🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bình Luận – Phê Phán (Tuyển Chọn Những Bài Viết Trên Báo Nhân Dân)
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PH M MINH TU N
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PH M TH THINH
Biên tập nội dung: TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
T NG VI T H NH
NGUY N VI T HÀ
Trình bày bìa: NGUYỄN MẠNH HÙNG Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Đọc sách mẫu: NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH TỐNG VIỆT HẠNH
BÍCH LI U
S ng ký k ho ch xu t b n: …2021/CXBIPH/..-../CTQG. S quy t nh xu t b n: ..-Q /NXBCTQG, ngày ../../2021. N p l u chi u: tháng .. n m 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-….-…
BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
3KV4
Mã số:
CTQG-2016
Hà N i - 2016
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đặc điểm tổng thể của môi trường quốc tế hiện nay là thế giới đa cực hóa và kinh tế toàn cầu hóa phát triển sâu rộng, trong đó hòa bình, hợp tác và phát triển là trào lưu thời đại. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn, lật đổ nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng sử dụng các thủ đoạn tinh vi, thâm độc thông qua hàng trăm cơ quan báo chí, xuất bản ở nước ngoài, móc nối với các phần tử cơ hội chính trị ở trong nước; thông qua con đường ngoại giao, hợp tác kinh tế, đầu tư... hòng thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, nhằm làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ và điều kiện can thiệp sâu hơn chống phá cách mạng Việt Nam.
Với vai trò là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, Báo Nhân Dân đã đi đầu, sát cánh cùng các cơ quan báo chí trong nước, với nhiều tác phẩm sắc bén, kịp thời phản bác lại các quan điểm sai trái, các bài viết xuyên tạc, góp phần đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn chính trị, chống phá Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch...
Tháng 7-2012, Chuyên mục Bình luận - Phê phán được thành lập trên Báo Nhân Dân. Chuyên mục đã thu hút được rất nhiều bài viết của các tác giả trong và ngoài nước, thể hiện thái độ trách nhiệm trước xã hội và bạn đọc, trong đó tập trung khẳng định con đường đã được
6 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Đảng và Bác Hồ lựa chọn; khẳng định tính đúng đắn của sự nghiệp cách mạng; khẳng định, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định và bảo vệ các đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; bảo vệ sự thật và trực diện đấu tranh với các luận điệu, hiện tượng sai trái; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; góp phần định hướng dư luận; chân thành góp ý, gợi mở hướng giải quyết một số vấn đề, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh... Sau hơn ba năm, với hàng trăm bài viết đề cập nhiều chủ đề khác nhau, Chuyên mục Bình luận - Phê phán từng bước thu hút sự quan tâm, ủng hộ của bạn đọc rộng rãi ở trong nước và trên thế giới,
đặc biệt là nhận được sự đánh giá cao của các cơ quan chức năng. Nhằm thiết thực chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Báo Nhân Dân xuất bản cuốn sách Bình luận - Phê phán. Cuốn sách bao gồm các bài viết được tuyển chọn từ hàng trăm bài viết đã được đăng trên Chuyên mục Bình luận - Phê phán của Báo Nhân Dân và được trình bày trong năm phần:
Phần I: Nhà nước Việt Nam và một số vấn đề nhân quyền; Phần II: Để "văn hóa soi đường cho quốc dân đi";
Phần III: Một số vấn đề về xuất bản và truyền thông;
Phần IV: Đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái; Phần V: Về cái gọi là “phong trào dân chủ”.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 2 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm qua, sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn, không thể phủ nhận. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ các thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí tiến hành nhiều hoạt động chống phá nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Và “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” được sử dụng làm chiêu bài để họ vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép về chính trị, kinh tế. Với rất nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc, đặc biệt là tận dụng khả năng và ảnh hưởng của internet, họ nhào nặn, lan truyền thông tin thất thiệt nhằm tác động tới đời sống tinh thần của xã hội để gây tâm lý bi quan, hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hòng chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,... Bên cạnh đó, quá trình mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới cũng đưa tới một số diễn biến phức tạp trong đời sống, đặc biệt là sự du nhập của một số giá trị không phù hợp với định hướng xã hội, không phù hợp với bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc, từ đó xuất hiện một số hiện tượng, nảy sinh một số vấn đề có thể tác động tiêu cực tới sự phát triển trong kinh tế, khoa học, giáo dục, văn học, nghệ thuật, báo chí và truyền thông, phát triển nhân cách, thị hiếu thẩm mỹ...
8 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Chính vì thế, việc đấu tranh, phê phán các luận điệu, hiện tượng nói trên để qua đó định hướng dư luận đã trở thành nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn xã hội nói chung, của báo chí và truyền thông nói riêng. Với Báo Nhân Dân, từ việc xác định sự cần thiết phải chủ động, tích cực tham gia các hoạt động này, tháng 7- 2012, Ban Biên tập Báo Nhân Dân đã quyết định mở Chuyên mục Bình luận - Phê phán đăng trên trang 8 số ra thứ ba và thứ năm của Báo Nhân Dân hằng ngày. Ban Biên tập coi đây là diễn đàn để tờ báo thể hiện thái độ trách nhiệm trước xã hội và bạn đọc, trong đó tập trung khẳng định con đường được Đảng và Bác Hồ lựa chọn; khẳng định tính đúng đắn của sự nghiệp cách mạng; khẳng định, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định và bảo vệ các đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; bảo vệ sự thật và trực diện đấu tranh với các luận điệu, hiện tượng sai trái; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; góp phần định hướng dư luận; chân thành góp ý, gợi mở hướng giải quyết một số vấn đề, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh... Để Chuyên mục Bình luận - Phê phán phát huy được tính tích cực xã hội, Ban Biên tập Báo Nhân Dân chỉ đạo, tổ chức và cùng các bộ phận chuyên môn có liên quan luôn cố gắng chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung; mở rộng các lĩnh vực khảo sát, theo dõi cập nhật và phát hiện các vấn đề, sự kiện, hiện tượng,... diễn ra trong nước, trên thế giới để xác định đề tài bình luận - phê phán; tập hợp, thu hút, tổ chức đội ngũ người viết ở trong và ngoài Tòa soạn, đặc biệt là cộng tác viên người Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, sau hơn ba năm, với hàng trăm bài viết đề cập nhiều chủ đề khác nhau, với sự phân tích vừa dựa trên cơ sở lý luận khoa học, vừa theo kịp diễn biến của tình hình thực tiễn, với chứng lý cụ thể, Chuyên mục Bình luận - Phê phán của Báo Nhân Dân từng bước khẳng định được vai trò, thu hút sự quan tâm, ủng hộ của bạn đọc rộng rãi ở trong nước và trên thế giới, đặc biệt là nhận được sự đánh giá cao của các cơ quan chức năng.
LỜI NÓI ĐẦU 9
Nhằm giúp bạn đọc tiếp cận hệ thống, toàn diện về các vấn đề Chuyên mục Bình luận - Phê phán đề cập trong hơn hai năm qua, Báo Nhân Dân phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tổ chức tuyển chọn các bài viết đã đăng trên Chuyên mục Bình luận - Phê phán để xuất bản, và phát hành tập sách này. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc nắm bắt đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về các vấn đề được đề cập, qua đó có suy nghĩ, hành động tích cực hơn nữa góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Nhân đây, Báo Nhân Dân chân thành gửi lời cảm ơn các tác giả đã nhiệt tình đóng góp ý kiến, bài vở với Chuyên mục Bình luận - Phê phán, tin rằng các tác giả sẽ tiếp tục cộng tác để Chuyên mục ngày càng nâng cao chất lượng mọi mặt, đáp ứng được sự tin cậy của công chúng bạn đọc.
BAN BIÊN SOẠN
PHẦN I
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN
Phía sau
các "giải thưởng nhân quyền"*
VŨ LINH
Ngày nay, nhân quyền đang trở thành một vấn đề tranh luận "nóng bỏng" giữa một số nước muốn áp đặt những quan niệm và sử dụng như một cái cớ để gây sức ép với những nước không chấp nhận sự chi phối và sự can thiệp từ bên ngoài.
Sự khác biệt trong quan niệm về nhân quyền là do nhiều nguyên nhân khác nhau về văn hóa, xã hội, nhân sinh, đặc biệt là từ sự lựa chọn các giá trị riêng có vai trò định hướng cho quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Đây cũng là một số trong nhiều lý do làm cho sách lược "lưỡng chuẩn về nhân quyền" của Mỹ và phương Tây bị nhiều nước lên án như là sự áp đặt để đạt tới những mục đích kinh tế, chính trị, tôn giáo...
Khi đánh giá nhân quyền, phải xem xét từ những thành tựu mà mỗi nhà nước đã đem lại cho nhân dân của mình. Không thể nấp dưới chiêu bài nhân quyền để ngạo mạn đánh giá thành tích nhân quyền, từ đó tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Áp đặt về nhân quyền để đạt những mục đích kinh tế, chính trị, tôn giáo, đó là điều mà giới trí thức phương Tây từng thừa nhận. Noam Chomsky - một học giả của Mỹ viết: "Thật ra chính sách ngoại giao của Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc ______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 3-8-2012.
14 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
không liên quan gì đến nhân quyền, mà là liên quan nhiều đến sự tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho ngoại thương". Bởi thế, bất chấp việc chưa có một khái niệm thống nhất về nhân quyền trên thế giới, thì tiêu chí về nhân quyền đã và đang được Mỹ cùng các quốc gia phương Tây khai thác từ bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền được Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948. Nhưng kể cả khi vận dụng Tuyên ngôn này, họ vẫn cố tình lờ đi Điều 29 của Tuyên ngôn và một số điều khoản trong hai bản Giao ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị; Giao ước quốc tế về những quyền kinh tế - xã hội và văn hóa đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận ngày 6-12-1966, trong đó có một số quy định chỉ rõ các quyền cơ bản của con người đều chịu "sự hạn chế do luật pháp đặt ra".
Hằng năm, tự đặt mình ở cương vị phán xét người khác, Mỹ lại đưa ra những bản phúc trình về tình trạng nhân quyền, tự do tôn giáo của các quốc gia khác, trừ Mỹ, và đều bị các nước liên quan phản đối kịch liệt. Đáng chú ý ngay trong năm 2011 vừa qua, Trung Quốc đã đáp trả bằng các hồ sơ chi tiết về tình trạng vi phạm nhân quyền khủng khiếp của chính nước Mỹ.
Những cuộc xung đột đó sẽ còn dài và một trong những phương tiện đang được sử dụng trong cuộc chiến nhân quyền ấy là: trao giải thưởng nhân quyền. Đến ngay cả giải thưởng Nobel hòa bình - một giải thưởng mà người sáng lập ra nó đặt tiêu chí là trao giải cho "người có cống hiến to lớn cho tình hữu nghị giữa các quốc gia, cho việc giải trừ hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và việc tổ chức hay xúc tiến các hội nghị hòa bình", tưởng như chẳng dính dáng gì mấy tới cuộc xung đột nhân quyền, cũng đang bị biến dạng.
Không ít học giả quốc tế nhận xét, Nobel hòa bình "đã chệch xa khỏi sứ mệnh ban đầu của mình". Tác giả Ronald R.Krebs - Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Minnesota, Hoa Kỳ trên
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 15
Tạp chí Foreign Policy đánh giá: "Từ năm 1971 đến năm 2008, các nhà bất đồng chính kiến được nhận giải tới 10 lần... giải thưởng của họ không đồng nghĩa với những đóng góp đáng kể vào hòa bình trong nước và quốc tế".
Việt Nam không phải là ngoại lệ. Chưa bao giờ, việc trao các loại giải thưởng nhân quyền cho những người được gọi là "nhà bất đồng chính kiến bị chính quyền đàn áp" trong nước lại "nhộn nhịp" như mấy năm gần đây. Tính sơ sơ đã có gần chục loại giải thưởng nhân quyền được trao cho các đối tượng chống Nhà nước Việt Nam,
như "giải thưởng Hellman/Hammet" của tổ chức Quan sát nhân quyền quốc tế (HRW); "giải thưởng Stephanus" của Hiệp hội quốc tế nhân quyền tại Đức; "giải thưởng quốc tế Gruber" của Nghiệp đoàn luật sư quốc tế; "giải nhân quyền Gwangju"; giải thưởng nhân quyền của "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam",... Với một số giải thưởng khác, như "giải thưởng nhân quyền Sakharov" của Quốc hội châu Âu; giải thưởng Nobel hòa bình, Nobel văn chương... tuy chưa có cá nhân nào là người Việt Nam được nhận, nhưng một số "nhân vật" đã được đưa vào danh sách đề cử như: Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Dương Thu Hương...
Vậy những "giải thưởng nhân quyền" ấy có biểu lộ chút giá trị nào như tên gọi không? Điểm mặt một số cá nhân được các tổ chức nọ "vinh danh", sẽ thấy ngay bản chất của các loại giải thưởng này. Lê Thị Công Nhân, người được nhiều "giải thưởng nhân quyền" nhất, chỉ được biết đến sau khi Tòa án kết tội "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Trong vài năm liền, hầu như năm nào, nhân vật này cũng được các tổ chức chống phá chính quyền Việt Nam trao giải thưởng: năm 2007 là giải thưởng của "mạng lưới nhân quyền Việt Nam"; năm 2008 là "giải nhân quyền Gwangju"; năm 2009 là "giải thưởng quốc tế Gruber" và năm 2010 là "giải thưởng Stephanus". Lý do trao giải không có gì khác,
16 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
ngoài việc kích động Lê Thị Công Nhân ngày càng liều lĩnh chống chính quyền như con thiêu thân. Đáp lại sự "lăng-xê" của các tổ chức này, Lê Thị Công Nhân không ngại nói năng xằng bậy, cho rằng cả dân tộc Việt Nam "mê muội" và "cuồng tín", kích động quần chúng phải đứng lên lật đổ chính thể hiện hành, ca tụng các hành động khủng bố điên cuồng của Lý Tống, kể cả hành động cướp máy bay xâm nhập lãnh thổ Việt Nam để rải truyền đơn...
Kế đến là Nguyễn Văn Lý, người có "thâm niên" đi tù nhiều lần vì các tội danh chống chính quyền nhân dân từ năm 1977. Đó là người hễ mở miệng ra là kêu gọi lật đổ chế độ, kích động chống Nhà nước, kêu gọi nước ngoài cấm vận, đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách CPC (các nước cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo), ngăn cản Việt Nam tham gia WTO, tẩy chay bầu cử Quốc hội và Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội..., đó là những việc làm phi pháp, phản dân, hại nước.
Một số kẻ như Trần Khải Thanh Thủy, kẻ "nổi tiếng" với thành tích lừa phỉnh dân khiếu kiện và lập ra "hội dân oan" để "kinh doanh" kiếm lời, rồi có hành vi côn đồ hung hãn, đánh người gây thương tích... Không phải ngẫu nhiên mà người ta lại dùng cái hỗn danh "Trần Khải Ma Quỷ" để đặt cho Trần Khải Thanh Thủy. Hay Nguyễn Khắc Toàn, trình độ tư duy quá thấp kém nhưng bằng cái tài lưu manh làm cho đồng bọn phải kinh hãi, như thủ đoạn "triệt hạ" Trần Khải Thanh Thủy để chiếm lấy món lợi "dân oan", khiến kẻ thân tín là Hồ Thị Bích Khương bỏ chạy "tháo thân" bằng những bài viết tố Nguyễn Khắc Toàn trên internet, v.v.. Điểm qua vài gương mặt được nhận các "giải thưởng nhân quyền" đã đủ thấy tiêu chí của các giải thưởng này rất cụ thể là: càng chống chính quyền cực đoan thì càng nhận được nhiều giải thưởng! Hoàn toàn trái ngược với những căn cứ được nêu trong các văn bản quốc tế về nhân quyền.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 17
Xét đến công cụ trao giải, trước tiên phải kể đến "mạng lưới nhân quyền Việt Nam" gồm những kẻ chống phá Nhà nước Việt Nam đã có thâm niên, như Nguyễn Thanh Trang, Võ Văn Ái, Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Minh Cần, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Hữu Lễ, Phạm Ngọc Lũy, Nguyễn Quốc Quân, Nguyễn Chí Thiện... Mạng lưới này được lập ra từ năm 2002, với hàng loạt các hoạt động "chống cộng", và "giải thưởng nhân quyền" được trao theo kiểu xếp hàng, lần lượt được trao cho các đối tượng có hoạt động tuyên truyền hoặc mưu đồ lật đổ Nhà nước Việt Nam như: Trần Anh Kim, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Chính Kết, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn...
