tin rằng mỗi bận ông đồ nào đến là Tâm cũng phải gọi ra để khảo chữ. Con mắt người ta cứ trừng trừng nhìn Tâm, hễ Tâm nói sai là y như họ cười mỉa mai để rồi khi họ về, thế nào Tâm cũng bị mắng đáo để. Tâm bị mấy lần như vậy nên hễ nói đến ông đồ nào là tự nhiên Tâm thấy sợ vẩn vơ. Nhất là nay đến lượt cậu đồ mình, một ông đồ đã nổi tiếng là dữ đòn. Tâm khép nép về đến sân, rón rén ngập ngừng bước ngắn bước dài, Tâm chực chạy xuống bếp, tiếng ông lý đã gọi giật lại: - Đi đâu về đấy? Chỉ giỏi chạy thôi. Mau lên, vào chào cậu đi nào. Tâm bước lên hè, chắp tay vái chào: - Thưa cậu xuống chơi ạ! Ông cậu mỉm cười nói: - Ừ, cháu vào đây cậu bảo. Tâm rón rén lại gần giường, ông cậu hỏi: - Cháu học đến sách gì rồi? Tâm ngẩn người nghĩ bụng “Đã biết mà”, và nói: - Bẩm con học đến sách “Ấu học ngũ ngôn thi”. - Đọc một đoạn cậu nghe nào. - Bẩm cậu con đọc: Ấu học ngũ ngôn thi Thiên tử trọng hiền hào Văn chương giáo nhĩ tào Vạn ban giai hạ phẩm Duy hữu độc thư cao! - Nghĩa là gì? - Nghĩa là Sách ấu học ngũ ngôn thi. Ngôi thiên tử trọng kẻ hiền hào, văn chương dạy lũ mày, muôn bậc đều phẩm dưới. Bui có đọc sách là cao! - Ngôi thiên tử là ai? - Bẩm là đức vua ạ! - Ừ, đức vua ngài cao xa lắm. Ngài ở tận kinh kia. Thế lũ mày là lũ nào? - Lũ mày là lũ trẻ con nô nghịch ngoài đường. Ông cậu lắc đầu, làm Tâm lè lưỡi chữa thẹn. Ông nói: - Không phải! Lũ mày là lũ học trò như mày ấy. Muôn bậc đều phẩm dưới. Bui có đọc sách là cao, là nghĩa làm sao? - Là các bậc như bậc hè nhà ta đều thấp cả. Chỉ có cái giá đựng sách để đọc là cao hơn! Ông cậu không nhịn được, cười ha hả nhìn Tâm đang luống cuống đỏ mặt, cả ông lý Tưởng cũng cười ngặt nghẽo. Ông cậu thong thả bảo: - Mọi bậc là mọi nghề, như làm ruộng, thợ mộc, thợ rèn, thợ sơn, cho chí người dệt vải, người đi cầy đều thấp kém cả. Chỉ có người đọc sách là cao quý. Đọc sách tức là đi học. Đi học biết chữ, đi thi đỗ làmquan, áo xanh áo đỏ, mũ cao áo dài, võng lọng vua ban, thật là sung sướng danh giá hơn người… Mãn triều chu tử quý, tận thị độc thư nhân. Đầy triều những vị quan áo đỏ, áo tím đều là những người chịu đọc sách cả. Đấy cháu hiểu chưa. Đi học được quý trọng như vậy, cháu có thích học không? - Bẩm cậu, con có thích ạ! - Tốt lắm, cháu cậu ngoan! Ông lý nói thêm vào bảo Tâm: - Năm nay cậu ngồi ở làng Vân Trung, tao nói với cậu cho mày theo học nhé, cậu cũng như thầy, đi với cậu học được nhiều, có phần mau giỏi hơn. Mày có bằng lòng đi à? Tâm ngần ngại chưa biết giả nhời ra làm sao. Ông cậu liền nói tiếp: - Cháu đã bảo cháu thích đi học nên thầy cháu mới nói với cậu đem cháu đi, kẻo để cháu ở nhà không có người rèn cặp, đuểnh đoảng lắm. Đấy cháu xem nghĩa thế nọ, cháu xọ ra thế kia cả. Vả lại đi với cậu lại có cả thằng Dũng nhà cậu nữa. Hai anh em đi với nhau có bạn vui đáo để, Cháu cứ bằng lòng đi cháu ạ! Nghe giọng âu yếm của cậu, Tâm đã bớt sợ, nay lại thấy được đi với anh Dũng, Tâm được yên lòng và Tâm hiểu rằng bất cứ việc gì những người trên đã cho là phải có lợi, thì dù mình có không muốn cũng không xong, Tâm hiểu lắm. Tâm biết phận mình, đành lòng theo phận nên ngập ngừng thưa: - Bẩm thầy con bằng lòng ạ Trong khi ông lý hớn hở tươi cười, ông cậu khen: - Ngoan lắm, cháu ngoan lắm. Không như những trẻ khác. Cháu bằng lòng đi học xa ngay như thế, sự học của cháu sau này mới khá, mới hơn người. Thằng Dũng mà lúc mới đi với cậu cũng khóc mãi, đánh cho ba roi mới chịu đi. Cháu Tâm của cậu đáng khen lắm. Tâm được cậu khen, trong lòng vui sướng vô cùng. Và cả nhà đều vui mừng sắm sửa cho Tâm đi theo học. * * * Cậu Tâm, ông đồ Trí là một tay nho học khá vùng ấy. Ông đi thi đã vào đến Tam trường (4). Năm nay ông bốn mươi hai tuổi. Nhưng ông vẫn mải miết học để đi thi, mong mỏi chiếm lấy cái cử nhân. Ông thường lên tập văn quan Đốc học tỉnh nhà và bên quan Nghè Phạm. Ông là một người có đức vọng ở vùng nên ai cũng mến, nhiều nơi tranh nhau đến rước đi ngồi dạy bảo con em. Năm nay ông chánh tổng Vân Trung cần phiền đến rước ông, ông bằng lòng nhận với ba miệng cơm chín và mỗi đứa học trò đồng niên: Sáu quan tiền, ba cái tết ngoài. Ông mặc cả ba miệng cơm chín là ý ông muốn đem Tâm đi, kèm với thằng Dũng cho vui. Và ông chiều lòng bà lý Tưởng, em gái ông, muốn gửi gắp cho con được học đến nơi đến chốn, vì xem ra nó học được. Rồi nhà Tâm sẽ đem tiền gạo nuôi Tâm giả cho bà đồ Trí. Như thế hai đằng cùng lợi. Nên việc cho Tâm đi học thu xếp chóng vánh lắm. * * * Mười tám tháng giêng. Một ngày tốt lành chọn để làm lễ khai trường. Buổi sáng hôm ấy, mặt giời qua ngọn tre độ hai ngũ, ông đồ Trí cùng mấy người khách lạ mang tráp và gánh tủ sách đến. Ông lý đon đả đi têm giầu rót nước mời khách. Bà lý bận rộn thắt lại cái dây quần, xốc lại cái cổ áo cho Tâm. Bà giở cái khăn gói ra xét xem quần áo đã đủ cả chưa. Được một lúc, ông đồ đã giục: - Mau mau, ta đi kẻo lại trưa. Rồi cả bọn đứng lên. Ông đồ đi ra, người cắp tráp và người gánh tủ theo sau, tiếng chào vang cả lên. Chú cu Thìn ngồi xuống cho Tâm ôm vào vai cõng. Bà lý còn dặn nữa: - Con ngoan mà học nhé. Tiền mẹ cho con, mẹ đưa cả cho cậu giữ hộ, con muốn mua gì con cứ bảo cậu. Mấy hôm nữa mẹ cũng xuống đấy, con ạ! Ra đến cổng, ông chú, bà bác, mọi người trong họ dồn đến. Ai nấy một lời, nói tíu tít: - Tâm đi học đá, ngoan nhỉ. Cố chăm học cho giỏi nhé! Này thím cho một tiền này! - Cháu đi học chăm chỉ, ông đồ dạy thể nào cháu cũng chóng biết hơn ở nhà. Đây chú chỉ có hai mươi đồng cho cháu lấy may. - Cháu theo ông lên đấy học ngoan nhé. Đừng nhớ nhà. Bác túng lắm chả có gì cho cháu cả. Bà lý Tưởng lủng bủng: - Cái bà ấy rõ khéo ghét! Người ta đã lo nó nhớ nhà lại còn nhắc đến! Ông bác Tâm mải nói chuyện với ông đồ, giờ mới chạy đến, xoa đầu Tâm: - Con cố theo ông đi học, đỗ lấy cái cử nhân về ăn thủ lợn làng này, con ạ! Học giỏi về bác thưởng nhé! Rồi cả bọn phải giãn ra để cho Tâm đi, Ông lý cũng theo đưa chân đến tận trường. Qua cánh đồng lúa xanh rờn, theo mấy bờ ruộng quằn quoèo, hai bên cỏ mọc mơn mởn, rồi leo lên con đê, con đê to bằng cái sân, cao hơn nóc bếp và thẳng tắp dài vô tận… Chồm chỗm ngồi trên lưng chú cu Thìn, Tâm đang hồi hộp vì tình quyến luyến của người trong họ, mong mỏi cho mình học giỏi, thì nay tầm mắt được trông ra cảnh ngoài mới lạ, Tâm mải nhìn, quên tất cả, tâm hồn thấy lâng lâng khoái trá. Những đình miếu, mái cong cong dưới khóm cây bù dù… Một vài cây gạo cao vọt lên trên lũy tre xanh trông như cái cây đèn dầu trên bàn thờ…Mấy con thuyền buồm giương thẳng lặng lẽ tiến trên mặt sông, dòng nước chảy lững lờ…Và xa xa tận bãi bên kia, ruộng dâu xanh, xanh biếc rung rinh theo chiều gió xuân lả lướt … Một người cưỡi ngựa vượt qua, tiếng vó ngựa nện đường lộc cộc, đi xa Tâm còn trông rõ cái đuôi ngựa tòe phất phới và cát bụi mù bay… Toàn là mới lạ, lạ mắt, lạ tai… Tâm như say sưa với cảnh… thì đã đến nơi. - Đến nơi rồi, các ông nhỉ? Chú cu Thìn hỏi. - Phải làng Vân Trung đây rồi! Làng Vân Trung ở liền ngay con đê “quan lộ” trên bờ sông Đáy. Một làng bé nhưng giầu, với nhà ngói mái san sát như bát úp với những vườn cau dư trăm gốc, ngọn lá xanh xanh cao vượt lũy tre xanh, người ta nhận biết tự đằng xa. Ở trên đê, rẽ vào một con đường rộng và phẳng, ngoắt về bên phải một quãng dài là đến cổng nhà ông Chánh, một cái cổng ngói quét vôi trắng toát cao đồ sộ với hai cánh lim rất dầy. Qua cổng đến dẫy tường hoa cao ngất, rồi vào sân gạch rộng, bước lên cái nhà ngói năm gian, trông to hơn đình làng Tâm. Trong nhà bày biện rất lịch sự. Trên sà, ba bức đại tự thẳng hàng chói lọi. Ở giữa, bức sơn son chữ vàng, hai bên, hai bức sơn then chữ bạc. Năm gian, treo năm bức y môn đỏ thêu kim tuyến và viền chân chỉ hạt bột. Mỗi cột một câu đối sơn đen bóng nhoáng, chữ khảm sà cừ. Ở tường treo những tờ tranh Tầu thủy mặc… Ghế vuông ghế dài bằng gụ đen bóng như sừng và chạm trổ rất công phu trông loá cả mắt … Cái gì cũng lạ cả… Tâm mải ngắm nghía không nghĩ gì đến người ta trò chuyện ở chung quanh. Bỗng thấy mọi người rào rào đứng dậy. Các khách khứa ở trên giường đều đứng xuống đất cả. Ở giữa nhà, trên cái sập chân quỳ chạm mặt hổ phù, ngất ngưởng một cái yên thư sơn đỏ chói chạy chỉ vàng. Trên yên thư bầy đôi ống hương, đôi cây nến và ba chiếc đài rượu; thảy đều bằng đồng óng ánh. Một bên, cái mâm đồng đựng mâm xôi đầy và một bên cái sỏ lợn to tướng để đầy lợp cả một cái mâm khác. Ở giữa, hai chai rượu và một đĩa đựng chẽ cau chục quả với một lá giầu. Hai ngọn nến đang cháy rung rinh tươi đỏ… Ông đồ đặt nắm hương châm vào ngọn nến. Lửa ngọn nến toả ra mất hẳn đi, bốc khói lên, rồi bùng cháy lên ngùn ngụt. Ông đồ vội nhấc nắm hương ra, vẩy một nhát cho tắt lửa, đầu bó hương chỉ còn là một nắm đỏ ngòm, khói lên nghi ngút. Ông cắm thẳng tắp vào cái bát hương đầy gạo đặt sau ba cái đài. Khói hương vút thẳng lên cao rồi cuồn cuộn toả tan dần ra khắp nhà, đượm mùi thơm ngào ngạt… Ông đồ vuốt thẳng tà áo chắp tay lễ bốn lễ, quỳ lâm râm khấn rồi ông lễ bốn lễ nữa lui ra. Các học trò lần lượt vào lễ, nhớn trước bé sau. Bốn người một, đứng thành hàng chữ nhất, mắt trông thẳng, chắp tay giơ lên quá trán, vái xuống lần lượt quỳ hai gối, phủ phục đầu giáp chiếu rồi ngẩng ngay người lên, hất tay vịn gối phải đứng dậy đều tăm tắp. Như thế bốn lượt, rồi lui về bên trái. Bên kia bọn người khác vào, sì sụp mãi cho đến khi hết mặt học trò, bên phải không còn người nào nữa. Sau cùng đến Tâm và Dũng, hai đứa còn ngần ngại, ông đồ giục: - Dũng với Tâm vào lễ đi chúng con, lễ Đức Thánh phù hộ cho học giỏi! Mau lên. Tâm, Dũng rón rén vào đến chiếu. Tâm luống cuống lễ chuệnh choạng và có lúc soài như con ếch. Ở ngoài chúng nó khúc khích cười. Tâm xấu hổ mặt đỏ bừng lên, nóng ran cả mình. Nhưng mà rồi cũng phải xong. Hai đứa lui ra, lẩn vào đám học trò. Thế là xong lễ khai trường. Buổi học bắt đầu ngay khi ấy, bắt đầu lấy lệ nên hấp tấp vội vàng rồi tan ngay. Ông đồ đi uống rượu với các người có con đến học và góp tiền làm lễ khai trường này. Họ ăn uống trò chuyện rất vui vẻ. Tâmvà Dũng được các bạn dắt đi chơi khắp nơi. Chương VIII Đã năm ngày rồi. Năm ngày ở nơi xa lạ, được ông đồ dung túng cho chơi, được nhà chủ hết sức chiều chuộng và được các anh em đưa xem những nơi vui đẹp, Tâm không nghĩ gì đến nhà cả. Sáng dậy súc miệng xong là một chiếc bánh gai hay bánh mật đấm miệng, rồi lại một quả chuối hay một quả cam. Ê a học mấy tiếng, đã có quà chợ đưa lên: nào bánh đa, nào bánh hú, nào kẹo vừng. Lúc nào thức ăn cũng ngập miệng, ăn cơm toàn với giò chả, cá thịt, ngon hơn ở nhà nhiều. Ăn xong lại được các bạn dẫn đi chơi, ra đình, ra miếu, trèo cây hái hoa. Và vui nhất là được xuống thuyền lênh đênh ra giữa sông, nghe sóng vỗ oằm oặp với mái chèo đập nước uồm uồm. Tâm đã mải vui chơi quên cả nhớ nhà. Và người ta cũng mừng dần dần Tâm sẽ vui vẻ học tập. Nhưng buổi chiều hôm nay, mây vẩn cuồn cuộn xám bầu giời, gió bấc từng cơn rền rít ngoài lũy tre ủ rũ, mưa bay phơi phới như cát bụi tung giời làm đầm đìa lá cây và nhớp nháp đường ngõ. Tâm thấy lòng thao thức lạ. Mọi cảnh vật ở đây đều đã quen quá thành thường và đáng ghét. Tâm nao nao nhớ đến nhà, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ em, nhớ mọi người thân thích quen thuộc, nhớ hình ảnh quyến luyến, mến yêu. Tâmnhớ tha thiết, nhớ não nùng, vẩn vơ mong ước có đôi cánh như con chim giời bạt gió mà bay bổng về nơi quê nhà thân yêu! Mặt bịn rịn, đôi mắt đỏ hoe, Tâm tưởng tượng đến cây sung ở ngoài bờ ao rườm rà cành lá, đến cái chái bên đồng mà Tâm thường làm đình ở đấy, đến em Tâm bập bẹ học nói, đến lũ trẻ hàng xómđang nô rỡn vắng mình, đến chị Tâm hay trêu chòng mình và ganh ăn với mình… Tâm thầm than cho thân phận tự dưng bị đem bỏ ở giữa đám người xa lạ! Tâm muốn khóc òa lên! Chung quanh chúng bạn đều tíu tít vui vầy với cha mẹ, anh em, chỉ riêng mình bơ vơ hiu quạnh! Biết đến bao giờ mình lại được xum họp như họ. Sự cảm xúc đến mạnh quá, khiến nó thấm thía quá, nó ăn sâu vào cõi lòng Tâm, nó tràn ngập cả tâmhồn, Tâm ngồi thừ ra sau nhà, không thiết làm gì cả, không thiết học, không thiết đi chơi, không thiết nô đùa, không thiết ăn những thứ ngon lạ mà bà chủ sai đem đến cho. Tâm ghét tất cả. Họ là kẻ thù, họ thương chi mình! Trong khi ấy ông đồ Trí sai học trò ra ghí dỗ và khuyên giải Tâm. Chúng múa may làm trò, chúng rủ đi chơi, chúng cầm tay lôi dậy, Tâm cứ một mực lắc đầu quay mình đi, chẳng nói chẳng rằng, miệng ứ ừ, choài chân ngồi phệt xuống. Lũ kia bỏ về. Đến lượt Dũng ra, hấp tấp nói: - Tâm ơi Tâm, đi về học, không thầy tao ra đánh chết, lêu lêu đi học còn nhớ nhà! Tâm rươm rướm nước mắt, phát khùng chửi: - Mẹ mày Dũng ạ! Dũng tức tối chạy về thưa: - Bẩm Thầy, thằng Tâm nó chửi con đấy! Ông đồ cau mày, học trò cười khúc khích! Bà Chánh tức bà chủ nhà, đi qua thấy vậy cũng rẽ vào dỗ Tâm, bà nói rất ngọt ngào: - Con về đằng nhà đi, không học thì chơi, chứ đừng ngồi đây, thầy đồ tức mình, thầy ra đánh chết. Con muốn mua gì bảo mợ, mai mợ đi chợ mua cho. Rồi mợ nhắn mẹ con xuống rước con về chơi mấy hômnhé. Bà cầm lấy tay Tâm lôi đứng dậy và nói tiếp: - Nào đứng lên đi về nào, bảo ngoan. Nhưng Tâm vẫn lắc đầu, co mình kéo lại ngồi phịch xuống. Bà tức mình lủng bủng: - Gớm, của đâu mà khó bảo thế! Một tên học trò nhỏ tung tăng chế: - A ha! Lêu lêu đi học nhớ nhà! Mẹ giận mẹ mắng về nhà vụng cơm! Tâm phần vì buồn, phần vì tức quá, òa lên khóc hu hu. Ông đồ cầm roi, lộp cộp đôi giày gỗ đi ra quát: - Tâm, về ngay học đi nào! Muốn chết đòn à? Nhẹ không ưa, ưa nặng. Tâm vẫn ti tỉ khóc. Ông đồ nóng tiết giơ thẳng vọt vụt ba roi quắn đít lại. Tâm giẫy nẩy lên, hai tay xoa đít, miệng kêu rối rít: - Ối giời ơi! Con lạy cậu! Ối giời! Con lạy thầy! Con chết mất, hu hu… ư! Con… chết mất! Ông đồ lại quát: - Thế mày đã chừa nhớ nhà chửa? Có về ngay học đi nào? - U hu! … Bẩm thầy con chừa rồi ạ! Con xin… xin về… u hu! Bà Chánh thấy tiếng khóc và tiếng thầy đồ quát vội chạy lại xin hộ Tâm: - Thôi xin thầy, thầy tha cậu ấy bận này, bận sau cậu ấy chừa! Rồi bà quay lại bảo Tâm: - Tôi đã bảo không nghe, nói ngọt không ưa, ưa roi vọt kia! Thôi đứng lên, ra đây tôi lau mặt cho. Tâm hu hu khóc, theo bà ra bể nước mưa. Bà lau chùi sạch sẽ cho Tâm rồi dẫn về đến phản học. Ông đồ nghiêm nghị bảo Tâm: - Bặt ngay đi và học đi nào! Tâm nức nở sụt sùi cố cất tiếng học: - Ức! Xuân du…ức phương thảo địa! Hư … Hạ… ức… thưởng lục …u …hà trì! * * * Từ hôm phải mấy roi lằn nổi như con trạch, Tâm sợ hết hồn không dám cưỡng nhời một lần nào, trong bụng, Tâm vẫn âm thầm chán ghét sự học, Tâm buồn lắm. Không học thì chịu kém, phải đòn luồn khố xấu hổ không thể nào chịu được! Nên vẫn phải học… chứ trong tự đáy lòng, Tâm có được yên chí mà học đâu, Tâm vẫn thao thức nhớ nhà. Có khi, sau buổi học, Tâm lẻn ra đầu làng, một mình ngồi trên đường đê trông về những núi xanh xanh tít mù xa qua những lớp lũy tre xanh thẳm và cây cối bù rù… Tâm đăm đămnhìn và tưởng tượng: - Kìa làng ta kia rồi. Mọi người đang làm lụng. Mọi trẻ đang nô đùa! Ước gì ta có cánh mà bay về rồi lại bay xuống! Hễ có một người quen nào qua chơi đây, lúc ra về, Tâm cũng theo ra đến tận đầu làng, và đứng trông theo cho mãi khi dẫy làng đằng kia che mất bóng người. Nhiều lần như thế, ông đồ thường không nỡ đánh, tìm ra một kế rất diệu để giữ Tâm ở nhà. Một hôm Tâm đang bần thần ở gốc cây gạo đầu đình, một người to lớn đi qua liền quát hỏi: - Thằng bé này con nhà ai mà đứng đây? Tâm sợ hãi nói: - Bẩm ông, tôi là cháu ông đồ ở trong ông Chánh. - Ở trong ông Chánh sao ra đây? À thằng này trốn học. Con ai, cháu ai tao cũng túm cẳng, tao vất xuống sông cho mất giống lười! Tâm khóc thét lên, cắm cổ chạy một mạch về trường! Từ đấy Tâm không dám một mình thơ thẩn ngoài đường nữa. Những buổi chiều tà và những ngày mây đen thảm đạm, Tâm buồn rầu nhớ nhung não nuột, chỉ đành vơ vẩn ở xó nhà. Tâm bứt những chiếc hoa sặc sỡ, nhặt những chiếc lá úa vàng về bẻ thành hình vuông vắn để ở khe cửa sổ làm đình. Khi tan học, khi ra đi giải, Tâm lẩn lút đến khe cửa chắp tay lâmrâm cầu khẩn thánh phù hộ cho Tâm được vui vẻ, khỏi nhớ nhà và viết đẹp, học giỏi. Lòng mong mỏi của Tâm chỉ có vậy. Về việc học, cố nhiên, không mấy khi Tâm bị quở trách và chê bai. Còn sự nhớ nhung lâu cũng nguôi nguôi dần trong tâm trí của cậu thư sinh bé nhỏ. Nhưng mỗi lần về thăm nhà xuống, lại là mỗi lần khóc sướt mướt, mỗi lần nhớ thắt ruột là mỗi lần phải đòn nên thân! Mà Tâm vẫn không tài nào chừa được, nỗi buồn thiu nó phát đâu tự đáy lòng Tâm! Lại ủ rũ mất đến mấy ngày. Tâm muốn kêu gào giời đất mà minh oan cho thân phận học trò. “Bé bỏng đã phải xa nhà theo học, mỗi năm được độ vài tháng ở nhà. Rồi càng nhớn đi học càng xa, về thăm càng ít, xót xa thay cái cảnh một mình nơi đất lạ! Rồi còn đi thi nữa. Thi đỗ phải ra làm quan. Thành ra cái đời học trò thật là khổ sở. Suốt đời phải lang thang thiên hạ, xa nơi yên ấm thân yêu, xa cha mẹ vợ con, anh em thân thuộc! Thế thì họ làm khổ nhau chi, bắt nhau phải cơ cực vì đi học! Ước gì sau này đi thi không đỗ! Ta được về ngay nhà chăn trâu cầy ruộng như chú cu Thìn, như bác xã Năm!...” Cái ý tưởng ấy cứ quyến luyến Tâm mãi, và sau, mỗi khi ở nhà xuống trường, nó lại biểu phát rất mãnh liệt. Cho mãi đến năm mười ba tuổi, hiểu rõ giá trị của sự học, cái ý tưởng ấy mới tiêu tan như mây khói, mà nhường chỗ cho cái lòng ham muốn không bờ bến những phút vinh quang trên bực thang khoa cử. Chương IX Mặc dầu Tâm vẫn nhớ nhà và chán ghét sự học như vậy, nhưng nhờ ở roi vọt và hình phạt ở người ngoài làm Tâm sợ, Tâm vẫn tiến tới mau hơn những trẻ khác. Hơn sáu tháng theo ông đồ Trí, Tâm đã viết buông được và theo đúng được lề luật của lớp học trò nhỏ. Mỗi ngày kể nghĩa xong, đọc bài hôm trước, rồi buổi chiều viết bài học tối, lại viết một tờ chữ phóng để thi hơn kém. Ngày nào cũng như ngày nào, không hề thay đổi. Mỗi tháng hai kỳ học ôn nhằm vào ngày rằm và mồng một. Lớp học trò nhớn, mỗi tháng có một kỳ ôn định vào ngày nào tùy tiện không nhất định. Tuy mỗi đứa học sách khác nhau và không bài nào giống bài nào, nhưng đến kỳ ôn đều phải đưa sách lên ông đồ phê định đâu là vi chỉ (hết). Phần nhiều bắt đầu từ kỳ ôn trước cho đến cách bài mới một vài tờ. Đến ngày ôn, buổi học náo nhiệt hơn hẳn ngày thường. Học trò không phải học nghĩa. Đọc bài hômtrước xong rồi, chúng quây quần lấy giường ông đồ. Đĩa son mài đỏ thắm, chưa dùng gì đến, những bọt sủi cứ lặn dần dần và dồn cả nước xuống tụ quanh hòn son nhẵn thín. Đứa nào cũng muốn đưa sách cho ông đồ chấm trước. Ông đồ cầm lấy mỗi quyển sách, tay mở luôn luôn đều đều từng tờ một, xem chừng đến gần bài học hôm qua ông tìm đoạn nào cách, ông phê chữ “y sóc kỳ” hay “y vọng kỳ” tùy theo ngày ôn vào mồng một hay ngày rằm, rồi ông quẳng sách ra giả. Đứa có sách cầm lấy lách ra cho những đứa khác len vào. Như thế quanh giường ông đồ thưa dần, thưa dần cho đến khi chấm hết. Sau đó học trò ôn lại một mạch từ đầu cho đến cuối xem có chữ nào quên. Hễ quên là phải lại hỏi ông đồ ngay. Ồn ào một lúc, rồi buổi học tan, sớm hơn mọi ngày nhiều. Buổi chiều không có gì khác, công việc cũng như ngày thường. Sáng hôm sau, học vội vàng buổi nghĩa, rồi đến lúc “hỏi ôn”. Học trò lại đứng quây kín giường ông đồ, tay đứa nào cũng cầm sách mở sẵn lăm lăm đưa ông đồ hỏi. Ông nhận sách, lật qua mấy tờ, đọc một câu trong ấy, đoạn ngửng nhìn tên học trò có sách. Tên này nhắc lại câu ông vừa hỏi, rồi đọc một tràng dài nữa. Ông đồ mở qua mấy tờ hỏi sang câu khác. Tên học trò vớ ngay lấy câu ấy đọc một thôi nữa. Lại mở mấy tờ, lại một câu thầy đọc trước, lại một thôi trò đọc sau! Hết ba câu, mà được trơn tru cả, thầy đồ phê cho chữ “Ưu mác”, có một nét mác rất dài, nghĩa là tốt thượng hạng (hợp với chữ Excellent của Pháp). Ba câu được cả, nhưng đọc hơi ngắc ngứ một tị được phê chữ “Ưu” cộc, với một nét mác ngắn, (hợp với chữ Très bien). Ba câu ngắc ngứ nhiều được phê chữ Bình dài có một nét sổ rất dài (hợp với chữ Bien của Pháp). Ai vừa vừa được phê Bình cộc (Assez bien). Ai hơi khá được chữ Thứ (Passable). Tên nào phải phê chữ “Liệt” nhỏ, người ta gọi là “Liệt mắt cua”, kém quá thì bị chữ “Liệt” to tướng tức là hợp với chữ “Nul” ở trong tiếng Pháp. Cứ lần lượt hỏi như thế, đứa nào xong, nhặt sách lên ra, đứa khác đưa sách vào. Hỏi hết lượt, rồi các học trò lại vác sách lại cho ông đồ xếp thứ tự để định thưởng phạt. Thỉnh thoảng có kỳ thưởng ngọn bút, thoi mực hay một vài chục giấy. Còn phạt thì kỳ nào cũng có. Những đứa bị phê liệt thẩy đều bị phạt, quét nhà, luồn khố, chui gầm giường. Ngoài ra còn phải chịu đánh nữa vì ông đồ đây rất dữ đòn. Tùy chữ “Liệt” to, nhỏ học trò phải chịu số roi bao nhiêu đấy. Nhưng ông đồ không đánh, ông giao roi cho những đứa được “ưu” phải làm việc. Vô phúc những tên nào nể bạn mà cái roi mây giơ cao đánh khẽ nó giáng xuống đít một cách nhẹ nhàng. Gặp đứa nào như thế, ông đồ sai nọc ngay đứa ấy ra, ông nắn nắn uốn cái roi mấy lượt, rồi thẳng tay vụt như mưa giáng xuống mấy chục roi kiểu mẫu. Thật là điếng người! Cho nên những đứa nhất nhì, tay cầm roi vụt, mắt vẫn phải lấm lét nhìn trộm ông đồ, sợ cái roi nó phản mình thì khốn, vạ người lại trút cả vào thân. Chỉ chết các anh bị “liệt” thật là tê liệt! Những roi vụt mỗi lúc một mạnh thêm, một cay ác, một gớm ghê! Bởi vậy đứa nào cũng sợ, hễ đến kỳ ôn là chăm chăm học lấy được, học suốt ngày, học cả đêm, học cho lầu trơn như cháo. Thế mà vẫn còn phấp phỏng, ngộ nhỡ quên một cái thì sao! Và trong số học trò ấy sợ nhất là Tâm, một đứa xưa nay chúa nhút nhát! Một hôm, Tâm vừa lách qua lớp rào người quanh giường ra ngoài, mặt sị như quả thị, băn khoăn vừa mở mấy tờ sách, vừa nói với mấy đứa bạn ra trước đang ngồi học: - Kỳ ôn này, tao gặp đoạn lắm chữ khó quá, trắc trắc là; không khéo lại