" Biên Niên Sử Linh Thú Huyền Thoại: Tập 3 - Khúc Hải Ca Dữ Dội PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Biên Niên Sử Linh Thú Huyền Thoại: Tập 3 - Khúc Hải Ca Dữ Dội PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo [ebook©vctvegroup] Biên Niên Sử Linh Thú Huyền Thoại Tập 3 - Khúc Hải Ca Dữ Dội —★— Tác giả: Lari Don Người dịch: Hai Hạnh Nhà xuất bản Kim Đồng 2018 Gửi tặng Mirren, vì những nhận xét thẳng thắn của con về các nhiệm vụ khó nhằn nhân vật phải thực hiện; Gửi tặng Gowan, vì con đã đề xuất cái tên Selkie tuyệt vời nhất trên đời; Và gửi tặng lớp P5 trường tiểu học Inverkip của cô Findlay, vì đã nghiên cứu về Selkie rất xuất sắc. Chương 1 Lộc cộc lộc cộc… Bõm! “Đừng cười nữa!” “Chúng mình đâu có cười.” “Cười đấy còn gì! Nói cho mà biết, đi bằng móng trên đống tảo biển này không dễ tí nào.” Helen cố nhịn cười khi Yann lại trượt té lúc bước lên một hòn đá trơn tuột khác. “Thôi nào, Rona,” cô thì thầm, “chúng mình vượt lên trước để tránh phải nhìn anh ấy liên tục bước hụt và trượt chân nữa đi. Cậu biết là càng xấu hổ Yann càng vô cùng hậu đậu mà.” Lạch cạch… bõm! “Đừng quay lại.” Rona lẩm bẩm. “Sao không?” “Cậu ấy vừa ngã dập mông xuống bãi đá!” Helen không thể cưỡng cơn tò mò, quay lại mấy bước và thấy Yann đang loạng choạng, mắc kẹt trong vũng nước. Cô tóm lấy tay cậu và cố hết sức kéo cậu ra. “Đừng ngốc thế, đứa trẻ loài người. Em không thể cân nổi sức nặng của ngựa đâu! Lùi lại, nếu không tôi sẽ giẫm lên em mất.” Với một cái lắc người thô vụng, cậu nhảy lên. Nước chảy dọc lưng cậu, nhỏ tong tỏng xuống phần thân ngựa màu hạt dẻ. Cậu lắc mái tóc nâu đỏ và búng bay con cua nhỏ mắc trên vai. “Đừng nhìn nữa! Hãy để mình được yên thân lội qua cái bãi biển kinh khủng này.” Yann rón rén giương móng trước lên, nhắm tới ô cát bằng phẳng nhỏ xíu, kết quả, cậu lại bước hụt và ngã chổng vó vào vũng nước nông. “Ôi giời ơi!” Rona bỏ đi, mái tóc mượt mà vung vẩy che chiếc túi bông xù khoác trên vai, bộ váy dài ngang đầu gối sượt qua bờ đá theo mỗi bước đi. Helen nhìn Rona, rồi liếc sang Yann. Cậu có thể bị gãy chân nếu cứ cố đi nhanh. Trong túi sơ cứu đeo trên vai phải cô không có loại nẹp đủ dài để nẹp chân ngựa. Cô nên đuổi theo Rona hay đi sau Yann để trông chừng cậu? Đột nhiên Yann hét lên: “Rona! Quay lại!” “Không! Mình không thể muộn giờ được!” “Quay lại và xem cái này này!” “Xem cái gì mà xem, xem đám rong biển mắc trên đuôi cậu á?” “Rona Grey, nghiêm túc đấy. Quay lại đây!” Rona quay lại, khó chịu liếc mặt trời, y hệt cách mẹ Helen liếc đồng hồ mỗi khi phải đưa Helen và Nicola đi học trong khi có cả tá động vật xếp hàng chờ ngoài phòng phẫu thuật. “Gì?” Rona cáu. “Nhìn cát này.” Nhân mã chỉ xuống giữa hai móng trước. Hai cô gái chụm đầu nhìn ô cát sạch sẽ dưới chân cậu. “Chẳng có gì cả!” Họ đồng thanh. “Chính xác. Quá phẳng. Ở đây hẳn từng có thứ gì đó.” Helen quan sát kĩ hơn. Ô cát quả thực quá phẳng phiu. Cô quay qua nhìn những mảng cát nằm xen kẽ trong bãi đá. Chúng được in đầy dấu chân chim hoặc những đường rãnh mềm mại sót lại sau khi triều rút. Rona quỳ xuống và bắt đầu đánh hơi: “Cậu nói đúng. Không vệt gió quét. Không cả sạn cát. Chắc ai đó đã chải chỗ cát này.” “Ai đó đang cố xóa dấu vết,” Yann kiên quyết, “ai đó không muốn có người biết mình từng đến đây.” “Ai nhỉ?” Rona hỏi, sự khó chịu dần chuyển thành lo lắng. Yann nhún vai: “Một vị khán giả của cuộc thi Hải Ca Cầu Bão chăng?” “Nhưng cuộc thi là sự kiện công khai. Tất cả sinh vật biển và linh thú đều được chào mừng. Còn con người thì hoàn toàn không hay biết.” “Mình biết nè.” Helen nói. “Là vì mình mời cậu tới.” “Không thể biết đây là ai trừ khi chúng ta lần theo dấu hắn.” Yann nói. “Không thể biết hắn muốn gì trừ khi trực tiếp hỏi hắn.” Cậu bẻ nắm tay và cười toe toét. Helen thở dài, còn Rona thì lắc đầu. “Đây là một cuộc thi, Yann ạ, không phải trận chiến.” Rona nói. “Mình cá là hẳn có uẩn khúc gì thì người đó mới chải sạch cát.” “Mình sẽ điều tra.” Yann tuyên bố. “Cậu á?” Rona khịt mũi. “Cậu còn đang vật lộn để đứng được trên bãi cát kia kìa. Để mình đi cho.” Cô quay ra ngó mặt trời lần nữa. “Cậu đi làm sao được.” Yann nói. “Cậu chỉ có một cơ hội để tham dự cuộc thi Hải Ca Cầu Bão, Rona à, và nếu cậu chiến thắng, đây cũng là cơ hội duy nhất để trở thành Sứ Giả Đại Dương luôn. Cậu không thể đến muộn được. Để mình đi.” “Không.” Helen nói. “Em đi cho. Hai người cứ đến cuộc thi trước, em sẽ thử tìm hiểu xem kẻ lén lút này là ai.” “Nếu em tìm thấy hắn, Helen, em sẽ làm gì?” Yann hỏi. “Nếu đó là thủy quái hoặc lục nhân, hải bá hoặc rắn biển, quái mã[1] hoặc lươn khổng lồ, em sẽ làm gì?” Helen đông cứng trước danh sách đáng sợ của Yann, rồi nhún vai: “Thì thử xem hắn có thích được tâng bốc không? Hoặc chơi cho hắn một đoạn nhạc?” Cô vỗ lên hộp đàn sau lưng. “Đừng đùa, cô gái loài người. Ranh giới nơi biển cả và đất liền giao thoa có thể là địa điểm du lịch con người yêu thích, nhưng cũng giống như các lằn ranh giữa hai thế giới khác, chúng thu hút quái vật từ cả hai phía.” Helen cười toe toét: “Em đã từng đương đầu với cả một nhân ngưu thèm khát sức mạnh và một Yêu Hậu chuyên bắt cóc trẻ con. Em có thể theo dõi một tên gián điệp tới từ biển cả mà.” Rona than vãn. “Nhưng nếu cậu đi, Helen, cậu sẽ không được nghe mình hát!” “Có chứ. Hai ngày nay cao độ và khả năng biểu diễn tự tin của cậu đã tiến bộ đáng kể, mình có thể nghe cậu hát kể cả khi mình vẫn còn ở vịnh Taltomie.” Má Rona ửng hồng: “Cậu nghĩ vậy à? Nếu mình hát to và tự tin thì tất cả là nhờ có cậu hướng dẫn đấy. Cậu biểu diễn siêu hơn mình nhiều.” “Còn cậu soạn nhạc đỉnh nhất, vậy là hòa. Giờ thì đi trước đi, mình sẽ theo chân vị khách bí ẩn này. Nếu may mắn, mình sẽ kịp đến xem cậu biểu diễn, nếu không, cậu chỉ cần hát thật to để tiếng ca truyền tới tai mình dù mình đang ở đâu chăng nữa. Chúc may mắn nhé!” Họ ôm nhau, Rona mỉm cười: “Dù sao mình cũng sẽ tới được Geodha Oran nhanh hơn nếu không vướng hai cậu.” Cô chạy thẳng xuống bờ biển, kéo cái túi đeo bông xù ra và rũ mở, quăng áo choàng da qua vai. Ánh mặt trời lấp lánh trên lớp da sáng bóng, cô bò lên tảng đá rồi nhảy xuống nước. Một con hải cẩu nhô đầu lên. Hải cẩu dùng vây vẫy chào rồi lặn mất. Helen quay qua Yann: “Anh tiếp tục vượt qua chỗ tảo biển nhé, em sẽ truy bắt ngỗng hoang.” “Nếu sự vụ chỉ đơn giản là một con ngỗng hoang cố xóa dấu vết thì tôi sẽ vô cùng vui mừng. Dù sao thì… để tôi đi với em.” “Nhìn anh loạng choạng trên đá như thể ngựa non mới sinh đang tập đi ấy ạ. Vậy anh giúp được gì chứ?” “Sinh vật này không lẩn trốn. Những ô cát được xóa láng trơn dẫn lên cao quá bờ biển, hướng thẳng tới vách đá đằng kia. Kể cả không mang tới tai họa gì, việc hắn lén lút chọn tuyến đường trong đất liền để tới buổi biểu diễn là rất khả nghi. Tôi sẽ theo dấu hắn, nhanh hơn và an toàn hơn, trên cạn.” Khi Yann vật lộn để tới được chân vách đá, cậu chỉ lên bức tường đá dốc đứng: “Ở đây có một lối mòn này, thêm kha khá dấu vết bị xóa. Leo lên thôi.” Giờ, đến lượt Helen cảm thấy bất an. Yann phi trên con đường mòn nhỏ hẹp gập ghềnh dễ như dê, còn cô phải lần mò từng bước. Khi gần tới đỉnh, Helen thì thầm: “Để em ngó trước, em nhỏ và không gây ồn ào như anh.” Cô lách qua Yann, nhìn thấy một dải đất mở rộng, những hạt cát li ti mắc lại trên nhánh cỏ, cùng những tảng đá xám rải rác như thể bị hất lên đây bởi cơn bão vậy. “Tốt. Không có ai cả.” Yann tiến lên và xem xét kĩ càng mọi nơi, như thể sợ Helen bỏ sót một con quái vật biển ngay trước mũi. Cậu gật đầu: “Không có ai, và tôi cũng không nhìn thấy thêm dấu vết nào nữa. Giờ đi thẳng đến Geodha Oran thôi. Nếu sinh vật kia lần dò đến chỗ cuộc thi thì chắc trên đường chúng ta sẽ thấy được gì đó.” Khi họ men theo bờ biển gập ghềnh, Helen hỏi: “Sứ Giả Đại Dương là gì thế anh?” “Hả?” “Em tưởng Rona đang tham dự cuộc thi Hải Ca Cầu Bão của selkie, nhưng anh lại nói đây là cơ hội duy nhất để cô ấy trở thành Sứ Giả Đại Dương. Là sao?” “Cậu ấy không kể gì với em khi hằng sáng hai người ra biển hát hò à?” Helen lắc đầu. Yann mỉm cười, vẻ mặt đầy tự mãn: “Đứa trẻ loài người ngốc ngếch. Cuộc thi Hải Ca Cầu Bão chiều nay chỉ dành cho selkie. Selkie chiến thắng sẽ trở thành Bão Ca và có cơ hội bước vào cuộc tranh tài giữa các hải tộc nhằm giành ngôi vị Sứ Giả Đại Dương. Do cuộc thi giữa các hải tộc cực kì hiếm khi được tổ chức, rất ít Bão Ca có cơ hội trở thành Sứ Giả Đại Dương, vậy nên Rona chịu áp lực lớn vô cùng. Mẹ và hai người họ hàng của cậu ấy là Bão Ca. Bà cố thì là Sứ Giả Đại Dương. Rona phải giữ thể diện cho gia đình. Chắc đó là lí do cậu ấy không nói với em, để tránh khiến cả hai lo lắng.” Helen sững người: “Cậu ấy có kể rằng gia đình cậu ấy có truyền thống chiến thắng trong cuộc thi Hải Ca Cầu Bão. Thậm chí cậu ấy còn mặc chiếc váy mẹ cậu ấy từng mặc khi thắng giải. Nhưng Rona không hề nói sẽ phải tham gia thêm một cuộc thi nữa nếu vượt qua lần này! Em không biết em có đủ sức hướng dẫn tiếp cho cậu ấy không. Cậu ấy đã quá lo lắng rồi!” “Cuộc thi Sứ Giả Đại Dương không phải là cuộc thi hát, mà là cuộc đua. Nếu nhờ sự giúp đỡ của em mà cậu ấy trở thành Bão Ca, cậu ấy sẽ cần thêm cả sự giúp đỡ của tôi để giành ngôi vị Sứ Giả Đại Dương.” “Rona? Cuộc đua? Anh đùa à?” Helen ước gì mình đã không cố sức giúp Rona tập luyện căng thẳng nhường ấy. Có lẽ Rona sẽ hạnh phúc hơn nếu không thắng cuộc thi này, để khỏi phải chịu đựng một cuộc thi khác. Nhưng ước mơ lớn nhất của Rona là được viết nên và cất lên những bài ca của mình, và Bão Ca sẽ được mời đến hát trước rất nhiều linh thú. Helen bỗng nghe thấy những giọng nói cùng tiếng cười mờ ảo vọng lại từ xa xăm. “Chúng ta gần đến rồi,” Yann nói, “nên kiếm một chỗ vừa xem được vừa nghe được đi.” “Vậy thì thử chọn…?” Đột nhiên, đập vào mắt họ. Sau tảng đá bên vách đá. Một bóng dáng thấp thoáng. Thoắt ẩn thoắt hiện. Helen và Yann sững lại. Thân ảnh di chuyển quanh tảng đá, ló đầu quan sát đám đông bên dưới. Ráng chiều rực rỡ rọi vào đỉnh đầu hắn. Helen và Yann đều thở dốc. Chương 2 “Cái gì vậy?” Helen thì thầm, nhẹ nhàng bò tới nấp sau chồng đá. “Tôi không biết.” Yann nói. Họ đã kịp nhìn rõ hình hài kẻ kia trước khi hắn kịp trườn vào bóng tối. Thay vì phản chiếu trên da, ánh sáng dường như đi xuyên qua hắn. Đó là một thân thể gù gập, nhớp nháp, gầy đét, cái đầu khổng lồ hình bầu dục, khắp mình loằng ngoằng những nét tím, và mấy vòng tròn phớt hồng trôi lơ lửng trong phần da thịt trong suốt. “Anh không biết ấy hả?” Cô hỏi. “Ừ.” “Em nghĩ nhân mã biết tuốt chứ!” Cậu quắc mắt: “Tôi biết tất cả linh thú trên đất liền, nhưng tôi không được học nhiều về các sinh vật biển…” “Nghĩa là anh không biết nhiều về sinh vật biển hơn em là bao? Anh cũng thiếu hiểu biết như em nhỉ!” “Không, tôi không hẳn thiếu hiểu biết.” Mặt cậu dãn dần thành nụ cười hớn hở. “Thường tôi vẫn biết nhiều hơn em ít nhất một thứ, điều đó giúp tôi luôn dẫn trước và em tưởng là tôi biết tuốt.” Helen lắc đầu: “Rona chắc chắn biết. Chúng ta tả lại cho cậu ấy sau vậy. Điều quan trọng nhất bây giờ là xem sinh vật kia có nguy hiểm không thôi.” “Trông cũng không đáng sợ mấy,” Yann lẩm bẩm, “cứ như ai đó đã hắt hơi ra hắn vậy.” “Hắn làm gì ở đây nhỉ?” “Có thể là kẻ hâm mộ các giọng ca hải cẩu…” Yann cũng không chắc lắm. Helen ngó qua chồng đá: “Nếu có thể tìm được bên vách một tảng đá đủ to, sẽ dễ quan sát cuộc thi và trông chừng tên gián điệp này hơn.” Sau khoảng mười lăm phút, họ tìm được chỗ nấp sau một tảng đá gồ ghề nằm tít bờ đá. Helen quỳ xuống để nhìn rõ sân khấu: Gedha Oran - một vịnh nông chảy ngược qua vách đá vào đất liền. Dưới bãi đá ngầm là các selkie già cả với lớp da hải cẩu trơn bóng lốm đốm vảy xám, ngồi cao hơn các selkie trẻ tuổi - trong nhân dạng, có mái tóc suôn thẳng, mặc áo lụa - đang gặm cá và nói cười khúc khích. Cô thấy Rona đang ngồi trên bãi đá tít đầu mỏm đất với năm đối thủ khác. Những bức tường đá cao giúp truyền tiếng hát của họ ra tận khơi xa. “Đừng vẫy tay chào cậu ấy,” Yann yêu cầu, “nếu cậu ấy vẫy lại, con quái thò lò nhớt dãi kia sẽ biết chúng ta đang ở đây.” Cậu liếc qua chỗ ẩn nấp của tên gián điệp - gần vị trí của các selkie hơn. “Hắn không cử động. Tôi nghĩ hắn đang xóa dấu vết, nhưng tôi vẫn chưa đoán ra hắn có thể làm gì từ tít trên cao thế này.” “Hắn có thể đẩy đá xuống các thí sinh?” “Tôi nghĩ đến trường hợp đó rồi. Nhìn chỗ sạn vụn dưới chân tảng đá đi. Không thể lăn tảng đá được, cách duy nhất là nâng nó lên và ném xuống, nhưng tôi ngờ là cái thứ bầy nhầy đó chẳng đủ khỏe để nâng cả tảng đá to như vậy.” Họ ngồi xuống, Yann tao nhã gấp gọn chân dưới thân, còn Helen thì vắt vẻo bên bờ đá, thay phiên giám sát kẻ khả nghi, đồng thời quan sát những thí sinh bên dưới. Bỗng Helen để ý thấy ngồi hai bên gờ đá không phải là selkie, mà là các nhân vật bồng bềnh những mái tóc xoăn sóng nhạt màu, bên này vảy ánh bạc, bên nọ mập mờ sắc xanh huyền ảo. “Em tưởng đây là cuộc thi của các selkie cơ mà? Họ là ai thế? Hay anh cũng không biết nốt?” “Tôi biết thừa! Họ là những người quan sát đến từ các bộ tộc khác cũng tham gia cuộc thi Sứ Giả Đại Dương.” Helen chỉ các thân ảnh lấp lánh ánh bạc: “Phải chăng đó là..?” “Ừ. Mĩ nhân ngư.” “Còn mấy người xanh lè kia?” “Lục nhân tới từ vùng Minch. Họ…” Một selkie vạm vỡ có vết sẹo sâu hoắm kéo từ mặt xuống tận cổ yêu cầu tất cả im lặng. Cuộc thi Hải Ca Cầu Bão chính thức bắt đầu. Sáu ứng cử viên xếp hàng ngang trên bờ đá sáng bóng, vị giám khảo mặt sẹo tuyên bố thứ tự, tên Rona vang lên cuối cùng. Helen ngồi ngay ngắn lắng nghe các phần thi và thầm đánh giá xem liệu ai có thể hát hay như Rona. Selkie đầu tiên hát bi khúc ngư dân dưới nhân dạng, sau đó chuyển hình dáng hải cẩu và hò khúc hò biển cả. Mỗi một thí sinh phải hát ba bài: Khúc ca truyền thống, bài hát tự sáng tác, và đoạn nhạc ứng biến. Luật còn yêu cầu mỗi selkie phải hát ít nhất một bài trong hình dáng hải cẩu, và một bài trong hình dáng con người. Helen không thật sự ấn tượng với thí sinh đầu tiên, Rory, họ hàng của Rona, đến từ John O’Groat - cách đây sáu mươi dặm về phía đông. Cô đã mong được nghe một giai điệu đủ sức tạo cảm hứng cho khúc nhạc mới của cô, nhưng anh chàng cứ hát đi hát lại bằng chất giọng trở nên the thé mỗi khi ngân dài. Helen liếc sang sinh vật kia. Hắn vẫn đang ẩn nấp trong bóng tối. Thí sinh tiếp theo, một selkie cao ráo đến từ quần đảo Shetland, hát khúc đầu tiên dưới hình dạng con người, thế nên Helen có thể hiểu được ca từ: “Lại thêm một người mê mẩn các ngư dân.” Yann thở dài: “Mấy bài hát selkie này cứ na ná nhau.” “Bài hát của Rona nghe độc đáo hơn nhiều.” Rona trình diễn những bài ca cũ, riêng khúc nhạc tự viết là được truyền cảm hứng mạnh mẽ từ các chuyến phiêu lưu cùng bè bạn và cơ hội hiếm hoi được ngủ lại với Helen, trong căn nhà con người. “Nếu nhạc quá cách tân,” Yann nói, “các selkie lớn tuổi sẽ không bỏ phiếu cho cậu ấy.” Helen nhắm mắt, tận hưởng giai điệu kì thú do selkie đến từ Shetland tự sáng tác, dù cho đó lại là một bản ballad kể câu chuyện tình yêu của selkie với một ngư dân đã đánh cắp bộ da của nàng. Yann lẩm bẩm: “Tại sao họ không đơn giản dùng mái chèo phang một nhát