Còn các tổ chức trao giải nhân quyền quốc tế khác, thì từ khâu xét chọn đến trao giải, đều có vai trò tích cực của các cá nhân, tổ chức thù địch với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, như: "Việt Tân", "tập hợp dân chủ đa nguyên", "cao trào nhân bản"... Nổi bật là tổ chức Quan sát nhân quyền quốc tế (HRW) với "giải thưởng Hellman/Hammet" mà tiền thân là tổ chức Helsinki Watch để
"giám sát" dân chủ, nhân quyền của Liên Xô (cũ), sau này được bành trướng, mở rộng thành một tổ chức tự phong cho mình quyền giám sát nhân quyền thế giới! Sự thật là những đối tượng được HRW trao "giải thưởng Hellman/Hammet" đều là các công dân Việt Nam vi phạm pháp luật. Nhìn khung cảnh những buổi lễ trao giải của HRW, không ai có thể nhận xét khác được về vai trò tích cực của các cá nhân, tổ chức mà ta gọi là bọn phản động lưu vong người Việt. "Giải thưởng Hellman/Hammet 2010" được trao cho sáu đối tượng người Việt thì trong đó có bốn đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, hiện đang là phạm nhân trong các trại cải tạo.
Chính vì vậy, trên các diễn đàn internet, không ít bạn đọc đã nhận rõ trắng - đen trong bản chất và hành vi của các tổ chức trao
18 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
giải nhân quyền, như trên diễn đàn BBC, bạn đọc viết: "Giải thưởng HRW chỉ có ý nghĩa với những ai coi trọng giải thưởng này thôi. Cá nhân tôi đánh giá thấp giải thưởng này do mức độ thành kiến của tổ chức này với Việt Nam là quá cao và hành vi của tổ
chức này với Việt Nam là quá khích". Không có gì ngạc nhiên khi đứng sau mỗi giải thưởng nhân quyền ấy đều có hình bóng trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành của một số nước phương Tây và đồng minh. Việc khai thác chiêu bài bảo vệ nhân quyền để ép buộc những quốc gia có chủ quyền khác vẫn không ngoài tham vọng điều hành thế giới. Trước xu thế phản đối quan điểm nhân quyền cưỡng chế của Mỹ và phương Tây (thể hiện trong Hội nghị quốc tế nhân quyền ở Vienna năm 1993 và nhiều diễn đàn, hội nghị khu vực, quốc tế khác), việc đẩy mạnh hình thức trao "giải thưởng nhân quyền" chỉ là màn kịch vụng về trên sân khấu chính trị hải ngoại, ngày càng phơi bày bộ mặt chống phá Nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch và những kẻ phản động lưu vong.
Thức tỉnh lương tri
trước mỗi cuộc chiến tranh*
TS. NGUYỄN MINH PHONG
Gần đây, một phúc trình của lục quân Mỹ cho biết, trong tháng 7-2012, có 38 binh sĩ tự sát, đây là con số cao nhất kể từ khi quân đội Mỹ bắt đầu lưu trữ hồ sơ loại này (năm 2009). Có thể coi đây là điều rất cần quan tâm, bởi lịch sử nhân loại cho thấy, các thiệt hại mà chiến tranh đưa tới không chỉ đo lường bằng tổn thất trực tiếp, tức thời trên chiến trường, mà còn thể hiện qua hậu quả dai dẳng, khủng khiếp đối với xã hội - con người. Chính vì thế, lương tri nhân loại cần luôn được thức tỉnh trước mỗi cuộc chiến tranh...
Theo thống kê của quân đội Mỹ, năm 2007 có 115 binh sĩ Mỹ tự sát (tăng 13% so với năm 2006), trong đó, có 43% thực hiện sau khi họ tham chiến ở nước ngoài, 31% khi đang tham chiến và 26% chưa từng được triển khai ngoài nước Mỹ. Năm 2008, có đến 140 vụ tự sát trong quân đội Mỹ, tăng 80% so với năm 2004 và là con số kỷ lục trong vòng 30 năm của quân đội Mỹ; trong đó, có đến 30% số vụ tự tử liên quan hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Cũng trong năm 2008, số lính Mỹ tìm đến điều trị, tư vấn tâm lý cũng tăng gấp hai lần so với năm 2003. Còn trong nửa đầu năm 2009, số lính Mỹ chết do tự sát còn nhiều hơn số chết ngoài chiến trường... Và theo báo Tin tức (Nga), trong vòng 155
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 28-8-2012.
20 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
đầu tiên của năm 2012, đã có 154 lính Mỹ tự tử, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2011. Để so sánh, tại Afghanistan trong cùng thời điểm, chỉ có 165 binh sĩ NATO chết và khoảng 50% trong số đó là binh sĩ Mỹ. Công ty Rand chuyên nghiên cứu phân tích về chính sách của Mỹ đã tiến hành điều tra và thấy rằng: có tới 20% số binh sĩ Mỹ sau khi rời chiến trường Iraq từ 3 đến 4 tháng đã mắc phải các loại bệnh tâm lý, trong đó có hội chứng tự sát. Đồng thời kết quả khám bệnh của Trung tâm kiểm tra sức khỏe tâm lý của Bộ Quốc phòng Mỹ cũng cho thấy: có 19,1% số lính Mỹ từ Iraq trở về
có vấn đề về tâm thần, gồm: trầm cảm, lo lắng, thường gặp ác mộng, không thể tập trung tâm trí vào việc gì... khiến họ trở nên nóng nảy, dễ nổi xung, thậm chí gây ra bạo lực và tan vỡ gia đình (trong số hơn 765.000 lính hải, lục, không quân Mỹ, có 27.000 vụ
ly hôn và nhiều vụ trong số này có liên quan vấn đề về tâm lý mà các binh sĩ gặp phải trên chiến trường).
Giữa tháng 4-2012, một báo cáo thống kê khác của quân đội Mỹ thừa nhận, mỗi năm có khoảng 6.500 vụ cựu chiến binh tự tử trong những năm gần đây, phần lớn là người đã trải qua chiến tranh Iraq và Afghanistan... Tỷ lệ tự sát trong binh sĩ tăng vượt ngưỡng trung bình xã hội, khiến dư luận rất quan tâm. Tổng thống Mỹ Barack Obama coi "đó là một lời nhắc nhở đau thương về cái giá của chiến tranh". Các nghiên cứu chỉ ra rằng, với nạn tự sát trong lính Mỹ, ngoài những nguyên nhân truyền thống như sự gia tăng bạo lực chiến trường, căng thẳng, chấn thương tâm lý, ma túy, rượu, thuốc lá và bệnh tật giày vò do chiến tranh, thì gần đây lại thêm các khó khăn tài chính do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra (ở Mỹ, thu nhập của một hộ gia đình trung bình dưới 22.000 USD/năm với bốn nhân khẩu được xếp vào diện nghèo; trong khi mức đền bù thương tật tỷ lệ tối thiểu 10% là 127 USD/tháng, và thương tật mức cao nhất được hỗ trợ 2.769 USD/tháng từ ngân sách)...
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 21
Những sự kiện này khiến người ta gợi nhớ tới "cuộc chiến sai lầm và tồi tệ nhất nước Mỹ" cách đây gần 40 năm ở Việt Nam, với tổng cộng hơn hai triệu lượt binh sĩ đã tới Việt Nam; 1,6 triệu người trực tiếp tham chiến; 2.387 người trong danh sách mất tích (hiện vẫn còn khoảng 1.600 người); hơn 58 nghìn người chết và hơn 300 nghìn người bị thương hoặc phải chịu đựng bệnh tật vì các loại hóa chất quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh như chất da cam hoặc mắc hội chứng rối loạn tâm lý sau chấn thương... Khi trở lại Việt Nam, nhiều cựu binh Mỹ luôn cảm thấy ân hận, giày vò và nỗi mặc cảm về những tội lỗi đã gây ra cho những người dân trên miền đất này. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S.McNamara nhấn mạnh: "Trong suốt thời gian dài chiến đấu ở Việt Nam vì những điều được tin rằng là đúng đắn và chính nghĩa, rằng tìm cách bảo vệ nền an ninh của nước Mỹ và ngăn chặn sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản và thúc đẩy nền dân chủ chính trị với quyền tự do cá nhân. Nghe theo những lời kêu gọi của các chính quyền của Kennedy, Johnson và Nixon đã đưa ra các quyết định, và bằng những quyết định đó, kêu gọi sự hy sinh, cống hiến và đúng là đã gây ra sự đau khổ ghê gớm dưới danh nghĩa của các mục đích và giá trị đó..."1. Danny L. Jacks - cựu binh thuộc Sư đoàn Americal đóng tại Chu Lai và bị "hội chứng sau chiến tranh" - PTSD (Post-Traumatic Stress Disorder), thấy mình vô nghĩa và thật sự đau đớn vì không biết làm gì để chuộc lại lỗi lầm gây ra trong chiến tranh, phải nhập bệnh viện tâm thần để chữa trị. Ông thừa nhận, ông chỉ thật sự thanh thản khi chứng kiến sự rộng lượng tha thứ đầy cao thượng của những con người - nạn nhân mà một thời ông cầm súng tìm diệt họ. Tương tự như vậy, tháng 6-1966,
______________
1. Xem: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
22 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
khi mới 18 tuổi, Allen Nelson đã tham chiến tại Quảng Nam. Trở về Mỹ, ông mắc PTSD, "sống trong ác mộng" và điều trị bệnh tâm thần suốt 20 năm. Năm 2005, Allen Nelson đến Việt Nam, ông viết: "Tôi đã đốt làng, giết con cháu của mọi người, đã giết người già và phụ nữ, các binh sĩ. Tôi đã dùng bạo lực với không biết bao nhiêu người dân trên đất nước Việt Nam. Sai lầm này khiến tôi phải ân hận suốt đời vì mọi người ở đây chẳng ai làm gì hại tôi, hại gia đình tôi cả. Tôi trở lại Việt Nam mục đích chính là để tạ lỗi". Sau khi Allen Nelson mất, theo ước nguyện của ông lúc còn sống, gia đình và người thân đã quyết định dùng số tiền ông để lại làm quỹ học bổng cấp cho học sinh Tam Kỳ - nơi ông đóng quân trước đây, góp một phần nhỏ cho học sinh hiếu học con nhà nghèo, các em bị khuyết tật, di chứng của chất độc da cam tiếp tục được cắp sách đến trường, như lời tạ lỗi của người cựu binh Mỹ đã từng gây tội ác với nhân dân Việt Nam.
Tháng 3 hàng năm, nhiều cựu chiến binh Mỹ và thành viên Tổ chức Madison Quakers (Mỹ) lại đến Việt Nam lặng lẽ tổ chức nhiều hoạt động từ thiện như: xây dựng nhà cho nạn nhân chất độc da cam, tặng phụ nữ nghèo, quyên góp quỹ xây dựng trường học... tại làng Sơn Mỹ và một số vùng quê nghèo tỉnh Quảng Ngãi. Tổ chức này còn là nhịp cầu kết nối nhiều tổ chức quốc tế đến với Mỹ Lai để tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, thay một lời tạ lỗi về cuộc thảm sát 504 thường dân vô tội Mỹ Lai - Sơn Mỹ (Quảng Ngãi) tháng 3-1968.
Đặc biệt, dù thoát khỏi tòa án binh năm xưa (bị kết tội chung thân rồi được giảm án xuống còn ba năm tù treo) sau gần 42 năm, lương tâm đã buộc trung úy William Calley, người chỉ huy vụ thảm sát, lần đầu tiên đã đưa ra lời xin lỗi người dân Mỹ Lai. Ngày 19-8-2009, phát biểu trước thành viên câu lạc bộ Kiwanis Club, bang Georgia, ông nghẹn ngào thừa nhận: "Chẳng có ngày nào mà tôi không cảm thấy hối hận vì những gì xảy ra ở Mỹ Lai hôm đó; tôi thấy thương xót
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 23
những người Việt Nam bị giết hại và gia đình họ, thương xót những lính Mỹ liên quan và cả gia đình. Tôi rất hối tiếc". Các thành viên câu lạc bộ đã đứng dậy vỗ tay tán thưởng khi Calley kết thúc. Trước sự kiện này, bà Phạm Thị Thuận - 1 trong 16 nhân chứng sống sót và có 6 người thân bị giết trong vụ thảm sát, đã nói: "Ông William Calley - người chỉ huy vụ thảm sát lẽ ra phải nói lời xin lỗi từ sau ngày Việt Nam giải phóng đất nước thì mới hợp lẽ hơn, chứ không phải đợi đến bây giờ... Tuy nhiên, mọi chuyện đã qua rồi, tôi tha thứ với điều kiện anh ta biết được đó là tội ác, đã thật sự sám hối". Ông Phạm Thành Công, Giám đốc Ban Quản lý khu chứng tích Sơn Mỹ chia sẻ: "Thay mặt cho các nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát Mỹ Lai, tôi chấp nhận lời xin lỗi của ông Calley. Để chuộc lỗi lầm với đồng bào Sơn Mỹ, hy vọng ông Calley hãy hành động thiết thực kêu gọi thế giới vì cuộc sống hòa bình. Đừng để bất cứ nơi nào trên thế giới lặp lại đau thương như vụ thảm sát Mỹ Lai này nữa"...
Lịch sử nhân loại đã cung cấp rất nhiều bằng chứng đủ cho thấy sự tàn phá khủng khiếp của các cuộc chiến tranh. Mà để ngăn ngừa, trước hết cần quan tâm số phận con người, số phận các dân tộc, quan tâm vấn đề tạo điều kiện giúp con người và các dân tộc cùng phát triển. Bởi, dù thế nào thì tính nhân văn của quan hệ con người và quan hệ dân tộc luôn loại trừ khỏi nó các tham vọng chính trị, các tham vọng dân tộc ích kỷ, hẹp hòi, đồng thời không chấp nhận thái độ xem thường, hay xâm phạm lợi ích của dân tộc khác. Về điều này, nên tham khảo ý kiến của ông Michael Dukakis - cựu Thống đốc bang Massachusett (Mỹ), cố vấn giải thưởng Trần Nhân Tông về Hòa giải, mới chia sẻ trên báo điện tử Vietnam.net ngày 12-7-2012: "Cách tốt nhất để tránh chiến tranh là học hỏi lẫn nhau, nói với nhau, trao đổi ý kiến với nhau, trao đổi sự khác nhau về văn hóa, chính trị. Đó là cách bạn mang thế giới lại gần nhau và khiến cho chiến tranh không phải là cách giải quyết xung đột...".
Trở về*
NGUYỄN PHƯƠNG HÙNG1
"Trở về" - một động từ chỉ với hai từ nhưng lại mang nhiều định nghĩa. Thật là khó để thể hiện trong một bài viết của một người đã 57 năm rời xa Hà Nội và 36 năm "bỏ nước ra đi" từ Sài Gòn hoa lệ vào thời điểm 30-4-1975. Không có nhiều kỷ niệm về miền Bắc vì ngày di cư vào Nam đang tuổi đánh bi, đánh đáo, đánh khăng. Nhưng miền Nam nơi tôi đã được nuôi dưỡng và trưởng thành thì đất nước sau ngày ra đi tìm "tự do" có rất nhiều kỷ niệm khó quên. Nội dung bài viết là "Trở về", tôi biết rằng đây là một chủ đề rất khó mà chỉ viết trong khuôn khổ cho phép, thì không thể chi tiết và nói lên hết tâm tư của mình.
Vâng, tôi đã thật sự trở về với quê hương thân yêu sau những năm tháng dài miệt mài "đấu tranh" trong vô vọng, nhưng không phải vì vô vọng mà "Trở về", mà vì những lý do khác và rất tình cờ.
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 28-9-2012.
1. Ông Nguyễn Phương Hùng quê ở Bắc Giang. Năm 9 tuổi, ông cùng gia đình di cư vào miền Nam. Năm 1967, ông tham gia quân đội của chính quyền Sài Gòn trước đây và tình nguyện vào lực lượng đặc biệt, nhảy dù và biệt động quân. Sau khi bị thương và giải ngũ, ông làm việc tại cơ quan ngoại vụ tình báo SEC và di tản sang Mỹ ngày 27-4-1975. Tại Mỹ, Nguyễn Phương Hùng là một trong các nhân vật tham gia “đấu tranh chống cộng”.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 25
Không một người Việt Nam yêu nước nào không nhớ đến quê hương, không nhớ đến cội nguồn dân tộc. Sự bất đắc dĩ phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn cũng là một cố gắng đối với những người thuộc thế hệ của tôi, huống chi bỏ cả đất nước và đồng bào để định cư tại một vùng xa xôi cách trở nửa vòng trái đất. Xét cho cùng sự ra đi và không trở về cũng là những điều không thể chấp nhận. Tôi đã quyết định cực đoan đến độ không về để chịu tang bố mẹ. Một hành động bất hiếu không chấp nhận được trong lễ giáo Á Đông, nhất là truyền thống dân tộc và phong tục Việt Nam.
Tháng 7-1995, tôi đã viết thư cho ông Bill Clinton - Tổng thống Mỹ đương nhiệm khi đó - để phản đối quyết định "hủy bỏ cấm vận" (Embargo Trading Lift). Lá thư được Văn phòng Tổng thống hồi âm, qua nội dung tôi biết được chiều hướng đổi thay của Chính phủ Hoa Kỳ đối với Nhà nước Việt Nam trong một thế thuận lợi cho đất nước. Năm 1997, quyết định "bình thường hóa quan hệ" (Normalization relationship) của Chính quyền Clinton càng cho thấy những nhận định của tôi về chính sách ngoại giao với Việt Nam là đúng theo sự suy nghĩ. Một sự đổi thay có tính toán cho một con đường dài từ 10 đến 20 năm của Chính phủ Hoa Kỳ.
Cuối cùng mãi đến năm 2011 tôi đã trở về Việt Nam. Bởi vì, tôi không chủ trương đi tìm cơ hội và Nhà nước Việt Nam cũng không chủ trương đi tìm những "móc nối". Sự cách biệt mãi cho đến khi tôi phỏng vấn ông Lê Quốc Hùng, khi đó là Tổng Lãnh sự
Việt Nam tại San Francisco. Lần gặp gỡ này mới có dịp cho tôi tìm hiểu thêm về thành phần đại diện Nhà nước tại hải ngoại. Thành kiến người cộng sản Việt Nam ác độc, đi dép râu và mang súng AK tiến vào tiếp quản Sài Gòn năm 1975 hoàn toàn biến mất trong tôi, khi cùng ông ngồi nói chuyện rất thân tình và cởi mở. Trong cuộc nói chuyện, tiến sĩ Lê Quốc Hùng cho tôi thấy đây là một trong những biểu tượng khiêm nhường của người đại diện
26 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Nhà nước Việt Nam rất biết người biết ta. Sự thân thiện và không khí dễ chịu hoàn toàn khác hẳn những phiên họp trong cộng đồng. "Kẻ thù" của tôi đây ư? Sao họ đàng hoàng và trí thức so với không khí om sòm hành tỏi trong cộng đồng...
Trên chuyến bay của Vietnam Airlines tôi đã cố gắng kiềm chế xúc động. Đúng ra, ngay từ phi trường Đài Bắc, tôi đã nén lòng ép những giọt nước mắt và trong gói hành trang tình cảm mang hai chữ "quê hương" khi nhìn thấy hàng chữ Vietnam Airlines trên những chiếc máy bay và màu áo xanh da trời quen thuộc của các cô tiếp viên hàng không gợi lại ký ức trong tôi về màu áo của các cô chiêu đãi viên trước kia thời chính quyền Sài Gòn cũ. Tôi mang trong tâm trạng một sự hãnh diện ngấm ngầm về sự tiến triển của đất nước qua Công ty Hàng không Việt Nam trong sự chinh phục không trung để góp mặt trên các đường bay quốc tế. Trên chuyến bay tôi thấy đồng bào tôi, những người cùng nói một ngôn ngữ đang vui đùa nói chuyện về
Việt Nam và chương trình thăm viếng. Tôi chợt bất giác tủi thân cho số phận và hối hận về những việc mình làm trong 36 năm tại Mỹ. Có thể trên chuyến bay cũng có những người từng đi biểu tình hay từng nằm trong những tổ chức "yêu nước" nhưng hình như ai cũng quên đi và không nhắc nhở đến hận thù. Giờ này, trên khuôn mặt ai cũng chỉ
thấy vẻ vui tươi được Vietnam Airlines chuyên chở tình thương về quê nhà.
Từ Đài Bắc về Hà Nội, tôi hoàn toàn không ngủ, đó là sự bồn chồn và tâm trạng của người xa quê 36 năm. Tiếng cô tiếp viên thông báo máy bay chuẩn bị đáp xuống phi trường Nội Bài thì tất cả những xúc động bị đè nén từ lúc cơ trưởng loan báo máy bay đã đi vào vùng trời Việt Nam, hai hàng nước mắt không cầm được đã tuôn trào ra trên hai gò má của người con tha phương trở về sau 36 năm. Vâng! Hà Nội của tôi 57 năm trước đây ngày tôi xa Hà Nội để theo gia đình "di cư" vào Nam từ phi trường Bạch Mai. Ngày đi tôi chỉ 9 tuổi, một cái tuổi chưa có nhiều kỷ niệm để nhớ
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 27
ngoài tên Trường Đa Minh (mầm non) và Tiểu học Lý Thường Kiệt. Chùa Một Cột, Dinh Toàn quyền, Hồ Tây, Hồ Gươm, chợ Đồng Xuân mang máng trong trí nhớ. Vậy mà cũng vẫn làm tôi xúc động.
Tôi như mơ ngủ, tôi bàng hoàng vì mình vừa được đặt chân trở về đất Mẹ. Cái xúc động của người con xa xứ trở về có lẽ không thể diễn tả được bằng văn chương, vì tình yêu quê hương khác hẳn tất cả những loại tình yêu trên cuộc đời. Một thứ tình cảm không thể nói ra được bằng lời, nó thiêng liêng và huyền diệu bằng những nỗi nhớ thương và bùng dậy mãnh liệt khi hình ảnh hiện thực đang diễn ra trước mắt. Giờ tôi mới biết tại sao có những người muốn được trở về chết trên quê hương hoặc thân nhân họ sẵn sàng chấp nhận tốn kém để được chọn cất người thân tại quê nhà. Có đi xa mới thấy mình yêu quê hương đất nước đến chừng nào. Những tình yêu quê hương tưởng chừng đã mất đột nhiên sống lại mãnh liệt trong tôi. "Quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người" - câu thơ này thật đúng. Tôi đã khóc như một đứa trẻ khi đặt chân xuống mảnh đất quê hương.
Tôi đã đến nhiều nơi như: đền Hùng (Phú Thọ), thành nhà Hồ (Thanh Hóa), đến đền Quang Trung (Nghệ An), Thành cổ Quảng Trị, Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), cầu Hiền Lương (Quảng Trị), đến Dinh Độc Lập (Thành phố Hồ Chí Minh)... mỗi một nơi đều để lại trong tôi đầy cảm xúc niềm tự hào về quê hương đất nước.
Tôi được tự do đi đây đi đó, tiếp xúc và nói chuyện với bất cứ ai tôi gặp và tôi muốn... Tôi đã mua một cái quạt tại chùa Bái Đính và ngồi ôm cụ già đã 80 tuổi để khóc mà nhớ mẹ. Trên đường từ Cần Thơ về Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi ghé qua Mỹ Tho thưởng thức món ăn danh bất hư truyền là hủ tiếu Mỹ Tho. Một cụ già lưng còng mắt mũi lem nhem đi bán vé số. Tôi mua giúp cụ 10 tấm vé, nhưng không lấy vé nào và biếu lại cụ. Hy vọng bà cụ trúng thưởng những vé số đó. Con người tôi lập dị như vậy, đừng bảo là tôi đóng kịch. Mà đóng kịch để làm gì nhỉ? Tôi xúc động vì đất nước tôi đổi mới, những công trình lớn xây dựng khắp nơi. Tôi khóc vì văn minh
28 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
tiến bộ và những đầu óc thông minh hiếu học của tuổi trẻ Việt Nam, tương lai của đất nước. Nhưng tôi cũng khóc vì đất nước tôi vẫn còn nghèo. Đất nước nào, xã hội nào cũng vậy, trong cái tích cực không thể tránh được những tiêu cực. Có ai dám chắc Hoa Kỳ không có người nghèo, người vô gia cư và người khủng hoảng tâm thần. Có ai dám bảo đảm tại vương quốc dầu hỏa giàu có như Saudi Arabia không có những góc phố của người nghèo?
Trong quá khứ tôi là người có tội với đất nước, vì tôi mù quáng tin vào những bông hoa vẽ thật đẹp bên ngoài chiếc bánh ngọt thiu cũ của một thiểu số người cộng đồng hải ngoại. Tôi khóc vì tôi đã có một thời gian không giúp gì cho đất nước mà lại không im lặng để
người ta rảnh tay xây dựng đất nước. Họ - những người chiến thắng trong cuộc chiến và đã đưa một đất nước bị tàn phá vì chiến tranh và gánh chịu những hậu quả nặng nề của gần một thế kỷ dưới ách thực dân Pháp lên vị trí khá vững chãi tại Đông Nam Á. "Hãy nhìn những gì cộng sản làm", vâng bạn hãy nhìn đi. Từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh, đi qua những thành phố Huế và Đà Nẵng tôi thấy nhiều quốc gia tự do cũng còn thua xa. Quê hương, đất nước tôi hôm nay đây đang được những người đã thật sự đổi mới tư duy điều hành. Việt Nam đã vươn lên trong sắc diện từ ngày các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, có những sự thay đổi táo bạo. Hãy nhìn những gì cộng sản làm để biết tại sao Hoa Kỳ và thế giới, gần 200 quốc gia đã công nhận. Hiện nay số du học sinh từ Việt Nam tại Hoa Kỳ đông hàng thứ bảy. Tôi đã nhìn Nhà nước Việt Nam qua hình ảnh Hoa Kỳ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách "các quốc gia cần quan tâm đặc biệt" (CPC); được vào tổ chức WTO (World Trade Organization); được trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; các lãnh đạo Việt Nam từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng đều được đón tiếp trọng thể trên thế giới. Tôi cũng nhìn thấy trong vòng 10 năm qua, ba vị Tổng thống của Hoa Kỳ và nhiều lãnh đạo cấp cao như Ngoại trưởng, Bộ trưởng đã liên tục đến Việt Nam để đối thoại và hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 29
Tôi thật sự phải tự hỏi, tôi đã làm gì cho đất nước trong một đời người 60 năm tôi đã làm mất 36 năm tại nước ngoài? Tôi đang làm được gì cho đất nước trong khi người ngoại quốc đang đầu tư vào quê hương tôi. Ngày đi với đoàn công tác số 6 để ra thăm quần đảo Trường Sa... Tại những đảo đi qua, tôi đã lại rơi nước mắt trong những buổi lễ cầu siêu cho những người con yêu của Tổ quốc đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của quốc gia. Tôi đã khóc khi nhìn thấy màu xanh của biển và những bộ
quân phục màu xanh của lính biển hòa cùng màu xanh của cây lá trên đảo. Tôi khóc cho đời sống còn nhiều thiếu thốn của đồng bào và chiến sĩ, những con người can trường chống chọi với hiểm họa thiên nhiên, để bảo vệ hải đảo và luôn cảnh giác trước những tranh chấp của bất cứ thế lực bên ngoài nào. Tại Trường Sa tôi mới thật sự thấm thía câu hát trong bài Tình hoài hương: "Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời".
Tôi viết lên những tâm sự của người trở về sau một cuộc hành trình dài trên đất Hoa Kỳ - đất nước của những người không nói cùng ngôn ngữ. Còn rất nhiều điều để viết vì quê hương đã có quá nhiều đổi thay. Trang sử đã lật qua và quá khứ thì không lấy lại được, cho nên tôi đi về phía trước để đồng hành với toàn thể dân tộc. Tôi nghĩ đã đến lúc tôi và mọi người hải ngoại bỏ nước ra đi nên có một lời tạ tội với đất nước. Qua bài viết này tôi xin tạ tội với Tổ quốc, với tiền nhân vì tôi đã ra đi và 36 năm không một lần trở về. Hôm nay tôi xin có lời cảm ơn tất cả mọi người đã xây dựng một đất nước Việt Nam và tôi hãnh diện trên mỗi bước chân tôi đi qua. Xin đừng cười chế giễu những giọt nước mắt. Tôi nghĩ rằng chỉ có những xúc động chân tình và sự giác ngộ thật lòng mới làm cho con người nhìn nhận được đổi thay không chối cãi.
Xóa đói, giảm nghèo -
một nội dung cơ bản để phát triển nhân quyền*
ANH KHÔI
Nhân quyền, với ý nghĩa chân chính cần được nhìn nhận trên bình diện rộng mà ở đó, con người được xã hội quan tâm tạo điều kiện để có thể phát triển toàn diện về đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Ngày Quốc tế nhân quyền (10-12) và 64 năm Liên hợp quốc công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948 - 2012) là dịp để chúng ta đánh giá và khẳng định những thành tựu nhân quyền nổi bật thể hiện qua công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã được tiến hành ở Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua.
Đối với vấn đề nhân quyền, quan điểm của Liên hợp quốc, cũng như quan điểm và luật pháp Việt Nam đều khẳng định các quyền cơ bản của con người là: quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, quyền được tự do đi lại và cư trú... Các quyền ấy chỉ có thể được thực hiện khi các nhu cầu thiết yếu của con người được bảo đảm, đó là sự đáp ứng nhu cầu về ăn, mặc, ở, về nước sạch, khám, chữa bệnh và giáo dục. Điều này thể hiện rõ ở khát vọng của Chủ tịch
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 7-12-2012.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 31
Hồ Chí Minh. Người nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Cơm áo, học hành của nhân dân chính là biểu hiện sâu sắc, cụ thể nhất của quyền con người, và phù hợp với sự phát triển ở một quốc gia có nền tảng kinh tế ở trình độ thấp, dân trí còn chưa phát triển. Cũng từ quan điểm này, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trở thành mục tiêu hàng đầu, nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, được cụ thể hóa bằng pháp luật cùng các chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi xóa đói, giảm nghèo là một nội dung hết sức quan trọng trong các chính sách xã hội. Mục tiêu của phát triển kinh tế ở nước ta là xóa bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống nhân dân gắn với bảo đảm các quyền của con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Đồng thời, chúng ta coi con người vừa là động lực, vừa là nhân tố quan trọng nhất để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, công cuộc xóa đói, giảm nghèo được chính thức phát động và đẩy mạnh vào đầu những năm 90, thế kỷ XX, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Hàng loạt chương trình xóa đói, giảm nghèo đã và đang được triển khai. Vào những năm đầu thế kỷ XXI,
Nhà nước Việt Nam đã đặt vấn đề giải quyết đói nghèo trong chiến lược phát triển bền vững, chính sách xóa đói, giảm nghèo được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương.