liệt mất, chúng mày ạ! Một thằng nói: - Sợ đếch gì? Anh ạ (vì Tâm là cháu ông đồ nên được kính trọng, cả trường ai cũng gọi là anh) cứ học mãi phải thuộc, chia ra từng đoạn một mà học. Thằng khác: - Cần gì học! Anh khi nào thầy nỡ đánh. Thằng khác nữa: - Mày có mà biết! Con cháu thầy, thầy càng đánh dữ! Đấy cậu Dũng đấy, hơi một tí là phải đòn! Anh Tâm thử không thuộc xem! Một thằng khác vừa lấy được sách chạy ra thêm vào cho vui câu chuyện: - Cho anh Tâm không thuộc một lần, để anh ấy bị “liệt” anh ấy bị đòn, chứ riêng chúng mình chịu đòn mãi à. Tao biết chắc mai anh Tâm thế nào cũng tụt xuống bét kia mà! Rồi quay lại Tâm, nó nói với vẻ đắc ý: - Này anh Tâm ạ, tôi như anh, tôi không học kỳ ôn này nữa, khó bỏ mẹ đi ấy. Học khổ thân mà chưa chắc đã thuộc. Thà chịu một trận đòn cho rõ mùi đời còn hơn! Thôi gấp sách lại, anh ạ! Những nhời nói của các bạn càng làm cho Tâm bối rối thêm. Nuôi một nỗi lo ngay ngáy trong lòng. Tâm không còn đủ bình tĩnh mà học, nên càng kêu mỏi miệng, bốn mươi tờ sách ôn vẫn cứ bập bõm không trôi. Tâm không nghĩ gì đến chơi, đến nghỉ. Tâm chỉ ngồi học lẩm bẩm ở trong mồm, học như nuốt đi, học như vồ lấy! Thế mà đến sáng hôm sau, lúc học nghĩa bài mới xong rồi, Tâm ngồi nhẩm lại, vẫn trúc trắc quên hoài! Tâm sợ run lên và tự hỏi: - Tại sao học thế mà mình vẫn không thuộc? - Tại mồm thằng Chính độc địa, hôm qua nó bảo mình thế nào cũng liệt? Ta phải đi đốt vía nó! - Hay tại sáng sớm hôm nay, đi ra đồng sớm gặp ngay cái đĩ ở? Chứ tối qua mình đã thuộc rồi kia mà? - Hay tại số mình ngày hôm nay nhất định phải chịu hình phạt, trăm đường số vẫn chẳng tránh khỏi nào! Biết vậy mình cứ theo nhời thằng Chính cho xong, học gạo mãi khổ thêm! Tâm vừa nhẩm vừa vẩn vơ nghĩ vậy, nên chẳng lợi gì mà chỉ thêm có hại đến cho mình, Tâm không kịp nhìn lại bài nghĩa vừa học, ông đồ gọi lại kể. Tâm ngắc ngứ ư a mãi mới kể hết hai tờ giấy học trò. Trước khi dẫn nghĩa, ông mắng tàn tệ, mắng mất mặt mất mũi vì bài nghĩa không thuộc, Tâm tủi thân nước mắt vòng quanh, mặt đỏ bừng, mũi sụt sịt len lén đi ra tránh vẻ giận lôi đình của ông đồ. Thì cuộc hỏi ôn đã bắt đầu, Tâm càng thêm cuống cuồng! Nhưng cũng cố trấn tĩnh mang sách vào. Qua ba lượt đọc ngấp ngứng lúng túng, Tâm được phê “thứ cộc”, Tâm mừng quá, đánh rơi cả sách, thở mạnh một tiếng nhẹ nhõm, loạng choạng bước ra ngoài hớn hở khoe với các bạn: - May quá chúng mày ạ! Tao được thứ cộc. Hút chết! Thật hút chết, anh Minh ạ! Minh là một người học trò nhớn của ông đồ, vui vẻ, dễ tính, lại chiều chuộng Tâm, hay bảo ban Tâm, nên trông thấy, Tâm vội khoe ngay. Minh mỉm cười nói: - Được có thứ cộc mà mừng cuống lên. Ngộ người ta ưu bình cả thì sao? Tâm ngẩn người ra: - Nhưng cũng thoát phải đòn! Quả nhiên, tan cuộc hỏi ôn, chúng nó được ưu, bình và bình thứ cả. Lẽ cố nhiên Tâm thứ cộc bị bét, phải quét nhà trường, cái nhà năm gian rộng mông mênh. Tâm lẳng lặng đi lấy chổi lên quét, ngẫm nghĩ: - Rõ số đen, không tài nào tránh khỏi đen! Đang hì hục soi, ông đồ hỏi: - À, hôm nay thằng Tâm quét nhà có phải? Học trò thưa: - Bẩm thầy vâng ạ. Ông đồ quát: - Sao thằng Tâm học không thuộc? À! À! - Dạ bẩm thầy con có thuộc đấy ạ! - Có thuộc sao lại bét? - Bẩm thầy tại… Tâm ngần ngừ, ông đồ quát: - Sao? - Bẩm thầy, tại số con hôm nay đen ạ! Cả bọn học trò cười. Ông đồ trừng mắt mắng: - Số, không học đổ tại số! Mày liệu cái hồn mày đấy!!! Tâm lặng im thui thủi quét. * * * Ở đời, việc dù khó, dù đáng sợ đến đâu, lâu lâu cũng phải quen, phải thường. Dần dần Tâm đã quen với việc học ôn rồi. Tâm coi như không, không có chi là kinh khủng nữa. Nhưng cái sợ ấy vừa qua, lại tiếp ngay đến cái lo khác: Tâm phải viết ám tả! Học đã khá khá, viết đã đúng chữ, học trò phải viết ám tả để tránh sự nhiêu khê cho cả thầy giáo và học trò? Viết ám đây theo đúng nghĩa đen của nó là gấp sách lại và viết tầm những câu mình đã học trong bài. Viết ám tả lợi cho học trò vì được nghĩ lâu và tốt thêm chữ. Lệ viết chỉ có hai mươi chữ hay bốn mươi chữ là cùng! Buổi nghĩa tan, học trò mang vở ra, lấy nghiên mài mực, mở sách xem qua một lượt cẩn thận, rồi mang sách lên trình ông đồ. Ông đọc một câu ở trong bài, gấp sách lại và xếp thành chồng ở bên ông. Tên học trò nhẩm cái câu vừa đọc ra nằm xuống viết, vừa viết vừa đọc, để nhớ ra những chữ nối sau. Lúc, lúc lại ngừng bút đếm. Đếm đủ số đã định, dù dở câu cũng bỏ đấy. Rồi ngồi dậy đọc lại. Đọc đi đọc lại xemcó chữ nào mất, xong rồi đưa lên ông đồ chấm, tính điểm để định hơn kém. Mỗi chữ mất trừ hai điểm, chữ hỏng, sai trừ một điểm, chữ dưới nhầm lên chữ trên trừ hai điểm. Điểm tính số hai mươi. Tên nào được cả hai mươi điểm là ưu mác. Rồi thứ tự xuống Bình, Thứ. Tên nào không đủ điểm bị phê chữ “Bất cập”, phải Bất cập là đáng xấu nhất, vừa phải lau bàn ghế vừa phải “luồn khố”. Tâm sợ nhất cái tội “luồn khố” nên những buổi đầu, Tâm học càng cẩn thận lắm. Vừa học nghĩa xong, chưa kịp kể, Tâm đem bài cũ ra học lại lầu như cháo trơn. Một đứa bạn nói: - À, anh Tâm hôm nay viết ám tả, thảo nào học ghê quá! Một đứa khác: - Này anh Tâm ạ. Học thuộc vừa chứ. Học thuộc quá, nó lú mất đấy. Có khi nghĩ không ra đâu! Tâm không nghe, vẫn cứ học. Rồi đến lúc kể nghĩa xong, bắt đầu giờ viết ám tả, chúng bạn đã đưa cả sách lên rồi và giở về viết, Tâm mới đem sách lên vừa đi vừa đọc lại. Ông đố cầm lấy sách, mở tờ nọ sang tờ kia, Tâm chớp mắt, đỏ mặt, trong lòng hồi hộp. Ông đồ đọc một câu, gấp sách lại, quẳng lên chồng bên cạnh. Tâm nhanh nhẩu đọc lại, nhảy cững qua mấy đứa học trò đang nằm viết, về chỗ mình hăm hở viết. Nhưng viết đến nửa chừng, Tâm bỗng ngồi đực ra, quên ngay mất một câu, Tâm đếm đi đếm lại, mới được có mười lăm chữ. Tâm ngồi dậy, đọc to những chữ vừa viết, rồi ngồi thừ ra, cắn bút, nghĩ mãi không ra, mắt đỏ, tai nóng bừng, nước mắt chạy vòng quanh, sắp chực khóc! Chợt may mắn sao, trí thông minh đến giúp đỡ, Tâm nhớ ra được cái câu đang mong mỏi ấy. Tâm rú lên như một anh nhịn đói hai ngày vớ được cơm. - Có thế chứ! Có thế chứ! Chả nhẽ học thuộc thế mà “rặn” mãi không ra. Rồi Tâm nằm xuống hí hoáy viết. Một lúc sau Tâm vác vở đưa lên trình ông đồ. Ông cầm lấy xếp vào chồng vở rồi rút sách ném giả Tâm, Tâm mở sách ra, vừa đi xuống vừa lẩm bẩm đọc. Về đến chỗ thì đọc vừa xong, Tâm ném phịch sách xuống phản, ngồi phệt xuống, vỗ tay đánh đét một cái vào đùi và kêu lên rằng: - Thôi chết rồi! Hỏng hai chữ, mất hai chữ, đảo ngược một chữ! Có chó không! Một tên học trò hỏi: - Sao? Sao? Mất nhiều không? Tâm nhắc lại: - Hỏng hai chữ, mất hai chữ, đảo lộn một chữ! Một đứa bạn khác nói: - Như thế được mười hai điểm, không bét đâu mà sợ. Còn chán thằng hỏng! Học trò đã để cả vở lên rồi. Ông đồ chấm. Tay ông cầm bút son ngoăn ngoắt quặc chữ mất, vòng chữ lộn và chấm lên mặt chữ hỏng rồi phê điểm. Những vở cứ đều đều vất ra. Tâm cầm lấy vở của mình ra xem: Thập nhất điểm, thứ, chữ son còn đỏ thẫm. Thằng bạn đứng gần ghé nhìn vào vở Tâm và nói: - Thứ mác, không sợ anh ạ, anh còn hơn thằng Tài, nó thứ cộc. Tâm thở mạnh, nhẹ nhõm hẳn người! Chương X Sự học càng ngày càng khó thêm. Ông đồ thấy Tâm học được, theo kịp những đứa đã học lâu, ông cứ dần dần bắt Tâm theo những môn khó ở nhà học. Thành thử tâm trí Tâm không lúc nào được nghỉ ngơi, thư thả, ngoài mấy độ nghỉ mùa và nghỉ tết. Óc lúc nào cũng phải làm việc, lòng lúc nào cũng phải lo âu! Tâm đã quen với học ôn và viết ám tả. Học ôn Tâm được ưu luôn, và viết ám tả ngày nào Tâm cũng nhất nhì. Tiếng Tâm học giỏi đã lan truyền đi khắp cả. Nhưng Tâm còn bé dại chưa lấy thế làm vui mừng cho lắm, Có mừng Tâm chỉ mừng là thoát khỏi quét nhà, phải đòn và luồn khố. Thế thôi. Nhưng mà người ta có để Tâm yên ổn với nỗi vui mừng đơn giản ấy đâu. Cái luật ở đời là phải tiến, tiến mau chừng nào hay chừng ấy. Nên vừa thư thư được ít ngày, Tâm đã phải tập làm câu đối. Tập làmcâu đối xong làm thơ, làm bằng nôm thành thuộc, rồi làm bằng chữ, ông đồ bảo vậy. Ông giảng cho Tâmbiết thế nào là chữ nặng, chữ nhẹ: Những chữ chỉ người, chỉ loài vật, chỉ vật là chữ nặng. Những chữ phụ trong câu như chữ chi, dã, giả, hồ, nhi, vân vân là chữ nhẹ. Còn một hạng chữ không nhẹ không nặng, nó thường chỉ công việc làm, người ta gọi là chữ thường, đại để như chữ quy (là về), khứ (là đi). Ông đồ nói tiếp: - Làm câu đối phải đối chữ nặng với nặng, nhẹ với nhẹ. Như sông phải đối với núi, giời phải đối với đất. Vậy cây cau, mày đối với gì, cây cau cũng là chữ nặng… Tâm ngẫm nghĩ nhìn cây cau, nhìn các bạn, nhìn ông đồ, rồi nhìn ra bờ ao, thấy cây dừa tầu lá tua tủa cũng giống cây cau, liền đối ngay: - Bẩm thầy cây cau đối với cây dừa ạ! Ông đồ lắc đầu: - Không được, thất luật rồi. Làm câu đối phải hiểu luật bằng trắc. Phải đem chữ bằng đối với chữ trắc. Đây cây cau, cây cau bằng mà đối với cây dừa, dừa dưa bằng, thất luật, hỏng! Phải đối với cây quít, quít quịt trắc, chẳng hạn… Vậy từ đây, trước khi đối, phải đánh vần bằng trắc đã, nghe chưa! - Bẩm thầy vâng ạ! Tâm sực nhớ đến câu chuyện cái anh chàng ngày trước mà người ta kể lại cho nghe: ”Một anh chàng dốt muốn lấy con gái một ông nhà giầu trong vùng. Cái ông này lại hay ra câu đối. Anh không biết làm thế nào, bên hàng xóm có người học trò, anh bèn sang tỏ thật nỗi lòng, người học trò bảo anh cứ đi, để mình làm đầy tớ theo hầu giúp đỡ. Hai người cùng nhau đi. Người học trò dặn anh đủ điều. Đến nơi, người ấy còn dặn lại một lần nữa: - Hễ người ta ra câu đối tức cảnh, anh thấy cảnh ở đấy có gì lạ và linh hoạt, anh lựa mà đối ngay, tôi ở ngoài hùa thêm vào. Anh lại phải nhớ điều này: Hễ câu đối về cảnh, mắt tôi trông ngang, về tình, mắt tôi trông xuống… Vào đến nơi, ông nhà giầu lên tiếp, biết rõ ý định của anh kia rồi, ông liền ra câu đối: - Cây cau! Anh kia trông người học trò, thấy mắt nhìn ngang biết là câu đối tức cảnh, liền trông ra sân, thấy con cua đang bò lộm ngộm, đối ngay: - Con cua! Ông nhà giầu lắc đầu: - Ứ, càu cau bằng mà cùa cua bằng, thất luật, sổ toẹt! Anh học trò cãi: - Bẩm cụ cậu con đối hay lắm đấy ạ! Ông nhà giầu: - Anh nói lạ, hay ở chỗ nào? - Bẩm, cụ ra cây cau, nhất trụ kình thiên (một cột vút giời), cậu con đối với con cua, bát túc chỉ địa (tám chân trỏ đất) thật hay vô cùng, khuyên trần cả hai bên. Ông nhà giầu chịu. Anh dốt kia đắc thắng giở về” Tâm nghĩ bụng mình rõ dại, giá đối ngay thế lại hoá hay. Hôm sau, Tâm lại phải gọi lên thử xem đã hiểu luật lệ đối đáp chưa. Ông đồ nhìn Tâm hỏi: - Mày đã hiểu nhẹ, nặng, bằng, trắc, chưa? Tâm nhanh nhẩu đáp: - Bẩm thầy con đã hiểu. - Được, hễ hiểu sai và thất luật là phải đòn nghe không? - Bẩm thầy vâng ạ. Rồi ông đồ ra chữ Thánh, Tâm đối chữ Thần, ra chữ Gia (nhà), Tâm đối chữ Quốc (nước), ra Phụ tử (cha con), Tâm đối Quân thần (vua tôi). - Được lắm. Ông đồ gật gù ra câu nữa: - Nhân tâm Tâm lẩm bẩm: - Nhân tâm là lòng người. Nhần nhân bằng tầm tâm bằng. Hai chữ bằng cả. Rồi Tâm đứng đực người ra suy nghĩ tìm tòi, mãi không đối được. Ông đồ giục: - Mau lên chứ, những câu hai, ba bốn chữ… chỉ phải đánh bằng trắc chữ cuối cùng thôi. Ngay lúc ấy, một tên học trò, ý chừng muốn xui Tâm đối với địa diện (mặt đất) hay địa thế gì đấy, nháy Tâm và lấy ngón tay chỏ xuống đất, Tâm trông theo ngón tay thấy một bãi cứt gà, liền lẩm bẩm: - Tầm tâm bằng, cứt cựt trắc, được! - Bẩm nhân tâm đối với kê cứt ạ! Mọi học trò đều phì cười. Ông Chánh, chủ nhà, ngồi trên trường kỷ, chăm chú xem từ nãy đến giờ, cũng phải bật cười và nói chêm vào: - Nhân tâm là lòng người mà đối với cứt gà thì xấu lắm, sổ toẹt! Ông đồ đỏ mặt hung hăng vụt Tâm ba roi giữ thể diện và mắng chữa: - Thằng này đốc hư rồi, học một ngày một đổ đốn đi. Tao lại tống cổ về với bố mẹ mày cho xong. Tâm sụt sịt khóc đi về chỗ ngồi. Và mấy hôm sau, cứ buổi chiều, Tâm theo đúng lệ, phải làm năm câu đối. Không phải gọi lên đối ứng khẩu như trước nữa. Ông đồ ra câu đối vào vở, mỗi câu đối viết vào một dòng, Tâm đem về nghĩ đối được câu nào viết ngay xuống dưới dòng ấy. Được tha hồ nghĩ, tha hồ mở sách tìm tòi. Chiều hôm sau mới chấm. Câu nào hay lắm thì khuyên to, khuyên đến hai ba khuyên. Chữ nào đối chọi lắm, khuyên trần cả hai bên. Câu hay vừa, được khuyên nhỏ. Câu thường, điểm điểm mấy cái. Câu hỏng sổ một cái dài. Câu nào hỏng lắm sổ toẹt hai ba nhát! Hễ tất cả những câu ra đều bị sổ toẹt cả là “Bất cập” thế nào cũng bị luồn khố và phải một trận đòn tối tăm mắt mũi. Còn phải mỗi câu bị là ba roi mây giơ thẳng cánh! Tâm đã dạn dần, Ngày nào Tâm làm được trôi chảy và tin chắc thế nào cũng không đến nỗi sổ. Tâmmúa tay vui mừng và hớn hở khoe với các bạn cái câu tìm được hay và đối chọi. Nhưng ngày nào gặp câu khó quá, tìm nghĩ mãi không ra, Tâm đối liều đối lĩnh vào đấy, rồi vội bỏ đi chơi ít, tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: - Đếch vào! Muốn ra thế nào thì ra, chạy chơi cái đã! Sự ham chơi của tuổi trẻ dần dần thắng được sự sợ hãi của roi vọt. Nhưng mà đây chỉ là tạm bợ trong thời gian ngắn ngủi. Chương XI Tâm đã lên mười tuổi. Nghĩa là đi học đã được 4 năm rồi. Bốn năm giời theo học, tâm hồn đã nhiều khi có những trạng thái lạ lùng. Có những lúc bồi hồi cảm xúc. Có những lúc vui mừng hớn hở, có những lúc thao thức nhớ nhung… Nhưng chưa lúc nào Tâm thấy mình say sưa ham học, Tâm chịu khó học, chẳng qua vì bắt buộc, vì sợ phải đòn, sợ luồn khố, sợ xấu hổ. Thỉnh thoảng, được mọi người khen lao, Tâm thấy thinh thích. Nhưng cái lúc thinh thích ấy không thể bù lại được những nỗi lo âu buồn nản. Trong lòng Tâmvẫn nặng trĩu một vẻ bực tức ngấm ngầm, nhớ tiếc cái lúc nô đùa thỏa thích khi thơ ấu! “Ai đời, một đứa trẻ bé bỏng như thế này, đang tuổi hay ăn chóng nhớn để đi chơi, người ta lại bắt học lấy học để, học ngày học đêm, để rồi sau đi thi đỗ làm quan. Thi đỗ làm quan thì có lợi gì cho đứa trẻ”. Tâm thường nghĩ vậy. Đến năm nay, đã lên mười tuổi và nhờ học nhiều sách vở, hiểu nhiều nghĩa lý hơn, Tâm đã có vẻ người nhớn một ít. Cái ý nghĩ nông cạn non nớt kia đã nhường chỗ những nguồn tư tưởng sâu sắc xa vời! Cái đời học trò, Tâm chưa ham thích cho lắm, nhưng Tâm mong mỏi được như những ông trạng đời xưa: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh, Nguyễn Trực, mà ông đồ thường kể lại trong lúc chiều tối nhá nhem. Ở trong lòng cậu bé mười tuổi đã bắt đầu nẩy mầm cái sự ham muốn vinh quang. Nhất là tự đầu năm nay, ông đồ Trí đi ngồi chỗ khác, đã đem Tâm đến một thổ ngơi thuận tiện cho sự nẩy nở ấy. Tâm đến nơi với tất cả sự vui mừng của một người được chung quanh hoan hỷ đón chào. Họ thì thầm nhau để lọt vào tai Tâm những mẩu chuyện có thể làm đỏ mặt sung sướng cả đến những người rất lạnh lùng: - Bé mà bé hạt tiêu đấy nhé! Học giỏi nhất trường Vân Trung đấy. Học hơn cả những đứa học đến bảy tám năm rồi! - Học qua cả tứ thư, ngũ kinh rồi. Bây giờ sắp học sử! - Câu đối giỏi đáo để, thầy đồ ra là đối liền! - À, tao biết rồi, cái anh tao nghe nói đâu nhân tâm đối với kê cứt chứ gì? Thế thì chả giỏi! Tâm nghe thấy cũng phải mỉm cười, nhưng cũng không hại cho vẻ sung sướng vẫn còn lộ trên hai má đào đỏ hồng, Tâm phấn khởi, càng vui vẻ chăm học tập hơn. Một hôm với các bạn mới đi thăm khắp làng, gặp một ông kỳ mục là tay hay chữ học nhiều, ông bắt Tâm đứng lại và hỏi: - À, cậu có phải là cậu Tâm? Tôi thấy thầy đồ và nhiều người khen cậu hay chữ lắm, thế cậu học đến sách gì rồi? - Bẩm ông, con đương học Kinh Thư! - Tứ thư học chưa? - Bẩm tứ thư học rồi ạ. - Sử (5) học chưa? - Bẩm ông, sử con học hết Hậu Hán sang đến Tấn rồi. Thầy con bảo học ngũ kinh đã, rồi hãy học tiếp Sử sau. - Tốt lắm, cậu đối hộ tôi câu này nhé: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ” Tâm ngẫm nghĩ, rồi đối ngay: - Bẩm con xin đối là “Thánh nhân an tư nguy, phú tư bần” Ông kỳ mục khen: - Được lắm. Cậu làm thơ chưa? - Bẩm ông, con chưa biết làm, thầy con chưa dạy làm. - Cậu học giỏi thật, người ta đồn không sai, nhưng phải học làm thơ chứ, về bảo thầy đồ dạy đi nhé. Thôi chào cậu nhé. - Con không dám. Kính chượng (6) ông ạ! Tâm giở về với mối băn khoăn trong lòng, không biết có nên nói với ông đồ hay đừng nói. Nói với ông dạy làm thơ, rồi ngộ khó khăn không làm nổi, học không nổi, lúc ấy ông đồ mới mắng nhiếc cho, đánh đập cho, rõ là xấu hổ, ê chề, rõ là xin dây mà tròng cổ. Dại gì! Nhưng mà không học, ra đường gặp người thắc mắc, người ta bắt làm thơ không làm được, có phải rõ dơ, mất cả tiếng tăm. Đằng nào cũng tội. Tâmcòn phân vân như thế để nghĩ vài ngày đã. Thì ngay chiều hôm sau, ông đồ đã gọi Tâm lên bảo rằng: - Năm nay đã nhớn, mày phải tập làm thơ, rồi làm luận, làm phú nữa. - Bẩm vâng ạ! Tâm giả nhời ngay vậy, trong bụng không lo như mọi khi trước, phải tập món gì mới, và cũng không mừng, vì chưa hiểu ông sẽ bắt bẻ thế nào. Tâm thản nhiên lắm. Có phải Tâm đã băn khoăn, sửa soạn với “vấn đề” này đã hơn một ngày rồi không? Nó không vụt đến bất thình lình đập ngay vào óc Tâm như những kỳ trước. Cho nên Tâm bình tĩnh được mà đợi công việc đến. Ông đồ nói: - Bây giờ hẵng tập làm thơ nôm đã, làm thơ nôm thành thuộc, khỏi thất niêm, thất luật, đúng biền ngẫu rồi thì làm thơ chữ. Thơ chữ cũng vậy. - Bẩm thầy vâng ạ. Rồi ông đồ lấy bút viết bài thơ “Người bồ nhìn” của vua Lê Thánh Tôn ra vở để làm mẫu. Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ Một lòng vì nước há vì dưa! Xét soi trước mặt đôi vòng ngọc Vùng vẫy trên tay một lá cờ Dẹp giống chim muông, xa phải lánh Rẻ quân cầy cuốc, gọi không thưa Mặc ai chen chúc đường danh lợi Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa. Rồi ông đồ giảng: - Bài thơ này là thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Phép làm thơ phải hiểu vần và luật bằng trắc. Bài tám câu có năm vần, bài bốn câu có ba vần! Thơ mà sai vần thì không đọc được. Luật bằng trắc có hai thể, thể bằng và thể trắc. Thể bằng bắt đầu hai chữ bằng, thể trắc hai chữ trắc. Cứ hai câu với nhau đúng điệu bằng trắc, là đúng luật, sai điệu là thất luật. Bốn chữ đầu ở câu tam, câu ngũ, câu thất không cùng một thể với bốn chữ đầu câu nhị, câu tứ, câu lục và tất cả câu cuối cùng không cùng một thể với câu đầu là thất niêm. Chữ đầu và chữ thứ ba ở mỗi câu, chữ thứ năm ở câu nhất nhì không cần đúng điệu bằng trắc người ta gọi là nhất tam bất luận và ngũ bất luận. Tuy không cần nhưng nếu đọc lên khó nghe, người ta gọi là khổ độc, thì lại phải đổi cho đúng điệu. Hiểu niêm luật bằng trắc thế rồi, lại cần phải rõ cách xếp ý tứ. Câu thứ nhất là câu phá đề mở đầu bài và bao quát cả ý trong bài. Câu thứ nhì là thừa đề, nối xuống bài. Hai câu tam tứ là thích thực, giải thích rõ ràng đầu bài. Hai câu ngũ lục là tổng luận bàn rộng đến bài. Hai câu cuối là kết luận, kết thúc cái ý trong bài lại… Những bài thơ ngũ ngôn hay thất ngôn dài quá tám câu gọi là trường thiên hay hành. Các thể thơ đều tương tự nhưng chịu khó nhận kỹ là làm được ngay. Như bài thơ này là thơ thể trắc, vần bằng. Đoạn ông đồ chỉ tay vào bài thơ cho Tâm hiểu: - Đây này, trắc trắc bằng bằng, trắc trắc vần. Bằng bằng trắc trắc bằng vần. Cứ thế mà suy là biết ngay. Còn thì thể bằng, vần bằng như bài vịnh “thú nhàn” của cụ Trạng Trình. Ông đồ cầm bút viết: Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn, dù ai vui thú nào! Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chỗ lao xao, Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao! Tâm chăm chú nghe nhời ông đồ, chăm chú nhận hai bài. Tâm vui thích lẩm bẩm luôn trong mồm. Bằng bằng trắc trắc, bằng bằng trắc trắc. Tâm gật gù thỏa thích như một người mới khám phá ra một điều gì quan trọng. Mấy hôm sau, ông đồ hỏi Tâm: - Thế nào thằng Tâm đã hiểu luật thơ chưa? Tao ra thử một bài làm xem nhé! Tâm ngập ngừng nghĩ ngợi rồi thưa: - Bẩm thầy vâng ạ! Ông đồ trông ra sân thấy hai con gà sống đương chọi nhau, ông liền lấy làm đề: “Hai con gà chọi nhau” và bảo: - Cả anh Chấn, anh Chí, anh Lịch cũng phải làm thi xem nào. Vần được tha hồ chọn. Chấn, Chí, Lịch là ba anh học trò nhớn và xuất sắc nhất ở trường. Tâm nằm ngẫm nghĩ mãi, viết rồi lại xóa, viết lại xóa ba bốn lượt. Mãi sau mới viết thành bài đưa lên trình ông đồ: Hai con gà sống chọi nhau hoài Con nhớn dai, con bé cũng dai Vỗ cánh cong đuôi, chân đạp ngược Xù lông, chúi mỏ, mắt nhìn xuôi Toạc mào, gãy cựa mà không chán Trễ cánh què chân, cũng chửa thôi Hùng hổ cướp mồi thành tự hại Tranh nhau chi mãi! hỡi gà ôi! Ông đồ xem qua rồi lắc đầu nói: - Về luật thơ thì đúng, nhưng ý tứ sai cả. Con gà chọi nhau mắt nó nhìn ngang thẳng ra đằng trước, chứ có nhìn xuôi đâu. Tâm cãi: - Mắt nhìn ngang thì sai vần mất. - Ấy thế mới hỏng. Mà ý nghĩ tầm thường quá. Xù lông, chúi mỏ, toạc mào, gãy cựa, trễ cánh, què chân, cướp mồi... toàn là chữ khó nhọc cả. Phàm muốn làm thơ hay, ý phải đặt cho cao, chữ phải dùng cho thanh tao nhẹ nhõm, khẩu khí cao xa, thì sau mới mong ra người được, chứ tư tưởng tầm thường thì còn mong gì. - Đây, tất cả các anh đều nghe tôi kể lại cái tài mẫn tiệp và cái chí to tát của cổ nhân ngụ trong câu thơ câu đối cho mà nghe. Tả cái chổi mà người ta hạ thế này: Lời chúa vâng truyền đến ngọc giai Sai làm lệnh tướng quét trần ai Một tay vùng vẫy giời tung gió Bốn cõi tung hoành đất sạch gai Có rõ ra khẩu khí thiên tử không? Bài ấy của vua Lê Thánh Tôn đấy. “Ông Lương Hữu Khánh ngày xưa khi còn trẻ tuổi hàn vi phải đi kiếm ăn để học. Một hôm qua một bến đò, gặp vị hòa thượng cùng sang. Ông nghèo rách rưới lại lanh chanh xuống trước, có vẻ vô phép. Vị hoà thượng mắng, ông cãi lại và tự nhận là học trò. Vị hòa thượng kia bảo: - Đã là học trò phải làm một bài thơ tức cảnh chuyến đò. Ông làm ngay: Một bầu kinh sử, níp kim cương Ngươi, tớ cùng sang một chuyến ngang Đám hội, nhà chay, ngươi đủng đỉnh Lầu rồng, gác phượng tớ nghênh ngang! Ngươi sao chả nhớ nhời Hàn Dũ? Tớ vẫn còn căm chuyện Thuỷ Hoàng Qua chuyến đò này rồi lại biết Ngươi về thờ Phật, tớ thăng quan. Hòa thượng không giận, còn thưởng cho oản chuối và một quan tiền nữa. Thơ người ta như thế, chứ chúng bay chúi mỏ với xù lông! Nói đến người thợ ruộm mà người ta viết: Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ Triều đình chu tử tổng ngô môn. Thì hay biết mấy. Rõ ra cảnh anh thợ ruộm mà là cảnh một đức vua! Người ta cứ xem ở câu văn mà đoán được cái sự nghiệp của mình. Ngày trước ông Huyện Thanh Trì gặp một người học trò vào xin tiền. Ông thấy là học trò, liền ra cho câu đối, hẹn đối được mới có tiền. Ông ra rằng: - Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư (trì là ao, thanh là trong, ngư là cá) Người học trò đối ngay: - Sông Ngân Hà nước bạc phau phau, vịt nằm ấm áp (hà là sông, ngân là bạc, áp là vịt) Câu đối thật hay vô cùng, chọi từng chữ một. Ông Huyện phải thưởng một lạng bạc và khen: - Ông ngày sau sự nghiệp hơn tôi nhiều: ông, vịt nằm ấm áp, thanh nhàn lắm. Tôi, cá lội ngắc ngư nên còn vất vả, lật đật mãi, cá đã ngắc ngư là cá ở nơi đồng cạn… Quả nhiên ngày sau người học trò đỗ tiến sĩ, làm quan rất dễ dàng. Đấy chúng mày xem, ở một câu đối mà người ta biết rõ mình như vậy, há không nên cẩn thận sao? Hay hơn nữa, có câu đối của ông Bảng Bòng. Hồi còn nhỏ, nhà nghèo, phải gọi ra đắp đường, ông làm đã cẩn thận, nhưng sức yếu, vẫn bị bọn lính coi hạch sách và đánh đập. Ông kêu tướng lên, ông Huyện Phú Thị cũng đi coi đường, vừa qua đấy, thấy kêu chạy lại hỏi duyên cớ làm sao, ông đáp: - Tôi là học trò yếu ớt mà các anh ấy cứ đánh. Bọn lính bẩm ngay: - Bẩm quan lớn, nó cứ vừa làm vừa nghịch, học hành gì nó, bé bằng cái mắt muỗi lại cứ ương. Ông Huyện mắng qua bọn lính rồi bảo ông: - Mày đã nhận là học trò, tao ra cho mày một câu đối, hễ không đối được, tao nọc đánh năm chục roi nhé. - Bẩm vâng. Nhưng tôi đối được thì sao? - Thì tha cho không phải đắp đường. - Vâng, xin quan lớn ra cho. Ông Huyện Thị đọc: - Ông Huyện Thị sức đắp đường Bòng, buổi hồng thủy (7) muôn dân trông cậy. Ông đối ngay: - Thằng bé quít rắp mong Bảng nhãn, tranh đỗ đầu thiên hạ mới cam. Đem toàn tên cây đối chọi với cây, mà chí khí lại to tát. Ông Huyện khen mãi và bảo bọn lính: - Thằng bé này sau hơn ta nhiều. Ông thưởng cho ít tiền rồi cho về. Chúng mày nên theo đấy mà làm gương. Phải để ý nghĩ cho cao, bắt chước những danh nhân đời trước, rồi tìm những chữ thật chọi mà đẹp đẽ viển vông thì bất cứ thơ hay câu đối cũng đều hay cả. Vua Đường Thái Tôn bảo: ”Thủ pháp ư thượng, cận đắc vi trung; thủ pháp ư trung, bất miễn vi hạ”. Thật vậy, bắt chước những người cao, còn được là vừa vừa. Chứ bắt chước những người vừa vừa không khỏi lại là kẻ kém cỏi. Chúng mày phải ngẫm nghĩ kỹ câu ấy mà tu tỉnh thân đi… Tâm và mọi học trò nhớn đều im lặng nghe lời thầy khuyên và tự hẹn mình cố học tập, suy nghĩ, bắt chước sao cho khỏi uổng phụ nhời thầy bảo như rót vào tai! PHẦN THỨ HAI Chương I Làng Mỹ Lương trong vùng mở đám rất to. Có thi cờ người, thi võ và thi văn. Trong những tờ niêm yết có nói rõ thể lệ cuộc thi văn: một bài thơ phú đắc, một câu đối và một bài văn sách, và những giải thưởng: giải nhất -năm quan tiền, hai trăm giấy, hai ngọn bút ô long với một thoi mực tầu; giải nhì -hai quan tiền, một trăm giấy, một ngọn bút ô long, một thoi mực; giải ba -ba trăm giấy, ba ngọn bút và ba thoi mực. Từ giải tư cho đến giải mười, mỗi giải một trăm giấy, một ngọn bút, một thoi mực. Mười người được giải được mời vào ăn tiệc ở đình, Giấy bút thì của dân làng phát. Ngày thi là mười sáu tháng ba, ngày yết bảng định vào ngày mười chín. Ông đồ Trí xem xong tờ niêm yết, nghĩ bụng rằng: - Thế này thì dễ, nó đi được. Để nó ra chỗ công chúng, nó quen đi. May ra được thưởng càng thêmphấn khởi cho nó. Rồi ông gọi Tâm và ba anh học trò khá nhất là Chấn, Chí, Lịch lên ông bảo: - Mười sáu tháng ba, tôi cho các anh đi hội Mỹ Lương, đi mà cho bạo dạn lên. Còn được thua là thường. Tâm hỏi ngay: - Bẩm thầy, văn sách chúng con mới làm có ba bận, chưa quen. - Khó gì, cứ xem lại tập văn sách của tao đưa cho chúng mày xem ấy, cứ xem đấy mà bắt chước. Người ta không ra khó đâu. Cứ đi. Chấn nói: - Từ nay đến mười sáu còn bẩy ngày nữa, xin thầy ra thêm cho mấy bài làm thử. - Ừ, về đóng riêng vở ra. Cố đi, may ra giật giải thưởng. Bốn đứa đều giở về lấy giấy đóng vở. Đứa nào cũng tự biết mình còn kém, nhưng vẫn khấp khởi ước mong giải thưởng về mình, nên đều hăm hở lấy những tập văn sách cũ của ông cha chúng để lại hay của ông đồ cho, đem ra học như nuốt chửng chữ để đánh cắp những câu hay. Anh nào cũng bận rộn như sắp sửa phải vào thi Hương. Ông đồ ra đầu bài riêng cho chúng đã ba lần. Ba lần chúng làm được xuôi xuôi cả. Văn của Tâm tuy có lắm câu xuất sắc hơn, nhưng thỉnh thoảng lại phải một vài câu non quá, nên không vượt hẳn được ba anh kia. Đấy vẫn là cái vinh dự cho Tâm. Ba anh kia đã trên dưới hai mươi tuổi và đã học gần mười năm còn gì! Đằng này Tâm mới có mười ba tuổi đầu! Ông đồ chấm bài của Tâm nhận thấy sự tiến bộ không ngờ của cháu, ông mừng thầm và thường khoe với mọi người: - Thằng Tâm nó bỏ cách thằng Dũng nhà tôi xa. Chưa biết chừng nó giật giải làng Mỹ Lương cũng nên! Trước hôm đi thi, ông đồ dặn dò cẩn thận những điều cần thiết, nhất là về bài văn sách. Ông nói: - Bài văn sách nào cũng có hai phần như chúng bây đã biết: phần cổ văn và phần kim văn. Phần cổ văn người ta hỏi về các điển tích đã học ở ngũ kinh tứ thư và sử, mình cứ việc nhớ lại và thích rộng ra một ít. Về kim văn, người ta hỏi đến tình thế bây giờ đem so sánh với đời trước thế nào. Điều cần nhất là mình cứ khen đời nay thái bình sung sướng quân minh, thần lương (8)… còn dở hay ở đời mình kệ xác, đừng động đến… Bắt đầu bài văn có chữ “Đối, sĩ văn”(9), chữ sĩ phải viết nhỏ ra một bên. Quyển thì cũng cần phải chú ý, sai một tí là phạm trường qui đấy. Mỗi giang giấy phải viết sáu dòng. Giang đầu đề họ tên và quán sở. Họ tên đề chữ thường ở dòng thứ năm giằng thẳng với lề, không được cao lên quá hay thấp xuống quá. Quán sở viết chữ nhỏ hơn dưới ngay chữ tên. Nếu viết nguyên tên làng thì phải lui xuống ngang với đoạn lề dưới. Giang sau viết đến bài. Đầu giấy phải để chừa, cách ba khuôn chữ. Gặp chữ “Thiên địa” “Giao miếu” phải viết đài lên trên cùng, chữ “Hoàng thượng” ở cách thứ hai, chữ “Quốc gia” “Triều đình” ở cách thứ ba. Đến cuối bài, sau câu “Sĩ giả, hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quản kiến ư tư, vị tri khả phủ, nguyện chấp sự kỳ trạch nhi tiến chi, sĩ cẩn đối”(10), phải viết thêm ba chữ “Cộng quyển nội” rồi đếm “đồ” (bỏ đi) mấy chữ, “di” (bỏ sót) mấy chữ, “câu” (móc lên) mấy chỗ, ”cải” (chữa lại) mấy chỗ, rồi viết lưỡng cước(11) cả xuống dưới ba chữ ấy. - Bẩm thầy, thi Hương cũng vậy? - Ừ, thi nào cũng lề lối ấy, tương tự như vậy. Chỉ khác ở thi Hội, được dùng chữ “sinh”, thi Đình chữ “thần” thay cho chữ sĩ, sinh đối, sinh văn, thần đối, thần văn, thần cẩn đối… * * * Hôm sau, giời vừa sáng, bốn anh em vào chào ông đồ rồi đi sang hội Mỹ Lương. Lần đầu tiên Tâmđược đi xa một mình, trong lòng vui sướng lạ, mung lung phiếu diểu như ngọn gió đầu xuân. Giời trong sáng, gió nhẹ nhẹ. Ánh nắng dìu dịu vàng tươi như nhẩy múa ở ngoài giời bao la và cả trong lòng người hớn hở. Ở dưới cánh đồng lúa xanh rờn vọng lên lanh lảnh tiếng hát mấy cô làm cỏ: Hỡi anh đi đường cái quan Ngừng chân đứng lại em than đôi lời Đi đâu vội lắm anh ơi! Ngừng chân đứng đợi thiếp tôi đi cùng. Bốn anh đi gần đến nơi, cả bọn làm cỏ khúc khích cười, vẳng có tiếng đưa ra: - Học trò, chị em ạ! Tức thì một cô đứng thẳng người lên thõng hai tay, quay mặt trông lên đường cái, hát trêu: Chị em đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm! Rồi cả bọn lại cùng phá ra cười rộn rã. Tâm không giận, trong lòng vui vui, một cảm giác là lạ tràn lan cả tâm hồn làm toàn thân rung động. Tâm thấy phong cảnh đẹp quá, đẹp từ cái cỏ, cái bụi rất gần đến dẫy núi biếc thẳm xa xa. Mà đường như gần lại. Mới có một lúc, đã đến Mỹ Lương rồi. Trên các ngả vào làng, người đi lại tấp nập như đi chợ. Áo mới quần sồi, tiếng kêu soàn soạt. Này qua chợ san sát những lều, lố nhố kẻ ngồi người cúi, kẻ đi người đứng, đang ồn ào mua bán… Này cái quán bên cạnh đường xúmxít những trẻ con mua bánh. Này cây đu bốn cột tụm đầu, ở giữa thang đu cứ là là bổng lên bên này rồi lại là là xuống vặt sang bên kia theo đà người đánh đu dún! Dưới đất, những người vây chung quanh ngửa mặt nhìn… Này đám thò lò tôm cá luôn luôn lóc cóc, và bỏ tiền đặt cửa, và quơ tay vơ tiền; người đi xem túmtụm vào đánh. Này đám ba que, với ba cái que vót nhọn, một chiếc có buộc sợi chỉ dài, miệng nói luôn luôn: “Một đồng ăn ba! Đánh vào chiếc này! Tôi bảo không nghe thì hỏng này”. Nó nắm tiền bỏ túi, xong lại bắt đầu cuộc khác… Cái gì Tâm cũng thấy hay hay là lạ, chỉ muốn đứng lại xem lâu. Thì ba người kia lại lôi ngay đi và mắng: - Gớm cái anh này, chỗ nào cũng sán vào! Tâm không cãi, nhưng nghĩ bụng có lạ mới cần xem chứ! Thật vậy, Tâm từ khi đi học đến giờ chúi đầu vào học, không được đi chơi đâu xa nên thấy trò gì Tâm cũng muốn xem, xem cho biết. Con mắt được một phen phóng túng cần muốn thỏa thích, Tâm hầu như quên mất công việc đi thi. Thì các bạn đã sẵn sàng nhắc cho Tâm nhớ. Họ kéo Tâm qua cửa Đình, qua sân cờ người, đến khu trường thi. Trường thi là một cái nhà gianh rất to, cột bương mới, làm trên cánh ruộng mạ rất rộng. Chung quanh đắp một con đường vòng để công chúng đứng xem, mỗi cột dán một câu đối giấy đỏ. Ở giữa kê một cái bàn và đôi trường kỷ để dành cho các quan chấm trường. Dưới đất, chiếu giải càn lan cho những người dự thi ngồi. Một con đường thẳng nối liền từ đường vào đến trường. Một cái bảng giấy niêm yết cắm ở đầu đường. Vẫn cái bảng giấy niêmyết đã phát khắp mọi nơi từ hôm nọ, mà hôm nay vẫn còn đông các người chen chúc đứng xem. Đi đi lại lại trên đường, phần nhiều là các sĩ tử trong vùng. Người ta thì thầm nói chuyện với nhau: - Những vị nào chấm đấy nhỉ? - Quan Huấn đạo huyện nhà làm chủ khảo, cụ Cử Vân Trung, ông Kép Bồ, ông Tú Mỹ Lương làmphân khảo. Các quan họp cả ở nhà cụ Bá, sắp ra bây giờ. - Đâu cả quan Huyện cũng về. - Có! Nhưng ngài chỉ về lễ thôi. Tiếng trống bong bong từ đằng xa tiến lại. Mọi người xôn xao trông về đầu làng. Mấy lá cờ phất phới, một chiếc trống tiêu cổ thỉnh thoảng điểm vài tiếng, bốn cái võng đi thong dong dưới bốn cây lọng xanh. - Các quan tiến trường! - Các quan tiến trường! Người nọ nói, người kia nói, với vẻ kính cẩn. Vui vẻ, đám rước đi từ từ qua đình rồi vào thẳng trường thi. Một tràng pháo nổ. Các quan yên vị cả rồi. Bác Trương tuần làng Mỹ Lương, áo thâm dài, thắt ngoài một dây lưng điều đỏ chói, vác cái loa đồng giơ lên kề chóp vào miệng múa quay đi quay lại một vòng rồi gọi thét lên to tướng, tiếng đồng chuyển vọng đi rất xa: - Các quan đã tiến trường rồi. Xin mời sĩ tử các nơi vào trường ứng thí! Bác Trương ba lần múa loa, ba lần hét vọng trong loa. Các sĩ tử lục tục kéo vào ngồi đặc cả nếp nhà gianh rộng rãi ấy: già có, trẻ có, soai soai có, có cả mấy người ăn mặc rách rưới. Chỉ có mỗi mình Tâm là bé nhỏ. Những người đứng xem vòng quanh trường đông như kiến. Họ tranh nhau nghểnh cổ trông vào trong trường. Các cô gái mơn mởn đang xuân cũng thi nhau nhìn vào trường và xúm xít trò chuyện. Một bác tráng đinh đứng canh nói chòng: - Các cô ấy rủ nhau ra đây kén chồng đấy! - Phải gió cái nhà bác Dần kia! Một cô trong bọn gái làng õng ẹo mắng thế rồi tít mắt cười. Đám người xem mỗi lúc mỗi đông. Người ta bỏ các trò vui và kéo nhau về, chen nhau cả xuống ruộng để xem mặt các ông học trò. - Có cả những người rách rách là mà gầy đét như xương. Một anh giai tráng bắt nhời. Một ông cụ râu tóc bạc phơ mắng át: - Vào đến đây đều là những bậc đáng kính trọng cả. Người ta đói mà học được thế mới quý. Chứ như cái “hĩnh” mày, mày béo tốt sao không vào đấy mà thi. Lười thối thây ra! - Gớm, con nói thế mà cụ mắng mãi, sao lắm nhời thế. Con cũng học rồi con cũng đi thi chứ sao. Con chỉ phục cái cậu bé kia chỉ độ mười hai tuổi… Mỗi người một nhời ùa vào: - Của ấy chả đến mười lăm, mười sáu rồi đấy! - Mới độ mười bốn thôi! Một người ra vẻ sành hơn: - Cậu ấy đúng mười hai đấy. Học trò ông đồ Mỹ Lý đấy mà, tôi biết. Một người nữa là người làng ông lý Tưởng nói rành mạch hơn: - Không, cậu Tâm con ông lý Tưởng làng tôi đấy mà. Năm nay cậu ấy đúng mười ba tuổi, theo học ông đồ Mỹ Lý từ năm lên bẩy. - Ồ, giỏi nhỉ! Mười ba tuổi đầu mà đã làm nổi văn bài trường thi cũng na ná thần đồng đấy chứ. - Các ông chỉ quá ca tụng, bì thế nào được với thần đồng. Thi đây là hẳn xoàng thôi so sao được với ở trường thi. Có điều cậu ấy sau này tất nhiên là tú, cử! Một người, có vẻ ông đồ ở cái nón sơn chóp bạc và búi tóc củ hành với cái thân hình mảnh khảnh, nói câu ấy để chấm hết cho cuộc thě thầm về Tâm. Người ta vội bàn lướt qua đến những người dự thi khác, phần nhiều là những sĩ tử có tiếng ở trong vùng. Bên bọn gái đứng riêng về một phía để xem thi, cũng nhiều cô bàn tán về Tâm. Không như cánh đàn ông tranh nhau nói để tỏ lòng kính phục khen lao một cậu bé dúm tuổi đã nghiễm nhiên ngồi cùng chiếu với những người tóc điểm hoa râm, các cô đem Tâm ra làm đầu câu chuyện vị lợi, các cô đem Tâm gán lẫn cho nhau. Toàn thị một giọng muốn ăn, gắp bỏ cho người: - Gớm, cái anh bé kia, mình tưởng là đi hầu mà hóa ra vào đấy đi thi. - Anh bé! Gớm nói mới hay chứ, cô nào vớ được anh bé ấy đã phúc bẩy mươi đời! Nay mai đã bà nghè, bà cống! - Để phần chị nào đủ tài đủ đức trâm anh phúc hậu chứ gì! - Thôi, ở đây còn ai trâm anh phúc hậu hơn chị Mai. Mai là con ông Chánh tổng bá hộ làng Mỹ Lương, một cô gái thùy mỵ, yêu kiều lại giỏi nghề tầm tang sồi vải nên ai cũng yêu quý. Mai thấy chúng bạn có ý châm chọc mình, thẹn đỏ mặt lên nói ấp úng: - Các chị chỉ được cái thế thôi! Em đũa mốc đâu dám chòi mầm son, có giỏi giang như các chị mới xứng với con người tài hoa chứ! - Ấy các chị không nhận để phần tôi vậy. Có thế mà cũng lằng nhằng mãi! Một cô gái to nhớn ngăm ngăm đen, nhưng chan chứa duyên thầm, súng sính trong cái áo giãi hạt cau kép đỏ, nói chêm vào một câu pha trò, nhưng không thấy ai cười, cô nói tiếp: - Nói thế cho vui chứ. Nhà tôi cũng vào thi đấy, kia kìa cái anh chàng dong dỏng cao, ngồi góc bên tây ấy. Còn cậu thư sinh bé bỏng kia xin nhường giả các chị… - Gớm, cô nói dễ nghe nhỉ. Cô làm như người ta của riêng cô đấy. - Cô ấy chữa thẹn đấy chứ. Không nói mau sợ có người hát ngay: Bây chừ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng! - A! phải đấy! Chứ bỗng dưng chưa dễ ai nhường cho ai! Họ thi nhau nói, mỗi người một nhời, cô nọ nói tặng cho cô kia. Nhưng trong thâm tâm cô nào cũng cùng một mong ước ngấm ngầm, thầm kín và thấm thía, cô nào cũng mong mỏi có người chồng hay chữ để một ngày kia: Nữa mai danh chiếm bảng vàng Võng anh đi trước, võng nàng theo sau! Cái người mà các cô mong mỏi ấy, trong bọn sĩ tử dự thi kia còn ai đáng được tin cậy hơn Tâm? Nên câu chuyện vẫn quanh quẩn đâu đấy! * * * Ở trong trường, người ta phát giấy bút mực. Các sĩ tử kẻ nằm người ngồi đang mài mực, hoặc cầmbút viết thử. Quan chủ khảo mở tráp lấy ra một tờ giấy đầu bài đưa cho ông tiên chỉ làng Mỹ Lương, ông này cầm lấy đem dán trên cái bảng gỗ rồi treo cao lên giữa nhà. Các sĩ tử ai nấy đều chăm chú biên đầu bài ra một mảnh giấy. Trước hết là bài thơ phú đắc câu “Thánh ân vô xứ bất tam dương” đắc vần dương. Làm thơ phú đắc là phải thích hợp thực và tán rộng cái đề, nên cần phải rõ nguồn gốc của câu ấy. Tâm băn khoăn mãi với cái câu đề oái oăm kia mà chàng chưa được đọc thấy ở đâu bao giờ. Nghĩ hồi lâu, chưa được lấy một mảy may ý tứ gì vững vàng về bài thơ cả, chàng đánh bạo hỏi một người nằm cạnh: - Này ông, tôi hỏi khí không phải, câu này ở sách nào nhỉ? Ông kia trừng trừng nhìn Tâm, rồi cười gằn mai mỉa: - Thế mà cũng đi thi đấy? Sao không ở nhà cho rảnh? Tâm tức quá, không thèm hỏi nữa, cắm đầu theo ý nghĩ của mình làm thành bài thơ, rồi lần lượt làmxong cả câu đối với văn sách. Đem nộp bài rồi, giở ra thì giời đã xế chiều. Ánh nắng vui tươi của mặt giời chiếu xiên khoai càng tăng vẻ tưng bừng ấm áp của đám hội. Vừa bước ra đến đường, có người hỏi giật ngay: - Thế nào, cậu Tâm được chứ? Tâm ngoảnh lại thấy một ông đứng tuổi thường đến chơi với ông đồ Trí, Tâm cung kính đáp: - Thưa ông con hỏng thơ ạ, con chả biết câu ấy ở đâu cả! - Cậu làm thành bài chứ? - Vâng, thành cả bài! - Thế được, câu ấy đến cả trường cũng chả biết. Họ lấy ở đâu mà oái oăm gớm, tôi cũng cứ làm bừa cho đủ lệ đấy thôi. Văn sách thế nào? - Văn sách của con kể cũng đường được. Nhưng nhầm mất chỗ Lý Tĩnh đọc luận ngữ. Hai người vừa đi vừa nói ra đến đường cái, thì gặp ông đồ Trí. Ông hỏi qua về bài thi, rồi ông bảo với ông bạn kia: - Họ ra láo thật, câu ấy ở các sách học đi thi thì có đâu, cả Đường thi, Cổ văn cũng không có. Bác có biết chữ đâu không? - Không, tôi bảo với cậu Tâm đến tôi cũng không biết. - Phải, chả mấy người biết! Chữ sách “Hoài nam tử”, sách ngoài, mấy người xem đến. Họ lấy câu ấy là cốt ý biểu dương cái công ơn ông thánh đây tràn lan khắp cả, không chốn nào là không tươi sáng như mùa xuân. Tam dương tức là xuân mà! * * * Đến ngày mười chín, yết bảng. Chung quanh bảng, người ta túm tụm chen nhau xem, kẻ hỏi, người gọi ồn ào. Tâm biết thế không sấn vào được như họ nên một mình đứng lảng ở ngoài cho người ta xemchán, ra hết rồi đến lượt mình. Trong đám đông tiếng nói ồn ào, Tâm nghe rõ những tiếng hỏi: - Ai đỗ đầu? - Phạm Tích Phúc ở xã Thượng Đông. - A này, xem cậu bé hôm nọ có trúng không? - Có Tâm, Nguyễn Đức Tâm, xã Thịnh Hậu đỗ thứ bẩy, có phải Tâm ấy không? - Dễ mà phải đấy. Tâm nghe thấy nói đến tên mình, sướng quá, tưởng ngất đi được. Nhưng Tâm vội nghĩ ngay ngộ người ta đọc nhầm chăng, Tâm bần thần đứng mong mỏi cho đám người đông đặc kia tan dần để mình vào xem bảng cho chắc. Song đám người vẫn cứ kéo đến mỗi lúc mỗi đông thêm. Tâm đang nửa vui nửa mừng chợt Chấn chạy đến reo lên: - Anh Tâm đấy à? Tôi chạy tìm mãi, anh đỗ thứ bẫy, còn chúng tôi hỏng cả. - Có thật không anh? - Tôi còn nói dối anh à? Ở đám đông, tiếng reo vang ầm đưa lại: - A ha, cậu bé Nguyễn Đức Tâm đỗ thứ bẩy! - Cậu Tâm đỗ thứ bẩy à? - Cậu ấy đâu? - A ha! Cậu ấy đây rồi! Tức thì cả đám người quây kín chung quanh Tâm, làm Tâm sung sướng thẹn đỏ cả mặt. Cả đám chen nhau mà không dám reo to nói lớn, để tỏ lòng kính mến. Mọi người hỏi dồn Tâm những câu bâng quơ về việc học. Nhiều người thì thầm khen cậu bé giỏi giang. Mãi đến lúc tiếng loa vang dậy mời các vị trúng tuyển vào nhà khách, tức là trường thi hôm trước bày biện lại, đám đông mới giãn ra để cho Tâm đi. Tâm e thẹn như cô gái về nhà chồng, bước vào nhà khách giữa những con mắt nhìn thán phục của mọi người. Ai cũng đều đon đả vồn vã hỏi Tâm. Các người đỗ đều đủ mặt, Tâm thấy toàn người lạ cả. Cái người quen ông đồ Trí cũng hỏng, Tâm càng thêm sung sướng bội phần thấy người mắng mình hôm nọ cũng có mặt ở đây. Tâm vội chạy đến, cung kính hỏi với một vẻ tự đắc: - Ông đỗ đầu phải không? Xin ông cho tiểu sinh biết quý tính cao danh? Ông kia đáp lảng: - Không tôi không đỗ đầu. Nhưng đỗ đạt ở đây thì có ra trò trống gì? Cậu tưởng… Một người bèn nói xen vào: - Ấy tại ông ấy đỗ thứ tám đấy! Tâm khoái trí nghĩ bụng: - Nào, xem anh có kém tớ không nào? Lên mặt ta đây mãi. Ở ngoài dân làng đã sắp đủ nghi vệ rước các vị trúng tuyển sang đình lễ thánh. Ông tiên chỉ vào mời: - Kính trình liệt quý, liệt quý đã có lòng chiếu cố đến hội làng chúng tôi và được son phấn quan Huấn đạo đề cử, xứng danh là bậc danh sĩ, xin mời liệt quý rời gót ngọc lại đình làng trước là lễ thánh, sau xin chứng tỏ cho tấm lòng mộ đạo của chúng tôi. Rồi là cuộc rước. Năm lá cờ đi trước, đến phường bát âm Thứ đến là cái trống tiêu cổ thủng thẳng điểm vài tiếng dẫn đường, rồi mười cái lọng xanh đi hàng đôi, che cho mười vị vừa đỗ đang đi rất nghiêmtrang thong thả. Đằng sau là những kỳ dịch làng Mỹ Lương rồi đến những người đi xem, già trẻ nhớn bé, lũ lượt như đàn bò kéo theo sau rốt. Đám rước đi từ từ vào đến đình. Một tràng pháo nổ, khói trắng đục bay toả như sương mù. Các khách đã vào cả trong đình. Phường trống đổ trống lễ. Lần lượt từng người theo một nhịp trống vào lễ bốn lễ. Tâm bé nhất nên lễ cuối cùng. Đứng trước hương án thiếp vàng chói lọi và chung quanh mọi người quan chiêm, Tâm run run sợ, lễ vội vàng cho mau xong bốn lễ. Tiếng trống vừa dứt, ông tiên chỉ mời mọi người vào ngồi một bên sân đình. Chiếu hoa giải càn lan, cỗ bày thẳng hàng tămtắp. Bốn người một cỗ, họ kéo nhau ngồi vào, rối rít, vội vàng như đi xem đám rước. Trên cỗ bầy toàn những thức ăn ngon miệng: giò, nem, ninh, mọc, tái dê, chả cá…v.v… Tâm trông thấy, miệng đã thèmthuồng, tưởng chừng ăn hết cả cỗ. Các hương chức đủ mặt lại mời rượu, những giai tráng đi lại hai bên hầu hạ, so đũa, rót rượu, lau bát, thái giò, xé chả… Các ngài trúng giải chỉ việc ngồi ăn. Họ ăn uống no say và nói chuyện huyên thuyên. Thỉnh thoảng họ nói đến Tâm, họ hỏi Tâm một vài câu trong sách, một vài điển trong bài thơ hay, Tâm giả nhời trôi chảy cả. Có câu họ hỏi khó quá, Tâm chưa học đến, Tâm cứ thực tường khai là không biết, và mạnh bạo hỏi lại xem câu ấy ở sách nào. Tâm thực thà, không kiêu hãnh, nên ai cũng yêu vì. Gần tàn cuộc rượu, ông trạc ngoài ba mươi, ngà ngà say… mặt chín như gấc, mắt đỏ gay, lè nhè bảo Tâm: - Xin nguyện trước đức Thượng đẳng tôi nói sai tôi phải tội, cậu học giỏi thật, bé thế mà đã lung loát cả chúng tôi, tôi phục thật đấy. Ngày sau thế nào đường khoa danh cậu cũng hơn chúng tôi nhiều. Mọi người nói chen vào: - Phải rồi, cậu hơn hẳn chúng tôi đứt đi chứ. Lúc ấy đừng quên chỗ anh em hội họp ở bữa rượu này nhé! Tâm thẹn cuống lên, chỉ ấp úng nói được câu: - Không dám, tôi không dám. Tâm sung sướng quá, phơi phới trong lòng, mê ly như người say rượu. Lần đầu tiên ra dự nơi công chúng ở nơi xa lạ, được mọi người mến phục, Tâm tự hào lắm và lúc ấy mới chịu nhận cái nghĩa rất đúng của câu: Vạn ban giai hạ phẩm Duy hữu độc thư cao! Chương II Đời Tâm như một con đường đã bắt đầu vào một quãng ngoặt. Cuộc thi ở Mỹ Lương đã truyền lan tiếng tăm Tâm lừng khắp mọi nơi. Kẻ xa người gần ai cũng nao nức muốn rõ mặt Tâm, muốn biết tài Tâm, quyển vở thi vừa giả lại, Tâm cũng không được xem lại kỹ càng, nó đã phải luôn luôn chuyền tự tay người này sang tay người khác. Người ta đọc đi đọc lại, người ta chép lấy những câu hay, những câu được cả ba thứ khuyên, khuyên đỏ, khuyên đen và khuyên xanh, những câu mà thực ra Tâm đã đánh cắp ở những bài của ông đồ Trí. Quyển vở thành ra nhàu nát bợt cả lông, nhũn như mẻ. Tất cả những sự vồ vập và khen lao nức nở ấy khắp gần xa đã làm Tâm xa hẳn các bạn học trước. Tâm bây giờ đã là một người có danh vọng đứng theo hàng văn thân mà không thẹn. Tâm khinh hẳn các bạn cũ. Tâm cho là bọn họ ngu dốt, lười biếng nên mới chịu phận kém cỏi như vậy, tuy ngoài mặt, Tâm vẫn hời hợt ra vẻ vui đùa với chúng. Đi đâu Tâmcũng ngửa đầu, ưỡn ngực làm ra dáng con người cao lớn… Tâm không còn là một cậu thư sinh bé con sợ sệt nữa. Bây giờ Tâm đã là một người nhớn, một người hiểu đạo Thánh hiền, biết sự học là cần thiết cho con người cao quý. Muốn hiển đạt là cần phải học. Tiến vi quan, đạt vi sư, những kẻ làm quan, làm thầy đều là do sự học cả. Vạn sự xuất ư nho, muôn sự đều do ở nho học mà ra. Tâm hiểu thế lắm nên Tâm càng có chí học, học rang rảng như cuốc kêu mùa hè, học quên ăn quên ngủ, học mê man cả người, học như bây giờ người ta mê mệt tình nhân! Ông đồ Trí chỉ phải bảo cháu dần dần những lề lối đi thi, không còn luôn luôn bận rộn giục cháu học hành nữa. Ông khấp khởi mừng thầm và thường khoe với mọi người: - Thằng cháu Tâm nhà tôi đã thông minh mà lại chịu khó, chửa biết chừng nó thành danh phận trước tôi cũng nên! Ấy cũng bởi cái tiếng tăm của Tâm như thế nên năm sau, ông Bát Tòng làng Mỹ Lương cố lặn ngòi ngoi nước rước được ông đồ Trí về ngồi cho trẻ em theo học. Tâm được giở lại làng Mỹ Lương như được giở lại nơi quen thuộc lâu năm hằng mến yêu quyến luyến. Tâm đi chào những người quen năm ngoái, ai cũng vui mừng chào Tâm và đem chàng làm gương mẫu, khuyên răn con em: - Đấy, mày xem. Cậu Tâm mới tí tuổi đầu mà đi đến đâu cũng có kẻ vì người nể, kẻ đón người rước chỉ tại cậu ấy chăm học. - Đấy cậu Tâm kém tuổi em mày, học hành đã giỏi giang như vậy, cái ngữ mày chỉ nhớn xác ăn hại thôi! Lười chảy thây ra. Học mấy mươi năm mà viết cái văn tự không thành! - Người ta đi học thì như vậy, thi đâu đỗ đấy, kẻ đón người mời, mi thì quanh năm đi phục dịch người, người ta sai như sai chó! - Thôi, mai đi mà xin cắp tráp cho cậu Tâm để cậu ấy dạy cho, xác nhớn bằng cái bồ đa ấy, mà bảo học cứ nay thế này mai thế khác, ảnh eo lắm! Những kẻ làm cha mẹ ở làng Mỹ Lương và cả đến vùng lân cận đấy, thường ném lên đầu con cái những câu răn bảo tương tự như vậy, có đứa im thin thít mà nghe, mà suy nghĩ, mà xét đến thân phận mình, cũng có đứa nghe nhiều quá đâm chán tai, phát khùng quay cãi lại: - Đi học có đất chứ, cũng học thế cả, nhưng mồ mả nhà người phát, học một biết mười! Hay là: - Ở đời dễ ai cũng thông minh như thằng Tâm cả đấy! Hoặc: - Người ta có người kèm ngay bên cạnh. Học ngày, học đêm, học sáng, học ăn, học ngủ, lúc nào cũng có người bảo như rót vào tai, làm gì mà chả giỏi! Chỗ nào cũng nói đến Tâm. Thành thử Tâm ngẫu nhiên đã trở nên một nhân vật được chú trọng nhất ở vùng, được người ta đem ra làm đầu câu chuyện, trẻ, già, lớn, bé đều nhắc đến. Và những lúc Tâm đi dạo chơi trên đường làng, hay ra ngoài đồng đi trút sự cần, là y như các bạn gái làng thì thầm với nhau, khúc khích cười ranh mãnh, lắm khi họ làm Tâm đỏ mặt lên mà rảo bước. Giữa cánh đồng bao la yên lặng, thoáng thấy bóng Tâm là các cô đưa những giọng hát bổng trầm bay theo làn không khí trong lặng nơi đồng quê, với những câu hát tình tứ yêu đương. Lắm cô hát sát sàn sạt: Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần Mai anh học xa Tiền gạo thì của mẹ cha Cái nghiên cái bút thực là của anh! Có cô bạo dạn hơn, trân trân hát tán sốt sột: Đôi bên bác mẹ thì già Lấy anh hay chữ để mà cậy trông, anh cả đấy ơi! Mùa hè cho chí mùa đông Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi Hết gạo em lại gánh đi Hỏi thăm trường học ấy thì nơi nao? Hỏi thăm đến ngõ mà vào Tay cất gánh gạo, miệng chào chư anh! anh cả đấy ơi! Những câu hát du dương ấy cố nhiên làm cho Tâm thèn thẹn nhưng không như trước kia, hễ nghe thấy giọng hát lả lơi đĩ thoã là Tâm ghét đến chết đi được, bĩu môi, cắm cổ chạy liền. Trái lại, độ này Tâm cảmthấy thinh thích như có một thứ vô hình huyền ảo gì nó phảng phất quanh đấy, nó quyện lấy tâm hồn, nó xông lên óc, nó ngấm vào tim, nó tràn ngập tất cả. Tâm say sưa như đang qua một cơn mộng đẹp. Tình giai gái sớm bén mầm trong lòng cậu thư sinh ít tuổi, cùng với sự thông minh bộc phát và với lòng quý trọng bồng bột của cả xóm làng. Những trẻ khác bằng tuổi ấy, hẵng chỉ biết ăn, biết ngủ, biết nghịch, biết đùa và hơn nữa biết cắp sách đi học để mà gào chữ và chịu đòn, thế thôi! Đằng này Tâm đã hơn chúng. Học hết mấy pho kinh sử, văn bài, làm gần đủ trường qui. Theo kịp cả những ông đầu gần hai thứ tóc, tự nhiên cái tình yêu thương cũng sớm nẩy nở ở trong lòng! Xưa nay đa tài tất phải đa tình! Cái tình thương ấy phát triển theo trình độ hiểu biết ở người. Nó thường biểu lộ mãnh liệt gặp lúc hoàn cảnh tốt đẹp chung quanh người ta vồn vã săn sóc và kính yêu. Cho nên từ đấy, Tâm cảm thấy như nhớ nhung mến tiếc một cái gì. Chiều chiều lại chiều chiều, Tâm vẫn phải thẩn thơ trên đường làng để mà nghe những câu dí dỏm hồn nhiên, đượm bao vẻ trìu mến bâng quơ của các cô thôn nữ, và Tâm nghe quen quen, tưởng chừng như một khúc nhạc thần tiên trong cõi mộng… Bọn gái làng đầu tiên buông những giọng hát trêu chòng Tâm, vì cái tính bồng bột của tuổi trẻ đối với một người giai lạ, nhất là cái người lạ ấy lại là một anh học trò hay chữ. Nhưng với vẻ thẩn thơ thản nhiên ở Tâm, không thẹn thùng mà cũng không sao, lại cứ chiều chiều rảo bước trên con đường vắng vẻ, như chỉ mãi chăm chú đến việc học hành, các cô dần dần đổi ra chiều thầm yêu vụng kính. Các cô không hát nữa, một khi trông thấy bóng dáng Tâm. Rồi cũng cảm thấy một mơ ước gì ẩn náu ở trong lòng, các cô không ai bào ai mà cứ đều đi muộn, hoặc về sớm để kịp nghe lớp học của ông đồ kể nghĩa. Các cô ngồi trên cầu ao giặt dịa, các cô đứng dưới lũy tre rứt lá… Và trong trường tiếng kể nghĩa cứ văng vẳng đưa ra nghe rõ mồn một. Tiếng kể ngân nga trầm bổng và thỉnh thoảng ngừng đoạn, để ông đồ dẫn nghĩa và để đổi sang cái giọng của người khác. Các cô cứ lắng tai nghe: - Đấy, đến lượt anh chàng Tâm kể đấy. - Phải rồi, cái giọng cao bổng và tiếng trong rang rảng khác tiếng học trò vùng ta. Các cô cùng im lặng, ngừng tay làm việc, như bị cuốn vào một giấc mê ly! Sực một cô nhận thấy cái sự vô lý của mình, bảo các chị em: - Nước đếch gì đến mình mà cố đứng nghe! - Hay thì nghe chơi chứ cần gì! Một đứa khác bảo: - Chúng ta cứ quanh quẩn đây, chị Mai biết, chị ấy ghen chết, rồi chỗ chị em lại sinh thù oán! Một cô nữa: - Các chị rõ dơ, biết giời se cho ai nào, ở đây hay là ở đâu, mà cứ buộc sống vào cho người ta. Emnghĩ đương lúc chưa ngã ngũ rõ ai, chúng ta vẫn có thể mõ ýớc. Biết rằng giời ðể dành ai? Lại cô thứ năm vừa tới: - Làm gì mà phải ồn lên thế. Muốn nghe thì cứ nghe. Còn không lấy anh này thì đã có anh khác, không có chàng hay chữ lắm, ta kiếm lấy anh vừa vừa chứ sao, cứ gì phải anh chàng Tâm mới được… Một cô mắng: - Chị phải gió này, cứ nói xưng xưng làm vậy. Cô kia không để ý nói tiếp: - Cậu Tâm đã có cô Mai. Người ta vừa đẹp vừa dòn, vừa ấm nhan sắc, vừa con nhà giầu, lại đảmđang cần mẫn, lại ở gần nhà trường… Như thế thì ai còn hoài công đâu mà đi tìm các chị. Rõ dơ trò! Mấy cô có vẻ ngượng mắng: - Con ranh con! Hễ thấy người là thấy nói láo. Chúng tao không thèm! Chỉ được bô bô cái miệng nói càn! Không khéo có bận cái răng cũng chẳng còn, con ạ! Cả bọn cùng cười, rồi lảng dần. Mặc dầu, nhời nói của cô gái kia cũng vẫn có nhiều phần đúng sự thật. Tâm, sau mấy hôm dạo chơi, đã trộm ngắm được dung nhan Mai, trong lòng thao thức. Chàng tưởng tượng cô nàng như con người “yểu điệu thục nữ” ở chương Quan thư trong kinh Thi, mà chính mình là quân tử hảo cầu vậy. Có lúc Tâm cao hứng buột miệng ngồi ngâm mấy câu thơ tuyệt tác đứng đầu thiên Quốc phong ấy: Quan quan thư cưu Tại hà chi châu Yểu điệu thục nữ Quân tử hảo cầu! Ở ngay bên cạnh nhà ông chánh Bá, hàng ngày Tâm được nghe tiếng Mai sai bảo đầy tớ và tiếng canh gửi ét phạch đều đều, càng như khêu gợi nỗi lòng. Tâm càng mến phục con người làm ăn chăm chỉ. Và những khi đêm khuya vắng, bốn bề đã yên lặng như tờ, tiếng giường gửi vẫn còn cứ văng vẳng đều đều rõ mồn một, các bà hàng xóm còn thức phải khen: - Chị Mai dạo này dệt vải nghe vui vui lạ! Tâm nghe tiếng khen ấy như người ta khen mình, trong lòng vui sướng, chàng lại trở về học kêu rang rảng. Tâm học rõ khuya, bao giờ nghe thôi không còn tiếng ét phạch đều đều ở bên hàng xóm, chàng chạy ra vườn, ngó sang bên nhà cụ Bá, thấy hết ánh đèn mới chịu đi ngủ. Lòng Tâm đã đòi phen sôi nổi vì ai, thì cô Mai cũng không còn được yên lặng hồn nhiên với cuộc đời bé dại nữa, cô cũng phải nghĩ ngợi đến cái anh chàng hay chữ ở ngay bên cạnh nách. Nhất là cô lại thường được nghe ông chánh nói đến Tâm luôn: - Cậu Tâm đến đây mà lợi cho trẻ làng ta, anh nào cũng cố chăm học cho khỏi xấu hổ. - Cậu Tâm học rang rảng thế, thảo nào chả giỏi! - Cậu Tâm học chăm quá, học suốt đêm, lắm bận tôi đã ngủ một giấc dài mà tỉnh dậy vẫn còn thấy cậu ấy học. Trẻ làng ta cho là theo khướt cũng không kịp. Những nhời khen ấy càng làm cho cô để ý cẩn thận đến luôn Tâm. Những lúc kể nghĩa, cô cứ lảng vảng ra vườn để nghe cho cặn kẽ cái giọng trong trẻo đáng yêu của Tâm, để nghe những chuyện nghĩa lý và giỏi giang mà Tâm kể ở trong sách. Cô bâng khuâng tự hỏi không biết có phải là mình phải lòng người ta không? Cô mong rằng không phải thế. Nhưng tối đến, cô vẫn cố nhất định thức khuya để xem anh chàng học đến lúc nào. Rồi dần dà hai người cứ thi nhau mà thức, bên đọc sách chờ bên dệt vải tắt đèn mới chịu đi ngủ; mà cô Mai cũng cứ ngóng xem bên trường im tiếng học và không còn ánh lửa mới ngừng thoi. Thành ra hai người cứ trông ngóng nhau, có khi gà đã gáy liên miên giục giã, và vừng đông đã hồng hồng, hai người, không hẹn mà nên, mới cùng thôi làm việc, thì hàng xóm đã lác đác có người dậy thổi cơm. Rồi tiếng đồn từ đấy mà ra. Họ bàn tán với nhau, tỏ vẻ khen ngợi: - Xóm ta được đất, nhưng mà đãi ngoại, các ông ạ. - Sao vậy? - Ông không biết à? Cô Mai dệt vải suốt sáng và cậu Tâm cháu cụ đồ đọc sách thâu đêm, vui vui quá. Nhưng độc lợi cho người cả. Xóm ta có được gì đâu. Giai tráng xóm này chỉ được cái ngủ im thin thít. - Sao lại không lợi. Họ chả làm vui cho xóm mình là gì. Hai bên cùng chăm cả. Giá xóm ta làm mối cho họ lấy nhau thì hay lắm nhỉ, giai tài gái sắc, xuân đương vừa thì! Những nhời người ngoài bông đùa bàn tán, có người đem đến tai ông chánh Bá, ông không giận, Ông lại vui vẻ nói: - Gái hơn hai, giai hơn một, cái Mai nhà tôi mười sáu, cậu Tâm mười bốn, kể tuổi đúng cả đấy. Giá ông đồ hỏi nó cho cậu Tâm tôi xin gả ngay, chứ sao! Chương III Trường ông đồ Trí bây giờ đã ra vẻ một trường tiểu tập, nghĩa là học trò đến đây đều là những người đã tập làm văn bài đối đáp cả, chứ rất ít những trẻ học thường. Học đã chia ra từng lớp, bài văn lại chia ra từng kỳ: tập làm phú, tập làm văn sách, tập làm thơ. Học trò chỉ phải học qua bài, nếu có cần thì phải kể nghĩa. Còn không phải hỏi, đọc gì cả. Ở lớp này người ta chú trọng đến văn bài. Văn bài hay được khen, văn bài dở bị chê. Thảng hoặc có ai phạm lỗi xấu xa gì, cả bọn đồng môn tụ họp lại mà dị nghị, mà sỉ nhục, chỉ có thế. Ông đồ ít khi phải dùng hình phạt đối với bọn này, một lớp đã biết thân phận phải học, chỉ còn biết ganh đua vì một điểm, vì một nét mác! Mỗi tháng có mấy kỳ hành văn đã định rõ: từ ba đến mười hai là nhiều lắm. Phần nhiều cứ theo lệ cơ ngẫu (lẻ chẵn) mà định kỳ. Làm thơ phú ở ngày lẻ, thì làm văn sách, luận, kinh nghĩa ở ngày chẵn. Những ngày ấy phần nhiều học trò chỉ đến nghe giảng và lấy đầu bài về nhà làm, rồi đến hôm sau mang đến nộp. Chấm xong rồi trước mặt đông đủ học trò, ông đồ đưa giả các quyển bài, chỉ trích mấy chỗ hỏng, khen mấy đoạn hay của anh này, của anh khác. Rồi tiếp đến cuộc bình các bài văn hay. Ở trường học chữ nho ngày trước, có lẽ vui nhất là lúc bình văn. Học trò ngồi đủ mặt thành hàng quanh giường ông đồ. Ai nấy đều nghiêm trang im lặng. Ông đồ đưa ra một tập quyển ưu, bình, bình thứ, thứ mác, bắt những anh tốt giọng phải bình. Anh nọ nhìn anh kia, mỉm cười, nhường nhau. Rồi một anh mở một quyển bài, è è lấy giọng nói một câu thường lệ: - Xin thầy con bình. Rồi ngân nga đọc theo một lối riêng, khi cao khi thấp, khi to khi bé, khi trong khi đục, như hát một bài hát vậy. Tất cả nghệ thuật của người bình văn là ở đấy. Mọi học trò đều ngồi im thin thít, lắng tai nghe ngon lành lắm, nét mặt hoan hỉ rõ rệt với những đoạn văn lý thú ý vị mà người bình đã khéo đưa giọng cho người ngoài thấu rõ. Cả những người ở chung quanh trường và đến những người dốt đặc cán mai không biết chữ gì cũng ngừng việc lại mà chú ý nghe cuộc bình văn. Cuộc bình văn cứ thế kéo dài đến mấy giờ đồng hồ. Hết quyển này sang quyển khác, anh trước mỏi miệng đã có anh sau thay. Văn đã hay mà giọng bình lại tốt, thật là vẻ vang cho nhà trường vậy. Sau buổi bình văn thứ nhất, bình văn sách – ông đồ khen mấy người tốt giọng, rồi dặn tất cả học trò: - Kỳ sau tập làm phú, định vào ngày mồng sáu, ngày chẵn, và từ đây cứ theo lệ cổ, làm văn sách, luận ở ngày cơ, mà ngày ngẫu thì thơ phú. Về phú các anh nên nhận kỹ những bài tôi cho các anh chép, bắt chước cách xếp đặt và cách đặt câu trong các bài ấy. Những tay giỏi, người ta chỉ xem một bài kiểu mẫu tức khắc làm ngay được bài khác. Chỉ cần dàn ý cho khéo, cho câu văn lưu loát là được. Một anh học trò hỏi: - Bẩm thầy, có nhiều thứ phú không ạ? - Không, phú chỉ có một lối. Câu đặt mấy chữ cũng được, tùy ý, nhưng cứ hai câu liền bằng trắc phải đối chọi với nhau. Phú độc vận là chỉ có mỗi một vận thôi. "Dĩ đề tự vi vận" là trong đề có mấy chữ thì phải từng ấy vần. "Dĩ đề vi vận" là lấy câu đầu đề làm vần và thêm một vần “phú” ở đoạn cuối cùng nữa, như đầu bài là “ôn cố tri tân phú”, dĩ đề tự thì chỉ có bốn chữ ôn cố tri tân thôi, mà dĩ đề, thì phải cả nămchữ ôn cố tri tân phú. Phần nhiều người ta hạn vần bằng một câu nào có liên lạc đến bài. Có khi đầu đề ra phóng vận là tùy mình chọn vần lấy. - Thưa thầy làm phú có phải theo quy tắc nhất định không ạ? - Có chứ. Mỗi vần thoạt tiên phải đặt vài bốn câu tứ tự hoặc theo lối liên châu nghĩa là câu trên câu dưới cũng một vần, hoặc theo lối bằng trắc đối nhau, chỉ cần vần ở câu dưới thôi… Rồi đến vài bốn câu song quan, mỗi vế sáu bảy hay tám chín chữ. Sau đến vài câu cách cú, mỗi vế dài hai đoạn. Nếu không đặt cách cú thì đổi ra vài câu gối hạc, mỗi vế ba đoạn. Về nội dung, bài phú phải gò theo những điều lệ này: Vần, hay đoạn thứ nhất là vần lung, nói đến ý nghĩa đầu bài. Vần thứ hai là biện nguyên, tìm nguồn gốc cho rõ ý đầu bài, vần thứ ba là vần thích thực, phải nói hết nghĩa ở đầu bài, vần thứ tư là phô diễn, suy rộng ra. Đến vần sau giở đi là nghị luận, rồi dần dần tổng kết lại. Các anh cứ đem những bài phú đã chép trước ra mà xem khắc hiểu. * * * Năm tháng sau, Tâm và mấy tay học trò khá của ông đồ đã sản ra được những bài xuất sắc. Ông bằng lòng lắm, thường bảo với mọi người rằng: - Cách một năm nữa đến khoa Mão, học trò tôi thừa sức đi thi. Từ nay đến đấy còn chán thì giờ học tập, các ông ấy cứ chăm cho tôi là được! Ông không dám nói rõ tên Tâm, sợ mang tiếng là con người khoe khoang, nhưng trong bụng ông vẫn mừng thầm được đứa cháu học trội hơn cả, mà những lời ông nói nửa bỡn nửa thật với người ngoài vẫn ámchỉ riêng Tâm. Cho nên ông cần dạy mau đủ các lối văn trong trường. Thi thơ biết rồi, văn sách cũng quen rồi, ông bắt đầu dạy sang kinh nghĩa và tứ lục. Ông đưa những bài văn hay của các tay khoa mục danh tiếng ra cho học trò chép. Chép xong rồi học thuộc lòng, rồi khi nào cần đến, ông mới giảng qua về cách xếp đặt trong những bài ấy. Cái lối dạy học của ông giản tiện vậy, nên học trò tiến lắm, ông đồ các nơi đều noi theo. Trước khi định ra bài kinh nghĩa cho học trò làm thử, nhằm vào ngày bình văn, nhân đông đủ mặt học trò, ông nói đại khái việc dàn bài. Trong gian nhà rộng, lố nhố những học trò, ngồi xếp bằng trên sập, ưỡn thẳng lưng, một tay đút bọc, một tay mở đi mở lại quyển vở bài, ông nói đều đều rõ ràng, thao thao bất tuyệt. … Làm kinh nghĩa là thay nhời cổ nhân mà thích rộng một câu trong sách cổ ra thành một bài. Câu được đặt tự ý, không hạn chữ, không theo vần. Nhưng cả bài cũng phải theo khuôn phép riêng: trước hết là đoạn phá đề, người làm văn giải qua nghĩa đầu bài. Thứ nhì đến đoạn thừa đề, bắt đầu vào nhời người xưa nói. Thứ ba là đoạn khởi giảng, nói khai mào mở đầu bài. Thứ tư là đoạn khai giảng, vào bài có hai vế đối nhau. Cuối đoạn có một câu hoán đề, láy lại câu đầu bài. Đoạn thứ năm là trung cổ, có hai vế đối nhau thích thực nghĩa đầu bài, đoạn sáu là hậu cổ, hai vế đối nhau và bàn tán rộng ý trong bài. Đoạn bẩy, kết cổ, cũng có hai vế đối nhau tóm tắt các ý trên bài lại. Cuối cùng, có một câu thúc đề, thắt chặt bài là hết. Lối kinh nghĩa này là lối bát cổ (tám vế hay tám đoạn) thông dụng nhất trong trường thi. Một anh học trò đứng lên: - Bẩm thầy, văn kinh nghĩa tức là văn tứ lục? Ông đồ cười mỉa mai. Cả mấy cậu học trò cười theo. Im cười, ông nói: - Cái anh này dốt quá. Anh không hiểu chữ tứ lục à? Văn tứ lục là lối văn trên bốn, dưới sáu, hay trên sáu, dưới bốn. Văn tứ lục là lối văn chiếu, biểu. Chiếu là nhời nhà vua ban ra cho thần dân thiên hạ hiểu biết một việc. Vậy làm chiếu tức là thay nhời nhà vua, lối văn phải nghiêm trang đĩnh đạc và có điển tích. Còn biểu là nhời thần dân dâng lên vua để chúc mừng (gọi là biểu hạ) hay là để tạ ơn được phong thưởng (biểu tạ). Lối văn biểu phải rất mực cung kính, khiêm tốn, thù phụng. Văn chế sắc cũng là lối văn tứ lục, chế là nhời vua ban khen, sắc là nhời vua phong thưởng các quan và bách thần. Ông đồ ngồi nghĩ ngợi một lát, rồi ông đứng dậy mở tủ lấy ra một tập sách chữ viết tay, đóng bìa cậy đen nháy và gáy gắn sơn rất chắc chắn. Ông đem ra quẳng cho học trò và nói: - Đây này quyển văn chiếu, biểu của tôi chép công phu lắm. Các anh sỉ lượt nhau mà chép lại rồi cứ nhận theo đấy ít lâu sau là làm được ngay, văn tứ lục dễ lắm. Có khó gì đâu! Chỉ cần nhất là học được nhiều sách và nhớ sách, không nhớ sách là hỏng. Thế là cả bọn hăm hở tranh nhau chép. Họ nằm túm tụm lại, một anh cầm lấy sách, vừa viết vừa đọc to cho mọi người theo và viết. Thảng hoặc gặp chữ nào ngờ ngợ, họ nhìn sang anh bên cạnh, hay chống tay quì gối, bò lên mà nghển cổ trông vào quyển sách ở tay anh đang đọc. Chép được một vài bài rồi họ lần lượt ngồi dậy đọc lại, thôi không chép nữa, để có thì giờ mà xem, mà học, mà ngẫm nghĩ cho rõ lề lối. Họ gập quyển bài mẫu lại đưa cho Tâm. Còn những bài kia họ để dành đến mai, ngày kia, chưa muộn. * * * Một tháng sau, học trò ông đồ Trí đã làm nổi văn tứ lục rồi, không hay ho gì cho lắm, nhưng nghe cũng tàm tạm được. Cậu nào cậu ấy cùng hớn hở vui mừng, trong lòng sung sướng lắm, đã làm được các lối văn trường ốc, chỉ cần luyện tập cho thêm sâu sắc và già dặn thôi. Cả đến ông đồ cũng tự hào đã dạy biết đủ lề lối vào trường, ông thường khoe với những người đến chơi: - Học trò trường tôi được cái chịu khó học cả, họ đua nhau họ học chóng biết lắm, làm được cả thơ phú, kinh nghĩa và chiếu biểu rồi kia đấy. Có phần xuất sắc hơn học trò cụ Cử Văn bên Văn Lang và ông Huấn Phú Hậu. Các cụ chỉ được tiếng khoa mục, chứ chữ nghĩa và dạy bảo nào đã hơn ai! Đối với các ông tú, ông cử, ông mền, ông kép thường đến chơi, ông đồ lại khoe cách khác: - Bẩm ông, nhờ giời, nhờ thánh, các trẻ đây học cũng khá, nhà cháu đã dạy cả các lối văn rồi kia đấy. Chúng làm được cả kinh nghĩa và chiếu biểu rồi ạ. Những bài của chúng cứ như ý nhà cháu xem ra cũng đường được. Bẩm đây, kính trình tôn ông duyệt qua. Ông đồ vừa nói vừa cầm mấy vở bài của Tâm và của những học trò kha khá đưa ra. Những ông khách mở đi mở lại xem và tấm tắc khen. Có ông mỉm cười hạ một câu: - Được lắm. Lạo đảo trường ốc như ông, dạy học trò tất nhiên là phải giỏi! Ông đồ chỉ còn biết kính cẩn “dạ” một tiếng, và không hiểu người ta khen hay mỉa. Nhưng lạ nhất có ông khách này - Một hôm vào giữa mùa thu êm mát, buổi học sớm sắp tan, học trò sắp sửa về, còn ráng lại nghe nhời chỉ dẫn của ông đồ về một bài phú. Chợt ở đâu đưa đến một người đàn ông đã nhiều tuổi, đầu quấn khăn tam giang đã bạc mầu, mặc cái áo vải giãi đã sờn rách và chiếc quần nâu bạc, chân đi đôi dép da loẹt quẹt, tay khoác cái nón sơn đã long lở phe phẩy đi vào, trông có vẻ ngang tàng lắm, không có dáng điệu người đi ăn xin, mà cũng không ra vẻ khách khứa làng nho cho lắm. Người ấy sồng sộc tiến vào nhà. Học trò không hiểu thế nào còn mải ngạc nhiên, chưa kịp chào. Ông đồ cũng lấy làmlạ. Người ấy đã nghiễm nhiên ngất ngưởng ngồi trên trường kỷ, không chào hỏi ai, rung đùi ngâm một câu: - Giáo huấn chính tục, vô lễ bất bị! (12) Ông đồ tức tím mặt lại, các học trò sợ hãi khép nép, kẻ đứng dậy đi têm giầu, kẻ đi lấy