"Bộ Công Cụ Mới - Francis Bacon PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bộ Công Cụ Mới - Francis Bacon PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo BỘ CÔNG CỤ MỚI —— Tác giả: FRANCIS BACON Người dịch: Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng Chuẩn NXB Tri thức Tái bản lần thứ nhất (Sách tham khảo) Số hóa: tudonald78 Bản in: 03/2017 20-10-2020 Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG Lời nhà xuất bản Xin bạn đọc lưu ý, Nhà xuất bản Tri thức trân trọng giới thiệu cuốn sách Bộ công cụ mới ("ВТОРАЯ ЧАСТЬ СОЧИНЕНИЯ НАЗЫВАЕМАЯ новый ОРГАНОН ИЛИ ИСТИННЫЕ УКАЗАНИЯ для ИСТОЛКОВАНИЯ ПРИРОДЫ” trong tuyển tập СОЧИНЕНИЯ В ДВУХ ТОМАХ, ИЗДАТЕЛЬСТВО СОЦИАЛЬНО ЭКОНОМИЧЕСКОЙ ЛИТЕРАТУРЫ “МЫСЛЬ” xuất bản, 1972) của Francis Bacon, do dịch giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng Chuẩn dịch một cách đầy đủ và mạch lạc. Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách. Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng. Xin chân thành cảm ơn! Lời nói đầu Những người dám nói về tự nhiên như một đối tượng đã được nghiên cứu - họ làm điều đó là do quá tự tin hoặc do háo danh và thói quen thuyết giáo - đã gây ra một tổn thất to lớn cho triết học và cho các khoa học. Bởi vì, họ mạnh mẽ tới mức nào trong việc buộc người khác phải tin vào mình thì họ cũng thành công tới mức đó trong việc chặn đứng và bóp chết công việc nghiên cứu. Họ không hẳn đã mang lại lợi ích nhờ các năng lực của mình, mà chủ yếu gây ra tổn thất do đã lãng phí và giết chết năng lực của những người khác. Còn những người đi theo con đường đối lập và nhất quyết khẳng định rằng chúng ta không thể nhận thức được một cái gì cả đã đi tới sự tin tưởng ấy do họ căm ghét các nhà ngụy biện thời cổ đại, hoặc là do tinh thần yếu ớt, hay thậm chí là do có một kiểu thông thái nào đó, đã viện dẫn những lí do không nên coi thường. Tuy nhiên, trong ý kiến của mình, họ không xuất phát từ các cơ sở chân thực, và khi bị khát vọng và lòng nhiệt tình lôi cuốn về phía trước thì họ lại đi quá xa. Những người Hi Lạp cổ nhất (mà tác phẩm của họ đã bị thất lạc) giữ một lập trường hợp lí hơn giữa những phán đoán dứt khoát đầy tự tin và thái độ thất vọng. Mặc dù họ thường kêu ca và phàn nàn về khó khăn trong việc nghiên cứu và về sự bí ẩn của các sự vật, song cắn răng chịu đựng, họ không ngừng vươn tới mục đích và thử nghiệm giới tự nhiên. Như đã rõ, họ cho rằng vấn đề này (nghĩa là việc có thể nhận thức được một cái gì đó hay không) được giải quyết không phải bằng tranh luận mà bằng kinh nghiệm. Nhưng, khi chỉ biết đến sức mạnh của lí tính, cả họ cũng không dựa vào các quy tắc, mà vẫn thường trông cậy vào tư duy sắc sảo, vào tính năng động và tính tích cực của trí tuệ. Phương pháp của chúng ta dễ dàng trong lời nói bao nhiêu thì lại khó khăn trong công việc bấy nhiêu. Vì phương pháp nằm ở chỗ chúng ta xác định độ tin cậy của cảm tính khi xem xét nó trong những giới hạn riêng và loại bỏ phần lớn công việc của lí tính đi theo cảm tính, sau đó phát hiện và mở ra cho lí tính một con đường mới đáng tin cậy, bắt nguồn từ bản thân trực giác cảm tính. Đương nhiên, cả những người gán cho phép biện chứng một ý nghĩa như vậy cũng đã hiểu được điều này. Từ đó chúng ta cũng thấy rõ tại sao họ đã tìm kiếm sự trợ giúp cho lí tính, khi có thái độ hoài nghi đối với hoạt động bẩm sinh và tự phát của lí trí. Nhưng phương pháp này được sử dụng quá muộn, khi mà công việc đã bị bóp chết: khi mà lí trí đã bị những ràng buộc của cuộc sống hằng ngày, những lời nói và học thuyết giả dối khống chế, khi mà nó đã bị những ngẫu tượng1trống rỗng lấn át. Như vậy, nghệ thuật biện chứng này, mà về sau (như chúng ta đã nói) đã đứng lên bảo vệ lí tính và hoàn toàn không cải tiến công việc, thật ra đã đưa tới chỗ củng cố các sai lầm hơn là phát hiện chân lí. Giải thoát duy nhất là phải bắt đầu lại toàn bộ công việc của lí tính và lí trí, ngay từ đầu lí trí không được hành động tùy tiện, mà nó phải thường xuyên được điều khiển và công việc diễn ra giống như một cỗ máy. Trên thực tế, nếu con người bắt tay vào công việc cơ giới chỉ bằng đôi tay, không có sự hỗ trợ của công cụ, cũng giống khi họ không ngần ngại bắt tay vào công việc trí óc mà dường như chỉ nhờ nỗ lực của lí trí, thì họ chỉ có thể dịch chuyển và khắc phục được các vật không đáng kể, mặc dù họ đã có những nỗ lực đầy tâm huyết và hơn nữa là những nỗ lực phù hợp với công việc đó. Nếu muốn dừng lại chút ít ở ví dụ này và xem xét nó, như khi chúng ta nhìn vào gương, chúng ta có thể đặt ra tình huống sau: phải di chuyển một đài tưởng niệm rất nặng đến một buổi lễ, nếu con người bắt tay vào công việc ấy chỉ bằng đôi bàn tay, thì bất kì người quan sát tỉnh táo nào có lẽ nào lại không coi điều đó là biểu hiện của một sự mất trí hoàn toàn? Lẽ nào người quan sát lại càng không coi đó là một sự mất trí khi người ta tăng thêm số người làm việc và nghĩ rằng như vậy là họ sẽ lo liệu được công việc ấy? Còn nếu họ tiến hành một sự chọn lọc, để lại những người yếu ớt, chỉ sử dụng những người khoẻ mạnh, và hi vọng sẽ hoàn thành công việc bằng cách đó, thì lẽ nào người quan sát không nói rằng họ lại càng mất trí hơn nữa? Và, cuối cùng, nếu chưa bằng lòng với điều đó, họ quyết định sử dụng kĩ thuật điền kinh, ra lệnh cho mọi người đi đến với đôi tay và cơ bắp vạm vỡ và chuẩn bị tốt cho công việc, thì lẽ nào người quan sát lại không kêu toáng lên rằng họ làm việc chỉ để hành động gàn dở theo một quy tắc và ý định nào đó? Con người bắt tay vào công việc trí óc với một thái độ hăng hái phi lí và đồng tâm vô ích như vậy khi họ đặt hi vọng lớn lao vào vô số lí trí, hoặc vào tính vượt trội và tính sắc bén của chúng, hoặc là tăng cường tính kiên định của lí trí nhờ phép biện chứng (mà có thể coi là một môn điền kinh); trong khi đó thì ai suy luận đúng đắn sẽ nhận thấy rõ rằng, với tất cả tâm huyết và nỗ lực, họ vẫn chỉ không ngừng sử dụng lí tính trống rỗng. Nhưng có một điều cũng hoàn toàn hiển nhiên là trong bất kì công việc quan trọng nào mà con người thực hiện không có công cụ và máy móc, thì sức lực của từng người cũng không được tận dụng hết, dù là một mình hay là hợp nhất lại. Như vậy, từ những tiền đề do chúng tôi xác lập, có thể rút ra hai điều mà chúng tôi muốn mọi người không lãng quên chúng. Điều thứ nhất, chúng tôi cho rằng, sẽ là một dấu hiệu tốt đẹp nếu chúng ta giữ nguyên danh dự và sự tôn trọng đối với người thời cổ để làm giảm bớt và loại bỏ những bàn luận khác nhau cùng với thói kiêu căng, thì chúng ta có thể sẽ thực hiện được dự định trong khi chỉ sử dụng thành quả từ tính khiêm tốn của mình. Bởi vì, nếu tuyên bố rằng, chúng ta có thể đạt đến được những kết quả tốt hơn so với người thời cổ khi chúng ta vẫn đi theo chính con đường mà họ đã đi, thì chúng ta không thể dùng xảo ngôn để bác bỏ sự so sánh và tranh luận về tài năng, về ưu thế, hay về năng lực. Đương nhiên, cuộc tranh luận này không phải là điều cấm đoán hay mới mẻ gì. Bởi vì, nếu người thời cổ đã xác lập và phát hiện ra một điều gì đó sai lầm, thì tại sao chúng ta, cũng như mọi người, lại không có quyền chỉ ra và bác bỏ điều đó? Tuy nhiên, cho dù cuộc tranh luận này là có lí và được phép, thì nó vẫn có thể không phù hợp với năng lực của chúng ta. Song, do chúng ta cố gắng tìm cho lí tính một con đường hoàn toàn mới mà người thời cổ chưa biết tới và chưa trải qua, nên tình hình sẽ khác đi. Sự ganh đua và tranh luận giữa các bên sẽ chấm dứt. Chúng ta chỉ giữ lại cho mình vai trò của người dẫn đường, điều này đương nhiên chỉ là giá trị trung gian và chủ yếu là nhờ may mắn hơn là nhờ năng lực và ưu thế. Lời cảnh báo này có quan hệ với cá nhân, còn lời cảnh báo khác có quan hệ với bản thân sự vật. Chúng tôi hoàn toàn không có ý định bác bỏ thứ triết học đang hưng thịnh, hay một thứ triết học khác đúng đắn và hoàn hảo hơn. Chúng tôi cũng không ngăn cản việc thứ triết học phổ biến này và các thứ triết học khác cùng kiểu đó tiến hành các cuộc tranh luận, tô đẹp lời nói, được giảng dạy tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, chúng tôi công khai tuyên bố rằng, thứ triết học mà chúng tôi sẽ đem lại, sẽ không hữu ích cho những công việc như vậy. Nó không thể được nắm bắt ngay lập tức, không trả thù lí tính bằng những định kiến và cũng không dễ hiểu đối với đám đông, ngoài tính hữu ích và tính hiệu quả của nó. Như vậy, vì hạnh phúc và lợi ích của cả hai bên, sẽ có hai nguồn gốc của các học thuyết và hai nhánh của chúng, hệt như vậy, sẽ có hai nhóm học giả hoặc triết gia không những hoàn toàn không thù địch và không xa lạ, mà còn liên minh và trợ giúp lẫn nhau. Cứ cho là một số người sẽ nghiên cứu khoa học, còn số khác sẽ phát minh ra nó. Những người ưa thích công việc thứ nhất hơn hoặc là do họ hấp tấp, hoặc là do đòi hỏi của cuộc sống hằng ngày, cũng có thể là do họ không thể nắm bắt và tiếp nhận công việc khác vì khả năng trí tuệ không thật tốt của họ (mà điều này lại rất hay gặp) so với chúng ta, thì chúng ta vẫn mong muốn họ may mắn đạt tới thành công trong công việc mà họ đang làm và họ vẫn tiếp tục duy trì phương hướng mà họ đã chọn. Nhưng, nếu những người không bất tử không muốn dừng lại ở những gì đã khám phá ra và sử dụng chúng, mà còn muốn thâm nhập sâu hơn và chiến thắng đối thủ - giới tự nhiên - không phải bằng tranh luận mà bằng công việc, và cuối cùng, không phải bằng những giả định hoa mĩ mà bằng những hiểu biết một cách chắc chắn và rõ ràng thì hãy để cho họ liên kết với chúng ta như là những đứa con chân chính của khoa học, sau khi bỏ lại những cái bên ngoài của giới tự nhiên mà đám đông vô tận đã phong tỏa, để cuối cùng đi vào được bên trong của nó. Để mọi người hiểu chúng tôi rõ hơn và để cho những gì chúng tôi mong muốn được biểu thị bằng tên gọi gần gũi hơn, chúng tôi thường gọi một trong các phương pháp, hay các con đường, là Sự đoán định trước của lí trí, còn phương pháp khác là Sự lí giải về giới tự nhiên. Chúng tôi còn có một nguyện vọng nữa. Đương nhiên, trong suy tư của mình, chúng tôi cố gắng và có ý định làm sao đó để những điều chúng tôi đưa ra không những là chân thực mà còn dễ tiếp cận đối với tinh thần của những người dù rất bận rộn và vất vả. Tuy nhiên, chúng tôi có thể hi vọng (đặc biệt là trong công việc phục hồi khoa học quan trọng này) rằng, những người muốn nói một điều gì đó về tác phẩm này của chúng tôi dựa trên hoặc là sự hiểu biết của bản thân, hoặc là vô số quyền uy, hoặc là các hình thức chứng minh (mà bây giờ đã trở thành luật), không có ý định làm điều đó một cách thoáng qua hay nhân thể nói thêm. Trước hết cứ để họ nghiên cứu đối tượng một cách thoả đáng; để bản thân họ trải qua một chút ít con đường mà chúng tôi chỉ ra và đề nghị; để họ làm quen với sự tinh tế của các sự vật được in dấu trong kinh nghiệm; cuối cùng, cứ để họ trì hoãn đúng lúc và dường như hợp quy luật việc sửa chữa các thói quen sai lầm đã ăn sâu vào lí trí; khi đó thì rốt cuộc, sau khi họ có khả năng làm điều ấy, cứ để họ sử dụng năng lực phán đoán của họ. Cách ngôn về việc giải thích giới tự nhiên và về vương quốc của con người I Con người, đầy tớ và kẻ giải thích giới tự nhiên, hoạt động và hiểu biết được bao nhiêu thì cũng nhận thức được bấy nhiêu kết cấu của giới tự nhiên bằng việc làm hay bằng sự suy tư, và con người không biết và không thể hiểu biết nhiều hơn thế. II Cả đôi bàn tay trắng lẫn lí tính hành động tùy tiện đều không có sức mạnh đáng kể. Công việc được thực hiện nhờ công cụ và nhờ những phụ lực cần cho lí tính không kém gì cần cho đôi tay. Và, công cụ của đôi tay đem lại hay định hướng chuyển động như thế nào, thì công cụ trí tuệ cũng đem lại những chỉ dẫn hay phòng ngừa cho lí tính như thế. III Tri thức của con người và sức mạnh của con người là như nhau, vì sự không hiểu biết được nguyên nhân sẽ cản trở hành động. Giới tự nhiên chỉ bị chinh phục bằng cách phục tùng nó, và cái được coi là nguyên nhân trong trực giác, lại được quan niệm là quy tắc trong hành động. IV Trong hành động, con người không thể làm gì khác ngoài việc hợp nhất hay tách rời các vật thể của giới tự nhiên. Giới tự nhiên làm những thứ còn lại ở bên trong nó. V Các nhà cơ học, toán học, thầy thuốc, giả thuật và ma thuật đắm mình vào công việc nghiên cứu giới tự nhiên của họ, nhưng thành quả khi làm việc đó thì kém cỏi còn sự nỗ lực là không đáng kể. VI Là phi lí và tự mâu thuẫn nếu hi vọng rằng sẽ làm được điều mà đến nay chưa lừng có theo một cách khác nhờ những phương tiện chưa từng được thử nghiệm. VII Chúng ta nhận thấy vô số sản phẩm của bộ não và của đôi tay trong sách vở và trong các sự vật. Nhưng tất cả sự đa dạng ấy là ở việc làm cho các sự vật tinh tế hơn và ở việc kết hợp không nhiều những sự vật đã biết, chứ không phải là ở vô số tiên đề2. VIII Thậm chí con người phải hàm ơn sự ngẫu nhiên và kinh nghiệm nhiều hơn là hàm ơn các khoa học về những điều đã được khám phá. Các khoa học mà hiện giờ chúng ta đang có, thực chất không phải cái gì khác mà là một sự kết hợp những điều đã biết, chứ không phải là phương thức phát hiện và chỉ ra những công việc mới. IX Nguyên nhân và cội nguồn thật sự của mọi thiếu sót trong khoa học là do: chúng ta bị lừa gạt khi lấy làm kinh ngạc về sức mạnh của trí tuệ con người, ca tụng nó và không tìm một sự trợ giúp thật sự cho nó. X Sự tinh tế của giới tự nhiên vượt gấp nhiều lần sự tinh tế của cảm tính và của lí tính, do vậy, tất cả những trực giác, những suy luận, những kiến giải tuyệt vời này đều là sự nhảm nhí; chỉ có điều không có ai nhận thấy điều đó mà thôi. XI Giống như các khoa học hiện đang có là vô bổ đối với những khám phá mới, logic học mà bây giờ đang có, cũng là vô bổ đối với việc phát hiện ra tri thức. XII Logic học mà hiện giờ người ta đang sử dụng thực ra chỉ phục vụ cho việc củng cố và duy trì những sai lầm có cơ sở của chúng là các khái niệm phổ biến, chứ không phải nhằm phục vụ cho việc tìm tòi chân lí. Do vậy, nó có hại hơn là có lợi. XIII Tam đoạn luận không áp dụng được vào các nguyên lí tri thức3, nó được áp dụng một cách vô bổ vào các tiên đề trung gian, vì nó hoàn toàn không phù hợp với sự tinh tế của giới tự nhiên. Do vậy, nó chi phối dư luận, chứ không phải chi phối sự vật. XIV Tam đoạn luận cấu thành từ các