Hơn 20 năm qua, nhờ duy trì liên tục mức tăng trưởng kinh tế khá cao, đất nước đã tạo ra nguồn lực vật chất, tinh thần to lớn để đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân. Báo cáo của Chương trình phát triển của Liên hợp
32 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
quốc cho thấy: Tính theo chuẩn nghèo quốc tế, tỷ lệ người nghèo của Việt Nam liên tục giảm từ hơn 60% vào năm 1990, xuống 37% vào năm 1998, 18,1% vào năm 2004 và năm 2011 còn 14,5%. Theo Ngân hàng Thế giới, trong 16 năm từ 1992 đến 2008, tổng nguồn vốn đầu tư cho giảm nghèo ở Việt Nam đạt hơn 260 tỷ
USD. Từ một quốc gia bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế xuất phát điểm thấp, thì vào năm 2009, Việt Nam đã được Ngân hàng Thế giới đưa vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình (hơn 1.000 USD/người). Đó cũng là cơ sở để Liên hợp quốc có thể
khẳng định Việt Nam là quốc gia thành công nhất thế giới trong xóa đói, giảm nghèo. Dù kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, chưa có nhiều tích lũy để phát triển, nhưng Việt Nam đã triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo, tập trung cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Có thể nhắc tới một số chương trình giảm nghèo dài hạn như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn I và giai đoạn II; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo trong giai đoạn 2009 - 2020...
Trong số đó, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất với cộng đồng quốc tế là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (còn gọi là Chương trình 135). Chương trình được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn I từ 1997 - 2006, và giai đoạn II từ 2006 - 2010. Trong giai đoạn I, gần 2.000 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới được đầu tư để phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số, phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công cộng thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch, nâng cao đời sống văn hóa. Đồng thời, Nhà nước đầu tư nhiều chương trình, dự án khác, miễn giảm thuế,
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 33
cung cấp miễn phí sách giáo khoa, báo chí, trợ giá một số nhu yếu phẩm... Trong 5 năm tiếp theo, giai đoạn II tập trung vào 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành. Giai đoạn này đã đạt được mục tiêu là tạo chuyển biến nhanh về sản xuất; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước và xóa hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.
Theo Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội vào tháng 5-2012, mặc dù ngân sách còn khó khăn nhưng Nhà nước vẫn ưu tiên bố trí tăng thêm nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia. Đến hết năm 2011, cả nước có 57/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi, 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 16,8%... Các Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai hoạt động tín dụng với lãi suất cho vay ưu đãi đến tận từng thôn, bản, khu dân cư ở vùng sâu, vùng xa. Học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo được hưởng các chế độ miễn,
giảm học phí, được vay tín dụng sinh viên. Chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đều có sự ưu tiên cho người nghèo. Bên cạnh đó, quyền tiếp cận những dịch vụ cơ bản như nước sạch, chăm sóc sức khỏe, giáo dục ngày càng được củng cố vững chắc trong pháp luật, được cụ thể hóa bằng các chương trình mục tiêu quốc gia. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, Việt Nam áp dụng các chính sách bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho mọi người dân. Giám đốc UNDP tại Việt Nam, bà Setsuko Yamazaki bình luận: "Việt Nam đã đạt được sự chuyển biến ấn tượng về tuổi
34 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
thọ trung bình, tăng từ 65,6 tuổi năm 1990 lên 75,2 tuổi năm 2011; tổng thu nhập quốc gia (GNI) bình quân đầu người tăng từ 855 USD lên 2.805 USD trong cùng giai đoạn". Khẳng định thành tựu của Việt Nam trong xóa đói, giảm nghèo, tháng 10-2010, Học viện Phát triển Nước ngoài (ODI) tuyên bố trước một hội nghị của Liên hợp quốc rằng: "Việt Nam là một trong hai nước đi đầu trong việc giảm nghèo và cải thiện sức khỏe theo các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ".
Công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam có sự hỗ trợ rất lớn của Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế, các NGO, và của cộng đồng người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Mỗi khi bão lũ, thiên tai, người nghèo và những người lâm vào hoàn cảnh khó khăn lại nhận được sự giúp đỡ chí tình của nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài.
Lịch sử thế giới cho thấy những quốc gia nào quan tâm đến đời sống người dân thì duy trì được sự ổn định, có điều kiện để phát triển. Mong muốn phát huy dân chủ hay hiện thực hóa quyền con người phụ thuộc không ít vào kết quả xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống của người dân. Thực tế này càng làm rõ giá trị
to lớn của các chính sách xóa đói, giảm nghèo của Nhà nước Việt Nam. Nhờ có các chính sách xóa đói, giảm nghèo nhất quán và sự kiên trì trong triển khai thực hiện, Việt Nam đã giữ được chính trị - xã hội ổn định, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân luôn thống nhất trong một khối đoàn kết, cùng vượt qua khó khăn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là bằng chứng thuyết phục nhất để chứng minh bản chất nhân văn và quan điểm "của dân, do dân và vì dân" của Nhà nước Việt Nam.
Bảo đảm an sinh xã hội
là thiết thực phát triển nhân quyền*
NGUYỄN MINH PHONG
Những năm gần đây, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam trở thành mục tiêu để các thế lực thù địch tập trung chống phá bằng nhiều thủ đoạn. Đáng tiếc, dựa trên thông tin do các thế lực thù địch gieo rắc, một số chính phủ, tổ chức quốc tế lại xem xét vấn đề một cách phiến diện, để từ đó đưa ra nhận xét, yêu cầu phi lý.
Trong nhiều nội dung liên quan tới nhân quyền, Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm tới việc bảo đảm an sinh xã hội. Năm nay kỷ niệm 64 năm Liên hợp quốc công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (10-12-1948 – 10-12-2012) là dịp để chúng ta xem xét vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam như một yếu tố quan trọng góp phần xây dựng, củng cố và phát triển nhân quyền.
Với sự phát triển của xã hội, vai trò của con người ngày càng đề cao và được khẳng định như là trung tâm, động lực và mục tiêu của phát triển. Trong đó, quyền có việc làm, thu nhập, nhà ở, được học hành, được chăm sóc sức khỏe và dùng nước sạch, được sống trong môi trường an toàn, được tạo mọi điều kiện mưu cầu hạnh phúc,... đã trở thành các quyền cơ bản, thiết thực, và có ý nghĩa cao nhất đối với con người trong quan niệm phổ cập, toàn diện về nhân quyền. Đó cũng là nguyên nhân để an sinh xã hội trở thành
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 11-12-2012.
36 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
một trong các trách nhiệm của Nhà nước, là thước đo, chỉ báo tập trung, tin cậy, cũng như thiết thực nhất về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nói chung, về nhân quyền nói riêng. Bởi, dẫu thế nào thì vẫn không thể có nhân quyền đầy đủ, đúng nghĩa ở bất kỳ một quốc gia nào mà ở đó, người ta chỉ nhấn mạnh tới "quyền chính trị" và "quyền dân sự", trong khi "quyền xã hội" (như cách gọi của nhà xã hội học người Anh Thomas Marshall đưa ra từ năm 1949) lại mờ nhạt, hệ thống an sinh xã hội bị buông lỏng, đại bộ phận người lao động và dân cư xã hội bị bỏ rơi.
Nhà nước Việt Nam luôn coi an sinh xã hội có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong việc bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sống thiết yếu khác cho hàng chục triệu người, trong đó quan tâm đến những người khuyết tật, nghèo, những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch họa và biến động thị trường và dễ bị tổn thương khác. Hơn nữa, an sinh xã hội với ý nghĩa bảo đảm cuộc sống ngày càng được an toàn và cải thiện, ưu tiên giải quyết các vấn đề tạo việc làm và giảm nghèo là rất phù hợp với động lực, mục tiêu xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng trước đây và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay. Chủ trương phát triển an sinh xã hội được Đảng và Nhà nước thể hiện nhất quán với nội dung ngày càng hoàn thiện trong những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững, cũng như trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng ASEM về Lao động - Việc làm lần thứ 4 (25 và 26-10-2012) với chủ đề "Việc làm và an sinh xã hội - chìa khóa để tăng trưởng toàn diện và bền vững", Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội là một chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam. Trong những năm qua, mặc dù còn hạn chế về nguồn lực, nhưng Chính phủ Việt Nam
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 37
luôn quan tâm xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp về việc làm, bảo đảm an sinh xã hội. Các chính sách không ngừng được bổ sung và hoàn thiện, đối tượng hưởng chính sách được mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Chính phủ Việt Nam triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp về việc làm, dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội và đã đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, tạo nên đồng thuận và ổn định chính trị xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 nhấn mạnh: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống cho nhân dân. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001 - 2010 của Việt Nam tiếp tục khẳng định: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; đồng thời bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, và xác định mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao, bền vững hơn, gắn với phát triển con người. Mới đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 một lần nữa xác định: Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ, cải thiện môi trường... kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường, trước mắt và lâu dài, Nhà nước, tập thể và cá nhân, hướng đến vì hạnh phúc lâu dài của con người với tư cách là mục tiêu và động lực mạnh nhất, cao nhất trong quá trình phát triển...
38 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Ngày 12-4-2012, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, theo đó, Việt Nam chủ trương coi phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân; coi con người là trung tâm của phát triển bền vững; phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; đẩy mạnh công tác giảm nghèo, tạo việc làm bền vững; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội; có chính sách phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm bớt sự gia tăng chênh lệch về mức sống của các vùng, các nhóm xã hội. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, hiệu quả. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương. Chủ động phòng ngừa, giảm tới mức thấp nhất và khắc phục những rủi ro do tác động của kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm, khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, tăng độ bao phủ, nhất là đối với các đối tượng khó khăn, các đối tượng dễ bị tổn thương...
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận về hoạt động bảo đảm an sinh xã hội. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2011, chi cho an sinh xã hội của nước ta bình quân chiếm
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 39
6,6% GDP/năm, trong đó, ngân sách nhà nước chiếm 51%. Nhà nước đã ban hành 20 chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo, người khuyết tật, người đi xuất khẩu lao động, người lao động bị mất việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ gia đình thuộc các huyện nghèo, vùng khó khăn. Năm 2011, cả nước có 10 triệu 130 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, hơn 100.000 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; khoảng 7,6 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp; hơn 57 triệu người (62% dân số) tham gia bảo hiểm y tế. Hằng năm, riêng 9 đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên khoảng 0,12% GDP hoặc 0,3% - 0,5% chi ngân sách nhà nước, trong đó cho 1,4 triệu người có công và 1,6 triệu người thuộc đối tượng xã hội khác. Ngoài ra, Nhà nước còn trợ cấp đột xuất khoảng 0,5% - 0,6% GDP,
hoặc 1,5% - 1,6% chi ngân sách nhà nước cho các vùng thiên tai. Theo Tổng cục Thống kê, tuổi thọ trung bình của người dân đạt 73,2 tuổi. Năm 2010, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành phổ cập trung học cơ sở; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%, lao động qua đào tạo nghề là 25%. Hỗ trợ về nhà ở đáp ứng được 62% số hộ có nhu cầu; số hộ nghèo ở nhà tạm giảm từ 24,6% (năm 2001) xuống còn 5,6% (năm 2010). Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đã tăng lên 80% (năm 2010) so với mức 62% (năm 2005). Đến cuối năm 2011, cả nước có khoảng 580 cơ sở bảo trợ xã hội (hơn 1/3 trong số đó là các cơ sở ngoài nhà nước), nuôi dưỡng 41.000 người dân bị khuyết tật, nhiễm HIV, người già cô đơn, trẻ em mồ côi,... không có khả năng tạo thu nhập và tự chăm sóc. Số người hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tăng từ 700 nghìn người vào năm 2007 lên 1,674 triệu người vào năm 2011, chiếm 2% dân số. Công tác trợ giúp đột xuất được Nhà nước quan tâm và ngày càng xã hội hóa theo tinh thần tương thân, tương ái. Mỗi năm Nhà nước chi khoảng 1.000 tỷ đồng và khoảng 50 - 60 nghìn
40 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
tấn gạo hỗ trợ người dân ở các địa phương khắc phục thiên tai, ổn định cuộc sống.
Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống an sinh xã hội ngày càng đa dạng và toàn diện, có tính chia sẻ ngày càng hài hòa hơn giữa Nhà nước, xã hội và người dân; đồng thời có sự tương thích, phù hợp hơn với quan niệm về quyền an sinh xã hội trong Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)... Năm 2008, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã hội cởi mở và đồng thuận hơn. Các yếu tố đó cùng quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, đã làm cho diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, thế và lực của Việt Nam ngày càng thêm vững mạnh; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo ra các tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Để đạt mục tiêu đến năm 2020 trở thành quốc gia có hệ thống an sinh xã hội hướng tới bao phủ toàn dân, Việt Nam phấn đấu trong giai đoạn 2012 - 2020, bình quân mỗi năm phải bảo đảm tổng chi cho an sinh xã hội đạt khoảng 13,5% GDP; trong đó, phần ngân sách nhà nước chiếm khoảng 30% tổng chi an sinh xã hội và khoảng 11,5% tổng chi ngân sách nhà nước. Đồng thời, Việt Nam sẽ đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 80/2011/NQ-CP ngày 19-5-
2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2020 và các chương trình, chính sách giảm nghèo, tập trung ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn; nâng cao tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội; cải thiện cân đối quỹ bảo hiểm xã hội; mở rộng diện được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất, cũng như
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 41
nâng mức chuẩn trợ cấp; đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc người yếu thế; tăng phổ cập trung học cơ sở và giáo dục nghề nghiệp tại miền núi, dân tộc thiểu số; cải thiện hệ thống y tế quốc gia; mở rộng đối tượng bảo hiểm y tế; đẩy mạnh cải thiện điều kiện nhà ở và các điều kiện tối thiểu về vệ sinh, điện, nước sạch, thông tin và các dịch vụ khác cho người dân trên cả nước, ưu tiên người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, người dân nông thôn, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp và sinh viên. Đặc biệt, Việt Nam sẽ thực hiện xây dựng Báo cáo quốc gia về an sinh xã hội, xây dựng bộ chỉ số an sinh xã hội làm cơ sở theo dõi và đánh giá hiệu quả thực hiện an sinh xã hội trong từng thời kỳ và tham chiếu với quốc tế...
Với những nhận thức và định hướng đúng đắn, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng thế giới, chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được những bước tiến mới về bảo đảm an sinh xã hội như là việc làm thiết thực nhất để bảo đảm thực hiện nhân quyền ở Việt Nam.
Thành tựu về giáo dục trong phát triển quyền con người ở Việt Nam*
THIÊN PHƯƠNG
Nhân Ngày quốc tế nhân quyền (10-12), 64 năm Liên hợp quốc công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948 - 2012), nhìn lại quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta bền bỉ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đem lại quyền làm người cho mọi người dân, trong đó có quyền được học tập. Thực tế sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là một minh chứng cụ thể bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cũng như ý kiến thiếu thiện chí của một số chính phủ, tổ chức quốc tế đối với vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Đất nước bị nô lệ thì nhân dân không thể có tự do, quyền con người bị chà đạp. Vì thế, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Nói cách khác, không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thì không thể nói đến quyền con người. Đó cũng là mục tiêu cao cả để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Mục đích hướng tới, tâm niệm của Người là độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc ấm no của nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi sự nô dịch và sự bất công về kinh tế, văn hóa. Từ rất sớm, trong tác
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 14-12-2012.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 43
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Người viết: "... "Làm cho dân ngu để dễ trị" đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất". Người đã dành trọn cuộc đời cùng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, giành lại cho nhân dân Việt Nam quyền con người, trong đó có quyền được học tập.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng những di sản lạc hậu về dân trí, văn hóa do chế độ cũ để lại rất nặng nề. Ở thời điểm đó, tỷ lệ người dân Việt Nam mù chữ lên tới hơn 95%. Cho nên, ngay từ những ngày đầu của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, việc phát triển nền giáo dục, tạo cơ hội cho mọi người dân hưởng quyền được học tập đã được xác định là nhiệm vụ
quan trọng vừa cấp bách, vừa lâu dài của chính quyền mới. Một ngày sau khi tuyên bố với thế giới Việt Nam đã giành lại độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", Người coi "giặc dốt" cũng nguy hiểm như "giặc ngoại xâm", cấp bách như đối phó với "giặc đói"; Người khẳng định chống nạn mù chữ là nhiệm vụ sau chống "giặc đói", là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Năm 1946, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xác định: "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp". Nếu nói về thời gian, điều này đã ra đời trước ba năm so với khoản 1 Điều 26 của Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948): "Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc".