điếu đốt đèn mang lên, người đi rót nước bưng đến, mời chào rất cung kính. Người lạ mỉm cười lại nói: - Cung nhi vô lễ tắc lao (13). Ông đồ từ nãy đến giờ ngồi im lúc này mới nói: - Nhập gia bất vấn tắc mạn, ký vi nho giả hồ bất tri thánh nhân nhập Thái miếu, mỗi sự vấn. (14) Một sự im lặng nặng nề. Ông đồ chăm chăm nhìn người khách lạ, người này vẫn tươi cười hớn hở trông ra ngoài sân. Các học trò ngơ ngác hãi hùng chờ đợi cuộc đấu khẩu gay go giữa ông đồ và người khách. Có tiếng thì thầm: - Này mày? Hay là lão đồ điên Nam Thương đấy? - Không, giọng lơ lớ có lẽ ông đồ Nghệ! - Không phải, đồ Bể đấy. Năm ngoái ông ta đã vào trường cụ Tú Hai bên Nguyệt Điện! Rồi lại im ngay. Học trò đều quay nhìn dồn cả về ông đồ và ông khách. Chợt ông khách tươi cười quay mặt lại hỏi ông đồ: - Thưa thầy, thế nào là tiên học lễ, hậu học văn ạ? Ông đồ hỏi lại: - Thưa ông, thế nào là đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục? Ông khách không giả nhời, hỏi lại: - Vậy thầy dạy trẻ những gì? - Thưa ông, tôi dạy học, dạy làm văn, làm bài, làm thơ, làm phú, dạy học trò sắp sửa đi thi… Ông khách vẫn tươi cười nói: - Tốt lắm. Thầy dạy chu đáo lắm, nhưng có điều cần nhất thầy quên. Ông đồ thấy khách nói hoà nhã từ tốn, bèn dịu nhời nhận lỗi: - Bẩm cụ, cụ đến đột ngột quá, và giữa lúc học trò dộn dịp sắp ra về, nên mới có điều sơ xuất vậy. Vả lại lúc này học trò đang bận tập bài văn để đầu tháng này xuống thi ở nhà quan Huấn! - Được lắm. Ra các cậu học đây đều sắp sửa đi thi nay mai kia đấy? - Bẩm cụ, nhà cháu dạy đủ lề lối văn trường rồi, chỉ còn cho luyện tập tinh vi đến sang năm đi thi hạch, rồi xuống tập quan Huấn hay vào tập quan Nghè Phạm Xá ít lâu để kịp khoa thi Mão sắp tới. Ông đồ tươi cười nói với một vẻ thỏa thích. Nhưng ông khách hơi cau mày hỏi: - Thưa thầy như thế, các cậu học đã giỏi lằm nhỉ? - Bẩm cụ, cũng chưa lấy gì làm giỏi, nhưng cũng đủ sức làm bài, bẩm cụ bài của các trẻ đây. Ông đồ lại đưa các vở bài ra cho khách. Khách thong thả mở qua các trang giấy, ông đồ hỏi: - Bẩm cụ quý quán ở đâu tá? - Ấy tôi đi qua, thấy đây có trường học ghé vào chơi hầu thầy, thầy cho phép tôi hỏi các cậu ấy mấy câu. - Bẩm vâng, xin rước cụ chỉ giáo. Ông khách quay lại học trò: - Lão thấy nói các cậu sắp đi thi, lão kính phục lắm, nên lão muốn cùng các cậu đàm luận một lúc cho vui, lão bây giờ già rồi không còn được may mắn như các cậu đi học, đi thì nữa, lão tiếc quá. Các cậu đối hộ câu này nhé, lão nhai dập bã giầu này là phải xong, vì lão vội lắm. Các học trò lấm lét nhìn nhau, rồi đều nói: - Bẩm cụ vâng ạ! Ông khách ra: - Cây xương rồng, giồng đất rắn, long lại hoàn long, (chữ long nghĩa là rồng). Các học trò im lặng ngồi nghĩ, mặt anh nào cũng đực ra! Ông khách bỏm bẻm nhai đã nát miếng giầu, thè ra môi, giơ hai đầu ngón tay, cầm lấy bã ném tót ra sân, rồi giục: - Thế nào, xong chưa các cậu? Chỉ có mình Tâm đứng dậy thưa: - Bẩm cụ con xin đối ạ: “Quả dưa chuột tuột mồm mèo, thử gì mà thử?” (chữ thử là chuột). Ông cụ lắc đầu: - Hơi được, nhưng không chỉnh mà lại xược. À, thảo nào! Bé mà hay chữ tất dễ khinh mạn. Còn các cậu kia, không đối được à? Thôi quá hạn rồi. Các cậu làm giúp tôi bài thơ này: “Trí tiểu nhi mưu đại” lấy vần mưu, các cậu có biết chữ đâu không? Học trò ngơ ngác nghĩ không ra, ông đồ phải bảo: - Chữ kinh Dịch thiên Hệ từ hạ, câu: Đức bạc nhi vị tôn, trí tiểu nhi mưu đại, lực tiểu nhi nhậmtrọng, tiển bất cập hĩ (15), học rồi mà đã quên. Ông khách chữa: - Ấy, kinh Dịch trúc trắc khó nhớ. Học trò ngồi nghĩ mãi, lại gặp vần mưu rất khó chọn, nên viết đi xóa lại mãi không thành. Mãi quá trưa mới được mấy bài đưa lên, ông khách xem qua, rồi quẳng giả không chấm, ông lại bảo: - Hẵng để bài thơ đấy, các cậu làm giúp tôi bài phú này nhé: “Giột tự nóc giột xuống”, dĩ đề tự vi vận. Thật là bài phú oái oăm và mai mỉa. Ông đồ tức lắm. Từ câu đối đến bài thơ, bài phú đều một giọng khuyên răn khinh miệt. Nhưng biết làm thế nào. Chả nhẽ ông đi làm hộ học trò à? Ông đành ngồi mà xemcái lão giời đánh nó hạnh sách thế nào. Cả ông đồ và học trò mải tức tối khó chịu, quên cả ăn uống và mời khách. Bỗng ông kia đứng dậy chào ông đồ đi ra, họ cố giữ thế nào ông cũng không ở. Ra đến sân ông nghêu ngao đọc: - Học kinh bất minh, bất như quy canh(16). Người khách đi khỏi rồi, ông đồ mới trút cơn tức bực ra mắng học trò tàn tệ, sau cùng ông dịu giọng lại, nói vuốt hậu: - Nhưng với cái thằng điên ấy, không kể làm gì. Nó chỉ đi tìm những vần khốn khổ để thử người ta, đem những tử vận(17) mà hỏi, thì đến nó cũng không làm nổi. Nói vậy chứ ông đồ cũng không biết người khách lạ kia, tung tích thế nào, quê quán ở đâu, mà cả vùng ấy, học trò đã đi dò hỏi khắp, cũng không biết hành tung con người bí mật kia ra sao. Tuy nhiên, cái cuộc đến thăm đột ngột và lạ lùng của người khách vẫn ích lợi cho bọn học trò và cho Tâm nhiều lắm. Lúc ấy chúng mới thấy rõ sức kém cỏi của mình và hiểu rằng đi thi ngoài sự biết rõ lề lối văn bài, lại còn cần phải có thực tài nữa. Và cái học như thế, chúng chỉ mới đáng làm ông đồ “chi, hồ, giả, dã” chứ chưa thể vác lều chõng vào trường mà cầm chắc có tên trên bảng. Chương IV Năm nay Tâm mười lăm tuổi. Tết Nguyên Đán vừa xong, mồng sáu Tết, ông đồ Trí Mỹ Lý đã xuống nhà ông lý Tưởng, trước là chơi thăm, sau là để bàn bạc về việc học của Tâm. - Ông Lý ạ. Đạo học vô cùng, kể cháu Tâm học hết chữ tôi cũng còn chán. Nhưng sang năm đến khoa thi rồi. Tôi muốn chọn nơi “đại tập” cho cháu theo học, nó quen khuôn sáo khoa cử đi và đua tập với sĩ tử các nơi. Để lúc vào trường nó khỏi luống cuống. Nên tôi xuống bàn với các ông xem sao… Ông đồ rung đùi gật gù bảo ông lý Tưởng. Ông này đon đả lễ phép: - Bẩm thầy dạy chu tất quá. Cái ấy còn tùy ở lượng thầy. Xin rước thầy nghỉ chơi ở đây mấy hôm, rồi thầy truyền thế nào chúng tôi cũng xin vâng. Rồi ông xuống nhà gọi Tâm: - Tâm ơi Tâm! - Dạ! - Anh sang bên chú lý Hai tìm bác về ngay, bảo có thầy đồ Mỹ Lý xuống chơi. Và bảo bác rẽ vào nhà ông chỉ Tấn mời ông Tú Phú Động sang chơi nhé. Bảo bác thế nào cũng mời cho được ông Tú. Chả mấy khi ông đồ ở chơi. - Thưa thầy, ông Tú Phú Động sang ta bao giờ thế? - Ông ấy sang đâu hôm kia ấy mà. Sang xếp chỗ ngồi: Nhất sư nhất đệ, ý chừng nhà ông Chỉ muốn nuôi. Nhưng thôi anh đi mau mà về nhé. Một lúc sau, bác Tâm đã về, vùn vụt bước lên hè chào: - Bẩm thầy ạ! - Không dám, chào cụ! - Thấy tin thầy xuống chơi, tôi đang đánh tổ tôm đằng chú lý Hai xóm ngoài, phải vội về hầu thầy. - Thưa cụ, quý hoá quá. Chết nỗi! Làm dở mất hội ù của cụ. Đầu xuân, cụ có tốt tài không ạ? - Bẩm thầy, năm ngoái tôi chỉ toàn thua. Nhưng sang năm nay mới đánh mấy canh, nhờ giời đều được cả. - Như thế là năm nay cụ hồng vận suốt năm. - À, thưa thầy có ông Tú Phú Động sang xếp chỗ ngồi ở làng tôi, tôi mời lại chơi, có lẽ sắp đến. Thầy có biết? - Có phải cái ông Tú dong dỏng cao, mặt xương xương ngăm ngăm đen… - Vâng, ông ấy có bộ râu dài lòa xòa. Ông bác Tâm vừa nói đến đây thì ông Tú đã bước vào cổng. Con chó vện nằm trên hè, chồm ngay bốn vó lên, sồ ra như chực nhẩy xổ vào người khách lạ. Tâm giơ hai nắm tay lên dọa mắng con vật: - Con chó quái nào! Mù à! Con chó cúp đuôi chạy, còn sủa đổng mấy tiếng gâu gâu! Bác Tâm đã bước xuống sân chắp tay vái chào: - Bẩm chào cụ Tú sang chơi ạ! - Tôi không dám, chào ông ạ. Ông đồ cũng bước xuống đất, tiến ra cửa đứng đợi, khi trông thấy ông Tú, ông cúi đầu hỏi: - Chào quan bác sang chơi ạ, hân hạnh cho đệ quá! Ông Tú trông thấy ông, hớn hở cười sằng sặc: - À, bác đồ Mỹ Lý, tôi cứ tưởng là ai. Cửu hạn phùng cam vũ Tha hương ngộ cố tri (18) Có phải không bác? Còn gì vui bằng tôi gặp bác ở đây kia chứ. Vạn hạnh! Vạn hạnh! Khá! Khá! Khá! Kh… Khá. Ông đồ cũng cười theo, rồi mời ông Tú vào ngồi trên sập khách. Ba người chiếm ba góc sập, ngồi xếp bằng, hai tay chắp lại, mười ngón tay luồn qua nhau để chắp lên khu bàn tay, hai cánh khuỷu đè lên hai bên đùi. Ba người chuyện trò rất vui vẻ, hết chuyện làm ăn đến chuyện học hành và chuyển sang chuyện dạy học. Ông Tú hỏi ông đồ: - Năm nay bác ngồi đâu chửa? - Vẫn chỗ cũ, tính tôi không hay đổi chỗ. - Đám nào đấy? - Vẫn đám Mỹ Lương đấy mà. - Thế cũng xong, tôi thì long đong. Năm nào cũng phải xếp. Chả mấy đám là vừa ý, ở được lâu. Này bác ạ, nhưng mà cũng nên năng đổi chỗ để mà lấy đồng môn chứ. - Vâng, bác dậy thế cũng phải. Năm nay bác định ngồi nơi nào chửa? - Ấy bên này ông chỉ Tấn xếp đấy, nhưng tôi chửa thuận hẳn. Nhất sư, nhất đệ mà niên bổng tôi đòi trăm hai quan, nhưng ông chỉ mới định có tám chục. - Bẩm cụ, nếu xong bao giờ cụ khai trường? Bác Tâm đột ngột hỏi. Ông Tú ngồi ưỡn ngay người lên, thò tay rón miếng trầu bỏ vào mồm nhai, rồi đáp lại: - Tôi định mười hai này sạch ngày lại có sao giác trực khai, tôi bắt đầu lễ thánh rồi khai giảng. - Cụ đồ Bế xóm đông lại dạy ngay từ mồng mười. Còn thầy đồ ta ngày nào thầy xuống trường? Ông đồ đang ngồi thẳng, thò tay vào nách gãi sột sột, cũng vội giả nhời: - Tôi được cái thong thả. Làng ấy họ còn việc làng canh chay rằm tháng giêng. Cả làng bận rộn đến mười sáu mới xong. Nên đến mười tám tôi mới khai trường. - Năm nay thầy cũng cho cháu Tâm theo chứ? - Ấy, lúc nãy tôi đã bảo với ông Lý, năm nay nên cho cháu đi học các bậc đại khoa để nó quen lề lối sang năm đi thi. Ông Tú ngạc nhiên hỏi: - Cậu nào mà đã nói chuyện đi thi? Bác Tâm nhanh nhẩu giả nhời: - Bẩm cụ, cháu Tâm con chú lý nó đây, vẫn theo học thầy đồ tôi từ năm lên tám. - À, cái cậu Tâm vừa đi với tôi lúc nãy à? Có, tôi có nghe đồn cậu ấy đỗ đầu kỳ thi văn ở làng Mỹ Lương năm nọ. Mà sao học chóng thế đã sắp sửa đi thi được rồi kia à? Ông đồ ôn tồn thưa lại: - Thưa bác, các ông đây có lòng mộ đạo, mà cháu nó cũng hiếu học dễ bảo nên theo tôi mấy nămcháu nó đã học hết cả các sách về khoa cử, và làm được cả các lối kinh nghĩa, thơ, phú, văn sách, tứ lục. Kể cũng chưa hay gì cho lắm, nhưng các văn bài làm đã xuôi xuôi, tôi thiết tưởng cho cháu nó đi tập một cụ đại khoa nào thì vừa lợi mà chóng cho nó nữa. - Phúc đức nhỉ! Ít tuổi mà đã được như thế. Kể cũng là một điều đáng mừng cho nhà ta lắm. Phen này thì thật đất phát khoa nhỉ! Có điều giỏi thì giỏi, chứ sang năm đã cho đi thi ngay, tôi e còn non quá. Cũng thì ít tuổi nhưng con nhà người ta vốn sẵn gia sáo, bố bảo con, ông bảo cháu ngay từ khi mới nứt mắt, nên việc đỗ đạt dễ dàng lắm, con nhà mình khác. Tôi nói tình thực, chứ có dám khinh cậu ấy đâu; bác đồ nghĩ có phải? Ông đồ hơi cau mày đáp: - Ấy việc đỗ đạt còn nhờ ở số, khoa này không đỗ để dành khoa sau, con nhà nho sĩ thế là thường, mấy ai thi mà đỗ ngay. Chẳng qua có học phải có thi, cho nó ra nơi trường ốc, nó bạn dạn quen đi. Và “thập văn bất như nhất kiến” (19). Nó được mục kích sớm những lề luật nặng nề của trường thi, nó từng trải khôn ngoan ra, đường khoa danh của nó có thêm phần mau chóng. Xưa nay người có chủ tâm lập chí vẫn thành đạt nhanh hơn người thường. Bởi lẽ ấy nên năm nay tôi bảo các ông ấy đây thế nào cũng phải cho cháu nó đi tập, tổn phí cũng cố mà chịu. Ở vùng đây có ba trường: trường cụ Nghè Phạm Xá, trường quan Huấn Đại Đồng, với trường quan Đốc Văn Chu. - Muốn văn chương lỗi lạc nên lại học đằng quan Đốc Vân Chu. Lối hành văn của ngài thật đanh thép mẫu mực, nhất là kinh nghĩa, văn sách, thật đáng là khuôn vàng thước ngọc. Học trò ngài đi đâu là nổi tiếng đấy. - Phải. Nhưng học trường cụ khó đỗ. Cái hay của cụ ra ngoài khuôn khổ, không hợp với văn thể trường thi. Đã đành rằng văn chương vô giá, song con em đi học cốt mong cho nó đỗ, ta phải rèn tập nó theo lối văn trường. Một khi đỗ rồi, còn ối thì giờ luyện văn cho hay, giũa câu cho đẹp. - Thế thì xuống tập quan Huấn Huyện. - Quan Huấn Huyện chỉ dạy các đại cương, ngài còn bận việc quyền nhiếp thay quan Huyện luôn, không chỉ bảo cẩn thận được, và chưa biết chừng nay mai ngài được bổ Tri Huyện, quan khác về, học lại dở dang. Tôi thì tôi định cho cháu theo tập cụ Nghè Phạm Xá. - Hừ, theo cụ Nghè Phạm Xá sao bằng học quan Huấn Đại Đồng? Bên cụ Nghè Phạm Xá đông học trò quá, một ngày chia làm mấy lớp, mà lại xa diệu vợi đi mất non một ngày đường. Quan Huấn Đại Đồng ở gần đây lại chỗ văn thân hàng huyện với nhau, nhờ ngài dạy dỗ cẩn thận cho, có phải chu đáo và mau chóng hơn. Vả trường ngài, ngài kén chọn kỹ lắm, số học trò vừa phải thôi, không đông lắm, nên học rất dễ. - Thế bác mới hiểu một, chưa hiểu hai. Bên cụ Nghè Phạm đông thật đấy, nhưng cái đông ấy không hại, mà lại còn lợi là được giao du nhiều, ganh đua lắm. Hai là trường cụ có sáo dễ đỗ. Lời văn của cụ, nhẹ nhàng, giản dị rất hợp với trường quy, lại khiêm tốn, lễ phép, mạch lạc rõ ràng, nên ai chấm đến cũng phải thỏa thích mà phê ưu, bình cả. Cho nên khoa nào trường cụ cũng đỗ nhiều. Vì đấy mà số học trò càng ngày càng đông. Chính tôi, tôi tiếc rằng chỉ học cụ được non một năm, chứ học luôn được cụ vài ba năm, tôi giật đứt cái cử nhân đi rồi. - Ấy cũng chỉ vì bác mải tưởng giật mạnh cho nên đứt đấy chứ! Ông Tú đâm ngang vào một câu pha trò. Ông lý Tưởng và ông bác Tâm đều cười ồ lên rồi đồng thanh nói chữa, mặc dầu các ông không hiểu việc chữ nghĩa thế nào: - Thầy đồ tôi nói rất đúng, giá thầy đồ theo tập cụ lớn Nghè Phạm mấy năm, thế nào chả đỗ cử nhân, tiến sĩ! Ông đồ ung dung nói: - Thật đấy, không tiến sĩ thì cũng hơn cái tú tài quèn. Ông Tú hơi sầm mặt, nói: - Tú tài quèn còn hơn người đi thi bao khoa rồi mà vẫn đeo tiếng ông đồ! Thấy hai người sắp sửa nói mát nhau quá hóa thật, ông bác Tâm đứng dậy vội vàng nói: - Xin hai cụ xá lỗi, hai cụ định cho cháu tôi theo học chốn nào, hai cụ chỉ bảo để chúng tôi còn biết lối mà sửa soạn cho cháu. Xin hai cụ đừng… Ông Tú cười nói: - Không có việc gì đâu! Ông đồ đã định cho cháu theo cụ Nghè rồi lại còn. Ông đồ đã nghĩ là chí phải… Ông đồ nghĩ sao cũng vội đổi ngay sắc mặt vui vẻ nói: - Tôi định thế, nhưng còn tùy ở các ông đấy chứ. Các ông nghĩ kỹ xem có nên không. Đây ra đấy vừa xa vừa chỗ trọ khó khăn. Có lợi chỉ lợi cho cháu và bất tiện cho các ông. Đi lại xa xôi mà tiền phí tổn thì nhiều. Liệu sức có cáng đáng nổi không? Ông lý Tưởng vội láu táu nói: - Bẩm thầy, thầy dạy thế nào chúng tôi cũng xin vâng. Về việc học hành, chúng tôi không được tường cho lắm, nên trăm sự trông nhờ cả ở thầy. Đằng nào tiện lợi cho cháu xin thầy cứ bảo, phí tổn bao nhiêu chúng tôi cũng chịu được. Đến phải bán nhà, bán đất lấy tiền cho con đi học cũng cam lòng. Chúng tôi con nhà hào lý, đành phận dốt nát, nay thấy cháu nó học được chúng tôi cố sức cho đi học, chỉ cầu Giời khấn Phật phù hộ độ trì và nhờ mồ mả phúc ấm nhà, cháu đỗ được cử nhân hay tú tài để chúng tôi được hưởng cái hương thơm của triều đình thì thật là thỏa mãn. Cháu đỗ sớm được ngày nào là chúng tôi càng thêm vẻ vang ngày ấy, nhỉ bác cả nhỉ! Ông bác đồng ý nói thêm: - Phải, nhờ thầy đồ cứ dốc lòng chỉ lối đưa đường cho, nếu chú lý nó chịu không nổi, đã có tôi góp vào. Ông đồ đắc thắng cả mười phần, gật gù thích ý nói: - Như vậy ta nên cho cháu theo học cụ Nghè Phạm Xá. Tốn một tý nhưng chắc đỗ hơn. Ông Tú cũng phải chêm vào mấy câu lấy lòng: - Các ông thành tâm dốc chí cho con đi học như thế, Giời Phật Thánh Thần tất không phụ tấm lòng các ông mong mỏi. Chóng chầy thế nào cậu Tâm nhà cũng đỗ to. Con hay chữ lại chăm học, bố mẹ hết lòng tin cậy sự học thật là được đủ mọi điều. Tôi chưa thấy mấy nhà được như thế. Ông đồ tốt cung quan lộc lắm mới gặp được một nhà phúc hậu thành tâm như vậy. Tôi thì toàn gặp những phường đảo điên bất nghĩa cả. Ông bác Tâm đương cúi cổ têm giầu, vội ngẩng ngay lên nhìn thẳng vào ông Tú và nói: - Ấy, bẩm cụ, cháu Tâm đây gọi thầy đồ bằng cậu ruột đấy, thím Lý nhà tôi là em gái thầy đồ. Ông Tú vội hoan hỉ gật đầu: - À ra thế, người nhà với nhau cả. * * * Tan bữa rượu, ông Tú trở về nhà ông chỉ Tấn để mặc cả xong cái giá ngồi. Bác Tâm tiễn chân ra đến đường cái. Còn ông đồ và ông lý Tưởng chỉ xuống đến sân thôi. Khi ông Tú đi khuất cổng rồi, hai người cùng đi vào nhà. Ông đồ nói: - Đến ghét lão Tú Phú Động này, đi đâu thì nói thánh nói tướng mà rút cục tâm địa rất xấu xa. Hắn xỏ xiên lừa cả quan Huấn Đại Đồng đấy. Có gì đâu, quan Huấn ngài ưa kén chọn kỹ người học khá, tính nết tốt, chịu khó và khá giả mới cho học. Hắn biết ngài thế, nên bẻm mép ngọt ngào nói với ngài, đem ít gạo đến xin ở trọ hẳn nhà ngài. Hắn ở ít lâu rồi chả biết thế nào ngài tin hắn lắm. Hắn mới lấy trộm của ngài ít vở bài chép rất công phu rồi chuồn thẳng, bửa mất của ngài mấy tháng cơm. Quân như thế còn bao giờ khá được. Ông bác Tâm vừa đến nghe thấy được câu một câu hai không hiểu cái gì, hỏi ngay: - Cái gì thế? Ông lý đáp: - À, thầy đồ nói chuyện ông Tú Phú Động. - Ông ấy xếp cái chỗ đằng ấy chả chắc có xong không, vì ông ấy cò kè quá mà ông Chỉ làng ta cũng không vừa! Ông đồ có vẻ khinh bỉ nói: - Có xong thì cũng chỉ được một năm thôi. Đểu giả như lão ấy có ai ưa được mãi. Mà lại còn kêu ca là long đong vất vả. Ông bác Tâm bấy giờ mới hơi hiểu cái mẩu chuyện nghe được câu một câu hai lúc nãy, trợn hai mắt ngạc nhiên: - Nhè! Ra thế đấy! * * * Thế là Tâm đã nhất định được theo học cụ Nghè làng Phạm Xá ở tận ngoài gần tỉnh Nam, vừa đi vừa về mất hai ngày. Nên cả nhà chỉ còn việc sắm sửa cho Tâm nào quần áo, giấy bút. Nào tiền ăn gạo đốn, sao cho ra dáng con người học trò đi ăn học ở nơi xa lạ. Bây giờ không còn là cậu học trò bé miệng cơm chín của ông đồ Mỹ Lý nữa kia mà. Chương V Sau khi đã sửa lễ, lễ đình, lễ miếu, lễ điện ông Tự Kế để cầu cho Tâm được thông minh sáng láng, học đâu biết đấy và nhớ như chôn vào ruột, sau khi cả nhà đã nhộn nhịp sắm sửa cho Tâm mọi thứ cần thiết, đã đến ngày nhất định của Tâm nghìn dậm đội níp theo thầy. Cái ngày ấy là ngày mười một tháng giêng. Tất cả đồ đoàn sách vở của Tâm đều nhét cả vào một cái hòm gỗ vuông to sơn then chạy chỉ vàng, trông tựa cái hòm mộc của phường chèo. Cái hòm ấy chiếm một bên gánh. Muốn cho cân, bên này người ta để một thúng tiền kẽm chừng sáu bảy quan và một nén bạc, phủ lấp đi bằng một mẻ gạo di trắng, trên để một cái tráp. Một người lực điền được mặc cái áo nâu mới ruộm treo xong hồi trong năm, một cái quần mới còn trắng, thắt một cái khăn sồi gốc đỏ thẫm, để nhận lấy cái việc gánh đưa cậu ra trường như mọi người đều bảo. Tuy phải gánh trên vai đi hàng ngày đường, bác vẫn lấy làm sung sướng được gánh đưa người đi học. Bác buộc quang cẩn thận, thắt nút cho đều rồi cho đòn gánh vào quang, ghé vai nâng bổng gánh lên, dún thử mấy cái rồi lại để xuống tươi cười nói: - Còn nhẹ lắm, bà lý ạ, bà xem có thiếu gì nữa cứ để thêm vào. Đây ra đấy chứ từ đây lên Bắc hay vào Thành nội, con gánh cũng được! Bà lý toan chạy đi lấy mấy cái bánh chưng nữa nhưng ông lý đã gạt đi rằng: - Thôi để ở nhà cho trẻ nó ăn, nặng rồi đấy, còn để cho người ta đi được chứ, xa kia mà! Ông đồ vứt cái bã giầu vừa nhai xong, thò hai ngón tay bên trái vào cơi giầu cắp một miếng cau lên, móng tay cái bên phải đã thoăn thoắt bấm tỉa vỏ đi, rồi bỏ vào mồm ngậm yên đấy, lại lấy miếng giầu, giở cuộn ra, cho móng tay cái cào bớt đi ít vôi quệt ngay lên cái cột liền đấy thành một vệt trắng dài trông như cái nét sổ cụt, rồi ông cuộn lại bỏ vào mồm nhai ngau ngáu và đứng lên nói như truyền lệnh: - Thôi ta đi! Mọi người đều xuống cả sân, tất cả những người trong họ đến tiễn chân Tâm. Cuộc chào nói ồn ào. Rồi như con rắn cuộn khúc mở dần ra, cả một đoàn người cứ dần dần tiến ra cổng đi thành hàng chữ nhất: ông đồ đi trước, đến ông bác Tâm, ông lý Tưởng, Tâm, người gánh, rồi đến mọi người họ hàng thân thích theo sau. Ra đến cổng, tiếng chào lại ồn lên một lúc: đoàn người theo sau bớt đi quá nửa. Đến đường cái, mọi người về cả, chỉ còn lại có bốn người đi đầu. Giời hôm nay đẹp, mưa phùn đã tạnh hẳn từ đêm. Trên giời còn một làn mây đục mỏng; nhưng phương đông đã vàng tươi rực rỡ tuy mặt trời chưa lộ ra, đủ tỏ rằng hôm nay phải hửng to. Đường khô ráo, những lộc non toả ra một mùi thơm mới mẻ. Gió thổi nhè nhẹ lướt qua mặt khách bộ hành như một bàn tay yêu đương êm dịu xoa lên má. Tâm thấy trong lòng nhẹ nhõm sung sướng bâng khuâng, tưởng như cảnh vật chung quanh đều tươi cười chào đón mình. Những đường đất quằn quèo uốn khúc nơi đồng ruộng xanh rờn như ngắn lại. Tâm đi không thấy mỏi. Thỉnh thoảng một toà đình lộ ra trắng xóa hay xám xì để rồi lại khuất vào trong lũy tre xanh hay dưới những cây si, cây đa sầm uất làm cho Tâm vui thích lạ, chàng chỉ muốn chạy vào hẳn tận nơi xem các câu đối treo ở cột, khắc ở tường. Nhưng có lúc chàng vừa chù chừ ngừng bước cố nghếch mắt đọc cho hết câu đối ngoài trụ cột, thì ông đồ hay ông lý đã dịu dàng giục: - Tâm, đi mau đi con! Còn xa kia mà! Chàng lại phải cắm đầu rảo bước theo sau hai người, chú cu Thìn quẩy gánh đã đi vượt lên xa rồi, chú cứ đi một thôi dài thật mau, đến hàng nước bên đường lại ngồi nghỉ để đợi ba người. Đi mải miết đến xế chiều mới đến nơi. Tuy đã được nghỉ bốn bận, ăn quà uống nước, nhưng Tâmcũng thấy mỏi chân lắm, Vì lần đầu tiên chàng đi xa vậy. Mọi bận chàng mới chỉ đi từ nhà xuống Vân Trung và Mỹ Lương thôi. Lần này chàng mới đi xa mà đã đi hằng những ngày đường, làm gỉ chả mỏi. Giá không có những cảnh đẹp lạ lùng mới mẻ làm khuây lòng, chàng có thể phát khóc lên được. Chàng vừa kéo lê chân mà mắt còn mải trông cái lăng xây kiểu văn chỉ quét vôi trắng xoá, trên lối vào có mấy chữ đại tự to và hai bên một đôi câu đối viết lối thảo già dặn. Chàng đương mải trố mắt nhìn để đọc rõ đôi câu đối rất nổi ấy thì ông đồ đã lại giục: - Đến nơi rồi con ạ! Đi mau vào nhà trọ mà nghỉ. Bấy giờ Tâm quay lại thì đã bước trên con đường nhỏ vào làng Phạm Xá. Cái cổng làng bằng gạch đã lồ lộ hiện ra dưới lũy tre xanh biếc. Làng Phạm Xá là một làng trù mật, tự đằng xa người ta đã nhận biết bằng những cây cau