vào đầu mấy tên đàn ông đó và cướp lại bộ da? Cứ như thể họ muốn bị bắt và bị giam cầm cả đời trên đất liền vậy.” Thí sinh thứ ba, đến từ Đảo Man, bắt đầu phần thi bằng hình dáng hải cẩu, vậy nên Helen khó hiểu nổi lời bài hát, cô đành ngửa người ngó nghiêng tên gián điệp. Gần như không thể thấy được gì trong bóng tối đen kịt bao bọc bởi những tia sáng rực rỡ trên nền cỏ vàng. Nhưng dường như sinh vật kia vẫn tiếp tục lom lom ngồi nấp sau tảng đá, say mê lắng nghe hơn là theo dõi cuộc thi. Cô nhún vai rồi quay lại với phần trình diễn bài hát tự sáng tác của selkie vùng Đảo Man, một khúc nhạc u ám kể về những thủy thủ bị mắc kẹt dưới con tàu đắm. Tiếp đến, ban giám khảo ra đề phần thi ứng biến. Selkie rung bộ vây để khởi động rồi bắt đầu phần thi. Helen lắc đầu: “Cô ấy sao chép giai điệu một số khúc hát ru ở Quần đảo phía Tây. Không thật phù hợp với bài hát về mấy đàn lươn ẩn náu trong hang động.” “Vậy là bớt một đối thủ Rona phải để tâm.” Yann nói. Thí sinh tiếp theo đến từ chính chi selkie nhỏ bé của Rona. Helen ngồi thẳng dậy: “Đó là Roxburgh. Em đã từng nghe cậu ấy tập hát cùng bố. Cậu ấy cực kì khá đấy, hoàn toàn có thể trở nên tuyệt vời nếu bố cậu chịu cho cậu tự lựa chọn con đường thay vì liên tục đòi hỏi và ép cậu làm theo ý bác ấy.” Yann sững người trước giọng ca như xé rách không gian, vang vọng khắp vách đá, lên đến tận chỗ họ: “Hay hơn cả Rona cơ à?” “Không hay hơn cả Rona, nhưng cậu ấy hát những khúc cổ điển tràn đầy cảm xúc. Nghe kìa.” “Đang tra tấn từ ngữ thì có.” Yann nói. “Đó gọi là làm vừa lòng khán giả. Cậu ấy hát theo cách họ mong muốn cậu ấy hát.” Roxburgh như quăng bản thân tan hòa vào đoạn điệp khúc, mỗi nốt cậu hát tựa như sắp bật khóc hoặc muốn hét toáng lên trong cơn giận dữ bùng cháy. Helen thở dài, quay người kiểm tra sinh vật kia. Mặt trời khuất dần sau bóng mây. Khi ánh sáng nhạt bớt, bóng râm cũng theo đó bớt đen đặc. Helen có thể thấy một bóng hình trong suốt, khung xương màu tím, da thịt ánh hồng, dạ dày đang tiêu hóa thịt cá. “Eo! Nhìn kìa!” Yann duỗi người ngó sang, nhưng đúng lúc đó mặt trời lại sáng lòa, làm họ chói mắt. Thêm một lần nữa bóng râm giấu kín tên gián điệp, nhưng Helen thấy thêm một thứ nữa. Một chiếc túi. Chiếc túi mỏng bằng da cá - giống cái mẹ Rona đeo - đang nằm dưới đất, cạnh chân sinh vật kia, và đang giãy dụa. “Em thấy gì thế?” Yann hỏi. “Giống như thạch quấn quanh cậu bé bánh gừng vậy, và hắn mang theo một cái túi chứa thứ gì đó đang cử động, thứ gì đó còn sống.” Helen nghe được vài nốt đầu tiên của đoạn nhạc Roxburgh soạn, chiến khúc kể về vị vua selkie tổ tiên. Cô khẩn trương thì thầm với Yann: “Chúng ta làm gì bây giờ?” “Tấn công hắn trước khi hắn tấn công các selkie!” “Nếu hắn định tấn công họ, sao hắn không làm từ đầu? Và có cái gì trong túi thế nhỉ?” “Có thể là vũ khí, hoặc thứ hắn định dùng ném xuống đầu các selkie. Chúng ta không thể chờ đến khi hắn tấn công được.” Yann chống chân trước, nhổm dậy. “Tôi sẽ đi lấy cái túi.” “Đừng ngốc thế. Anh không thể đi rón rén bằng móng guốc được. Để em.” “Đừng có mà ngớ ngẩn. Em không…” Helen không muốn mất thời gian tranh cãi nhạt nhẽo, và Yann cũng chẳng thể hét toáng lên với cô mà không đánh động tên gián điệp, thế nên cô lờ tịt cậu, rồi nằm sấp, trườn trên tảng đá. Cô bò qua thảm cỏ khô ráo. Nếu quay lại, hẳn sinh vật kia có thể dễ dàng nhìn thấy màu áo khoác đỏ chói cùng chiếc quần bò xanh lè của cô, nhưng tiếng hát vang dội của Roxburgh đã giúp cô nhẹ nhàng tiếp cận bóng lưng trước mắt. Khi bò được nửa đường, cô thấy cánh tay nhợt nhạt chuyển động trong bóng tối, với chiếc túi xám xịt đang quằn quại. Sinh vật kia chuẩn bị thực hiện đòn tấn công đầu tiên! Chương 3 Giờ chẳng còn kịp để mà nấn ná hay cẩn trọng nữa. Helen bò dậy, nhanh chóng gập người xông đến. Cô nghe thấy tiếng “thịch” nặng nề cùng giọng hét dữ dội vang lên sau lưng: “Cúi xuống!” Cô nằm rạp ra đất, vừa kịp lúc bộ móng khổng lồ phóng qua đỉnh đầu cô và giậm mạnh xuống mặt đất. Helen vội bật dậy, cắm mặt đuổi theo nhân mã. Khi cô chạm tới được bờ đá, Yann đã đứng ở đầu kia, cao lớn và vững chãi, hai tay khoanh chặt, chặn đường tiến của tên gián điệp. Helen gật đầu. Yann hoàn toàn không định chiến đấu với sinh vật kì dị kia, cậu chỉ ngăn chặn cuộc tấn công nhắm xuống đầu những người bên dưới. Cô tiến lên, gắng đứng thật vững kẻo sảy chân ngã khỏi vách đá cách cô có bốn bước, hai chân dang rộng ngang vai như thể đang chuẩn bị lên sàn diễn. Helen nghe thấy Roxburgh bắt đầu phần thi ứng biến: Bài hát về những cá voi sát thủ chuyên rình mò hải cẩu. Tiếng hát của cậu dường như mất nội lực, tựa hồ muốn giữ giọng, dù như vậy thật vô lí vì đây đã là bài hát cuối cùng. Helen chỉ thấy được bóng lưng mờ ảo của Yann lấp ló sau tảng đá sừng sững cùng giọng nói tự tin của cậu. Cậu cố hạ giọng xuống để không làm phiền những nghệ sĩ bên dưới: “Đừng hòng tiến thêm nửa bước, đồ quái vật nhầy nhụa.” Sinh vật vặn người lại đối mặt với Helen, thân hình mỏng dẹt như được làm từ chất thạch trong suốt, lấp đầy bởi những khúc xương tím và nội tạng hồng nhạt. Helen có thể nhận ra trái tim đang đập từng nhịp, hai lá phổi phập phồng co giãn giống miêu tả trong cuốn sách giải phẫu của mẹ. Cô rời mắt khỏi đám thịt cá đang phân hủy trong dạ dày để nhìn khuôn mặt màu hoa cà và đôi mắt nhợt nhạt của sinh vật. Đầu lâu tím thẫm khổng lồ với bộ hàm trống trơn không một chiếc răng - dù việc sinh vật này không có răng cũng không giúp ích cho đám cá bị nuốt chửng là bao. Sinh vật lảo đảo tiến về phía Helen, cái đầu đung đưa như chực rời khỏi cổ, những cái xương trôi bồng bềnh trong biển thạch, hoàn toàn không kết nối với nhau; cổ, cổ tay và mắt cá được phủ một lớp da màu hồng nhăn nhúm nhợt nhạt. Sinh vật cao hơn Helen, gần bằng Yann. Toàn thân nhìn như giọt nước lùng nhùng, không có răng hay móng, và toàn màu hồng, khó làm Helen cảm thấy sợ. Tuy nhiên, sẽ rất ngu ngốc nếu không nghiêm túc đánh giá tình hình. Sinh vật di chuyển sang bên, cố lách qua Helen. Cô nhanh nhẹn sải chân chặn đường. Sinh vật thoắt lùi lại phía tảng đá, tính luồn ngang khoảng trống giữa nó và Yann. Nhưng Helen, người quá thành thạo mấy trò chơi kiểu này từ khi còn ngang tuổi đứa em gái bé bỏng, đã ngay lập tức đứng chắn phía trước. “Đừng hòng qua được.” “Có, ta qua được.” Sinh vật rũ rượi lẩm bẩm. “Không! Ta sẽ không để ngươi phá hoại cuộc thi.” “Ngươi không được nhúng mũi vào. Ngươi không thể chống lại sức mạnh của biển cả. Biển cả luôn đòi lại những thứ thuộc về biển cả.” Sinh vật rít dài sau mỗi từ “biển cả”. Rồi tên gián điệp vắt người sang bên, mỗi bước mỗi nhanh và dài hơn, đung đưa chiếc túi trên đôi tay chảy nhão. Lần này Helen không chặn đường nữa. Cô tóm lấy chiếc túi. Hai bàn tay cô ra sức nắm chặt lớp vảy cá trên bề mặt. “Không!” Sinh vật ré lên the thé, cố giật chiếc túi lại. “Trả đây!” Giọng hắn ngày càng to, như thể các khán giả bên dưới có nghe được hay không chẳng còn là vấn đề. “Buông ra!” Helen nhất quyết không thả tay. “Ngươi không thể chống lại ta!” Helen nghe thấy giọng hát của Roxburgh vang dội trở lại, như muốn nhấn chìm tiếng thét của sinh vật. “Ngươi không thể chống lại sức mạnh của biển cả!” Sinh vật giật mạnh, càng khiến Helen nắm chặt hơn. “Phì…” Yann phì cười, đứng chặn lưng của sinh vật. “Cả ngươi lẫn biển cả còn chẳng đấu lại được với sức mạnh của một cô gái loài người bé nhỏ! Bỏ cuộc và về nhà đi, quái vật xì mũi.” Helen càng kéo càng hoảng sợ khi nhìn cánh tay của quái vật doãi theo, trở nên mỏng dẹt và nhạt màu, nhưng cô cố dồn trọng tâm vào gót chân, giữ chắc không buông, dù đám xương cánh tay màu tím trước mắt càng ngày càng dãn. Cô thật tình không muốn xé sinh vật này thành hai mảnh, nhưng cũng chẳng muốn chiếc túi khả nghi đang động đậy kia rơi xuống đầu Rona. Thế là cô ra sức kéo. Đột nhiên, đám ren trong suốt quấn quanh cổ tay phải của sinh vật lỏng ra, chuồi tới quất thẳng vào tay trái của Helen, rồi quấn trở lại chỗ cũ. Helen thở dốc khi cơn đau bỏng rát dấy lên từ vết lằn đỏ tấy. Tên gián điệp có thể màu hồng và cài ren, nhưng không có nghĩa là hắn không nguy hiểm. Cô liếc mấy cái xúc tu quấn chặt, thầm mong sẽ không bị tấn công nữa. Mà nếu có thì cô mong mình đủ can đảm tiếp tục. “Buông ra, đứa trẻ của đất liền. Hãy đầu hàng trước sức mạnh của biển cả và trả chiếc túi lại cho ta!” Sinh vật rống lớn. Giọng Roxburgh cũng ngày một to. Helen sợ ngã nên không dám lùi về phía vách đá, cũng sợ phải tiến về phía những xúc tu kinh khủng kia, nhưng dù thế nào, cô quyết tâm không buông chiếc túi, thế là cô đột ngột giật mạnh nó. Chiếc túi bị xé rách, các mảnh da cá tơi tả đung đưa trong tay cả hai, nước ào ra. Tiếng cánh tay nhão nhoẹt bật trở lại lép bép. Không còn đối lực để giữ cân bằng, Helen ngửa người ngã về sau. Cô vung tay chống, mặt đất nơi vách đá sượt qua các ngón tay. Cô quờ quạng, mất đà úp người xuống đống nhầy nhụa tràn ra từ cái túi. Sứa, lươn biển… Cả tá loài có độc, bốc mùi và đầy gai. Có vẻ chiếc túi chứa đầy loại “vũ khí” thô sơ vụng về nhưng cũng kinh dị nhất của biển cả, được sinh vật kia dùng đôi bàn tay chỉ có bốn ngón thu thập và mang tới đây. Yann phi tới sau Helen để chặn lối ra vách đá. Helen vội vàng bò dậy tránh đống chất độc lổn nhổn rồi dựa người lên tảng đá sát đó. Cô có thể nghe thấy Roxburgh vẫn đang hát, giọng cậu đã trở nên mạnh mẽ và tuyệt đẹp, hoàn toàn trái ngược với đống hỗn độn diễn ra trên này. Sinh vật cố sức thu thập “vũ khí” rồi tiến thêm một bước về phía nhân mã. Yann duỗi tay chắn lối. Sinh vật liền ném một con sứa màu cam vào cậu, nhưng con sứa lập tức bị Yann đấm tung, đập vào tảng đá và dính bẹt trên đó một lúc trước khi trượt dần thành đống dưới đất. Helen thấy Yann nhét nắm đấm vào miệng như muốn mút cơn đau trên các ngón tay, cô bèn gào lên, át cả đoạn điệp khúc đang đến cao trào của Roxburgh: “Đừng cho vào miệng, có thể có độc đó!” Yann nhíu mày, đành duỗi mở bàn tay. Helen đứng dậy, vắt óc nghĩ cách đánh lạc hướng sinh vật, dù Yann trông có vẻ vẫn ổn. Sinh vật kia cũng chẳng thể nhìn xuyên qua cậu để ném lung tung xuống đám đông. Tên gián điệp bước gần đến Yann, cố nhoài người ném vũ khí qua lưng cậu. Yann xoay người, dùng vó trước đá mạnh. Vó cậu lún sâu vào lớp thạch nhớp nháp trên ngực quái vật. Nó đau đớn hét lên the thé, đánh rơi túi vũ khí xuống chân Yann. Nhân mã tỏ vẻ kinh tởm, hẩy mạnh thân, dồn sức nặng nghiền nát cột sống và đám thịt lùng bùng xuống đất. Sinh vật rên rỉ: “Không!” Rồi hắn đột ngột vung tay, quăng xúc tu, trông như những mảnh ren hồng, về phía mắt Yann. Nhân mã rướn cao người khiến đám xúc tu đập vào ngực cậu, thay vì mắt. Nhưng Yann đứng quá gần vách đá, toàn bộ sức nặng của cậu giờ chông chênh trên hai móng sau, trong đó một móng đang trượt dần trên mặt sỏi rải rác. Helen nhận ra cậu còn có duy nhất một chân đứng trụ, trong khi cơ thể dần ngả ra ngoài mặt dốc. Cô lao tới, tóm lấy tay Yann, cảm tưởng như mình đang phải kéo sức nặng của không chỉ của một con ngựa đua mà thêm cả tay nài ngựa. Cô giữ chặt, nghiêng người ra sau trong tích tắc, đủ cho Yann lấy lại được thăng bằng và đặt móng trước xuống. Sau vài phút im lặng, đám đông bắt đầu hò hét cổ vũ và vỗ tay. Yann nắm tay Helen và nhe răng cười: “Vậy là em thật sự có thể nâng được sức nặng của cả một con ngựa. Cảm ơn, đứa trẻ loài người!” Cô rút tay rồi nhìn quanh: “Tên gián điệp đâu?” “Hắn bỏ cuộc rồi. Hết vũ khí, hoặc hết sạch dũng khí.” Helen thấy một vũng thạch màu hồng lắc lư trên bờ vách, cảm tưởng như có tiếng cười rít lẫn trong tiếng vỗ tay. Yann liếc mấy mẩu thạch vương lại và bộ xương sống nát vụn dưới móng: “Tôi không cố ý giẫm nát nó, nhưng rất khó tránh.” Đám đông cổ vũ dần ngớt tiếng, Roxburgh đã hoàn thành bài hát. Yann thổi lên những ngón tay nhức nhối: “Tôi không nghĩ họ cổ vũ cho chúng ta đâu.” Một vài selkie phủi bụi và đá vụn khỏi lông hoặc tóc, đám còn lại thì dùng ngón tay hoặc vây chỉ lên chỗ Yann và Helen. Tất cả, trừ Roxburgh đang giơ cao tay ra hiệu chiến thắng và Rona đang ôm mặt. Chương 4 “Xin thứ lỗi vì làm phiền mọi người.” Yann gọi với xuống. “Sao ngươi dám cả gan làm gián đoạn cuộc thi, nhãi con nửa người nửa ngựa hỗn xược!” Vị selkie mặt sẹo gầm lên. “Ngươi và đứa bạn chân ráo của cô Grey cảm phiền xuống đây giải thích ngay lập tức!” Helen thấy cả tá đầu lố nhố rì rầm quay sang nhìn Rona. Cô bạn đang gắng sức nhìn thẳng, nỗ lực lơ bạn của mình và đám đông thất vọng đi. Helen tránh xa khỏi vách đá cùng những chồng xương sống, xúc tu và chất nhớt nhầy nhụa. “Chúng ta nên lo cho vết thương của anh trước.” Cô chỉ lên vết lằn đỏ tấy chạy dọc tay Yann. Cô quăng chiếc cặp xanh chứa bộ đồ sơ cứu “mượn” từ phòng phẫu thuật của mẹ xuống và rút ra quyển sách màu xanh da trời. Trước đây cô luôn mang bên mình giáo trình cũ về các loài động vật, đôi khi rất có ích để chữa trị cho rồng hay phượng hoàng bị thương, nhưng để chuẩn bị cho cả tuần dài dằng dặc ở Sutherland, cô chọn “mượn” sách hướng dẫn sơ cứu trên biển. “Sứa,” cô lẩm bẩm, tay lật nhanh phần mục lục, giở đến trang 27 và nghiền ngẫm, “sứa mặt trăng[2]? Bờm sư tử[3]? Kẻ gây chiến[4]? Đó là loại sứa gì vậy, Yann?” “Không hẳn là sứa đâu, Helen. Nó biết nói, biết đi lại, lại còn mang theo hành lí. Em sẽ không tìm thấy gì trong sách đâu.” Helen nhún vai: “Dù sao thì cũng chưa tìm ra phương án điều trị tốt nhất, và chúng ta cũng không có dấm, chanh hay kem đánh răng, vậy nên chỉ còn cách tự xoay sở thôi.” Cô kiểm tra tay mình và vai Yann, tìm các mảnh xúc tu sót lại rồi lục cặp lấy ra hai cái túi nhỏ bằng nhựa trắng, ép chặt, lắc mạnh, rồi ném một cái cho Yann: “Túi chườm mát. Dùng tay lành của anh giữ túi chườm trên vết rát, giúp giảm nề và giảm đau. Chắc selkie sẽ có những phương thuốc đặc hiệu hơn.” “Đừng mong họ yêu thương chăm sóc em, Helen; chuẩn bị nghe mắng mỏ gào thét thì hơn.” Helen quăng cặp lên vai rồi chỉnh lại hộp đàn sau lưng cho ngay ngắn, ép túi chườm mát bằng tay đau. Lúc thí sinh tiếp theo bắt đầu phần thi, Helen và Yann lục tục quay về đường mòn trên vách đá. Helen hỏi, cảm thấy túi chườm phát huy tác dụng: “Anh định vượt qua bãi đá trơn trượt này thế nào?” “Từ từ, bình tĩnh! Tôi không vội đi nghe con bò biển to bè ấy càm ràm.” “Đừng lo. Chúng ta chỉ cần kể về sinh vật định tấn công họ, rồi chìa ra mấy vết đánh, thêm cái túi nham nhở và đống vũ khí nhầy nhụa này là được, có khi họ còn cảm ơn thay vì càm ràm ấy chứ. Mà dù sao, luận về ngoại hình, anh phải gấp đôi bọn họ. Anh không cần lo.” “Tôi không lo về tụi mình,” Yann lẩm bẩm, “tôi lo cho Rona. Khán giả sẽ nghĩ chúng ta cố tình chơi bẩn và sẽ bỏ phiếu cho Roxburgh thay vì Rona, dù cậu ấy hát hay đến đâu.” Helen sững người, co rúm lại trước những âm ngang phè của selkie đến từ Quần đảo phía Tây: “Người này không thể coi là đối thủ nổi.” “Chắc chỉ bỏ phiếu chọn giữa Roxburgh và Rona thôi nhỉ?” Yann hỏi. “Có thể, miễn không ai định ném nhím biển vào Rona. Cậu ấy nhiều khả năng không biểu diễn liên tục được như Roxburgh. Chắc chắn anh chàng đã làm khán giả cực ấn tượng với khả năng ứng biến, thậm chí hát to lên để át tiếng ồn. Em không biết Rona có làm được