mệnh đề, các mệnh đề cấu thành từ các danh từ, danh từ thực chất là kí hiệu của khái niệm. Vì vậy, nếu cấu thành cơ sở của tất cả, mà bản thân các khái niệm là rối rắm và được trừu tượng hóa một cách thiếu cân nhắc khỏi các sự vật, thì tất cả những gì được xây dưng dựa trên chúng là không đáng tin cậy. Do vậy, hi vọng duy nhất là ở phép quy nạp chân thực. XV Không có gì đúng đắn trong các khái niệm của cả logic học và vật lí học: cả thực thể lẫn chất lượng, hành động, sự say mê, thậm chí cả tồn tại cũng không phải là các khái niệm hay; còn kém hơn nữa là các khái niệm nặng, nhẹ, dày, thưa, ẩm, khô, kết quả, phân hóa, hút, đẩy, yếu tố, vậtchất, hình thức và các khái niệm tương tự. Tất cả chúng đều được tưởng tượng ra và được xác định sai. XVI Các khái niệm loại thấp hơn - con người, con chó, chim bồ câu - và các khái niệm của trực giác cảm tính trực tiếp - nóng, lạnh, trắng, đen - không lừa dối chúng ta một cách công khai, nhưng đôi khi chúng cũng trở nên mơ hồ do tính biến đổi của vật chất và sự di chuyển của các vật. Những khái niệm còn lại mà con người vẫn sử dụng cho tới nay là những lệch lạc không được trừu tượng hóa và tách biệt khỏi sự vật theo những phương pháp thích hợp. XVII Trong việc xây dựng tiên đề có những lệch lạc và sự tùy tiện không kém gì việc hình thành khái niệm, thậm chí cả trong các quy tắc phụ thuộc vào phép quy nạp đơn giản. Và điều đó lại càng có nhiều hơn trong các tiên đề và mệnh đề bậc thấp hơn được rút ra thông qua Tam đoạn luận. XVIII Những gì được các khoa học phát hiện ra cho tới nay, dường như hoàn toàn thuộc về lĩnh vực các khái niệm thông thường. Để thâm nhập vào bề sâu và bề xa của giới tự nhiên thì cần phải tách các khái niệm, cũng như các tiên đề, khỏi sự vật theo một phương pháp thận trọng và đáng tin cậy hơn, nói chung là cần một công việc tốt hơn và đáng tin cậy hơn của lí tính. XIX Đang tồn tại và có thể tồn tại hai phương pháp tư duy để tìm tòi và phát hiện ra chân lí. Một phương pháp đi từ những cảm giác, từ những chi tiết đến các tiên đề chung hơn và đi từ các căn cứ chân thực, chắc chắn của chúng, để thảo luận và phát hiện ra các tiên đề trung gian; đây là phương pháp mà người ta đang đi theo. Phương pháp khác là rút ra các tiên đề từ cảm giác và từ những chi tiết, liên tục và dần dần đi lên cho tới lúc đi tới các tiên đề chung nhất; đây là phương pháp đúng đắn nhưng chưa được thử nghiệm. XX Lí tính hành động tự đi theo phương pháp do các quy tắc biện chứng chỉ đường chính là phương pháp thứ nhất. Vì tinh thần cố vươn lên cái chung nhất để đứng vững ở đó cho nên nó rất nhanh chóng bắt đầu coi thường kinh nghiệm. Nhưng phép biện chứng đã làm tăng thêm các thiếu sót đó bằng những cuộc tranh luận khoa trương của mình. XXI Lí tính hành động tự nó, nếu đây là lí tính tỉnh táo, nhẫn nại và kiên trì (đặc biệt nếu các học thuyết đã được thừa nhận trước đó không cản trở nó), toan tính thử đi theo phương pháp thứ hai, phương pháp chân thực nhưng có ít thành công. Vì, nếu không được điều khiển và không được trợ giúp thì lí tính sẽ bất lực và hoàn toàn không có khả năng khắc phục sự khó hiểu của các sự vật. XXII Cả hai phương pháp này đều xuất phát từ các cảm giác và từ các chi tiết đều kết thúc ở các cái chung cao nhất. Nhưng sự khác nhau giữa chúng là rất lớn. Vì một phương pháp chỉ đề cập thoáng qua tới kinh nghiệm và các chi tiết, còn phương pháp khác lại dựa vào chúng một cách thích đáng. Một phương pháp ngay lập tức xác lập các cái chung trừu tượng và vô bổ, còn phương pháp khác vươn dần lên cái thật sự phù hợp với tự nhiên. XXIII Có sự khác nhau đáng kể giữa các ngẫu tượng của lí tính con người và các ý niệm của lí tính thần thánh, tức là giữa các ý kiến trống rỗng và các dấu hiệu chân thực, các đặc điểm đích thực của những tạo phẩm tự nhiên như là chúng tự bộc lộ ra. XXIV Những tiên đề được các suy luận xác lập hoàn toàn không thể phát hiện ra những sự vật mới, vì sự tinh tế của giới tự nhiên vượt trội gấp nhiều lần sự tinh tế của các suy luận. Nhưng, được trừu tượng hóa từ những chi tiết một cách thoả đáng, đến lượt mình, các tiên đề dễ dàng chỉ ra và xác định những chi tiết mới và qua đó làm cho khoa học trở nên thực tiễn. XXV Các tiên đề mà hiện nay người ta đang sử dụng, xuất phát từ kinh nghiệm nghèo nàn và đơn giản, từ một số ít ỏi những chi tiết thường bắt gặp, dường như phù hợp với những sự kiện ấy và với dung lượng của chúng. Do vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu các tiên đề ấy không dẫn tới những chi tiết mới. Nếu vạn nhất người ta phát hiện ra một trường hợp mà trước đó chưa được biết đến, thì tiên đề sẽ được giải thoát nhờ một sự khác biệt nhỏ nhặt nào đó, trong khi đó thì việc chỉnh lí bản thân tiên đề sẽ là đúng đắn hơn. XXVI Chúng ta sẽ gọi nhận thức mà chúng ta thường áp dụng trong việc nghiên cứu giới tự nhiên là sự đoán định trước giới tự nhiên nhằm mục đích giáo dục, vì nó hấp tấp và chưa chín muồi. Chúng ta sẽ gọi nhận thức mà chúng ta rút ra từ các sự vật một cách thoả đáng là sự giải thích giới tự nhiên. XXVII Các đoán định tạo thành căn cứ đủ vững chắc cho sự đồng thuận4. Vả lại, nếu người ta bắt đầu làm điều điên rồ theo một hình ảnh và hình thức, thì họ cũng sẽ dễ dàng có thể đi tới sự đồng thuận với nhau. XXVIII Để đạt tới sự đồng thuận thì các đoán định thậm chí còn mạnh hơn những giải thích vì, khi được rút ra từ một số ít ví dụ, hơn nữa là từ những ví dụ thường bắt gặp nhất, các đoán định ngay lập tức xâm chiếm lí tính và lấp đầy ảo tưởng, trong khi đó, ngược lại, những giải thích được rút ra từ các sự vật đa dạng và phân tán rất xa nhau không thể ngay lập tức thâm nhập lí tính của chúng ta. Do vậy, đối với dư luận chung thì chúng trở nên kì quặc và khó hiểu giống như những điều bí ẩn của niềm tin. XXIX Việc sử dụng các đoán định và phép biện chứng là thích hợp trong các khoa học dựa trên những ý kiến và quan điểm, vì nhiệm vụ của chúng là đạt tới sự đồng thuận, chứ không phải là tri thức về các sự vật. XXX Thậm chí nếu các thiên tài của mọi thời đại gặp nhau và hợp nhất sự nỗ lực của họ, thì khi đó họ cũng không thể đưa khoa học tiến xa nhờ đoán định, vì những sai lầm căn bản mắc phải khi có nỗ lực đầu tiên của trí tuệ, không được khắc phục nhờ sự vượt trội của những hành động và biện pháp sau đó. XXXI Chờ đợi một sự bổ sung đáng kể cho tri thức mà trông cậy vào việc sử dụng và gắn cái mới vào cái cũ là uổng công. Cần phải đổi mới đến tận gốc nếu chúng ta không muốn mãi mãi xoay quanh một vòng tròn chỉ để nhích lên phía trước một chút ít không đáng kể. XXXII Danh dự của các tác giả trước đây, và của mọi tác giả nói chung, đều không bị hủy hoại, vì chúng ta không so sánh năng lực trí tuệ và tài năng, mà so sánh các phương pháp nhận thức. Không phải chúng ta làm công việc của một quan toà, mà là công việc của người dẫn đường. XXXIII Từ các đoán định (tức là từ các căn cứ thường được sử dụng) thì không thể (chúng tôi nói ra điều này một cách công khai) rút ra phán đoán đúng đắn về phương pháp của chúng ta về những cái được phát hiện ra nhờ phương pháp ấy. Vì không nên dựa vào sự xét xử của cái còn cần phải bị xét xử. XXXIV Không dễ dàng tìm ra phương thức để giải thích và truyền đạt cái mà chúng ta giả định. Vì cái mà tự thân nó là mới, sẽ chỉ hiểu được nhờ so sánh với cái cũ. XXXV Borgia nói về cuộc chinh chiến của người Pháp tại Italia rằng, người Pháp đến đó với kiếm trong tay để đánh dấu chốn nương thân cho mình, chứ không phải với vũ khí để mở ra cho mình con đường bằng vũ lực5. Cách thức của chúng tôi cũng là như vậy: cứ để cho học thuyết của chúng tôi thâm nhập dần dần vào những đầu óc có khả năng và sẵn sàng tiếp nhận nó. Các cuộc tranh luận là không thích hợp ở nơi chúng ta bất đồng về những nguyên tắc, về bản thân những khái niệm và thậm chí về những hình thức chứng minh. XXXVI Chúng ta còn lại một cách truyền đạt đơn giản và duy nhất. Chúng ta phải đưa con người đến với chính những chi tiết, đến với các dãy và các kết hợp giữa chúng. Cứ mặc cho người ta tạm thời tự ra lệnh cho mình khước từ những khái niệm của mình và cứ mặc cho họ bắt đầu làm quen với bản thân các sự vật. XXXVII Suy luận của những người truyền bá sự đoán định và phương pháp của chúng tôi phù hợp với nhau về nguồn gốc một cách xác định. Nhưng chúng rất khác nhau và đối lập với nhau về kết quả. Họ khẳng định một cách đơn giản rằng, không gì có thể là hữu ích. Còn chúng tôi khẳng định là một ít thứ trong tự nhiên có thể nhận thức được bằng phương pháp mà hiện nay người ta đang sử dụng. Họ tiếp tục phá hủy tính đáng tin cậy của lí tính và cảm tính, còn chúng tôi tìm kiếm và đem lại các phương tiện trợ giúp cho chúng. XXXVIII Những ngẫu tượng và những khái niệm sai lầm đã trói buộc lí tính con người và đã bám sâu trong nó, khống chế trí tuệ con người tới mức cản trở chân lí đi vào trí tuệ, nhưng, nếu thậm chí sự đi vào ấy là được phép, thì một lần nữa chúng lại cản trở bản thân con đường đổi mới khoa học nếu như con người chỉ được cảnh báo mà không được trang bị để chống lại chúng một cách tốt nhất như có thể. XXXIX Có bốn loại ngẫu tượng cản trở trí tuệ của con người6. Để nghiên cứu chúng, chúng tôi sẽ đặt tên cho chúng. Chúng tôi gọi loại thứ nhất là ngẫu tượng tộcloại, loại thứ hai - ngẫu tượng hang động, loại thứ ba - ngẫu tượng quảng trường, và loại thứ tư - ngẫu tượng rạp hát. XL Việc xây dựng các khái niệm và các tiên đề thông qua phép quy nạp chân thực đương nhiên là phương tiện đúng đắn để ngăn ngừa và loại bỏ các ngẫu tượng. Nhưng ngay cả việc chỉ ra các ngẫu tượng cũng rất hữu ích. Học thuyết về ngẫu tượng đối với việc giải thích giới tự nhiên cũng giống như học thuyết về sự bác bỏ ngụy biện đối với phép biện chứng phổ biến. XLI Ngẫu tượng tộc loại có cơ sở ở trong bản tính con người, ở trong bộ lạc hoặc ở trong chính tộc loại của con người, do vậy sẽ là sai lầm nếu khẳng định rằng, cảm tính của con người là thước đo các sự vật7. Ngược lại, mọi trực giác của cảm tính cũng như của lí tính đều căn cứ trên sự so sánh của con người chứ không phải của thế giới. Trí tuệ của con người giống như chiếc gương không phẳng; khi nó trộn lẫn bản chất của mình với bản chất của các sự vật thì sẽ phản chiếu các sự vật đó dưới dạng méo mó và biến dạng. XLII Ngẫu tượng hang động thực chất là những sai lầm của từng con người riêng biệt8. Vả lại, ngoài những sai lầm vốn có ở loài người, mỗi người còn có cái hang đặc biệt của mình, nó làm suy yếu và làm sai lệch ánh sáng của giới tự nhiên. Điều đó diễn ra hoặc là do các đặc tính bẩm sinh đặc biệt của mỗi người, hoặc là do giáo dục và đối thoại với những người khác, hoặc là do đọc sách hay do các quyền uy mà người ấy sùng bái, hoặc là do sự khác nhau về những ấn tượng mà tinh thần của mỗi người nhận được là có tính thiên kiến và định kiến hay là tinh thần điềm nhiên và bình tĩnh, hoặc cũng còn do các nguyên nhân khác nữa. Do vậy, khi xem xem tinh thần được định hình như thế nào ở những người riêng biệt, thì tinh thần con người là một sự vật hay thay đổi, không ổn định và dường như là ngẫu nhiên. Đó là lí do vì sao Heraclitus đã có lí khi nói rằng, con người tìm kiếm tri thức trong các thế giới nhỏ bé, chứ không phải là trong thế giới chung hay rộng lớn. XLIII Còn có những ngẫu tượng dường như sinh ra là do có sự ràng buộc lẫn nhau và cùng chung sống của con người. Khi để ý tới sự giao tiếp và sự hợp tác của con người làm sản sinh ra những ngẫu tượng loại này, chúng tôi gọi chúng là những ngẫu tượng quảng trường. Mọi người hợp nhất được là nhờ ngôn ngữ. Ngôn từ được xác lập phù hợp với hiểu biết của đám đông. Do vậy, việc xác lập ngôn từ một cách kém cỏi và dốt nát sẽ cản trở rất nhiều đối với lí tính. Các định nghĩa và sự giải thích mà những người uyên bác đã quen trang bị cho mình và đã dùng để tự vệ, hoàn toàn không giúp ích gì. Ngôn từ trực tiếp khống chế lí tính, làm lẫn lộn tất cả mọi thứ và đưa con người đến những sự lí giải và các cuộc tranh luận vô bổ và vô tận. XLIV Cuối cùng, có những ngẫu tượng đi vào tinh thần con người từ các giáo điều khác nhau của triết học, cũng như từ các quy tắc chứng minh sai lầm. Chúng tôi gọi chúng là ngẫu tượng rạp hát, vì chúng tôi cho rằng, có bao nhiêu hệ thống triết học được thừa nhận hay được tạo ra thì cũng có bấy nhiêu vở hài kịch biểu thị các thế giới nhân tạo và bịa đặt được dàn dựng và trình diễn. Chúng tôi nói như vậy không những về các hệ thống triết học hiện đang tồn tại hay đã từng tồn tại, vì có thể sáng tác và viết ra vô số câu chuyện cổ tích như vậy; vả lại, những sai lầm rất khác nhau dường như thường có cùng các nguyên nhân giống nhau. Khi đó chúng tôi không những muốn nói tới các học thuyết triết học phổ quát, mà còn nói tới cả vô số quy tắc và tiên đề khoa học đã có hiệu lực nhờ thái độ trung thành, niềm tin và sự vô tâm. Song, cần phải nói riêng biệt về mỗi loại ngẫu tượng ấy một cách chi tiết và rõ ràng để cảnh báo lí tính của con người. XLV Do thiên huớng của mình, lí tính con người dễ giả định rằng, trong các sự vật luôn có trật tự và tính đơn điệu hơn là tìm thấy chúng. Trong khi đó thì nhiều thứ trong tự nhiên là đơn nhất và hoàn toàn không có cái tương tự, lí tính con người nghĩ ra những nét tương đồng, những sự phù hợp và những quan hệ không có trong hiện thực. Từ đó xuất hiện ý kiến cho rằng, mọi thứ trên đời đều chuyển động theo các vòng tròn hoàn hảo. Còn các vòng xoáy ốc và các hình con rồng9 hoàn toàn bị bác bỏ, nếu không kể đến tên gọi. Từ đó, người ta cũng sử dụng nguyên tố lửa cùng với vòng tròn mà nó để xây dựng tứ giác cùng với ba nguyên tố khác mà cảm tính tiếp cận được10. Người ta tùy tiện đưa tỉ lệ 1/10 vào cái gọi là các nguyên tố để xác định mật độ và những điều vô lí khác11. Những luận điểm vô bổ này không những có mặt trong các học thuyết triết học mà cả trong các khái niệm đơn giản. XLVI Lí tính của con người sử dụng mọi thứ để bảo vệ và nhất trí với điều mà một khi nó đã thừa nhận, hoặc là vì đó là đối tượng của niềm tin chung, hoặc là vì nó ưa thích điều đó. Sức mạnh và số lượng các sự kiện lại chứng tỏ cho điều ngược lại, dù đó có là gì đi chăng nữa thì lí tính hoặc không để ý tới chúng, hoặc coi thường chúng, hoặc loại bỏ và bác bỏ chúng nhờ những sự phân định với