Cho đến nay, các quan điểm cơ bản về phát triển giáo dục được xác định từ ngày thành lập nhà nước dân chủ, nhân dân vẫn thường xuyên được hoàn thiện để phù hợp với tiến trình phát triển,
44 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
và luôn được cụ thể hóa trong sự nghiệp giáo dục toàn dân. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), sự nghiệp giáo dục càng được nhấn mạnh hơn, được coi là quốc sách hàng đầu trong khi đề cập vấn đề phát triển con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua đã khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển". Gần đây nhất, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) một lần nữa lại nhấn mạnh: "Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước, của toàn dân và là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo phải được ưu tiên và đi trước. Mục tiêu cốt lõi của giáo dục và đào tạo là hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực con người Việt Nam".
Cùng với quan điểm phát triển giáo dục là việc khẳng định quyền bình đẳng về cơ hội được hưởng nền giáo dục của mọi người dân Việt Nam không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu: "Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng".
Trải qua mấy chục năm kháng chiến giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn nhất quán với chiến lược phát triển giáo dục, dành một phần ngân sách rất lớn cho giáo dục. Báo cáo chính trị
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: "Chi ngân sách nhà
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 45
nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm... Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở". Trong 10 năm (2001 - 2011), chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng 11,8%. Cho đến nay, về cơ bản, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục các cấp học ở mọi vùng, miền, với nhiều loại hình trường lớp, với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng sâu, vùng xa.
Để cụ thể hóa chính sách ưu tiên đầu tư nhiều mặt về giáo dục cho các địa bàn có nhiều khó khăn, chúng ta đã triển khai các kế hoạch xây dựng trường học kiên cố và đạt chuẩn chất lượng, kết hợp với nỗ lực xóa đói, giảm nghèo, qua đó tạo thêm cơ hội cho trẻ
tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ giáo dục. Từ năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2002 - 2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15 - 24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Năm 2010 đã có 97,3% người dân biết chữ. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh. Đáng chú ý là đã có gần 120.000 trẻ khuyết tật học hòa nhập trong các trường phổ thông và mầm non. Trong năm học 2003 - 2004, hầu hết các địa phương trong cả nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật độ tuổi lớp 1 đi học để hòa nhập theo chương trình và sách giáo khoa mới... Những con số đó khẳng định Việt Nam đã tạo sự công bằng trong tiếp cận quyền lợi về giáo dục cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, trên khắp mọi vùng, miền và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
46 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Vì thế, Việt Nam được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đánh giá là nước có các thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương, và hoàn toàn có khả năng hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
(MDGs) về phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015. Từ vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội và con người, cần khẳng định rằng, các chỉ số về giáo dục là một thước đo quan trọng đối với mức độ thực thi quyền con người. Bởi không ai có thể bác bỏ một thực tế là: cơ hội và khả năng tham gia của mỗi cá nhân trong việc tiếp cận để thụ hưởng các thành quả của giáo dục, chia sẻ những điều kiện để nâng cao trình độ cũng như khả năng phát triển tri thức, trí tuệ của mỗi người cũng là phương diện biểu hiện cụ thể nhất của việc thực thi nhân quyền ở một quốc gia. Hiện tại, dù nền giáo dục ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế, hệ thống giáo dục chưa theo kịp yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, nhưng qua chiều dài lịch sử gần 70 năm qua và từ quan điểm phát triển một trong các quyền cơ bản của con người, các tiến bộ trên lĩnh vực này rõ ràng là không thể phủ nhận.
Quyền lãnh đạo của đảng
là sự tín nhiệm, thừa nhận
của nhân dân*
THIÊN PHƯƠNG
Hơn 80 năm qua, những thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của dân tộc Việt Nam đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là sự thật không ai có thể bác bỏ. Sự đúng đắn đó thể hiện trước hết ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát trong sáu chữ "độc lập - tự do - hạnh phúc", và ngày nay trong bước phát triển mới của lịch sử, đó chính là mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân, đế quốc. Tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc là nền tảng và gắn liền với quá trình xây dựng đường lối, lãnh đạo đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam, gắn liền với lịch sử hiện đại của đất nước. Tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển, bổ sung, hoàn thiện qua mỗi giai đoạn lịch sử thông qua việc kết hợp lý luận với thực tiễn, được kiểm nghiệm qua thực tiễn và đã trở thành đường lối của Đảng, được hiện thực hóa trong cuộc đấu
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 1-3-2013.
48 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
tranh giải phóng dân tộc. Con đường cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn không theo lối mòn, mà đó là chiến lược luôn luôn phát triển trong sự tiếp thu, có phê phán và chọn lọc, hướng tới mục tiêu triệt để là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã thể hiện sự độc lập sáng tạo và cả sự dũng cảm trong tư duy, hành động của mình khi khẳng định rằng: Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc, nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước ở một nước thuộc địa. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, giành độc lập, giải phóng dân tộc thành công sẽ tạo tiền đề để tiến lên giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Độc lập dân tộc phải được xem là mục tiêu chủ yếu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng ở các nước thuộc địa mà Việt Nam là một trường hợp điển hình.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam - đây là điểm khác biệt với lịch sử hình thành các Đảng Cộng sản ở những nước khác. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã tập hợp được lực lượng đông đảo nhất, huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn nhất để bảo đảm giành thắng lợi. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc (chân chính) là động lực lớn của đất nước và khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng của liên minh công - nông và trí thức là lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam, đại đoàn kết là một chiến lược cách mạng.
Lý luận cách mạng tiên tiến, khoa học là điều kiện cần cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, điều kiện đủ không thể thiếu là phải xây dựng được một Đảng cách mạng vững mạnh, với đội ngũ cán bộ cách mạng trung kiên, đủ nhiệt tình và năng lực đưa
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 49
lý luận cách mạng vào thực tiễn đấu tranh. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị "mảnh đất" để gieo những "hạt giống đỏ" đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, từng bước đưa tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin bén rễ vào thực tiễn cuộc đấu tranh ở Việt Nam. Nhìn lại lịch sử hơn 80 năm, chúng ta càng thấy rõ hơn sự năng động, sáng tạo, nhạy bén kịp thời, vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với việc tổ chức Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng - sự kiện mang tính bước ngoặt trong phong trào cách mạng Việt Nam và lịch sử dân tộc nói chung, cũng như các cống hiến quan trọng của Người về mặt lý luận, đường lối cho Đảng. Chúng ta cũng thấy rõ hơn tư duy sáng tạo, vượt trước thời đại của Người đã góp phần định hướng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đảng của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra lần đầu tiên trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951): "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam"1. Hồ Chí Minh nêu luận điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, "phải là" Đảng của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam khi Người bàn đến và nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Đảng trong khi gánh vác các nhiệm vụ mà cách mạng đặt ra. Quyền lợi của giai cấp công nhân Việt Nam nằm trong và đồng hành với những quyền lợi của dân tộc. Điều này
______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.41.
50 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
luôn phù hợp trong tất cả các giai đoạn cách mạng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ điều này trong việc xác định mục tiêu của cách mạng cũng như khi xác định trận tuyến, bố trí lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì cách mạng Việt Nam phát triển, giành nhiều thắng lợi.
Đảng là một bộ phận của nhân dân, phân biệt với bộ phận còn lại ở tính cách mạng, tính tiên phong, tính tổ chức của mình. Đảng là người lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lấy những quyền lợi của mình và là người bảo vệ kiên quyết nhất đối với các lợi ích của nhân dân. Những điều này nêu bật tính nhân dân của Đảng, cũng như nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít Đảng với Nhân dân - quan hệ tạo nên cội nguồn sức mạnh vô địch của Đảng. Đảng đại diện cho lợi ích của người lao động trong xã hội, tranh đấu nhằm đạt mục tiêu mang lại lợi ích cho số đông quần chúng chứ không phải chỉ cho một nhóm nhỏ nào. Mọi hành động của Đảng đều tuân theo, nhằm thực hiện những ý nguyện của toàn dân như Hồ Chí Minh nhấn mạnh với các cán bộ, đảng viên: "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng"1.
Chính là khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng là dựa trên sự tín nhiệm của nhân dân. Quyền ấy được nhân dân trao cho. Sự tín nhiệm đó có được từ sự đúng đắn của đường lối, chính sách ở tầm vĩ mô, từ sự gương mẫu hy sinh, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên trên từng cương vị của mình, trong đó có sự hòa đồng giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa quyền lợi của giai cấp và lợi ích của toàn thể dân tộc. Bản chất giai cấp của Đảng được thể hiện rõ ở
______________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.289.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 51
mục đích lý tưởng cao đẹp của Đảng giải phóng giai cấp khỏi mọi xiềng xích áp bức, bóc lột, ở sự kiên định phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng đó. Tuy nhiên, giai cấp công nhân ở Việt Nam có những đặc điểm riêng của mình. Xem xét những đặc điểm riêng đó với tính lịch sử của nó có thể lý giải thêm quan điểm của Hồ Chí Minh nêu lên từ năm 1951: Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Điều đó hoàn toàn tương đồng với luận điểm của
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu trước đó hơn 100 năm, khi hai ông cho rằng giai cấp vô sản ở mỗi nước trong quá trình đấu tranh giành chính quyền về tay mình cần "phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc"1. Theo quan điểm đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc"2.
Ngọn cờ chính nghĩa thể hiện khát vọng về quyền lợi thiêng liêng, chính đáng của dân tộc, của con người về một xã hội mới dân chủ và công bằng, bình đẳng và tự quyết, không có sự áp bức nô dịch dân tộc, không có sự phân biệt đối xử giữa con người,... đã được Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao trong cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc và chống lại các thế lực xâm lược. Trong công cuộc đổi mới, từ đổi
______________
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.624.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.4.
52 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
mới tư duy, Đảng đã tìm được con đường và những bước đi thích hợp để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, từng bước tiến lên, tích cực, chủ động hội nhập để phát triển đi vào chiều sâu, bền vững trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn của một thế giới đầy biến động. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, có phương thức lãnh đạo khoa học... Những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, Việt Nam tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xác lập được vị thế ngày càng quan trọng trong các quan hệ quốc tế và khu vực. Sự thật ấy bác bỏ ý kiến của một số cá nhân đang cố tình hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước.
Thể hiện sinh động quyền làm chủ và trách nhiệm công dân*
ANH KHÔI
Sau khi kế hoạch lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được triển khai, một số cá nhân hoặc do nghiên cứu chưa đầy đủ, hoặc thiếu thiện chí đã đưa ra những ý kiến xuyên tạc, thiếu xây dựng, cho rằng đây chỉ là "dân chủ giả tạo"! Tuy nhiên, thực tế đang diễn ra ở Việt Nam là bằng chứng đầy thuyết phục, chứng minh những điều nói trên chỉ là sự xuyên tạc, quy kết vô căn cứ.
Ngày 23-11-2012, tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã chính thức thông qua Nghị quyết tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ngày 3-12-2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký Lệnh số 32/2012/L-CTN công bố Nghị quyết quan trọng này. Một trong những nội dung cơ bản của Nghị quyết là yêu cầu bảo đảm việc lấy ý kiến nhân dân "phải được tiến hành rộng rãi, dân chủ, khoa học, công khai,... Ý kiến đóng góp phải được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác và nghiên cứu tiếp thu, giải trình nghiêm túc". Sau gần ba tháng triển khai Nghị quyết, toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta đã vào cuộc, nhân dân cả nước nỗ lực đóng góp trí tuệ với tinh thần trách ______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 19-3-2013.
54 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
nhiệm cao và rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, một số cá nhân thiếu thiện chí lại coi đây là thời cơ để đưa ra ý kiến xuyên tạc, đồng thời quảng bá một số quan điểm không phù hợp với định hướng và quá trình phát triển đất nước. Đi đầu trong các việc làm này phải kể đến website của một số cơ quan truyền thông nước ngoài, là các địa chỉ liên tục đăng tải loại bài, tổng hợp tin tức, trả lời phỏng vấn bẻ cong sự thật, đưa ra đòi hỏi phi lý, vô trách nhiệm. Như một bài đăng trên website của RFA, trong đó người viết viện ra mọi lý do để nhận xét vô căn cứ rằng: "việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp không thực chất, chỉ là hình thức". Lố bịch hơn, người viết còn có nhận xét rất khôi hài khi cho rằng việc lấy ý
kiến đúng vào dịp Tết Nguyên đán là để nhân dân không có thời gian theo dõi, tham gia đóng góp (?!). Cuối cùng, người ta cũng chẳng đưa ra được ý kiến nào khả dĩ hơn, ngoài việc lặp lại điều RFA vẫn ra rả là... "bỏ Điều 4 ra khỏi Hiến pháp".
Tương tự như vậy, trên website của BBC, VOA, RFI,... đã công bố các loại ý kiến phi lịch sử, phớt lờ những khó khăn, thách thức mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã vượt qua để lập nên những thành tựu không thể phủ nhận trong hơn nửa thế kỷ qua. Ai cũng thấy rất rõ rằng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có 124 điều, trong đó lại bao gồm rất nhiều nội dung liên quan tới "những vấn đề cơ bản, quan trọng và quyết định của đời sống xã hội, như hình thức tổ chức nhà nước, cơ cấu và thẩm quyền của bộ máy nhà nước, trình tự hình thành các cơ quan nhà nước, chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước; quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; những nguyên tắc chung nhất thể hiện mục đích, xu hướng vận động của xã hội"1, nhưng họ chỉ chú mục vào Điều 4 khẳng định vai trò "lãnh đạo
______________
1. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, t.II, tr.272.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 55
Nhà nước và xã hội" của Đảng Cộng sản Việt Nam, và Điều 70 khẳng định "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân". Nói cách khác, họ không đếm xỉa tới các nội dung liên quan tới quan niệm về quá trình phát triển đất nước, phát triển nhân quyền, phát triển xã hội và con người, phát triển mọi lĩnh vực đời sống xã hội... Họ hành xử như vậy vì trong bản chất, họ không coi đất nước và nhân dân làm mục đích mà chỉ là cái cớ để thực hiện mưu đồ, tham vọng cá nhân ích kỷ. Họ xưng danh nhân dân để lừa mị dư luận, thực hiện âm mưu thay đổi
đường hướng chính trị và chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam! Thực tế sau gần ba tháng thực hiện kế hoạch lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã nói lên nhiều điều. Các cấp chính quyền từ trung ương đến cơ sở đều nghiêm túc triển khai, việc lấy ý kiến được tổ chức đến từng người dân, từng khu dân cư, phum, sóc, bản, làng, đơn vị lực lượng vũ trang. Tất cả các cơ quan có thẩm quyền, mạng lưới truyền thông, các cơ sở thông tin trên cả nước đều tạo mọi điều kiện để nhân dân đóng góp ý kiến. Qua các phương tiện thông tin truyền thông, nhân dân ở trong nước và nước ngoài đã có rất nhiều ý kiến đóng góp chân thành, thiện chí, mang ý nghĩa tích cực. Nhiều địa phương đã sáng tạo ra các hình thức phong phú, như tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho người làm công tác tổng hợp, lấy ý kiến; phân loại ý kiến góp ý thành các đối tượng khác nhau, phát hành VCD, làm phóng sự, chuẩn bị nội dung cho báo cáo viên, in bảng so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phát hành xuống từng tổ dân phố, hộ gia đình,... Việc lấy ý kiến nhân dân được triển khai đến từng hộ gia đình, được làm cẩn thận, chu đáo, chỉ dẫn rõ ràng, lời lẽ dễ hiểu như: Đề nghị ông (bà) quan tâm hỗ trợ 4 điều: Dành thời gian đọc, nghiên cứu nội dung Dự thảo; Góp ý cho từng chương, điều; Không có ý kiến thì ghi không có ý kiến; Tổ dân phố sẽ thu lại vào ngày...