cao vượt ngọn tre liền chi chít như che rợp cả mặt giời. Qua cổng làng, Tâm để chân lên con đường lát đá xanh liền nhau thẳng tắp. Này là văn chỉ, trên một khoảng đất rộng, chung quanh giồng cây rậm rạp, ở giữa đền thờ đức Thánh Khổng rất đồ sộ và nguy nga, trên mái bốn góc chạy bốn con rồng ngang nhiên nghểnh cổ nhìn giời. Hai bên xây kín, đắp hai con phượng xòe cánh múa. Ở trong chính giữa vẽ bức di tượng đức Thánh, hai bên tường vẽ rồng chầu, chính giữa để bát hương bằng đá. Trước cửa đền, cách xa một ít, một cái hương án xây gạch. Rồi hai bên đối nhau bốn bệ thờ lộ thiên, lưng tựa kiểu tam sơn, hai bên con rồng bò, thờ Tứ phối (Tăng Tử, Mạnh Tử, Tử Tư, Nhan Hồi). Đứng hẳn về sau bệ thờ Tứ phối, mỗi bên năm bệ thờ Thập triết (mười vị giỏi học trò đức Thánh) trước mỗi bệ có một bệ con. Rõ ra một cái văn chỉ nơi khoa mục. Tâm phải ngừng lại một lúc để ngắm. Tiến mấy bước nữa đến trước cửa đình, một toà đình ba chiếc liền nhau chạy dài năm gian với một cái sân lát gạch, chung quanh bao tường. Ở ngoài là một cái ao làng rất rộng, những cô gái làng ra “kín” nước hay giặt dịa đang cười cười nói nói giòn giã. Thấy ba người đi qua với gánh hòm đi trước, các cô ngừng tay trông theo và nói chuyện, Tâmlắng tai nghe thấy: - Trường cụ Nghè lại thêm một bác học trò nữa. - Còn cái cậu kia chắc đi hầu cơm nước. - Láo nào? Trông có vẻ học trò đấy chứ. Biết đâu hai ông kia lại chả là người đưa cậu ta đi học? - Phải, cậu học trò của chị Tân đấy! Đi mà theo người ta đi! Ngữ ấy mà học trò làng này! Cụ Nghè có dạy ai bé bỏng như thế đâu? - Ngộ bây giờ có người bé thì sao? - Ngộ có người bé thế này thì phần chị Tân! Tâm nghe thấy cũng phải phì cười làm ông đồ phải bào: - Cố đi mau mau lên con, còn cười gì đấy? Tâm rảo bước, vẳng còn nghe thấy tiếng các cô cười nói. Giời đã về chiều, tiếng học trò đã vẳng khắp mọi nhà, rang rảng nghe rất vui tai. Ông đồ Trí đưa Tâm xuống mãi cuối làng vào nhà ông phó Liên, nơi ông trọ học năm xưa. Cả bọn vừa vào đến cổng, ông phó đang loay hoay nhổ cỏ ở sân, trông thấy vội đứng lên cúi đầu chào: - Chào thầy đồ ạ! Lâu nay thầy mới lại đến chơi! Chào các ông ạ! - Không dám, chào ông phó, ông vẫn khỏe mạnh chứ. Có đông sĩ tử trọ không? Tôi muốn đem gửi ông thằng cháu này. - Vâng ạ, rước thầy và các ông vào nhà ạ. Ông phó đưa ba người vào nhà, vừa đi vừa nói: - Sang năm đến khoa thi rồi, nên năm nay trường cụ đông lắm. Mới mồng mười mà học trò các nơi đã đến như nước chảy. Ra đường nhan nhản chỉ chạm trán những học trò. Ông đồ hỏi lại: - Ông phó có đông học trò trọ không? - Năm nay cũng đông các thấy ấy đến trọ, tất cả tám thầy rồi. Còn hẹn đến rằm, mấy thầy ở Đông vào nữa. Hiện giờ có năm thầy ăn cơm nhà cháu. Còn ba thầy ở bên Thư Trì thì thổi cơm lấy. Các thầy ấy vừa đi đâu cả, chỉ có thầy Tuấn nằm ngủ kia. Mời hai ngài ngồi. Ngồi kia cậu, ở đây cũng như ở nhà mà. Tâm nghe thấy nói đến mình, đang ngắm khắp nhà, cũng vội ngồi xuống sau hai tiếng: - Vâng ạ! Cái nhà gỗ năm gian rộng thênh thang. Hai đầu kê hai dẫy phản gỗ sát liệt bản, liền vào cửa sổ trông ra vườn chè. Ở hai gian trong có hai giường với một cái án thư quang dầu đỏ trên để một chồng sách in, một ống cắm bút bằng cái ống tre lắp lên miếng gỗ vuông và mấy cái đĩa tầu vỡ dùng làm nghiên. Ở gian giữa một cái sập gỗ chân quỳ và một bộ kỷ tre với một cái bàn sơn ba tầng. Ở góc nhà mấy cái hòm vuông để chồng lên nhau: hòm của các thầy trọ học. Ông phó Liên để ông đồ Trí và ông lý Tưởng ngồi uống nước ở trường kỷ, rồi xuống nhà dưới bảo con ở làm cơm. Còn hai người với nhau, ông Lý hỏi ông đồ: - Bây giờ thầy đưa cháu vào hầu cụ lớn hay mai? - Bây giờ chứ. Nghỉ chân một lát rồi vào hầu cụ, nói với cụ trước, mai chỉ việc vào học. Mai cụ bận, nói chuyện thế nào được. - Bẩm thầy, tôi có đi được không? - Được, ông cũng đi cho vui. Vả ông cũng nên đi vào chỗ khoa mục đại thần mà biết cái vẻ trang nghiêm đạo mạo, lề thói cao quý nơi cửa Khổng sân Trình. - Vâng, thế ta đi đi! - Hượm một tí đã, để cháu nó đỡ mỏi chân, có đau chân lắm không cháu? - Bẩm thầy không ạ! - Có mỏi lắm không? - Bẩm không ạ! Con đi được ạ! - Ừ nào thì đi, chú cu Thìn cho gánh vào trong này. Ông lý mở hòm lấy lễ ra… Ông phó ơi! Ông lấy cho mượn cái quả. - Dạ! Vâng ạ. Ông phó đưa quả lên. Ông đồ đặt lễ vào: một buồng cau, một chai rượu, một chục bánh mật và hai quan tiền. Ông đậy nắp quả lại, rồi quay lại bảo: - Chú cu Thìn đội đi này! Thôi ta đi. Ông phó ở nhà nhá. Chúng tôi vào cụ một lúc. - Vâng, rồi xin mời các ngài về xơi cơm. Chương VI Cụ Nghè Phạm Xá là một tay khoa mục có tiếng nhất vùng Nam này. Cụ vốn là dòng thế gia vọng tộc. Ông Tam đại cụ đỗ cử nhân làm quan đến chức Án sát Hà Tiên, thọ tám mươi hai tuổi, đã đào tạo được nhiều bậc khoa hoạn trong Triều ngoài Nội. Ông thân sinh đỗ Phó bảng làm đến Thị lang bộ Hộ, rồi vì bệnh cáo hồi. Cụ Nghè tên là Trần Tiến Thanh, đỗ thủ khoa trường Thanh năm hai mươi hai và tiến sĩ nămba mươi tuổi. Cụ đã làm đến Tri phủ, quyền thụ Án sát. Sau nhân vì cụ Bảng ốm yếu luôn, cụ cáo quan xin về nhà nuôi cha, mông ân Hoàng đế sắc chuẩn, cụ về mở trường dạy học, gần xa mộ tiếng khoa bảng nhà cụ, kéo đến theo học ngày một đông. Ròng rã mười năm giời thiết trường (20), cụ đã rèn đúc nên biết bao ông cử, ông tú, ông bảng, ông nghè, cụ đã nghiễm nhiên đứng địa vị già cả trong văn thân xứ Bắc. Sĩ tử Bắc Hà hầu khắp đều là học trò cụ, bởi ai cũng đều truyền nhau là học trường cụ dễ đỗ nên kẻ gần vùng, người xa xôi ở tận Bắc, tận Đông, tận Đoài cũng không ngại nghìn dặm đốn lương mang theo học. Thật vậy, văn bài ở trường cụ rèn theo quy tắc trường thi dựa theo những bài thi các khoa trước, lại có các quan Đốc học tỉnh Nam và các tỉnh lân cận cùng các quan Huấn đạo, Giáo thụ tại chức, thường đến chơi dạy giúp và chấm bài, nên học trò được nhiều kinh nghiệm ở trường thi và thấu rõ giọng văn khoa cử, vào nơi đàn văn trận bút rất có hy vọng tên chiếm bảng vàng. Bởi lẽ đó, học trò trường cụ khoa nào cũng đỗ nhiều. Và cũng bởi lẽ đó, ông đồ Trí cất công đưa Tâm đến cho kỳ được, hòng cho cháu mau nhất tự cách trùng(21). Ông đồ đưa Tâm vào đến cổng cụ Nghè. Một cái cổng ngói cao mầu vôi xám, rêu phủ gần khắp, trên có ba đại tự “Thiểu Cao Đại”(22), với hai bên tường đôi câu đối rằng: Giáo dân thành tục do tư đạo, Giác hậu viễn mê nhập thử môn.(23) Tâm đọc qua tấm tắc khen hay, phục ngay giọng văn nơi đại khoa quyền quý: rõ ra cái cổng nhà một vị dạy người, tác thành cho mọi người. Qua cái cổng ấy, vào một con đường nhỏ lát gạch ở giữa hai đầu ao, xiên qua một vườn chè vào đến một cái sân chung quanh xây tường hoa. Ba con chó nằm trên hè xồ ra cắn. Bốn người đứng xô lại nhau, cầm cái vọt khua đi khua lại. Một gia nhân chạy ra đánh chó và hỏi khách. Ông đồ hỏi ngay: - Cụ lớn có nhà không bác? - Chào các bác, cụ tôi có nhà ạ. Các bác đến có việc gì? - Chú vào bẩm với cụ lớn hộ chúng tôi rằng có tên học trò Trần Văn Trí ở Mỹ Lý xin vào hầu. - Vâng, xin rước các bác vào trong này, để tôi vào bẩm cụ, đứng đây chó nó cắn, cụ gắt. - Vâng chú vào bẩm cụ ngay cho. Bốn người theo chân tên gia nhân bước vào sân, cái sân gạch bát tràng rộng với trong cùng một giàn hoa thiên lý che cái vườn cảnh có những chậu đá đựng những gốc cây thành hình mọi con thú và những cây cảnh uốn thành con hạc, con rồng và những chậu lan, chậu cúc đưa hương thơm mát… Bốn người rẽ quặt vào nhà ngang đợi, cái nhà ngang đây là nhà bếp, nơi ở của tôi tớ trong nhà. Một mụ đàn bà già cầm chổi phẩy qua cái phản bừa bãi những cơm, những nước, những vệt chân gà, rồi ngẩng lên nói với ông đồ: - Các thầy ngồi chơi đây. Các thầy đến xin học phải không? Năm nay cụ tôi nhận ít học trò lắm. Hômqua có mấy người đến đều bị về cả. - Thế à? Cụ đây khai trường từ hôm nào hở cụ? − Ông đồ Trí hỏi. - Cụ tôi mới khai hôm mồng tám, khai sớm để tháng hai này cho người làng đi khảo. Nghe đến tiếng đi khảo, Tâm bất giác giật mình. Tâm cũng không biết làm sao lại giật mình được. Có lẽ Tâm sợ phải đi thi? Nhưng trong lòng Tâm vẫn mong mỏi học để đi thi cho mau đỗ kia mà. Thực ra cái ý nghĩ đi khảo, Tâm chưa hề săn sóc đến, nên lần này nghe thấy đột ngột về kỳ thi gần quá, Tâm đâm ra hoảng sợ. Tuy vậy, chỉ trong nháy mắt thôi, chàng trấn tĩnh được ngay, thì vừa lúc người nhà xuống: - Cụ truyền các bác lên. Ông đồ đứng dậy, dặn mọi người: - Chú cu Thìn đội quả lên, đứng ở ngoài đợi nhé, để chúng tôi bưng quả vào. - Bẩm thầy vâng ạ! Xa xa có tiếng lủng bủng: - Đã đến đây xin vào học còn thầy với bà. Ông đồ không để ý đến câu nói xỏ ấy ở đâu, quay lại dặn ông lý: - Còn ông lý vào trong, thấy cụ phải phủ phục xuống lạy hai lạy rồi đứng yên đừng có nói câu gì nhé. - Vâng ạ! - Còn Tâm, con chào cụ và lạy cụ, rồi cụ có hỏi gì, phải nói rất cung kính, mạnh bạo và lưu loát, đừng có ấp úng, cụ lớn không cho học đâu. - Bẩm thầy vâng ạ! - Thôi ở đây đừng gọi tôi bằng thầy. Đoạn bốn người theo tên người nhà đi hết hè bếp bước lên cái hè đá nhà trên, một toà nhà ngói nămgian. Đi lượt qua bốn gian nhà đóng cửa bức bàn, đến cái phòng phía Tây ngoài treo một bức trướng bằng vóc đỏ, chữ viết, bốn người dừng lại. Đấy là phòng riêng của cụ Nghè nghỉ ngoài giờ học. Tên người nhà vào trước, ở ngoài vẳng nghe có tiếng nói: - Cho vào! Tên gia nhân thò đầu ra gật, ba người lần lượt bước vào đều chắp tay vái chào, rồi phủ phục lạy, miệng nói: - Bẩm lạy cụ lớn ạ! - Bẩm lạy cụ lớn ạ! - Bẩm lạy cụ lớn ạ! Cụ Nghè ngồi sập cất tiếng sang sảng truyền xuống: - Thôi, miễn lễ! Ba người vừa lễ xong một lễ, nghe cụ truyền đều bình thân đứng ngay người cúi đầu vái vái. Ông đồ chạy ra cửa bưng quả vào đặt xuống sập trước mặt cụ Nghè, mở nắp ra cầm đưa cho ông lý. Ông lý sẽ để dựa xuống kẻ ngạch. Trong phòng im lặng một lúc lâu. Tâm được dịp ngắm nghía cụ Nghè và gian phòng. Trạc tuổi sáu mươi với bộ râu dài lòa xòa trắng ngà ngà còn điểm thêm mấy sợi đen, với đôi mắt sáng và sắc không phải dùng kính, với cái trán cao và bóng, chưa điểm dăn, với cái mũi “long chuẩn” to và thẳng, cụ trông ra vẻ con người nửa tiên nửa tục. Mặc cái áo vải giãi hạt cau bọc bông, kép đỏ, phủ trùm lên cả hai đầu gối, ngồi xếp bằng hai tay đặt vào hai bên tà áo, để hai bên đùi, cụ ngồi sừng sững như một cái núi. Tâm đoán đấy là quý tướng, tướng các vị quan sang. Tâm nhìn đến gian phòng sát liền ngay sập cụ ngồi, một cái án thư trên để liền bốn chồng vở bài, rồi đến một nghiên son to và cái ống bút bằng sứ rất đẹp, cái ống men trắng bóng vẽ cảnh “Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai” để khít vào một cái đế bằng gỗ tiện sơn vàng. Bên kia sập sát với cửa sổ phía Tây, một cái phản gỗ hai tấm quang dầu. Liền đấy, một bộ bốn cái ghế bành để chung quanh một cái mâm xoay đều bằng gỗ gụ đen bóng như sừng. Trên xà, treo một bức hoành sơn then bốn đại tự thiếp vàng già dặn “Thời vũ xuân phong”(24) của học trò Đinh Sửu khoa Tiến sĩ Nguyễn Lâm bái tiến. Chung quanh gian phòng, trên cột, trên liệt bản, treo la liệt những câu đối thêu, câu đối sơn, câu đối khảm, toàn là những môn đệ đã thành danh phận đề tặng lại để ghi chút lòng biết ơn và kính cẩn. Tâm loá cả mắt, không thể nhìn đọc xiết những hàng lạc khoản độc những cử nhân, tiến sĩ, bố chính, án sát, lại bộ, hộ bộ, nội các… Tâm đương như lạc vào một nơi triều đường nào, tiếng cụ Nghè truyền bỗng kéo chàng lại, một thứ tiếng đồng nghiêm nghị: - Các thầy ngồi! Các thầy đến việc gì? Ông đồ Trí khúm núm chắp tay thưa: - Bẩm cụ lớn, vãn sinh Trần Văn Trí, Tam trường ở Mỹ Lý nhập môn cụ lớn năm Hợi… - Phải, tôi nhớ, các thầy ngồi. Ông đồ vẫn khúm núm thưa: - Bẩm cụ lớn, khoa Tí trước, vãn sinh nhờ được cụ lớn tác thành cho vào được đến Tam trường, chỉ hiềm gia đình bần bách ra vào cửa cụ lớn ít quá, vẫn còn khao khát mãi… Cụ Nghè gật gật đầu: - Ừ! - Nhưng thế chưa sao được. Nay gọi là có chút bạc lễ đến cửa cụ lớn, lạy xin cụ cho tên Tâm đây (ông đồ giơ tay chỉ vào Tâm) nhập môn cụ lớn vào lớp Đại Tập để kịp thi khoa Mão này. Cụ Nghè trợn mắt trừng trừng nhìn Tâm: - Thầy nói tên này à? Nó bé thế này đã chắc học gì được. Ở đây không hẹp gì già trẻ, nhưng chỉ e nó không theo kịp mà cứ ép nó, nó đuối sức, đâm ra chán nản thì có hại… - Dạ! Bẩm cụ lớn vãn sinh đã trộm phép nghĩ đến điều ấy rồi. Nhưng thưa cụ lớn, học lực tên này, vãn sinh dám trộm phép tin là đủ đua đòi với các bạn. Vãn sinh đã cho thử sức với các sĩ tử trong vùng đã từng theo học các đại trường và đã nhiều phen lều chõng, thì thấy đều sàn sàn cả, không hơn, không kémlắm. Nên mới lặn lội ra tìm đến cửa cụ lớn, xin cụ lớn rủ lòng thương cho tên ấy được nhập môn, học lấy những lẽ hay đạo chính của cụ lớn và nhờ dư lộc cụ lớn, hắn được sớm thành danh thì thật vạn phúc cho vãn sinh lắm. - Thế tên ấy với thầy là thế nào? - Bẩm cụ lớn, hắn là cháu gọi vãn sinh bằng cậu. Xin cụ lớn đem ơn giời bể thương nhận cho tên ấy được theo học. - Thầy nói thế, tôi cũng biết vậy. Để mai xem văn bài thế nào, rồi lúc ấy tôi hẵng định. Bây giờ tôi thử xem tài mẫn tiệp của hắn có khá không? Còn thầy này nữa muốn gì? Ông đồ vội thưa: - Bẩm cụ lớn, tên này là bố đẻ ra tên Tâm thân đến lạy tạ và thành tâm cầu khẩn cụ lớn cho con được dự vào phần tôi con cụ lớn. Giời đã sắp tối. Tên người nhà đem cây đèn dầu thầu dầu lên. Cái ngọn đèn bấp bông leo lét và cứ lướt đi theo chiều gió, toả ra một mùi khen khét. Được một lúc, ngọn đèn cứ lu mờ dần rồi bé hẳn như cái cúc. Ông đồ Trí vội lại gần khêu to ngọn bấc chập ba lên, nhưng lửa chỉ cháy to được một lát, rồi lại lù lù lụn dầu, tạo thành cái hoa đèn xanh bọc quanh đó. Cụ Nghè hừ một cái, gọi người nhà: - Bây đâu, thắp cây bạch lạp lên đây nhé. Đèn đóm chúng bây để sao thế này? Ông lý Tưởng từ nãy đến giờ đứng im lặng, lúc này không biết hứng chí làm sao, không theo nhời ông đồ dặn, lắp bắp thưa: - Bẩm cụ lớn, có hoa đèn thế này tốt lắm, đúng như câu phương ngôn thường nói: Thứ nhất đom đóm vào nhà, Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn. Ông còn toan nói nữa, nói nhiều những điều mình biết, nhưng ông nhìn ngang thấy đôi mắt ông đồ cau cau gườm gườm trông ông, ông im bặt ngay. Cụ Nghè đáp: - Chả biết có tốt gì, nhưng bây giờ hãy chịu tối tăm đây này! Bây đâu có mau đưa cây sáp bạch lạp lên đây không? Ông đồ kính cẩn nói xin lỗi: - Xin cụ lớn đánh chữ đại xá đi cho, chú nó vốn thô lỗ quen tính, không sao mà sửa đi được nên đương không thốt ra mấy nhời phật tôn ý! Cụ Nghè ngồi im không nói. Một ánh sáng tươi rực chiếu qua chỗ cửa ngõ vào phòng, át hẳn cái ánh sáng tù mù của ngọn đèn. Rồi một thiếu nữ khuôn mặt xinh tươi rực rỡ bên ngọn nến đương rung rinh, uyển chuyển bước vào phòng như gió lướt, cặp mắt đen nháy vì chói lửa, đem đặt cây nến vào yên sách. Tâm đang trố mắt nhìn thiếu nữ, thì tiếng cụ Nghè sang sảng làm chàng giật mình cúi gầm mặt xuống vừa thẹn vừa sợ, sợ cụ Nghè bắt gặp cái nhìn ấy, cụ đa nghi không cho học nữa thì chết. - Sao không bảo chúng nó mang lên cho, mày không dệt vải hở Nguyệt? Làm gì đấy? - Thưa thầy chúng nó bận cả, đứa dọn cơm, đứa giã gạo, đứa đâm bèo cho lợn, con dệt hết suốt nghỉ ăn cơm, mẹ con bảo mang nến lên đây ạ! - Ừ được! Gọi là bạch lạp, đừng gọi là nến, nến nhỏ kia chứ, to thế này à? Thôi đi xuống. Bây giờ cụ mới quay lại Tâm, ngắm nhìn kỹ lưỡng từ đầu đến chân, làm cho Tâm sợ đứng không vững. Đoạn cụ mới hỏi: - Anh kia năm nay bao nhiêu tuổi? Tâm còn ngơ ngác chưa kịp giả nhời, ông đồ phải đáp hộ: - Bẩm cụ lớn, tên ấy năm nay mới mười lăm! - Mười lăm mà đã học được thế cũng khá đấy. Nếu quả như nhời thầy Trí nói thì ngày sau cũng có phần vinh hiển. Trông mặt mũi cũng khôi ngô đấy. Đã đến đây ta nhận cho học, phải cố mà học, đừng để mang tiếng xấu ở trường này và đừng phụ mọi người kỳ vọng ở mình, nghe không? Tâm run sợ hé được một tiếng: - Dạ! - Anh làm bài thơ này tôi xem: “Thiên hạ hòa bình”. Có biết chữ đâu không? - Dạ có ạ! Chữ kinh Dịch quẻ Hàm. - Được rồi, giấy bút đây làm ngay đi! Cụ Nghè giơ tay với nghiên son, rút cái bút ở trong ống, mở tráp lấy tờ giấy trắng, đưa tất cả cho Tâm. Tâm lại gần chắp tay vái và nói: - Bẩm cụ lớn, tiểu tử xin bái lĩnh. Rồi cầm lấy mọi thứ đem ra cái phản, nằm xuống loáy hoáy viết. Trong khi ấy, cụ Nghè nói chuyện với ông đồ, hỏi thăm tin tức mấy bạn văn thân miền trong, như quan Đốc Văn Chu, quan Huấn Đại Đồng. Một lúc sau, Tâm đã viết xong đằng tả bài thơ đem lên trình cụ Nghè. Cụ cầm lấy tờ giấy, giơ cao lên gần ngọn nến đọc, nét mặt cụ thỉnh thoảng lại cau lại, khiến Tâm trông thấy mà trong lòng hồi hộp lo sợ. Đọc xong cụ để tờ giấy xuống sập, rồi ngẩng đầu lên nhìn Tâm và ông đồ Trí. Cụ khen một vài ý, chê câu tam tứ, chữa mấy chữ, sau cùng kết luận, công nhận Tâm có thể theo lớp đại tập được và bằng lòng cho Tâm ở lại học tại trường. Đến đây ba người đều sụp xuống lạy cụ Nghè và xin cáo biệt. Cũng như lúc mới vào, cụ lại miễn lễ cho và còn gọi người nhà: - Bây đâu, trông chó cho các thầy ấy ra đến cổng! Cả bốn người ra về đều vui mừng hớn hở, tuy đều do một cớ là Tâm được cụ lớn ưng nhận, mà nỗi vui ở mỗi người có một vẻ riêng. Chú cu Thìn không biết gì cả thì vui mừng lúc ra về không phải đội è cổ nữa, bây giờ đã đặt ngửa nắp quả lên mà cắp nách. Ông đồ thì hớn hở: - Tôi chỉ sợ cụ không nhận cho lại dắt nhau về thật mang tiếng với ông, mà cháu nó mất nhuệ khí đi. Ông lý lại mải nghĩ khác: - Mai tôi về nhé, thầy ở lại với cháu, xem cho nó học hành và chỉ bảo nó. Tôi về báo tin cho bu cháu và bác cháu mừng. - Nhào, ở lại một ngày nữa, đi đâu mà vội. Vội năm, vội tháng, vội đời, chứ vội một ngày à! Chương VII Sáng hôm sau mặt giời đã lên tới ngọn tre, chiếu toả ánh sáng vàng tươi sáng, làm tan làn sương mù trắng đục. Tâm theo ông đồ Trí cùng mấy người bạn cùng trọ ở nhà ông phó đến trường cụ Nghè. Đi đến ngã ba giữa làng, từ ngã ngoặt chạy ra một người đứng tuổi, vừa vẫy vừa gọi: - Đợi tôi với, các ông đợi tôi với! Cả bọn đứng lại, người kia đi thong thả lại, tiến đến, tay phe phẩy, miệng nói: - Chào các quan bác ạ! A a, bác đồ Trí, bác Nguyễn Điều Bỉnh Sơn, bác Nhất Khoát. Sao khéo rủ nhau đi thế? Một người nói: - Người ta cùng ở với nhau một nhà mà lại. - Ồ, Thế thì vui vẻ quá nhỉ? Bác đồ Trí năm nay cũng đến học đó à? Đến hôm nào thế? - Tôi mới đến chiều tối hôm qua. Nhưng không được đi học như các bác. Tôi đưa thằng cháu này vào học cụ và nhờ các bác! Ông đồ vừa nói vừa trỏ Tâm. Người kia nhìn Tâm chằm chặp: - Quan bác cứ dạy thế, chứ đệ đâu dám. Bé nhưng bé hạt tiêu, bằng ấy mà đã đến trường cụ, ắt chẳng tay vừa. Con hay cháu bác đấy? - Cháu gọi bằng cậu đấy mà. Tôi nói thực chứ có dụng ý gì đâu. Tôi cho cháu đến học trên là nhờ cụ, dưới phải nhờ các bác. Chỗ cụ thì cao xa, chả nhẽ nhất nhất cái gì cũng cứ đem lên hỏi cụ sao được. Học thầy không tày học bạn, xin các bác cứ coi cháu như con cái ở nhà, thấy điều gì trái lỗi, các bác cứ bảo thẳng ngay cho, cái ơn ấy chúng tôi xin minh tâm khắc cốt. - Bác dạy quá thế. Cùng bạn đi học với nhau làm gì có ân với huệ. - Cho mượn một quyển văn, bảo một đoạn sách, nhắc giúp một kỳ bài, là ơn đấy; sao bác lại bảo là không được? - Chuyện! Đấy là việc thường. Mình bảo người ta cái này, người ta bảo mình cái khác. Người nọ nhờ ơn người kia cả. Một người trong bọn hỏi: - À quên, nghe nói đến kỳ bài, mình mới nhớ ra hôm nay kỳ gì nhỉ, bác nhất nhỉ? Người đương nói chuyện với ông đồ Trí quay lại cướp nhời: - Hôm nay bắt đầu kỳ kinh nghĩa. Ông đồ hỏi: - Lề lối vẫn như trước hay có khác. Hình như có khác thì phải? Kinh nghĩa trước kia ngày lẻ cơ. - Phải, cụ mới đổi. Bây giờ mỗi tháng ba bốn kinh nghĩa, hai thơ phú, ba văn sách và bài tứ lục. Ngày chẵn kinh nghĩa và văn sách, còn ngày lẻ thơ phú, tứ lục. Cả bọn vừa đến cổng, ai nấy đều im bặt. Qua cổng vào sân rồi tiến lên nhà học, ở đấy lác đác đã có nhiều người. Nhà học là một cái nhà gỗ lợp gianh chạy dài sáu gian, ghép liệt bản, bốn chuồng cửa bướmcánh lim chắc chắn, đối diện với dãy nhà bếp. Cả bọn bước vào nhà, để sách vở vào giữa phản rồi chạy đi chào nhau, hỏi nhau, nói chuyện rất là thân mật, với một giọng nhỏ đủ nghe. Vì cụ Nghè chưa sang trường. Ông đồ dẫn Tâm đi giới thiệu với các bạn quen biết của ông và làm quen cả với các bọn mới lạ. Ai ai đều tỏ một vẻ hoan hỉ được biết tính danh nguyên quán của nhau, hỏi thăm đến cả những vị đại khoa trong vùng. Ở ngoài, sĩ tử vẫn lục tục đến. Lại chào nhau, lại giới thiệu, lại hỏi han. Và cứ thế mãi. Tâm mải vào câu chuyện với người này, nhảy sang câu chuyện của người khác, quay đi, ngoảnh lại mà cười, mà nói, mà hỏi, mà thưa với những bậc đồng môn hơn tuổi… có người hơn cả tuổi ông đồ… họ xoắn xuýt đến xoa đầu người bạn bè bé bỏng một cách vừa thân mật, vừa khinh thường. Một lúc lâu, học trò đã đến đông đủ cả rồi, ngồi lố nhố đặc hết cả sáu gian nhà. Họ quay sang tụ hội với nhau nói về văn chương bài vở. - Đệ mới vớ được ba quyển văn sách “Quốc triều lịch khoa”. Trong ấy lắm bài hay tuyệt. Đỗ thủ khoa, cử nhân cũng đáng. - Huynh xem cũng để cho đệ mượn, đệ chép nhé. - Để cho đệ mượn trước kia. Đệ cho mượn lại quyển này hay lắm kia. - Được! Thế nào đệ cũng xin để hầu chư huynh thỏa sức mà xem. Huynh định cho đệ mượn lại quyển gì vậy? - À, tập phú của quan Hoàng giáp Lê Khắc Cẩn mà ông cử Đông phú Nguyễn Tiên Lai chép lại công phu lắm. Phú của quan Hoàng Lê đến cụ Nghè cũng phải khen là hay. Họ mải nói chuyện với nhau để Tâm được rảnh thì giờ mà ngắm chung quanh nhà học. Trong sáu gian nhà, trừ gian giữa là nơi cụ Nghè ngồi, có kê giường và đôi trường kỷ, với ở trong cùng có một cái yên thư để ba tủ sách liền nhau, còn gian nào cũng toàn có phản với cái bàn mộc để sách vở. Học trò đều ngồi chung quanh phản còn sách vở, ống bút vất cả ở giữa phản, có chỗ để gọn, có chỗ vất bừa bộn. Trên xà nhà, chỗ gian cụ Nghè ngồi treo một bức