thế không?” Họ tới đầu đường mòn khi thí sinh thứ năm kết thúc bài thi cuối. Helen và Yann liếc xuống mặt nước, cùng nheo mắt trước ánh nắng phản chiếu rực rỡ. Helen chỉ đống bầy nhầy lờ mờ sắc hồng gần như trong suốt, trôi lơ lửng trên mặt biển phẳng lặng cách bờ vài mét. “Hắn kia phải không? Dưới nước trông còn nhầy nhụa hơn. Em nghĩ hắn vẫn đang nghe đấy.” “Nếu hắn định tấn công, chúng ta có thể dùng những viên đá ngay dưới chân làm đạn. Đi nào.” Nhưng Helen khom người ngồi xuống rìa vách đá: “Đợi ở đây đi. Tiếp theo là tới lượt Rona rồi, em muốn tập trung lắng nghe. Em không thể vừa leo núi vừa nghe nhạc được.” Yann nhún vai: “Dù sao thì chúng ta cũng chẳng tới được Geodha Oran trước phần bỏ phiếu, thế nên tôi nghĩ chờ thêm chút cũng không ảnh hưởng mấy.” Rona cất giọng, tiếng hát cao vút vang vọng khắp đất trời và biển cả. “Mọi bài hát của hải cẩu đáng lẽ phải được thưởng thức bằng cách này…” Helen mỉm cười rồi đặt túi đeo xuống, “… từ một khoảng cách xa, hòa cùng gió, sóng và cánh chim.” Cơn đau trên tay đã dịu, cô ngẩng lên nhìn Yann. Cậu vẫn đang ấn túi chườm lên phần vai sưng to nhất. Vết lằn hằn dưới làn da rám nắng giống đường kẻ mảnh từ ngòi bút hơn là vết sẹo nổi gồ nham nhở gây ra bởi roi da. Helen thả lỏng, lắng nghe Rona hát dưới nhân dạng. Cô nàng sẽ hóa thành hải cẩu để biểu diễn hai bài sau. Rona quyết định chọn cùng bài hát với Roxburgh, bài ca cổ kể về một selkie đã đánh mất không chỉ lớp da mà cả trái tim cho chàng ngư dân, nhằm thể hiện rõ sự khác biệt giữa phong cách và kĩ thuật của hai người. Rona đã ngẫm nghĩ rất nhiều về ý nghĩa của ca từ, về sự đau đớn khi đánh mất bộ da, biển cả và gia đình, đến mức dù cô không hát với những xúc cảm mãnh liệt như Roxburgh, giọng ca thủ thỉ của cô dẫn thẳng vào trái tim câu chuyện. “Cậu ấy tuyệt quá.” Helen nhắm mắt tận hưởng từng nốt nhạc mượt mà. Yann lẩm bẩm: “Cũng nhờ em giúp.” “Không có chuyện đó đâu, thứ em trao cho cậu ấy chỉ là sự tự tin. Tài năng hoàn toàn là của Rona.” Đến đoạn cao trào, Helen ngồi thẳng lưng, chú tâm nghe Rona xử lí một dãy hợp âm khó. Tự lúc nào, cô buông túi chườm mát xuống, gõ nhịp theo giai điệu như thể trên vai đang mang nặng cây đàn tưởng tượng cho tới khi nghe thấy Yann bật cười. “Âm nhạc thật sự là cuộc sống của em đấy nhỉ?” Cậu chọc. “Chắc chắn rồi! Âm nhạc có thể kể mọi câu chuyện, tạo ra mọi cung bậc cảm xúc. Âm nhạc có thể làm nên tất cả.” Họ cùng lắng nghe chất giọng hào sảng, khỏe khoắn và quyến rũ của Rona, nghe cô mang tới gam màu mới mẻ cho giai điệu xưa cũ. “Khá đấy chứ.” Yann nói. “Khá thôi à? Đây là giai điệu tuyệt vời nhất em từng được nghe ấy.” “Hay hơn cả Roxburgh luôn?” “Chuẩn. Chọn cùng một giai điệu là quyết định quá sáng suốt. Cậu chàng kia gần như gục mặt trong khăn tay sụt sùi suốt sáu đoạn, nhưng Rona đã thổi hồn vào quá khứ, thể hiện từ góc độ loài người, đem đến cho tác phẩm cái nhìn mới. Cậu ấy thật tuyệt vời.” Yann hếch đầu, ngó xuống đám đông đột ngột im lặng: “Giờ thì cậu ấy khoác bộ da hải cẩu lên và chuẩn bị hát đoạn nhạc mà tụi em cùng viết kìa.” “Em không cùng viết với cậu ấy. Như thế là gian lận. Đó là tác phẩm của cậu ấy. Đúng là chúng em có biểu diễn cùng nhau, nhưng em chỉ thêm vài ý tưởng giúp cho giai điệu ấn tượng hơn thôi.” Helen không còn thấy thoải mái khi ngồi trên cỏ. Cô nhấp nha nhấp nhổm khi Rona bắt đầu cất tiếng hát kể câu chuyện về một selkie với nỗi niềm mòn mỏi mong được lên đất liền khi đang bồng bềnh trên biển, và khao khát được quay về biển khi đứng trên mặt đất vững chãi, về sự băn khoăn không dứt khi kẹt giữa hai thế giới. Helen sải bước dọc vách đá, những ngón tay như chạm tới nốt nhạc trong không trung. Khi Rona ngân đoạn điệp khúc cao vút, Helen dừng lại, rút từ trong túi một túm len màu xanh để cuốn những lọn tóc loăn xoăn đen nhánh cho khỏi bị gió biển làm rối. Túm len còn lại có màu hồng sáng, nhưng cô vẫn đưa Yann để cậu buộc mớ tóc dài đến vai. Cô đứng vững, chú tâm nghe đoạn tiếp, hoàn toàn không để ý đám lùng nhùng vừa nãy đã biến mất sau những đợt sóng. “Cậu ấy diễn thế nào?” Yann thì thầm. “Anh không nghe thấy à? Cậu ấy thật tuyệt vời!” Helen vẫn mỉm cười, kể cả khi có một đàn mòng biển la thất thanh và lao đánh vèo qua đỉnh đầu cô. Cô không thích mòng biển, nhưng có vẻ như đàn chim bị biển cả tối đen ném vào đất liền, nhanh đến nỗi cô chẳng kịp né. “Cậu ấy làm được rồi!” Helen vui vẻ gọi Yann. “Biển cả đã hòa làm một với giai điệu của cậu ấy. Từng nhịp đập của sóng biển như thay trống vỗ, còn hơi thở của hương gió đóng vai trò như các ca sĩ hát bè.” “Helen, gió càng ngày càng to. Tránh xa khỏi vách đá đi.” Yann quệt lớp muối đọng trên mặt và chìa tay ra cho Helen. Khi Rona hát đoạn điệp khúc lần hai cũng là lúc Yann và Helen xuống tới mặt đất. Yann sững người: “Nếu đợt cuồng phong này thổi bay chứng cứ thì chúng ta chẳng thể chứng minh những gì chúng ta làm vừa nãy.” Gió xoáy tròn quanh họ. Một vài hạt mưa rơi xuống khăn choàng của Helen, nhưng cô không kéo mũ áo lên vì sợ bỏ lỡ mất bài ca của Rona. Giọng ca của Rona mỗi lúc một dồn dập, mạnh mẽ và dữ dội, tựa như hòa làm một với sóng biển và gió bão cũng đang ngày càng xoáy nhanh. Helen lắc đầu ngạc nhiên: “Tốt quá, cậu ấy đã bắt kịp được với nhịp điệu của biển cả và thời tiết, dù cho nó liên tục thay đổi.” “Tôi không nghĩ như vậy.” Yann nói. “Cái gì đến trước, cơn bão hay bài hát?” Sóng vỗ ào ạt, đập từng hồi vào đất liền khiến Helen và Yann phải thối lui. Helen nấp sau thân hình to lớn của Yann. Yann quỳ thấp người xuống rồi hét to với Helen: “Ai đã nêu ý tưởng thêm sóng với gió vào bài hát của cậu ấy vậy nhỉ?” “Em. Em nghĩ như thế sẽ làm bài hát có chiều sâu hơn, kiểu như hát cùng dàn nhạc chứ không phải đơn ca ấy.” Yann cười như điên dại và phi mấy vòng xung quanh Helen, khiến cô bị đám bọt biển hắt cho lạnh cóng. “Em lại như vậy rồi, nhạc sư của các linh thú! Em đã làm ra ma thuật mà tất cả selkie hằng mong muốn! Cuộc thi Hải Ca Cầu Bão được tổ chức nhằm tìm ra số ít selkie có khả năng gọi bão. Rona sẽ trở thành một Bão Ca thật sự, và em là người đã chỉ cách cho cậu ấy!” Yann tóm lấy Helen và lắc lư cô theo điệu nhảy, rồi cậu xoay tròn cô trên vách đá, vừa kịp để hứng những đợt gió táp đến, từng tầng sóng vỗ bì bọp, tiếng mưa lộp bộp gõ lên mặt đá và giọng ca tuyệt đẹp réo rắt không ngừng. Cậu nhấc bổng cô. Helen thở dốc và cười lớn. Yann hét: “Em đến tận phương bắc để biến cậu ấy thành một ca sĩ tràn đầy tự tin, thế rồi em đã giúp cậu ấy trở thành Bão Ca!” Rona kết thúc bài hát với một khúc ngân hoa mĩ gần như nuốt trọn hai bên bờ đá. Đi cùng đó, Yann và Helen cũng giảm dần tiết tấu điệu nhảy hoang dại của họ và chăm chú lắng nghe tiếng vỗ tay ồn ã mà những khán giả dọc bãi biển dành tặng Rona. Mưa ngớt dần, và gió cũng lặng dần. Helen nhìn bóng dáng tơi tả của đàn mòng biển bị cơn bão ném ra tít khơi xa: “Giờ thì em đã hiểu tại sao chiều nay Lavender và Catesby không thể đến kịp.” “Ừ,” Yann thở hổn hển, “cả đôi cánh mỏng manh của Lavender lẫn bộ lông vũ mềm mại mới nhú của Catesby đều không thể đối mặt với trận gió lớn như vậy. Họ sẽ bị thổi ngược ra biển và không bao giờ quay lại được đất liền mất.” “Họ có biết Rona sẽ gọi bão tới không? Có ai biết không?” “Đương nhiên là không. Từ hàng trăm năm nay, không ai có thể làm được việc đó! Nhưng hình như Lavender đã lường trước, bởi cậu ấy thuyết phục Catesby đến khu cắm trại trước, phòng trường hợp có bão.” “Không phải ở khu cắm trại họ vẫn sẽ bị cơn bão đánh bật sao?” Helen bồn chồn liếc về phía đông. “Không, chỉ có bão biển trong phạm vi tiếng hát của Rona thôi. Đi nào!” Yann nói, vẫn chưa hết mơ màng. “Đi xuống chỗ đã hẹn nào.” “Từ từ đã, em muốn nghe giai điệu cuối và kết quả bình chọn.” “Không cần phải bình chọn! Có thể khán giả sẽ yêu cầu cô ấy hát lại, nhưng cần gì bình chọn.” “Tại sao?” Helen đột nhiên cảm thấy vô cùng lo lắng. “Cậu ấy đủ tư cách chiến thắng. Cậu ấy là Bão Ca thật sự. Không ai có thể phủ nhận được. Việc bình chọn chỉ xảy ra lúc cần lựa danh ca có kĩ thuật tốt nhất khi không ai đạt tới danh hiệu Bão Ca thôi. Rona thắng rồi! Em nên xuống đó và tặng cậu ấy một cái ôm.” Dưới tiếng hát sôi nổi của Rona trong phần thi ứng biến kể về đàn cá mưu mẹo cố thoát khỏi nanh vuốt của hải cẩu, Helen nhét túi chườm lạnh đã hơi âm ấm vào túi rồi theo chân Yann cẩn thận lần xuống vách đá. Cô ngừng giữa chừng và nhìn xuống dòng nước bên dưới. Không một mảnh màu hồng hay tím nào còn vương lại dưới những đợt sóng dập dềnh. Có lẽ sinh vật kia đã biến mất. Hoặc có lẽ hắn vẫn đang lắng nghe từ biển khơi xa thẳm. Chương 5 Khi Helen và Yann xuống tới chân bãi đá, bảy trưởng lão selkie sải từng bước dài về phía họ. “Gian lận! Dối trá! Phá hoại!” Một người đàn ông cao to chỉ ngón tay thuôn dài vào cả hai, gần như sắp nổ tung vì giận dữ. Helen nhận ra cái mũi khoằm và làn da lốm đốm của cha Roxburgh cùng khuôn mặt đỏ lựng vì xấu hổ của Roxburgh nấp sau lưng ông. “Gian lận!” Ông lại hét lớn khi nhóm selkie tới gần nhân mã và cô gái nhỏ đang bồn chồn lo lắng. Selkie thấp bé nhất, mẹ của Rona, liếc Helen và Yann rồi quay sang cha Roxburgh: “Chúng không gian lận, Sinclair, kết quả không có gì phải bàn cãi. Tất cả nhất trí lựa chọn Rona. Những tiếng động phía trên chẳng ảnh hưởng gì cả.” “Không có gì phải bàn cãi. Đương nhiên là phải bàn cãi chứ! Roxburgh nhà ta cũng có thể cầu bão nếu nó không bị xao nhãng. Nó có thể triệu hồi được cơn bão lớn hơn với nội lực và âm độ mà cô Rona bé nhỏ đây không xoay sở được.” “Ông đâu chứng minh được chứ!” “Bà không thể phủ nhận! Nó sắp gọi được bão tới, nhưng rồi con thú nông trại thô kệch hậu đậu kia ném đống đá xuống!” Helen cảm thấy những thớ cơ trên chân Yann căng cứng. Cô thầm cầu nguyện cậu đủ bình tĩnh để không gây sự, khi mà họ đã có đủ rắc rối phải giải quyết rồi. “Vô lí, Sinclair.” Mẹ Rona cố giữ giọng bình tĩnh. “Roxburgh đã hát tới đoạn ba trong sáu đoạn thi khi tiếng la hét bắt đầu. Nếu thằng bé có thể triệu hồi được bão thì sóng gió phải dần nổi ngay từ phần điệp khúc thứ hai.” Selkie khổng lồ mặt sẹo xông vào can: “Sinclair. Anh biết là một Bão Ca chân chính đủ bản lĩnh đương đầu với các yếu tố ngoại cảnh, thậm chí là bị tấn công khi đang hát…” “Roxburgh đã làm thế! Nó đã hát thật tuyệt vời, dù mấy sinh vật đất liền kia có làm ồn đến đâu!” “Nó vượt qua được nhiễu loạn, nhưng không thể triệu hồi bão.” “Strathi,” Sinclair gọi vị chủ khảo, “ông biết là con trai tôi có nhiều cơ hội để chiến thắng cuộc thi hơn quý cô Rona đáng yêu này mà.” Ông đẩy đứa con trai cao nghều mảnh khảnh lên trước. Strathi lắc đầu: “Chúng tôi không chọn Bão Ca theo kích cỡ, tốc độ hay sức mạnh, mà là quyền năng từ bài hát của họ. Quy tắc đó đã giúp chúng tôi chọn được người ưu tú để cạnh tranh với vô vàn đối thủ tài năng khác cho vị trí Sứ Giả Đại Dương.” Sinclair toan mở miệng phản đối, nhưng vị chủ khảo rống lên: “Thôi nào! Rona đã thắng, Roxburgh thì không. Chúng tôi sẽ không thay đổi luật lệ, cũng không thay đổi kết quả. Thay vào đó, chúng tôi sẽ đặt câu hỏi cho hai cá nhân có hành động bất hợp lí trên vách đá và sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về cách thức xử lí.” Nguyên nửa hải tộc quay lại, nhìn chằm chằm Helen và Yann. Strathi tiếp: “Anh chàng này. Cả cô bé loài người nữa. Mời giải thích cho hành vi vô cùng báng bổ của hai người.” Helen và Yann chưa có thời gian bàn luận xem nên nói gì và ai nói trước. Yann liếc Helen còn cô lén chỉ cậu. Đó không phải là hèn nhát, cô tự nhủ, bởi sự thiếu hiểu biết của cô về tập tục của selkie có thể làm mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn. Dù sao thì ngôn ngữ luôn là thế mạnh của Yann. “Thưa các trưởng lão kính mến,” nhân mã mở lời, vô cùng lịch thiệp - khác hẳn cách cậu nói chuyện với Helen và các bạn mình, “hãy trao cho chúng tôi niềm vinh hạnh được đi cùng các ngài tới hiện trường vụ việc. Tới đỉnh vách đá, tôi xin giải thích rõ ràng lí do và mời các ngài xem bằng chứng.” Sinclair từ chối lời đề nghị của nhân mã, nhưng mẹ Rona lại hào hứng, và Strathi cùng mấy trưởng lão khác khá tò mò, vậy là Yann dẫn đầu phái đoàn selkie lấp lánh trong bộ áo choàng xám đi dọc đường mòn. Cậu mô tả những điều cậu đã chứng kiến trên bãi biển và lí do chọn leo lên vách đá. Helen theo sau, cố tránh phải kể thêm bất kì chuyện gì. Khi tới cuối đường, Helen nghe thấy ai đó thì thầm tên mình. Cô quay lại. Rona đứng ngay sau cô và mỉm cười: “Cảm ơn, Helen! Mình sẽ không thắng nếu thiếu cậu.” “Đâu mà. Cậu là nhạc sĩ tuyệt vời nhất mình từng biết và là ca sĩ tuyệt vời nhất mình từng được nghe.” “Mình không thể trở thành Bão Ca cho tới khi cậu xuất hiện. Mình chỉ có thể gọi được bão nhờ dùng tới gió và sóng biển làm nền cho giai điệu của mình. Và đó là ý tưởng của cậu.” “Mình chỉ cố gắng cải thiện bài hát thôi, chứ không định điều khiển tự nhiên một cách thần kì vậy. Sao cậu không nói cho mình biết là cậu hi vọng có thể triệu hồi được một cơn bão?” “Manh mối nằm ngay ở tên cuộc thi. Hải Ca Cầu Bão! Mình nghĩ cậu phải biết chứ.” “Rona, đừng cho là mình biết mọi điều về linh thú chứ.” “Kể cả cậu không biết mình đang làm gì, cậu vẫn giúp mình chiến thắng, và mình biết ơn cậu vì điều đó.” Rona ôm chầm lấy Helen, cánh tay bóng loáng mạnh mẽ bẻ ngoặt tay Helen sang hai bên. “Úi!” “Ôi xin lỗi. Để mình xem nào.” Rona nhìn những vết lằn màu hồng trên bàn tay Helen. “Cậu cần làm mát chỗ này.” “Mình đã làm thế rồi. Cậu phải xem lúc trước cơ.” Helen cứng người trước những gì còn sót lại. Cơn bão đã xóa sạch mọi dấu vết trên vách đá, còn bộ sơ cứu góp phần làm mờ đi bằng chứng trên da họ. “Vậy, nói mình nghe, ai đã gây ra chuyện này,” Rona nói, “và tại sao Yann suýt ngã nhào khỏi vách đá?” Helen mô tả cho Rona con quái vật cũng như trận chiến của họ. Phía trước vọng lại tiếng Yann kể cho các trưởng lão phiên bản vô cùng hoa mĩ của câu chuyện. Khi cô nói xong, Rona thốt lên: “Hải Thấu!” “Ừ,” Helen đồng ý, “nó gần như trong suốt, có thể nhìn xuyên thấu[5] luôn.” “Không, ý mình không phải thế. Tên chúng là Hải Thấu. Tên chính xác của chúng là cnidaree[6], nhưng đa số selkie gọi chúng là Hải Thấu.” “Chúng có nguy hiểm không?” “Mấy cái vòi khá tởm lợm, và chúng thường ăn selkie non, nhưng chúng không hay mạo hiểm làm thế do cái dạ dày trong suốt chẳng giấu che nổi thứ gì. Khi ở trên bờ, do phải rời xa lòng biển, chúng khá bẩn tính. Đương nhiên chúng cảm thấy thoải mái trong dạng sứa, khi ở dưới nước. Mà khi ở biển thì chúng chỉ nguy hiểm nếu tụ tập thành đàn lớn, xồn xồn đòi quyền lợi sở hữu tài nguyên biển. Những người kể chuyện nói rằng rất lâu về trước, từng xuất hiện cả đàn Hải Thấu quấn hàng ngàn xúc tu quanh tàu chở cá, chở dầu cá voi và da hải cẩu rồi nhấn chìm những con tàu xuống lòng biển sâu. Sau đó chúng còn phái rất nhiều Hải Thấu lên bờ đào mộ các thủy thủ. Nhưng đã rất lâu kể từ lần cuối họ nhìn thấy chúng tụ tập thành đàn lớn. Mình chắc cậu mới gặp một con Hải Thấu đơn độc.” “Tại sao hắn lại cố phá hoại Roxburgh?” “Có lẽ Sinclair đã làm bọn Hải Thấu khó chịu, thế nên chúng không muốn con trai bác ấy chiến thắng? Nhưng có một điều