56 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Một phiếu lấy ý kiến với hai nội dung: đồng ý toàn văn và có đề nghị sửa đổi, bổ sung. Phiếu ghi đầy đủ tên, địa chỉ người góp ý, tức không để khuyết danh. Một báo cáo thuyết minh về Dự thảo và cuối cùng là tập tài liệu, so sánh chi tiết Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo. Cách trình bày dễ dàng theo dõi, người tiếp cận không cần biết sâu về nhóm từ chuyên biệt hay học vấn cao cũng có thể hiểu được. Kẹp chung tập tài liệu là thư ngỏ ngắn của Ban Chỉ đạo lấy ý kiến nhân dân nhưng không có bất cứ câu chữ nào bày tỏ sự áp đặt hay bắt buộc. Điều này thể hiện tính chất dân chủ giúp nhân dân phát huy ý thức công dân tham gia vào việc lấy ý kiến đóng góp, nhằm "bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế" (Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992).
Ý nghĩa của việc sửa đổi Hiến pháp lần này thể hiện khát vọng, niềm tin, tầm nhìn của cả dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trí tuệ, tâm huyết của toàn dân. Phục vụ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Công đoàn... cũng tổ chức lấy ý kiến của các thành viên từ cơ sở. 17 tổ chức xã hội, các đoàn thể cũng đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của bảy nhóm xã hội yếu thế là người khuyết tật, người có HIV, lao động di cư, phụ nữ, thanh niên, người dân tộc thiểu số, người đồng tính. Sau một thời gian, các tổ chức xã hội đã tổ chức 42 cuộc tham vấn
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 57
với sự tham gia của hàng nghìn người ở 13 tỉnh, thành phố. Bản Kiến nghị với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của bảy nhóm xã hội Việt Nam đã được chuyển tới cơ quan có trách nhiệm. Là người trực tiếp tham gia hoạt động lấy ý kiến bảy nhóm xã hội yếu thế, chuyên gia về quyền con người Nghiêm Kim Hoa nói: "Mặc dù người yếu thế và thiểu số là những người thường phải chịu thiệt thòi nhiều nhất trong xã hội, nhưng họ vẫn giữ được niềm tin rất lớn vào luật pháp và các cơ quan công quyền, và đặt rất nhiều hy vọng vào bản Hiến pháp sửa đổi" (theo website của Bộ Tư pháp).
"Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm của mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp" là tư tưởng chỉ đạo xây dựng trên cơ sở "phải đầy đủ, trung thực, khách quan cả ý kiến tán thành, ý kiến không tán thành, ý kiến khác". Theo Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tới đây, việc lấy ý kiến sẽ mở rộng quy mô, thành phần tham dự các hội nghị, hội thảo, tọa đàm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Ủy ban yêu cầu "gửi Phiếu xin ý kiến để từng đại biểu tham dự thể hiện chính kiến của mình. Phiếu xin ý kiến nêu rõ: (1) ý kiến chung về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, (2) những nội dung cụ thể của các chương, điều, khoản của Dự thảo để đại biểu thể hiện chính kiến tán thành, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ý kiến khác". Những việc làm thể hiện tinh thần dân chủ, cầu thị, nghiêm túc đó đã trực tiếp tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, từ đó cùng phát huy tinh thần trách nhiệm để tham gia xây dựng Hiến pháp. Do đó, những luận điệu sai trái, với mục đích, động cơ đen tối, dù được tiếp tay từ bên ngoài cũng trở nên lạc lõng. Kế hoạch lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một thực hành dân chủ hết sức quan trọng, và sự tham gia tích cực của mọi người Việt Nam chính là hành động thiết thực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự thật không thể chối cãi*
LÝ NHƯ THẾ
Dù di hại của chiến tranh vẫn còn hằn in, nhưng vì quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, vì hòa bình và phát triển, chúng ta đã cố gắng "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai". Tuy nhiên, trong tâm trí nhiều người Mỹ, cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn là một nỗi day dứt, và họ đã xuất bản nhiều cuốn sách viết về cuộc chiến tranh, trong đó có tác phẩm Giết mọi thứ di động: Cuộc chiến thực sự của Mỹ ở Việt Nam (Kill Anything That Moves - The Real American War in Vietnam) của Nick Turse.
Tác phẩm dày 370 trang này đoạt giải thưởng Ridenhour của National Press Club năm 2009, nguyên là luận án tiến sĩ tại Đại học Columbia của nhà báo kiêm sử gia Nick Turse. Cuốn sách gồm một nhập đề, bảy chương và một kết luận. Tựa đề cuốn sách như một mệnh lệnh cho người lính Mỹ khi đến Việt Nam: Giết mọi thứ di động! Đọc xong thì thấy đúng như vậy. Qua cuốn sách, Nick Turse đã chứng minh một cách không thể chối cãi rằng mệnh lệnh dã man ấy là một chính sách, một chiến thuật chính thức của quân đội Mỹ và đã được áp dụng từ cấp tướng đến người lính, từ quân trường ở Mỹ đến xóm làng ở Việt Nam. Chủ đề cuốn sách là một chứng minh rằng cuộc thảm sát ngày 16-3-1968 khiến 504 thường
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 29-3-2013.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 59
dân ở Mỹ Lai chết không phải là một sơ suất biệt lệ của quân đội Mỹ. Điều này có thể thấy ngay trong Chương 2: "Theo hồi ký của tướng Westmoreland, (tướng) Mac Arthur đã "thúc giục tôi hãy chuẩn bị để luôn luôn có đầy đủ trọng pháo vì dân Á Đông rất sợ
trọng pháo" và đưa ý kiến là Westmoreland có thể phải sử dụng một "chiến thuật đốt sạch đất đai" tại Việt Nam" (tr.61). Lời chỉ đạo từ một anh hùng của Thế chiến thứ hai có thể coi như thể hiện tâm cảnh của tướng Westmoreland trước khi nhậm chức Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam để "đếm xác" (body count) dân Việt trong tinh thần kỳ thị chủng tộc dứt khoát.
Phương pháp làm việc của tác giả Nick Turse thích ứng với môi trường hàn lâm của một trường đại học nổi tiếng như Columbia. Tác giả sử dụng hồ sơ giải mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, các báo cáo từ các cuộc điều tra của "Sở điều tra tội ác" thuộc Bộ
Quốc phòng, đặc biệt là báo cáo của "Nhóm điều tra tội ác chiến tranh ở Việt Nam" được Pentagon thành lập sau vụ thảm sát ở Mỹ Lai, cộng với hơn 100 cuộc phỏng vấn ở cả hai phía: nạn nhân Việt Nam và quân nhân Mỹ. Tất cả để đúc kết lại thành một bức tranh bi thảm về sự tàn phá tận cùng của chiến tranh mà ngay cả Picasso có sống lại cũng không thể vẽ thêm một Guernica thứ hai...
Trước những vũ khí và quân lực đằng đằng sát khí, người thường dân Việt Nam đã phải chịu một tai họa thống khổ đến mức nào? Bảy chương sách của Nick Turse mang câu trả lời với các tựa đề hãi hùng:
1. Cuộc thảm sát ở Triệu Ái.
2. Một hệ thống đau khổ.
3. Tàn sát quá độ.
4. Một loạt những hung bạo.
5. Khốn khổ vô bờ.
6. Tên khùng, ông tướng "săn cộng" và tên đồ tể của vùng châu thổ. 7. Những tội ác chiến tranh biến đi đâu rồi?
60 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Không phải là một tình cờ mà nhận định của Alvin Tofler: "Nếu nguyên tắc căn bản của nền kinh tế kỹ nghệ là sản xuất hàng loạt thì nguyên tắc căn bản của chiến tranh thời kỹ nghệ hóa là tàn phá hàng loạt" (War and Anti-War, tr.38) lại trùng hợp sát sao với nhận định của tác giả Nick Turse: "Sự tàn sát theo chuẩn mức kỹ nghệ đã được áp dụng khoảng thời gian thiếu tướng Julian Ewell cầm quân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long" (tr.204). Tại Việt Nam, chính quyền Mỹ đã thực thi một cuộc tàn phá hàng loạt một cách có hệ thống trong suốt cuộc chiến với những mô tả đáng kể nhất là trong hai Chương 1 và Chương 6 mà người đọc không thể bỏ qua.
Chương 1: Từ thời kỳ được huấn luyện ở quân trường tại Mỹ (Fort Benning, Camp Lejeune, tiểu bang Georgia) tinh thần kỳ thị chủng tộc (như của tướng Mac Arthur) đã được nhồi sọ tối đa để giúp tân binh Mỹ có thể giết kẻ thù - người Việt Nam - mà không hối tiếc hay ân hận. "Cựu chiến binh Wayne Smith nhớ lại là các huấn luyện viên không bao giờ gọi người Việt Nam là Vietnamese. Mà họ gọi bằng những chữ tiếng lóng hạ cấp như "dinks, gooks, slopes, slants, rice-eaters", những chữ không còn mang ý nghĩa tượng trưng cho con người nữa. Cái thâm ý là coi người Việt Nam thấp hơn cả giống người" (tr.28). Như vậy thì có thể tự do để vâng lệnh giết một cách vô trách nhiệm, như lời khuyên của một vị tuyên úy Tin lành: "Người lính tự do nhất là người lính sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Khi bạn tuân một mệnh lệnh hợp pháp thì bạn không sợ, không lo gì cả" (tr.30). Vấn đề là không có ai định nghĩa "mệnh lệnh bất hợp pháp" là gì. Khi trung úy Maynard quăng lựu đạn xuống hầm một căn nhà trong làng Triệu Ái, "Trung úy Bailey cho biết có con nít trong hầm ấy. Và trung úy Maynard trả lời: "Kệ mẹ nó, rồi tụi đó lớn lên thì cũng trở thành Việt cộng thôi"..." (tr.34). Điều kinh khủng là người lính Mỹ không phân biệt được kẻ thù và đồng minh nên họ chỉ biết khi thấy "nhúc nhích thì giết". Ở cấp cao hơn, các sĩ quan tốt nghiệp quân trường West Point cũng có một hiệp hội ngầm (mà ai cũng biết)
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 61
có tên là West Point Protective Association (WPPA) để họ bảo vệ lẫn nhau khi bị điều tra hay khi phải ra trước tòa án quân sự như trường hợp tướng Julian Ewell dưới đây.
Chương 6: Hồ sơ của trung sĩ Roy Bumgarner và tướng Julian Ewell là hai thí dụ điển hình.
"Trung sĩ Bumgarner thuộc Lữ đoàn dù 173, Sư đoàn kỵ binh số 1, đóng tại Bình Định (năm 1968) nổi tiếng với thành tích giết 1.500 kẻ thù. Có khi toán quân 6 người của ông còn giết nhiều kẻ thù hơn cả tổng số "đếm xác" của toàn thể tiểu đoàn 500 người của ông" (tr.192). Thành tích này đã làm cho ông mang biệt danh là "The Bummer" (tên Khùng). Tên Khùng tuy khùng nhưng không dại, vì sau khi giết một thường dân (dù đàn bà, con nít), y lại nhét vào trong xác chết một quả lựu đạn "made in China" hay một khẩu súng Nga. Hậu quả là số "Việt cộng" bị Trung sĩ Bumgarner giết lên rất cao. Điều không may là các bạn đồng ngũ đã thấy hành vi vô nhân đạo này và họ báo cáo lên cấp trên. Tên Khùng bị điều tra, bị đưa ra tòa án quân sự. Tên Khùng bị xử có phạm tội, nhưng lại là tội "sát nhân không mưu tính", nhờ vậy y đã không vào tù, dù chỉ một ngày (tr.196). Một nhân chứng của vụ án, Peter Berenback, sau khi giải ngũ đã đọc trong nhật báo The New York Times ngày 31-3-1972 một bản tin ca ngợi trung sĩ Bumgarner với tấm hình tên Khùng ôm một em bé Việt Nam một cách bao bọc. Berenback bèn gửi một lá thư đầy giận dữ gọi Bumgarner là "kẻ sát nhân". Nhưng tờ báo đầy uy tín này đã không phản ứng. Berenback gửi một thư khác cho dân biểu Peter Frelinghuysen. Ông này lại chuyển lá thư cho đại tá Murray Williams ở Pentagon. Rồi nội vụ không còn được nói đến nữa!
Trường hợp tướng Julian Ewell đáng chú ý là vì sự nghiệp của ông tại Việt Nam thành công rực rỡ chỉ nhờ một yếu tố: khả năng làm tăng con số "kẻ thù" bị giết. Tháng 2-1968, khi mới nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 9 vùng đồng bằng sông Cửu Long, các phi công trực thăng của ông đã để ý trò chơi săn người của ông khi ra lệnh
62 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
cho pháo thủ trên trực thăng bắn bất kể vào người nông dân đang cày bừa trên đồng lúa. Đặt cơ sở trên chiến tranh kỹ thuật của Bộ trưởng McNamara, "thống kê đếm xác là thước đo thành công quan trọng nhất" cho tướng Ewell (tr.206). Hãy đọc "tiến bộ" của tướng Ewell trong 2 năm 1968 và 1969 theo thước đo tỷ lệ chết giữa địch và ta (Việt cộng và Mỹ): Trước khi ông nhậm chức, tỷ lệ đó là 1/8: một người lính Mỹ chết thì có 8 người lính Việt cộng chết. Đây đã là một tỷ lệ khá cao so với các đơn vị khác. Qua tháng 7- 1968, sau 5 tháng dưới quyền tướng Ewell, tỷ lệ này tăng lên thành 1/14. Sau 5 tháng, tướng Ewell mở đầu chiến dịch Speedy Express với tỷ lệ 1/24. Ba tháng sau tỷ lệ đã là 1/68. Một tháng sau (4-1969), tỷ lệ tăng lên gần gấp đôi: 1/134. Câu hỏi là trong 134 người Việt Nam được "đếm xác" này có bao nhiêu thường dân? Vì: 1. Sự chênh lệch quá xa giữa số xác Việt cộng quá cao so với số vũ khí lại thu lượm quá thấp; 2. Trước hỏa lực kinh hồn của quân đội Mỹ, quân đội Việt cộng cũng đủ khôn ngoan để rút đi nơi khác, chỉ còn người dân vô tội trong vùng hỏa tuyến.
Khi được hỏi làm sao họ phân biệt được kẻ thù trên đồng ruộng để nã súng bắn, phi công Cobra của chiến dịch Speedy Express trả lời: "Kẻ nào thấy trực thăng mà bỏ chạy là kẻ thù" hoặc "kẻ nào mặc bà ba đen là Việt cộng". Từ đó tướng Ewell mang hỗn danh là "tên đồ tể của vùng châu thổ". Với "tiến bộ" từ 1/14 lên 1/134, tướng Ewell được thăng trung tướng và năm 1970, ông được gửi qua làm cố vấn quân sự cho phái đoàn Mỹ đang tham dự Hội nghị Paris.