hoành sơn đỏ thiếp vàng với bốn chữ ”THÁI SƠN BẮC ĐẨU” (25), của học trò hàng huyện bái tiến. Trên mái nhà cùng gian ấy căng một bức tường thêu của học trò Thanh Hóa mừng khi cụ đỗ Tiến sĩ. Chung quanh nhà mỗi cột một đôi câu đối gỗ sơn và trên liệt bản, căng kín những trướng và câu đối bằng vóc, bằng sa thêu. Tâm thấy toàn là những vật mừng vào năm Giáp Thìn và năm Giáp Tý là hai niên hiệu đáng ghi nhớ nhất của cụ Nghè: năm Giáp trước cụ đỗ Tiến sĩ, Giáp sau cụ lên thọ năm mươi tuổi và mừng con đỗ Thủ khoa. Đọc đến lạc khoản, Tâm thấy đều là những bậc quan to, chức trọng cả. Chàng miên man liên tưởng rằng một ngày kia không xa lắm, chàng sẽ cũng có một đôi câu đối gì sơn son thiếp vàng mừng cụ Nghè treo ngang hàng với những câu đối kia. Và cũng phô tên tuổi chức tước, khoa danh với những người có tên trong lạc khoản kia. Đôi câu đối ấy phải bằng gỗ sơn son, tuy không đẹp bằng sơn then khảm xà cừ, nhưng Tâm thích hơn, bởi vì nó bền lâu hơn sơn then chóng bạc, mà khảm thì chóng long. Tâm cũng không ưa câu đối bằng vải vóc. Chàng chỉ muốn cái gì lâu dài để phơi tên tuổi mình mãi mãi ở chốn “Quần anh tụ hội” này. Còn gì lâu bền bằng câu đối gỗ sơn son. Chàng tưởng tượng đôi câu đối ấy sẽ treo vào gian giữa dưới bức hoành, chỗ cụ Nghè ngồi, để mọi người phải quan chiêm, phải lưu ý đến đại danh mình− đại danh ông Nghè Tâm! Chàng bỗng mừng rú lên: - A ha! Khoái! Mọi người đều ngoảnh cả lại và hỏi: - Cái gì vậy? - Sao? Sao? - Cái gì mà ông bạn bé của tôi khoái thế! Đằng gian cùng bên kia vẳng có tiếng đưa đến: - Đồ vắt mũi chưa sạch ấy học với hành gì. Chực đến đây mà giở trò ra đấy. Còn lạ gì lão đồ Trí miền trong, đi năm khoa mới vào đến Tam trường mà ra bộ ta đây kẻ giờ, đem cháu đến đây cho theo đòi với chúng mình. Nó xỏ ngọt chúng mình đấy… Tâm nghe thấy tứ phía nói cả vào mình, vừa thẹn vừa tức, chửa biết nói ra làm sao. Ông đồ Trí vào giả nhời hộ: - Thưa các quan bác, cháu nó thấy được cụ lớn nhận cho vào học, được gần cận hầu hạ các bạn đàn anh nó mừng quá đấy ạ. Có mấy người nói: - Thưa đại huynh, đại huynh cứ nói vậy. Lũ tiểu đệ đâu dám. - Mừng mà kêu “khoái”, một là trẻ con, hai là nó có tình ý gì riêng. - Trẻ con đứt đi rồi, chứ làm gì có tình ý riêng ở đây. * * * Bỗng cả trường im thin thít, rào rào đứng cả dậy, ai nấy chắp hai tay cúi đầu vái chào: - Lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! Tâm nghển cổ nhìn ra gian giữa. Một “ông” học trò đứng gần giường cúi khom khom, kéo vuông vắn cái chiếu lại; một tên học trò nhỏ đặt cái điếu gióng lên giường, cái điếu khảm nạm bạc, có cái xe trúc dài vắt vẻo cong vọt lại sau. Một đứa nữa đặt cái tráp đen bóng bên cạnh cái điếu… Rồi mới đến cụ Nghè vào. Đầu cụ quấn khăn nhiễu tím che kín cả mái tóc bạc. Cụ vẫn mặc cái áo dài hạt cau kép đỏ, cầm một tập giấy cuộn tròn lại. chân đi đôi dép da. Cụ đến gần giường bước mạnh lên, khom khom lưng đi vào giữa giường, quay mặt ra ngồi xuống, hai chân quắp lại xếp bằng. Cụ ngồi ngay ngắn bệ vệ ở chính giữa giường, hai tay luồn qua tà áo để lên hai đùi, đầu ngẩng lên nhìn tất cả học trò, hình như tìm tòi ai. Mọi người đều im lặng, để đợi cụ truyền bảo. Cụ nhìn quanh quẩn, có lẽ để lượng số học trò, đoạn cụ cúi xuống mở cuộn giấy cầm ở tay lúc nãy, giơ lên cho mọi người trông thấy. Trên tờ giấy trắng ngà, mấy dòng chữ son viết vừa phải để mọi người đứng xa đều có thể trông rõ được, nét chữ múa mang mềm mại, có một vẻ đẹp già dặn. Cụ đặt tờ giấy xuống, đè cái nghiên son lên trốc cho gió khỏi bay, rồi lại luồn tay vào hai bên tà áo rung rung đùi, cụ nói: - Hôm nay bắt đầu kỳ kinh nghĩa thứ nhất. Cụ Nghè vừa mới nói, tức thời tất cả đều chen nhau dồn lại gần để nghe làm náo động ồn ào cả trường, cụ phải ngừng lại, nghiêm nghị, trừng mắt như có ý bảo mọi người phải im bặt. Ai nấy im lặng khẽ tiến lại đứng vây quanh giường cụ; có người phải nhẩy qua phản, bước qua cả vở, một điều rất kiêng, để mau lại hợp thành vòng vây. Khi vòng vây đã vững vàng và kín đáo, ai nấy đều im lặng và chăm chú nhìn vào cụ, lúc ấy cụ mới ung dung sang sảng nói: - Sang năm đã đến khoa Mão rồi. Vậy muốn đỗ đạt, cần phải học tập riết từ bây giờ. Văn cốt chuyên mà võ cốt luyện, không chuyên, không luyện thì hay mấy cũng vất đi. Nên bắt đầu từ nay ở đây tôi gia thêmkỳ bài. Mỗi tháng ba kinh nghĩa, hai văn sách, hai thơ phú, hai tứ lục. Kinh nghĩa ở ngay trường nhất là một kỳ khó hơn và cần hơn cả. Mười phần thì trường nhất bị loại đến sáu bảy phần. Bởi vậy tôi phải thêm kinh nghĩa lên ba kỳ mỗi tháng. Từ nay đến tháng chín sang năm cả thảy hai mươi tháng, trừ đi hai vụ gặt tháng năm, một vụ tháng mười và một vụ tháng tết, vị chi còn mười lăm tháng. Mười lăm tháng mỗi tháng ba kỳ thành ra … tam ngũ… nhất thập ngũ… bốn mươi nhăm kỳ, bỏ hẳn đi năm kỳ, gọi là bốn mươi kỳ, mà luyện tập chu đáo cũng đã khá lắm đấy. Vậy cứ ngày ngẫu là kinh nghĩa, văn sách, ngày cơ là thi phú, tứ lục. Thượng tuần một kinh nghĩa, một văn sách, một thi phú. Trung tuần một kinh nghĩa, một tứ lục, một thi phú. Hạ tuần một văn sách, một tứ lục, một kinh nghĩa. Hôm nay là kỳ kinh nghĩa đầu tiên. Kỳ sau tứ lục vào ngày rằm, thơ phú vào ngày tám. Cứ đấy mà suy ra. Đấy, anh Ninh đem dán đầu bài lên bảng cho các anh ấy chép. Cụ Nghè đưa tờ giấy cho Ninh, Ninh cầm lấy đứng lên rẽ vây ra, tức thì cả vòng vây đều tản mát về các phản như một đàn ruồi bị đuổi. Lắm kẻ chỉ chực giằng lấy tờ giấy ở Ninh để xem trước, nhưng Ninh hẩy tay ra mà gắt: - Ô hay! Các anh này, rồi treo lên kia thì xem chán, làm như cướp giật vậy. Học trò hay là tướng cướp! Rồi Ninh cầm tờ giấy chạy ra ngoài hè, lấy cái bảng gỗ mộc mỏng và một ít cơm nếp mà đứa trò bé con đã mang đến, miết lên trên bảng rồi dán tờ giấy đầu bài lên, đem treo vào cái móc câu đối ở cột giữa. Cái bảng đề mục đã treo cao, mọi người đều chăm chú nhìn lên. Trên bảng có ba đầu đề viết to. Dưới mỗi đầu đề lại có hai chữ viết về dòng bên, Tâm cũng như mọi người cầm bút viết đầu đề vào vở, chàng viết xong, ngồi ngẫm nghĩ đọc lại: “Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân” (26) (Đơn cú) “Tắc dân hưng ư nhân” (27) (Tiệt thượng) “Đại học chi đạo”(28) (Hư mạo) Tâm đọc xong, cau mày lắc đầu suy tính: - Quái lạ, đơn cú, tiệt thượng, hư mạo, là nghĩa thế nào. Mình chưa thấy ông đồ nói đến bao giờ! Để mình phải hỏi xem. Tâm ngẩng tìm ông đồ. Ông còn đang mải thì thầm nói chuyện với mấy người bạn đang nằm châu đầu vào nhau trên chiếc phản liền đấy. Tâm đang băn khoăn, ngồi thừ mắt nhìn mọi người, kẻ thì nằm viết, người thì giở sách xem. Chợt có tiếng roi đập xuống giường luôn mấy nhát. Tất cả mọi người đều chạy lại đứng thành vòng vây như trước, im lặng chờ nghe cụ Nghè ừ ừ trong họng lấy giọng rồi nói: - Ba đầu đề kinh nghĩa hôm nay ba lối: lối đơn cú, lối tiệt thượng, lối hư mạo. Trong bọn các anh đây, có anh biết rồi, cũng có anh chưa biết, nên tôi giảng lại cả cho các anh dễ làm. Đơn cú là đơn đề vào một câu gom đủ ý tứ. Như câu “duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân” là ý nó dồn cả vào trong câu ấy rồi. Từ trước đến giờ vẫn có cái thuyết “trái phải, hư thực, đảo thuận, chủ khách”. Song cái chỗ đắc lực nhất, đều thu vào cả chỗ khởi điểm. Chỗ khởi điểm đã nắm được rồi thì thế dễ như chẻ tre, nên toàn thiên đều nên dùng chữ thực làm cốt, chữ hư chỉ để phụ hoạ mà thôi. Lối tiệt thượng là mạch lý đều ở phần trên câu văn cả mà đem phần trên cắt bỏ đi. Như đầu đề “...Tắc dân hưng ư nhân”, ý khơi mào để ở phần trên câu cả. Dân hưng ư nhân chỉ là cái kết quả thôi. Cái phép làm văn lối này phải luôn luôn nghĩa đến phần vận trên; nhưng không nên để cho liền với ý trên. Người thợ khéo chỉ theo câu này mà đảo ngược bao quát cả câu trên chứ không theo vần trên thuận vào câu này. Cốt yếu là khiến cho cả cái thần lý trong đề vẫn hoàn bị mà không có cái bệnh liên thượng. Mỗi vế (cổ) đảo lẫn, phép tắc trong vế dễ ra phức tạp. Lại cần phải có tài khéo biến đổi. Còn lối hư mạo là lối nêu cái hư lên, nên ngầm tìm tinh thần huyết mạch ở câu văn dưới mà làm, nhưng không nên chương ra rõ ràng quá, vì thần tuy cần đến, song phép tắc lại cấm. Tóm lại, chỉ nên thung dung đem câu văn như hoa, gương, giăng, nước, đều ở trước mắt không phải thực. Cái cách ngầm lấy ở đây cũng toàn như hai cái ví dụ ấy. Vế sau (hậu cổ) phải nhiều lần dùng cái phép tân chủ phản chiếu, nói bóng bẩy đến mà thôi. Đây bây giờ tôi cho bình ba bài về ba lối để các anh nghe cho hiểu rõ và bắt chước… Cụ Nghè mở tráp lấy ra một quyển văn bìa đen nhánh, gáy gắn sơn, mép quét sơn đỏ, cụ để quyển sách xuống giường. Cụ ngồi xổm lên, khuỷu tay bên trái tỳ xuống mặt tráp, hai đầu gối tựa nhau ngả vào tráp, tay bên phải cụ mở những trang giấy. Mở đến trang có các bài đã định, cụ xòe cả bàn tay đập mạnh xuống cho những tờ giấy phẳng phiu, rồi quay quyển sách lại đun ra mép giường, đầu sách về phía cụ, đoạn cụ để tay phải lên khu bàn chân, lắc lư tay, gãi năm móng tay dài lên năm móng chân kêu cạch cạch đều đều, mồm cụ nói: - Anh Nhì Tương bình đi (29). Nhì Tương là một người đã ngoài ba mươi tuổi, hai mép và cằm đã lún phún râu đen, khuôn mặt sáng sủa, nói chuyện trong trẻo êm dịu như con gái. Tương kéo cái ghế đẩu con lại gần giường, ngồi xuống ầm è lấy giọng, nhìn lướt qua anh em mỉm cười, rồi hạ tầm mắt xuống sách, nói với cụ Nghè: - Xin phép thầy con bình. Với một giọng ngâm nga như hát, rõ ràng và rang rảng, Tương bình rất thong thả đúng như lề lối nhà trường, mạch lạc phân minh, câu trên chuyển sang câu dưới rất khéo, ai nấy đều im lặng nghe, lấy làmkhoái tai lắm. Hết từng vế (cổ) một, chàng lại ngừng lại để cụ Nghè dẫn giảng, cụ nói trơn tru lắm, thao thao bất tuyệt, cụ đem những tỉ dụ ra cho người nghe dễ hiểu, Có những tỉ dụ minh bạch, còn phần nhiều là tối tăm mơ hồ, nhưng ai nấy cũng cố hiểu lấy được. Hễ cụ ngừng nói là Tương lại è một tiếng lên giọng, bình tiếp đoạn sau. Hết bài ấy cụ mở bài khác, lối tiệt thượng, đổi sang người khác bình thay Tương. Cho đến hết cả ba bài, cụ Nghè còn nói thêm một ít nữa, dặn một vài chữ thô nên tránh, nhắc những chữ phạmhuý nên kiêng và thêm qua loa mấy điều cần thiết. Đoạn cụ đứng dậy bước xuống đất, xỏ chân vào dép đi ra cửa: cụ trở về phòng. Tất cả học trò đều đứng lên, chắp tay cúi đầu chào: - Bẩm lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! - Lạy thầy ạ! Ào lên một lúc rồi im. Hai tên học trò “con cháu” cắp tráp và mang điếu xuống hầu cụ. Thế là buổi học tan. Vì là lớp học của “quan viên đại tập” mà lại là lớp học đầu tiên. Các ông học trò xếp gọn bút nghiên sách vở lại, lục tục ra về như người ta ở nhà đám ra. Chương VIII Về đến nhà trọ, ông lý Tưởng đã chạy ra cổng đón: - Tôi cứ tưởng đến trưa mới về. Ông đồ Trí đáp: - Lớp đại tập khác, chứ như trường trẻ con ở xóm làng mình ấy, kể nghĩa trưa giặt ra chửa hết. Ông lý quay lại hỏi Tâm: - Thế nào cậu đỡ bỡ ngỡ không cậu? Ông đồ đáp thay ngay: - Đã có tôi nói với anh em, anh em ai cũng mến cả. Chỉ còn việc cố mà học thôi! Tâm làm ra vẻ nũng nịu, nói một cách trách móc thân mật với ông đồ: - Năm ngoái, thầy không bảo con mọi lối kinh nghĩa, làm con thoạt thấy mấy chữ kẹ ấy ở dưới đầu đề, cứ ngẩn người ra chẳng hiểu gì cả. Giá cụ Nghè không giảng thì thật ù càng cạc! - Nhào! Không biết cũng vẫn làm được bài. Cứ hiểu ý trong đầu đề là ra tất. Đấy chẳng qua là những lối các cụ ngày trước chia ra cho dễ hiểu, dễ làm hơn đôi chút, chứ cũng không cần gì cho lắm! - Nhưng thưa thầy, biết được vẫn hơn! Ông đồ Trí thấy Tâm có vẻ xẵng, ông hiểu nỗi băn khoăn ở Tâm lắm, nên ông dịu giọng nói nửa đùa nửa thật: - Cái ấy đã hẳn, nhưng mà thưa cậu, tôi đã bảo cậu rằng chưa cần lắm mà “lị”, nếu cần tôi đã dạy cậu rồi. Cậu nghĩ lại xem trong năm ngoái tôi bảo cậu bao nhiêu là thứ. Nội lề lối đi thi là đủ cả. Bao giờ tôi cũng mong cậu hơn tôi cơ mà. Các lối kia biết thì hay. Có không biết cũng không sao. Và bây giờ cậu biết cũng đã muộn gì đâu mà cậu đã trách! Ông lý Tưởng nghe thấy vậy, liền líu tíu vừa chắp tay vái vừa nói: - Thôi tôi xin thầy, tôi cắn cỏ lạy thầy, con dại cái mang, cháu nó hỗn láo xin thầy bớt giận làm lành, đánh ngay cho nó một trận nó biết thân. Ông nói lắp bắp xuýt xoa như người khấn khứa một vị thần nào đó làm cả bọn trong nhà trọ phải bật cười mà không dám cười, họ lảng ra ngoài cả. Ông đồ cũng không nhịn được cười nói: - Ông làm gì mà rối lên thế, người ta cười cho kia kìa. Tôi có giận cháu đâu. Tôi bảo cho cháu biết đấy chứ. Kẻo cháu lại nghĩ tôi dạy không đến nơi đến chốn. - Vâng, tôi xin thầy. Ông lý quay lại mắng Tâm: - Sao mày hỗn thế, Tâm, thầy đồ tác thành cho mày, chốc đã mấy năm giời, rèn đúc cho mày đến bây giờ được như thế, mà mày ăn nói vậy à? Thế mà đòi đi học! Tâm cãi: - Con có nói gì đâu. Con hỏi thầy về các lối kinh nghĩa đấy chứ! Nói xong Tâm ngoảnh mặt ra sân hơi cau mày lủng bủng. Xưa nay chàng vẫn phục ông đồ, chàng phục như thần, như thánh: ông đồ không những là người hay chữ, giỏi chữ, giỏi văn, ông còn là người đại lượng biết tận tâm đào tạo cho cháu ra người, chàng phục cái tâm địa của ông lắm, nên lúc nào chàng cũng tỏ vẻ biết ơn và kính mến. Nhưng với cái óc thông minh mau lẹ, hơi một tí gì khang khác là có thể gieo rắc hoài nghi vào rồi. Ngay từ lúc biên đầu bài chàng đã đâm nghi ngờ đến cái thông minh và cái lòng tốt của ông đồ, có lúc chàng đã phân vân tự hỏi: - Cớ sao ông đồ lại không bảo ta những lối ấy. Phải cớ sao? Hay là … Chàng phải hỏi cho ra. Thì câu đáp lửng của ông đồ càng làm rõ ràng cái lòng nghi ngờ của chàng, cái nghi ngờ đã dần bước được vào nơi chắc chắn. Do đó chàng kết luận ra hai cớ: - Một là ông đồ không biết. - Hai là ông đồ không muốn bảo. Rồi Tâm lại tự giải đáp: - Ông đồ đã đi học lâu năm, đi thi nhiều lần, mà không biết các lối kinh nghĩa sao? Vô lý, chẳng qua ông biết, ông không muốn bảo đấy thôi. Nhưng chàng lại tự cãi ngay: - Biết mà không bảo mình, ra trường khác cấm mình học được à? Mình mà học được có phải ông ấy dơ mặt ra không? Vậy không phải ông ấy không muốn bảo, chính ông ấy không biết! Tuy nhiên, chàng không chắc lắm, chàng vẫn bị băn khoăn giữa hai ý nghĩ. Sau cùng chàng cả quyết: - Ta phải hỏi cho ra! Ngồi nghĩ một lúc, Tâm quay lại hỏi đột ngột: - Bẩm thầy; có ba lối đầu đề này thôi, hay còn nhiều lối nữa? - Còn nhiều nữa chứ. Tất cả mười lăm lối kia mà. Nhưng chung quy cũng gần tương tự nhau cả. Người giỏi thì không cần biết các lối ấy cũng làm thành bài. - Thưa thầy, các lối ấy thế nào, thầy nói qua cho con nghe, để gặp những cái đề như vậy, hiểu đôi chút rồi cũng đỡ bỡ ngỡ. Cứ như mấy cái đề ban sáng, con thấy tức tức là… - Ừ, đã vậy tao giảng qua cho biết đại khái thôi, chứ nói tường tận vừa lâu mà chưa chắc có lý hội được cả không. Phải gặp những đầu đề như thế mà suy nghĩ kỹ ra và cụ sẽ giảng thêm cho, lúc bấy giờ mới mười phần chắc chắn là phân biệt được cả mười. Tất cả có mười lăm lối, sáng ngày đã có ba lối rồi, còn mười hai lối, tao lần lượt kể ra đây: 1. Lối Tiệt hạ hay là Xúc cước là cái đề bỏ mất đoạn văn dưới đi. Ý trong đề phải hợp với đoạn dưới ấy trọn vẹn. 2. Lối Lưỡng phiến (hai cái quạt) là cái đề hai câu đều nhau đối nhau. Cả bài đề này nên chia ra làmhai vế đều nhau. Trong hai vế ấy lại chứa đựng đủ tám vế của bài. 3. Lối Tam phiến, đề có ba đoạn, bài cũng nên bố cục làm sao cho ra ba vế. 4. Lối Tháp tiệt là cái đề cất đoạn này để thêm với đoạn khác. Làm văn nên kết tròn lại thành một tảng, không nên để rời rạc, tuy rằng đầu đề bị cắt gán. 5. Lối Ký sự, đề này chỉ ghi chép công việc, kệ mình dẫn chứng, không phải bó buộc lắm. 6. Lối Điệp cú, đề nhiều câu, nhiều chữ quá nên phải tách khôn khéo, chớ để bị chê là trùm đầu lấp mặt. 7. Lối Tỉ hứng là lối đề đem ví dụ mà gợi hứng chỉ vào việc gì. 8. Lối Lưỡng tiệt. Có khi toàn chương mà lưỡng tiệt, có khi vài câu lưỡng tiệt, có khi một câu lưỡng tiệt, tức là lối đề có hai phần đều nhau, đều bỏ bớt đi mỗi đàng một ít. Gặp những bài như thế này, nên đoàn kết cả lại thành một khối thì hay. Cũng có thể làm ra hai vế như lưỡng phiến đề, nhưng đấy là biến cách. 9. Lối Khô quẫn là lối đề ra buông lửng, không có ý nghĩa gì ở đề cả. Phải nhận rõ từng tích của nó, rồi sau mới bố cục xếp lời, hoặc tả hình, hoặc tả cảnh đem những đoạn văn trên dưới cho nó giàng dịt gẫy gọn với nhau, cho có từng thứ, thời khô cũng thành tươi mà quẫn cũng phải thư. 10. Lối Cổn tác còn gọi là xuyến đề, cũng gần giống như lối lưỡng tiệt. Song đằng lưỡng tiệt, hai tầng hai ý khác nhau. Còn đằng cổn tác tuy có hai ý mà thực suốt nhau như ở một dây. 11. Lối Đoạn lạc, cái đề này nhiều đoạn, nhiều ngành ngọn lắm. Không biết cách làm là đổ vỡ hết. Cần nhất nên tự chỗ tổng khởi và tổng kết mà rõ rệt tinh thần ra, chỗ khởi nên dùng hư chỗ kết nên dùng thực. Còn trung gian thời tùy đề mà phô diễn. 12. Lối Tràng đề, có chỗ toàn chương tràng đề, có chỗ liên chương tràng đề. Gặp những đề như vậy phải biết phép ”Tải, tiễn, xuyên, quải” là tìm ở trong đề lấy một câu làm chủ. Rồi chỗ nào cũng đem cái câu ấy ra mà điều khiển, vận hóa toàn bài, khiến những tiền rơi đầy nhà đều phải thu lại xiên thành một dây dài. Ông đồ nói luôn một mạch hết mười hai lối, ông mới ngừng uống chén nước ông rót từ nãy. Ông đồ nói đến đâu Tâm chăm chăm cầm bút biên đến đấy. Ông đồ thôi nói, Tâm cũng để bút ngồi dậy, nét mặt hỉ hả lắm: mối nghi ngờ tiêu tán hết. Tâm thấy hối hận trót đã ngờ oan lòng tốt của ông đồ, chàng bẽn lẽn nói như để chữa thẹn: - May quá! Thế là con hiểu rồi, từ đây gặp những đề có chữ kẹ, chữ thích như ban sáng, con không cuống nữa. Ông đồ uống xong nước nghiêm nét mặt nói: - Đây là nói qua loa cho mà hiểu lấy đại khái thôi, chứ đã hiểu rành mạch thế nào được. Đã không hiểu rành mạch thì cũng khó nhớ. Phải gặp những đầu đề như thế, phải ngẫm nghĩ để cố hiểu, rồi cụ Nghè lại giảng thêm vào thì mới lĩnh hội được hết. Thế nào rồi cụ chả dạy đủ lối. Cụ dạy cẩn thận lắm, chỉ còn phải cố mà nghe, mà nhận. Trong khi ông đồ nói về mọi lối đề kinh nghĩa, những người cùng trọ trong nhà cũng đều ngồi im chú ý nghe. Bây giờ thấy ông đã nói xong và Tâm cũng không hỏi han thêm nữa, họ mới chêm vào câu chuyện. Một người ăn nói vui vẻ nhất, nét mặt lúc nào cũng tươi cười, đang nằm, ngồi nhỏm dậy, rất cung kính thành thật với ông đồ: - Này! Đại huynh Mỹ Lý, đệ xin hỏi tôn huynh câu này, tôn huynh có tha phép, đệ mới dám nói. Ông đồ cũng vui vẻ đáp lại: - Gớm chư huynh dạy quá nhời thế! Chư huynh có tôn ý gì ban bảo, đệ xin sẵn sàng đợi mệnh. - Chả nói giấu gì tôn huynh, thấy huynh nói các lối kinh nghĩa rõ ràng quá, mà chính đệ cũng ít khi phân biệt được, đệ rất lấy làm khâm phục. Nhân nghe huynh nói, đệ mới nhớ ra đệ có một đầu đề mà đệ phân vân chưa biết định nó vào lối nào, đệ muốn nhờ tôn huynh chỉ bảo hộ… - Đại huynh mà còn phân vân thì chắc đệ cũng chả biết được, nhưng xin đại huynh cứ đọc, may… - Xin tôn huynh có tha phép đệ mới dám đọc. - Ờ! Sao đại huynh lại cứ dạy vậy? - Bẩm vì đầu bài hơi thô một tí xin tôn huynh bất chấp, đệ mới dám. - Đệ đâu dám. Xin đại huynh cứ truyền. Văn hành công khí… Người kia với cái điếu, hút một mạch điếu thuốc lào, thở làn khói trắng toả bay là là, rồi mới nói: - Đầu đề thế này: “Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?” Đệ chửa dám cho nó vào lối nào đấy. Ông đồ hơi cau mày, biết rằng cái bác ấy mỉa ngọt ông chơi, nhưng trót đã hứa rồi, nên ông đành nén tức mà đáp: - Ồ, có thế mà đại huynh phải phân vân. Đấy là lối đề đơn cú chứ còn gì. Bao nhiêu ý nó rành rành ra đấy. Ra đại huynh tâm bất tại, chỉ nghĩ đi chỗ nào ấy thôi! Người kia vẫn vui vẻ hỏi: - Đệ cứ tưởng là lối tiệt thượng, vì còn có đoạn gì ở trên nữa kia chứ! Một người khác xen vào: - Tiệt hạ rõ ràng, lại còn tiệt thượng gì! Bao nhiêu ý chả ở cả phần dưới đấy là gì. Có vậy mà các bác cãi nhau mãi… Cuộc cãi cọ có cơ lan rộng, thì may sao hai mâm cơm đã bưng lên, ông phó Liên đang tất tả từ nhà dưới đi lên mời rối rít: - Mời các thầy nghỉ tay lại mời cơm, việc gì cũng xin bỏ đấy đã. Có thực mới vực được đạo. Quá trưa rồi còn gì. Hôm nay nhà cháu đi chợ về muộn quá. Thành thử cả nhà lăn ra không kịp. Các thầy phải một mẻ đói. Từ mai, từ mai thì xin đúng bữa… Mời các thầy mời cơm đi… Kìa ông lý, rước ông mời cơm đi. Mọi người đều tuân lệnh ngồi vào mâm cơm vui vẻ. * * * Sáng hôm sau, cơm nước xong, Tâm đi tiễn chân ông đồ và ông lý ra tận đường cái. Vì không phải đi học, chàng muốn đi xa thế để nhận xét thêm phong cảnh cái nơi văn học và trù phú có tiếng này. Thỉnh thoảng, ông đồ và ông lý ngoảnh lại giục chàng: - Thôi về đi con. Đi theo xa, về đến nhà trọ lại mỏi chân thêm tội! Lúc nào Tâm cũng nói: - Được để con đi với thầy ít nữa thôi. Cánh đồng lúa xanh rờn mông mênh như đến tận chân giời rung rinh lượn sóng quanh co theo chiều gió xuân lả lướt… Trên bãi tha ma xanh biếc, mấy con trâu đang lặng lẽ gặm cỏ non, thỉnh thoảng phe phẩy đuôi, đuổi muỗi. Mấy con cò trắng bay qua mải miết vỗ cánh theo nền giời xanh dịu. Một vài cô gái làm cỏ lẩn khuất ở trong làn lúa tốt, đưa ra không gian những giọng hát du dương tình tứ: Lấy chồng cho đáng tấm chồng Bõ công trang điểm má hồng răng đen Chẳng tham ruộng cá ao liền Tham về cái bút cái nghiên anh đồ! Hỡi anh đồ ơi! Tâm trông trộm ông đồ, mỉm cười. Không thấy ông nói gì cả, nét mặt vẫn thản nhiên như không, chàng biết ông đang bận nghĩ việc gì. Chàng thấy mình đáng thẹn với ông lắm. Nhưng đã đến cái ngã ba của con đường cái quan, ông đồ và ông lý nhất định bắt chàng quay lại nhà trọ. Lúc này chàng vui vẻ vâng lời ngay. Ông lý ân cần dặn: - Con cố mà học nhé, học cho chóng công thành danh toại. Đừng nhớ nhà. Rồi thầy ra luôn. Ông đồ thấy ông lý nói hớ, vì ông biết Tâm thường hay nhớ nhà, ông liền nói đón ngay: - Người sắp đi thi, ông cử, ông tú nay