mình chắc chắn, đó là bác ấy đã làm kha khá selkie khó chịu rồi đấy!” Helen và Rona lên đến nơi vừa kịp lúc nghe thấy Sinclair dài giọng ẽo uột: “Chẳng có gì ở đây cả. Tất cả chỉ là âm mưu để giúp cô bạn yêu quý của nhân mã chiến thắng!” Helen nhìn lên đỉnh vách đá. Tất cả đã được gió và nước mưa mà Rona gọi tới xối sạch. Strathi đi đi lại lại, áo choàng xoáy tròn sau lưng: “Vậy ngựa con và cô nhóc! Chứng cứ đâu?” Yann dõng dạc trả lời: “Chẳng phải ông đã được tai nghe mắt thấy ư? Ông không nghe thấy sinh vật đó rít gào về sức mạnh của biển cả sao? Ông không thấy nó đã cố ném sứa độc lên đầu các ông sao?” Chủ khảo lắc đầu: “Chúng ta không nghe thấy gì ngoài tiếng la hét gây rối của ngươi. Chúng ta không thấy quái vật nào ngoài một cô gái nhỏ hậu đậu lang thang trên vách đá và một nhân mã thiếu suy nghĩ đạp đống đá xuống. Ngươi đã không đưa ra được chứng cứ về tên gián điệp và trận chiến mà ngươi nói đến, vậy nên ta buộc phải kết luận rằng ngươi nói đối, rằng ngươi cố ý phá hoại.” Ông liếc Rona. “Và chắc chắn nó ảnh hưởng không tốt đến các ứng viên của cuộc thi.” Rona nép vào mẹ. Bà đang cắn môi bằng những chiếc răng sắc nhọn. Cha Roxburgh thì nhảy cẫng vì sung sướng, trong khi Roxburgh cố tránh xa cha. Strathi quay lại nhìn Yann và Helen: “Ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài trục xuất hai ngươi khỏi bờ biển quý giá của chúng ta. Các ngươi sẽ quay lại đất liền ngay lập tức và không bao giờ được bén mảng dù chỉ nửa bước tới đây, trừ khi các ngươi muốn nếm sự giận dữ của toàn bộ sinh vật biển.” “Không!” Rona thất thanh. “Không, bác Strathi! Đó là bọn Hải Thấu mà. Nhìn những vết sẹo của họ đi bác!” Nhưng có vẻ mấy gói chườm đá của Helen có tác dụng quá tốt. Vết sưng nề trên tay cô giờ chỉ phớt hồng. Strathi nhún vai: “Mấy cái vết đó chẳng chứng minh được gì. Chúng có thể tự lấy đá mài lên.” Yann thản nhiên tiếp lời: “Các trưởng lão selkie từ lâu đã nổi danh với trí tuệ và sự công bằng, vậy nên làm ơn cho chúng tôi cơ hội nói hết câu chuyện…” Strathi lắc đầu: “Chúng ta không có thời gian nghe chuyện của ngươi. Ngươi đã làm phiền đủ rồi. Hãy tự thấy may mắn khi chúng ta chỉ đơn thuần trục xuất ngươi. Rona Grey, cô cũng nên thấy may mắn khi khả năng thiên bẩm của cô khiến chúng tôi không thể nào phủ nhận!” “Nhưng…” Sinclair lắp bắp, “… nhưng…” Rona không bỏ cuộc: “Chúng ta nên cảm ơn các bạn cháu mới phải, sao lại phải trục xuất họ? Nhìn đi…” Rona lôi trong đám đá vụn dưới chân vách đá một phiên bản nhỏ hơn của cái túi mà Helen đã xé rách. “Túi da cá?” Strathi hỏi. Rona cười toe toét với Helen và dốc ngược cái túi. Tất cả lùi lại… Vỏ sò bị chim mổ nát; hộp cá nhăn nhúm chưa mở nắp; cài áo ngọc trai to khủng bố nứt vỡ; và đồng hồ quả trứng phủ bụi chứa đầy cát trong lòng. Strathi dùng mũi chân hẩy đống đồ: “Đây là thói quen của bọn cnidaree. Gần như là tập tục của chúng. Chúng lượm lặt các kho báu của đại dương từng bị đất liền trói buộc và trả về chốn cũ. Có điều…” Đột nhiên những vị trưởng lão đa nghi ngẩng phắt dậy, dáo dác nhìn khắp đỉnh vách đá với niềm hăng say không che giấu. Chỉ trong vài phút mẹ Rona đã tìm thấy con sứa màu cam mà Yann đấm nát mắc kẹt trong vách đá; Strathi thì tìm thấy các đốt sống nhím biển vướng thành một mớ bòng bong trong bãi thạch nam cách đấy hai mươi bước chân; và vị trưởng lão già cả nhất phát hiện ra những mảnh da cá sót lại trên rìa vách đá. Các trưởng lão nhanh chóng hội ý, chỉ trừ mẹ Rona và cha Roxburgh, ông già đang vô cùng giận dữ thì thụt với cậu con trai, sau đó Strathi tách nhóm và đi thẳng về phía vách đá. Helen và Yann đứng sát lại gần nhau. Họ sẽ không bị trục xuất mãi mãi chứ? Strathi hắng giọng, chất giọng to vang ồm ồm của một con bò biển: “Các vị trưởng lão nhất trí bày tỏ lòng biết ơn với những người bạn đến từ đất liền vì đã có công phát hiện âm mưu của kẻ xâm nhập nhằm phá hoại cuộc thi. Chúng ta vinh danh hai người như những vị khách danh dự trong buổi dạ yến Hải Ca Cầu Bão tối nay, và xin được gửi lời mời tham dự buổi khai mạc cuộc thi Sứ Giả Đại Dương ngày mai.” Tiếng vỗ tay rào rào vọng từ dưới lên như nuốt chửng tràng cằn nhằn cáu kỉnh của Sinclair và tiếng hét the thé vì vui mừng của Rona khi ôm chầm lấy Yann và Helen. Nhưng sau khi các trưởng lão quay lại biển cả và mẹ Rona bỏ đi, không quên nhắc nhở Rona phải có mặt ở nhà trước bữa tối một tiếng, Rona khuỵu xuống, hai tay ôm đầu, sụt sùi. “Ôi không,” Yann nói, “đừng xúc động thế chứ. Cậu có thể khóc trên đường quay về vịnh Taltomie mà.” Yann cúi xuống để Helen và Rona leo lên lưng. Như thường lệ, cậu không quên càm ràm việc mình bị đối xử như một chiếc xe đò, nhưng hai cô gái đều biết cậu sẽ còn phàn nàn nhiều nữa nếu họ tốn bộn thời gian để đi bằng hai chân về chỗ cắm trại. Yann phi sâu vào đất liền, cắt ngang bờ biển lồi lõm, thẳng tiến về phía cánh đồng dẫn tới vịnh Taltomie. “Sao vậy, Rona?” Helen lớn tiếng hỏi để Yann cùng nghe. “Đáng lẽ cậu phải vui vì đã thắng vòng tuyển chọn Hải Ca Cầu Bão chứ. Hay cậu lo cho cuộc thi Sứ Giả Đại Dương?” Rona hét trả: “Ừ! Rất lo!” “Chiều nay cậu đã làm rất tốt. Mình đảm bảo cậu sẽ thắng những cuộc thi khác.” “Thắng hay thua không phải vấn đề mình lo,” Rona nói, “mà là sống hay chết.” Chương 6 “Gì cơ?” Helen hét lên, cố át tiếng vó ngựa và gió thổi. Hẳn cô đã nghe nhầm câu trả lời của Rona. “Mình không lo vấn đề thắng hay thua,” Rona lặp lại, “mà là sống sót qua cuộc thi!” “Ý cậu là gì?” “Các nhiệm vụ không chỉ là viết nhạc hay biểu diễn, mà là làm thế nào để sống sót khi đụng độ hàng ngàn quái vật trong lòng đại dương hoặc trên bờ biển.” Yann chạy chậm lại và gọi với ra sau: “Mình có thể giúp cậu chuẩn bị.” “Sao cậu giúp được hả Yann? Các nhiệm được tổ chức ngoài biển.” Yann tự tin cười lớn: “Ý mình là giúp về mặt tinh thần, tận dụng chính nỗi sợ để cho cậu thêm sức mạnh, dùng nỗi sợ hãi để đánh bại đối thủ. Mình đã kinh qua rất nhiều cuộc đua và trận chiến, mình đảm bảo có thể giúp cậu thắng cuộc.” “Đừng tự tin thế, Yann. Mình không quan tâm đến thắng cuộc! Tất cả những gì mình muốn là còn sống tới kì Thu phân, được cùng vỗ tay chào đón Sứ Giả Đại Dương, sau đó được yên ổn viết thêm nhiều bài hát. Mình vui vì giành danh hiệu Bão Ca, nhưng mình chưa bao giờ mơ mộng trở thành Sứ Giả Đại Dương cả. Mình quá đen đủi khi ghi danh trúng năm có cả cuộc thi Sứ Giả Đại Dương. Vậy nên mình không cần cậu huấn luyện mấy cái tinh thần chiến đầu gì gì đâu, Yann, cảm ơn nhé. Và cũng mong là mình không cần tới bộ sơ cứu của Helen!” “Nhưng tham gia có ý nghĩa gì nếu cậu không cố gắng chiến thắng?” Yann la. “Ít nhất cậu cũng phải thử chứ?” “Những đối thủ còn lại thì sao?” Helen hỏi, nỗ lực ngăn trận cãi cọ chuẩn bị nổ ra. Rona trả lời: “Đều đến từ hai tộc: nhân ngư và lục nhân.” “Họ cũng có các Bão Ca à?” Helen bắt đầu băn khoăn liệu có phải khí hậu quá đỗi thú vị xung quanh bờ biển Scotland này là kết quả mấy bài hát của linh thú không. “Không, gọi bão là kĩ thuật chỉ mình selkie có. Nhân ngư có cuộc thi riêng xem ai quyến rũ được nhiều thủy thủ nhất. Mà cái đó thì chẳng cần nhiều tài năng lắm,” Rona khịt mũi, “chỉ cần có giọng hát mềm mại và một khuôn mặt xinh đẹp. Lục nhân thì tìm kẻ thu thập được nhiều đoạn thơ nhất.” “Ý cậu là làm thơ?” Helen hỏi. “Không. Thu thập. Tìm kiếm, đánh cắp hoặc đòi hỏi.” “Tại sao lại…?” Yann xen ngang: “Chúng ta gần đến rồi. Tốt hơn là cậu nên thám thính xem khu trại có an toàn không.” Rona cười lớn khi hai cô gái trượt xuống: “Đương nhiên là an toàn rồi. Dì mình là quản lí khu đó, và cả tuần nay mọi chuyện đều ổn thỏa. Cậu hơi nghiêm trọng hóa vấn đề rồi đó.” “Đó là bởi người của mình luôn rất cẩn trọng, hải cẩu ạ, đấy là lí do không một chuyện nào về tộc nhân mã Scotland được lưu truyền, trong khi các tuyển tập truyện kể dân gian có cả tá selkie truyền kì. Cẩn thận nên mới ẩn dật.” Helen và Rona rúc rích cười, đi vòng qua đồi về phía khu cắm trại, Yann siêu thận trọng thì giữ khoảng cách mười bước, tụt lại đằng sau. Khi còn ở Vùng Biên Giới, Helen chỉ có thể gặp gỡ các bạn vào buổi tối, khi màn đêm che giấu họ khỏi con mắt loài người. Nhưng đây là cực tây bắc Scotland, là vùng thiểu số nhất châu Âu, nơi những khu làng nằm rải rác và người dân chẳng mấy khi lai vãng trên các con đường mòn nhỏ hẹp. Linh thú luôn cảm thấy an toàn khi ở đây. Vậy nên cô tận hưởng chuyến nghỉ dưỡng quý giá với các bạn, dạo chơi khắp bãi biển Sutherland vào ban ngày và chợp mắt khi mặt trời lặn. Mẹ Helen sẽ không bao giờ để cô dành cả tuần dài đằng đẵng ở phương bắc cùng Rona chuẩn bị cho cuộc thi nếu mẹ biết bạn của con gái mình thật sự là ai. Selkie không thường dùng thư điện tử hay điện thoại, nhưng may mắn là Rona có một bà dì sở hữu khu cắm trại nằm giữa làng Bettyhill và làng Durnesh. Chỉ một cú điện thoại chóng vánh với dì Sheila Mackay để xếp lịch đón Helen ở ga tàu Thurso là quá đủ để khiến mẹ cô tin tưởng đây là một kì nghỉ bình thường với một gia đình bình thường. Ngay trước khi hai cô gái tới thung lũng nằm phía sau khu cắm trại, một đám mây nhỏ màu cam pha tím lờ nhờ trôi dọc triền dốc. Rona ré lên, vội né. Helen đứng im, kiên nhẫn chờ đám mây bay chậm lại cho tới khi tách ra thành một con chim màu đào cùng hoa tiên nhỏ bé xoay tròn trong bộ váy tím. Helen lắc đầu, vẫn chưa hết ngỡ ngàng khi nhìn thấy Catesby, con phượng hoàng siêu xấu tính thích châm chọc vừa mọc lớp lông vũ non nớt xù tung. Yann phi tới, cất tiếng: “Bù Xù, chào!” và thụp người né cú tấn công khó chịu từ cậu bạn thân. Trong khi đó, Lavender líu lo lượn lờ quanh mũi Rona: “Vậy cậu có…? Đám mây dông đó có phải…? Cậu đã…?” Catesby quang quác như gà con, ép hoa tiên tóc vàng im lặng đủ lâu để nghe Yann và Helen cùng hét lên: “Cậu ấy thắng rồi!” Tiếp đó, ai cũng nhao nhao kể chuyện: về tên gián điệp, trận chiến, cơn bão, và cả cuộc thi Sứ Giả Đại Dương. Helen chuẩn bị đặt chân xuống đồi thì Catesby rít lên, còn Lavender gọi lớn: “Dừng, dừng! Tụi mình tới đây để cảnh báo cậu.” “Cảnh báo cái gì?” Yann dài giọng. “Lại là con người à? Ở khu cắm trại hả?” Catesby gật đầu. Rona nói: “Dì Sheila kêu là tụi mình sẽ có chỗ ở riêng, bởi không có đơn đặt phòng nào trong tuần này mà!” Catesby dùng cánh ra hiệu cho Rona. Yann quay lại nhìn trong khi Helen và Rona lén lút nấp dưới đồi, quan sát khu cắm trại vịnh Taltomie. Họ nhìn qua dãy tường đá, ngó cái lều đôi mà Helen và Lavender ngủ tối qua, rồi ngó cái lều cỡ đại to tướng, cao đến mức đủ cho Yann đứng thẳng cùng Catesby lượn vòng quanh. Có ba chiếc xe buýt nhỏ buộc xuồng và xe đạp trên nóc; thêm mười cái lều đủ kích cỡ và hình dạng; một sân đầy nhóc người lớn cùng thanh niên, tất cả đều mặc đồng phục hướng đạo sinh. Rona thở dài: “Hẳn là cái tiết trời khô cong này đã làm dì Sheila lẩn thẩn rồi. Làm sao chúng ta có thể chia sẻ khu cắm trại với cả tá người?” Họ núp sau tường, rón rén trườn về phía đồi rồi đứng đối mặt với Yann đang cáu kỉnh. “Tệ lắm hả?” “Tệ,” Helen nói, “có cả tá người đem theo thuyền và xe đạp, chắc họ định khám phá bãi biển. Có lẽ khu cắm trại không còn an toàn với anh, và với cả cuộc thi của cậu luôn, Rona.” “Không sao đâu.” Giọng nói ấm áp vang lên sau lưng Helen. Một người phụ nữ nhỏ bé tròn trịa, mặc quần bò, đi ủng cao, tóc dài màu xám, đang sải bước từ sườn đồi: “Không sao đâu, cưng. Tất cả sẽ ổn thôi.” “Sao dì lại cho họ thuê hở dì Sheila?” Rona hỏi. “Sao dì không nói với họ là khu cắm trại đã chật kín?” “Khó lắm cháu yêu, vẫn còn tận hai lều còn trống, và vì cuộc thi chuẩn bị diễn ra, ta nghĩ có vài con người cũng khá hữu ích để… ô…” bà liếc sang Helen, “… ờm… không phải việc dì gợi ý các cháu dựng lều ở góc xa để tránh gió là vô cùng may mắn sao, các cháu có thể ra ra vào vào mà không phải đi qua khu cắm trại. Sẽ an toàn thôi.” “Nhưng làm sau dì đảm bảo cuộc thi sẽ an toàn?” Helen khăng khăng. “Bởi đội thám hiểm này từng ở đây rồi. Họ luôn tham quan cùng một hòn đảo, leo lên cùng một ngọn đồi. Họ sẽ không lại gần cuộc thi Sứ Giả Đại Dương đâu. Trừ khi…” Rona thọc cùi chỏ về phía dì, Sheila dừng nói, mỉm cười với tất cả rồi quay lại khu cắm trại. “Thật hả?” Yann nói. “Chỉ ngồi cầu mong bọn họ không bén mảng tới gần cuộc thi? Quá kì cục. Mấy người nhỏ nhỏ hay mang hình dạng con người có thể ở đây nếu muốn, nhưng mình thì xin kiếu. Mà nếu Rona không định chiến thắng cuộc thi thì ở lại có ích gì đâu.” Cậu nhấc vó rồi quay người, chuẩn bị phi mất. Helen tóm lấy cổ tay cậu: “Đừng nhảy cẫng lên như ngựa đực thế. Chúng ta đều có thể ở lại khu cắm trại, nếu cẩn thận. Và kể cả Rona không cần anh giúp đỡ để chiến thắng, cậu ấy cũng cần sự hỗ trợ của anh để sống sót. Yann, đừng đi mà.” Cậu giật tay ra: “Tôi nghĩ đây là một kì nghỉ bình thường, nhưng có lẽ mọi chuyện không được như vậy rồi, ít nhất là với linh thú. Quá nhiều con người ở đây trong khi chẳng còn mấy nơi họ chưa đặt chân tới.” Nói vậy nhưng cậu dần hạ móng. Helen bình tĩnh nói: “Chúng ta cần quay lại lều để xem có bỏ quên thứ gì kì cục hay lộ dấu hiệu ma thuật nào ra ngoài không.” Catesby bay lên thám thính sườn đồi rồi kêu quang quác. Yann gật đầu nhìn phượng hoàng vỗ cánh khuất trên nền trời, tiếp tục nhiệm vụ thám thính. “Họ đã lên xe buýt rồi, có lẽ là chuẩn bị đi dã ngoại.” Yann giải thích. “Khi họ đi khỏi đây, ít nhất mấy người cũng có thể quay lại lều. Nhưng trước đó, Rona, nếu muốn an toàn vượt qua cuộc thi, cậu phải cung cấp thêm thông tin cho tụi mình.” Rona thở dài: “Cuộc thi Sứ Giả Đại Dương là một trong những cuộc thi có lịch sử lâu đời nhất thế giới. Lâu hơn cả Olympic lẫn giải lăn đá thường niên của tộc khổng lồ. Thậm chí nó còn lâu hơn cả cuộc thi Hải Ca Cầu Bão hay mấy giải đấu hai tộc khác được tổ chức nhằm giới hạn lại số lượng ứng cử viên tranh ngôi vị Sứ Giả Đại Dương.” “Thi đấu giành chức sứ giả ấy hả? Để truyền tin hay công bố cái gì à?” Yann hỏi. “Ừ, để truyền tải thông điệp về sức mạnh của biển xanh sâu thẳm, để khởi đầu một trận chiến.” “Trận chiến!” Giọng Yann cao vút đầy hứng khởi. “Tuyệt cú mèo!” “Không, không tuyệt cú mèo gì cả! Cái giá phải trả khi sứ giả không rời trận chiến kịp thời là mắc kẹt trong cuộc chiến giữa Merras và Thalas, thậm chí có thể bị giết.” “Merras và Thalas là ai?” Helen hỏi. “Hai vị thần khổng lồ giữ cân bằng cán cân đại dương. Từ khi biển cả ra đời, các sức mạnh đại dương sâu thẳm không ngừng chiến đấu nắm quyền kiểm soát dòng chảy, khí hậu và thời tiết. Họ tranh đấu suốt nhiều năm vào mỗi mùa thu, và Thalas chiếm thế thượng phong khiến sáu tháng biển cả lạnh giá, bão tố không ngừng. Rồi mùa xuân tới, Merras tỉnh dậy sau kì nghỉ dài và tấn công Thalas bấy giờ đã kiệt sức. Chiến thắng của Merras mang tới cho chúng ta sáu tháng ấm áp và yên bình. Rồi thu sang, Thalas tấn công và chiến thắng, mùa xuân thì Merras lại chiếm quyền kiểm soát… Cứ như vậy, kẻ được nghỉ ngơi sẽ chiến thắng, kẻ kiệt sức thua cuộc trong vòng quay sáu tháng, phân chia thành các mùa. Rồi họ nhận ra quy luật của trận chiến. Dù họ chiến đấu dữ dội đến đâu, Merras vẫn luôn thắng khi tới Xuân phân, trong khi Thalas thắng trận Thu phân. Họ dưỡng thương nửa năm để rồi năm tiếp theo chiến thắng. Cuối