Nhưng một quân nhân vô danh ký tên là "một trung sĩ ưu tư" đã gửi thư cho tướng Westmoreland, lúc này đã trở thành Tham mưu trưởng Liên quân, để tố cáo đầy đủ chi tiết về tên tuổi, chức vụ trong cuộc tàn sát khủng khiếp của chiến dịch Speedy Express. Lá thư kết luận một cách chắc nịch "dù các con số của tôi chỉ đúng 10%, mà tôi tin là cao hơn, thì 120 đến 150 tử vong đã tương đương với một Mỹ Lai mỗi tháng trong hơn một năm trời" (tr.215). Nhưng
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 63
rồi lá thư này cũng bị rơi vào quên lãng như số phận của hàng ngàn thường dân Việt Nam đã bị thảm sát.
Đọc xong trang cuối cùng, gấp lại cuốn sách, chắc người đọc nào cũng thấy hãi hùng, đầy thương cảm. Riêng người điểm sách còn rút ra được ba ý nghĩ riêng cho mình: 1. Đây là một cuốn sách rất khó đọc cho cả người Việt lẫn người Mỹ vì nó trình bày một cách trần trụi sự bi thảm tận cùng của một cuộc chiến vẫn còn vang vọng trong tim óc chúng ta. Với những cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa từng sát cánh với quân đội Mỹ và bây giờ đã và đang xây dựng trên đất Hoa Kỳ những tượng đài để tưởng niệm, vinh danh "mối tình chiến hữu Việt - Mỹ" thì cuốn sách này lại càng khó đọc hơn, vì các sự kiện kinh hoàng được trình bày một cách trung thực, khoa học và có hệ thống đến mức, nếu còn là một người Việt Nam lương thiện và yêu nước, thì không thể chối cãi được và không nên lẩn tránh chúng. 2. Còn với các "cậu ấm bất mãn" ở Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đang ngưỡng mộ và hướng vọng về nước Mỹ như một mẫu mực chính trị tương lai cho đất nước thì cuốn sách này là một nhắc nhở sâu sắc cho họ rằng, chính trị Mỹ xuất sinh từ văn hóa Mỹ, trong đó, từ thời lập quốc, đã có những tay chăn bò được vinh danh là anh hùng... bắn chậm thì chết. Và hơn 40 năm trước, đã có những đồng bào "Việt cộng mặc áo bà ba đen" của các "cậu ấm" lúc bấy giờ ở miền Nam xa xôi, vốn chỉ là những thường dân run rẩy, nhưng vẫn bị thảm sát vì dòng chảy văn hóa "bắn chậm thì chết" đặc thù này! 3. Nội dung cuốn sách còn là bài học đau thương cho những ai rước giặc vào nhà thì phải biết hậu quả tai hại sẽ không thể lường được dù giặc có khoe đầy giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền,...
Họ nên sớm thay đổi nhận thức về nhân quyền*
LÊ ANH
18 năm đã qua, kể từ khi chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nỗ lực của Việt Nam và Mỹ, quan hệ giữa hai nước đã có một số tiến triển tích cực, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước. Tuy nhiên, quan hệ có thể sẽ phát triển hơn nếu không có một số trở ngại thuộc về phía Mỹ, mà một trong số đó là việc Chính phủ Mỹ nhiều lần phê phán rất vô lý đối với vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, có thể coi phát biểu ý kiến gần đây của ông Daniel Baer - Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á, tại Thượng viện Mỹ là một thí dụ điển hình...
Ngày 22-3-2013, các cơ quan truyền thông BBC, VOA, RFI,... đều đưa tin và bình luận về sự kiện ngày 21-3 vừa qua, phát biểu ý kiến trước Tiểu ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, ông Daniel Baer - Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á, đã "bày tỏ sự quan ngại về tình trạng "sa sút" của Việt Nam trong vấn đề nhân quyền". Để chứng minh điều này, ông Daniel Baer đã dẫn ra một số dẫn chứng "về cách đối xử của chính quyền Hà Nội đối với các blogger, bị truy tố về những điều luật liên quan đến an ninh quốc gia". Từ đó, Daniel Baer khẳng định: "Washington sẽ tiếp tục nêu lên các quan ngại về nhân quyền đối với Hà Nội và cũng sẽ
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 2-4-2013.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 65
nêu lên các vấn đề tự do internet và điều kiện lao động trong các cuộc đàm phán về đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định tự do mậu dịch do Mỹ hậu thuẫn mà Việt Nam đang đàm phán để tham gia". Như vậy, qua phát biểu của mình, tương tự một số người trong chính giới Mỹ, ông Daniel Baer một lần nữa không chỉ đưa ra các đánh giá tiêu cực, phản ánh không trung thực về thực tế vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, mà còn coi nhân quyền như là điều kiện để phát triển quan hệ giữa hai nước - một quan niệm rất
vô lý, không thể là cơ sở cho việc giải quyết các quan hệ quốc tế. Phát biểu của ông Daniel Baer làm nhớ tới các sự kiện diễn ra cách đây không lâu, như: ngày 24-2-2012 tại Bộ Ngoại giao Mỹ, ông Daniel Baer đã tiếp một nhóm người do Nguyễn Quốc Quân - "chủ tịch" cái gọi là "Ủy ban yểm trợ cao trào nhân bản" để "tìm hiểu thêm về các vi phạm nhân quyền trầm trọng tại Việt Nam"; ngày 10-5-2012, phát biểu tại cái gọi là "kỷ niệm ngày nhân quyền Việt Nam" do "cộng đồng người Việt tiểu bang Maryland, DC và Virginia, với sự tiếp tay của Tổ chức quốc tế yểm trợ cao trào nhân bản" tổ chức, ông Daniel Baer cho rằng: "Tòa đại sứ và tòa lãnh sự Mỹ tại Việt Nam sẽ tiếp tục lưu ý tình hình nhân quyền tại Việt Nam cũng như tìm kiếm mọi cơ hội hợp tác với các nhà hoạt động nhân quyền trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt để mang lại những tiến bộ và cải tổ về nhân quyền cho người dân Việt Nam". Gần đây hơn, ngày 2-1-2013, ông Daniel Baer đã tới nhà riêng của Nguyễn Quốc Quân ở Virginia, để dự cuộc gặp một số "người Việt tại hải ngoại quan tâm đến vấn đề nhân quyền trong nước". Tại các cuộc gặp, ông Daniel Baer đưa ra ý kiến không khác so với điều ông phát biểu ngày 21-3 vừa qua. Mối quan hệ giữa những sự kiện trên làm nảy sinh câu hỏi: Chẳng lẽ ông Daniel Baer không thấy điều gì bất thường khi tìm hiểu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam qua một số người Mỹ gốc Việt chống cộng cực đoan? Liệu ông
66 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Daniel Baer đã sớm quên ý kiến của ông khi trả lời phỏng vấn trên VOA ngày 12-3-2011 rằng, ông tán thành ý kiến của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ khi đó là bà Hillary Clinton "chúng tôi cho rằng trong quan hệ giữa các quốc gia, mọi khác biệt cần được trao đổi
trên tinh thần xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau", rồi ông khẳng định "Chúng tôi đồng ý quan điểm cho rằng các khác biệt cần phải được nêu lên với một thái độ mang tính xây dựng"!?
Nhân đây, xin nêu về sự kiện mà một website của người Mỹ gốc Việt đã đưa tin: sau cuộc biểu tình trước nhà ông Al Hoàng, "Tối hôm qua (11-26-2012) họ còn đem một bọc đến để trước cửa và sáng nay cảnh sát điều tra cho biết có ngòi nổ, có hóa chất, v.v. và còn có cả tờ giấy hăm dọa giết cả nhà Hoàng Duy Hùng. Cảnh sát và các xe chữa cháy đã phong tỏa đường vào nhà Hoàng Duy Hùng để điều tra và bảo toàn vật chứng. Thị trưởng ra lệnh bảo vệ khẩn cấp yếu nhân, vì Hoàng Duy Hùng làm công việc của thành phố mà bây giờ tính mạng cả gia đình bị đe dọa. Những người bất đồng phương thức đấu tranh cho dân chủ và tự do với nghị viên Hoàng Duy Hùng đã đi tới một nước cờ mà các viên chức cảnh sát điều tra cho rằng không còn thể chấp nhận được nữa... Từ vụ biểu tình, đến vụ đặt bom trước nhà, giới quan sát cho rằng đây là một hình thức "dằn mặt" mang tính khủng bố của phe chống đối hành động ông Al Hoàng đã dám cùng Hội đồng thành phố Houston đứng ra tổ chức một cuộc đón tiếp, trao đổi trực tiếp với Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn trong tháng 10-2012 vừa qua. Hành động của ông Al Hoàng bị nhóm chống cộng cực đoan cho rằng đã "đi ngược lại chính nghĩa quốc gia" của họ, phản ứng của họ là biểu tình và đặt bom hăm dọa. Những người đặt bom đã bày tỏ thái độ chính trị của mình qua một thư viết bằng Việt ngữ cài vào trái bom "Sẽ giết cả nhà nếu theo cộng sản"..."!
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 67
Al Hoàng (Hoàng Duy Hùng, tên tiếng Anh là Aloysius Hoang, gọi tắt là Al Hoàng) là luật sư người Mỹ gốc Việt, tháng 12-2009, ông đã trúng cử nghị viên Hội đồng thành phố Houston (Texas). Theo BBC ngày 14-12-2009 thì: "Ông Hoàng Duy Hùng, nổi tiếng với những hành động chống đối việc Việt Nam mở tòa lãnh sự ở
thành phố lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Ông cũng phản đối việc "thiếu đối thoại công bằng" giữa chính quyền tại Việt Nam và cộng đồng "người Việt quốc gia" mà ông làm chủ tịch tại Houston". Song gần đây (có thể do nhận thức thay đổi, cũng có thể do "thay đổi phương thức" như có người nhận định?), ông Al Hoàng đã có một số ý kiến chắc chắn không làm vừa lòng những người ông Daniel Baer từng tiếp xúc. Trong các video-clip công bố trên Youtube, về quan điểm nhân quyền của chính quyền Mỹ, Al Hoàng nhận xét: "Tôi nghĩ Hoa Kỳ sử dụng nhân quyền cũng chỉ như một chiêu bài, vì chính trong Hoa Kỳ cũng có những vấn đề nhân quyền không đơn giản!"; về nhân quyền ở Việt Nam, ông Al Hoàng cho rằng: "Đó không phải là nhân quyền Mỹ, nhân quyền Anh, đó là nhân quyền của những người mang tâm tư Việt, thật sự muốn cho đất nước phát triển". Ngày 22-3 mới đây, Al Hoàng đã trở về Việt Nam, thay mặt thị trưởng và thành phố Houston xúc tiến việc xây dựng quan hệ giữa Houston với Đà Nẵng. Ngày 23-3, Al Hoàng tới Đền Hùng, để thắp hương tưởng nhớ Tổ tiên, ông tâm sự: "Mình là người Việt Nam, có cha có mẹ, đi đâu khi về lại quê hương đất tổ thì bổn phận là thăm cha mẹ trước khi bắt đầu các công việc khác... Không có gì sung sướng khi được trở về quê mẹ thăm lại Thánh địa Đền Hùng...
Tôi chỉ cầu xin Quốc tổ phù hộ cho con dân Việt đoàn kết, chung sức xây dựng đất nước hùng cường và tương lai sáng lạn". Trả lời phỏng vấn của Pho-Bolsa-TV, ông Al Hoàng nói: "Về nơi đây, chúng tôi thấy đất nước đang phát triển. Đất nước chúng ta dù còn thua nhiều quốc gia khác, nhưng đã có những tín hiệu, đó là người
68 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
dân bắt đầu cởi mở, Nhà nước đang có một cách nhìn khác hơn, đó là chấp nhận đối thoại để cả hai cùng tiến tới đoàn kết dân tộc". Thiết nghĩ, trước khi phát biểu ý kiến về nhân quyền ở Việt Nam, ông Daniel Baer nên tiếp xúc cả với những người như ông Al Hoàng, không nên chỉ tiếp xúc, nhặt nhạnh tin tức từ những người mà tác giả Nguyễn Tài Ngọc viết trong bài “Nỗi buồn quân phục” trên saigonocean.com: "Dù rằng hiện đang sống trên nước Mỹ gần 40 năm sau 1975, tôi cứ thấy mấy ông Việt Nam, và cả mấy bà, có dịp là mặc quân phục (quân phục của quân đội Việt Nam Cộng hòa - TG). Nơi nào cũng mặc quân phục. Biểu tình mặc quân phục. Hát hò mặc quân phục. Lễ ở chùa mặc quân phục. Hội họp chẳng ăn thua gì đến quân đội cũng mặc quân phục. Vào chợ mặc quân phục. Mở đại nhạc hội thu tiền túi mặc quân phục. Lên TV phỏng vấn mặc quân phục. Và bây giờ, lần đầu tiên tôi thấy vào quán ăn quyên tiền trong khi thiên hạ đang ăn cũng mặc quân phục... Vài người còn đeo thêm quân hàm! Quân đội mình hùng tráng như thế mà tại sao ngày xưa thua trận thì tôi thật tình không hiểu. Ở đây tôi xin ra ngoài khi xem lại DVD các chương trình nhạc Việt Nam để nghiên cứu, tôi tình cờ xem một chương trình nhạc mà họ còn đem Thượng tọa, Đại đức, Giảng sư Phật giáo ra ngồi làm bình phong cho một bài nhạc mở đầu. Đem quân đội Việt Nam Cộng hòa ra làm tiền chưa đủ, họ đem luôn cả tôn giáo ra phô trương với mục đích thương mại"!
Với nhóm người còn cay cú về thất bại gần 40 năm về trước thì không thể tin được; càng không thể tin vào các hoang tin, sự xuyên tạc của các thế lực chống đối, thiếu thiện chí và bất mãn. Ông Daniel Baer và một số người trong chính giới Mỹ nên sớm thay đổi nhận thức về vấn đề này. Nếu thật sự quan tâm tới vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, họ cần nhìn thẳng vào sự thật để thừa nhận nhân quyền ở Việt Nam đã và đang trở thành một giá
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 69
trị phổ quát, đã và đang mang lại lợi ích mọi mặt cho nhân dân Việt Nam, vì đó là "nhân quyền của những người mang tâm tư Việt, thật sự muốn cho đất nước phát triển". Chỉ lượm lặt thông tin từ kẻ xấu rồi phê phán, đặt điều kiện đối với Việt Nam, họ sẽ
trở thành người đi ngược lại xu thế tiến bộ của nhân loại. Hơn thế nữa, sẽ trở thành tác nhân cản trở sự phát triển của Việt Nam, đồng thời tác động tiêu cực tới quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam.
Vài suy tư về Ngày 30 tháng Tư...*
GS. TRẦN CHUNG NGỌC
"... Sau khi Mỹ tháo chạy và miền Nam sụp đổ, hai miền Nam Bắc thống nhất, không còn sự phân biệt như trong thời chiến, thì tính cách tạm thời do Mỹ dựng lên đã không còn. Đây là một sự kiện lịch sử bất khả phủ bác, có chấp nhận hay không thì cũng không thể thay đổi được. Hiệp định Giơnevơ cũng như Thỏa hiệp Paris đều coi toàn thể nước Việt Nam là một, không còn tên gọi miền Nam Việt Nam, hay nước Việt Nam Cộng hòa. Câu đầu tiên trong Thỏa hiệp Paris là "Điều 1. Mỹ và mọi nước khác tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất, và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã được công nhận bởi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Việt Nam. Hiệp định Giơnevơ không hề chia cắt đất nước làm hai miền Bắc và Nam. Vĩ tuyến 17 chỉ là một phân định tạm thời để hai bên, Pháp và Việt Minh, rút quân và người dân được tự do chọn lựa nơi mình muốn sinh sống, chờ ngày Tổng tuyển cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước bằng giải pháp chính trị. Trong bản Tuyên ngôn đơn phương của Mỹ về Hội nghị Giơnevơ, Mỹ không bao giờ nói đến Nam hay Bắc mà chỉ nói đến một nước Việt Nam. Vậy thì từ đâu mà đẻ ra cái gọi là nước Nam Việt Nam riêng
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 30-4-2013.