lời cảnh báo thái quá và thô thiển để cho tính đáng tin cậy của các kết luận trước đây không bị lọại bỏ. Và, do vậy, người trả lời đúng là người khi mà ta chỉ cho người đó thấy hình ảnh trong đền của những người được cứu thoát khỏi nạn đắm tàu nhờ nói ra lời thề nguyền và được đáp lại, lại hỏi tiếp: "Vậy đâu là hình ảnh của những người đã chết sau khi nói ra lời thề nguyền?"12. Đó dường như là cơ sở của mọi sự mê tín - trong thiên văn học, trong giấc mơ, trong niềm tin, trong tiên tri, v.v. Huyễn hoặc mình bằng điều hư ảo như vậy, con người chỉ nhận thấy sự kiện đã diễn ra mà không để ý tới cái đã lừa mình, cho dù nó thường xảy ra hơn nhiều. Sai lầm này còn thâm nhập sâu sắc hơn nữa vào triết học và vào các khoa học. Trong chúng, điều một lần nữa đã được thừa nhận, sẽ tiêm nhiễm và khống chế những điều khác (mặc dù những điều khác là tốt hơn và vững chắc hơn nhiều). Ngoài ra, thậm chí cả sự thiên vị và sự hư ảo mà chúng tôi chỉ ra đó cũng không có, thì lí tính con người vẫn quen mắc sai lầm là nó ngả theo các luận cứ khẳng định hơn là các luận cứ phủ định, trong khi đó thì đáng ra nó phải có thái độ như nhau đối với chúng; hơn nữa, thậm chí luận cứ phủ định có sức mạnh lớn hơn trong việc xây dựng mọi tiên đề chân thực. XLVII Cái có tác động mạnh nhất đến lí tính của con người là cái có thể ngay lập tức và đột ngột làm cho nó phải kinh ngạc; chính điều này thường kích thích và lấp đầy trí tưởng tượng. Nó âm thầm cải biến những thứ khác khi hình dung chúng như một cái không đáng kể đang chế ngự trí tuệ của nó. Lí tính không có thiên hướng và không có khả năng dựa vào những luận cứ xa lạ và đa dạng mà các tiên đề được kiểm nghiệm thông qua chúng trừ phi khi các quy luật nghiệt ngã và quyền lực mạnh mẽ áp đặt cho nó điều đó. XLVIII Lí tính con người ham muốn biết chừng nào. Nó không thể tự dừng lại, không thể nằm trong sự yên tính, mà ngày càng tiến xa hơn. Nhưng thật uổng công! Do vậy, tư duy không có khả năng nắm bắt giới hạn và kết cục của thế giới, nhưng dường như luôn cần phải hình dung một cái gì đó tồn tại ở xa hơn. Cũng không thể tư duy xem tính vĩnh hằng đi tới ngày nay như thế nào. Vì, khi phân biệt tính vô hạn trong quá khứ và tính vô hạn trong tương lai, ý kiến thông thường hoàn toàn là vô căn cứ, từ đó suy ra rằng, tính vô hạn này lớn hơn tính vô hạn kia và tính vô hạn bị rút ngắn, có thiên hướng dẫn tới cái hữu hạn. Việc dùng mưu mẹo về các đường thường xuyên phân chia được bắt nguồn từ sự bất lực này của tư duy13. Sự bất lực này của lí tính dẫn tới các kết quả tai hại hơn nhiều trong việc khám phá ra các nguyên nhân, vì cho dù các cơ sở chung nhất cần phải tồn tại trong tự nhiên như là chúng được phát hiện ra và thật sự không có nguyên nhân, song ở đây lí tính của con người, khi không biết tới sự yên tĩnh, vẫn tìm kiếm điều rõ ràng hơn. Và, khi hướng tới cái ở xa hơn, nó lại quay lại với cái ở gần nó hơn, mà đó chính là các nguyên nhân hữu hạn, các nguyên nhân có nguồn gốc của chúng thực ra là bản tính con người chứ không phải bản chất của Vũ trụ, và một khi xuất phát từ nguồn gốc ấy, người ta đã xuyên tạc triết học một cách kì lạ. Nhưng kẻ triết lí một cách dễ dãi và ngu dốt là kẻ tìm kiếm nguyên nhân cho cái phổ biến, cũng giống như là kẻ không tìm kiếm những nguyên nhân thấp hơn và những nguyên nhân phụ thuộc. XLIX Lí tính con người không phải là ánh sáng khô khan; ý chí và khát vọng sẽ đem lại sinh lực cho nó và trong khoa học điều này sinh ra từ sự mong muốn cho mỗi người14. Con người thực ra tin vào tính chân thực của cái mà con người ưa thích. Con người khước từ cái khó khăn - vì không đủ kiên nhẫn để tiếp tục nghiên cứu; khước từ điều tỉnh táo - vì điều này không hứa hẹn hi vọng; khước từ điều cao siêu trong tự nhiên - do mê tín; khước từ ánh sáng của kinh nghiệm - do kiêu ngạo và coi thường ánh sáng ấy để lí tính không bị chìm đắm vào điều hèn hạ và không vững chắc; khước từ những nghịch lí - do ý kiến được mọi người chấp nhận. Khát vọng làm hoen ố và hư hỏng lí tính bằng vô số những phương thức mà đôi khi con người không nhận biết được. L Sự rắc rối và những sai lầm của lí tính con người chủ yếu sinh ra từ tính cổ hủ, sự không phù hợp và sự lừa dối của các giác quan, vì cái thức tỉnh giác quan sẽ được đề cao hơn cái không kích thích giác quan ngay lập tức, mặc dù nó là tốt hơn. Do vậy, trực giác chấm dứt khi sự nhìn chấm dứt, vì việc quan sát các vật vô hình là không đủ hay hoàn toàn vắng mặt. Do vậy, toàn bộ sự chuyển động của tinh thần nằm trong các vật cảm giác được nhưng còn bị che đậy hay không tiếp cận được đối với con người15. Những chuyển hóa tinh tế hơn cũng bị che đậy như vậy trong các bộ phận của vật thể rắn - cái quen được gọi là biến đổi, trong khi trên thực tế lại là sự dịch chuyển của những hạt nhỏ bé. Trong khi đó, nếu không nghiên cứu và không làm sáng tỏ hai điều mà chúng tôi đã đề cập tới thì không thể đạt được một điều gì đáng kể trong tự nhiên về mặt thực tiễn. Tiếp theo, bản thân bản chất của không khí và của mọi vật có độ tinh tế lớn hơn không khí (mà chúng thì có nhiều) cũng dường như là chưa được biết tới. Cảm tính tự thân nó là yếu đuối và mắc sai lầm, những công cụ có nhiệm vụ tăng cường và làm cho giác quan trở nên sắc bén cũng không có giá trị đáng kể. Thực ra thì việc giải thích giới tự nhiên đạt được nhờ quan sát thông qua các kinh nghiệm được tổ chức một cách hợp lí. Ở đây, cảm tính chỉ phán xét về kinh nghiệm, còn kinh nghiệm thì phán xét về tự nhiên và bản thân sự vật. LI Xét về bản chất của mình, lí tính con người hướng vào cái trừu tượng và xem cái biến đổi như là cái bất biến. Nhưng phân chia giới tự nhiên ra thành các bộ phận thì tốt hơn là trừu tượng hóa nó. Chính trường phái Democritus đã làm điều này, họ đã thâm nhập vào giới tự nhiên sâu sắc hơn so với các trường phái khác, cần phải nghiên cứu nhiều hơn về vật chất, về trạng thái nội tại của nó, về sự biến đổi của trạng thái đó, về tác động thuần tuý16 và về quy luật tác động hay chuyển động, vì hình thức thực chất là sự bịa đặt của trí tuệ con người, trừ phi gọi các quy luật tác động ấy là những hình thức. LII Đó là những ngẫu tượng mà chúng tôi gọi là ngẫu tượng tộcloại. Chúng bắt nguồn hoặc từ thực thể đơn điệu của tinh thần con người, hoặc từ định kiến của nó, hoặc từ hạn chế của nó, hoặc từ sự chuyển động không ngừng của nó, hoặc từ sự ám thị của dục vọng, hoặc từ sự không có năng lực của cảm tính, hoặc từ phương thức tri giác. LIII Ngẫu tượng hang động bắt nguồn từ các đặc tính vốn có của tinh thần và của thể xác mỗi người, cũng như từ giáo dục, từ thói quen và từ những ngẫu nhiên. Mặc dù loại ngẫu tượng này là đa dạng và nhiều vô kể, nhưng chúng tôi dẫu sao vẫn chỉ ra những ngẫu tượng đòi hỏi phải thận trọng hơn cả và có nhiều khả năng đe dọa và làm ô nhiễm trí tuệ. LIV Con người yêu thích hoặc các khoa học và các học thuyết mà họ tự coi mình là người sáng tạo và là tác giả, hoặc các khoa học và các học thuyết mà họ đầu tư vào đó nhiều sức lao động nhất và họ đã quen thuộc hơn cả. Nếu những người như vậy cống hiến mình cho triết học và cho các học thuyết phổ quát, thì họ sẽ xuyên tạc và làm hỏng chúng do tác động của các chủ ý trước đó của họ. Điều này thể hiện rõ nhất ở Aristotle, người đã hoàn toàn phản bội lại triết học tự nhiên của ông chỉ vì logic học của ông và qua đó làm cho nó trở nên cứng nhắc và dường như là vô bổ. Các nhà hóa học cũng sáng lập ra thứ triết học hão huyền và vô dụng của họ dựa trên một ít thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Hơn nữa, sau các thử nghiệm hăng say trong việc nghiên cứu về từ trường, [William] Gilbert ngay lập tức đã nghĩ ra thứ triết học phù hợp với điều có ý nghĩa lớn nhất đối với ông ta. LV Sự khác nhau lớn nhất và dường như căn bản nhất giữa các trí tuệ đối với triết học và khoa học là như sau. Một số trí tuệ là mạnh mẽ và hữu dụng hơn đối với việc phát hiện ra sự khác biệt trong các vật, còn số khác - đối với việc phát hiện ra sự giống nhau trong chúng. Những trí tuệ cứng rắn và sắc sảo có thể tập trung suy ngẫm của mình, dừng lại ở mỗi sắc thái của các sự khác biệt. Còn những trí tuệ cao cả và linh hoạt thì nhận ra và so sánh những sự giống nhau tinh tế, có mặt khắp nơi giữa các sự vật. Nhưng cả hai loại trí tuệ ấy đều dễ dàng đi quá xa trong việc chạy theo hoặc những bộ phận của các vật, hoặc những cái bóng của chúng. LVI Một số trí tuệ có thiên hướng tôn sùng thời cổ, số khác thì bị cám dỗ bởi tình yêu cái mới. Nhưng một số ít trí tuệ có thể tuân thủ một mức độ nào đó để không loại bỏ những cái đã được người cổ xác định một cách xác đáng và không coi thường những cái mới được tiến cử một cách có lí. Điều này đem lại một tổn thất lớn cho triết học và cho các khoa học, vì đó thực ra là hậu quả của việc bị cái cổ xưa và cái mới quyến rũ, chứ không phải là phán xét về chúng. Không nên tìm kiếm chân lí ở sự thành đạt có tính bất biến của một thời đại nào đó, mà phải thông qua ánh sáng của kinh nghiệm mang tính vĩnh hằng về giới tự nhiên. Do vậy, chúng ta cần phải dứt khoát khước từ những khát vọng ấy để đảm bảo rằng chúng không khống chế trí tuệ. LVII Việc quan sát trực tiếp giới tự nhiên và các vật thể trong tính đơn giản của chúng sẽ nghiền nát và làm suy yếu lí tính; còn việc quan sát giới tự nhiên và các vật thể trong tính phức tạp và hình dáng của chúng sẽ làm cho lí tính choáng váng và sửng sốt. Điều này thể hiện rõ nhất ở trường phái Leucippus và Democritus, nếu đặt trường phái này bên cạnh học thuyết của các nhà triết học khác. Vì trường phái này bị cuốn hút vào các bộ phận của sự vật tới mức coi thường cấu tạo chúng; các trường phái khác thì say mê quan sát trực tiếp cấu tạo của các sự vật tới mức không thâm nhập vào tính đơn giản của giới tự nhiên. Do vậy, những quan sát trực tiếp này phải nối tiếp và thay thế lẫn nhau để cho lí tính trở nên vừa sáng suốt và vừa nhạy cảm, cũng là để né tránh được các mối nguy hiểm và các ngẫu tượng sinh ra từ đó. LVIII Tính thận trọng trong trực giác phải như thế nào để không cho phép có và để loại bỏ các ngẫu tượng hang động chủ yếu sinh ra hoặc từ thống trị của kinh nghiệm quá khứ, hoặc từ sự so sánh và phân chia quá nhiều, hoặc từ thiên hướng về cái nhất thời, hoặc từ sự rộng rãi và không đáng kể của các khách thể. Nói chung, cứ mặc cho mỗi người đang trực giác về bản chất của các vật hoài nghi cái xâm chiếm và khống chế lí tính của người ấy một cách đặc biệt mạnh mẽ. Cần phải rất thận trọng trong trường hợp ưa thích như vậy để lí tính vẫn điềm tĩnh và trong sáng. LIX Ngẫu tượng quảng trường là nặng nề nhất, chúng thâm nhập vào lí tính cùng với ngôn từ và tên gọi. Con người tin rằng lí tính của họ điều khiển ngôn từ. Nhưng cũng có trường hợp ngôn từ chĩa sức mạnh của mình chống lại lí tính. Điều này làm cho triết học và các khoa học trở thành ngụy biện và vô dụng. Phần lớn ngôn từ có nguồn gốc là ý kiến thông thường và mổ xẻ các vật trong giới hạn hiển nhiên nhất đối với lí tính của đám đông. Khi lí tính sắc bén hơn và sự quan sát chăm chú hơn muốn xem xét lại giới hạn này để nó phù hợp hơn với giới tự nhiên, thì ngôn từ trở thành vật cản. Từ đó hóa ra là những cuộc tranh luận ầm ĩ và hào hùng giữa các nhà khoa học thường biến thành những cuộc tranh luận về ngôn từ và tên gọi, sẽ tốt hơn (theo thói quen và sự sáng suốt của các nhà toán học) nếu bắt đầu từ chính chúng để sắp xếp chúng nhờ định nghĩa. Tuy nhiên, cả định nghĩa như vậy về các vật thể tự nhiên và vật chất cũng không thể loại bỏ được căn bệnh này, vì bản thân định nghĩa cũng cấu thành từ ngôn từ, mà ngôn từ lại sinh ra ngôn từ, do vậy cần phải đi tới những ví dụ riêng biệt, đến các chuỗi và trật tự của chúng, như tôi sẽ chỉ ra khi chuyển sang phương thức và con đường xác định khái niệm và tiên đề. LX Những ngẫu tượng mà ngôn từ gán cho lí tính, có hai loại. Một số - tên gọi của các vật không tồn tại (vả lại giống như có các vật không có tên gọi vì người ta không để ý tới chúng, nên cũng có những tên gọi mà ở sau chúng không có các vật, vì chúng biểu thị sự bịa đặt); số khác - tên gọi của các vật tồn tại, nhưng là tên gọi không rõ ràng, được xác định không tốt, được trừu tượng khỏi các vật một cách thiếu thận trọng và không khách quan. Loại tên gọi thứ nhất là: "số phận", "động cơ đầu tiên", "vòng tròn các hành tinh", "nguyên tố lửa" và những sự bịa đặt khác. Chúng bắt nguồn từ các lí luận trống rỗng và sai lầm. Loại bỏ loại ngẫu tượng này là dễ hơn, vì để loại bỏ chúng thì thường xuyên bác bỏ và làm cho lí luận trở nên lỗi thời là đủ. Nhưng loại ngẫu tượng khác là phức tạp và bám rễ sâu. Đây là loại sinh ra từ những sự trừu tượng tồi và thiếu kinh nghiệm. Để minh họa, chúng ta lấy một danh từ nào đó - chẳng hạn "ẩm ướt" - và xem xét các trường hợp khác nhau, được danh từ này biểu thị, có tương hợp với nhau hay không. Có cảm tưởng rằng danh từ "ẩm ướt" không phải cái gì khác mà như là sự biểu thị không rõ ràng những hành động khác nhau, không cho phép một sự hợp nhất hay quy giản nào. Nó cũng biểu thị những cái dễ dàng lan tỏa xung quanh một vật thể khác; những cái tự thân chúng không có tính ổn định; những cái chuyển động về mọi hướng; những cái dễ dàng phân chia và phân tán; những cái dễ dàng hợp nhất và tập hợp; những cái dễ dàng chảy và chuyển động; những cái dễ dàng liên kết với những vật khác và làm cho chúng ẩm ướt; những cái dễ dàng biến thành chất lỏng hay tan ra nếu trước đó chúng đã là cứng. Do vậy, nếu nảy sinh vấn đề về khả năng sử dụng danh từ này thì sau khi lấy một định nghĩa, chúng ta thấy rằng ngọn lửa là ẩm ướt, còn lấy một định nghĩa khác - không khí là không ẩm ướt. Với một định nghĩa thì hạt bụi nhỏ là ẩm ướt, với một định nghĩa khác - kính là ẩm ướt. Và như vậy chúng ta thấy hoàn toàn rõ ràng rằng, khái niệm này chỉ được trừu tượng hóa một cách không cân nhắc kĩ càng từ nước và từ các chất lỏng thông thường mà không có một sự kiểm tra thích đáng nào. Mặc dù vậy trong các danh từ vẫn có những mức độ không thích dụng và sai lầm khác nhau. Hàng loạt tên gọi của các thực thể, đặc biệt là loại thấp và loại có nguồn gốc tốt, là ít sai lầm hơn (ví dụ, các khái niệm "mật", "đất sét" là tốt, còn khái niệm "đất" là tồi); loại xấu hơn là những hành động như