cùng họ cũng nhận ra chiến tranh là thừa thãi. Thế là trận chiến vào điểm phân, đúng hơn là cuộc thi không nhuốm mùi thương tích hay chết chóc, trở thành thông lệ để Thalas và Merras duỗi cơ, mài vũ khí sau kì nghỉ dài. Và các cuộc thi đều cần sứ giả. Nếu để hai vị thần tự sắp xếp chiến trận, cuối cùng họ sẽ lại đâm đầu cố sống cố chết. Vậy nên mỗi sáu tháng, Sứ Giả Đại Dương nhận nhiệm vụ mang thông điệp khiêu chiến từ phe đang nghỉ ngơi chuyển tới phe nắm quyền. Tuần này là tới Thu phân, Thalas sẽ gửi chiến thư tới Merras.” “Mỗi sáu tháng cậu đều phải làm vậy à?” Helen hỏi. Rona gật đầu. “Ừ. Một khi đã nhận nhiệm vụ, cậu sẽ phải thực hiện nó cho tới khi cậu quá chậm chạp hoặc yếu ớt. Những bậc trưởng lão nhắm chọn các sứ giả trẻ tuổi và hi vọng họ có thể làm việc này hai lần một năm trong nhiều năm. Mỗi khi cuộc thi bắt đầu, các sứ giả phải đối mặt với nguy cơ bị nghiền nát hoặc nhấn chìm. Không phải các vị thần cố ý đả thương sứ giả, chỉ là họ quá hăng máu nên không để ý. Kể cả chỉ là thông lệ thì trận chiến giữa các vị thần lớn mạnh có thể hủy diệt những sinh vật nhỏ bé. Sứ Giả Đại Dương gần đây nhất là một lục nhân. Mùa xuân năm ngoái cụ xin nghỉ hưu sau sáu mươi năm phục vụ, bởi cổ chân cụ bị vôi hóa, không còn chạy nước rút được. Trước đó thì bà cố của mình giữ vị trí sứ giả trong bốn mươi chín năm cho tới khi bà bị một con cá voi sát thủ nuốt chửng. Trước bà cố là một mĩ nhân ngư đến từ Cornwall, nàng ấy không trở về sau nhiệm vụ đầu tiên. Vậy nên tuổi thọ trung bình của một Sứ Giả Đại Dương chỉ khoảng năm mươi năm, không hơn.” “Sẽ có chuyện gì xảy ra nếu sứ giả không xuất hiện hoặc thông điệp bị truyền tải sai lệch?” Yann hỏi. “Sau khi các vị thần biển cả đã phô trương sức mạnh, nếu thiếu sứ giả nhắc nhở giao kèo chuyển giao quyền lực trong hòa bình, họ có thể sẽ lao vào chiến đấu thật. Rồi bão tố sẽ tàn khốc hơn mọi trận bão, từng đợt sóng vỗ mạnh đến nỗi có thể thay đổi bản đồ thế giới mãi mãi.” Helen nói: “Tóm lại là người chiến thắng cuộc thi năm nay sẽ lãnh nhiệm vụ mang thông điệp từ vị thần khổng lồ này tới cho vị thần khổng lồ khác, để khởi động một trận chiến theo thông lệ có sức mạnh nghiền nát kẻ đưa tin, và nếu sứ giả không chuyển thông điệp một cách tử tế, hậu quả là một trận chiến có thể phá nát thế giới?” “Ừm… Đúng vậy.” “Mình hiểu lí do cậu không muốn chiến thắng rồi đấy. Tại sao các hải tộc bị lôi kéo vào cái thông lệ nguy hiểm này vậy?” “Bởi trận chiến thật sự sẽ nhấn chìm các hòn đảo, nuốt chửng hang động, dàn phẳng mặt biển và hủy diệt con người lẫn hải tộc. Sứ Giả Đại Dương buộc phải đối mặt với hiểm nguy để giữ an toàn cho toàn bộ sinh mạng sống trong lòng cũng như xung quanh biển cả. Đó là nhiệm vụ cao cả và quan trọng. Có lẽ mình phải nỗ lực chiến thắng.” Nhìn Rona thảm thương đến nỗi Helen không thể kìm lòng, ôm chầm lấy cô bạn: “Mình đảm bảo các đối thủ khác sẽ cực kì mong muốn có được vinh dự này và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cậu không phải một mình gánh vác đâu.” Rona hít sâu: “Vì sứ giả phải rời trận chiến càng nhanh càng tốt, nhiệm vụ đầu tiên là thử thách tốc độ.” “Một cuộc đua!” Yann nói. “Nhớ tôi từng nói tôi nghĩ đây là một cuộc đua không Helen?” “Thực ra thì anh nói anh biết đây là một cuộc đua!” Cậu nhe răng cười: “Luôn luôn là một cuộc đua. Cậu sẽ thắng, đúng không?” Yann vui vẻ quay sang Rona. “Hải cẩu là những thợ săn mồi dưới nước, vậy nên về tốc độ của cậu thì khỏi phải bàn.” Rona nhún vai: “Nhân ngư và lục nhân cũng săn mồi dưới nước. Nhưng đúng, một con hải cẩu nhanh nhẹn sẽ nắm phần nhiều cơ hội chiến thắng.” “Thế cậu có phải là một cô hải cẩu nhanh nhẹn không?” Helen chưa bao giờ thấy bạn mình dưới nước cả. “Mình không chắc mình có thể đánh bại Roxburgh hay những nam selkie đã qua huấn luyện, nhưng mình nghĩ mình có thể đánh bại được nhân ngư hay lục nhân, nếu mình cố gắng.” “Cậu đâu có muốn thắng,” Lavender phản đối, “vậy nên cậu không cần cố gắng.” Rona lại thở dài: “Nếu việc mình không cố gắng bị phát hiện, tộc selkie có thể bị loại khỏi danh sách tham gia thi đấu trong tương lai. Mình cũng không muốn làm gia đình bẽ mặt vì thành tích tệ hại quá. Có lẽ cuộc đua sẽ khá an toàn, mình thì không có ý định giành chiến thắng hai nhiệm vụ còn lại.” “Sao không? Những nhiệm vụ còn lại là gì?” Helen hỏi. “Nhiệm vụ cuối cùng là đi tìm công cụ của sứ giả, vật chứa thông điệp.” “Tuyệt hảo!” Yann vỗ hai nắm đấm vào nhau. “Một nhiệm vụ! Làm nhiệm vụ thì chúng tạ đều quá siêu rồi. Chắc chắn chúng mình có thể giúp cậu chiến thắng!” “Mình không muốn chiến thắng, Yann! Chắc chắn là mình không muốn chiến thắng hai trên ba nhiệm vụ để phải làm Sứ Giả Đại Dương!” “Nhiệm vụ thứ hai là gì?” Helen hỏi. “Đó là… ừm… chỉ là thử thách kiểm tra khả năng kiểm soát… ờm… môi trường xung quanh…” “Cậu sẽ phải làm gì?” “Hát ấy mà. Cũng hơi giống hôm nay, kiểu thế… Ồ! Đó là tín hiệu của Catesby, có thể an toàn về lều được rồi. Đi nào.” Rona lao đi với tốc độ có thể chiến thắng bất cứ cuộc đua nào cả trên đất liền lẫn dưới lòng biển cả. Chương 7 Lavender thu những bộ váy nhỏ xíu phơi trên dây chăng giữa hai bên lều, trong khi Rona và Helen thì phủi sạch dấu chân ngựa rải từ bờ tường tới lều trại. Catesby vỗ cánh, chỉ những chỗ họ dọn sót. Rona lẩm bẩm: “Sao Yann không tự đi mà dọn dấu chân của chính mình chứ?” Helen cười lớn: “Bởi anh ấy sẽ để lại thêm cả tá dấu chân mới. Chúng ta cần lên kế hoạch giữ nhóm hướng đạo sinh tránh xa khu vực này, giúp Yann không phải chịu cảnh lạnh lẽo bên kia ngọn đồi và chúng ta cũng không phải liên tục dọn dẹp.” Catesby quàng quạc kêu, Rona thả cây chổi xuống: “Họ đang quay lại. Có lẽ họ quên thứ gì đó!” Helen vội chỉ đạo: “Catesby, Lavender, quay về chỗ Yann. Rona, giấu mấy cái chổi đi.” “Chúng ta vẫn chưa xóa hết dấu chân!” “Tớ sẽ lo vụ đó.” Helen lao tới khu nhà vệ sinh, tóm vòi nước, mở khóa rồi chạy một mạch về khu lều. Cô tưới đẫm mặt đất, trộn dấu móng nhân mã, dấu chân trần của selkie và vết bới của Catesby thành đám bùn nhão. Tiếng động cơ xe nổ bình bịch bên tai Helen. “Họ sắp tới rồi!” Cô kẹp vòi nước dưới cánh tay, quay lại nhà vệ sinh, khóa van nước và phi về phía lều. Bốn hướng đạo sinh rời khỏi xe buýt và tiến về phía họ. “Chào em gái!” Tài xế lên tiếng, trông anh ta chỉ khoảng hai mươi, chắc là trưởng đoàn. Anh ta ngó mặt đất nhão bùn và ống quần lấm lem của Helen. “Vừa có một trận lũ à?” Helen nhún vai: “Tràn cống ngay dưới lều ạ, bọn em đang nai lưng dọn dẹp.” Cô phẩy tay trước mũi. “Nhà vệ sinh đằng kia bốc mùi lắm. Anh không nên đến gần đấy.” Anh chàng hướng đạo sinh thối lui rồi quay qua nói với ba người còn lại: “Các em giúp mấy em ấy một tay. Anh sẽ đi tìm bộ sửa xe đạp.” “Tớ là Emily,” một cô bé lên tiếng, “đây là Ben,” cô chỉ sang cậu nhóc có mái tóc vàng nghệ, “còn kia là Liam.” Cô chỉ sang cậu nhỏ đứng xa xa đang đưa tay bịt chặt mũi. “Cậu thuê tận hai cái lều.” Emily nói. “Một cái bự kinh. Các cậu có mấy người?” “Năm.” Rona đáp. “Hai.” Helen trả lời cùng lúc. Cả hai đứa chết lặng. “Hai đứa tớ.” Helen đáp chắc nịch. “Tụi tớ đến đây được năm ngày rồi. Tớ là Helen, còn đây là Rona.” Cô chìa bàn tay dính đầy bùn ra. Mấy hướng đạo sinh bắt tay cô, sau đó quệt tay lau lên ống quần dài của mình. “Vậy,” Emily nói, “cậu có cần giúp chuyển lều sang chỗ khô hơn không?” Helen và Rona lắc đầu. Emily bật cười: “Cậu muốn ở cách tụi tớ càng xa càng tốt à? Có sao đâu mà!” Ben nói: “Tớ sẽ vác hộ cậu cái cặp về trước khi chúng dính thêm bùn.” “Không! Cứ để tớ!” Helen cố tóm lấy mấy cái cặp trước khi cậu nhóc nhặt lên. Nắp cặp bật tung khi họ giành giật nhau một cách lịch sự. Những bộ váy, giày và đũa phép bé xíu rơi ra. Một chiếc đầm màu hồng đính ren đáp lên mũi giày của Emily. Cô bé liếc nó: “Cậu vẫn còn chơi búp bê đấy hả?” “Đúng vậy!” Rona nói. “Không!” Helen nói. Helen thở dài. Chuyện này còn xấu hổ đến mức nào nữa đây? “Em gái tớ định đi cùng, nhưng nó bị cảm nên đành ở nhà, tớ quên không bỏ đống đồ của nó ra.” Emily lắc đầu, ba hướng đạo sinh lép nhép quay về phía xe buýt, lầm bầm bàn luận xem liệu có nên thả trẻ con một mình tự xoay xở ngoài này không. Helen càu nhàu: “Tớ không phải trẻ con! Tớ sắp mười hai rồi.” Rồi cô quay qua Rona, nhướn mày. “Năm! Cậu định giới thiệu với họ nhân mã, hoa tiên và phượng hoàng hả?” “Xin lỗi! Mình không quen trò chuyện với con người.” Helen bật cười: “Đừng lo, mình cũng không hơn cậu là bao. Dù sao thì nếu họ nghĩ chúng ta là một lũ kì quặc lại còn cắm trại trên bãi lầy nước thải thì đảm bảo họ sẽ tự khắc tránh xa.” Cô lắc đầu nhìn theo bóng chiếc xe buýt xa dần. “Dì Sheila của cậu hơi ngây ngô khi nghĩ linh thú có thể sống gần con người thế này.” “Dì Sheila biết dì đang làm gì. Dì đã điều hành khu cắm trại ba mươi năm, và không một con người nào nghi ngờ dì. Dì ấy là selkie duy nhất mình biết sống trên cạn sau khi được chồng trả lại bộ da, kể cả khi chú ấy đã qua đời, còn lũ trẻ thì bỏ đi. Dì khá giỏi tự xoay xở dù thân phận thật sự là một selkie già cả.” Helen nhìn đồng hồ: “Tốt hơn hết, cậu nên chuẩn bị về nhà ăn mừng. Chúng mình sẽ gặp cậu khi trời đủ tối để di chuyển mà không bị phát hiện.” Khi Rona quay lại bãi biển để bơi về đoàn tụ cùng gia đình ở Eilan nan MacCodrum, một hòn đảo trong vịnh Taltomie, Helen mở đám đồ giặt của Lavender. Cô trải phẳng những bộ váy nhỏ xíu lên tấm phủ trên mặt đất để hong khô, vết sẹo mờ mờ cộm lên trên mu bàn tay. Helen lướt ngón tay lên vết sẹo mỏng mảnh và ngưa ngứa. Trong cơn hoảng loạn trước sự xuất hiện của nhóm hướng đạo sinh, cô hoàn toàn quên mất trận chiến nơi vách đá. Giờ thì cô tự hỏi tại sao Hải Thấu lại tấn công cuộc thi Hải Ca Cầu Bão, tại sao nó lại đợi đến khi Roxburgh hát thì mới tấn công? Lòng tràn ngập băn khoăn, Helen rút đàn ra. Lều của cô không đủ rộng để chơi đàn, vậy nên cô chuyển sang chiếc lều cao kều dành cho Yann và chơi những giai điệu kì thú nhất mà các selkie đã hát buổi chiều hôm đó. Bên ngoài, trời dần tắt nắng, cô khắc những giai điệu mới mẻ vào trí nhớ trước khi quay về lều để dọn dẹp tủ quần áo của Lavender. Tiếng cào lạo xạo vang lên khi cô mải xếp những chiếc giày thành đôi. Helen kéo cửa lều, Catesby lao vào như vũ bão và liên tục thông báo các thông tin quan trọng. Nhưng vấn đề là cô chẳng hiểu gì cả. Helen chưa bao giờ hiểu những điều Catesby nói. Cô đã quen biết phượng hoàng nhiều tháng: Ấn tượng đầu tiên là bộ lông ánh kim dày dặn và duyên dáng; sau đó nó tự bốc cháy, rồi nở lại, rồi lớn thành đám lông vũ non nớt bông xù này. Thật ra không phải cái giọng kêu quang quác non choẹt là lí do khiến cô không hiểu nó. Cô không tài nào hiểu nổi ngôn ngữ của phượng hoàng. Tất cả các bạn linh thú đều hiểu được phượng hoàng dù họ đáp lời bằng ngôn ngữ của mình. “Những gì cậu cần chỉ là lắng nghe!” Lavender cáu tiết giải thích. Helen nỗ lực, nhưng cô không thể nghe hiểu bất cứ từ nào trong tiếng quàng quạc của Catesby. Helen rên rỉ: “Mình biết cậu đang rất bực vì mình không hiểu cậu! Mình ngờ ngợ rồi đấy. Nhưng mình vẫn chưa luận ra câu trước. Xin lỗi. Làm ơn vỗ cánh hay làm cái gì đó đại loại thế đi.” Catesby dùng cánh trái chỉ về phía cửa rồi trỏ sang cái lều bên cạnh. “Cậu muốn mình sang lều cậu?” Nó gật đầu. “Những người còn lại cũng ở đó?” Nó gật đầu. “Rõ khỉ! Sao cậu không nói luôn từ đầu?” Phượng hoàng bực mình kêu the thé. Cô cười toe toét, xốc nhẹ đám lông vũ bông xù rồi cùng phượng hoàng sang cái lều lớn hơn. “Hiển nhiên là mình phải thay quần áo đã.” Lavender ngồi trên vai Yann, mắc chiếc lược nhỏ xíu lên mớ tóc đỏ thẫm của cậu. “Khi nào nhìn ổn ổn một chút thì chúng ta có thể khởi hành.” Helen nhìn xuống áo thun và quần bò: “Mình sẽ mặc thế này. Chúng mình sẽ chèo thuyền vào hang. Ăn mặc sặc sỡ chẳng phải hơi phô trương sao?” “Làm ơn đi.” Lavender nói. “Đây là buổi tiệc của Rona đấy.” “Mình sẽ chải đầu, có lẽ là đeo thêm chút phụ kiện. Nhưng mình không biết nên làm gì với mấy cái sẹo trên tay đây.” Lavender nhảy qua, soi kĩ đám sẹo mờ: “Trông vẫn khiếp thế. Sinh vật đó muốn gì cơ chứ? Liệu nó có định phá hoại các cuộc thi khác không?” Helen nhún vai: “Nếu đó là kẻ thù của Sinclair và có mục đích duy nhất là ngăn chặn Roxburgh chiến thắng thì chắc hắn không mấy quan tâm đến cuộc thi Sứ Giả Đại Dương đâu.” Ngoài lều vang lên tiếng gõ nhẹ cùng giọng thì thầm của dì Sheila: “Thuyền sẵn sàng trong khoảng mười phút nữa, xong chưa các cháu?” “Mười phút!” Lavender rít lên. “Nhưng mình còn chưa thay quần áo!” Trong khi mọi người sửa soạn, Helen chải đầu và đeo chiếc vòng san hô cũ cô tìm mua ở một cửa hàng từ thiện. Sau đó, người vỗ cánh, người nhảy, người leo, qua tường, rời khu cắm trại, đến chỗ dì Sheila đang đứng ở cầu tàu nhập nhòe ánh đèn lồng. Helen nhìn mấy chiếc thuyền rồi liếc sang nhân mã đang đứng cạnh: “Anh có chắc không, Yann?” “Tôi đã bay trên lưng rồng. Tôi có thể đứng trên thuyền.” “Nhưng liệu cái thuyền có tải được sức nặng của anh không?” Sheila bật cười: “Dì chắc chắn mà. Nó từng chở những ngư dân béo ục ịch cùng bộ đồ nghề của họ, vậy nên vài đứa trẻ sẽ không thành vấn đề.” “Vài đứa trẻ và đám vó?” Helen lẩm bẩm. Dì Sheila ngồi xổm, nhặt đầu dây buộc thuyền lên: “Nếu con ngồi ở mũi thuyền, Helen, còn Yann thận trọng đứng yên giữa thân thuyền thì dù thuyền có chìm hơi sâu, nó vẫn sẽ thăng bằng. Đây là cái thuyền mới cứng, nhẹ, nhanh và dễ chèo, vậy nên dì nghĩ con sẽ xử lí được. Dì sẽ không đi cùng đâu, đỡ chiếm một suất trên thuyền.” “Sao dì không đi ạ?” Lavender hỏi. “Dì không muốn chung vui với Rona ạ? Hay dì không có quần áo đẹp?” Nàng liếc xuống cái quần bò của dì Sheila. “Dì sẽ chung vui từ đây. Dì đã không còn vượt biển nữa rồi.” “Sao không ạ?” Helen hỏi. “Phần lớn selkie không thỏa mãn với bản thân cũng như nơi mình ở,” dì Sheila nhẹ nhàng nói, “chúng ta khao khát biển cả khi đứng trên đất liền, và nhớ nhung đất liền khi chúng ta bên biển cả. Vậy nên dì đã lựa chọn. Dì lựa chọn ở lại đất liền. Và dì cảm thấy hạnh phúc vì điều đó.” Yann hít sâu, bước xuống sàn thuyền tròng trành. Cậu vội nhảy ngược lại cầu tàu. Catesby quác lớn. Yann liếc sang: “Con người làm được. Mình cũng làm được.” Cậu quan sát con thuyền, đánh giá từng chuyển động nhịp nhàng theo nhịp sóng và cẩn thận tính toán bước nhảy. Lần này cậu đặt được cả hai móng lên trên thuyền trước khi nó chao đảo dữ dội khiến cậu lại vội vàng rút lui. Helen nói, cố làm ra vẻ nghiêm túc: “Thời xưa, ngựa và gia súc được buộc sau thuyền để chúng bơi theo. Chúng ta có thể thử.” “Tôi không phải là gia súc!” Yann cáu tiết rồi lồng lên thử lại. Lavender và Catesby khúc khích cười khi nhìn nhân mã ba lần nỗ lực không thành trước khi lúng túng đứng được trên con thuyền chao đảo. Helen nhẹ nhàng bước lên mũi thuyền và vươn người với mái chèo, kiểm tra xem nó có được buộc cẩn thận vào cọc chèo không, rồi bắt đầu quạt nước khi dì Sheila tháo dây. Cô hít sâu mỗi lần thu mái chèo. Mùa hè năm ngoái cô từng chèo thuyền đưa mẹ và em gái dạo quanh hồ St. Mary, nhưng chèo thuyền chở nhân mã thật sự là công việc khó nhằn. Tiếng dì Sheila vọng từ cầu tàu, đuổi theo từng nhịp chèo dần ổn định của Helen: “Con ổn chứ, Helen?” “Con ổn. Nhưng sẽ không có chuyện con chở Yann lúc về đâu!” Vị trí chèo thuyền của Helen khiến cô phải ngồi đối diện với đuôi thuyền, vậy nên cô không nhìn được hướng mình sẽ phải tới, thêm nữa, ánh đèn từ khu cắm trại cũng bị thân người đồ sộ của Yann che lấp. “Anh nặng quá đấy!” “Còn lâu. Nước đã đỡ phần lớn sức nặng của tôi, tất cả những gì em phải làm chỉ là đẩy chúng ta tiến về phía trước. Nếu em có thể kéo được tôi từ vách đá thì em cũng có thể chèo thuyền đưa tôi đi ngang mặt hồ, cô bé loài người.” Sau mỗi nhịp thở, cô ngoái đầu quan sát hòn đảo tối thẫm in bóng trên đường chân trời đen kịt. Eilan nan MacCodrum trông như chóp miếng bánh ngọt nổi lềnh phềnh trên mặt nước, vách đá dựng đứng một đầu rồi xuôi dần về phía bãi biển ở đầu kia. Helen đẩy mái chèo, lòng thầm ước giá Sapphire ở đây để đưa họ một mạch vào đất liền. Nhưng cô rồng không thể rời Vùng Biên Giới cho tới khi lột hết da, vậy nên Helen xác định cả tuần này cô sẽ cáng hết nhiệm vụ lái taxi cho cả nhóm. “Đừng vẩy nước vào mình nữa, Helen!” Lavender nói, đậu lên thành thuyền. “Cậu làm ướt sạch váy mình rồi!” “Mình đã cố chèo êm hết sức rồi.” “Dừng lại đi!” Lavender kêu ré lên. “Ai làm vậy?” Một giọng nói rầm rì vang lên: “Ngươi gieo vần thật hay, Ta sẽ không vẩy nước.” Helen ngưng chèo. Tất cả linh thú hoảng hốt nhìn quanh, cử động của Yann khiến con thuyền rung lắc dữ dội. Giọng nói đó đến từ biển cả. Chương 8 Lavender dùng đũa phép thắp sáng không gian quanh thuyền bằng những quả cầu sáng run rẩy. Con thuyền nằm giữa một vòng người nổi lên từ lòng biển. Những mái đầu ướt đẫm, thân trên tối đen và bóng loáng dưới ánh sáng ma thuật. “Hoàn thành câu thơ, hoặc ta tạt nước ướt hết!” Cậu nhóc ở gần nhất hào hứng reo. Họ bơi tới, một phía đầu, một phía đuôi, bốn người ở hai bên vươn tay nắm thành thuyền và bắt đầu nhẹ nhàng rung lắc. Họ cất giọng ngân nga: “Ngựa, người, chim lửa, hoa tiên, Chuẩn bị vượt biển cắt xiên mây trời.” Tiếp đến là một khoảng lặng. “Đối thơ, hoặc ta sẽ tạt nước!” Cậu nhóc nhăn nhở nhắc lại, vắt vẻo bên cọc chèo cạnh Helen. “Hoàn thành câu thơ, hoặc ta sẽ dìm ngươi!” Cậu nhóc ở đuôi thuyền nói vọng lên. Rồi họ lại tiếp tục ngân nga: “Ngựa, người, chim lửa, hoa tiên, Chuẩn bị vượt biển cắt xiên mây trời.” Giọng Yann trầm thấp tiếp nối: “Có lẽ thấy hơi rối bời, Thuyền chở ma thuật lại bơi giữa dòng. Nếu là bạn, xin rủ lòng.” “Tuyệt hảo!” Cậu nhóc bên phải Helen kêu lên. “Thêm ba lần nữa, lượt của ba người còn lại trên thuyền.” Helen thì thầm với Yann: “Ai vậy? Chúng ta nên làm gì?” Yann trả lời, rõ ràng và rành mạch: “Helen, xin giới thiệu các lục giả, con trai của các lục nhân ở Minch. Cái tộc xấu tính thích dìm người khác, những kẻ không có khả năng xuất khẩu thành thơ dù dở tệ. Nhưng đừng lo, vần nào tôi cũng đối được, trừ vần am và ạc.” “Một con ngựa non vẫn là chưa đủ.” Cậu nhỏ gần đuôi thuyền nói. “Tất cả các người đều phải đối đáp, hoặc chúng ta sẽ không cho các người qua. Bông hoa tử đinh hương kia có làm thơ được không? Biển xanh đâu cần gì hoa nhỏ, Dù là hoa hồng, tím hay đỏ.” Lavender đáp bằng chất giọng the thé của nàng: “Chỉ vài giờ nữa ta biến mất, Khô ráo trên giường hoa, yên giấc.” Cậu nhóc mỉm cười: “Có vần điệu và biết chơi chữ! Tuyệt hảo!” Nói vậy nhưng bọn chúng không hề ngơi tay rung lắc mạn thuyền. “Đến lượt ngươi đó, vịt con xấu xí.” Một lục giả bám bên cạnh thuyền lên tiếng. Helen thở hổn hển. Làm sao Catesby có thể hoàn thành một đoạn thơ trong khi không biết nói tiếng người cơ chứ? “Sẽ không dễ dàng, nhưng để cứu bạn, Không biết nói cũng phải vượt hoạn nạn.” Sau vài phút căng như dây đàn, Catesby phành phạch vỗ cánh và rít thành tràng theo giai điệu hai câu thơ của lục giả, kết thúc bằng tiếng quác to tướng. Lục giả cười lớn. Dù cho Helen không hiểu hai câu thơ của Catesby, cô khá chắc chắn rằng tiếng quác cuối cùng gieo vần ạn. Dù vậy, Helen vẫn chưa thể thở phào nhẹ nhõm, bởi thành công của Catesby đồng nghĩa với việc cô sẽ là người tiếp theo. Cậu nhóc bên cạnh cô gọi lớn: “Đứa bé loài người không thể qua, Trừ phi đối được thơ của ta.” Helen ngẩng đầu nhìn Yann. Cậu nhún vai. Giờ đây cậu hoàn toàn bất lực khi bị tách khỏi đất liền - nơi mà cậu nhanh và mạnh nhất. Lục giả lặp lại câu thơ: “Đứa bé loài người không thể qua, Trừ phi đối được thơ của ta.” Helen không có tí ý tưởng gì. Câu thơ nghe qua khá đơn giản, nhưng cô chưa bao giờ thích phần soạn lời cho giai điệu cả. Những người chơi vĩ cầm chẳng bao giờ bị kì vọng phải hát hay. Giọng nói tức giận vang lên sau lưng Helen: “Đối ngay, đứa trẻ loài người, hoặc ta sẽ dìm cả con thuyền. Và khi ngươi đã ở trong nước, ta sẽ dìm cả ngươi nữa, trừ khi ngươi đối được thơ.” “Tôi không có vần vè gì trong đầu cả.” Cô bình tĩnh nói. Thế là đám lục giả lao vào tấn công con thuyền. Lục giả nơi đầu thuyền giật mạnh đột ngột rồi nhấn sâu mũi thuyền xuống, những lục giả bên mạn thuyền thì đẩy ngược lên. Con thuyền dần nghiêng về một bên. Helen hét toáng khi cô trượt dần xuống nước. Cô quăng mai chèo và tóm chặt lấy mạn thuyền. Cô móc chân vào hàng ghế phía trước. Cô lăn sang bên còn lại, mong sức nặng của mình có thể cân bằng với lực kéo của mười thanh niên đang quyết tâm hừng hực dìm cô. Yann rống lớn, con thuyền lắc mạnh khi nhân mã nhảy lên không rồi đáp đánh “ầm” xuống sàn để không bị hất khỏi thuyền. Con thuyền bật trở lại và dần ổn định. Có vẻ đây mới là đòn cảnh cáo. Là lời đe dọa viễn cảnh xảy ra nếu cô không đối được. Yann di chuyển chân liên tục để giữ thăng bằng, Catesby vỗ cánh phành phạch, Helen mò mẫm tìm đôi mái chèo, mơ hồ cảm thấy mình đã đánh mất thứ gì vô cùng quan trọng. “LAVENDER! Lavender đâu rồi?” Một tiếng ho bé xíu vang lên cạnh cô. Lavender vắt vẻo bên thành thuyền. Nàng ướt sũng từ đầu tới chân. “Tôi chuẩn bị đi dự tiệc đấy!” Nàng điên tiết. “Giờ nhìn đi, trông tôi đủ kì quái chưa!” “Ngươi sẽ không đi đâu cả trừ khi con bé loài người này đối được thơ.” Một lục giả nói. “Chúng ta sẽ không đến bữa tiệc cho tới khi mình tìm được cả hai mái chèo.” Helen lẩm bẩm. Mái chèo bên trái vẫn buộc ở cọc, nhưng cái bên phải đã tuột dây trôi tuốt đâu rồi. Cô liếc đám lục giả lềnh bềnh trên mặt nước. Có lẽ mái chèo sẽ nổi, nhưng nó trôi quá xa tầm với rồi. “Thêm ánh sáng đi, Lavender,” cô thì thầm, “mình đánh mất mái chèo rồi.” Trước khi Lavender kịp hất gậy phép, Helen tìm ra mái chèo. Lục giả gần cô nhất cười toe toét, đẩy mái chèo vào cọc cho cô. Khi cô cúi thấp người để tóm lấy mái chèo, cậu thì thầm: “Đừng nghĩ cao xa, chỉ cần lắng nghe và trả lời thôi. Rất dễ dàng, cô đã có câu chữ trong đầu rồi.” Sau đó cậu gọi lớn: “Cơ hội cuối cùng, đứa trẻ loài người, nắm bắt cơ hội thứ ba, hoặc chúng ta sẽ lật thuyền. Đứa bé loài người không thể qua, Trừ phi đối được thơ của ta.” Helen nhắm mắt, lầm rầm đọc câu thơ với cậu nhóc. Thay vì cố nghĩ lời đối, cô gõ ngón tay lên mái chèo, miệng không ngừng lẩm bẩm… “Cảm ơn đã xếp tôi lượt cuối, Khả năng gieo vần quá là đuối.” “Không,” cậu nhóc ở mũi thuyền nói, “đâu phải đâu. Nghe không đuối hơn bất kì vần thơ nào từ biển cả, lời khẩn cầu, chơi chữ hay kêu quang quác. Vậy nên thơ của ngươi hoàn toàn là nói dối, và ngươi buộc phải thử lại.” “Ngươi thách bọn ta đối thơ chứ không giao kèo phải nói sự thật,” Yann phản đối, “bọn ta đến dự tiệc, để bọn ta qua.” “Con người là giống loài nắm được câu trả lời chúng ta mong muốn,” một giọng nói cao vút vang lên, “vậy nên cô ta phải làm lại.” “Chúng ta không đòi hỏi phi lí vậy đâu,” lục giả ngồi phía mái chèo bên phải Helen nói, “thơ là thơ, họ được tự do.” “Ngươi thu thập được một đoạn thơ một ngày không có nghĩa là ngươi có quyền gạt cơ hội của bọn ta, Tangaroa,” cậu nhóc ở mũi thuyền lẩm bẩm, “biết đâu cô gái này có thể cho ta đường về nhà.” “Nếu chúng ta liên tục thay đổi luật lệ thì còn khuya. Họ đã đối thơ. Họ có quyền đi qua.” Cậu dõng dạc. Tất cả lục giả phải thả tay. Cậu gật đầu với Helen: “Đi tiếp đi, đứa trẻ loài người. Chúng ta sẽ gặp lại ở bữa tiệc.” Đám lục giả rẽ màn nước đen kịt bơi đi mất, bóng chúng xuôi về phía hòn đảo thẫm đen như mực. Chương 9 “Như thế nghĩa là sao?” Tay Helen run lẩy bẩy tới mức cô gần như không thể nắm chắc mái chèo. “Lục giả thu thập những đoạn thơ quý giá. Xin lỗi vì mình đã không thể bảo vệ mọi người.” Giọng Yann ủ ê. “Mình không thể di chuyển nổi trên cái thuyền chết tiệt ấy! Mình mà tìm được chúng trên đất liền…” “Làm sao anh gặp họ trên đất liền được?” Helen hạ dần tốc độ chèo. “Họ là cư dân biển mà? Có vảy cá vân vân và mây mây?” “Không,” Yann nói, “họ có chân, giống tôi và em. Giống em hơn ấy. Vậy nên một khi tôi tìm được họ ở nơi tôi có ưu thế, họ nên chuẩn bị bài thơ ngũ tuyệt về chân gãy và máu mũi đi là vừa.” “Bình tĩnh nào, Yann,” Lavender nói, “lúc nãy thật đáng sợ, váy của mình đi đời nhà ma rồi, với cả nếu cậu tấn công họ trên đất liền thì lát làm sao chúng ta an toàn chèo thuyền về được?” Catesby rít lên. “Chưa gây thương tích gì ấy hả!” Yann cãi. “Mình bị làm nhục, Helen bị bắt nạt, Lavender gần như bị nhấn chìm và họ còn gọi cậu là vịt con xấu xí nữa. Mình không thể bỏ qua. Mình cần phải bảo vệ danh dự của mình!” Helen cố đánh lạc hướng Yann khỏi kế hoạch trả thù mà cậu đang nung nấu: “Sao họ lại ép chúng ta làm thơ vậy?” “Quá đần để tự làm chứ sao.” Yann lẩm bẩm. “Chúng ta có thể hỏi họ tại bữa tiệc. Một cách lịch sự.” Lavender nói. “Mình sẽ không hỏi gì hỏi xem họ có chịu xin lỗi không.” “Khôn ngoan tí đi, Yann. Nếu cậu gây chiến thì họ sẽ gây nguy hiểm khi chúng ta di chuyển dọc bãi biển để hỗ trợ Rona. Cậu cứ coi đó chỉ là trò đùa, như đấy là mấy thằng nhỏ nghịch ngợm ấy, thì Catesby nói đúng rồi, họ chưa gây thương tích gì mà.” Helen nhớ lại những lời đe dọa. Cô không nghĩ đây đơn thuần chỉ là một trò đùa. Cô theo Yann cáu kỉnh vòng qua vách đá tới một phần cách biệt hoàn toàn với đảo chính. “Chúng ta sẽ buộc thuyền ở đâu?” Cô thở dốc, lưng và hai cánh tay mỏi nhừ. “Không cần.” Yann gằn giọng. “Cứ chèo vào.” “Chèo? Vào trong hang luôn hả?” “Đúng vậy, và nếu thủy triều đã lên quá cao nhờ ơn giữ chân của mấy tên hề xanh lè ấy thì tôi sẽ phải cúi người né khi em chèo vào trong.” “Tại sao lại phải chèo thuyền vào? Bên trong không khô ráo sao? Không phải hải cẩu vào đất liền để sinh nở à…?” Yann cắt lời: “Dì Sheila nói chỉ cần rẽ phải ở tảng đá này là thấy được hang động.” Helen vung mái chèo, cố quay thuyền qua góc hẹp, sau mỗi lần đụng thuyền cô đều phải ngoái lại. Trước đây cô mới chỉ chèo thuyền ở những không gian lớn nên cô không chắc mình có thể định hướng tốt trong không gian nhỏ hẹp như vậy không. Lavender rít lên: “Cậu lại tạt nước vào mình rồi! Cậu cũng vụng về không thua gì đám trẻ ranh kia!” Helen không mấy để ý đến lời phàn nàn của Lavender, bởi cô đã thấy vòm cửa sáng ấm áp trên vách đá, gợi cô nghĩ tới những món ăn nóng hổi và nơi chốn cho đôi tay rã rời này ngơi nghỉ. Cô hào hứng kéo mạnh mái chèo. “Chậm lại nào!” Yann gọi. “Chúng ta phải cẩn thận khi vào trong. Dì Sheila nói khi mực nước dâng cao sẽ không mấy dễ dàng, nhưng trước đây đã từng có con người đưa được thuyền vào trong. Đây là đại sảnh, cũng là trường học của hải cẩu suốt hàng thế kỉ, cho đến vài trăm năm trước, khi bọn trộm quyết định chọn hang động để giấu hàng hóa.” Helen thận trọng chèo theo Yann hướng dẫn: “Trái, trái tiếp, giờ rẽ phải.” Đột nhiên họ đâm phải vòm động thấp. Yann ngồi thụp xuống khiến thuyền rung lắc dữ dội. Helen quay người, ước lượng độ rộng của cánh cung và nhận ra con thuyền có khả năng lọt qua chỉ khi bỏ bớt hai mái chèo cồng kềnh. Cô dồn sức đẩy mạnh cho thuyền có đà trôi càng xa càng tốt rồi kéo mái chèo lên. Con thuyền chậm rãi trôi rồi chững lại khi vào trong lòng một hang động lớn, lối vào ngập nước xuôi dần về phía đất liền khô ráo, nâng lên thành sàn đá bằng phẳng đang xếp hàng dãy bàn ăn. Khoảng nửa tá selkie lao xuống nước, cùng đẩy con thuyền tới sát cọc neo gỉ sét và giúp đám bạn lên bờ. Helen đặt Lavender với đôi cánh trĩu nước lên vai, trước mặt cô là ba cổng vòm khác, một lò sưởi lớn sau lưng. Cô thấy Rona mặc váy bạc, đang ngồi ở vị trí danh dự, xung quanh là các trưởng lão selkie, nhân ngư và lục nhân. Strathi đứng dậy: “Chào mừng tới bữa tiệc, những vị khách danh dự. Thật không may, chúng ta đang xử lí vài vấn đề phát sinh, vậy nên xin các vị chờ đợi cùng các đối thủ và người hỗ trợ khác bên hang động kế cận. Roxburgh, con dẫn đường cho khách đi.” Roxburgh dẫn đám bạn đi qua cổng vòm bên phải sảnh tiệc. Cậu chàng dừng lại, nhìn theo bóng Yann, Helen, Lavender và Catesby vượt xuống một đường hầm dài ẩm ướt dẫn tới hang động nhỏ hơn có bể nước sâu và sàn nhà lép nhép. Những vị khách khác gần như đã tụ tập đông đủ, ngồi chật kín những chiếc ghế đẩu và băng ghế bằng đá. Helen thở dốc, ngắm nhìn mấy vị khách gần cô nhất, mê mệt những thước vải rực rỡ. Các selkie này thon thả và cao ráo hơn các selkie mập mạp tròn lẳn vùng nước lạnh. Họ chải chuốt hoàn hảo, những khuôn mặt tuyệt mĩ, bộ tóc xoăn dài đỏ rực hay vàng óng như mặt trời. Và đuôi cá. Thật không ngạc nhiên khi tiên cá hiện diện ở đây. Khi còn bé, Helen sưu tầm rất nhiều sách truyện về mĩ nhân ngư. Thậm chí cô còn có một bộ đồ hóa trang thành mĩ nhân ngư, phần đuôi cá bó chặt lấp lánh khiến cô chẳng thể đi lại bình thường. Đương nhiên các nàng tiên cá chẳng đi lại. Họ xinh đẹp rực rỡ ngồi bên thành bể nước, cười đùa và nhấm nháp điểm tâm. Rồi Helen bắt gặp thứ đáng ngạc nhiên hơn cả những chiếc đuôi cá. Gần một phần ba số người đẹp đang tạo dáng bên hồ có mái tóc ngang vai, những chiếc vảy trên đuôi của họ cũng kém phần tinh xảo. Họ là đàn ông, khuôn mặt thon gọn và cánh tay lực lưỡng. Nam nhân ngư, cùng mĩ nhân ngư. Helen đã quá quen mắt chữ O mồm chữ A khi làm quen với thế giới mới lạ của bạn bè mình. Thế nhưng lần này cả Yann đang đứng cạnh cô cũng nhìn chằm chằm vào các nhân ngư và lắp bắp: “Tôi không… Tôi chưa bao giờ…” Nhân ngư mảnh mai nhất có mái tóc đỏ rực, cất giọng lảnh lót như nắng sớm, trong trẻo như sương mai: “Ô NHÌN KÌA! Những vị cứu tinh tới từ đất liền. Chúng tôi VÔ CÙNG cảm kích trước hành động DŨNG CẢM ban chiều của các vị. Nào xin hãy DỰ TIỆC cùng chúng tôi. Chúng tôi YÊU THÍCH nghe TẤT CẢ những cuộc phiêu lưu của các vị.” Catesby khịt mũi. Helen gật đầu: “Chắc chắn rồi. Mình tán thành.” Yann bừng tỉnh: “Em hiểu Catesby nói gì à?” “Không,” Helen nói, “em đoán thôi, bởi chúng ta là những người duy nhất nhìn họ chằm chằm như kiểu họ làm từ sô cô la vậy.” Lavender quả cũng đang nhìn chằm chằm: “Đường cắt trên những bộ váy kia. Tài tình làm sao…” Helen thở dài, quay người, đặt cặp lên ghế đá. Bên những vị trưởng lão bận rộn bàn luận cãi vã là những vị khách trẻ tuổi đang cùng chờ đợi - các lục giả ngồi quây kín quanh bàn tròn. Sau khi được thấy các nam nhân ngư. Helen không còn ngạc nhiên khi quá nửa số lục giả là nữ. Nữ lục giả sở hữu làn da xanh ngọc, quần bò xanh, áo khoác xám, mái tóc bóng mượt chải gọn. Yann thấy thế bèn hằm hằm phi tới. Helen khẽ khàng theo sau. Tất cả lục giả lục tục đứng dậy thành một hàng dài thẫm màu, đối mặt với nhân mã đương cơn thịnh nộ. “Các ngươi dám tấn công khách của selkie sao? Yann cao giọng. Trước khi các lục giả kịp trả lời, Helen nghe thấy tràng “ú ù” đầy phấn khích vang lên từ phía đám nhân ngư. Rồi cậu chàng từng giúp Helen tìm lại mái chèo bước ra, vươn tay tới trước mặt Yann: “Tôi là Tangaroa. Tôi đại diện cho các lục nhân tham gia thi đấu vào ngày mai. Vô cùng hân hạnh được gặp các bạn, những chiến binh của đất mẹ, và xin thứ lỗi cho cuộc đụng độ không mấy vui vẻ vừa rồi. Đó là phong tục của chúng tôi. Tôi cá rằng bộ tộc của mấy người cũng có các phong tục khiến những vị khách mới đến cảm thấy bất ngờ.” “Hở?” Yann ngạc nghiên trước những gì mới nghe. Thấy cậu ngạc nhiên đến sững sờ, Helen đâm ngờ rằng hẳn cậu đã hình dung một lí do gì khác lắm. “Là vậy đấy. Tôi cảm thấy có lỗi nếu đã trót đe dọa anh, nhân mã ạ.” Helen gần như phì cười khi nghe Yann lắp bắp gằn từng tiếng: “Ngươi làm sao đe dọa nổi ta!” Chàng trai nhún đôi vai rộng: “Đúng là chúng tôi có gây chút bất lợi cho anh. Nhưng các anh đã đối đáp rất tuyệt.” Helen nhẹ nhàng đặt tay lên thân ngựa của Yann, trong khi Catesby thì thầm bên tai cậu: Bình tĩnh nào, bắt tay cậu ta đi, giảng hòa nhé. Nhưng Yann hung hăng sải thêm một bước dài về phía trước. Tangaroa không tỏ ý thối lui, vẫn kiên định giơ tay ra. Thế là Helen bước trước Yann, bắt tay lục giả. Bàn tay cậu trơn nhẫy như mỡ nhưng cô vẫn giữ thật chặt: “Chúng tôi chấp nhận lời xin lỗi, dù có vẻ câu xin lỗi của mấy anh nghe không được có vần có điệu lắm.” Tangaroa cười toe toét: “Ngồi cùng chúng tôi nhá.” Cậu chỉ về cái bàn đá tròn cùng hàng ghế đẩu. Yann bướng bỉnh: “Ta sẽ không tham gia cho tới khi mối thù của ta được gột sạch, vinh dự của ta được khôi phục.” “Nếu anh phẫn uất vì chúng tôi thách đố anh ngâm thơ dưới sự bảo hộ của nước,” Tangaroa nói, “sao không thử thách chúng tôi bằng các môn thi đấu trên đất liền?” Yann lùi lại, nhìn chằm chằm lục giả. Vẻ như cậu đang thử đong đếm xem cú đá của mình có thể vươn bao xa, Helen nghĩ. Yann nói: “Chúng ta không thể chạy đua, bởi khoảnh đất duy nhất đủ rộng để duỗi được các bắp chân, lại nằm bên triền dốc có thể bị nhìn thấy từ đất liền. Vả lại ta cũng không mang cung tiễn để thi bắn cung.” Cậu liếc chồng dây buộc và xích sắt nằm trong góc hang. “Kéo co bên bờ biển phía đông thì sao?” Tangaroa cứng người: “Mười người chúng tôi, anh thách đấu từng người một sao? Sẽ trễ giờ khai tiệc đấy nhá.” “Không,” Yann nói, “một lần thôi. Ta, đọ với tất cả các ngươi.” Các lục giả cười lớn. Một buổi luận đàm kĩ thuật sôi nổi nổ ra, bàn về độ dài dây, bàn chuyện chọn ai làm giám khảo (Catesby xung phong), và bàn cách đưa Yann đến bãi biển (Tangaroa ngỏ ý chèo thuyền đưa cậu đi), sau đó tất cả rút khỏi hang động, để lại Helen ngồi trơ trọi bên bàn đá. Cũng không hẳn là trơ trọi, Lavender vẫn ngồi trên vai Helen, lẩm bẩm: “Lũ con trai thật là… Lại còn thế nữa.” “Thi thố vẫn hơn là đánh nhau sứt đầu mẻ trán,” Helen nói, duỗi cánh tay cứng ngắc, “và họ cũng đâu phải toàn con trai hết.” “Chúng ta có nên ra chỗ mấy nhân ngư ngồi không?” Lavender thì thầm. “Nếu cậu muốn,” Helen trả lời, “mình thì cần ngồi, mình hơi mệt.” “Mình cũng mền mệt. Với cả mình chưa từng được gặp nhân ngư.” Helen bước về phía dàn nhân ngư đang vô cùng nhiệt tình vẫy gọi, trưng những nụ cười choáng ngợp như khi rủ rỉ dụ khị con người. Helen đã từng đối mặt với sức hút mê đắm từ tộc yêu tiên, vậy nên vẻ đẹp hoàn hảo của nhân ngư chẳng thể hoàn toàn thuyết phục cô. Họ trang điểm quá đậm, đeo nhiều trang sức đến nỗi khó có thể tập trung vào khuôn mặt họ. Khi nhìn kĩ đến độ gần như thô lỗ, khuôn mặt nhân ngư dường như hơi dài, sống mũi hẹp, chóp mũi nhọn hoắt, đôi gò má xương xẩu. Họ liên tục mỉm cười và ngân nga: “HÃY tới đây. HÃY để chúng tôi tiếp đón các vị trong lúc chờ tộc selkie học cách tử tế nói lời cảm ơn.” Chợt Helen thấy mình đang ngồi trên băng ghế dài bằng đá, một nhân ngư xoa bóp đôi vai ê ẩm của cô, ấn vào tay cô cốc nước ấm, mang đến cho cô khay nhỏ đầy món điểm tâm màu hồng đáng yêu. Nhân ngư với mái tóc đỏ rực ngồi trước mặt Helen, đuôi cá ánh bạc óng ánh quấn quanh chân ghế đẩu. “HÃY kể cho chúng tôi nghe về cái loại Hải Thấu kinh tởm kia đi. Lúc đó mọi chuyện THẬT kịch tính, đúng chứ? Em đã sợ hãi, hoang mang, hay TRỐNG RỖNG? HÃY nói…” Helen thuật lại ngắn gọn câu chuyện cô đã kể cho các trưởng lão selkie, kết thúc bằng câu hỏi: “Các anh chị nghĩ tại sao hắn lại tấn công Roxburgh mà không chọn ai khác?” “Ôiii,” nhân ngư có mái tóc đỏ cháy lên tiếng, “hắn có thể tấn công BẤT CỨ AI trong chúng tôi. Em đã cứu tất cả chúng tôi. Chúng tôi CẢM KÍCH làm sao…” Đó không hẳn là một câu trả lời hữu ích, nhưng Helen có thể bàn luận kĩ hơn với Rona về Hải Thấu sau. Tuy nhiên, biết đâu đám nhân ngư có thể nói cho cô những điều mà Rona không muốn tiết lộ. “Anh chị nào sẽ tham dự cuộc thi ngày mai ạ?” Cô hỏi. “Và ba nhiệm vụ là gì?” Nhân ngư ngồi trước mặt cô tự hào lên tiếng: “Tôi là Serena, và tôi có VINH DỰ là người đại diện cho tộc nhân ngư, tôi sẽ đua, sẽ tìm kiếm, sẽ tham gia vào mọi thử thách… đầy chướng ngại… Nhưng trước hết, hãy nói về EM nào! Mái tóc ĐEN BÓNG đáng yêu làm sao…” Helen nhìn quanh. Lavender đâu rồi? Có vẻ đôi cánh của hoa tiên đã khô, bởi nàng đang lượn lờ quanh nhân ngư tóc vàng và không tiếc lời ca ngợi chuỗi vòng ngọc trai đen trên cổ cô nàng. Helen ngáp dài. Cô chẳng thể nhịn được. Cô đã leo lên cái vách đá đó hai lần trong một ngày, chiến đấu với một con Hải Thấu, và chèo thuyền đưa nhân mã vượt biển. “Ơ…” Cô quay qua Serena. “Xin lỗi chị, chị mới nói gì ấy nhỉ?” “Mái tóc của em. Chúng tôi biết nỗi NHỌC NHẰN khi phải giữ cho tóc luôn CHỈNH TỀ, với tất cả gió biển và nước muối, vậy nên hãy để CHÚNG TÔI chải tóc cho em nhé?” “Vâng, nhưng tóc em không cần chăm dưỡng cầu kì như mọi người đâu.” “Đây đâu phải là CẦU KÌ,” Serena nói, tay rút một cái lược từ túi con bên hông, “em phải chứng kiến lúc chúng tôi CHƯNG DIỆN cơ!” Thế là Helen ngồi lên ghế, xung quanh là hàng tá nhân ngư mân mê chải tóc và ngân nga với cô. Dưới hơi ấm ẩm ướt, cảm giác nhồn nhột mỗi khi có ai đó chạm lên gáy để chải tóc, bài ca ngọt ngào ve vuốt bên tai, và đôi tay mỏi mệt cuối cùng cũng được nghỉ ngơi, Helen dần hạ mí mắt. °°° Cô không hề mở mắt cho tới khi cảm nhận được cái lạnh cắt da cắt thịt của nước. Cô đang nằm nghiêng trên băng ghế. Nước dâng lên chạm má, hông và mắt cá bên trái. Nước biển đang tràn vào trong hang. Helen cố ngồi dậy, nhưng bị giật mạnh lại, đầu đau nhói. Cô thử ngồi thẳng lần nữa để rồi lại ngã ngửa xuống băng ghế. Cô vẫn chưa tỉnh hẳn, nhưng làn nước lạnh giá giúp cô tỉnh táo đủ nhanh để nhận ra vài điểm quan trọng: Cô bị trói. Bởi tóc. Vào băng ghế. Nước biển đang dâng lên rất nhanh. Và cô chỉ có một mình trong hang. Chương 10 Helen hoảng hốt thở dốc rồi ho dữ dội khi nước biển mặn chát ào vào miệng. Cô cố ngồi dậy chậm hơn nhưng không thể. Đầu cô bị buộc chặt vào thành ghế. Cô vặn người nằm ngửa, nâng mũi và miệng xa khỏi mực nước đang dâng. Cô luồn tay ra sau đầu và sờ thấy hàng trăm búi tóc tết. Mới vừa nãy đám nhân ngư còn giúp cô chải đầu. Liệu họ có phải là thủ phạm đẩy cô vào tình cảnh này không? Dưới mớ tóc bện rối rắm là lớp kim loại cong vòng thô ráp, sần sùi. Một sợi xích. Hóa ra cô không bị buộc vào băng ghế. Từng lọn tóc được bện vào các mắt tròn của sợi xích gỉ sét. Helen hít sâu. Tóc cô bị buộc vào sợi xích nặng nề trong một hang động đang dần ngập nước. Nếu không mau chóng hành động, chắc chắn cô sẽ không tránh khỏi thảm cảnh đuối nước. Cô buộc phải gỡ đám tóc bện này ra. Cô cố đẩy bện tóc vào giữa ngón cái và các ngón tay khác để gỡ. Nhưng những ngón tay đã lạnh cóng vì ngâm nước, cô lại còn chẳng thể thấy mình đang làm gì nên không tài nào gỡ nổi một mắt bện, nói gì đến tháo hết tóc. Tất cả những gì cô làm được là cọ nắm đấm lên bề mặt gỉ sét. Nước đã ngập đến cổ Helen. Giờ chỉ khuôn mặt cô là còn nổi trên mặt nước, khuỷu tay và đầu gối lấp ló. Cô còn bao nhiêu thời gian trước khi nước biển nuốt chửng nốt miệng và mũi cô? Cô còn có thể thở được bao nhiêu hơi nữa? Cô cố gắng không hoảng hốt. Giờ là lúc cô phải bình tĩnh nghĩ cách cứu bản thân mình. Cô không bị trói vào ghế, chỉ bị bện tóc vào sợi xích, vậy tất cả những gì cô cần làm là nâng sợi xích, kéo nó lên rồi ngồi dậy. Sau đó cô có thể đi bộ lên phần đất khô trong hang động, kéo sợi xích theo và bắt đầu ngồi gỡ tóc. Nghĩ vậy, cô tóm lấy những mắt xích và cố ngồi thẳng dậy, không chỉ dùng đầu mà dùng cả cánh tay để nâng để đỡ toàn bộ sức nặng. Không quá đau, nhưng sợi xích đã bị kéo căng, và cánh tay cô vặn ở góc thật kì cục khiến cô chẳng thể nào di chuyển nổi. Cô vật lộn để hít thở, nỗ lực ngồi dậy đã khuấy tung nước biển khiến chúng bắn tóe lên mũi cô. Cô buộc phải rời khỏi đây. Cô có thể giật đứt tóc khỏi dây xích không? Cô xốc mạnh người, vận các múi cơ ở bụng và cổ để bật mạnh đầu, tay tựa lên thành ghế. Cô giật rồi kéo, cầu mong tóc mình sẽ đứt, hoặc ít nhất là bị rứt khỏi da đầu. Đau quá. Đau hơn bất kì trải nghiệm đau đớn nào. Nhưng vẫn chưa đủ để giải phóng cô. Helen cố thử lại và bắt đầu rấm rứt khóc. Có lẽ cô nên dùng nhiều lực hơn, để giật cả ngàn sợi tóc khỏi da đầu cùng lúc. Cô hét lớn: “Một lần nữa!” rồi kéo mạnh. Giọng cô vang vọng khắp hang động, nhưng đầu cô chẳng nâng khỏi mặt nước thêm phân nào. Cô ngã xuống nước, cố nhịn thở để không bị sóng biển nuốt chửng, tự hỏi liệu có ai nghe được âm vang từ giọng nói của mình chăng. Để đến đây cô đã phải đi qua một đường hầm rất dài nối liền với phòng tiệc. Nếu cô hét, liệu những người trong sảnh đường có nghe thấy không? Có ai đến cứu trước khi cô chìm hoàn toàn trong nước không? Đó là tất cả hi vọng còn sót lại của cô. Khi nước tạm rút, cô vươn người, hít sâu… Rồi cô chợt nghe thấy những âm thanh tuyệt diệu nhất thế gian, tuyệt hơn cả âm nhạc: âm thanh của vó ngựa trên sàn đá. Tiếng vó mà cô biết rất rõ. Từng nhịp ngắt quãng của một nhân mã thiếu kiên nhẫn. Cô hét: “Yann!” “Kìa kìa, Helen, em đang bỏ lỡ…” Helen xoay người, nhìn về phía cổng vào, nước ngập gần hết mặt cô. Những hạt muối nơi khóe mắt phản chiếu vô vàn sắc màu mờ ảo. Tím. Cam. Bạc. Nâu. Lavender. Catesby. Rona. Yann. Tất cả đồng thanh gào lớn: “Helen!” “Em làm sao…?” “Sao lại…?” “Im lặng và giúp mình đi. Tóc mình bị buộc vào xích. Mình sắp chìm rồi đây!” Lavender và Rona cuống cuồng bay tới chỗ cô, Yann và Catesby phi hết tốc lực dọc đường hầm. Rona lao xuống bể nước, bơi tới bên Helen. Lavender lượn lờ trên đầu cô. Helen cảm nhận được những ngón tay của Rona bên dưới đầu mình, sau đó selkie ngoi lên: “Có cả tá bện tóc dưới đây nè. Mình không thể gỡ hết ra được. Đợi một phút.” Nói rồi cô bạn lặn mất tăm. Rona biến đâu rồi? Một phút lâu đến đâu? Helen vươn cao đầu hết cỡ để thở. “Có lẽ cậu ấy đi tìm chặn cửa xả nước vào trong hang,” Lavender run rẩy, “hoặc thứ gì đó có ích. Đừng hoảng loạn.” “Mình không hoảng loạn.” Helen mong đó là sự thật. “Giữ nguyên đầu nhé. Mình sẽ thử vài thần chú tháo gỡ. Dùng để gỡ len rối nhưng có lẽ sẽ tác dụng trên tóc người.” Lavender đậu lên trán Helen, nhặt một sợi tóc mai và bắt đầu lẩm nhẩm những âm hưởng dịu dàng. Giờ Helen đã không còn nhìn thấy được bất cứ người bạn nào. Cô biết họ đều đang nỗ lực giúp cô, nhưng cô không thể thấy họ. Cô cần ai đó nắm lấy tay cô, hoặc nói gì đó với cô chứ không chỉ đứng trên trán cô và lẩm bẩm, cầm gậy phép nhọn cắm vào da thịt cô. Lavender giãy lên: “Mình chịu thôi! Mình buộc phải gỡ từng sợi tóc một, và như thế sẽ không đủ thời gian. Mình tin là có ai đó đang tới. Giữ hơi đi. Đừng hít vào!” Helen không thể hít thở nữa. Giờ đây cô đã hoàn toàn chìm dưới mặt nước. Mũi, miệng, mắt của cô đều bị làn nước biển lạnh giá bao bọc. Tiếng vỗ nước vang lên bên cô. Rona luồn tay dưới vai Helen và hét: “Nâng dây xích lên!” “Mình không thể, mình đã thử rồi!” Helen cố thều thào trả lời. “Mình rút nó lên rồi! Cậu có thể di chuyển dễ hơn rồi. Nâng đi Helen, nâng!” Helen vòng tay ra sau, luồn những ngón tay quanh mắt xích hình bầu dục và nâng đầu. Cô cảm nhận được Rona cũng đang gánh lấy một phần sức nặng. Họ cùng kéo mạnh sợi xích gỉ sét. Helen ngồi bật dậy, nước dâng đến xương sườn cô, sợi xích nặng nề đau đớn quấn quanh vai cô. Cùng lúc đó, Yann phi tới với cây rìu trên tay, Catesby cũng lượn xuống, ngậm dao găm trong mỏ. “Quá trễ rồi, các chàng trai!” Helen phun phì phì. “Rona đã giải cứu được mình rồi.” Yann bì bõm lao xuống nước, nâng sợi xích và kéo nó lên chỗ cao nhất trong hang, Helen cứng ngắc theo sau cậu, tóc cô vẫn còn mắc cứng với nó. “Mình nghĩ lũ nhân ngư muốn dìm mình chết.” Helen ho khùng khục rồi chậm rãi ngồi xuống. “Xử lí từng việc một đã,” Lavender nói, “tháo dây xích ra khỏi tóc cậu trước.” “Mình có thể cắt tóc em ấy.” Yann nói, tay vung rìu. “Không!” Rona, Lavender và Helen kêu thất thanh. “Mình sẽ thử tháo từng bện tóc bằng phép thuật và những ngón tay,” Lavender nói, “và nếu mình thất bại, chúng ta sẽ dùng đến dao của Catesby để cẩn thận cắt đuôi tóc, như thế cậu ấy sẽ không mất quá nhiều tóc.” Helen nằm nghiêng, Lavender bắt đầu tháo dần từng lọn tóc cho cô. “Ai cố dìm chết em vậy?” Yann hỏi. “Nhân ngư. Họ chải tóc cho em khi mọi người ra ngoài thi kéo co…” “Và tôi thắng, nếu em tò mò muốn biết kết quả…” “Em không tò mò muốn biết, em suýt chết đuối! Họ chải tóc cho em, hát ru em, em đã quá mệt mỏi sau khi phải nhọc công chở một tảng thịt nặng trịch băng qua vịnh, thế nên em ngủ quên mất, và mọi người thì rời khỏi đây, để em một mình.” Lavender dừng đọc thần chú: “Cậu ngủ rất say, tụi mình thì được các selkie gọi vào nghe đọc diễn văn. Tụi mình định tới đón cậu trước khi khai tiệc.” “Cậu bỏ mặc mình trong tình trạng bị trói nghiến vào dây xích đấy hả?” “Đương nhiên là không! Mình để cậu lại, yên ổn trên băng ghế, không có một sợi xích nào. Tóc cậu đã được bện xong. Chắc chắn lúc tháo ra tóc cậu sẽ rất đẹp, loăn xoăn lượn sóng. Ý mình là phần tóc mà cậu không phải cắt đi ấy.” “Như vậy, hoặc là nhân ngư bỏ dở bài phát biểu và quay lại tìm xích rồi trói mình, hoặc ai khác đã làm việc đó. Nhưng ai, và tại sao chứ? Cái xích này ở đâu ra thế không biết?” Helen thụi mạnh lên sợi xích. “Nó bị đám buôn lậu bỏ lại đây.” Rona giải thích. “Vài trăm năm trước, lũ buôn lậu giấu rượu brandy và thuốc lá trong các hang động, đặc biệt là vào mùa thu, khi chúng mình đưa hải cẩu sơ sinh ra làm quen với biển cả. Rồi cô con gái của tộc trưởng tán tỉnh con trai của sếp cục thuế và tiết lộ cho anh bí mật bên trong các hang động, khiến lũ buôn lậu bị bắt và trả lại tổ ấm cho chúng mình. Các loại thùng và hộp đã được mang đi hết, chỉ còn lại xích và dây thừng, như cậu thấy đấy. Cái xích ban nãy đính chặt vào tường, đó là lí do cậu không thể ngồi dậy cho tới khi mình giật hẳn nó ra.” “Vậy là đám nhân ngư đã tết tóc mình để dễ dàng quấn vào sợi xích kia hả?” “Serena và mấy người bạn của cô ta cực kì mê tóc,” Lavender nói, lại bị xao nhãng khỏi câu thần chú, “mình khá chắc họ không cố ý làm tổn thương cậu.” “Dù ai đã trói em thì cũng không thể lên kế hoạch từ trước,” Yann phân tích, “bởi chẳng ai dự liệu được việc em sẽ ngủ gật cả.” “Đám nhân ngư đã hát ru em,” Helen bướng bỉnh cãi, “để họ có thể quay lại và dìm chết em.” “Sao họ lại phải làm vậy?” Rona hỏi. “Sao họ lại phải làm vậy?” Helen nói. “Thế tại sao con Hải Thấu kia tấn công Roxburgh? Hôm nay có khá nhiều câu hỏi không lời đáp. Cậu xong chưa, Lavender?” “Gần xong. Chục nút cuối tết khá chặt. Chắc sẽ phải dùng tới dao găm.” “Không! Đừng có dùng dao cắt tóc mình! Rona, ngăn ngoài cặp mình có mấy cái kéo đấy. Có lẽ chúng hơi to so với Lavender, cậu cắt tóc hộ mình nhé?” “Trong túi cậu có dụng cụ cắt?” Lavender rít lên. “Sau cậu không nói với mình lúc mình đứng trơ trơ nhìn cậu dần chìm?” Helen thở dài: “Mình quên mất. Lúc đó mình hoảng quá.” Helen ngồi năm phút, cực kì bứt rứt lắng nghe tiếng kéo cắt loẹt xoẹt. Cô không quá để ý tới tóc tai như Lavender, và chắc chắn không bằng một góc mấy ả nhân ngư. Nhưng tóc bị cắt nham nhở ngay trước khi dự tiệc cùng gia đình Rona và mấy cô nàng mĩ nhân ngư hoàn-trên-cả-hảo khiến cô cảm thấy mình như một đứa trẻ bị bã kẹo cao su mắc vào tóc. “Ái ui! Cẩn thận chút!” “Xin lỗi!” Rona nói. “Nhát cuối rồi đây.” Helen ngồi thẳng dậy: “Mình hói chưa?” “Hói gì!” Các bạn đồng thanh, hơi quá nhanh nên khá khó tin. “Cái bờm tóc của em có hơi rậm rạp,” Yann chêm, “và trông khá thú vị, còn lại đều ổn.” “Rậm rạp! Thú vị nữa!” Helen rên rỉ. Cô quay lại tìm dây xích. Những nút tóc đẫm nước đen nhánh được bện chặt quanh bốn mắt xích khổng lồ gỉ sét. Rona đã cố cắt gần xích nhất có thể, và đám nút tóc trông không khác tơ nhện dính trên kim loại là bao. Helen sờ lên đầu. Tóc cô ẩm rịt và xoăn tít, da đầu mềm mại, và vẫn còn khá nhiều tóc. “Cậu có cần gương không?” Rona hỏi. “Không.” Helen đáp chắc nịch. Cô thò tay vào túi quần bò và rút ra túm len buộc tóc ướt nhẹp, tóm đám tóc lại thành đuôi ngựa rối nùi rồi đứng dậy. “Chỉ là tóc thôi mà. Dù sao mình cũng không có ý định gây sự với mấy nhân ngư ấy. Cảm ơn vì đã giúp mình. Đi ăn thôi.” Helen dẫn đầu đoàn, đi xuyên đường hầm uốn khúc. Tiếng bát đĩa lách cách, tiếng nói rổn rảng, từng tràng cười giòn giã vọng từ đầu kia của đường hầm. Phải chăng những nhân ngư vui vẻ cười nói kia đang tưởng tượng cảnh Helen nằm sâu dưới làn nước biển lạnh giá? Chương 11 Rona quay trở lại bàn chủ tọa khi nhóm bạn tã tượi đắm mình dưới ánh sáng ấm áp của sảnh đường. Lavender đưa những người còn lại tới bên bàn ăn đặt gần mép nước, cạnh các lục giả rải rác ngồi quanh ghế dài. Yann hớn hở: “Dịch ra nào, dịch ra nào các chiến hữu, đây cũng là bàn của chúng tôi nữa mà.” Các lục giả toe toét cười rồi lục tục nhường chỗ. Helen mỉm cười. Kéo co quả là phương pháp hòa giải tuyệt vời. Cô ngồi xuống ghế kế bên Tangaroa, trong khi Yann loay hoay cuối bàn ăn. Dù phải nửa ngồi nửa quỳ, cậu vẫn cao hơn Helen và các lục giả cả cái đầu. Cậu trả rìu lại cho Tangaroa: “Cảm ơn nhé.” “Không có gì, chiến binh đất mẹ. Sao anh lại gấp gáp cần nó đến vậy?” “Để giải cứu cô bé loài người đây khỏi nghĩa địa dưới nước, nhưng tôi mừng vì đã không phải dùng tới nó.” Tangaroa quay qua Helen, nhưng trước khi cậu kịp mở miệng, cô hỏi: “Tại sao anh mang rìu đến buổi tiệc?” “Chúng tôi luôn mang vài món vũ khí bên mình. Lúc nào chả có vài con thuyền khá vững chãi và rất khó dìm. Đục một lỗ dưới nước thường đem lại hiệu quả cao.” Cậu xoay cái rìu trên không trước khi xếp nó xuống dưới chân rồi hỏi: “Anh bạn móng guốc của cô không đùa chứ hả? Cô bị mắc kẹt dưới nước à?” “Ừ. Mấy vị nhân ngư sát thủ đằng kia trói tôi vào vật nặng và để mặc tôi chìm nghỉm.” Helen la ầm ĩ khiến tất cả lục giả đều nghe thấy, và một vài selkie quay lại nhìn cô. Sau đó, toàn bộ quan khách xoay người liếc nhìn bàn ăn bằng gỗ đang nổi lềnh phềnh trên mặt nước có dàn nhân ngư có đuôi cá phủ ren vây quanh. Vắt mái tóc ra sau qua vai, các nhân ngư đút cho nhau những món điểm tâm xinh xắn làm từ rong biển. Nhân ngư chẳng thèm để tâm tới các khán giả. Mọi người lục tục quay lại nhìn Helen. Mặt cô đỏ dừ khi cô nhận ra thực tế cô chẳng có chút bằng chứng thật sự nào chứng tỏ nhân ngư đã từng hãm hại cô. Lavender nói khi nhân ngư rời đi cô vẫn ngủ say, và chắc hẳn ai đó sẽ để ý nếu có bất kì nhân ngư nào lén rời khỏi bàn tiệc. Tại sao nhân ngư lại cố dìm chết cô? Tại sao lại có người nào đó muốn dìm chết cô? Strathi ngồi trên bàn tiệc chủ tọa, hắng giọng ầm ĩ hòng kéo sự chú ý của mọi người rời khỏi Helen. Tất cả, ngoại trừ nhân ngư, kín đáo liếc nhìn Helen, nét mặt ngạc nhiên sâu sắc. Khi thức ăn được bưng lên, Helen nhận ra cô chẳng thể hỏi nhỏ nhân ngư, và họ cũng chẳng thể dìm cô hoặc xin tết tóc cho cô nữa. Vậy nên tốt nhất là tập trung vào bữa tiệc. Cô nhìn hàng dài bát đĩa chất đầy cá nướng, cá rán, cá hun khói và cá hấp. Sau đó, cô liếc sang lươn cát hầm, xúp trứng cá, cua nướng bỏ vỏ. Cô nhìn cả những đôi tay xanh. Khi ngồi rất gần và quan sát thật kĩ, Helen nhận ra bàn tay của các lục giả không hoàn toàn là màu xanh. Chúng mang sắc nâu. Màu xanh sâu thẳm ánh lên từ những hình xăm chằng chịt trên tay họ. Helen quay sang cô gái ngồi bên phải mình, liếc nhìn bắp tay và vai cô nàng. Chúng được trang trí bởi vô vàn xoáy ốc và lốc tròn trên nền da nâu ấm áp. Cơ thể cô gái không phủ kín hình xăm; Helen có thể nhìn thấy những mảng da ở mặt trong cánh tay cô. Cô gái nhìn Helen, bẽn lẽn mỉm cười và nói: “Bạn có muốn thử món cá đuối hun khói không?” Helen lắp bắp: “Không, cảm ơn.” Rồi vội vàng quay đi, ngượng chín mặt vì bị bắt quả tang. Trước mặt cô là Tangaroa đang hớn hở nhe răng cười trước phản ứng xấu hổ của cô. Cậu sáp lại gần, chìa tay ra cho cô xem. Nhưng Helen chỉ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt cậu. Sắc xanh trên môi khiến răng cậu trở nên trắng lóa, là bộ phận duy nhất trên khuôn mặt thực sự có màu xanh. Những phần còn lại là da nâu được phủ kín bởi các đường viền mảnh cứng cáp, vòng qua đôi lông mày, đâm ngang khắp gò má. Mê cung màu phức tạp cũng được khắc lên tay và vai cậu. Không giống nữ lục giả, trên thân thể cậu gần như không còn chỗ trống, chỉ trừ lòng bàn tay rộng mở. “Tôi chưa hoàn toàn được phủ kín,” cậu nói, “nhưng tôi đã thu thập đủ để trở thành ứng cử viên cho vị trí Sứ Giả Đại Dương, vậy nên tôi không quan tâm lắm việc phải ra ngoài tìm kiếm thêm.” “Anh thu thập gì thế?” Helen rướn về phía trước, cẩn thận xem xét mu bàn tay cậu, hóa ra những hình xăm đó được tạo nên từ vô vàn con chữ. Những chữ cái nhỏ xíu. Những khổ thơ dài vần điệu. “Anh viết chúng đấy hả?” “Chúng tôi không làm thơ. Chúng tôi thu thập thôi. Chúng tôi đòi thơ từ những kẻ đặt mạng sống vào tay chúng tôi bằng cách bước vào lãnh địa nước.” “Anh đe dọa dìm ngần này người?” Cô lóa mắt nhìn cả vạn chữ cái khắc trên da cậu. “Tôi khá giỏi trong việc thuyết phục các thủy thủ đơn độc quá sợ hãi và hoang mang nên sẽ không dám hé răng tiết lộ bất cứ điều gì. Dù cho mấy câu thơ của họ không có nhiều ý nghĩa lắm.” “Không có ý nghĩa, bởi họ sợ chết khiếp chứ sao!” Cậu nhún vai: “Tôi cũng khá giỏi lắng nghe con người khi họ không biết tôi ở đó, lắng nghe các cuộc đối thoại, âm nhạc của họ, thu thập tất cả những gì đủ sức thuyết phục.” “Nhưng tại sao anh lại cần thơ?” Tangaroa sững người: “Các trưởng lão của chúng tôi tin rằng những câu thơ sẽ giúp chúng tôi tìm đường về nhà, về với hòn đảo nơi tổ tiên được sinh thành. Tổ tiên đã vượt biển dưới chỉ dẫn của những nhịp thơ, vậy nên bộ tộc tôi hi vọng nếu lắng nghe đủ chuyên tâm, chúng tôi sẽ tìm được chân kinh dẫn đường về nhà.” “Làm sao từ ngữ có thể dùng để định hướng được? Lẽ ra anh cần tìm la bàn hoặc bản đồ chứ?” “Không không. Rất lâu trước khi các công cụ điện tử mà thủy thủ dùng, thậm chí trước cả khi những công cụ đọc sao và dò phương bắc ra đời, thủy tộc đã dùng đường bờ biển, hướng gió và con sóng để ghi nhớ và chuyển giao các hành trình. Từ ngữ dễ dàng trao đi hơn bản đồ. Nếu tôi muốn hướng dẫn cô tới cái hang động nhỏ hơn đằng kia, tôi chỉ cần nói: đứng dậy, bước mười bước về bên phải, men theo tường hang động bên trái cho tới khi đến được cổng vòm, sau đó đi xuyên qua đường hầm. Như thế sẽ nhanh hơn nhiều so với bản đồ, bởi khi cầm bản đồ, cô sẽ phải tìm hiểu xem mình đang ở đâu, làm sao để định hướng và dùng thước đo gì cho chính xác.” Helen gật đầu: “Nhưng tại sao lại dưới dạng thơ vần?” “Bởi các chỉ dẫn từ đầu này đến đầu kia thế giới thường rất dài, và thơ dễ nhớ hơn.” “Bản đồ sẽ chính xác hơn thơ đối với những khoảng cách quá lớn chứ?” “Sẽ không đâu, bởi chúng tôi không nắm được tên hiện nay của các hòn đảo. Chúng tôi đến từ đại dương rộng lớn nhất thế giới, với cả ngàn hòn đảo lớn nhỏ.” “Tại sao anh không dò ngược lại những chỉ dẫn đã đưa các anh tới đây?” Giờ thì đến lượt cậu chàng ngượng chín mặt, sắc hồng loang khắp những mảng xanh trên má. “Chúng tôi tình cờ lạc đến đây. Tổ tiên của chúng tôi đã bị thổi bay khỏi quê hương, sang tận đại dương xa lạ, không có bất kì khổ thơ nào có thể giúp họ tìm đường về. Chúng tôi không thể dò lại phương hướng bởi chúng tôi không biết mình đã đến đây bằng cách nào. Đó là lí do chúng tôi thu thập thơ, chúng tôi mong ước tìm được đường về quê nhà.” Helen liếc sang bể nước, thấy nước biển đang ngập dần. Những con thuyền buộc bên cọc ngày càng dâng cao hơn, và bàn tiệc của nhân ngư cũng trôi tới gần hơn. Cô quay sang Tangaroa. Đây là đức tin ngớ ngẩn nhất mà cô từng nghe kể từ khi được gặp các linh thú. Làm sao để đối đáp cho lịch sự đây? “Nhưng Tangaroa à,” cô nhẹ nhàng nói, “tại sao anh lại tin rằng những vần thơ ngẫu nhiên từ các tay thủy thủ đang hoảng sợ sẽ đưa được anh về nhà? Làm sao anh biết hòn đảo nào trên Thái Bình Dương là quê hương anh?” Tangaroa cười: “Giỏi ha, cô gái đất mẹ! Cô chỉ mất năm phút để nhận ra điều tôi phải nghiền ngẫm nhiều năm, và cả bộ tộc của tôi vẫn chưa nhận ra. Tôi đồng ý. Tại sao những kẻ chưa bao giờ đặt chân tới vùng nước quê hương chúng tôi có thể giúp chúng tôi tìm đường trở lại? Những vần thơ đó,” cậu vỗ lên cánh tay xanh rực, “chỉ để đánh lạc hướng thôi. Tôi đang tìm con đường về nhà khác. Sức mạnh từ đại dương sâu thẳm chắc chắn sẽ biết được chúng tôi đến từ đâu. Nếu tôi chiến thắng cuộc thi và phục vụ họ thật tốt trong vai trò sứ giả, có lẽ họ sẽ nói cho tôi biết.” “Vậy là anh thu thập tất cả những vần thơ kia để trở thành người đại diện cho lục nhân, dù anh gần như không mấy tin tưởng vào chúng?” Cậu gật đầu: “Đó là lí do tôi quyết tâm chiến thắng. Tôi sẽ không để một cô gái hải cẩu hay đám đuôi cá cắt đứt con đường về nhà của tôi!” Helen sững sờ nhìn cậu: “Anh đến từ đảo. Anh không có chân hay vảy cá. Và các trưởng lão của anh đều nghĩ trí nhớ của con người có thể chỉ cho anh đường về nhà. Mà tất cả lục nhân ở Minch đều là con người à?” “Đương nhiên. Chúng tôi là con người, giống như cô vậy.” “Nhưng anh sống trong đại dương!” “Chúng tôi sống bên đại dương, không phải trong đại dương. Có hàng ngàn hang động rải khắp bờ biển Scotland. Các trưởng lão tin rằng chúng tôi sẽ không tìm được con đường đích thực nếu tách quá xa khỏi gió biển và thủy triều. Chúng tôi không ngủ trong biển, cũng không xăm hình trong đó. Chúng tôi dành ít thời gian với đại dương hơn selkie, và càng ít nếu so với nhân ngư, nhưng chúng tôi tự coi mình là con cái của biển cả.” “Tại sao anh không chết cóng khi xuống nước, và tại sao da anh không nhăn nheo và hay bị bong tróc chút nào?” Tangaroa hạ giọng: “Dầu hải cẩu! Nó giúp chống nước. Nhưng đừng có nói với cô bạn Rona của cô đấy!” Anh chàng quá cởi mở khiến Helen bất giác buột ra câu hỏi mà tất cả mọi người đều lảng tránh: “Tangaroa, nhiệm vụ thứ hai là gì?” Cậu không hề lảng tránh hay chuyển chủ đề. Cậu toe toét cười: “Cô sẽ không muốn biết đâu, nếu không cô sẽ không bao giờ nghĩ cô bạn selkie của cô đáng yêu và dễ thương được nữa!” Cậu cười lớn. “Nhưng đừng lo, cô sẽ sớm biết thôi.” Chương 12 Rốt cục Helen vẫn chưa biết nhiệm vụ thứ hai là gì. Khi các selkie bắt đầu phục vụ món tráng miệng, cô để ý thấy dường như nước biển ngày càng dâng cao. Giờ bàn của nhân ngư đã trôi tới gần sát, có lẽ cô sẽ hỏi nhỏ được lí do cô có kiểu tóc tết thảm họa. Dù sao cô cũng không có cảm tình lắm với món pudding của selkie. Mặn chát. Cô rời khỏi băng ghế và ngồi sát mép nước. Yann đứng sau lưng cô. Helen mừng vì cậu ở đó. Sẽ rất ngu ngốc nếu tỏ ra lo lắng khi nói chuyện với nhân ngư hơn khi nói chuyện với lục nhân. Cô không có bằng chứng cụ thể nào chứng tỏ nhân ngư cố ý hãm hại cô, trong khi trước đó lục nhân từng định lôi cô khỏi thuyền và nhấn xuống nước. Cô lo lắng. Lục giả nguy hiểm nhưng vô cùng thẳng thắn. Trong khi đó, nhân ngư có lẽ đã từng cố dìm cô chết lại tỏ ra như thể chẳng hề có chuyện đó xảy ra. Rona ngồi bên cạnh Helen: “Mình đã dành phần lớn thời gian lắng nghe các mẹo để chiến thắng cuộc thi, và mình tranh thủ hỏi xem có ai thấy nhân ngư nào rời bàn tiệc khi bài phát biểu khai mạc diễn ra không. Có vẻ như không ai rời khỏi sảnh tiệc.” “Nhưng nếu không ai rời đi,” Helen nói, “vậy ai đã tấn công mình? Cái đường hầm kia là lối duy nhất dẫn vào hang động nhỏ à?” “Nước biển lọt vào cũng như chảy ra khỏi hang kế bên thông qua những lỗ nhỏ trên vách đá. Vậy nên bất kì một sinh vật biển nào có thể lách qua lỗ hổng to chừng này… Rona vẽ một vòng tròn không lớn hơn bả vai cô là bao, “… đều có thể đột nhập.” Helen nhìn đám nhân ngư: “Khi mực nước biển còn thấp, bàn của họ nằm khá xa đám đông và gần với cửa. Có lẽ vài nhân ngư đã lặn xuống nước và bơi sang hang bên kia mà không bị để ý chăng?” Helen gọi lớn: “Serena? Chúng ta nói chuyện chút nhé?” Nhân ngư đập đuôi xuống nước và đẩy bàn tiệc tới gần hơn. Khi cái bàn đã yên vị trên sàn hang, Serena leo lên gần chỗ linh thú ngồi, tựa khuôn cằm mỏng manh lên mu bàn tay. “Thật KHỦNG KHIẾP! Chuyện gì đã XẢY RA với em, cô gái loài người đáng mến của tôi?” Helen thận trọng hỏi: “Chị nghĩ đã có chuyện gì xảy ra?” “Tóc của em lại LỘN XỘN rồi! Em tự tháo ra đấy hả? Em không THÍCH cách chúng tôi tết tóc cho em sao?” “Em đã rất thích với những bím tóc đó,” Helen nói, “nhưng em không thích món đồ trang trí tí nào.” “Đồ trang trí gì? Chúng tôi chỉ dùng sợi tảo để tết tóc cho em thôi. Khá là hợp với màu tóc nâu ĐẤT của em.” “Ý em là cái xích to tướng mà em bị trói vào rồi bỏ mặc cho chết đuối ấy…” “ÔI TRỜI ƠI! KINH KHỦNG làm sao! Hẳn em phải rất HOẢNG SỢ. Ai có thể LÀM THẾ với mái tóc ĐÁNG YÊU của em chứ? Và cả với em nữa, đương nhiên…” Helen nhìn thẳng vào đôi mắt màu xanh dương của Serena, ngó lom lom cho tới khi nhân ngư phải quay đi. Rồi Helen nói: “Em không đoán ra được thủ phạm, Serena ạ. Chị thì sao?” “Không! KHÔNG có tí ý tưởng NÀO CẢ!” “Có ai ở lại hang động khi cô rời đi không?” Yann hỏi bằng chất giọng thân thiện hơn. “GIỜI ƠI, không,” Serena đáp với một nụ cười tươi tắn, “chúng tôi đặt người đẹp say ngủ đây TƯƠNG ĐỐI AN TOÀN khi Strathi triệu tập chúng tôi.” Cô nàng quay qua các nhân ngư còn lại: “Orla, Inigo, Zenna, có BẤT KÌ ai nhớ ra BẤT KÌ điều gì không? Kể cả cái bóng LỜ MỜ nào đó, hình dáng tên SÁT NHÂN, hàng dãy bong bóng BÍ ẨN dưới nước, đám keo nhớt PHÁT SÁNG trên tường?” Yann cắt ngang: “Làm ơn nghiêm túc cho. Helen đã suýt chết đó!” """