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 71
biệt. Đó chỉ là đứa con đẻ của Mỹ, và tàn dư của đứa con đẻ này chỉ là những nhóm người muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống cộng ở hải ngoại... Do đó những người thốt ra những từ như "quốc hận" hay "mất nước" là những người không ý thức được thế nào là "quốc", là "nước", "quốc" của họ chỉ có trong những cái đầu với sự
hiểu biết rất hạn hẹp về hai cuộc chiến ở Việt Nam. Họ không đủ lý trí để nhận ra là mình đã dùng những cụm từ vô nghĩa, tệ hơn nữa họ còn muốn lấy cái hận, cái mất của một thiểu số để mà áp đặt lên cộng đồng những người Việt mà họ cho rằng tất cả đều phải là tị nạn cộng sản, hay cho cả nước và hy vọng mọi người phải đồng ý với mọi điều họ đưa ra, bất kể những điều đó ngu xuẩn như thế nào. Họ muốn giữ chặt mối hận của họ trong đầu và hung hăng chống đối bất cứ ai mà họ hoang tưởng cho là có mưu đồ xóa bỏ cái hận của họ, trong khi chẳng có ai quan tâm đến và phải mất công để mà xóa bỏ những cụm từ mà tự thân chúng đã vô nghĩa...
Muốn hiểu tại sao miền Nam lại có một kết cục như vậy, chúng ta cần nhắc lại vài nét về các chế độ ở miền Nam. Ai cũng biết là chế độ Ngô Đình Diệm cũng như miền Nam là do Mỹ dựng lên, không phải là do người dân miền Nam bầu chọn hay muốn như vậy... Còn về những chế độ quân phiệt của đệ nhị Việt Nam Cộng hòa thì qua sự thú nhận của những viên tướng cao cấp nhất ở miền Nam, như: Nguyễn Văn Thiệu: Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng. Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập; Nguyễn Văn Ngân: miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị
phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi; Nguyễn Cao Kỳ: "Ông Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu làm "kép nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến tranh
72 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê; Cao Văn Viên: Chúng ta không có trách nhiệm chiến tranh (!), trách nhiệm chiến đấu là của người Mỹ. Chính sách đó do Mỹ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi. Với những lời thú nhận như trên, có thể coi miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, theo đúng nghĩa của một quốc gia được không?...
David G.Marr, Giáo sư nghiên cứu về Thái Bình Dương ở Đại học Quốc gia Ôxtrâylia, viết trong Phần dẫn nhập cuốn Vietnamese Tradition On Trial 1920-1945, tr.1: Năm 1938: Ít nhất là 18 triệu người Việt nằm trong vòng kiềm tỏa của chỉ có 27.000 binh lính thuộc địa. Tuy vậy mà chỉ 16 năm sau, lực lượng thuộc địa tới 450.000 quân mà không thể tránh khỏi cuộc thảm bại về chiến thuật ở Điện Biên Phủ và bắt buộc phải di tản chiến lược xuống miền Nam vĩ tuyến 17. Sau cùng, trong những năm 1965 -
1975, nhiều tổ hợp của Mỹ, Việt Nam Cộng hòa, Nam Hàn, và các lực lượng quân sự đồng minh khác, tổng số lên tới 1,2 triệu người cũng bị thảm bại, cuối cùng cũng bị đánh bại bởi Mặt trận giải phóng miền Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam...
Ngày 30-4-1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh. Nhân dân cả nước chung tay xây dựng đất nước sau chiến tranh. Bất kể những hô hào chống đối của một thế lực đã nổi tiếng là phi dân tộc cũng như của một số người đã sống với những "ảo tưởng" về quá khứ ở miền Nam, những người Việt Nam đã tỏ rõ tình yêu quê hương, chính vì thế mà hàng năm có hàng ngàn người Việt về thăm quê hương để
nhìn thấy sự phát triển của đất nước... Riêng với cá nhân tôi, trước ngày 30-4-1975, tôi quyết định ly hương. Không được sống trên quê hương đất Tổ, nhưng ngày nay, tôi muốn về thăm quê hương khi nào cũng được. Và tôi đã thực hiện bốn chuyến về
thăm quê hương trong các năm 1996, 1998, 2007 và 2010, đi từ
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 73
Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, chứng kiến sự đổi thay của đất nước. Chiến tranh đã đi qua, người Mỹ đã thua trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, một số phần tử vẫn muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống cộng ở hải ngoại, chống cộng vì những mất mát cá nhân về quyền thế, về tôn giáo, hay tài sản, hay người thân, v.v., nói chung, với lý do chúng ta là "nạn nhân của cộng sản. Nhưng trong số những phần tử đó, có ai đặt câu hỏi: "Thế nạn nhân của Mỹ và của phía quốc gia thì sao?". Ai có can đảm trả lời trung thực câu hỏi này. Nên nhớ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã giết khoảng 300.000 người vô tội trong chính sách "tố cộng", cộng với những thảm bom trải từ B.52, vùng oanh kích tự do, Bến Tre, chiến dịch Phụng Hoàng, Agent Orange, Mỹ Lai, v.v. của Mỹ đến Việt Nam với danh nghĩa bảo vệ dân chủ, tự do, nhân quyền cho người Việt. Và sự thật là, trong cuộc chiến, số người chết, bị
thương của miền Bắc gấp mấy lần so với miền Nam. Sự tàn khốc của chiến tranh, những người chết và thân nhân gia đình họ ở phía bên kia có phải là người không, những người còn sống có đau khổ trước những sự mất mát to lớn đã đến với họ không? Hơn nữa những nạn nhân của chiến tranh do ảnh hưởng của chất độc da cam còn kéo dài cho tới ngày nay, vậy họ có quyền thù hận chúng ta không?
Vậy nếu họ cũng kéo dài thù hận như chúng ta, thì sự thù hận này bao giờ mới chấm dứt. Nhưng trên thực tế, chúng ta chỉ thấy những thái độ thù hận một chiều, từ phía những người quốc gia vô trí ở hải ngoại. Họ thù hận vì nghĩ rằng, những người bên phía cộng sản không phải là người, không có cha mẹ, vợ chồng con cái, bạn bè thân thuộc, v.v. nên những mất mát tổn thất của họ không đáng kể, chỉ có những tổn thất của phía chúng ta mới đáng để thù hận. Những người chống cộng chỉ đưa ra những luận điệu một chiều để chứng minh chỉ có cộng sản là ác, còn "quốc gia" hay Mỹ
74 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
thì không. Họ cố tình quên đi, không bao giờ nhắc đến những hành động đối với dân, với kẻ thù, của người lính quốc gia cũng như của người lính Mỹ mà ngày nay chúng ta không thiếu tài liệu, những tài liệu nghiên cứu của chính người Mỹ và của nhiều nhà nghiên cứu khác. Sự thù hận này phần lớn chỉ có một chiều, tập trung trong một thiểu số ở hải ngoại mà đa số trong đó thuộc thế lực đen, một thế lực, mà lịch sử đã ghi rõ, là "mất gốc" và "hễ đã phi dân tộc là phản bội dân tộc", đang nắm những phương tiện truyền thông ở hải ngoại... Quá khứ đã qua lâu rồi, những hiểu biết một chiều của chúng ta về cuộc chiến 30 năm ở Việt Nam đã tạo nên lòng thù hận kéo dài một cách phi lý, cần phải xóa bỏ trước những sự thật lịch sử. Việt Nam đang nhìn về và tiến tới tương lai. Tương lai quốc gia ra sao, theo thể chế nào, là do người trong nước quyết định, làm lịch sử cho đất nước của họ. Người ở ngoài nước, nếu có lòng với quốc gia, chỉ có thể góp ý xây dựng một cách chân thành, bất vụ lợi, với mục đích mong cho quốc gia tiến bộ về mọi mặt, song song với thế giới. Chúng ta chắc hẳn ai cũng muốn cho nước nhà phát triển, tiến bộ và tự do, dân chủ như những nước tân tiến. Nhưng có mấy ai thực sự hiểu thế nào là dân chủ, là tự do, là nhân quyền. Những quyền này không thể tách rời khỏi trách nhiệm xã hội của người dân. Người dân phải được giáo dục kỹ về trách nhiệm xã hội trong những vấn đề như tự do, dân chủ, nhân quyền, trước khi họ có thể sử dụng những quyền này. Chưa ý thức được thế nào là trách nhiệm xã hội, thì sử dụng các quyền trên một cách vô trách nhiệm chỉ làm loạn xã hội...".
Sự lệch lạc nhận thức
và thái độ vô trách nhiệm*
HỒNG QUANG
Khi các thủ đoạn, luận điệu chống phá và sự dối trá của các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với sự phụ họa, cổ vũ của BBC, RFA, RFI,... ngày càng trở nên trơ tráo, trắng trợn thì thật đáng tiếc, là có người do sự hời hợt về lý luận và thiếu tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển đất nước, lại tạo cơ hội cho họ vu cáo, xuyên tạc, bình luận tiêu cực về Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam...
Gần đây, ông X công bố trên internet mấy bài viết nhằm "thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại", rồi dựa trên lý luận về "cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng" để kêu gọi "lập thêm các đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam"! BBC, RFA, RFI... vội chớp lấy cơ hội khai thác, công bố các tin tức, bình luận, qua đó càng thấy rõ tâm địa đen tối của mấy cơ quan truyền thông này trong khi liên tục cổ vũ, quảng bá các hành vi chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam. Sự kiện trở nên rùm beng hơn khi ông Y lên tiếng ủng hộ qua bài viết có tính chất hô hào, kêu gọi "phá xiềng"! Hẳn vì không tin cậy những điều hai ông công bố, Ngô Nhân Dụng - người Mỹ gốc Việt và là cây bút chống cộng cực
______________
* Báo Nhân Dân, số ra ngày 27-8-2013.
76 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
đoan, phải đăng trên nguoi-viet bài báo đề nghị "Ông Y cần đổi cách suy nghĩ"; rồi đăng tiếp một bài nữa để "báo động" và khẳng định đó là điều "rất nguy hiểm, không phải là cách suy nghĩ trong xã hội dân chủ"! Trên danlambao - website ra đời chỉ để
chống phá Việt Nam, người có bút danh là Tâm-8x xem đây là "bước đi khá phiêu, đầy nguy hiểm, không những cho chính người tuyên bố mà cũng gián tiếp gây nguy hiểm cho những người theo nó ở cả trước mắt lẫn lâu dài... Thiên thời - địa lợi - nhân hòa đều không có thì sự ra đời của tổ chức này không chết yểu thì cũng xem là lạ"! Trên internet, ý kiến của ông X còn gặp phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều. Nên, có lẽ cần lý giải tại sao khi đã qua tuổi "nhi nhĩ thuận" mà ông lại có phát ngôn để nhận được những đánh giá không có gì đáng tự hào, thí dụ: "tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa xét lại", "kẻ "đổ nước chân tường" chế độ", "lộ mặt phản trắc", "trò bịp bợm", "quay ngược lại "chà đạp" lên lý tưởng một thời mà bản thân ông từng theo đuổi", "một sự ngụy biện không hơn không kém, không có thực tiễn nào chứng minh cho sự nhận thức lại mà chẳng qua là sự phản bội", "một kẻ hô hào đa nguyên, đa đảng mà chẳng hiểu gì về thực chất đa đảng ở những nước vẫn vỗ ngực tự xưng dân chủ phương Tây",...!?
Nhân danh người từng là "giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học", từ tiền đề "Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà tôi hiểu được, có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó", ông X kết luận... "không thể không đa nguyên đa đảng"! Chỉ với tiền đề này, ông đã bộc lộ sự ấu trĩ, hời hợt. Vì, nếu thật sự am hiểu, ông phải biết ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin là: Triết học Mác - Lênin (gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, muốn bàn về các vấn đề có
PHẦN I: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ... 77
ý nghĩa phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải dựa trên thành tựu nghiên cứu của ba bộ phận cấu thành, không thể lấy quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - một nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thay thế cho tất cả. Nếu muốn sử dụng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội để bác bỏ một thực tế, ông phải phân tích từ những quan hệ có tính quy luật như: biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không thể cứ viết: "có một điều cơ bản là cơ sở
hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó" là sẽ giải quyết xong vấn đề! Rồi nữa, cơ sở hạ tầng là "tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định", nội hàm này không tương ứng với điều ông viết: "cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.)". Bàn về lý luận mà không nắm được nội hàm khái niệm, ông đã bộc lộ sự hời hợt, ấu trĩ rất đáng trách. Trả lời phỏng vấn BBC ngày 17-8, về cách hiểu của ông X với quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng từ đó suy ra... "không thể không đa nguyên đa đảng" (!), GS.TSKH. Vũ Minh Giang coi đây là "suy luận lôgíc hình thức", nhận xét này là rất chính xác. Triết học Mác - Lênin khẳng định, trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối... Xem xét quan hệ này như quan hệ cơ giới, hoặc bị chi phối bởi lôgíc hình thức, thì chỉ có thể đưa tới kết cục là xuyên tạc lý luận, đẩy lý luận vào xu hướng sai lạc, xa rời thực tiễn, làm rối loạn nhận thức chung. Căn cứ vào ý kiến chủ quan, cảm tính của ông có thể nói: hoặc là ông không biết tri thức của mình còn hạn chế, hoặc là ông cố gồng lên để nói những điều ông không hiểu?
78 BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN
Vấn đề "đa nguyên, đa đảng" mà ông hô hào, về lý luận, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, không phải có đa nguyên là có dân chủ. Dân chủ hay không phụ thuộc vào vai trò làm chủ của nhân dân, vào lý tưởng và bản chất của đảng cầm quyền. Mọi phân tích chứng minh tam quyền phân lập là mô hình cần áp dụng ở Việt Nam chỉ là một trong các thủ đoạn để đạt tới mục đích phủ
nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dọn đường cho sự "lên ngôi" của các thế lực coi dân chủ, nhân quyền chỉ là chiêu bài phục vụ cho tham vọng chính trị. Nhiều lần có phóng viên về thăm Tổ quốc, được tự do tác nghiệp từ Nam ra Bắc, được trực tiếp chứng kiến, tiếp xúc, tìm hiểu, trong Thư Tòa soạn ngày 21-8, trang Việt Weekly - tờ báo của người Mỹ gốc Việt, đã viết: "Những du khách thế giới đến Việt Nam có cảm giác đây là một quốc gia khá tự do. Các giới hạn nhân quyền thường liên quan đến vấn đề
bảo vệ an ninh trong một xã hội mà mức độ phát triển còn ở trạng thái sơ khai hơn là có tính cách cố tình đàn áp người dân. Có thể nói chính quyền Việt Nam đang cố gắng ngày càng mở rộng mức độ tự do người dân mà không đánh mất khả năng kiểm soát an ninh xã hội. Phần lớn những nỗ lực đánh phá Việt Nam về mặt nhân quyền bắt nguồn từ những đoàn thể chính trị ở nước ngoài mang động cơ muốn giành một chỗ đứng trong hệ thống quyền lực chính trị ở Việt Nam. Có nghĩa rằng, nhân quyền chỉ là một chiêu bài chính trị, hơn là một quan tâm có thực chất". Nhận xét này có điều rất thú vị là một nhà báo từ nước ngoài về nước tác nghiệp đã lập tức phát hiện bản chất của vấn đề, bắt mạch được bản chất các phát ngôn, hành động của mấy "nhà dân chủ", "người yêu nước" vẫn được tung hô trên internet!
Để khách quan hơn, xin dẫn lại một số ý kiến mà chắc chắn mấy người đang quảng bá "đa nguyên, đa đảng" ở Việt Nam sẽ