sản xuất, làm hư hỏng, làm thay đổi; loại xấu nhất là những chất lượng (loại trừ những trực giác cảm tính trực tiếp) như nặng, nhẹ, mỏng, cong, v.v. Thêm vào đó, trong mỗi loại, một số khái niệm tất yếu tốt hơn một ít số khác, tùy thuộc vào việc giác quan con người lĩnh hội vô số sự vật như thế nào. LXI Ngẫu tượng rạp hát không phải là tính bẩm sinh và không thâm nhập vào lí tính một cách bí ẩn, mà được công khai truyền đạt và lĩnh hội từ các lí luận bịa đặt và từ các quy tắc chứng minh sai lầm. Tuy nhiên, ý định bác bỏ chúng hoàn toàn không phù hợp với những gì chúng tôi đã nói. Vả lại nếu chúng ta không tán thành các căn cứ, các chứng minh, thì sẽ không có những nguyên cớ nào dẫn tới điều tốt đẹp hơn. Danh dự của người thời cổ không bị động chạm tới, họ không bị tước bỏ mất một cái gì, vì vấn đề chỉ có liên quan tới con đường. Như người ta nói, người thọt đi đúng đường thì nhanh hơn là kẻ chạy lạc đường. Đương nhiên là kẻ chạy lạc đường mà càng khéo léo và càng nhanh, thì sự lạc đường càng lớn hơn. Con đường khám phá các khoa học của chúng ta cho thấy nó để lại một ít cho tính sắc bén và sức mạnh của tài năng, nhưng lại dường như cào bằng chúng. Giống như tính cứng rắn, kĩ năng và sự từng trải của cái tay là rất quan trọng đối với việc kẻ đường thẳng hay vẽ đường tròn hoàn hảo, nếu chỉ hành động bằng cái tay - thì có ý nghĩa ít hay không có ý nghĩa gì, nếu sử dụng thước kẻ và compa. Với phương pháp của chúng ta cũng là như vậy. Tuy nhiên, dù những sự bác bỏ riêng lẻ ở đây là không cần thiết, cần phải nói một điều gì đó về các loại và các lớp của những thứ lí luận này. Sau đó là về các dấu hiệu bên ngoài và những điểm yếu của chúng, và cuối cùng về các nguyên nhân sự nhất trí tai hại phổ biến và kéo dài đối với sai lầm để sự tiếp cận với chân lí trở nên ít nan giải hơn để lí tính con người dễ được tẩy sạch hơn và bác bỏ các ngẫu tượng. LXII Các ngẫu tượng rạp hát hoặc lí luận là rất nhiều, chúng có thể còn nhiều hơn nữa, và một lúc nào đó chúng có thể sẽ còn nhiều hơn nữa. Nếu trong suốt nhiều thế kỉ, trí tuệ con người không bận tâm đến tôn giáo và thần học, và nếu các nhà chức trách dân sự, đặc biệt là quốc vương, không phản đối những đổi mới, thậm chí là đổi mới trừu tượng, và khi quan tâm tới những đổi mới ấy, con người không tự gây cho mình mối nguy hiểm và không làm thiệt hại phúc lợi của mình, không những không nhận được phần thưởng mà còn bị khinh rẻ và căm ghét, thì đương nhiên đã xuất hiện nhiều trường phái triết học và lí luận như một khi nào đó chúng đã phát triển rất phong phú ở người Hi Lạp. Giống như việc người ta có thể bịa đặt ra nhiều giả thuyết về hiện tượng khí ête trên trời, thì người ta lại càng có thể lập và xây dựng những giáo điều đa dạng về các hiện tượng triết học. Những bịa đặt của rạp hát này cũng như ở trong rạp hát của các nhà thơ, nơi mà các câu chuyện được nghĩ ra cho sân khấu, là hài hòa và đẹp hơn, thực ra có khả năng đáp ứng nguyện vọng của mỗi người hơn là các câu chuyện có thật được lấy ra từ lịch sử. Nội dung của triết học nói chung được hình thành theo con đường tách biệt với nhiều thứ ra từ ít thứ hay ít thứ ra từ nhiều thứ, do vậy, trong cả hai trường hợp, triết học được khẳng định trên cơ sở quá chật hẹp của kinh nghiệm và của lịch sử tự nhiên, đưa ra giải pháp nhờ căn cứ vào ít thứ hơn là cần thiết. Chẳng hạn, các nhà triết học duy lí là những người rút ra các sự kiện đa dạng và tầm thường từ kinh nghiệm mà không nhận thức chúng một cách chính xác hơn, không nghiên cứu và không cân nhắc chúng một cách cẩn thận. Họ uỷ thác mọi thứ còn lại cho sự suy ngẫm và cho hoạt động của lí trí. Sau khi hăng say và cẩn thận tiến hành một ít thực nghiệm, cũng có nhiều nhà triết học kiểu khác đã dũng cảm bịa đặt và rút ra triết học của mình từ chúng một cách kì quặc, đã xuyên tạc và lí giải mọi thứ khác có liên quan tới triết học đó. Cũng có loại các nhà triết học thứ ba, do ảnh hưởng của niềm tin và sự sùng bái, đã lẫn lộn thần học và truyền thuyết với triết học. Sự hư ảo của một số trong số những nhà triết học đó đã đạt tới mức họ tách khoa học ra từ Thần và Thần linh. Như vậy, sai lầm của triết học giả dối có ba nguồn gốc là: ngụy biện, chủ nghĩa kinh nghiệm và mê tín. LXIII Aristotle là minh họa nổi bật nhất cho loại nguồn gốc thứ nhất, ông đã làm hỏng triết học tự nhiên bằng phép biện chứng của mình, do đã xây dựng thế giới từ những phạm trù và đã gán loại ý hướng thứ hai17 cho tâm thần con người, thực thể cao quý nhất; ông xác định hành động nén chặt và làm loãng mà thông qua đó vật thể nhận được kích thước lớn hơn và nhỏ hơn hay quảng tính, bằng cách phân biệt một cách vô hồn giữa hiện thực và tiềm năng; ông khẳng định rằng, mỗi vật đều có sự chuyển động duy nhất của riêng nó, nếu vật thể tham gia vào chuyển động khác, thì nguồn gốc của chuyển động này nằm trong vật thể khác; và ông đã gán rất nhiều thứ khác cho tự nhiên theo ý của mình. Ông luôn quan tâm nhiều hơn tới việc có câu trả lời cho mọi thứ và diễn tả một điều gì đó bằng lời hơn là quan tâm tới chân lí nội tại của các sự vật. Điều này bộc lộ rõ nhất khi so sánh triết học của ông với các thứ triết học khác đã được người Hi Lạp ca ngợi. Trên thực tế, "những thực thể tương tự nhau" (homoiomera - các chất đồng nhất, các bộ phận tương tự - N.D) ở Anaxagoras, nguyên tử ở Leucippus và Democritus, đất và trời ở Parmenides, xung đột và tình bạn ở Empedocles, sự chia rẽ các vật trong bản chất thờ ơ của lửa và sự quay về trạng thái nén chặt của chúng ở Heraclitus - tất cả những thứ đó đều bao hàm một cái gì đó của triết học tự nhiên, nhắc tới bản chất của các sự vật, tới kinh nghiệm, tới các vật thể. Còn trong vật lí học Aristotle không có một cái gì khác ngoài âm hưởng của những danh từ biện chứng. Trong siêu hình học của mình, ông nhắc lại điều đó dưới tên gọi kêu hơn, dường như là ông muốn phân tích các sự vật, chứ không phải các danh từ. Hãy để cho ai đó không bị luống cuống khi thường thấy ông ta viện dẫn vào kinh nghiệm trong các tác phẩm về động vật, Các vấn đề và các tiểu phẩm khác của ông. Vì giải pháp của ông đã được thông qua từ trước, và ông không dựa vào kinh nghiệm như cần thiết để xác lập ý kiến và tiên đề của mình; nhưng, ngược lại, sau khi tùy tiện xác lập các luận điểm của mình, ông lôi kéo kinh nghiệm đã bị xuyên tạc, giống như tù nhân, về với ý kiến của mình. Như vậy, xét về phương diện này, cần buộc tội ông nhiều hơn các môn đệ mới của ông (kiểu như các nhà triết học kinh viện), những người hoàn toàn khước từ kinh nghiệm. LXIV Trường phái triết học kinh nghiệm chủ nghĩa còn đưa ra phán đoán quái đản và vô lí hơn so với trường phái ngụy biện và trường phái duy lí vì các phán đoán này không dựa vào ánh sáng của những khái niệm thông thường (mà cho dù là yếu kém và hời hợt, nhưng vẫn mang tính phổ biến theo một cách nào đó và quan hệ với nhiều cái) mà dựa vào sự thiển cận và rối rắm của một ít kinh nghiệm. Và chính thứ triết học như vậy lại có cảm tưởng là có thể và dường như là hiển nhiên đối với những người hằng ngày nghiên cứu những kinh nghiệm kiểu đó và nhờ chúng mà xuyên tạc trí tưởng tượng của mình; nó dường như là không thể và trống rỗng đối với những người khác. Các nhà hóa học và học thuyết của họ là minh họa tiêu biểu cho điều đó. Điều ấy vị tất còn thấy ở những người khác bây giờ, có lẽ chỉ có trong triết học Gilbert. Nhưng không nên coi thường tính thận trọng nhằm chống lại triết học như vậy. Vì tôi đã cảm nhận thấy trước và nói trước rằng nếu những người được những chỉ dẫn của chúng tôi kích thích và đoạn tuyệt với các học thuyết ngụy biện, nghiêm túc nghiên cứu kinh nghiệm, thì khi đó, do có sự sốt sắng quá sớm và vội vàng của lí tính và do nó muốn vươn tới cái chung và tới các bản nguyên của sự vật, có thể sẽ xuất hiện mối nguy hiểm lớn từ loại triết học ấy. Ngay bây giờ chúng ta cần phải ngăn chặn tai họa ấy. LXV Phát sinh do có sự pha trộn của mê tín hay của thần học, việc xuyên tạc triết học còn tiến xa hơn nữa và đem lại tai họa lớn hơn nữa cho toàn bộ các thứ triết học và cho những bộ phận của chúng. Vả lại lí tính con người chịu ảnh hưởng của sự bịa đặt không ít hơn so với ảnh hưởng của các khái niệm thông thường. Triết học mê tín và triết học ngụy biện làm cho lí tính rối bời lên, còn triết học khác, triết học có đầy rẫy những sự bịa đặt và giống như thi ca, còn làm cho nó hài lòng hơn nữa. Vì tính háo danh của lí tính trong con người không hề ít hơn so với tính háo danh của ý chí, đặc biệt là ở những tài năng sâu sắc và cao cả. Chúng ta nhận thấy ví dụ điển hình như vậy ở người Hi Lạp, đặc biệt là ở Pythagoras; nhưng triết học ở ông bị lẫn lộn với mê tín thô thiển và thái quá. Điều này được trình bày tinh vi và nguy hiểm hơn ở Plato và ở trường phái của ông. Nó cũng hiện diện cả trong một số bộ phận khác của các triết học khác - ở nơi mà người ta đưa ra những hình thức trừu tượng, những nguyên nhân tối hậu, những nguyên nhân đầu tiên, ở nơi mà người ta rất hay giả định những nguyên nhân ở giữa, v.v. Có thể cần phải đề phòng hơn nữa điều này. Việc tán dương những sai lầm là một công việc rất tai hại, việc sùng bái điều hư vô là tương đương với bệnh dịch hạch của lí tính. Tuy nhiên, sau khi đắm mình vào cái hư vô này, một số nhà triết học mới18 đã rất nhẹ dạ đi theo con đường cố gắng luận chứng triết học tự nhiên ở chương đầu của cuốn sách về Tồn tại, trong cuốn sách của Job và các sách kinh khác. Họ tìm kiếm cái chết trong cái sống, cần phải kiềm chế và trấn áp tính hư vô này hơn nữa, vì không những triết học hão huyền mà cả tà giáo được rút ra từ sự lẫn lộn điên rồ giữa thần thánh và con người. Do vậy sẽ là nguy hiểm nếu lí trí tỉnh táo lại chỉ dành cho niềm tin những gì thuộc về nó. LXVI Chúng ta đã nói đầy đủ về những ưu điểm đáng hoài nghi của các thứ triết học hoặc dựa trên những khái niệm thông thường, hoặc dựa trên một số ít kinh nghiệm, hoặc dựa trên mê tín. Đã đến lúc cần phải nói về đối tượng sai lầm của những suy luận, đặc biệt là trong triết học tự nhiên. Vì lí tính con người nhiễm phải việc trực giác những gì diễn ra trong các nghệ thuật máy móc, nơi mà các vật thể thường biến đổi theo con đường hợp nhất hay phân chia, và giả định dường như một điều tương tự cũng diễn ra trong bản chất chung của các sự vật. Từ đó đã xuất hiện sự bịa đặt về các nguyên tố và về sự hợp nhất của chúng để cấu thành những vật thể tự nhiên19. Mặt khác, nếu con người trực giác về giới tự nhiên trong trạng thái tự do của nó, con người sẽ bắt gặp các loại sự vật, các loài động vật, thực vật và khoáng vật. Từ đó con người dễ dàng có thiên hướng kết luận rằng, các hình thức phát sinh nào đó của sự vật tồn tại trong tự nhiên, tự nhiên cố tái tạo chúng, rằng mọi tính đa dạng còn lại của các sự vật sinh ra từ những trở ngại và những sự đi chệch nảy sinh trong quá trình sáng tạo ra giới tự nhiên, hay do xung đột giữa các loài khác nhau và do cấy một loài này vào loài khác. Ý kiến thứ nhất làm nảy sinh tư tưởng về các chất lượng đơn giản phát sinh, ý kiến thứ hai - tư tưởng về những thuộc tính ẩn giấu và những năng lực đặc biệt20. Cả hai ý kiến ấy đều là những lời triết lí hão trống rỗng, trong đó tinh thần được an ủi và từ bỏ một tri thức vững chắc hơn. Tuy nhiên, các nhà у học đã đem lại một điều tốt đẹp hơn khi nói về những phẩm chất thứ sinh và các tác động của sự vật: sự hút, sự đẩy, sự phân chia, sự uốn cong, sự mở rộng, sự co bóp, sự đốt nóng, v.v. Họ đã kịp làm được nhiều hơn, nếu hai sự bịa đặt nêu trên - về các phẩm chất đơn giản và các năng lực đặc biệt - không làm hỏng những gì mà họ vạch ra một cách đúng đắn đối với các phẩm chất thứ sinh, nếu người ta không quy các phẩm chất thứ sinh về các phẩm chất phát sinh và sự pha trộn vô cùng tinh vi của chúng, nếu sự quan sát hăng hái hơn nữa đã đưa họ tới các phẩm chất cấp độ thứ ba và thứ tư, thay vì chấm dứt trước thời hạn công việc nghiên cứu. Cần phải tìm kiếm các chất lượng như vậy (tôi không nói về chính các chất lượng ấy) không những trong những phương thức chữa bệnh cho cơ thể con người mà cả trong những sự biến đổi của các vật thể tự nhiên khác. Một tai họa còn lớn nữa bắt nguồn từ chỗ người ta trực giác và nghiên cứu các cơ sở đứng im của sự vật, chứ không phải các cơ sở chuyển động mà sự vật sinh ra từ đó. Vì người ta đề cập tới ngôn từ, chứ không phải tới tác động. Những chuyển động khác nhau quen thuộc, được biết tới trong triết học tự nhiên phổ biến, là không có ý nghĩa gì - đó là sự xuất hiện, sự hủy diệt, sự tăng lên, sự giảm bớt, sự biến đổi và sự dịch chuyển. Trên thực tế, chúng có nghĩa sau đây. Nếu vật thể không biến đổi về một cái gì khác, nhưng rời khỏi vị trí thì đó là sự dịch chuyển. Nếu nó đứng ùn ở vị trí của mình và dưới hình thức của mình, nhưng lại thay đổi trạng thái của mình, thì đó là sự biến đổi. Nếu bản thân khối lượng và số lượng của vật thể thay đổi khi biến đổi, thì đó là chuyển động tăng lên hay giảm bớt. Nếu các vật thay đổi tới mức bản thân hình thức và bản chất của chúng thay đổi và chúng biến thành các vật thể khác, thì đó là sự xuất hiện và hủy diệt. Nhưng tất cả những điều đó đã bị đơn giản hóa rất nhiều và không thâm nhập vào giới tự nhiên, vì đó chỉ là mức độ và các giai đoạn, chứ không phải là các hình thức chuyển động. Chúng chỉ cho thấy tới mức độ nào, chứ không phải như thế nào hay từ nguồn gốc nào. Chúng hoàn toàn không cho thấy định hướng của các vật, sự dịch chuyển các bộ phận của chúng, mà chỉ cho thấy chuyển động thể hiện cho cảm giác sự vật đã trở nên khác đi như thế nào, mà chỉ xác lập sự phân định của mình. Còn khi các nhà triết học này muốn giải thích một điều gì đó về nguyên nhân của chuyển động và dựa trên cơ sở đó để xác lập sự phân định giữa chúng, thì họ lại phân biệt một cách rất cẩu thả giữa chuyển động tự nhiên và chuyển động cưỡng bức21. Sự phân biệt này cũng hoàn toàn được quy về quan niệm tầm thường, vì mọi chuyển động cưỡng bức cũng là một điều tự nhiên: tác động bên ngoài bắt buộc bản chất của sự vật hành động theo một cách khác so với trước kia. Sau khi từ bỏ tất cả những điều đó, nếu ai đó nhận thấy rằng các vật thể có xu hướng tiếp xúc với nhau, một sự tiếp xúc không cho phép làm đứt đoạn và phá tan sự thống nhất của giới tự nhiên và sự hình thành khoảng không; hay nói rằng các vật thể có xu hướng chuyển biến về kích thước và độ dài tự nhiên của mình, do vậy chúng sẵn sàng chuyển biến về thể tích và độ dài truớc đây của chúng khi bị nén lại hay dãn ra; hay nói rằng các vật thể có xu hướng hợp nhất với vật thể có cùng bản chất, mà chính là vật thể cứng - với trái đất, vật thể mềm - với bầu trời bao quanh, thì người đó sẽ chỉ ra loại chuyển động vật lí. Còn những chuyển động nêu trên chỉ là chuyển động logic và kinh viện, chính điều đó trở nên hiển nhiên từ sự so sánh ấy. Một tai họa không nhỏ hơn là ở chỗ, trong triết học và trong những suy luận của mình, họ nỗ lực nghiên cứu bản nguyên của các sự vật và cơ sở tối hậu của tự nhiên, trong khi đó thì toàn bộ ích lợi và hiệu quả thực tiễn là ở các tiên đề trung gian. Từ đó người ta tiếp tục trừu tượng hóa khỏi giới tự nhiên cho tới khi đi tới vật chất tiềm tàng, vô định hình; và không ngừng phân chia giới tự nhiên cho tới khi đi tới nguyên tử. Và nếu chúng thậm chí là có thực, thi họ cũng không giúp ích được gì nhiều cho phúc lợi của con người. LXVII Cũng cần phải đề phòng lí tính nhằm chống lại thái độ không ôn hòa mà các nhà triết học biểu thị sự đồng thuận hay bất đồng của mình về một điều gì đó. Vì thái độ không ôn hòa như vậy rõ ràng là củng cố các ngẫu tượng và dường như giữ nguyên mãi mãi chúng, do vậy không thể bác bỏ được chúng. Có hai thái cực sai lầm. Rơi vào một thái cực là những người dễ dàng đi tới các lời khẳng định tối hậu và làm cho khoa học trở thành khống luận và giáo điều. Rơi vào thái cực khác là những người sử dụng những lập luận mập mờ. Loại sai lầm thứ nhất chèn ép lí tính, loại sai lầm thứ hai làm suy yếu chúng. Ví dụ, triết học Aristotle đã tiêu diệt các triết học khác bằng những lời bác bỏ mang tính luận chiến của mình, giống như điều Hoàng đế Ottmans đã hành động với những người anh em của ông, vì nó đưa ra giải pháp cho mọi thứ trên đời này. Bản thân nó lại đặt ra các vấn đề, giải quyết chúng theo cách nhìn nhận của mình, do vậy tất cả mọi thứ hóa ra đều hiển nhiên và rõ ràng. Điều này giữ nguyên hiệu lực và được các môn đệ của ông ta áp dụng. Trường phái Plato đã sử dụng phương pháp tranh biện lúc đầu là để giải trí và chế nhạo, do có thái độ căm ghét phái ngụy biện cổ - Protagoras, Hippias, v.v., những người sợ nhất bị coi là những người hoài nghi một cái gì đó. Viện Hàn lâm mới đã nâng phương pháp tranh biện lên thành giáo điều và công khai tuyên bố nó. Mặc dù điều đó là đáng trân trọng hơn việc đưa ra những giải pháp tùy tiện, vì bản thân họ nói về mình rằng, khác với Pyrrho và phái Ephectici22, họ không bác bỏ nghiên cứu, mà theo dõi những gì được coi là có thể, thực ra lại không coi cái gì là chân thực cả, song dẫu sao, khi cố gắng tìm ra chân lí, tinh thần con người vẫn trở nên ít tích cực hơn. Từ đó người ta có thiên hướng tranh luận và đối thoại hấp dẫn, mò mẫm đi từ vấn đề này tới vấn đề khác, chứ ít có thiên hướng nghiên cứu chặt chẽ. Nhưng, như chúng tôi đã nói lúc ban đầu và thường xuyên nói, không nên coi thường lí tính và cảm tính của con người, cho dù chúng có yếu kém đến đâu đi chăng nữa, mà cần phải trợ giúp chúng. LXVIII Như vậy, chúng ta đã nói về các loại ngẫu tượng và những biểu hiện của chúng. Tất cả chúng cần bị bác bỏ và loại bỏ bằng một quyết định cứng rắn và dứt khoát, và lí tính cần được giải phóng và tẩy rửa hoàn toàn khỏi chúng. Hãy để cho con đường đi vào "vương quốc của con người, vương quốc dựa vào các khoa học, giống như là con đường đi vào Thiên đàng mà "không cho phép ai đi vào nếu họ không giống như những đứa trẻ ngây thơ"". LXIX Những chứng minh sai lầm dường như thực chất là bảo vệ và che đậy các ngẫu tượng. Những chứng minh mà chúng ta bắt gặp trong phép biện chứng, hoàn toàn được quy về chỗ bắt thế giới phục tùng những triết lí hão của con người, còn những triết lí hão này - phục tùng ngôn từ. Trong khi đó, xét về sức mạnh của minh thì bản thân chứng minh thực chất là triết học và tri thức. Bởi vì dù chúng là như thế nào - được xây dựng đúng hay sai - thì triết học và trực giác suy ra từ đó, cũng là như vậy. Những chứng minh sai lầm và ngu xuẩn là những chứng minh mà chúng ta sử dụng trên con đường dẫn từ sự vật và cảm giác tới tiên đề và kết luận. Con đường này cấu thành từ bốn bộ phận và cũng có bấy nhiêu khiếm khuyết. Thứ nhất, những ấn tượng của bản thân cảm giác là sai lầm, vì cảm giác đánh lừa và làm cho chúng ta mắc phải sai lầm. Do vậy, cần phải sửa chữa những cái dẫn tới sai lầm và đề phòng những cái đánh lừa. Thứ hai, những khái niệm được trừu tượng hóa nghèo nàn từ ấn tượng của cảm giác, không chắc chắn và rối rắm, trong khi chúng phải là chắc chắn và được phân định rõ ràng. Thứ ba, phép quy nạp không tốt là phép quy nạp kết luận về các cơ sở của khoa học bằng cách liệt kê đơn giản, không tính đến những ngoại lệ và những phân chia hay phân định mà giới tự nhiên đòi hỏi. Cuối cùng, nguồn gốc của những sai lầm và tai họa của mọi khoa học là phương thức khám phá và kiểm tra mà lúc đầu những cơ sở chung nhất được xây dựng, sau đó những tiên đề trung gian được làm cho thích hợp với chúng và được kiểm tra thông qua chúng. Bây giờ chúng tôi chỉ đề cập sơ qua về điều này; chúng tôi sẽ nói nhiều hơn sau khi hoàn toàn chỉnh lí và làm trong sạch trí tuệ, chỉ ra phương pháp đúng đắn để nghiên cứu tự nhiên. LXX Tốt đẹp nhất trong mọi chứng minh là kinh nghiệm, nếu nó bắt nguồn từ thí nghiệm. Vì nếu nó được chuyển sang cái khác tương tự, và sự dịch chuyển này không được tiến hành thoả đáng, thì kinh nghiệm sẽ trở nên hão huyền. Nhưng phương thức sử dụng kinh nghiệm mà hiện nay người ta đang áp dụng, là mù quáng và không hợp lí. Vì họ đi lang thang và mò mẫm mà không có một con đường đúng đắn nào và chỉ phục tùng những sự vật họ bắt gặp, họ quan tâm tới nhiều thứ, nhưng không tiến lên được là bao. Đôi khi họ rất nỗ lực, đôi khi lại rất quẫn trí, và luôn tìm thấy đối tượng để tiếp tục tìm tòi. Có thể nói rằng, người ta nhẹ dạ và hồ hởi tiến hành thí nghiệm, dễ dàng thay đổi những thí nghiệm đã biết, và nếu công việc không suôn sẻ, họ sẽ ngán ngẩm và chấm dứt thí nghiệm. Nhưng, thậm chí nếu họ tiến hành thí nghiệm một cách có tính toán hơn, thường xuyên và cần mẫn hơn, thì họ cũng vẫn dồn công việc của mình cho một thí nghiệm nào đó, ví dụ, Gilbert - cho nam châm, các nhà giả kim - cho vàng. Lối hành động như thế của con người vừa ngu dốt vừa vô bổ. Không ai tìm thấy được bản chất của sự vật trong bản thân sự vật - sự tìm tòi cần được mở rộng đến cái chung hơn. Còn nếu họ cố tách một khoa học hay một học thuyết nào đó ra từ thí nghiệm, thì họ lại hướng vào thực tiễn một cách quá vội vàng và không đúng lúc. Họ hành động như vậy không hẳn để nhận được lợi ích và lợi nhuận bằng con đường đó mà chủ yếu để chứng minh trong một công việc mới rằng họ cũng có thể nghiên cứu cái khác một cách hữu ích, và cũng để thể hiện bản thân với người khác và đánh giá cao việc làm của chính mình. Giống như vận động viên điền kinh, như vậy là họ rời bỏ đường chạy để nhặt lấy quả táo vàng, qua đó chấm dứt cuộc chạy của mình và để tuột mất chiến thắng. Mọi người đều phải coi sự sáng suốt và trật tự của Chúa làm mẫu mực trên con đường đúng đắn của kinh nghiệm, khi đưa nó tới những sáng tạo mới. Trong ngày đầu sáng tạo Thượng đế chỉ tạo ra ánh sáng, dành hẳn một ngày cho việc này chứ không tạo ra một vật thể nào trong ngày hôm đó. Hệt như vậy, cần phải dựa vào kinh nghiệm phong phú để khám phá ra những nguyên nhân và tiên đề chân thực, cần phải tìm tòi các kinh nghiệm soi sáng chứ không phải những kinh nghiệm có lợi. Những tiên đề được phát hiện và xác lập đúng đắn sẽ trang bị cho thực tiễn không phải một cách hời hợt mà một cách sâu sắc và kéo theo vô số chỉ dẫn thực tiễn. Nhưng chúng ta sẽ nói sau về các phương pháp kinh nghiệm bị chặn lại và nan giải không kém gì các phương pháp phán đoán. Ở đây, chúng ta chỉ nói tới kinh nghiệm thông thường như là những chứng minh sai lầm. Hiện tại, trật tự của các sự vật đòi hỏi chúng ta phải gắn với trật tự ấy một điều gì đó về các dấu hiệu (mà chúng tôi đã nhắc tới) chứng tỏ việc sử dụng sai lầm triết học và lí luận, về các nguyên nhân của hiện tượng ấy mà thoạt nhìn có cảm tưởng là rất kì quặc và khó tin. Vả lại sự hiểu biết về các dấu hiệu, hay các chỉ dẫn, sẽ chuẩn bị sự nhất trí, còn sự giải thích các nguyên nhân sẽ loại bỏ phép mầu giả tạo. Cả hai điều ấy góp phần đáng kể cho việc loại bỏ dễ dàng và bình tĩnh các ngẫu tượng khỏi lí tính. LXXI Các khoa học hiện nay dường như đều có nguồn gốc Hi Lạp. Những gì mà các nhà văn La Mã, Arập hay các nhà văn hiện nay bổ sung, là không nhiều, và không có ý nghĩa quan trọng23, và cho dù những thứ ấy có là gì đi chăng nữa, thì chúng cũng đều dựa vào những cái đã được người Hi Lạp phát hiện ra. Nhưng sự thông thái của người Hi Lạp là sự thông thái hàn lâm và bị phung phí trong các cuộc tranh luận, còn loại thông thái này trái ngược nhất với việc nghiên cứu chân lí. Do vậy, người ta đã gán một cách khinh bỉ tên gọi "ngụy biện" cho những người muốn tự coi mình là nhà triết học, cho các nhà hùng biện cổ đại - Gorgias, Protagoras, Hippias, Polus, - là hoàn toàn thích hợp cho tất cả - Plato, Aristotle, Zeno, Epicurus, Theophrastus, và các môn đệ của họ - Chrysippus, Carneades, v.v. Sự khác biệt chỉ là ở chỗ loại các nhà ngụy biện thứ nhất là những người đi lang thang và làm thuê: họ đi tới các thành phố, phô trương sự thông thái của mình và yêu cầu đuợc trả tiền; loại các nhà ngụy biện khác là những người giàu có và cao thượng hơn, vì họ có nơi cư trú ổn định, mở các trường dạy học và dạy rất tài tình triết học của mình. Nhưng cả hai loại này, dù là khác nhau về nhiều phương diện, đều gồm những người thuyết giáo. Họ quy công việc về các cuộc tranh luận, xây dựng và bảo vệ các trường phái và các khuynh hướng nào đó trong triết học, do vậy học thuyết của họ giống như "lời nói của người già ăn không ngồi rồi dành cho thanh niên chưa từng trải", như Dionysius đã chế nhạo rất hay Plato24. Nhưng các nhà triết học Hi Lạp cổ nhất - Empedocles, Anaxagoras, Leucippus, Democritus, Parmenides, Heraclitus, Xenophanes, Philolaus và những người khác (chúng tôi bỏ qua Pythagoras do sự mê tín của ông), như chúng ta đã biết, đã không xây dựng trường phái, nhưng đã hiến mình cho việc tìm tòi chân lí một cách khiêm tốn, nghiêm ngặt và giản dị hơn, nghĩa là ít tự phụ và ít phô trương hơn. Chính vì vậy họ, như chúng tôi giả định, đã đạt được nhiều thứ hơn. Chỉ có tác phẩm của họ dần dần đã bị thay thế bằng các tác phẩm hời hợt hơn, phù hợp và thích hợp hơn với hiểu biết và thị hiếu thông thuờng, vì thời gian, giống như dòng sông, đem đến cho chúng ta những cái nhẹ nhàng và phình lên, còn hấp thụ những cái nặng và cứng. Nhưng cả các nhà triết học này cũng không hoàn toàn thoát khỏi khiếm khuyết của dân tộc của họ: họ quá háo danh và uổng công thành lập các trường phái, tìm kiếm vinh quang trong nhân dân. Không nên hi vọng tìm kiếm chân lí khi người ta có thiên hướng về những điều hư vô như vậy. Và cũng không nên lãng quên lời phán xét nổi tiếng, hay thực ra là lời tiên tri của một nhà thông thái Ai Cập về người Hi Lạp: "Họ luôn là những đứa trẻ và không nắm bắt được cả tính cổ xưa của khoa học lẫn khoa học cổ xưa".25 Họ thật sự ngây thơ: họ vội vàng bàn luận suông nhưng không thể sáng tạo. Sự thông thái của họ rất phong phú về ngôn từ nhưng lại vô bổ trong công việc. Ví dụ, những chỉ dẫn bất lợi là những chỉ dẫn cho phép phán đoán về thứ triết học hiện người ta đang sử dụng, những chỉ dẫn nhận được nhờ dựa vào các nguyên tắc và nguồn gốc của triết học ấy. LXXII Những chỉ dẫn, hay những dấu hiệu có thể được người ta rút ra từ bản chất của thời gian và của thế kỉ tốt hơn ít nhiều so với những gì được rút ra từ bản chất của vị trí và của dân tộc. Vì tri thức ở thời đại ấy là yếu kém và hạn chế trong cả thời gian lẫn không gian, mà điều này tồi tệ hơn cả đối với những ai hoàn toàn tin cậy vào kinh nghiệm. Người Hi Lạp không có lịch sử nghìn năm, xứng đáng với tên gọi lịch sử, mà chỉ có những truyện cổ tích và tin đồn về thời cổ xưa. Họ chỉ biết tới một số ít các nước và các vừng trên thế giới, gọi tất cả những người sống ở miền bắc là Scythian, những người sống ở miền tây là Celts. Ở châu Phi, họ không biết gì xa hơn vùng gần nhất của Ethiopia, ở châu Á - không có gì xa hơn Hằng Hà. Hơn nữa họ lại hoàn toàn không biết gì về các vùng Tân thế giới, dù là nhờ tin đồn xác định và đáng tin cậy nào đó. Hơn nữa, nhiều khí hậu và khu vực trong đó vô số dân tộc hít thở và sinh sống, được họ tuyên bố là nơi không có người sinh sống; cuối cùng, những cuộc chu du của Democritus, Plato, Pythagoras là hoàn toàn chẳng phải xa xôi gì, mà thực ra là ở ngoại ô, lại được họ tuyên bố là một cái gì đó lớn lao. Hiện nay, chúng ta biết tới nhiều vùng của Tân thế giới cùng những vùng xa xôi nhất của Cựu thế giới và khối lượng kinh nghiệm đã tăng lên vô kể. Do vậy, giống như các nhà thiên văn học, nếu chúng ta lí giải những dấu hiệu tương ứng nhờ căn cứ vào thời gian bắt nguồn hay ra đời của các triết học ấy thì chúng ta sẽ không phát hiện ra một điều gì đáng kể đối với chúng. LXXIII Trong những chỉ dẫn, hay những dấu hiệu, không có chỉ dẫn nào đáng tin cậy và đáng quan tâm hơn là các thành quả được đem lại. Vì các thành quả và các phát minh thực tiễn thực chất là cái bảo đảm và vật chứng cho tính chân thực của các triết học. Từ mọi triết học và từ các khoa học chuyên ngành bắt nguồn từ các triết học ấy, trong suốt bấy nhiêu năm, chắc gì có thể dẫn ra được một kinh nghiệm đã làm nhẹ bớt và cải thiện được tình cảnh của con người, và thực sự có thể gán cho những lập luận và các học thuyết triết học. Celsus đã thừa nhận công khai và thành thật điều đó khi nói rằng у học lần đầu tiên đã phát hiện ra các kinh nghiệm, còn sau đó người ta mới bắt đầu bàn luận về chúng, tìm kiếm và gán các nguyên nhân cho chúng, chứ không phải là ngược lại - phát hiện ra và khai thác kinh nghiệm từ triết học và từ bản thân tri thức về các nguyên nhân. Do vậy, một điều hiển nhiên là người Ai Cập, những người gán tính thần thánh và thiêng liêng cho các nhà sáng chế, đã có nhiều hình vẽ về động vật không có trí khôn hơn là về con người, vì động vật không có trí khôn đã phát hiện ra nhiều thứ nhờ những kích thích tự nhiên, còn với lời nói và suy luận của mình thì tạo ra được ít thứ hay không tạo ra gì. Hoạt động của các nhà giả kim đã đem lại một cái gì đó, nhưng dường như là một cách ngẫu nhiên và thoáng qua hay nhờ cải biến kinh nghiệm (như các nhà cơ giới hay làm), chứ không phải nhờ một nghệ thuật hay lí luận nào đó. Vì lí luận mà họ bịa đặt ra, đem lại nhiều sự rối rắm vào các kinh nghiệm hơn là thúc đẩy chúng. Cũng như những người đắm mình vào cái gọi là ma thuật tự nhiên, đã phát hiện ra ít thứ, và ma thuật ấy vừa không nghiêm túc, vừa giống với trò bịp bợm. Giống như tôn giáo ấn định trước để niềm tin bộc lộ ra trong công việc, thì điều ấy cũng được áp dụng một cách tốt nhất cả vào triết học: cần phải phán xét về nó nhờ căn cứ vào các kết quả và coi triết học vô tích sự là thứ triết học không có kết quả, đặc biệt nếu thay vì quả nho và ôliu, nó lại đem lại những cuộc tranh luận và xung đột gây ra đau khổ và thương tích. LXXIV Cũng cần phải rút ra những chỉ dẫn từ sự lớn mạnh và phát triển của triết học và của các khoa học. Vì những gì dựa vào giới tự nhiên thì sẽ lớn mạnh và phát triển, còn những gì dựa vào dư luận thì sẽ biến đổi nhưng không tăng trưởng. Do vậy, nếu các học thuyết ấy không giống như cái cây bị chặt mất gốc rễ, mà bám chặt lấy cái gốc - giới tự nhiên và được nó nuôi dưỡng, thì hoàn toàn không có những gì mà chúng ta nhận thấy là đã diễn ra trong suốt hai nghìn năm: các khoa học không ra khỏi chỗ đứng của nó, dường như vẫn chỉ ở một trạng thái và tiến bộ không đáng kể; ở các nhà sáng lập đầu tiên chúng thậm chí đã đạt được nhiều đỉnh cao, sau đó đã bị suy thoái. Trong các nghệ thuật cơ học mà cơ sở của chúng là giới tự nhiên và ánh sáng của kinh nghiệm thì chúng ta nhận thấy điều ngược lại đang diễn ra. Các nghệ thuật cơ học (kể từ khi chúng thu hút được sự chú ý), dường như chứa đầy sinh khí của mình, thường xuyên được kiện toàn và tăng trưởng. Trong sự tăng trưởng không ngừng của mình, lúc đầu chúng có vẻ là thô thiển nhưng sau đó được đánh giá là hữu ích và cuối cùng bắt đầu được tôn trọng. LXXV Cần phải xem xét một chỉ dẫn nữa, nếu có thể gọi nó là chỉ dẫn, vì đây thực ra là bằng chứng, hơn nữa lại là bằng chứng mạnh nhất. Đây là sự tự thừa nhận của các tác giả mà hiện nay người ta đang nối tiếp. Vả lại thậm chí cả những người phán xét một cách rất tin tưởng về các sự vật, vẫn phàn nàn về tính tinh tế của tự nhiên, tính rối rắm của các sự vật và tính yếu đuối của lí tính con người khi họ dần dần trở nên tỉnh táo. Và nếu điều đó diễn ra một cách đơn giản, thì có thể tách một số người sợ hãi nhất ra khỏi việc tìm tòi tiếp theo, kích thích và cổ vũ những người dũng cảm và tỉnh táo hơn tiếp tục tiến lên. Nhưng họ không thoả mãn với sự tự thừa nhận ấy, bỏ qua tất cả những gì mà họ hay bậc thầy của họ chưa nhận thức được hay chưa động chạm tới, dựa trên tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm của mình, họ tuyên bố rằng không thể nhận thức hay thực hiện được điều đó. Như vậy là họ đã cực kì ngạo mạn và căm thù cao độ, biến điểm yếu trong các khám phá của mình thành lời vu khống chống lại bản thân tự nhiên và thành sự thoái chí của những người khác. Chính trường phái Viện Hàn lâm mới đã xuất hiện từ đó, nó công khai tuyên bố phương pháp tranh biện và kết án con người phải chịu sự ngu dốt mãi mãi. Từ đó cũng nảy sinh ý kiến cho rằng, không thể phát hiện ra các hình thức hay các sự khác biệt thật sự của sự vật mà thực chất là các quy luật của hành động thuần tuý; rằng, chúng nằm ngoài khả năng của con người. Từ đó cũng xuất hiện luận điểm trong lĩnh vực hành động và thực tiễn cho rằng, sức nóng của mặt trời hoàn toàn khác với sức nóng của lửa, tức con người không nên nghĩ dường như nhờ lửa mà có thể tách biệt hay hình thành một cái gì đó giống như những gì diễn ra trong tự nhiên. Từ đó cũng nảy sinh luận điểm: chỉ có sự sắp xếp là công việc của con người, còn sự pha trộn là công việc của giới tự nhiên thống nhất26, tức là con người không nên hi vọng nhờ khoa học mà tạo ra hay cải biến được một vật thể tự nhiên. Như vậy, bằng chứng ấy dễ dàng thuyết phục mọi người rằng, họ không nên hợp nhất số phận và lao động của mình với các học thuyết không những không đáng tin cậy mà còn được hiến dâng cho cái không đáng tin cậy. LXXVI Cũng không nên bỏ qua một chỉ dẫn khác cho rằng, các nhà triết học có nhiều mâu thuẫn như vậy và bản thân các trường phái lại đa dạng như thế. Điều ấy đủ nói lên rằng, con đường dẫn từ cảm tính đến lí tính là không đủ tin cậy, vì cùng một đối tượng của triết học (mà chính là bản chất của các sư vật) đã bị rút ra và bị phân chia ra thành các bộ phận một cách tù mù và lầm lẫn tới như vậy. Và mặc dù hiện nay những bất đồng và mâu thuẫn giữa các học thuyết về bản thân các cơ sở và các hệ thống triết học đã dịu xuống đáng kể, song vẫn còn lại vô số vấn đề và cuộc tranh luận về các bộ phận riêng biệt của triết học. Mà điều này, chứng tỏ rõ ràng rằng không có gì đáng tin cậy hay lành mạnh cả trong bản thân các triết học, lẫn trong phương thức chứng minh. LXXVII Người ta cho rằng triết học Aristotle đem lại sự đồng thuận lớn trong nhiều trường hợp vì, sau khi nó xuất hiện, các triết học cổ hơn đã chấm dứt phát triển và đã bị lãng quên, còn ở các thời kì mà người phục tùng nó thì không có gì tốt đẹp hơn được phát hiện ra; như vậy triết học này được xây dựng và luận chứng tốt tới mức đã chinh phục được cả quá khứ lẫn tương lai. Nhưng, thứ nhất, một sai lầm là người ta nghĩ tới sự chấm dứt các triết học cổ sau khi các tác phẩm của Aristotle ra đời. Tác phẩm của các nhà triết học cổ đã có từ rất lâu trước thời Cicero và trước các thế kỉ nối tiếp nó. Nhưng muộn hơn, vì lí do người man rợ tấn công Đế chế La Mã, khoa học nhân loại dường như bị đắm tàu, khi đó triết học Anstotle và triết học Plato mới được dòng chảy thời gian giữ lại, giống như tấm ván được làm từ vật liệu nhẹ hơn và cứng hơn. Nếu xem xét vấn đề kĩ hơn thì người ta cũng bị lừa dối về sự đồng thuận. Vì sự đồng thuận thật sự là ở sự trùng hợp giữa những phán đoán tự do sau khi vấn đề đã được nghiên cứu. Nhưng phần lớn những người nhất trí với triết học Aristotle đều phục tùng nó vì quyết định đã có từ trước và vì quyền uy của người khác. Đây thực ra là vâng lời và phục tùng hơn là nhất trí. Nhưng, thậm chí nếu đây là sự nhất trí thật sự và rộng rãi, thì sự nhất trí không những không nên được coi là quyền uy đáng tin cậy, mà ngược lại, được sử dụng như là luận cứ hùng hồn cho ý kiến đối lập. Sự đồng thuận chung là triệu chứng xấu nhất trong công việc của lí tính, không kể công việc tôn giáo và chính trị là nơi có quyền phát ngôn. Vì đa số chỉ thích cái khuất phục trí tưởng tượng và xâm chiếm trí tuệ nhờ sự đan kết những khái niệm thông thường, như đã nói ở trên. Do vậy, cái rất phù hợp với công việc của lí tính là điều mà Phocion đã nói về tập quán: "Những người được nhiều người nhất trí và thoả mãn, thì ngay lập tức phải kiểm tra xem mình có sai lầm và mắc tội gì không"27. Dấu hiệu này là dấu hiệu xấu nhất. Như vậy, chúng ta đã nói rằng, những chỉ dẫn về tính chân thực và tính lành mạnh của triết học và khoa học mà hiện nay người ta sử dụng, là không thuận lợi, cho dù có rút chúng ra từ bản thân các cơ sở của triết học và của khoa học, hay từ kết quả của chúng, hay từ sự tiến triển của chúng, hay từ việc thừa nhận các tác giả, hay từ sự đồng thuận chung. LXXVIII Bây giờ cần phải tiếp cận với nguyên nhân của những sai lầm và của sự giữ chúng lại lâu đến như vậy ở mọi thời đại. Các nguyên nhân ấy là rất nhiều và đa dạng, làm cho người ta không còn lấy làm ngạc nhiên vì sao tất cả những thứ tôi dẫn ra cho tới nay vẫn bị che đậy đối với con người. Chỉ còn phải lấy làm ngạc nhiên rốt cuộc nó đã xuất hiện trong đầu óc của một người đã chết và trong tư duy của ai đó. Chúng tôi thậm chí còn cho rằng, đây thực ra là một trường hợp may mắn chứ không phải là một năng lực kiệt xuất nào đó. Cần phải coi điều ấy là sản phẩm của thời gian hơn là tài năng. Thứ nhất, số thế kỉ mà nếu tính toán chính xác, là rất nhỏ; vì từ 25 thế kỉ mà khoa học và kí ức con người bao quát, chắc gì có thể tách biệt và lựa chọn được 6 thế kỉ là thuận lợi đối với khoa học hay là hữu ích đối với sự phát triển của nó. Những vùng trống bị bỏ rơi về mặt thời gian không ít hơn về mặt không gian. Công bằng mà nói thì chỉ có thể kể tới ba giai đoạn của khoa học: một giai đoạn - ở người Hi Lạp, giai đoạn khác - ở người La Mã, giai đoạn thứ ba - ở chúng ta, tức các dân tộc Tây Âu, và có thể dành không hơn 2 thế kỉ cho mỗi giai đoạn ấy. Còn các thời kì trung gian của thế giới là không thuận lợi cho việc gieo trồng và thu hoạch khoa học. Và cũng không có lí do để nhắc tới người Arập hay các nhà triết học kinh viện vì, trong những thời kì trung gian ấy, họ thực ra đã trấn áp khoa học bằng vô số tiểu phẩm hơn là phát triển nó28. Như vậy, nguyên nhân đầu tiên tạo ra sự phát triển không đáng kể của khoa học cần phái coi là tính hạn chế của thời gian đã tạo diều kiện thuận lợi cho nó. LXXIX Ở vị trí thứ hai đương nhiên là nguyên nhân có ý nghĩa lớn hơn. Nó thể hiện ở chỗ, trong suốt thời kì mà lí tính con người và nghiên cứu khoa học đã phát triển nhất, dù là một cách gián tiếp, thì công sức của con người dành cho triết học tự nhiên chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Trong khi đó thì chính triết học tự nhiên cần được coi là mẹ đẻ vĩ đại của các khoa học. Vì mọi khoa học và nghệ thuật bị tách rời khỏi thân cây của nó, cho dù có thể được hoàn thiện và làm cho thích hợp với thực tiễn, nhưng hoàn toàn không thể phát triển. Chúng ta cũng biết rằng, sau khi niềm tin Thiên Chúa giáo được thừa nhận và củng cố, thì phần lớn những trí tuệ tốt nhất đã hiến dâng mình cho thần học. Những phần thưởng cao cả nhất đã được dành cho điều đó; mọi phương tiện bổ trợ đã được cung cấp cho điều đó; việc nghiên cứu thân học ây chủ yếu đã ngốn hết một phần ba thời gian, hay giai đoạn thuộc về chúng ta, những người Tây Âu. Hơn nữa, khoa học đã bắt đầu phát triển và các cuộc tranh luận tôn giáo đã bắt đầu bùng nổ ở cùng một thời kì. Ở thời đại trước, trong suốt giai đoạn thứ hai, những nỗ lực và tư tưởng tốt nhất của các nhà triết học La Mã đã được dành cho triết học đạo đức, thứ triết học được coi là thần học đối với những người đa thần giáo. Thậm chí những bậc trí tuệ lớn nhất thời đó đã thường hiến mình cho công việc công dân do sự vĩ đại của Đế chế La Mã cần tới lao động của rất nhiều người. Thời gian mà triết học tự nhiên phát triển nhất ở người Hi Lạp là ngắn nhất. Vì, ở thời kì xa xưa hơn, tất cả bảy người được gọi là các nhà thông thái, loại trừ Thales, đã cống hiến mình cho triết học đạo đức và chính trị; ở thời kì tiếp theo, khi mà Socrates kéo triết học từ trên trời xuống đất, triết học đạo đức còn có một sức mạnh lớn hơn và đã lôi kéo lí tính con người khỏi triết học tự nhiên. Thậm chí ở ngay giai đoạn, khi mà nghiên cứu tự nhiên diễn ra một cách sống động, người ta cũng đã làm hư hại và vô hiệu hóa mâu thuẫn và nỗ lực của các học thuyết mới. Do vậy, vì triết học tự nhiên ở ba giai đoạn này phần lớn bị khinh rẻ và gây trở ngại, nên không có gì lạ là con người ít thành công trong công việc này, do họ làm một công việc hoàn toàn khác. LXXX Ở đây cũng cần kể tới một tình hình là trong những người nghiên cứu triết học tự nhiên, chắc gì đã có được dù là một người hoàn toàn tự do và toàn tâm cống hiến mình cho nó (đặc biệt là ở thời kì gần đây), có thể người ta chỉ có thể chỉ cho chúng ta thấy một mục sư nào đó trầm tư trong tu viện của mình, hay một quý tộc nổi tiếng trong lâu đài của mình; triết học tự nhiên dường như bị biến thành bước quá độ hoặc chiếc cầu nối sang một cái gì khác. Như vậy, người mẹ vĩ đại của các khoa học đã bị hạ thấp một cách không xứng đáng xuống nghĩa vụ của kẻ đầy tớ trợ giúp cho у học và toán học, tẩy rửa trí tuệ chưa phát triển của thanh niên và dường như phủ lên họ chất mầu đầu tiên để sau đó họ dễ dàng và thuận tiện lĩnh hội các chất mầu khác. Trong khi đó thì sẽ không có ai chờ đợi một sự tiến bộ đáng kể trong các khoa học, đặc biệt là trong bộ phận hữu hiệu của chúng, nếu triết học tự nhiên không được đưa tới các khoa học riêng biệt hay nếu các khoa học riêng biệt không hướng vào triết học tự nhiên. Từ đó mới sinh ra một thực tế là thiên văn học, quang học, âm nhạc, nhiều loại hình cơ học, bản thân у học và thậm chí - điều đáng ngạc nhiên nhất - triết học đạo đức và triết học công dân, khoa học logic dường như không có một sự sâu sắc nào, chúng chỉ lướt trên bề mặt và tính đa dạng của các sự vật. Vì, sau khi các khoa học riêng biệt ấy được xây dựng và phân định thì triết học tự nhiên, thứ triết học có thể đem lại cho chúng tiềm lực mới để tăng trưởng từ các nguồn gốc của chúng, từ sự trực giác đúng đắn về các chuyển động, các tia ánh sáng, các âm thanh, cấu tạo và hình thức của các vật thể, các dục vọng và trực giác trí tuệ, không còn nuôi dưỡng chúng nữa. Như vậy, không có gì lạ là các khoa học không phát triển, vì chúng bị cắt khỏi gốc rễ của chúng. LXXXI Chúng ta cũng còn nhận thấy rõ một nguyên nhân quan trọng và mạnh mẽ nữa làm cho các khoa học ít phát triển. Nguyên nhân đó như sau. Việc phóng lao không thể diễn ra đúng, nếu bản thân cái lao29 được đặt và giữ không đúng. Cái lao đích thực và cần thiết của các khoa học không thể là cái gì khác ngoài việc đem lại những phát minh mới và phúc lợi mới cho cuộc sống của con người. Nhưng đa số các nhà khoa học hoàn toàn không suy nghĩ gì về điều này. Đa số này chỉ là các nhà thuyết giáo và các nhà khống luận, họa hoằn lắm mới bắt gặp một nghệ nhân với trí tuệ sắc sảo ham muốn danh vọng, hướng tới một khám phá nào đó. Nhưng nghệ nhân này thực hiện điều đó dường như lại làm thiệt hại tới tài sản của mình. Còn đa số họ không những không đặt ra cho mình mục đích làm tăng nội dung các khoa học và nghệ thuật của họ mà thậm chí từ nội dung hiện có, họ còn tìm kiếm và thu nhận không nhiều hơn những gì có thể hữu ích cho mục đích thuyết giáo hay kiếm lợi để làm rạng danh bản thân, hay cho một loại lợi lộc khác. Nếu có một ai đó trong nhiều nhà khoa học quan tâm tới khoa học với một thiên hướng cao cả và chỉ vì khoa học, thì ông ta cũng ngay lập tức quan tâm tới tính đa dạng của các học thuyết hiện có, chứ không phải quan tâm tới việc tìm tòi chân lí một cách nghiêm ngặt và kiên định. Nếu ai đó có thể là người tìm kiếm chân lí một cách nghiêm ngặt hơn, thì người ấy sẽ đặt ra cho mình mục đích là chân lí làm thoả mãn trí tuệ và sự hiểu biết bằng cách chỉ ra các nguyên nhân đã biết từ trước của sự vật, chứ không phải là chân lí dẫn tới những thành tựu mới trong thực tiễn và dẫn tới ánh sáng mới của các tiên đề. Do vậy, nếu cho tới nay chưa có ai xác định rõ mục đích tối hậu của khoa học, thì cũng không ngạc nhiên là sự mò mẫm diễn ra trong tất cả những gì phục tùng mục đích tối hậu ấy. LXXXII Giống như việc người ta xác định không rõ mục đích cuối cùng và ngọn lao của các khoa học, thì họ cũng lựa chọn một con đường hoàn toàn sai lầm và không đi qua được, thậm chí cả khi họ xác định đúng mục đích. Và nếu ai đó suy ngẫm, thì người đó sẽ rất kinh ngạc rằng không một người quá cố nào quan tâm và lo lắng để phát hiện và mở ra con đường cho lí tính con người nhờ bản thân cảm tính và các kinh nghiệm được sắp xếp và tổ chức tốt, nhưng tất cả mọi thứ đều được dành cho hoặc là bóng tối của những truyền thuyết, hoặc là sự xoay vòng của các Tam đoạn luận, hoặc là tính ngẫu nhiên và tùy tiện của kinh nghiệm rối rắm, hỗn loạn. Nếu ai đó suy ngẫm một cách nghiêm túc và tỉnh táo về con đường mà người ta đã quen bám vào trong nghiên cứu và khám phá một sự vật nhất định, thì người ấy trước hết sẽ nhận thấy một phương pháp khám phá đơn giản, tự nhiên, đặc trưng nhất của con người. Phương pháp này không phải gì khác hơn là khi chuẩn bị và bắt tay vào một nghiên cứu nào đó, con người trước hết tìm kiếm và nghiên cứu điều mà những người khác đã nói về vấn đề ấy, sau đó bổ sung ý kiến của mình và thức tỉnh tinh thần của mình nhờ hoạt động tăng cường của lí tính, dường như kêu gọi nó mở ra các tiên tri của mình. Tất cả mọi thứ ở đây đều không có cơ sở và chỉ được quy thành dư luận. Để khám phá thì người khác kêu gọi phép biện chứng nhưng phép biện chứng này chỉ có quan hệ danh nghĩa với cái được khảo cứu. Vì khám phá thông qua phép biện chứng không phải là khám phá ra các cơ sở và các tiên đề đặc biệt từ đó các khoa học cấu thành, mà chỉ là khám phá ra cái phù hợp với chúng ở vẻ bề ngoài. Còn những người cầu tiến, kiên trì và nhiệt tâm hơn trong công việc của mình, những người kêu gọi phép biện chứng chứng minh hay khám phá ra các cơ sở hay các tiên đề đầu tiên, thì với câu trả lời đã biết, bị nó đẩy tới niềm tin và dường như tới lời vu khống đối với thái độ trung thành với một khoa học nào đó. Kinh nghiệm còn lại một cách đơn giản nếu nó tự xuất hiện thì được gọi là kinh nghiệm ngẫu nhiên, còn nó được gọi là thí nghiệm, nếu người ta tìm kiếm nó. Nhưng, theo tục ngữ, loại kinh nghiệm này không phải cái gì khác hơn cái chổi bị tháo tung ra30 hay là việc mò mẫm như đi trong đêm, động chạm tất cả những gì gặp phải để đi theo con đường đúng đắn, trong khi hữu ích và chín chắn hơn nhiều đối với họ là chờ đợi trời sáng hay đốt đèn lên và sau đó mới đi theo con đường. Phương pháp đúng đắn của kinh nghiệm đầu tiên thắp lên ánh sáng, sau đó chỉ ra con đường nhờ ánh sáng: nó bắt đầu từ kinh nghiệm được chấn chỉnh và có hệ thống, chứ hoàn toàn không phải từ kinh nghiệm sai lầm và đi chệch hướng, và rút ra các tiên đề từ nó, chứ không phải rút ra các kinh nghiệm mới từ các tiên đề đã được xây dựng; vả lại lời nói của Chúa không tác động tới sự vật một cách vô tổ chức! Và do vậy hãy để cho người ta không còn lấy làm ngạc nhiên rằng, con đường của các khoa học vẫn chưa trải qua, vì chúng đã hoàn toàn đi chệch đường, kiên quyết bỏ lại và rời bỏ kinh nghiệm hay lẫn lộn và mò mẫm trong nó như trong ma trận. Còn kinh nghiệm xây dựng đúng đắn tất yếu sẽ dẫn tới việc khám phá ra các tiên đề thông qua một rừng kinh nghiệm. LXXXIII Tai họa nêu trên đã đạt tới quy mô khủng khiếp sau khi sinh ra từ dư luận, hay phán đoán, tai hại và kiêu kì có nguồn gốc từ xa xưa. Nó thể hiện ở chỗ phẩm giá của lí tính con người bị hạ thấp, nếu lí tính này quan tâm nhiều hơn và lâu hơn tới kinh nghiệm; tới các sự vật riêng biệt thuộc về cảm tính và xác định trong vật chất, hơn nữa là các sự vật ấy đòi hỏi một sự tìm tòi cần mẫn và chúng là quá nhỏ mọn để suy ngẫm về chúng, là quá thô thiển để nói về chúng, là quá xấu xí để sử dụng chúng, là quá vô kể về mặt số lượng và quá không đầy đủ về mặt hoàn hảo. Và vấn đề đã đi tới chỗ con đường chân chính không những bị rời bỏ mà thậm chí còn bị đóng lại và ngăn chặn, còn kinh nghiệm hoàn toàn bị khinh thường, đó là chưa nói rằng nó bị bỏ qua hay điều hành không tốt. LXXXIV Ngoài ra, cái kìm hãm con người tiến lên và trói buộc họ là sự sùng bái thời cổ, là ảnh hưởng của những người được coi là vĩ đại trong triết học, và là sự nhất trí và đồng thuận do điều ấy quy định. Ở trên đã nói tới sự nhất trí. Còn đối với thời cổ thì ý kiến về nó của người ta là hoàn toàn không được cân nhắc và chắc gì phù hợp với bản thân lời nói. Vì cần tôn trọng thời cổ như là sự già nua và độ tuổi rất cao của thế giới, mà điều này cần phải có quan hệ với thời đại chúng ta, chứ không phải với độ tuổi trẻ hơn của thế giới đã tồn tại ở người thời cổ. Độ tuổi này là cổ hơn và cao hơn đối với chúng ta, nhưng lại là mới hơn và trẻ hơn đối với bản thân thế giới. Giống như chúng ta chờ đợi tri thức uyên bác và phán đoán chín chắn hơn về công việc của con người ở người già chứ không phải ở người trẻ, vì sự từng trải, vì tính đa dạng và phong phú của những sự việc mà người già đã vấp phải, đã nghe thấy và đã suy ngẫm, nên cũng cần phải chờ đợi ở thời đại chúng ta, nếu nó nhận thức được sức mạnh của mình và mong muốn thể nghiệm, sử dụng tối đa nó, một điều gì đó lớn hơn so với ở các thời đại đã qua, vì đấy là thời kì già nua của thế giới, bao hàm trong mình vô số kinh nghiệm và quan sát. Cũng không nên coi cái ít có ý nghĩa là việc chu du xa xôi (thường diễn ra hiện nay) đã chỉ ra và phát hiện ra trong tự nhiên nhiều thứ có thể đem lại một ánh sáng mới cho triết học. Do vậy, một điều đáng hổ thẹn đối với con người, là nếu những giới hạn của thế giới trí tuệ dừng lại trong khuôn khổ chật hẹp của những gì mà người thời cổ đã khám phá ra, trong khi đó thì khuôn khổ của thế giới vật chất, tức lục địa, biển, các tinh tú, đã được mở rộng và làm sáng tỏ rất nhiều ở thời đại chúng ta. Còn những gì liên quan tới các tác giả thì sự hèn nhát nhất là ở chỗ trao cho họ uy tín vô hạn nhưng thời gian thì lại tước bỏ quyền uy của các tác giả này - tước bỏ nguồn gốc của mọi quyền uy. Người ta gọi đúng đắn rằng chân lí là con đẻ của thời gian, chứ không phải của quyền uy. Do vậy, một điều bình thường là sức quyến rũ của thời cổ, của các nhà văn và của sự nhất trí đã ràng buộc vô số người tới mức họ, giống như bị gông lại, đã không thể quen với bản thân sự vật. LXXXV Không những sự khâm phục đối với thời cổ đại, đối với quyền uy và đối với sự đồng thuận mà cả sự khâm phục đối với vô khối những tạo phẩm mà từ lâu loài người làm ra, đã kích thích hoạt động con người thoả mãn với những cái đã được sáng tạo. Nếu có ai đó chú ý đến những sự vật đa dạng và thiết bị tuyệt vời mà các nghệ thuật cơ học đã tập hợp và sử dụng cho tiện nghi của con người, thì người ấy thực ra sẽ có thiên hướng khâm phục sự giàu có của nhân loại hơn là cảm nhận thấy nhu cầu của nhân loại, không nhận thấy rằng, những quan sát đầu tiên của con người và các tạo phẩm của tự nhiên dường như thực chất là linh hồn và chuyển động đầu tiên của toàn bộ tính đa dạng ấy, là không quá nhiều và không được lĩnh hội sâu sắc, rằng mọi thứ khác chỉ có quan hệ với tính hấp tấp của con người, với chuyển động đúng đắn và tinh tế của bàn tay hay của công cụ. Ví dụ, đồng hồ là một vật tinh vi, được chế tạo cẩn thận, bắt chước vòm trời nhờ sự xoay tròn của mình và nhịp tim đập của động vật nhờ chuyển động tuần tự và đều đều của mình. Song, dẫu sao thì vật ấy vẫn phụ thuộc vào một hay hai tiên đề của tự nhiên. Nếu ai đó xem xét sự tinh tế của các nghệ thuật tự do hay thậm chí sự tinh vi trong việc chế tạo các vật thể tự nhiên thông qua các nghệ thuật tự do và xem xét sự vật như việc phát hiện ra chuyển động của thiên thể trong thiên văn học, sự hài hòa trong âm nhạc, bảng chữ cái (mà người Trung Quốc cho tới nay vẫn chưa sử dụng) trong ngữ pháp, hay quan tâm tới nghệ thuật cơ học, tới các sản phẩm của Bacchus và Ceres, tức việc chế biến rượu vang và bia, bánh mì hay thậm chí sơn hào hải vị, nghệ thuật chưng cất các chất lỏng và những thứ tương tự, thì hãy để cho người ấy suy ngẫm kĩ cần phải mất bao nhiêu thời gian nhằm làm cho các vật ấy đạt tới sự hoàn hảo hiện nay của chúng chính là tất cả những cái đó - những khám phá cổ xưa, ngoại trừ việc chưng cất các chất lỏng)31, chúng nhận được ở mức độ ít ỏi nào từ những quan sát và tiên đề về tự nhiên (như đã nói về điều này ở đồng hồ) và tất cả những cái đó đã có thể được khám phá ra một cách dễ dàng như thế nào và dường như nhờ những sự trùng hợp ngẫu nhiên và những quan sát thành công, sau khi suy ngẫm kĩ tất cả những điều ấy, người đó dễ dàng được giải phóng khỏi mọi sự khâm phục và thực ra sẽ phàn nàn về số phận con người, về việc những sự vật và những khám phá là rất nghèo nàn ở mọi thời đại. Ngoài ra, những khám phá được nhắc tới đó là cổ xưa hơn triết học và khoa học. Do vậy, nếu nói ra sự thật thì việc phát hiện ra các công việc hữu ích đã chấm dứt cùng với sự mở đầu loại khoa học duy lí và giáo điều ấy. Nếu có ai đó hướng từ các xưởng đến các thư viện và thấy khâm phục vì những cuốn sách vô cùng đa dạng mà chúng ta bắt gặp thì, sau khi nghiên cứu và xem xét kĩ lưỡng nội dung và đối tượng của những cuốn sách ấy, người đó tất nhiên sẽ ngạc nhiên về điều ngược lại. Sau khi người đó phát hiện ra vô số sự nhắc lại và việc người ta nói và lí giải về cùng một vấn đề, người đó sẽ chuyển từ việc khâm phục tính đa dạng sang việc ngạc nhiên về số lượng ít ỏi những vấn đề cho tới nay vẫn chế ngự đầu óc con người. Nếu có ai đó dành sự quan tâm cho việc xem xét những cái hiếu kì hơn là lành mạnh và xem xét sâu sắc hơn công việc của các nhà giả kim và các nhà ma thuật, thì người đó thực ra sẽ hoài nghi công việc ấy xứng đáng với cái gì hơn - nụ cười hay nước mắt. Nhà giả kim luôn nuôi hi vọng, và khi công việc thất bại, ông ta coi đó là sai lầm của bản thân mình. Ông ta tự buộc tội mình là không hiểu đầy đủ tiếng nói của khoa học hay của các nhà văn, và do vậy đã hướng vào các truyền thuyết và các câu thần chú. Hay, nếu ông ta nghĩ rằng sai lầm là ở những chi tiết rất nhỏ bé nào đó trong công việc của mình, ông ta sẽ kiểm tra mãi bằng thực nghiệm. Khi mà, trong quá trình thực nghiệm của mình, ông ta ngẫu nhiên đi tới một cái gì đó mới mẻ về vẻ bề ngoài và đáng quan tâm về mặt hữu ích của nó, thì ông ta ấp ủ tinh thần bằng những bằng chứng kiểu ấy, bằng mọi cách đề cao và ca ngợi chúng, song vẫn giữ lại hi vọng trong những vấn đề khác. Dấu sao cũng không nên phủ nhận rằng các nhà giả kim đã sáng chế ra nhiều thứ và đã ban tặng những khám phá hữu ích cho con người. Song, họ không thích hợp với câu truyện cổ tích nổi tiếng về ông lão thông báo cho các con của mình về số vàng cất giấu trong vườn nho nhưng lại làm ra vẻ dường như không biết chính xác nơi cất giấu. Do vậy, các con của ông ta đã cày bừa kĩ vườn nho, và mặc dù họ không tìm thấy vàng đâu, nhưng vụ thu hoạch trở nên được mùa hơn nhờ việc cày cấy ấy. Những người nghiên cứu ma thuật tự nhiên, những người quy mọi thứ về sự hòa hợp và ác cảm do có những phỏng đoán vô căn cứ và tầm thường, đã gán cho các vật những khả năng và hành động lạ thường. Thậm chí nếu họ đạt được một điều gì đó, thì công việc ấy càng gây ngạc nhiên là do điều mới mẻ hơn là do đem lại lợi ích và thành quả. Còn trong ma thuật mê tín dị đoan (nếu cần phải nói về nó) thì cần lưu ý rang, có những loại đối tượng giống nhau ở mọi dân tộc, ở mọi thời đại và thậm chí trong mọi tôn giáo mà các khoa học thần bí và mê tín dị đoan dựa vào. Chúng ta bỏ qua việc xem xét chúng, mặc dù không có gì kì lạ khi ý kiến về sự phong phú của các khoa học ấy là nguyên nhân sinh ra sự nghèo nàn của chúng. LXXXVI Bản thân việc con người khâm phục các khoa học và các học thuyết đã là đủ ngây thơ và ấu tri, tăng lên nhờ sự ranh mãnh và quỷ kế của những người làm khoa học và giảng dạy chúng. Vì họ trình bày các khoa học và các học thuyết ấy một cách rất háo danh và hăng say, giới thiệu chúng với con người theo cách lừa dối và che giấu tới mức dường như chúng là hoàn hảo và đã hoàn toàn hoàn tất. Nếu xem xét phương pháp và các phân nhánh của chúng, thì có cảm tưởng rằng, chúng bao quát và bao hàm trong mình tất cả những gì có thể có quan hệ với đối tượng của chúng. Và mặc dù các bộ phận của chúng được bổ khuyết không tốt và giống như các cái thùng trống rỗng, song đối với ý kiến thông thường thì chúng vẫn thể hiện như là các hình thức và các cơ sở của khoa học toàn vẹn. Những người thời cổ và đầu tiên tìm tòi chân lí là tận tâm hơn và thành đạt hơn, thường biến những tri thức mà họ muốn lĩnh hội được từ việc trực giác tự nhiên và làm cho chúng trở nên hữu ích cho việc sử dụng, thành các cách ngôn, tức thành những câu nói ngắn gọn, tản mạn và không được liên kết nhờ phương pháp; họ không giả bộ rằng họ nắm bắt được khoa học phổ biến và không hứa hẹn điều đó. Với tình hình hiện nay, nếu người ta không tìm tòi một cái gì ở bên ngoài những gì họ đã được truyền lại như một điều từ lâu đã hoàn hảo và phổ quát thì cũng là bình thường. LXXXVII Thậm chí người ta bắt đầu sử dụng sự tôn kính và tin tưởng từ thời cổ xưa hơn do có tính hư vô và nhẹ dạ của những người đưa ra cái mới, đặc biệt là trong bộ phận ứng dụng và thực tiễn của triết học tự nhiên. Vả lại, đã có không ít những người ba hoa, gàn dở mà, một phần do nhẹ dạ, một phần vì mục đích lừa dối, đã ru ngủ loài người bằng những lời hứa như: kéo dài sự sống, ngăn chặn sự lão hóa, làm nhẹ bớt đau khổ, sửa chữa khuyết tật bẩm sinh, làm thoả mãn tình cảm, loại bỏ và kích thích dục vọng, làm nảy sinh và nâng cao năng lực của lí tính, làm chuyển hóa vật chất, tăng cường và nhân lên gấp bội chuyển động theo ý muốn, làm thay đổi thời tiết và khí hậu, điều khiển các ảnh hưởng của thiên thể, tiên đoán tương lai, làm cho cái xa xôi xích lại gần, phát hiện ra cái bí ẩn, và đã hứa hẹn và báo trước nhiều thứ khác. Không sai lầm nhiều lắm là người nói rằng trong các học thuyết triết học có một sự khác biệt giữa những điều hư vô của các anh tài ấy và các khoa học chân chính giống như sự khác biệt có trong những câu chuyện lịch sử giữa các việc làm của Julius Caesar hay của Alexander Đại đế và của Amadis xứ Gaul hay của Arthur nước Anh32. Vả lại các vị thống soái vẻ vang ấy đã làm được nhiều hơn những gì mà các nhân vật hão huyền ấy bịa đặt ra, và họ đã thực hiện điều ấy bằng phương thức và con đường hành động hoàn toàn không mang tính cổ tích và thần bí. Không nên không tin thông báo chân thực chỉ vì sự tin tưởng đã bị các câu chuyện cổ tích lừa dối. Khi đó nếu có một sự đề phòng cao độ nhằm chống lại nhựng giả thuyết mới (đặc biệt là khi người ta nhắc tới việc áp dụng chúng trên thực tế) vì có những kẻ lừa dối cố làm một điều tương tự thì cũng là điều hoàn toàn bình thường. Vì tính hư vô hoàn toàn và sự kinh tởm do nó gây ra hiện nay đã phá hủy mọi sự cao cả của những ý đồ như vậy. LXXXVII Nhưng đem lại tai họa lớn hơn cIho các khoa học là tính vụn vặt và nhỏ nhen của các nhiệm vụ mà hoạt động con người đặt ra cho mình. Và điều tồi tệ nhất là tính nhỏ nhen ấy được giới thiệu không thiếu tính háo danh và trơ tráo. Trước hết, trong mọi khoa học, chúng ta bắt gặp một mánh khoé đã trở nên quen thuộc là những người sáng lập ra bất kì khoa học nào cũng biến sự bất lực của khoa học ấy thành lời vu khống chống lại giới tự nhiên. Những gì mà khoa học của họ không đạt tới được thì, dựa trên chính khoa học ấy, họ lại tuyên bố là không thể cả trong bản thân giới tự nhiên. Đương nhiên, không một khoa học nào có thể bị phán xét, vì bản thân nó phán xét. Cũng như triết học mà hiện nay người ta đang sử dụng, bao hàm trong nó các luận điểm có liên quan tới việc hoàn toàn thuyết phục con người không thể chờ đợi ở khoa học hay ở lao động của con người một cái gì cao cả, một cái mà có thể điều khiển và thống trị tự nhiên. Tất cả những điều đó, nếu nghiên cứu chúng một cách căn bản hơn, là sự đánh giá không xác đáng về các tiềm lực của con người và dẫn tới sự thất vọng nhân tạo và tưởng tượng, không những làm tiêu tan các tiên đoán đầy hứa hẹn mà còn thủ tiêu mọi kích thích và khát vọng hoạt động, loại bỏ mọi khả năng thành công của bản thân kinh nghiệm. Vả lại, khi cố gắng đạt tới vinh quang hão huyền và háo danh, họ chỉ quan tâm để khoa học của họ được đánh giá là hoàn hảo và mọi thứ cho tới nay chưa được khám phá hay nhận thức bị coi là hoàn toàn không khám phá được và không nhận thức được trong tương lai. Neu có ai đó cống hiến cho công việc ấy và cố phát hiện ra một điều gì mới mẻ, thì người ấy sẽ đặt ra cho mình mục đích tìm kiếm và nghiên cứu một khám phá nào đấy và không hơn. Người ấy sẽ nghiên cứu hoặc là bản chất của nam châm, hoặc là thủy triều và triều cường của biển, hệ thống thiên thể và những cái tương tự, có cảm tưởng bao hàm trong mình một bí ẩn nào đó và cho tới nay vẫn được khảo cứu không thành công. Trong khi đó thì dốt nát nhất là việc nghiên cứu bản chất của một sự vật nào đó trong bản thân nó. Vì cùng một bản chất bị che đậy và là bí ẩn trong một số vật, thì lại là hiển nhiên và dường như sờ mó thấy trong các vật khác; nó kích thích sự khâm phục đối với các sự vật này và cả đối với những sự vật không thu hút được sự chú ý. Tình hình là như vậy đối với bản chất của tỉ trọng mà người ta không nhận thấy trong cây hay trong đá, thoả mãn với tên gọi "độ cứng" và không đặt ra vấn đề việc chống lại sự phân giải và đứt đoạn tính liên tục; nhưng cũng hiện tượng ấy lại là quan trọng và phức tạp trong màng mỏng của các bong bóng nước có hình cầu một cách rất kì lạ, do đó chỉ giữ được sự đứt đoạn của tính liên tục trong khoảnh khắc. Như vậy, cái được coi là bị che đậy trong một số vật, thì lại có bản chất thông thường và rõ ràng trong các vật khác, và nó không bao giờ cho phép khảo cứu mình, nếu kinh nghiệm và quan sát của con người chỉ xoay quanh trong phạm vi của điều thứ nhất. Người ta thường coi những khám phá vĩ đại trong lĩnh vực cơ học là khi ai đó xử lí tinh tế hơn phát minh đã có, hay trang trí nó đẹp hơn, hay hợp nhất và liên kết nó với một cái gì đó, hay kết hợp nó tiện lợi hơn với việc sử dụng, hay giới thiệu công việc với một quy mô lớn hơn hay nhỏ hơn trước kia, và những thứ tương tự. Do vậy, một điều hoàn toàn bình thường là các khám phá quan trọng và xứng đáng với loài người đã không được đưa ra ánh sáng, nếu con người thoả mãn và khâm phục những nhiệm vụ nhỏ bé và ấu tri như vậy và hơn nữa còn cho rằng mình đã đạt tới một cái gì đó vĩ đại trong chúng. LXXXIX Cũng không nên quên rằng, ở mọi thời đại, triết học tự nhiên luôn gặp phải địch thủ phiền nhiễu và nan giải, chính là mê tín và sự hăng hái mù quáng, không thái quá trong tôn giáo. Ví dụ, chúng ta nhận thấy có một số người Hi Lạp mà lần đầu tiên đưa ra các nguyên nhân tự nhiên của sấm chớp và bão tố cho thính giác chưa quen thuộc của con người, đã bị buộc tội là không tôn trọng các thần linh33. Một số cha cố thời cổ của Thiên Chúa giáo có thái độ tốt hơn chút ít đối với những người nhờ các bằng chứng đáng tin cậy nhất (mà không ai có lí trí lành mạnh sẽ phản bác) đã xác định được rằng trái đất hình cầu và qua đó đã khẳng định sự tồn tại của cái đối lập34. Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, do các học thuyết và các phương pháp của các nhà triết học kinh viện mà điều kiện để bàn luận về giới tự nhiên trở nên khốc liệt hơn và nguy hiểm hơn. Vì các nhà triết học kinh viện, tùy theo khả năng của mình, không những đã chấn chỉnh lại thần học và đem lại cho nó hình thức của khoa học mà, hơn nữa, còn đạt tới chỗ làm cho lẫn lộn triết học ngang ngạnh và châm chọc của Aristotle với tôn giáo một cách thái quá. Ở đây gồm có (dù là theo một cách khác) cả suy luận của những người không ngần ngại rút ra và củng cố tính chân thực của Thiên Chúa giáo từ quyền uy của các nhà triết học. Họ trình bày một cách sang trọng và hoành tráng liên minh dường như hợp pháp đó giữa niềm tin với lí trí và cố làm mê hoặc tâm hồn con người bằng tính đa dạng dễ chịu của các sự vật, trong khi đó lại lẫn lộn Chúa với con người một cách hèn hạ. Nhưng sự lẫn lộn như vậy giữa thần học với triết học chỉ bao quát được những gì hiện nay được thừa nhận trong triết học, còn cái mới, mặc dù chuyển biến đến cái tốt đẹp hơn, thì dường như bị gạt bỏ và bị thủ tiêu. Cuối cùng, chúng ta nhận thấy rằng, sự dốt nát của một số nhà thần học là nguyên nhân không cho phép họ tiếp cận với bất kì triết học nào, dù là triết học tốt nhất. Đơn giản là do một số người sợ rằng dường như việc nghiên cứu sâu sắc hơn về tự nhiên không vượt ra khỏi giới hạn cho phép của lương tâm; khi đó những gì trong Kinh Thánh nói về các bí ẩn của Chúa và chống lại những người cố thâm nhập vào các bí ẩn này, bị áp dụng một cách sai trái vào cái bị che đậy trong tự nhiên, cái vốn không bị bất cứ một sự cấm đoán nào. Số khác kết luận một cách tinh khôn hơn rằng, nếu không biết các nguyên nhân thông thường thì có thể dễ dàng gán ép mọi thứ cho cái gậy chỉ đường của Chúa; và họ coi điều đó là quan trọng nhất đối với tôn giáo. Tất cả những điều đó không phải cái gì khác hơn là "nguyện vọng làm vừa lòng Chúa nhờ nói dối". Số khác lo ngại rằng dường như chuyển động và biến đổi của triết học trở thành tấm gương cho tôn giáo và loại bỏ nó. Cuối cùng, số nữa đương nhiên lại quan tâm đến việc phát hiện ra một cái gì đó trong nghiên cứu tự nhiên sẽ bác bỏ hay ít nhất cũng làm lay động tôn giáo (đặc biệt là ở những người ngu dốt). Chúng tôi thấy, hai loại lo sợ sau là dành cho sự khôn ngoan của động vật, trong nơi bí ẩn và sâu xa của lí tính bản thân, những người này không tin tưởng và hoài nghi sự vững chắc của tôn giáo và vai trò hàng đầu của niềm tin đối với lí trí, do vậy, họ sợ rằng việc tìm tòi chân lí trong tự nhiên sẽ mang lại sự nguy hiểm cho họ. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ một cách tỉnh táo, thì sau lời nói của Chúa, triết học tự nhiên là phương thức đáng tin cậy nhất để chống lại mê tín dị đoan và đó là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho niềm tin. Do vậy, người ta quan niệm nó một cách xác đáng là đầy tớ đáng tín cậy nhất của tôn giáo: nếu một triết học tự nhiên thể hiện Ý Chúa, thì triết học khác thể hiện sức mạnh của Chúa. Vì người không sai lầm là người nói: "Bạn mò mẫm vì không biết Kinh Thánh và sức mạnh của Chúa"35, như vậy, hợp nhất và kết hợp thông tin về Ý Chúa và suy luận về sức mạnh bằng một mối liên hệ không phá vỡ được. Do vậy, một điều bình thường là triết học tự nhiên bị kìm hãm vì, khi chế ngự tâm hồn con người, do dốt nát và hăng hái một cách bất cẩn của một số người, tôn giáo đã bị tách rời khỏi triết học tự nhiên và chuyển sang bên đối lập. XC XC Ngoài ra, trong tập quán và phong tục của các trường phái, các viện hàn lâm, các tập thể và các tổ chức tương tự có nhiệm vụ thu hút các nhà khoa học vào chúng và để phục vụ sự uyên bác, tất cả hóa ra đều chống lại sự phát triển của khoa học. Vì sự thuyết trình và tập dượt bố trí sao cho để khó có ai đó có thể có ý định suy ngẫm và trực giác những cái khác với cái đã quen thuộc. Nếu ai đó dám cả gan sử dụng quyền tự do phán đoán, thì người ấy chỉ có thể giao phó công việc ấy cho riêng bản thân mình. Người ấy không nhận được một điều gì hữu ích từ sự giao tiếp với những người khác. Còn nếu người ấy mang lại điều hữu ích ấy, thì hoạt động và lòng dũng cảm đó sẽ tạo ra trở ngại lớn trong việc tìm kiếm phúc lợi. Vả lại trong những trường hợp như vậy thì sự nỗ lực của con người bị giam hãm trong ngục tối, trong tác phẩm của một số tác giả. Nếu ai đó không nhất trí với họ, thì người ấy ngay lập tức bị buộc tội như một kẻ nổi loạn và một người hám lợi hết mức. Trong khi đó sự khác nhau giữa công việc công dân và công việc khoa học là rất lớn: vả lại mối nguy hiểm sinh ra từ một chuyển động mới không phải là mối nguy hiểm sinh ra từ ánh sáng mới. Trên thực tế, trong công việc công dân, những biến đổi dẫn tới điều tốt đẹp hơn gây ra nỗi lo ngại về sự nổi loạn, vì công việc công dân dựa vào quyền uy, sự nhất trí và dư luận xã hội, chứ không phải dựa vào sự chứng minh. Còn trong khoa học và nghệ thuật, tất cả cần phải làm cho ầm ĩ lên nhờ công việc mới và sự tiếp tục tiến lên. Nhưng điều đó phải là như vậy theo lẽ phải; trong cuộc sống thì nó lại khác: trật tự nêu trên trong quản lí khoa học và giáo dục từ lâu đã trấn áp sự phát triển của chúng giống như một gánh nặng. XCI Tuy nhiên, thậm chí nếu không có thiện chí, như đã nêu ở trên, có chấm dứt chăng nữa thì khi đó mọi hoạt động và nỗ lực không được trả công vẫn là trở ngại to lớn đối với sự phát triển của khoa học. Vì sự phát triển của khoa học và sự trả công không phụ thuộc vào cùng một số người. Vả lại sự phát triển của khoa học do những tài năng lớn thực hiện, còn tiền công và tiền thưởng cho khoa học phụ thuộc vào đám đông hay vào những người quyền quý, những người hiếm khi đạt tới sự uyên bác bình thường. Hơn nữa, những thành tựu kiểu ấy không những không được đền bù và không tranh thủ được sự hòa hợp của người khác mà thậm chí còn không được nhân dân khen ngợi vì chúng vượt lên trên sự hiểu biết của đa số, và ngọn gió của dư luận dễ dàng bác bỏ và thủ tiêu chúng. Do vậy, một điều hoàn toàn bình thường là cái không được tôn trọng thì cũng không phát triển. XCII Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của khoa học và giải quyết các nhiệm vụ mới, trong các lĩnh vực mới, đương nhiên là nỗi thất vọng của con người và sự giả định cái không thể. Thậm chí những người sáng suốt và cứng rắn cũng hoàn toàn thất vọng khi họ suy ngẫm về tính không hiểu được của giới tự nhiên, về tính ngắn ngủi của cuộc đời, về sự lừa dối của các giác quan, về sự yếu kém của phán đoán, về các trở ngại của kinh nghiệm và về những thứ tương tự. Chính vì vậy họ cho rằng trong suốt quá trình xoay vần của thời gian và các thời đại, khoa học không có cao trào và thoái trào, vì khoa học lớn mạnh và phát triển ở cùng một thời đại, bị suy thoái và bị khinh rẻ ở thời đại khác; do vậy, sau khi đạt tới một trình độ và trạng thái nhất định, khoa học không có khả năng phát triển tiếp. Nếu ai đó tin và hứa hẹn nhiều hơn, thì điều đó được coi là biểu hiện bất lực và không phát triển của tinh thần, vì khát vọng ấy hân hoan lúc ban đầu, sẽ trở nên nặng nề hơn lúc sau và kết thúc ở sự lúng túng. Nhưng, vì những tư tưởng như vậy dễ dàng chế ngự những trí tuệ đáng kính và xuất sắc, nên cần phải quan tâm để chúng ta không làm giảm bớt và không làm suy yếu tính chặt chẽ của phán đoán, bị lôi cuốn bởi tình yêu cái vĩ đại và cái đẹp. Cần phải quan sát tỉnh táo những cái được hi vọng thắp sáng và xem ánh sáng ấy đến từ phía nào. Và, sau khi loại bỏ những hi vọng mong manh, cần phải bàn luận toàn diện và thông báo những gì đáng tin cậy nhất. Thậm chí cần viện đến lời khuyên và sự trợ giúp của trí tuệ đám đông mà theo những quy tắc của nó, ấn định trước sự thiếu tin tưởng và dự báo điều tồi tệ trong công việc của con người. Do vậy, bây giờ chúng tôi cần phải nói về hi vọng, hơn nữa chúng tôi không đưa ra những lời hứa hẹn, không chuẩn bị những cạm bẫy, không nghĩ ra những quỷ kế chống lại phán đoán của con người, mà dẫn dắt mọi người theo thiện chí của họ. Như vậy, mặc dù phương tiện mạnh nhất để gieo hi vọng vẫn là việc đưa con người đến với những chi tiết, đặc biệt là những chi tiết đã được hệ thống hóa và phân bổ trong bảng phát minh của chúng tôi (một phần có liên quan tới phần thứ hai, nhưng phần lớn hơn là có liên quan tới phần thứ tư trong Phục hồi của chúng tôi), vì đây không những chỉ là hi vọng mà còn là bản thân công việc; tuy nhiên, để cho mọi thứ trở nên dễ dàng hơn thì cần phải tiếp tục giáo dục trí tuệ con người theo cách phù hợp với dự định của chúng ta, và việc có được hi vọng giữ một vị trí quan trọng trong sự giáo dục ấy. Vả lại, ngoài hi vọng """