mai, ai người ta nhớ nhà mà nói… Rồi ông quay lại Tâm nói tiếp: - Con chịu khó mà học. Ai người ta nói sao cứ mặc kệ họ. Đừng chấp! Hễ mình học giỏi là tất mọi người phải phục. Phải tử tế ngoan ngoãn với mấy người cùng trọ đấy nhé. Thôi con ở lại… PHẦN THỨ BA Chương I Tâm theo học trường cụ Nghè đã được một tháng. Lúc đầu ai nấy đều khinh thường thằng bé con dámngạo nghễ đến đua đòi chơi trèo với người nhớn. Nhưng sau mấy kỳ đua tài thử sức, Tâm đã được kính trọng một cách không ngờ. Trong một tháng giời đã hai lần kinh nghĩa được “ưu”, bài được đem bình đi bình lại hai lượt, các ông đầu đã hai thứ tóc, các ông đã đứng tuổi, các ông nhàng nhàng đều tranh nhau mà mở xem quyển vở bài của Tâm, xem như ngốn, như nuốt lấy những câu văn hay trong bài. Và tự nhiên Tâmđược người ta quý trọng mến yêu. Giá vào trạc tuổi họ, Tâm đã bị ghen ghét. Nhưng đàng này Tâm còn bé. Còn bé mà học giỏi thì là thiên tài rồi, còn ghen sao được. Gia dĩ Tâm lại nhã nhặn vui vẻ nữa. Ai mà không quý yêu. Không phải Tâm giỏi nhất trường ấy đâu. Còn nhiều tay cự phách về mọi thứ văn chương. Song với cái tuổi như Tâm, văn bài đã giữ được mực thường, thỉnh thoảng lại vượt lên có bài xuất sắc, cụ Nghè tất nhiên phải đặc biệt chú ý và khen lao. Cụ đã khen, còn ai mà không phục. Nên danh Tâm đột nhiên đã vang lừng khắp cả. Nhiều người không học cụ Nghè, cũng cứ rình ngày bình văn đến nghe văn của Tâm cho nhận rõ giá trị phao đồn. Người ta bảo số Tâm có Hồng Loan Thiên Hỷ chiếu mạng nên đến đâu cũng chóng lừng danh và được người ta quý yêu đến thế. Chả chắc có phải. Có điều mà Tâm tin hẳn là cứ chịu khó học cho nhớ sách và điêu luyện câu văn cho hay là thế nào cũng được người ta khen. Hôm nay, mười hai tháng hai, lại kỳ kinh nghĩa. Bài của Tâm không được hay lắm, chỉ có thứ thôi, nhưng thứ mác, cụ Nghè cũng cho bình và cụ bắt Tâm bình lấy, cụ dạy cho cái giọng ngân nga lên xuống, cụ chữa cái lối chuyển câu. Rồi cụ bảo: - Văn hay phải biết bình mới được. Không biết bình lấy, để người khác bình, nhiều khi người ta làm sai cả cái hay của mình. Bình xong cả rồi, cụ Nghè còn ngồi nán lại nói chuyện về kỳ thi khảo năm nay. Thi khảo là kỳ thi hàng năm của các quan tỉnh mở ra để khuyến khích học trò. Vì sự trọng việc học nên những học trò trúng kỳ thi ấy đều được miễn trừ phu phen tạp dịch. Đấy là do hương lệ, chứ không phải do Nhà Nước bắt buộc. Có làng mộ học và trong làng chưa có người nào đỗ đạt, lại trừ cả sưu thuế hay cấp học điền cho những người trúng khảo để khích lệ cho dân nhiều người đi học, mong kéo được cái cử nhân hay cái tú tài về làng, hưởng lấy chút thơm lây. Một người làm quan cả họ dài giòng! Cụ Nghè nói đến chuyện thi khảo, hỏi mỗi người xem ai có học trò đi thi. Cụ dặn những điều cần biết về kỳ thi mà năm nay quan Đốc đã thay đổi ít nhiều. Quan Đốc theo ý cụ Thượng, muốn cho học trò được xứng đáng với cái tiếng đã đỗ kỳ thi khảo, nên năm nay định ra đề mục khó lên, có cả thơ và phú. Sau cùng cụ dặn: - Vậy các thầy nên chọn những đứa khá hãy cho đi. Đi nhiều mà hỏng lắm về mang tiếng! Tâm thấy nói kỳ thi khó, trong lòng băn khoăn lắm. Chàng muốn tỏ nỗi lòng với các bạn, nhưng không một ai để ý quan thiết đến kỳ thi này cả. Chàng lấy làm thẹn lại thôi. Chàng nhất định để hỏi thẳng cụ Nghè. Nhưng thấy cụ rục rịch sắp sửa đứng dậy cho tan lớp, chàng vội vàng lách ngay vào sát giường nói ngượng ngùng: - Bẩm thầy… Cụ Nghè ngẩng lên trông: - À, cậu Tâm hỏi gi đây? - Bẩm thầy, con xin đi thi khảo, phải thế nào? Cụ Nghè ngạc nhiên hỏi: - Anh chưa đi thi khảo kia à? Nhưng cụ hiểu ngay nên cụ đổi giọng: - Anh muốn đi cũng được, không đi nữa cũng được. Thi khảo chỉ để khuyến khích, chứ không bắt buộc. Người như anh không cần thi khảo nữa, ai mà chả biết tài anh. - Bẩm thầy, con muốn đi thi cho dân làng họ biết là có học có thi. Bẩm đỗ có giấy sức về làng không ạ? - Cũng được. Hễ đỗ là tức khắc có giấy sức về làng. Thi cái này cũng dễ, chả khó ǵ, cứ b́nh tĩnh là làm được. Phải đóng sẵn lấy một quyển vở, đề tên tuổi, sinh quán vào. Rồi sáng sớm mười sáu tôi bảo trẻ làng nó gọi đi thật sớm. Mọi người đều hỏi: - Sao anh không đi thi ngay từ khi đỗ kỳ thi văn ở làng Mỹ Lương năm nọ? - Ấy cậu tôi ngại xa, không muốn cho đi. Cậu tôi bảo nhớn lên hãy hay. - À, có lẽ ông đồ muốn cho anh vượt kỳ thi thường ấy. * * * Sáng sớm tinh sương ngày mười sáu, Tâm đã cùng hơn một chục người làng Phạm Xá, học trò cụ Nghè, tiến qua cánh đồng ra tỉnh. Giời còn lạnh lắm, gió cứ từng cơn thổi ào ào. Mưa phùn tản tác lay phay rơi như cát bụi tung bay! Ai nấy đều co ro, xuýt xoa cắm đầu vượt qua gió bụi mà ra đến tỉnh, thẳng tiến vào lối Đốc bộ đường. Đến cổng đã thấy đông đặc những người. Những sĩ tử lớn bé, đứng tuổi, đều đứng túm tụm với nhau thành từng tốp mà bàn tán về chuyện thi cử. Người ta phàn nàn lo lắng về cuộc thay đổi trong kỳ thi năm nay, về sự khó khăn mà thí sinh sẽ phải gặp. Dưới cổng Đốc bộ cao rộng như một cổng thành, mấy người lính đội nón dấu vận áo xanh viền đỏ, thắt đai vàng, vẫn thản nhiên vác giáo đứng canh, không thèm đáp lại những câu hỏi khẩn khoản của học trò. Đã quá Mão sang Thìn. Các quan đã tụ tập đông đủ ở Đốc bộ đường, quan Án sát, quan Đốc học và các quan Giáo thụ, Huấn đạo, các Phủ Huyện lập thành hội đồng sát khảo kỳ thi này. Một hồi sáu tiếng trống vừa điểm dứt, cổng dinh mở rộng hai cánh cho sĩ tử ồ ạt kéo vào, đứng chật ních trong sân. Trên nhà bái đường rộng thênh thang, đã cất hết bàn ghế đồ đạc, đem giải chiếu càn lan để học trò nằm. Chỉ có ở gian giữa, sát gần nhà cung đường kê một cái bàn cao với một cái ghế để cho một viên đô lại ngồi thu quyển. Còn các quan ngồi ở bên cung đường. Một hồi ba tiếng trống đánh nữa. Học trò lần lượt vào ngồi xuống chiếu, sát gần nhau như ngồi vào chiếu rượu ở nhà quê. Ai nấy đã vào yên chỗ, ngồi nói chuyện ồn ào. Viên Quản cơ đứng ở giữa sân, tay phải cầm cái loa đồng quát: - Loa! Cụ lớn truyền các sĩ tử phải ngồi im mà đợi đầu bài! Những viên đô lại, thơ lại tung tăng đi lại hầu hạ các quan trong cung đường. Những lính cầm roi đi riễu ở ngoài sân làm tăng vẻ oai nghiêm nơi Đốc phủ! Một lúc sau, các quan ra đứng thành hàng cả trước cung đường, quan Tổng đốc, quan Bố chánh, quan Án sát, và quan Đốc học đứng giữa, còn hai bên là các quan Giáo thụ, Huấn đạo. Quan Đốc học nói qua mấy câu về ý nguyện của quan Tổng đốc đối với kỳ thi khảo này và khuyên các học trò nên cẩn thận làmvăn, chớ nên gian lận. Quan Tổng đốc có nói mấy câu khuyến khích học trò. Hai ngài nói xong, lại có mấy viên đô lại nhắc những lời ân cần của hai ngài cho những sĩ tử ngồi xa nghe rõ. Ai nấy đều phấn khởi bội phần. Rồi quan Đốc học đưa cho một viên đô lại tuyên đọc đề mục. Đọc xong, đem dán lên cái bảng treo ở giữa bái đường. Các học trò bắt đầu viết đầu bài ra một tờ giấy. Tất cả có ba bài: một bài thơ, một bài phú năm vần và một bài văn sách độ bốn dòng. Chép xong đầu bài rồi, ai nấy bắt đầu vào việc. Họ bàn nhau, họ hỏi nhau, lắm lúc có người mải nghĩ đến văn bài quá, quên cả mình đang nằm tại dinh quan Tổng đốc, nói oang oang với người bên cạnh, khiến những viên đô lại phải nhắc họ bằng những lời gay gắt. Đối với Tâm, ba bài này có thấm vào đâu. Nên chàng chẳng phải bàn tán gì với ai cả. Chàng cắmđầu nằm ngoáy thảo một mạch đặc chịt trang này đến trang khác. Rồi chàng ngồi dậy đọc lại kỹ càng, chữa những câu văn non, những chữ vụng mà chàng không vừa ý. Chung quanh chàng, người ta còn đương thì thầm bàn tán nhau về mấy chữ điển mơ hồ, mấy đoạn văn rất dễ nhầm lẫn. Họ không để ý gì đến chàng. Họ khinh thường cái thằng bé con ấy ra mặt. Theo ý họ thì cái hĩnh bé bỏng ấy chỉ đi cho hại cơm, đi độn đường chứ được cái tích sự gì! Một người nằm liền đấy thấy Tâm đã làm xong bài, đang ngồi đọc lại, nói với mấy người bên kia rằng: - Hình như cái thằng bé con kia nó làm xong cả rồi ấy? Tức thì có người nói ngay: - Nhào! Cu cậu bôi cho xong, để chuồn cho sớm mát mặt! Phú này và văn sách này mà làm xong ngay, có ngỡ thần đồng! Tâm chỉ mỉm cười với những lời nói mỉa mai ấy, trong lòng tự đắc: - Rồi chúng bây sẽ biết ông! Nhưng liền đấy mấy hàng, những người làng Phạm Xá đang ngồi ngoảnh lại phía Tâm, gật gật có ý hỏi xem làm xong chưa và muốn xin bài ráp. Tâm cũng gật gật đáp lại. Rồi chàng nằm xuống viết chân phương vào quyển, viết nắn đằng tả cẩn thận theo như lối cụ Nghè thường dặn. Tâm viết xong, thắp bút lại, rồi ngồi dậy đọc lại một lượt rất chăm chú, xong đâu đấy, chàng gập quyển, ngồi nhìn ngắm khắp cả mọi người đang làm việc. Có anh đang ngồi đưa mắt bâng khuâng nhìn giời. Những người làng Phạm Xá thì trông Tâm ra hiệu, chàng gập gọn tờ giấy ráp lại, rồi cầm quyển đứng lên, ngần ngừ trông lối đi nào tiện quăng giấy cho mấy người kia. Viên đô lại trông thấy liền hỏi: - Anh kia đứng dậy làm gì thế? - Bẩm ông tôi đi nộp quyển! Mọi người đều quay dồn cả lại phía Tâm, ngạc nhiên và xấu hổ nữa. Viên đô lại, có lẽ cũng vì trọng tài, không nói năng thêm gì. Tâm nhân đi rẽ ngoặt qua cái cột, đi vào lối giữa những người làng Phạm Xá, bỏ rơi tờ giấy ráp đấy, rồi thẳng lên bàn viên đô lại thu quyển. Viên này nhận lấy quyển nhìn chàng một lúc, rồi mở quyển đọc qua một ít, không biết nghĩ sao, viên ấy đem quyển bài vào trình quan Đốc cùng các quan khảo sát. Không thấy nói gì đến mình, Tâm cứ đứng yên đấy đợi, đến lúc viên kia ra đến nơi, thấy Tâm, hỏi ngay: - Cậu học trường nào thế? - Bẩm ông, tôi đương học quan Nghè Phạm Xá. - Thôi được! Cậu cứ quanh quẩn ở đây. Đừng về vội. Có lẽ cụ lớn còn gọi cậu vào sát hạch. - Bẩm vâng ạ! Tâm thấy viên đô lại nói thế, vừa mừng vừa lo. Mừng sẽ được xem cuộc thi lâu đến bao giờ và sẽ được đi riễu ở ngoài mà xem họ thi cử ra sao, để cho cái bọn nhớn đầu lúc nãy khinh người bây giờ phải cúi đầu mà hối lỗi. Lo là lo phải vào hầu các cụ lớn sát hạch. Ngộ nhỡ cuống cuồng lên, văn bài làm chẳng ra làm sao thì khốn! Tâm nghĩ vẩn vơ rồi tự nhủ: - Mặc! Ra sao thì ra! Mình hẵng được cái đứng đây xem các cu cậu làm ăn thế nào nào. Chàng đi đi lại lại quanh chỗ viên đô lại thu bài, chàng lấy làm sung sướng đã làm bài xong trước tiên, trong khi mấy trăm người đương làm dở hay mới bắt đầu. Chàng kiêu hãnh nhìn vào những nét mặt đăm đăm như đương rặn ra của những con người bộ dạng khinh miệt chàng, khinh bỉ những người bé bỏng tầm thường như chàng. Một lúc lâu, có lệnh các quan truyền gọi chàng vào. Chàng rùng mình run sợ, lặng lẽ đi theo một viên thư lại. Qua cung đường, chàng phải cúi đầu chào các viên thư lại tư tào rồi vào đến nơi tướng phủ, chỗ các quan ngồi. Tâm thoạt trông thấy loá cả mắt. Thật đẹp hơn chính tẩm của đình làng Tâm. Từ cái xà cho chí cái cột, bộ cánh cửa đều sơn son vẽ rồng vàng. Bức trướng thêu che cửa bằng một thứ nỉ rất tốt, thêu đôi rồng lượn chung quanh một mặt giăng. Trên một cái sập son chân quỳ với ở giữa một cái mặt hổ phù to tướng trông đáng sợ, quan Tổng đốc vận thường phục, ngồi bệ vệ ở giữa, hai bên là quan Bố, quan Án sát và quan Đốc. Bốn tên lính đứng túc trực bốn bên. Ở dẫy sập bên trái, ngồi lô nhô mấy quan Giáo thụ và Huấn đạo. Vào đến nơi, Tâm vội sụp xuống lạy không dám trông nhìn gì cả. Quan Tổng đốc truyền lính đỡ chàng dậy đứng ra một bên, rồi quan Đốc học truyền hỏi: - Năm nay anh mười lăm tuổi à? Học trường nào? - Bẩm lạy liệt vị các hạ, con học trường quan Nghè Phạm Xá. - Học từ lâu hay mới học? - Bẩm lạy liệt vị các hạ, con mới học được một tháng nay! - Thế trước học ở đâu? - Bẩm lạy liệt vị các hạ, con học cậu con ở trong quê Mỹ Lý. - Thế đi học từ bao giờ, có nhớ không? - Bẩm lạy liệt vị các hạ, con đi học từ năm lên tám. - Đã đi thi khảo kỳ nào chưa? - Bẩm chưa đi, vì ở trong quê con ra đây xa lắm, cậu con không dám cho đi. Năm nay ra học gần đây mới được tạm vào bộc bạch chút học thô thiển. - Được lắm, anh cố học đi, rồi có cái tương lai khá đấy. Đây các cụ lớn thấy anh có tài mẫn tiệp nên mới cho gọi anh vào truyền anh làm lại bài thơ thi này, lấy vần khác. Làm ngay đi. Tân, đem cái ghế kia lại cho anh ấy ngồi và lấy bút giấy ra. Tên lính đứng hầu vội chạy ra đem cái ghế dài vào và đưa cả bút giấy mực đến. Tâm quỳ lạy xin phép rồi ngồi xuống ghế, cầm bút dầm vào nghiên mực ngẫm nghĩ. Ngồi trầm ngâm một lúc thật lâu, không viết lách gì cả, chàng chỉ tần ngần hết trông câu đối này đến bức hoành treo quanh đấy. Người ta đã tưởng chàng mít đặc không làm gì được. Nhưng không, kìa chàng đã nằm xuống, cầm bút chấm vào mực thoăn thoắt viết luôn một mạch tám câu thơ, không ngần ngừ, không xóa bỏ. Viết xong, chàng đọc qua lại, rồi hai tay kính cẩn bưng đệ lên trước các quan. Quan Đốc cầm lấy đọc trước, rồi đệ lên quan Thượng. Ngài xemxong, đưa sang cho quan Bố, quan Án. Hai vị này chuyển xuống cho các quan Huấn, quan Giáo bên phản kia. Mọi người đều nhận là bài thơ khá và khen tài mau lẹ của một cậu bé mười lăm tuổi. Tâm đứng ngoài thấy vậy đã khấp khởi mừng thầm. Bài thơ lại đệ về quan Đốc. Ngài xem lại một lần nữa, rồi đưa giả lên quan Thượng. Bốn vị trên sập chân quỳ đều gật gù khen hay. Cụ Thượng liền sai tên lính vào tư thất lấy ra một thoi mực tàu, hai ngọn bút ô long và một trăm giấy, cụ lớn cầm những vật ấy đưa cho quan Đốc, miệng nói: - Đây để thưởng cho tên Tâm. Quan lớn giao cho. Quan Đốc gọi Tâm lại gần mà truyền: - Cụ lớn vốn mộ học, yêu học trò, thấy anh còn bé mà có trí, có tài mẫn tiệp nên thưởng riêng cho anh đấy. Còn đỗ hay không chưa biết, chờ các quan chấm đã. Anh phải cố mà học, chớ có bỏ lỡ tuổi trẻ mà phụ tấm lòng cụ lớn đây quý mến. Thôi lạy tạ các cụ lớn đi, rồi cho ra. Tâm khúm núm phủ phục lễ bốn lễ lạy tạ các cụ lớn, rồi sang phản bên trái lễ chào các quan Giáo. Đoạn chàng lĩnh thưởng lui ra, nét mặt hớn hở. Viên đô lại trông thấy hỏi ngay: - Cụ lớn thưởng cho cậu phải không? - Bẩm ông vâng ạ. - Đấy, tôi bảo cậu đợi có phải lợi cho cậu không? - Bẩm vâng, xin cảm tạ ông. Tôi cứ đứng lại đây xem đến lúc thi xong có được không? - Được, cậu cứ đứng đấy. Bây giờ Tâm mới được thảnh thơi sung sướng mà nhìn mọi người đang nằm xoài viết. Mới có một số ít người làm xong bài đệ lên bàn. Còn những người khác vẫn mải miết chiến đấu với câu văn. Cũng có người vở bài hẳn bỏ trống ít nhiều, mặt đỏ bừng, mắt ngầu ngầu, cứ ngồi lên nằm xuống mấy lượt mà bài văn vẫn không thành, đành viết quấy quá cho khỏi mang tiếng bạch duệ (30). Trong số ấy, Tâm nhận kỹ thấy mấy người ở vùng chàng mà chàng đã biết mặt, vốn là những tay chơi bời lười biếng, nên chịu phải số phận như thế, thật là đáng kiếp. Chàng trông thấy cái cảnh tượng buồn cười mới cảm hứng làm bài thơ riễu này: Ngày rộng tháng dài chỉ mải rong Đến cơn thi cử rối bòng bong! Trông giời đã đỏ hai con mắt! Nuốt mực hầu đen một góc lòng! Văn hỏi Hán Cao, mần Sử thượng! Bài ra Luận ngữ, đích Trung dung! Nào thầy nào bạn đâu chăng tá? Bỏ chết nhau đây chẳng giúp cùng! Giời đã quá trưa, các quyển bài đã đem nộp gần hết. Chỉ còn thưa thớt độ năm chục người. Mấy viên đô lại đi quanh giục: - Mau lên các thầy, quá Ngọ sang Mùi rồi, ngoại hàm (31) bây giờ. Người làm, người đợi, người giục. Chỉ còn vài chục người nữa. Người ta đợi một lúc, lại ít quyển đưa lên. Các viên đô lại giục: - Này ngoại hàm rồi! Một hồi trống đánh rất mau. Những người còn lại sau rốt chạy cả lên bàn viên đô lại. Mấy người còn chữa lại mấy câu, quá hạn hẳn, đến không được nhận đành thui thủi, vác cái mặt sa chữ nãi ra về. Ai nấy đều ra cả ngoài đường, rồi ồ ạt tản về các ngả. Chương II Hai tháng sau, một hôm Tâm đang ngồi đọc bộ “Thi Lâm” thì thấy ông lý Tưởng ra. Chàng vội chào rồi hỏi dồn: - Thầy ra chơi hay có việc gì thế thầy? Mẹ con có khỏe không? Lúa má độ này thế nào? - Ở nhà bình yên cả, lúa má năm nay thuận mưa tốt lắm. Tôi ra ngoài này chơi thăm anh và mang cho anh tờ giấy sức này! - Tờ sức gì thế hở thầy? - Tờ sức về kỳ thi khảo vừa rồi! May quá, cả làng mừng! Con được đỗ đầu con ạ! Đỗ đầu cả tỉnh. - Đâu? Thầy đưa tờ sức cho con xem. Ông lý giở vòng khăn lượt trên đầu, mở nếp ra lấy một tờ giấy gập làm tám nép chặt vào nếp khăn, ông đưa cho Tâm. Tâm cầm lấy mở tờ giấy ra, chữ thảo múa mang, dấu son đỏ se cả, chàng đọc: “Hàn lâm viện Thị Độc lĩnh Nghĩa Hưng phân phủ Huấn đạo quan Trần, thông sức Phú Lão tổng, Thịnh Hậu xã chu tri. Tư thừa Tỉnh đường Học chính lục sức bản hạt trúng khảo khóa sĩ nhân danh sách, chiếu đặc y xã nhân Nguyễn Đức Tâm niên canh thập ngũ tuế, thiếu niên mẫn tiệp, danh quán quần mông, nạp quyển chi hậu, hựu đắc Thượng quan triệu nhập diện hạch văn tài lưu loát, mông ân ưu thưởng. Tư sức y xã đồng dân chu tri, dĩ khuyến hậu lai tu chí. Thông sức giả. Tự Đức thập ngũ niên, tứ nguyệt, thập nhị nhật. Thư lại Nguyễn Bích phụng thảo” Dịch ra quốc văn: “ Quan Hàn Lâm viện Thị độc, lĩnh chức Huấn đạo phân phủ Nghĩa Hưng họ Trần, thông sức cho lý dịch xã Thịnh Hậu, tổng Phú Lão tuân. Nay nhân theo nha Học chính Tỉnh Đường lục sức danh sách những người trong hạt ta trúng kỳ khảo khóa này, xem có tên đỗ đầu tức là người xã ấy tên là Nguyễn Đức Tâm, mười lăm tuổi, tuổi trẻ tài nhanh, danh trùm mọi trẻ, sau khi nộp quyển lại được các quan trên triệu vào diện hạch; văn tài trôi chảy, mông ơn được ưu thưởng. Vậy sức cho lý dịch xã ấy chuyển bảo cho đồng dân đều biết, để khuyến mọi trẻ sau này. Vì vậy phải thông sức. Hoàng hiệu Tự Đức năm 15, tháng 4, ngày 12 Thư lại Nguyễn Bích thảo” Quan Huấn phê một chữ “chiếu” dài. Tâm đọc xong tờ sức, gập lại đưa giả ông lý rồi hỏi: - Ở làng người ta có nói sao không thầy? - Giấy sức về ai cũng mừng. Có một vài đứa xấu bụng ghen ghét phao những tin ám muội. Nhưng mồng một hôm nọ nhân kỳ lễ sóc, đông đủ các cụ quan viên, đồng dân chiếu lệ làng, trừ cho con mọi công sai, tạp dịch. Thôi đỗ đạt chưa đến, nay hẵng cứ dần dần như thế cũng vẻ vang với làng nước và bõ công thầy mẹ nuôi con đi học. - Ấy, sao thầy lại nghĩ thế. Mình bằng lòng với sự ít như vậy thì còn mong đỗ cao làm sao được. - Nhưng mà chưa có hoa, ta hãy mừng nụ đã. Con xem, cả làng ta hiện giờ đã có ai được trừ như thế chưa. Trước kia mới có ông đồ Thức được thôi. - Đã đành thế, nhưng mình đi học phải mong cử nhân, tiến sĩ chứ cần gì cái vặt ấy. Lạy Giời lạy Phật, đi hạch cũng đỗ mà thi Hương cũng đỗ cho, thì còn mừng chán. Dạo này nắng, thầy về đánh cho cái bìa lều. Đã có cậy chưa nhỉ? - Cậy tháng bảy, tháng tám mới có chứ. Về dạo ấy hẵng đánh, đánh sớm nó nhầu nát đi. - Bao giờ cũng được. Thầy chọn tre để sửa gọng lều và đóng chõng cho con nhé. Thầy để ý cho con việc ấy đấy. Cuối năm nay đã thi hạch rồi. - Được rồi, bao giờ cậu đi là có sẵn tất cả. * * * Tháng mười năm ấy mùa gặt vừa xong, giấy sức đã về khắp cả các làng báo cho sĩ tử biết kỳ thi hạch sẽ mở vào ngày mồng một, tháng một để chọn những học trò đủ sức vào dự kỳ thi Hương năm Mão sắp tới. Kỳ thi hạch cũng do quan Đốc học mỗi tỉnh chỉ định lấy. Cách thức kỳ thi này khó hơn kỳ khảo nhiều. Đầu đề phần nhiều ra tương tự như đề mục thi Hương. Muốn cho việc chấm được công bằng, người ta thường rọc phách của quyển rồi bỏ cả vào một hòm gửi đi tỉnh khác đổi lấy bài nơi khác về chấm. Những người trúng hạch gọi là thí sinh, tức là người đi thi (candidat admissible au concours triennal) Mồng một tháng một, ông lý Tưởng thành tâm sửa một lễ chay đủ xôi gà oản quả, năm trăm vàng hoa, một thẻ hương tầu bầy vào một cái quả phù trang để đưa Tâm ra lễ đức Thượng đẳng tối linh ở đình làng, cầu khẩn ngài phù hộ độ trì cho sở cầu như ý, sở nguyện lòng Tâm… Quỳ trước bàn thờ, trông lên hương án vàng son chói lọi, khói hương nghi ngút cuồn cuộn bay lên tản mát cả trong chính tẩm, Tâm chắp tay lâmrâm khấn, tâm tâm niệm niệm thành kính cầu đức Thượng Thần trong làng, hết sức tin tưởng ở sự mầu nhiệm của ngài. Khấn xong, chàng khom khom giơ tay phải giọt ném hai đồng tiền trinh lên cái đĩa để trên chiếu xin một đài “âm dương” chứng tỏ sự bằng lòng của đức tối linh. Hai đồng tiền rơi xuống quay quay tít, rồi dần dần nằm im hẳn trên đĩa, một đồng ngửa, một đồng sấp. Nhìn hai đồng tiền song song đối nhau, Tâm thỏa thích lắm, để tiền lên hương án rồi lễ tạ bốn lễ. Thế là Tâm được yên lòng ra đi với một vẻ tự tin mãnh liệt. Hôm sau, mồng hai, Tâm đi sớm. Ông lý Tưởng cùng với chú cu Thìn đem lều chõng đưa chàng đến tận trường. Một tấm bìa to hơn cái chiếu phết bằng cậy, hai mép viền vải để căng, che mưa gió. Bốn cái khung bằng tre mật vót rất nhẵn nhụi để cắm xuống bốn con cá đóng bám ở mỗi bên thang chõng. Mỗi khung lại có ba cái ống tre luồn vào để uốn cong cho dễ. Khung ấy cuộn vào với tấm bìa vác lên vai rất tiện. Cái chõng tre thanh thấu nhẹ nhõm, vừa một người nằm để cậu thí sinh nằm đấy mà viết bài. Ông lý để mọi thứ ấy lên vai chú cu Thìn và nói: - Lều chõng này là lều chõng cử nhân đấy chứ chẳng phải chơi. Tâm vội nói gạt: - Thầy chỉ được cái chưa chi đã nói trước! Rồi cả bọn ba người ra đi với một vẻ hoan lạc riêng. * * * Sáng sớm tinh mơ, các học trò đã tề tựu đông đủ ở phía đông trường thi32, trước lối vi Giáp, thật là nhung nhúc như đàn kiến tha mồi chen chúc nhau mà đứng. Ai nấy đều ôm lều vác chõng, cổ đeo một cái ống quyển. Ống quyển là một cái ống gỗ có nắp hẳn hoi, tựa như cái ống bút cậu học trò, để đựng quyển thi, đầu và đít đều có hai bên hai cái móc đồng để luồn dây qua đeo vào cổ, quay chéo xuống nách. Những người giầu có, những con nhà quan cách đều có người nhà đầy tớ vác lều chõng và mang nắm cơm bình nước theo sau. Mọi người đều ngóng đợi, thì thầm: - Các quan chưa đến kia nhỉ? - Sắp đến Dần sang Mão rồi còn gì! - Còn chờ sĩ tử đến đủ đã chứ! - Lại còn chưa đủ à. Đông chen chúc như thế kia còn gỉ nữa! Năm nay còn đông hơn năm Hợi trước nhiều! - Chuyện! Số học trò mỗi ngày một đông lên chứ. Bỗng vẳng có tiếng trống tiêu cổ đưa lại: - Bong! Bong! Bong! Bong! Mọi người đều lắng tai nghe: