"Biên Hòa Sử Lược Toàn Biên 2 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Biên Hòa Sử Lược Toàn Biên 2 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : BIÊN-HÒA SỬ-LƯỢC TOÀN-BIÊN Quyển 2 : BIÊN-HÙNG OAI-DŨNG Tác giả : LƯƠNG VĂN LỰU Năm xuất bản : 1972 ------------------------ Nguồn sách : timsach.com.vn Đánh máy : mopie, minhf, thaonguyen, chip_mars, thoibayhet, Rùa Biển, pinkie_min, camchuongtim, Dung Ðôraemi, nhungphan1204 Kiểm tra chính tả : Mai Trâm Trần, Phạm Vân Anh, Tào Thanh Huyền, Ngô Thị Thu, Lương Đình Luật, Lưu Đỗ Thanh Tâm, Nguyễn Văn Ninh, Phạm Ngọc Phương Trinh, Nguyễn Thương Huyền, Trương Thu Trang Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 26/12/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả LƯƠNG VĂN LỰU đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC LỊCH-SỬ ĐẶC-DANH : BIÊN-HÙNG A) ĐỊA-KHÍ SƠN-LINH I. NÚI CHÂU-THỚI TRƠ GAN CÙNG TUẾ-NGUYỆT II. NÚI BỬU-LONG SẠM MẶT VỚI THỜI GIAN 1) ĐƯỜNG VÀO NÚI BỬU 2) NÚI BỬU-LONG a) SƠN-DANH b) ĐÀI TAM-THẾ PHẬT c) HÀM CỌP III. BỬU-PHONG CỔ-TỰ a) NỘI ĐIỆN b) TIỀN-ĐÌNH c) ĐÀI PHẬT-BÀ QUAN-THẾ-ÂM d) HÀM RỒNG e) TỊNH-XÁ BỬU-PHÁP III. BÓNG THẦN-NỮ MÀI GƯƠM TRÊN NÚI CHỨA-CHAN 1) TRUYỆN TÍCH 2) CẢNH NÚI B) RỪNG CAO BÓNG CẢ I. XUYÊN VÙNG NÚI BÀ-RÁ II. SỐNG TRONG BUÔN THƯỢNG III. NGƯỜI THƯỢNG ĂN NHANG IV. MỘT CUỘC ĐI SĂN C) GIANG-THANH THỦY-TÚ I. NƯỚC ĐỒNG-NAI 1) NHỮNG CON SÔNG LỊCH SỬ 2) ĐÂY, SÔNG ĐỒNG-NAI CỦA ĐẤT BIÊN-HÙNG II. THỦY-VẬN TRÊN SÔNG ĐỒNG-NAI III. KINH ĐÀO IV. CÁ RẠCH-ĐÔNG V. SUỐI SƠN-MÁU D) VANG BÓNG CỔ-NHÂN I. ANH-THƠ, LIỆT-NỮ 1) CÔNG-CHÚA NGỌC-VẠN (HOÀNG-HẬU THỦY-CHÂN LẠP) MỞ ĐƯỜNG NAM TIẾN ĐẾN ĐẤT ĐỒNG-NAI 2) TÁ-THIÊN NHÂN HOÀNG-HẬU (VỢ VUA MINH-MẠNG) SANH QUÁN TẠI BIÊN-HÒA 3) BÀ BÙI-HỮU-NGHĨA (NHŨ DANH NGUYỄN-THỊ-TỒN) MỘT LIỆT PHỤ KHẢ GIA CỦA ĐẤT ĐỒNG-NAI II. ĐẠI CÔNG THẦN TRIỀU NGUYỄN 1) TRẦN-THƯỢNG-XUYÊN a) DẸP LOẠN b) ĐƯỜNG MIÊU-DUỆ c) LƯU GHI CÔNG ĐỨC d) LINH-ỨNG e) DI-TÍCH-KHÁC f) GIAI-SỬ 2) NGUYỄN-HỮU-CẢNH KHAI-SÁNG XỨ ĐỒNG-NAI a) BÌNH CHÂN-LẠP b) TỊCH-DIỆT c) HẬU-DUỆ d) DI-TÍCH 3) TRỊNH-HOÀI-ĐỨC (1765-1825) KIỀU-NGỤ TRẤN-BIÊN DINH a) DÒNG-DÕI KHOA-HOẠN - THỜI CHÚA HIỀN NGUYỄN-PHƯỚC-TẦN - THỜI CHÚA THẾ-TÔNG NGUYỄN-PHƯỚC-KHOÁT (VÕ-VƯƠNG) - THỜI NGUYỄN-VƯƠNG PHƯỚC-ÁNH - THỜI THẾ-TỔ GIA-LONG - THỜI THÁNH-TỔ MINH-MẠNG b) MẠNG CHUNG c) SỰ-NGHIỆP VĂN-CHƯƠNG d) TÁC-PHẨM CỦA TRỊNH e) CHÙA MINH-HƯƠNG GIA-THẠNH f) DI-TÍCH TẠI BIÊN-HÒA g) TRỊNH-GIA-PHẢ 4) CHÂU-VĂN-TIẾP (1738-1784) 5) VÕ-TÁNH (?-1081) a) LÝ-LỊCH b) OAI-DANH c) PHÒ CHÚA d) THỦ THÀNH e) TỬ-TIẾT f) TRUY-PHONG 6) ĐÀO-TRÍ-PHÚ ĐƯỢC VUA MINH-MẠNG KHÂM SAI TIẾP ĐÓN PHÁI BỘ GIAO THƯƠNG ĐẦU TIÊN CỦA HOA-KỲ 7) LÊ-VĂN-LỄ VÀ CÔ BÓNG HIÊN III. ANH-HÙNG KHÁNG PHÁP 1) TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH HOẠT-ĐỘNG TRÊN ĐẤT BIÊN HÙNG 2) ĐOÀN-VĂN-CỰ (1835-1905) 3) HƯƠNG HÀO HẦU VÀ TÁM LIỆT-SĨ (1916) a) THIÊN-ĐỊA-HỘI b) TẠI XỨ ĐỒNG-NAI c) PHÁ KHÁM BIÊN-HÒA d) PHÁ KHÁM LỚN SAIGON e) DỐC-SỎI : ĐẤT-THIÊNG, KHÍ-HÙNG f) GIỜ HÀNH QUYẾT g) MỒ CHIẾN SĨ h) HƯƠNG-HÀO HẦU HIỂN-HÁCH i) TƯ HỔ – BA-VẠN j) CHÙA CÔ-HỒN k) ĐỀ-NGHỊ 4) CHÍ SĨ NGUYỄN-HỮU-HOÀN 5) NHỰT ĐẢO CHÁNH PHÁP (9-3-1945) a) TỔ-CHỨC CHÁNH QUYỀN b) DÂN-CHÚNG BỪNG DẬY c) PHÁT TRIỂN CƠ SỞ PHÒNG-THỦ d) CỔ XÚY VĂN-NGHỆ CỔ-TRUYỀN e) TRÁNH NẠN OANH KÍCH f) TÌNH-TRẠNG BẤT-ỔN g) BIẾN CHUYỂN MỚI 6) VIỆT-MINH NẮM CHÁNH-QUYỀN a) LẬP CHÁNH-QUYỀN b) CÁC QUẬN BỘ c) BỘ-ĐỘI LƯU-ĐỘNG d) PHÁP KHAI-HẤN e) TIẾNG VANG TỪ LONG-THÀNH f) TỈNH THIẾU LƯƠNG THỰC g) TỔNG TUYỂN-CỬ h) QUÂN TA PHẢN-CÔNG VÀ TẤN-KÍCH BIÊN-HÒA i) PHÁP ĐÁNH ÚP TÂN-UYÊN j) HỘI-ĐÀM VIỆT PHÁP k) VIỆT TRẢ TÙ-BINH PHÁP IV. NGƯỜI VÀO LỊCH-SỬ 1) CHIÊM-NỮ DAO-LUẬT ĐÃ BA LẦN DU-THUYẾT HOÃN BINH NGUYỄN-CHÚA a) TRỔ TÀI VỚI HUỲNH-TẤN b) ĐỐI THUYẾT VỚI MAI-VẠN-LONG c) LẠI GẶP NGUYỄN-HỮU-HÀO 2) LÊ-VĂN-KHÔI KHÁNG TRIỀU ĐÌNH HUẾ ; NHƠN DÂN BIÊN-HÙNG THAM GIA PHONG TRÀO a) NGUYÊN DO KHỞI LOẠN b) DẤY LOẠN c) BINH TRIỀU TIẾP CỨU - Các thế trận - Biên-Hòa thất thủ - Triều-đình tiếp viện - Binh Triều hạ thành Phiên-An - Triều Đình tru diệt binh Khôi d) HẬU-DUỆ LÊ-VĂN-KHÔI e) DI TÍCH TẠI BIÊN-HÒA f) CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI DÂN « BIÊN-HÙNG » ? 3) THÁNH MATHIEU GẨM 4) NGƯỜI MỸ ĐẦU TIÊN ĐẶT CHÂN LÊN XỨ ĐỒNG-NAI 5) BÁC-SĨ NGUYỄN-VĂN-HOÀI (1898-1955) a) TIỂU SỬ b) ĐỜI CÔNG-CHỨC - Công nghiệp sáng-chế - Thời-kỳ khó-khăn nhất - Tổ-quốc ghi-ơn c) ĐỜI SỐNG CÁ-NHÂN - Sự-nghiệp văn chương - Tâm bịnh, theo quan-niệm triết-học của Bác-Sĩ d) ĐI VÀO CÕI BẤT TỬ e) PHẦN THƯỞNG TINH-THẦN 6) ĐẠI-TƯỚNG ĐỖ-CAO-TRÍ - Binh nghiệp - Hy sinh vì tổ quốc - Tang lễ - An táng 7) NHÂN-VẬT KHÁC 8) TIẾT-PHỤ (HIỀN-THỤC) a) NHÀ PHÚ-HỘ THỦ-HUỒNG BÊN SÔNG « NHÀ BÈ » VÀ VUA ĐẠO-QUANG - Bến sông « Nhà bè » - Chùa Chúc Đảo (Thọ) b) BÀ MỤ TRỜI c) DỐC « MA-THIÊNG-LÃNH » d) CẶP SÓNG THẦN TẠI VÀM THAM MẠNG e) CHIẾC NỒI ĐỒNG TRÊN NGỌN SÔNG BUÔNG f) « GIẶC » CÀO CÀO g) CÁ-LINH h) THỊ-TRƯỜNG CẮC-KÈ i) PHO TƯỢNG LINH TẠI NGHĨA-TRANG QUÂN-ĐỘI PHỤ-ĐÍNH LƯƠNG-VĂN-LỰU BIÊN-HÒA SỬ-LƯỢC TOÀN-BIÊN Quyển thứ II BIÊN-HÙNG OAI-DŨNG Bìa của họa-sĩ TRẦN-NGỌC-ẨN Hình bìa của Giáo-sư Hội-họa NGUYỄN-HOÀNG-HOANH Tác giả xuất bản và giữ bản quyền 1972 LỊCH-SỬ ĐẶC-DANH : BIÊN-HÙNG Dinh Trấn-Biên, vào năm Kỷ-tỵ (1629) nguyên là Phủ Phú-Yên, cương thổ cuối cùng của Đại-Việt, giáp phía Nam là nước Chiêm-Thành. Việt dân tiếp tục bành trướng thế lực lần xuống Nam. Đến năm 1679, dân ta chiếm đất Đông-Phố của Thủy chân-Lạp. Chúa Hiền Thái-Tông Hiếu-triết Hoàng-đế Nguyễn phước-Tần sắp đặt lại địa hạt hành chánh và chia đất Đông Phố (Giản-Phố trại (?) Cẩm-bồ Gia) ra làm hai Dinh, trong số đó có Trấn-Biên. Dinh là một căn cứ lãnh thổ, theo binh chế cũ, gồm lối 500 người. Trấn-Biên có nghĩa là Trấn của Biên-cương (giáp cận Thủy-chân-Lạp quốc) Chữ « Biên » xuất phát từ đó và được lấy đặt tên cho cương-thổ miền Đông Nam-Việt. Đến năm 1776, có tướng Hoa-kiều là Lý-Tài, trước ở với Tây-Sơn, sau theo Nguyễn-phước-Ánh, rồi lại tạo phản, rút về chiếm vùng Chiêu-Thái (núi Châu-Thới) tự xưng hùng và truyền sửa đặt Trấn-Biên lại là Biên-Hùng trấn, với ý nghĩa Trấn-Biên bây giờ có đoàn quân hùng cứ một cõi, không hàng phục Nguyễn-Triều. Năm 1787, trước sự tiến binh của Nguyễn-Vương Phước Ánh, Đông-định-Vương Tây-Sơn là Nguyễn-Lữ cũng lui về tạm trú, hiên ngang trên đất Biên-Hùng nầy. Từ năm 1806, sau khi Thế-Tổ Cao-Hoàng Gia-Long thắng Tây-Sơn, Thống-Nhất Sơn-Hà, tổ chức lại nền Hành Chánh quốc-gia, chia thêm lãnh thổ Việt-Nam ra làm nhiều Trấn nữa (trước chỉ có hai Dinh). Nhà vua đặt lại là « Biên Hòa » với ý nghĩa là : Trấn-Biên, sau thời binh-biến nhiễu nhương tao-loạn, được phục hồi tình trạng an-hòa thái-lạc. Về sau, người Pháp gọi là « PORTE DE LA PAIX ». Biên-Hòa được chính thức xưng danh kể từ đó, trên phương-diện chánh-trị và hành chánh. Nhưng về mặt lịch-sử, người dân Biên-Hòa, mỗi khi muốn xưng địa danh, thường thích ôn lại gương nghĩa dũng của liệt-sĩ anh-hùng để tự hào mình là hậu-duệ, rồi gọi tên mảnh đất thân yêu đã sinh và nuôi dưỡng mình, là Biên Hùng, nguyên là Trấn-Biên-dinh do Tây-Sơn sửa đặt lại. Chữ « Hùng » có nghĩa trọn vẹn của nó : Trang tài-tuấn có chí khí hào-hùng hiên-ngang, biết diệt Bạo trừ Gian, dám hy-sinh vì Chính-nghĩa, cho Quốc-gia Độc-Lập, cho Dân-tộc tự do. Đất địa « Trấn-Biên Dinh » vốn un đúc bằng một khí núi oai rừng linh-thiêng, nên đã, cùng cỏ cây non nước, trổ sanh nhiều bậc tài-nhân dũng-sĩ. - Năm 1834 : Dưỡng tử của Tả-quân Lê-văn-Duyệt là Lê-văn-Khôi, khi dấy loạn tại thành Phiên-An (Gia-Định), chống vua Minh-Mạng, có nhiều đồng đảng thuộc hạ, ngụ tại Biên-Hùng Trấn. - Năm 1859 : Binh của Tôn-Thất-Hợp chống nhau với quân của Trung-tá Jauréguiberry tại Biên-Hùng. Binh ta thua vì chiến cụ nặng của địch, vẫn lẩn-lút ở trên đất Biên Hùng để kiên-trì kháng chiến trong cam go. Trong thời cận-đại, cụ Đoàn-văn-Cự ở Vĩnh-Cửu (Tam Hiệp), cũng nổi lên chống Pháp và phong trào « Thiên địa hội Lâm trung trại » bài xích chế độ cai trị của Thực dân, cũng phát động được một thời gian tại Trấn-Biên-Hùng, đất Đồng-Nai. Đồng-Nai còn có tiếng là « Đồng-Nai Đá Lửa » hàm ý cứng rắn, can-đảm, mạnh mẽ, không lùi bước trước kẻ thù của dân-tộc, nhưng vẫn hiền-dịu với Đạo-Đức, Nghĩa-Nhân. Trong « Gia-Định Tam-Hùng » là ba hổ tướng : Châu văn-Tiếp, Võ-Tánh, và Đỗ-thành-Nhân của Triều-Nguyễn, có Võ-Tánh, nguyên tổ-tiên xuất thân từ Phước An (Phước-Tuy) thuộc Trấn Biên-Hùng. Tóm lại hùng khí đất « Trấn-Biên » vẫn không bao giờ tan rã qua các thời đại. Danh từ « Biên-Hùng » được truyền tụng và thông dụng ngày nay, cũng do các sự tích kể trên. * Nay là Biên-Hòa, nhưng khi dẫn chứng lịch-sử, dân Biên-Hòa coi mình như là vẫn còn trong huyết quản hào-khí của người xưa, nên thường thích gọi, hoặc được gọi quê hương là Biên-Hùng, để được hãnh-diện với những quá trình và thành tích tranh-đấu vì Chánh-nghĩa của Tiền-nhân. Với từ ngữ « Biên-Hùng » nầy, từ năm 1952, Tòa Hành Chánh Tỉnh nhà có mở một ấn-quán. Một tập báo ra hàng tháng lấy tên « Biên-Hùng Nguyệt-Báo » do một nhóm văn hữu công-chức chủ-trương biên-tập. Một nhóm anh em ham mộ thể-thao tại Tỉnh, nặng lòng yêu quê-hương, mượn danh « Biên-Hùng » để thành lập đội bóng tròn được giới mộ điệu hoan-nghinh ủng hộ và được tiếng khen tặng của cầu-giới miền Nam. Danh từ « Biên-Hùng » cũng được nhà kinh-doanh Lê văn-Lộ mượn đặt cho một hí-viện đồ-sộ trên ngã Năm Ga (đường Hưng-đạo-Vương, Trịnh-hoài-Đức và Q.L. 1) làm tăng vẻ thẩm mỹ về mặt kiến-trúc tại Tỉnh lỵ và tạo sanh khí tấp nập cho thành phố. Một ban tân-nhạc của các bạn trẻ, một xưởng đắp vỏ xe, một quán ăn tại Biên-Hòa, và nhiều cơ sở khác cũng chọn ngữ-từ « Biên-Hùng » để đặt danh-hiệu cho đoàn nhạc và công-ty kỹ-nghệ, thương-mãi. A) ĐỊA-KHÍ SƠN-LINH I. NÚI CHÂU-THỚI TRƠ GAN CÙNG TUẾ NGUYỆT « Non Châu-Thới tháng ngày cằn cỗi, đứng sững chống trời, trơ gan cùng tuế nguyệt ; Sông Đồng-Nai bao độ vơi đầy, uốn mình xoi đất, phơi ruột với thời gian ». Theo Quốc-lộ 1, từ Thủ-Đô lên Biên-Hòa, qua khỏi ranh giới Gia-Định, du khách trông thấy nơi phía hữu, một trái núi đứng sừng sững bên đường cao độ 80 thước, trên đỉnh còn vài chòm cây cổ thụ. Từ lộ vào, do một con đường đất rộng, đến chân non, thu hẹp lần và uốn mình dẫn lên chót núi. Một kiểng chùa ẩn núp trong khung cảnh u nhàn tịch mịch quyến rũ người tâm đạo dừng bước trên non cao, lòng không còn vương chút bụi trần. Vào buổi trời chiều bảng lảng hay giữa canh khuya thanh vắng, từ trên núi, thỉnh thoảng vọng ra những hồi chuông u-minh, buồn thảm, ngân dài, dư âm lan dần xuống rồi tắt hẳn trong lòng người đang tưởng niệm đến cõi hư vô. Về phương diện du lịch, non Châu-Thới là một thắng cảnh, nhưng về mặt kinh tế, núi này là chỗ sản xuất đá để dùng vào việc kiến trúc hay xây lộ bắt cầu, đem lại một nguồn lợi lớn cho tỉnh nhà. Châu-Thới sơn là tượng-trưng hùng vĩ của đất Biên Hùng, tự nó cũng có một lịch sử riêng, từ ngày có bàn chân thứ nhứt của nhân loại đặt lên phiến đá trinh bạch của ngọn núi này. Nó mang tên lịch sử : Chiêu-Thái (Quốc sử), Cố Phi San (Trung-Hoa), Mont Blanchy (Pháp-thuộc). Sau đây là các nguyên do đã tạo nên ba sơn danh khác biệt : - Chiêu-Thái-Sơn : nằm về phía Nam huyện Phước Chánh, được chánh thức liệt kê vào bản xuyên sơn tại Quốc sử quán vào năm 1850 (Tự-Đức thứ 3). Trên đỉnh có Hội sơn am tự là nơi Thiền sư Khánh-Long trác tích tu hành. Chùa hiện nay vẫn còn, sau nhiều thời kỳ tu bổ. Năm 1777, lúc Chúa Nguyễn-phước-Ánh đánh nhau với Tây-Sơn, Lý-Tài (nguyên là tướng của Tây-Sơn, về sau tạo phản) chỉ huy đạo quân Hòa-Nghĩa, chiếm cứ núi Chiêu-Thái, đặt phòng tuyến án ngữ binh của Nguyễn-Lữ từ Qui-Nhơn kéo vào và của Nguyễn-Ánh từ Gia-Định đưa lên. - Mont Blanchy : là do thanh tra Palasme de Champeaux khẩn trưng, sau bán lại cho ông Paul Blanchy vào ngày 17- 10-1873. Đến năm 1886, ông nầy nhượng lại cho « Công ty Nông Kỹ Nam-Kỳ ». Dầu vậy, danh-từ « Mont Blanchy » cũng vẫn được thông dụng trong giới tri-thức thời bấy giờ. - Cố Phi San : « Hội Nông-Kỹ Nam-Kỳ » sau đổi hiệu danh là « Công Ty Nông kỹ Miên, Nam và Trung Việt ». Hội rất chú-trọng đến vấn đề khuếch trương nông lâm trên núi. Ông Hội-trưởng cho dọn sạch cây chồi trên những thửa đất không có đá, định trồng cây cà-phê là một nông sản chưa có trên đất Đông Dương. Ông nhờ một Hoa thương quen tại Chợ-Lớn mượn một đồng hương là nhà trồng tỉa xứ Brésil (Nam Mỹ) mua dùm hột giống. Khi hột cà-phê gởi qua đến, ông Hội Trưởng mời tất cả các hội viên Pháp lẫn Hoa đến núi dự tiệc mừng gieo giống. Bao hột giống ông cất thật kỹ, không ai được xem trước hoặc mó tay vào. Tiệc rượu được bày ra trong một nhà mát. Khách tỏ lời khen ngợi ông có sáng kiến mới, sẽ đem lợi lớn cho Hội. Lúc mở « Champagne », ông bảo « cặp rằn » lấy bao chia cho 10 lao công, mỗi người một gói nhỏ đem đi bỏ vào các lỗ đất đã đào sẵn. Một hội viên tò mò lén bước theo xem. Thì ra, đó là những hạt giống đã được rang chín hết. Mọi người đều vỡ mộng. Tiệc tan. Khách ra về, cau có. Chủ buồn nản đi thu các gói hột giống, cả những hột đã gieo cũng đều được moi lên lấy lại, đem theo, ra về, không một lời từ giã người « cặp rằn » và các lao công… Thời gian sau, mỗi lần đi ngang qua núi Châu-Thới, có nhiều người Hoa kiều thường chỉ vào, và bằng một giọng hài hước trào lộng, thốt ra những câu chế nhạo : « Cố Phi San ! Cố Phi San ! » để cười đùa với nhau. Kẻ tò mò tra cứu nguyên do, thì biết : đó là phiên âm của chữ « coffee » (café theo Pháp ngữ) còn « San » là núi. « Cố phi san » là núi cà phê (!) trồng cà phê bị thất bại. Hội « Nông kỹ Miên, Nam, Trung Việt » tan rã, năm 1928, nhượng một phần quyền sở hữu chủ Núi lại cho ông Bùi-văn-Lố, là một nhà hào phú đất Dĩ-An đứng ra xin khai thác đá. Núi được liệt vào bảng kê các thắng cảnh thiên nhiên của Tỉnh, cần được bảo vệ. Dầu vậy, vì công ích, nên đến năm 1957, Công Ty Mỹ Johnson Drake and Piper được chấp thuận cho lấy đá để kiến-trúc xa lộ Saigon – Biên-Hòa, và sau giao lại hãng thầu Eiffel làm, dùng vào công tác đặt hệ thống dẫn nước Đồng-Nai về Đô thành Saigon. Hiện giờ, một phần lớn vách núi ở phía đông bị khuyết nhiều, ở xa trông thấy một vết xám sậm, giữa màu xanh già của cây lá. * Ngọn danh sơn cao cả nầy được mang ba tên lịch sử : Chiêu-Thái Sơn (Quốc sử), Mont Blanchy (Pháp-thuộc), Cố Phi San (Trung-Hoa) và ngày nay chỉ có danh-từ « Châu-Thới » là được thông dụng nhất. Đã trải bao thế-kỷ rồi, núi Châu-Thới vẫn đứng chơ vơ dưới gầm trời Biên-Hùng, dãi dầu với nắng mưa, sương gió. Đã bao năm tháng rồi, non Châu-Thới vẫn hy sinh thân đá để giúp ích cho đời. Và rồi đây, đến thiên niên vạn đại về sau nữa, non Châu-Thới cũng vẫn còn sạm mặt với thời gian, để chứng kiến cảnh trí Biên-Hùng bất diệt với con sông Đồng-Nai nước chảy xuôi dòng. II. NÚI BỬU-LONG SẠM MẶT VỚI THỜI GIAN « Đồng-Nai dòng nước uốn quanh, Ôm vòng Thạnh-Hội, ngăn Bình-Hòa thôn. Bửu-Long trấn thủ một đồn, Có con lộ bóng bên cồn cây xanh. Bửu-Phong cổ-tự Chùa linh, Đá chồng trên đá, tượng hình Hổ, Long Ở đây non nước một vùng, Danh-lam thắng cảnh Biên-Hùng là đây ! » * Trái Núi nổi danh nhờ hai tảng đá LONG-ĐẦU-THẠCH, HỔ-ĐẦU-THẠCH và ngôi cổ-tự, hiệp thành một thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Biên-Hòa, mà cũng là của miền Nam nước Việt, đã hấp dẫn được số đông du-khách từ xa đến ngoạn viếng. 1) ĐƯỜNG VÀO NÚI BỬU Từ thành-phố, bạn cứ thẳng đường ngược theo nguồn sông. Qua xóm Văn-Phòng xã Tân-Thành, bạn sẽ gặp nhiều trại đá của người Huê-Kiều, vang dậy tiếng đục lụp-cụp khô-khan, là xưởng làm đá cấp-táng, khuôn-mã, mộ-bia, cối-xay, cối-giã, v.v… Vào xem, bạn sẽ nhận-định tài chạm trổ trên đá là tinh-xảo. Thợ tạc nên nhiều hình-tượng tuyệt khéo. Đặc-biệt hơn hết, nghệ-công chạm được những đầu lân ngậm trái-châu rời, có thể dùng tay khều lăn tròn trái châu đá, nhưng không bao giờ lấy ra được khỏi miệng lân. Qua khỏi chợ, Bạn rẽ sang bên phải, là Nghĩa-trang Bang nước Hẹ (Akas), Từ đây, theo hai bên lề, là nhà máy xay, vựa-đá, trong đó, bên những vạt-lá thô-sơ, các cô thôn-nữ mỹ-miều lom-khom chẻ đá-miểng ra từng cục nhỏ. Xe tấp-nập đến chở đi. Giọng nói cười của công-nhơn lẫn tiếng đập đá chan-chát, tiếng máy xịch xào, tiếng xe rầm rồ, tạo nên bầu không-khí náo-nhiệt cho một góc làng. Kìa, trên đỉnh núi LONG-ẨN bên mặt, một tòa Phật-tự ngồi vắt-vẻo trên tảng đá, bên chòm cây. Đó, cảnh LONG SƠN THẠCH-ĐỘNG (Chùa Hang) cũng là một danh-lam, làm nơi hành-hương cho phụ-nữ trong tỉnh. Như tên đặt, điện Chùa dựng bởi những phiến-đá to lớn chồng-chất thành một hang sâu, trong đó đặt bàn thờ tượng Phật, và bên ngoài, xây nối thêm chánh-điện. Chung quanh : nhà khách, liêu phòng. Qua khỏi chợ và văn-phòng xã Bửu-Long, bạn thẳng tới lối 200 thước nữa, gặp cảnh núi Bình-Điện, với ngôi Chùa, bửu-tháp, thấp-thoáng sau các cây trơ cành trên đỉnh. Biển-Chùa và cổng tam quan bên lộ, được dựng năm 1937, toàn bằng đá. 2) NÚI BỬU-LONG Buổi sơ-khai, núi Bửu-Phong và Qui-Dự bên kia sông, họp thành một cảnh uy-nghiêm có linh-thú hiển hình : - Núi đá Rồng chầu, cổ-cảnh Rùa linh vẫn hiện. - Non cao Cọp tựa, ngàn đời Phụng múa còn đây. Như đôi Liễn nơi trụ cổng trong chơn núi, đã ghi : « BỬU thạch Long đầu, cổ-cảnh linh-Qui tại, PHONG sơn Hổ cứ, vạn-đại chiếu Phụng tồn ». a) SƠN-DANH Sách « Đại-Nam Nhứt-thống chí » của Quốc-sử quán Huế, năm 1865, nơi mục Sơn-xuyên, có chép : « NÚI LONG-ẨN ở phía Nam huyện Phước-Chánh 15 dặm, đất đá lộn nhau, cây cối xanh tốt, hình Núi uốn cong và cao đẹp, dưới có đá thủy tinh. Núi nầy làm hậu-binh cho Văn-Miếu. « BỬU-PHONG ở phía Nam huyện Phước-Chánh 13 dặm, phía Tây dòm xuống sông lớn, làm hậu-vệ cho Núi Long-Ẩn. « Trên có chùa Bửu-Phong, khói mây man-mác, cây cối um-tùm, là thắng-cảnh thứ-nhứt trong tỉnh hạt. Khi xưa, có sư tăng hiệu Bửu-Phong hòa-thượng lập chùa trên Núi, nên gọi là núi Bửu-Phong ». Đến đời nhà Nguyễn-trung-hưng, thôn sở-tại mang hiệu-danh là Bình-định-điện. Ngọn núi được thôn-dân gọi tắt là núi Bình-Điện. Địa-danh nầy, xưa được câu ca-dao địa-phương, xác nhận : « Ngó lên Bình-Điện, thấy miệng em cười. Tơ duyên muốn kết, sợ người có đôi ». Đến thời Pháp-thuộc, Bình-Điện chỉ còn là một ấp và trọn vùng được nâng lên thành một Làng, mang danh Bửu Long, xuất-xứ từ hình thể Long bàn, ẩn trong chỏm núi Bửu-Phong. Ngọn núi Chùa nầy lại được người phương-xa gọi bằng thôn-danh Bửu-Long, theo tên Làng (không phân-biệt với Núi lấy đá Long-ẩn – người sở-tại gọi nôm-na là núi Lò-gạch – phân-nửa thuộc ấp Tân-Lại, xã Tân-Thành). Từ năm 1950, vì lý-do an-ninh, nhà chức trách quân-sự tại chỗ đã cho phát chồi rậm, chỉ còn lại những cội cây cao lớn, nên cảnh núi đã mất phần nào vẻ u-tịch, nhưng lại được khoảng-khoát, từ dưới có thể trông thấy Tháp, Chùa, Phật-đài và nhiều tảng đá lớn. Đường vào chơn núi, đến tận cùng mở rộng ra một khoảng để đậu xe. Hàng quán giải-khát, chỗ giữ xe, sẵn-sàng tiếp khách. Đây, bạn bắt đầu leo dốc-đứng có 99 bực cẩn đá tráng xi-măng, lên cũng như xuống, rất vừa chơn bước. b) ĐÀI TAM-THẾ PHẬT Đại Hòa-Thượng Tăng-Thống Huệ-Thành dựng từ năm Kỷ-Dậu (1969) trên khu đất cao bên mặt. Một vuông nền rộng lót gạch bông hai màu trắng đỏ, do 9 cấp-bực nưng bước để lên Đài, thường rợp mát bên tàng cây lớn, cội mọc từ trong kẹt, và rễ tủa ôm vòng tảng đá to. Ba tượng Phật lớn ngồi ngự uy-nghiêm trên bực cao : - Đức THÍCH-CA trên tòa sen ở giữa, hướng về phương Bắc, với gương nét trầm-mặc từ-bi. - Bên Đông, Đức DI-LẶC, vui tươi tay mặt cầm xâu chuỗi bồ-đề, như sẵn-sàng khoan-thứ lỗi-lầm của nhơn-loại. - Phía Tây, Đức A-DI-ĐÀ, trầm-ngâm lo nghĩ việc cứu khổ sanh-linh. Nơi cảnh Phật-đài là đỉnh cao thoáng-mát nhứt, vì ở nhằm phía Nam, có gió từ hướng biển đưa lên. Bạn lễ Phật rồi đứng nghỉ chân, trông ra ngắm cảnh : Nầy, bên kia Núi, hướng Tây-nam, cơ-sở cũ của Hầm đá Nha Kiều-lộ, ửng màu xám, loang-lở ăn sâu vô vách núi còn đọng nước xanh như trong một vũng hồ. Về phía Nam, đường-tỉnh số 11 chạy từ thành-phố lên Tân-Thành rồi uốn vòng theo con sông, lấp-lánh dưới ánh mặt trời. Ở xa nữa, ngọn núi Châu-Thới dáng hình xanh lơ trên nền trời trắng đục. Phía Đông-Nam, phố-chợ Biên-Hòa lẫn sau vườn điệp màu xanh già. c) HÀM CỌP Sau Phật-Đài, chễm-chệ HỔ-ĐẦU-THẠCH, do hai khối đá lớn chồng lên nhau, ở xa trông giống như đầu con Cọp đang há miệng : « Trước mắt, đây cõi Tây-Phương, có sen vàng nổi trên cảnh báo, khiến lòng hướng về Nam-Hải. Nầy, Bửu-Phong có Rồng ẩn, Cọp canh cũng đáng gọi non Bồng ! » Theo như đôi liễn bằng miểng kiểu đã vịnh cảnh nơi mặt tiền chùa : - « Nhãn tiền tức thị Tây-Phương, Kỳ thọ Kim-liên thăng BỬU cảnh ». - « Tâm hướng hà tu Nam-Hải Long triều, Hổ cứ hộ PHONG sơn ». III. BỬU-PHONG CỔ-TỰ Nơi mục Tự-Quán, Sách « Đại-Nam nhứt thống chí » ghi : « CHÙA BỬU-PHONG ở trên núi Bửu-Phong về thôn Bình-Định-Điện, huyện Phước-Chánh. Nhà Chùa bông hoa cảnh-trí thanh-nhã. Sau Chùa, có cây mai lâu năm, lá dầy, cội già, nhánh tỏa lưa-thưa. Đến tháng chạp nở hoa, bẻ nhánh cắm vào bình nước để chơi được trong trong tuần nhựt, nhưng không đem trồng nơi khác được ». Nguyên-ủy, là một am-tranh do Hòa-Thượng Bửu-Phong dựng từ năm 1616. Sau năm 1679, một số binh dân Trung-Quốc (Bang Akas) thuộc đoàn Trần-thượng-Xuyên nhà Minh chống Thanh-triều được đưa vào tỵ-nạn, cất lại bằng gạch ngói và thỉnh Đại-sư Hoàng-Long đường-thượng, hiệu Chí-Thành, pháp-danh Pháp-Thông, đến trụ-trì và tôn là Tổ khai-sơn. Sau đời kinh-lược-sứ Nguyễn-hữu-Kính (Cảnh), đến năm Kỷ-sửu (1829), một nhóm phật-tử phú-thương đứng ra khuếch-trương và trang-mỹ-hóa, theo lối kiến-trúc cổ của Trung-Quốc. Thềm, tam-cấp, chơn-nền đều được cẩn bằng phiến đá dài, mặt láng. Trụ phướng, bốn cột tiền-đình, liễn đối, cũng bằng đá chạm rồng, khắc chữ, do Tham-trưởng Nguyễn-văn-Hiệp và Hương-bảo Nguyễn-văn-Tâm hiến cúng. Cột trong dùng toàn là gỗ núi. Đặc-biệt diện-tiền, hướng về phương Đông, được trang-trí một cách rất tinh-vi, đắp gắn bằng miểng kiểu (sứ) nhiều màu. Biển-chùa, hình tượng trên mái-thượng bày-trí theo đường lối Trung-hoa. Sau thời Pháp-thuộc, Chùa được mở rộng thêm nhiều gian. Liêu-phòng ni-phái, tín-nữ bên Bắc, riêng biệt với nhà dưỡng-tăng ở phía Nam, và sửa-sang theo nét tân-kỳ. Chùa Tổ sửa lại năm 1898. Phương-trượng được tu-bổ năm Khải-Định bát niên (1924) để làm giảng-đường. Chánh-điện được xây đúc lại năm 1927. Năm 1946, Pháp đến chiếm Chùa và đòi hỏa-thiêu, nhờ sư Huệ-Quang, biết Pháp-ngữ, khéo biện-bạch, kết xã-giao, nên giữ lại được ngôi bửu-tự để phụng-thờ Đức Phật. Sau thời Phật-Lộc « Nước Thiêng », từ ngày 19 tháng 9 năm Quý-Mão (1963), yết-ma Thiện-Giáo (hiện nay là Hòa thượng trụ-trì Bửu-An-Tự tại Bến-Gỗ) trang-trí lại Giảng đường và xây Phật-Đài Quan-thế-Âm trước Chùa. Từ năm 1964, cổ-tự Bửu-Phong được giao phần trụ-trì cho Đại-lão Hòa-Thượng Huệ-Thành của Giáo-hội Phật-giáo cổ-truyền Lục-hòa-Tăng và Lục-Hòa Phật-Tử. Chùa được tân-mỹ-hóa dưới sự tổ-chức mới của Viện chủ Huệ-Thành. Một ngôi Điện Bà Linh-Sơn Thánh-Mẫu được tạo-dựng thêm vào cuối Xuân Nhâm-Tý (1972) về phía Tây nhà Tổ. Tượng do ông bà Tâm-Thành (Saigon) dâng cúng và được an vị ngày 2-4-72 bằng một đại-lễ khánh-thành. a) NỘI ĐIỆN Nếu bạn đỡ mệt nhờ hưởng không-khí trong-lành, bây giờ xin mời vào Phật-tự. Sảnh-đường rộng thênh-thang, được giữ sạch từ ngoài vào trong. Cuộc trưng bày hương-án đầy vẻ mỹ-thuật. Một vị Phật 18 tay, nghiêm ngồi giữa phương-trượng. Chính vị Phật nầy (mà nhà khảo-cổ cho là một vị Thần của Chơn-Lạp) cũng đã tạo một tục-danh riêng là Chùa Phật 18 tay, trong giới thiện-tín bình-dân. Hai bên vách, treo 8 khuôn tranh Tích-Phật. Cột sơn son và vẽ sen lá, rồng mây. Phật-kỳ giăng bốn phía. Kiểng hoa cành lá xanh tươi, tỏa ánh mát trong khung-cảnh nhà Thiền. Cung-điện tráng-lệ của Đức-Phật ngự-trì, nghiêm sắc giữa chốn non cao, dẫn-độ chiếc thuyền-từ phiêu mờ trên dòng xanh-biếc, theo một đôi liễn trước hành-lang Chùa : « BỬU-điện nguy-nga, lẫm-lẫm kim-xa nghiêm sắc tướng ; PHONG-sơn nham-lãnh, minh-minh thương-hải phiếm từ-thuyến ». Đến Chùa thì phải lễ Phật. Bạn lên Chánh-điện đốt cây hương dâng Phật-Tổ và kính bái Đức Từ-bi đã hy-sinh cả một đời Người để tìm đường giải-thoát chúng sanh khỏi vòng nghiệp-quả luân-hồi. Lễ Phật rồi dùng Lộc Phật, Nhà Chùa sẽ đãi Bạn một chung trà thơm mát đã cúng Phật, nấu bằng nước mưa tinh khiết chứa lóng dùng quanh năm. Nếu cần, với tất lòng thành, Bạn cầu một quẻ xâm, và nhờ sư Huệ-Tâm nghiệm-đoán kiết hung. b) TIỀN-ĐÌNH Vòng sân bông-giấy đỏ, cây đại (sứ) đưa cành hoa trắng tỏa hương, cội bồ-đề lá xanh, điểm thêm màu thiền cho ngôi Bửu-tự. Chùa rất nguy-nga, với một khuôn diện-tiền trang-trí tuyệt-mỹ, do bàn tay nghệ-sĩ tài-hoa. Chữ liễn đối, hồ-văn, tranh rồng mây, hoa lá tứ-thời, điểu-cầm linh-thú, tượng nóc, biển-chùa, đều được cẩn nổi toàn bằng miểng sứ hoa hòe. Bốn cột đá khắc đôi-liễn và chạm cặp rồng chầu thật khéo. Giữa sân, một thạch-trụ bát-giác cao làm cột phướng, trên chót gắn bầu nguyệt đăng. Câu liễn đá giữa diện-tiền : « BỬU-nhạc phối-tề y khê lãnh ; PHONG-sơn quang-mỹ tợ kỳ-viên » đã khắc tự ngày xưa, vẻ cao-đẹp của ngọn núi nở hoa sen như vườn kỳ-viên, nơi Phật thuyết-pháp. Di-tích của thời xưa nay vẫn còn : - Cội bạch-mai từ hàng bao thế-kỷ trước, nay già cỗi, đã chết năm 1970 (gốc bị cưa còn chất sau hậu-liêu). - Số kinh sách của các tăng-sư tiền-bối. - Một dĩa kiểu lớn chưng quả (đã biếu cho viện Bảo tàng). Tất cả kinh-sách dĩa cổ, trong thời bình, đã được phái đoàn học-giả từ Hương-cảng sang, đến khảo-sát, công-nhận là bảo-vật, và liễn-đối là tuyệt-tác do các bộ óc uyên-thâm, nên đã ghi chép đem về nghiên cứu. c) ĐÀI PHẬT-BÀ QUAN-THẾ-ÂM Sau thời Nước-Thiêng, phát xuất từ miệng giếng Bà, dưới chơn Núi trước Chùa, được phật-tử thỉnh dùng có công hiệu trong niềm tin sự độ-trì của Đức Bồ-tát Quan-âm. Sư Thiện-giáo cho đặt tượng và bia ngay trước cột phướng để thờ Phật Bà. Phật ban-bố ơn đức, soi sáng tâm lành rộng mở niềm tươi vui khắp cả thế-gian, như một câu liễn đối đã tạc ý, nơi hành lang trước Chùa : « Phật nhựt chiếu hồng thâm, phổ trinh-tường ư thế giới ; Từ tâm tu quảng đại, nhuận kiết khánh du nhơn gian ». Bây giờ mời bạn lên Hàm-Rồng. Theo đường, cạnh chơn bước bên mặt, phiến đá hỗng lòng chảo, giống hình một cái thau để ngửa, hứng lấy sương mưa của trời. Nguyên một miếng đá thiên-nhiên, không phải do tay người đục khoét. Leo lên vài bực, bạn sẽ gặp một thạch-bàn lớn, có hai lằn nứt rất sắc, thật ngay, họp thành hình tam-giác dài. Đường nứt quá thẳng và sâu làm gần rời tảng-đá. Tục truyền, do lưỡi cưa nhiệm-mầu của một đấng thiêng-liêng nào tự ngàn xưa. d) HÀM RỒNG Sừng-sững một khối đá khổng-lồ, mũi vin lên như một mái hiên trở ngược, nằm chênh-chồng trên một tảng đá bằng mặt, nhỏ hơn. Hai vừng đá to nầy ghép thành LONG-ĐẦU-THẠCH, xưa được Lạp-Man dân tôn thờ làm thần Sơn-Thạch. Đứng vào trong Miệng-Rồng, bạn có cảm-giác lo âu, sợ e hàm trên sụp xuống nghiền nát thân mình, vì tảng đá quá to, cheo-leo, mà chơn kê rất mong-manh ở dưới gốc. Chung quanh chơn tảng trên, gần như hỗng ở lưng chừng, có thể lấy một sợi nhợ luồn vào kéo vòng qua, mà không phải vương nơi đâu cả. Xưa có một cội cây da mọc vượt lên, rễ ôm lấy tảng đá hàm trên, như cố níu không cho nó sụp chận khách ngưỡng mộ đến quan-chiêm. Ở rải-rác, còn có những tảng : cao to hình-tượng như voi, thấp thì giống như Rùa, như Cá. Đúng như một câu đối góc phía Bắc, sau giảng đường : « Tượng cứ long bàn, đáo thử đốn sanh an-ổn tưởng ; Quí minh kình hẩu, văn lai hiệp chứng hỉ hoan duyên » đã tả một bối-cảnh linh-thiêng, có Voi tựa Rồng nằm gợi ý tịnh an và Rùa bên châu Thạnh-Hội, Cá dưới Phước-Long Giang, vẳng nghe vọng căn-duyên cõi Phúc. Trên đá, Bạn sẽ thấy bôi lem bằng những đề thi vịnh phú hoặc nhiều địa-chỉ của du-khách. Ở trên vài thân cây, cũng có một đôi dấu khắc tên, ý chừng ngoạn-khách muốn ghi bước lãng du-của mình. Đứng trên một tảng đá cao, về hướng Đông, bạn sẽ thấy cơ-sở Không-quân rất to rộng, với đường phi-đạo song-đôi bóng-loáng sau nhiều dãy nhà ngang dọc ở lẫn dưới các lầu nước và tháp viễn-thông cao-vọi. Từ hướng đó, đôi khi bỗng phát gầm lên vang rền tiếng phản-lực cơ cất cánh. e) TỊNH-XÁ BỬU-PHÁP Nguyên-lai : Một lều-cốc nhỏ bằng lá chằm của Thầy Tổ Minh-Đăng-Quang trong tăng-giới khất-sĩ năm 1952 xin nhà chùa Bửu-Phong cho cất để tĩnh-tu. Năm 1956, Sư Giác-Hương nhờ các tín-nữ ủng-hộ cất thêm một tịnh-xá thờ Phật-Tổ lấy pháp-hiệu là NGỌC THIỀN. Sư-tổ Đăng-Quang vãng-tích năm 1954, đệ tử là Pháp sư Giác-Lương mở rộng thành một Phật-tự khang-trang, có đủ am-cốc, lều-tịnh, nhà-tăng, cư-phòng liên thuộc. Hiệu danh tịnh-xá được đổi lại là BỬU-PHÁP. Phần bày-trí nơi Phật-điện rất uy nghiêm, dưới giàn hoa lá tám-hướng, bầu không-khí rất u-nhàn, trong một hoa viên thanh-khiết ôm-mát bởi cành-lá xanh-tươi. Bỏ giày vào lễ Phật, bạn sẽ muốn lưu lại để tận hưởng trầm-khí êm ả của Thiền-môn. Chung-quanh, còn có những khóm đá trơ-trọi dựa cội cây thưa lá, điểm cho sơn-lãnh những nét nên thơ. Đứng trên bực vườn hoa, nhìn về Phương Bắc : Kìa, sau gò thạch thổ, một dãy rừng cây san-sát ở chơn-trời, dưới đó, còn ẩn một danh-thắng hùng vĩ của Nam-Việt. Thác Trị An. Về hướng Tây-Bắc, con sông Đồng-Nai ôm quanh Gò Rùa cạnh một cánh đồng bằng, dưới trời Thạnh-Hội. Gần hơn, ở ven bờ sông, bên chân Núi. Đồn Bửu-Long với một tháp-canh nhô lên và lá quốc-kỳ Việt-Nam phất phơ trong gió như biểu-dương uy-quyền đã bảo-vệ an-ninh cho đồng bào và giữ sự yên-tĩnh cho sơn-cảnh. Núi Bình-Điện là thắng-cảnh. Chùa cổ Bửu-Phong là danh-lam đã hấp-dẫn du-khách trong Nước. Các chuyên viên khảo-cổ, các nhà đại-học văn-khoa Saigon, Vạn-Hạnh, các giới lãnh-đạo Phật-giáo, Công-giáo, Cao-đài, v.v… đều có đến cung-chiêm và khảo sát cổ-tích. Trước đây, Giáo-sư học-giả Hồ-hữu-Tường, trong thời gian quy-y, đã ở tĩnh-tu nghiên cứu Phật-giáo. Các đoàn du lịch ngoại-quốc cũng quang-lâm ngoạn viếng với thành-tâm ngưỡng-mộ, đặc-biệt là có Pháp-sư Diễn-Bồi của Phật-giáo Đài-Loan đã được Chánh-quyền Tỉnh và Ban trụ-trì Chùa tiếp-đón rất nồng-hậu. Viếng đủ các nơi, mời Bạn trở lại Phật-Đài Tam-Thế, tìm dưới bóng một tàn cây, ngồi ngắm du-khách nhởn-nhơ khắp núi, Nam-thanh Nữ-tú dập-dìu. Hầu hết là vì mộ đạo viếng Chùa, có người vì cảnh mà đoái-hoài, có kẻ vì lòng ham muốn xê dịch, cũng có đôi người vì sở thích riêng. Nếu có tánh tò mò, bên lề cuộc du ngoạn, Bạn sẽ chứng kiến nhiều cảnh vui vui. Kìa, nhiếp-ảnh gia, nhà điện-ảnh đang tìm bấm quay thu cảnh sắc và hình người vào trong máy. Bây giờ, Bạn quay về với cảnh vật thiên-nhiên, lắng nghe tiếng chim ríu-rít trên cành, ngắm vừng mây bay về nơi vô-định, hít lấy làn gió thoảng qua, để lòng lắng xuống, thoát khỏi lớp hồng trần, tưởng-tượng mình đang ở trên non tiên hưởng thanh-thú của người sơn-dã. Bạn sẽ ước mong được ở mãi trên đỉnh núi đượm mùi Phật-giáo nầy, trong buổi tàn-niên. Ngồi trên cao, nhìn xuống bốn phía, ngắm nhà cửa, cảnh vật trên đồng bằng, dưới bầu trời bát-ngát, lòng bạn sẽ bồi-hồi xúc cảm. Cảm vì hồn thiêng đất nước đã un-đúc nên cảnh-trí trang-nghiêm hùng-vĩ nầy, để làm nơi du ngoạn cho khách bốn phương. Trở về đô-thị, Bạn sẽ ghi vào ký-ức cuộc du-sơn chút tình lưu-luyến non nước Biên-Hùng, nơi có đất lành, quả ngon, người hiền, cảnh đẹp. III. BÓNG THẦN-NỮ MÀI GƯƠM TRÊN NÚI CHỨA-CHAN « Thế sự du-du nại lão hà, Vô cùng thiên-địa nhập hàm ca. Thời lai đồ điếu thành công dị, Sự khứ anh-hùng ẩm hận đa. Trí chúa hữu hoài phù địa trục, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà. Quốc thù vị phục đầu tiên bạch, Kỹ độ long-tuyền đái nguyệt ma ». (ĐẶNG DUNG) « Việc đời bối rối tuổi già vay, Trời đất vô cùng một cuộc say. Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay. Vai khiêng trái đất mong phò chúa, Giáp gột sông trời khó vạch mây. Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày ». (TRẦN-TRỌNG KIM dịch) Tôi đề cập đến núi Chứa-Chan, mặc dầu nằm trên lãnh thổ Long-Khánh, nhưng từ xưa non cao nầy vẫn ở trong địa cảnh Biên-Hòa. Mỗi lần nhắc đến đỉnh Chứa-Chan, là người dân Biên-Hùng còn cảm thông với hồn thiêng thảo dã của ngọn núi oai linh nầy vẫn bàng bạc phảng phất trên sơn cước Đồng-Nai. 1) TRUYỆN TÍCH Thành Đồ-Bàn sống tưng bừng trong ngày đại hội, nhân dịp Chế-bà-Tranh khao thưởng ba quân vì đã bắt được Việt Hùng lão tướng của Chúa Nguyễn-phước-Châu. Tất cả cung điện đền đài đều ướp ủ một mầu huy-hoàng tráng lệ của xứ Chiêm-thành huyền bí. Một dạ yến bày ra trong cảnh đèn hoa lụa gấm, tạo nên một không khí mộng ảo lung linh. Bọn cung tần mỹ nữ Chàm, xiêm y rực rỡ, điệu bộ uyển-chuyển, đang hiến cho Bà-Tranh Chiêm-Vương và Mai-Khanh Quận-Chúa một điệu ca vũ cổ truyền, giữa tiếng ngũ âm và kèn đàn trầm bổng. Thế mà Mai-Khanh Công-Nương nào có thiết gì đến cuộc vui trước mắt. Trông nàng có vẻ nghĩ ngợi, hình như hồn mộng đã gởi nơi đâu, Nàng xin Phụ Vương cho kiếu từ lui gót. Nàng trở về loan phòng, thẫn thờ nhìn ra huê viên, lúc bấy giờ vắng lặng, để hồi tưởng lại những phút tình cờ gặp Việt-Hùng lão tướng, nơi cửa ngục Thao-lao. Bao nhiêu tang chứng vật của Việt lão-quan đưa ra và vết son trên vai hữu nàng, đều trùng hợp nhau, chứng tỏ nàng là con ruột lão tướng rồi không còn ngờ gì nữa ! Nàng còn nhớ mang máng : lúc hãy còn nhỏ, có lần nàng được nghe một lão Chiêm quan trong thành thổ lộ tông tích nàng, vốn không phải lịnh ái của Chế-bà-Tranh. Chính Vua Chiêm đã làm cho gia quyến nàng ly tán, để rồi bắt nàng về làm dưỡng nữ. Từ ấy, nàng để tâm dò xét, tìm trở lại « nguồn cội » đức phụ thân đã sinh ra nàng, nhất là cái tổ gia đình êm ấm ngày xưa. Có lẽ sự hiếu kính của nàng đã cảm được đức Thượng-Đế nên nay thần tình-cờ lại run rủi cho nàng được gặp cha, mà éo le thay, đang ở vào nghịch cảnh. Nàng phân vân… nhưng rồi cũng có một quyết định. Sáng hôm sau, Mai-Khanh Quận-Chúa đánh bạo vào dâng rượu sớm và tâu qua cùng Chiêm-dưỡng-phụ mọi sự tâm tình. Chế-Bà-Tranh, mặc dầu là một bạo chúa nhưng cũng có một tấm lòng. Chiêm-Vương cũng đã từng sống qua những giờ phút trống lạnh của tâm hồn người cha cô đơn, thiếu nguồn an ủi của một đứa con thân yêu. Thế nên, từ khi Chế đem Mai-Khanh về làm dưỡng nữ, bao nhiêu tình thương mến của Vương đều trút lên người ái nữ ngoại tộc. Mai-Khanh Quận-Chúa được mọi sự nuông chiều của vị sơn chúa, nàng đã sống trên nhung gấm của cuộc đời, dù là dị-tộc. Mai-Khanh vốn là một thiếu nữ Việt-Nam, có một nhan sắc không đến nỗi làm đổ nước nghiêng thành, nhưng cũng bảo đảm được những nét xuân kiều thùy mị kín đáo của người con gái phương Đông, thêm vào dung nhan khả ái ấy, lại có một hạnh-kiểm đoan-trang, thì giá-trị nhân-phẩm của nàng ắt được mọi người trọng mến. Vì thế, Chiêm-Vương xem Mai-Khanh Công-Nương là một nguồn sống hạnh phúc vương giả. Chưa bao giờ Mai-Khanh muốn việc gì mà dưỡng phụ từ chối. Hôm nay, nghe Quận-Chúa Mai-Khanh bày tỏ cảnh tình Chế-bà-Tranh tưởng là điều gì quan trọng, nhưng đây chỉ là việc phóng thích một tên chiến phạm là cha ruột của con nuôi mình. Chế phải làm cho nàng vừa lòng. Nàng vui tức là Chế hoan hỉ. Thế là Chiêm-Vương truyền lệnh cho quân sĩ vào ngục mời Việt-Hùng lão tướng đến trước sân đền, để kết tình thân hữu. Việt-Hùng ra, được công khai nhìn nhận ái nữ Mai Khanh. Cha con gặp nhau tại đây chi xiết vui mừng, bày tỏ nỗi niềm xa cách, kể lể hàn huyên. Bà-Tranh Chiêm-Vương uỷ giao binh quyền cho lão tướng nhưng Việt-Hùng từ chối, chỉ xin được an hưởng tuổi già ở nơi xa tục. Chế Chiêm-Vương châu cấp lương thực đưa lão quan lên núi Chứa-Chan, phía đông bắc huyện Phước Chánh và cất cho một am tự để ông làm chỗ tu thân dưỡng nhàn. Còn Mai-Khanh Quận-Chúa thì vẫn ở lại Thành Đồ-Bàn, để thỉnh thoảng lên thăm cha, theo ý Việt-Hùng sở vọng. Thế là từ đó, trên đỉnh non cao phía đông bắc dinh Trấn Biên có một vị sư-tăng, ẩn dưới pháp danh Ngộ-Chân, trong một thạch-động có một thạch-tỉnh, mượn câu kinh tiếng kệ để gởi chí hiên ngang vào tháng ngày qua… Mai-Khanh Công-Nương được đưa lên non cao thăm cha. Việt-Hùng lén tỏ bày tâm sự cùng con gái : « Rõ là trời chẳng phụ lòng người, con ! Trời đã độ cho cha con ta gặp nhau, và con đã cứu cha sống yên lành đến ngày nay ! Con gái yêu quý của cha là một đứa con chí hiếu ! Đó là ở trong phạm vi gia đình, nhưng còn nợ nước ? Con là con của cha, nhưng là thần dân của Nam chúa. Nước con đang bị Chiêm quốc gây hấn. Đồng bào con bị khuấy phá. Con mới nghĩ sao đây ? Có lẽ nào con cứ mãi ngồi tọa hưởng an vui trong tay Chiêm-Vương sơn-quốc ? « Còn cha, cha đã vạch sẵn một con đường. Mô Phật, cha xin cáo lỗi cùng đấng Từ bi, vì cha đã lợi dụng cửa thiền để hoạt động bí mật, quyết chống với Chế Bà-Tranh. Cha đã bắt liên lạc với Nam-Triều, Phủ Chúa. « Đây, cha trao cho Nguyễn-mai-Khanh hay Chế-mai Khanh Quận-Chúa một thanh gươm mà cha đã rèn sẵn từ lâu, một trong ba người phải là nạn nhân của nó : cha hay con : hoặc Chiêm-Vương. Con nhận lấy gươm mà liệu lý, sao cho xứng danh là liệt nữ của giống Lạc hồng, Rồng Tiên ! » Việt-Hùng nói xong, liền lấy thanh gươm đứng thẳng người vỗ nhẹ xuống trên hai bờ vai con gái, đoạn đưa cho nàng rồi ẩn vào động thất. Mai-Khanh công lương lãnh sứ mạng với tất cả cõi lòng bối rối. Nàng bị đưa vào một hoàn cảnh hết sức nan giải. Nàng truyền lệnh Chiêm quân kiệu nàng xuống núi trở lại thành Đồ-Bàn. Nàng đã chọn được một người, nhưng chưa kịp xuống tay, thì mưu đã bại lộ. Nàng bị bắt. Chiêm-Vương định bắt luôn cha nàng !… Sau khi Mai-Khanh lãnh gươm xuống núi, Việt-Hùng tăng sĩ liền đoán những việc phải đến, dầu thành dầu bại ông đã dự định mọi cơ mưu… Một sáng sớm, ông nhìn xuống núi, thấy bốn bóng người trèo lên, người đi trước mặt nhung y màu hoàng-yến, kế một người đen và sau, hai người bận đồ rằn. Khi lên gần tới, ông mới nhận ra đó là Mai-Khanh Quận-Chúa có cầm gươm, Tả-Trà Chiêm-Tướng và hai tên tùy quân. Sư Ngộ-Chân Việt-Hùng vào mặc bộ bạch phục cũ trong lúc bị Chế-bà-Tranh bắt, rồi lần xuống đón đoàn Chiêm quân và con gái. Ông dẫn đầu đoàn bò qua một chiếc cầu dài làm bằng thân cây tròn, bắt ngang qua một miệng hố thẳm. Khi cả năm người đến giữa cầu, không hiểu vì vô tình hay cố ý, Việt-Hùng bỗng trượt té, liền chụp đeo cầu vặn một cái, cây cầu lăn, tất cả bốn người và ông đều rơi xuống, mất hút dưới lòng hố, sâu cho đến nỗi ở trên không nghe một tiếng dội nhỏ… 2) CẢNH NÚI Mãi đến ngày nay, trải qua một thời gian làm sạm mặt anh hùng, hòn Chứa-Chan, cao 800 thước, gồm ba ngọn núi Lai-Sơn, Nục-Sơn, Liên-Sơn, còn trơ trơ như thiên thần khổng-lồ đứng canh giữ đất địa Biên-Hùng, trên con đường thiết lộ thông suốt giang san. Trong chân núi, khe Dạ-Lao ngày đêm vẫn tuôn chảy luồn qua bao nhiêu tảng đá, lùm mây sa đằng, để trút nước xuống miền Long-Khánh, tiếp nối ra sông Xích-Lam nước lợ (Long-Thành). Nham động, sau khi Ngộ-Chân thiền sư hóa xác vân du, nay sửa thành Long-Cốc, am tự. Và khu thạch-tỉnh cũng đã cạn rồi. Các trại sách bộ lạc Thượng « Châu-Mạ » vẫn còn chen chúc đìu hiu trên sườn non, dưới thung lũng, trong cảnh vắng lặng của rừng sâu, dưới ánh mặt trời và trăng sao muôn thuở. Ba mươi năm về trước, đã có một lần, kẻ sĩ này được hân hạnh theo chân người dẫn lộ lên đỉnh để thám hiểm, vì tính hiếu kỳ. Cùng đoàn đi với tôi, có ô. W. Bazé nhà trồng tỉa ở đất Hàng gòn, nằm dựa trên chiếc ghế mây dài do hai thổ-dân khiêng, và ông Lự (nguyên giám-công Công-chánh) hướng lộ Biên-Hòa. Từ gare Giarây đi vào hơn hai ngàn thước, mới đến chân núi ; rồi từ đó, phải do con đường vặn khu ốc mà bò lần lên. Nếu không cẩn thận, vì rêu đá, ta có thể sẩy tay hoặc sa chân để lăn chùi xuống hố. Không hiểu ngày xưa, bên Trung-Quốc, khi vua Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục, đường đi khó khăn là bực nào, để thi hào Lý Bạch ghi lại bài « Thục đạo nan » bất hủ. Theo tôi thấy : đường lên núi Chứa-Chan thật là cam go, khó bằng « đường lên trời xanh », đúng như câu « Thục đạo chi nan, nan vu thượng thanh thiên ». Theo cảnh tả trong bài : « Thanh nê hà bàn bàn, bách bộ cửu triết oanh nham loan » là « rặng núi Thanh nê càng hiểm nghèo, vừa đi vừa ngoặt đường cong queo ». Đoàn chúng tôi phải mất bốn giờ đồng hồ mới bò lên đến đỉnh. Nơi đây, có một cảnh chùa do Hội-đồng Mai tải lên cất. Một vị sư già lãnh phần trụ trì sơn tự. Vị sư cho chúng tôi biết, ở lưng chừng núi, có một chùa hang hổ. Thỉnh thoảng có hai con cọp rằn về trú ẩn trong hang : ông thấy được vài lần, xem hình như đã già lắm. Đôi hổ bẩm tính rất hiền, nên ông đặt là « Hổ thần ». Mỗi chiều, sau hồi chuông chiêu tịch, ông đều có xuống hang đốt hương nơi thạch bàn trước cửa động chùa linh. Người dẫn lộ lại thuật cho tôi nghe ba truyện truyền kỳ về núi Chứa-Chan, bằng lời quả quyết, vì chính mắt ông trông thấy và mọi người chung quanh đều biết. Vào khoảng tháng 11 đến tháng 3 mỗi năm, từ xóm nhà gare Bảo-Chánh nhìn lên núi, thổ dân trong sốc thấy một bóng người khổng lồ, trông rõ là hình một lão quan đầu râu tóc bạc, toàn thân đều ửng trắng, giữa không trung trước nền núi xanh đậm. Người địa phương bảo đó là « ông Bạc ». Vào khoảng tháng 6, tháng 7, từ phía sở Nông-Lâm ngó lên, thôn dân có thể thấy « ông Chì » tức là một bóng người đen sì to lớn, giống hình một võ tướng mặc thâm y, đứng chơi vơi trên sườn núi xám lợt. Còn trên chót núi, nhằm ngày lành tháng tốt, giữa giờ thiêng trong đêm khuya cảnh vắng, thổ dân thường thấy ửng ra một áng mây hồng rọi xuống một mỏm đá vàng, ở xa trông thấy như một vị thần nữ thủ bộ mài gươm. Bóng hình nầy chỉ lộ ra trong chốc lát, một trận cuồng phong nổi lên nghe ồn ào, nhưng cỏ cây vẫn im phăng phắc, rồi cảnh vật bỗng biến trở lại màu đen tối. Người trong vùng đặt hình bóng đó là « ông Vàng » Đôi « Hổ thần », « ông Chì », « ông Bạc », « ông Vàng », có phải chăng đó là hiện-thân của hai tên Chiêm quân của Tả-Trà Chiêm-Tướng, Việt-Hùng lão quan và Mai Khanh quận-chúa trong kiếp hóa-sanh theo Phật giáo ? Hay bị chết oan mà Việt-Hùng đã hóa ra « ông Bạc », hiện hình trông về Chiêm quốc với một mối thâm thù ? Có lẽ gươm thiêng còn lụt, mà đến nay, Mai-Khanh Công-Nương vẫn còn ôm lòng uất hận, đêm khuya hiện về, mài lại dưới ánh mây hồng trên đỉnh núi Chứa-Chan ? Dầu thù nước, Việt-Hùng và Mai-Khanh chưa trả xong, nhưng thành Đồ-Bàn, Kinh đô Phật thệ và ngọn Tháp chàm, nay cũng chỉ còn là những tên trong lịch sử của nước Chiêm-thành suy tiêu. Và đất Biên-Hùng, sau nầy còn lưu lại một truyện anh hùng liệt nữ Việt-Nam. B) RỪNG CAO BÓNG CẢ I. XUYÊN VÙNG NÚI BÀ-RÁ Từ Bù-Đăng-Srey trở lại, và do đường mòn Morère, ông Kỹ sư Trần-văn-Nam và tôi đi tắt sang ngả tây bắc, lên núi Bà-Rá. Con đường xuyên rừng nầy được trải đá đỏ, tuy nhỏ, nhưng xe chạy rất êm, vì còn mùa nắng. Đến mùa mưa, nó sẽ trơn trợt, có thể gây tai nạn, nếu tài xế không lanh tay lái. Đến Phước-Bình (sông Bé), cách chân núi Bà-Rá lối 3 ngàn thước, hồi 11 giờ trưa. Nơi đây, Trung-úy chủ quận Pháp tiếp rước chúng tôi một cách niềm nở. Lần thứ nhứt để chân lên Bà-Rá, tôi liên tưởng đến một thời qua, mà hai tiếng Bà-Rá đã gieo vào trí óc nhiều người những ý niệm rùng rợn. (Nơi an trí của những tội phạm được coi là nguy hiểm). Hôm nay, theo sự nhận xét riêng của tôi, Bà-Rá vẫn là một vùng cao nguyên đẹp, nằm giữa một thung lũng nhỏ. Đây là sân bay, đất trống chạy vút tận chân trời, một phía làm ranh giới cho một sốc Thượng có nhiều túp nhà sàn nằm rải rác trên sườn non, thoai thoải xuống chân núi lớn. Xa nữa, là sở Cà phê, vườn Trái cây, sản phẩm miền rừng, do nhóm người bốn phương, lìa quê hương lên khai sơn mở rẫy. Núi Bà-Rá, cao sừng sững chắn cả một góc trời, tôi trông rõ từng tảng đá và đoán được sự hoang vu trên ấy. Đó là thế giới của muông chim, hạ thú và bí mật sơn lâm. Tiện đường, tôi đi thẳng vô sâu, tìm viếng thác sông Bé, ở cách đồn hơn 3 ngàn thước. Thác sông Bé là một cảnh hữu tình mà không kém bề hùng vĩ : - « Nước đổ, sóng tuôn, mây trời lộn nước ». - « Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ». Trở về, sau khi dùng bữa cơm trưa nơi dinh quận trưởng ở trên một tầng gác sang trọng, chúng tôi lại kiếu từ trở ra, thằng đường lên Bù đốp. Chúng tôi đến viếng cầu Dakkir, ngang qua làng một, làng hai rồi đến sông Bé (con sông làm ranh giới thiên nhiên cho hai tỉnh Phước-Long và Bình Long, sau nầy). Từ đây, chúng tôi trở lại Bà-Rá. Cột mộ bia của cố đồn trưởng Morère dựng lên bên ngã ba lộ, nhắc tôi quay trí tưởng về một thời kỳ đen tối, một vị chúa tể rừng xanh bị sát hại nơi đây. Xe lần xuống cầu Phú-Riềng. Chúng tôi phải dừng chơn lại, để xem xét cây cầu sắt nầy, vì nó đã lún gần như đong đưa mỗi khi có một chiếc xe chở nặng bò qua. Chúng tôi xuống sở cao su Thuận-Lợi, rồi tới Đồng-Xoài. Trọn khúc lộ liên tỉnh một vừa qua, đường chưa có dịp sửa chữa chu đáo, nhưng xe cũng có thể chạy được dễ dàng. Từ đây, chúng tôi phải do con đường 14 để trở lên về trại Công-chánh Bù-Đăng-Srey, cách xa 55 cây số. Trên suốt ba con đường dài trên ba trăm cây số trong vùng cao nguyên, tôi đã trải qua từ Tây sang Đông và từ Nam lên Bắc. Tôi có dịp nhận xét tình hình sinh hoạt chung của một quận ly sơn cước, mà trước kia nó là lãnh thổ Biên Hòa (1952). II. SỐNG TRONG BUÔN THƯỢNG 1 Trong lúc chờ đoàn xe hộ tống trở về tỉnh, trưa hôm nay được rỗi, tôi đi dạo làng với mục đích của nhà phóng sự. Gia-đình tôi nghĩ đến trước nhứt, là gia đình anh Bốn, người Bắc-Việt có vợ Thượng (trước kia là phu trong sở, hiện nay đã nghỉ), chuyên nghề buôn với Thượng. Nếu không có anh Đào-Minh giới thiệu trước, thì có lẽ tôi phải lầm khi mới vào nhà, vì chị Thượng vợ Bốn đã Việt Nam hóa hoàn toàn. Cách trang phục và lễ phép xã giao của chị, đến gia-đình con cái đối với tôi, khách lạ, làm tôi có cảm tưởng chị là một thiếu phụ Việt, con nhà lễ giáo, nhứt là khi tôi mới vào nhà, đang cho con bú, chị đã bỏ áo xuống đậy ngực. Cử chỉ ấy là cử chỉ của một người biết thẹn, khác hẳn với đức tính tự nhiên của phụ nữ Thượng, vẫn để bày ra cả một tấm thân thiên nhiên, đen sậm vì nắng núi mưa rừng. Trong nhà chị, chứa toàn là hũ, ché, bông vải, hột bo bo, bắp, và muối hột. Đó là cả một cái vựa để làm trong chỗ tập-họp Thượng trong vùng, đến đổi chác. Từ tỉnh đem lên, bông vải, muối và hũ ché, đổi lấy bắp, bo bo, hoặc heo, gà, chở về. Trong bọn khách hàng của chị Bốn, tôi làm quen được với Bron, một anh Thượng thạo tiếng Việt, xem ra vẻ lanh lợi, bặt thiệp, có chút ít « văn minh » của tỉnh thành. Anh mời tôi về sốc. Tôi nhận lời. Đến trình với viên trưởng đồn Bù-Đăng-Srey xong, tôi để chơn trên đường mạo hiểm, sau khi mang theo một ít quà, do anh bạn Đào-Minh sắp đặt trước cho tôi. Sốc anh ở gọi là sốc Mưa, cách xa trại sở Công-chánh hơn 5 ngàn thước. Do quốc lộ 14, chúng tôi đi bộ tiến về hướng Ban mê thuột được hai cây số, rồi rẽ ngoặt vào một con đường mòn nhỏ. Anh Bron mang gùi, vác chà gạt đi trước, tôi dò lần theo chân anh. Con đường đi đối với tôi, thật là cam go, khổ sở, có lúc mất dấu, phải vạch lá, gạt cành cây, để tìm lối. Có khi phải leo qua tảng đá, lội xuống hố sâu hoặc nhảy qua một mương suối. Chúng tôi đi hơn một giờ rồi mà vẫn còn ở dưới lớp ngọn cây rừng dày bịt. Theo lời tôi hỏi, Thượng-Bron cho biết còn một « dặm hú » nữa sẽ tới « sốc ». Chúng tôi lại đi. Nhìn một vài đợt ánh sáng xuyên qua kẽ lá, tôi đoán biết chiều sơn-lâm đã ngả bóng. Nửa giờ sau, chúng tôi ra tới một thung-lũng bày ra những mái tranh xám của chòi gác Thượng, nổi bật trên màu xanh già của lá cây. Tuy thấy đó, nhưng muốn đến nơi, tôi và Thượng-Bron phải đi quanh, khi ẩn, khi hiện, dưới tàn cây kẽ lá, gần nửa giờ sau, mới tới một căn nhà cao cẳng. Vừa đến nơi, mặt trời cũng vừa khuất bóng sau một dãy núi xa. Thấy có khách lạ đến, từ trên sàn gác, người nhà kêu hỏi Thượng-Bron và anh nầy đã trả lời bằng những câu líu lo tôi không hiểu được. Do một gốc tre chặt còn để rìa nhánh, bắt làm thang, tôi leo lên sàn gác, trước con mắt tò mò vì ngạc nhiên của bao nhiêu người. Một mùi hôi tỏa khắp chòi, làm tôi khó thở. Một ché rượu, đôi cây ná, mấy cái gùi, chà gạt, ống điếu, nằm ngổn ngang trong một góc chòi. Vài mảnh cần-vọt, mền rách, vắt trễ tràng trên cột tre, điểm thêm đây đó mấy cái lông gà rừng hoặc một chiếc lược cũ. Trên bệ vách, ngay gian giữa, đặt bàn nhang, là một ống tre chẻ đầu đương rộng ra làm chỗ đốt xông hương bằng những cành cây rừng có mùi khói thơm. Chính nơi đây, Thượng thờ Nhang-Vàng là vị lâm thần cai quản mười hai cửa rừng. Một cái tĩn và mấy ống tre chứa nước để gần một bếp lửa, choán góc chòi phía bên kia. Tôi còn đang loay hoay soạn quà trong giỏ xách ra, thì Bron xỏ miệng ngay phía chòi bên cạnh kêu lớn mấy tiếng. Vài phút sau, tôi thấy từ dưới thang leo lên, một cô Thượng mà duyên dáng làm tôi ngạc nhiên. Tôi không dè ở nơi sơn lâm, man dã nầy có được một « nhan sắc » trong đám người sống giữa thiên nhiên. « Nhan sắc » nầy không phải là những nhan sắc ở thị thành, lộng lẫy vì trang phẩm do khoa học chế tạo. Nhan sắc đây chỉ chứa đựng trong một bức tượng da đen gần như khỏa thân, với những đường cong lối thẳng đều đặn của khoa điêu khắc, và những nét duyên khả ái trên khuôn mặt ngây thơ. Thấy tôi là khách lạ, cô vẫn giữ nét tự nhiên. Tôi gật đầu chào, cô không đáp lại chỉ nhìn và mỉm một nụ cười rất hữu duyên. Bron giới thiệu cho tôi biết : đó là em gái của y, tên Slay-Thao. Cô đi thẳng lại đốt cây đèn chai trộn tẩm ron cuốn trong lá mật cật khô. Cô cắm vào kẽ vách, cây đuốc cháy lớn ngọn, xông ra một luồng khói đen, mùi khét, quyện khắp căn chòi, lúc bấy giờ được sáng tỏ hơn ban nãy. Tôi hội tất cả người trong gia quyến của Bron, gồm có hai vợ chồng Thượng già, Bron, Slay-Thao, và một thằng bé độ 10 tuổi. Tôi biếu mỗi người 2 chén muối, 2 chén rượu, 2 rê thuốc, 20 lá trầu, và 20 hột cau khô, trừ ra cô Slay-Thao, tôi tặng 2 xâu hột cườm, 2 chiếc vòng bằng đồng giả, và cậu bé tôi cho 2 gói kẹo. Tặng cho như thế là đúng điệu lắm, nên cả nhà đều biểu lộ sự hoan hỉ và bắt đầu coi tôi như một khách quí, nhứt là cô Slay-Thao cứ quấn-quít theo tôi, hỏi thăm chuyện ở tỉnh thành. Cô lấy ra một tấm phên tre đương có bắt bông, trải ở giữa trước bàn nhang, mời tôi ngồi vào và chỉ cho tôi biết đó là chỗ sang nhứt để tôi sẽ ngủ trên chiếc phên ấy. Bron bưng ra một tĩn rượu ịt, cắm vào một cây cần, qua lớp lá trên miệng, rồi mời tôi : - Ông thầy uống rượu. Tôi với bắt cây cần cong đút vào miệng, vừa nút tôi ngửi hơi rất nồng và cay như mùi cơm rượu ẩm. Tuy thế, tôi cũng nút, làm vui lòng Bron. Được vài bún, tôi đã buông cần và nhắm mắt trước sự chế nhạo của cô Slay-Thao. - Ông thầy không biết uống rượu Thượng. Rượu Thượng ngon lắm cơ ! Cô lại lấy cần đưa vào miệng mời tôi. Tôi lắc đầu. Nhưng trước sự mời mọc ân cần vồn vã của cô, tôi không sao từ chối được đành phải ngậm cần và nút mấy hơi nữa. Rồi đến lượt hai vợ chồng Thượng già. Để đáp lại sự nài ép của mọi người, thế nào tôi cũng phải vị bụng mà rút mấy hơi. Nhưng lần nầy, tôi không nghe thấy mùi rượu nữa, mà là một mùi hỗn tạp có đủ nồng, cay, chua, đắng, tanh, hôi. Trong khi nuốt vào nó chỉ chực tháo lộn ra. Vốn không quen dùng rượu, nay phải ở trong tình trạng nầy, tôi xem như đó là một hình phạt. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu trong người, mặt mày choáng váng, thần trí bâng khuâng. Nghe đầu nặng, tôi nhắm nghiền đôi mắt lại, rồi ngả nằm vật xuống sàn gác trên chiếc phên bông và thiếp đi lúc nào không hay biết. Sau khi mơ màng tôi lần lần tỉnh dậy, và bắt đầu để ý nhận xét. Trời lạnh. Ngọn đuốc đã tắt tự lúc nào. Bên chân tôi, trên giỏ, một đống un còn ánh lửa lập lòe và hơi khói quyện cay cả mắt. Bên kia góc chòi, kế đống lửa, cậu bé nằm ngủ, co rút lại như con tôm. Để mắt dòm qua kẽ vách, tôi nhận thấy từ ngoài đi vào một ánh đuốc nhảy múa chập chờn. Có bóng người cầm cây roi, chà gạt và dây luộc tiến vào chòi. Tôi lóng tai nghe ngóng : Có những tiếng người lơ-lớ, nói thì thầm như từ cõi âm đưa lên : - Tắt đuốc. Ánh sáng ở dưới sàn bỗng biến mất để nhường lại một bầu không khí tối đen, ẩm hơi lạnh của rừng. Từ xa vọng lại, những tiếng cú vọ não nề và những tiếng chạc chạc khô khan của chim đầu rìu, điểm thời gian nơi chốn sơn lâm. Tôi không đoán được giờ nầy là mấy giờ, nhưng cảm thấy cõi cô-sơn nầy tịch mịch làm sao ! Rồi bỗng có tiếng : - Làm nhè nhẹ, đừng cho có tiếng động. - Bắt trói nó lại. - Đừng cho nó la. - Cắt cổ nó. Mỗi một câu vừa thốt ra, làm tôi thót ruột một cái, và khi nghe đến câu cuối cùng, tôi cảm thấy như tim tôi ngừng nhảy. Tôi có cảm giác của một người tội tử hình, trước giờ lên máy chém. Trí tôi thường liên tưởng những chuyện rùng rợn : « Thượng báo oán, Thượng giết người, Thượng ăn thịt người » ở chốn ma thiêng nước độc đã xảy ra từ ngàn xưa, trên sách vở, báo chí. Tôi đang ở vào mức tột cùng của sợ-sệt. Những lo âu và bao nhiêu niềm kia nỗi nọ phát sinh ra, bấn loạn trong đầu óc đưa tôi vào cõi chết. Tôi không còn toan tính gì được nữa, chỉ nằm đơ, chờ đợi phút hãi hùng. Không khí vẫn hoàn toàn im lặng, trong khi, bỗng nhiên tôi nghe tiếng heo hét và tiếng gà kêu chan chát ở dưới sàn chòi. Đồng thời có tiếng người chộn rộn, ban đầu gần, sau xa dần. Tôi bò lần kiếm kẽ sạp hở để dòm xuống và nghe ngóng xem sự thế ra sao. Cảnh nhà chòi im lìm. Tôi vẫn không dò xét ra được một nghi vấn, nhưng lòng trở lại bình thường vì đã gần nửa giờ rồi mà không có xảy ra một sự trạng bất trắc nào. Thời gian trôi qua một cách rất chậm chạp trong cái tịch mịch của đêm dài. Tôi đoán chừng hơn một giờ đã qua. Bỗng nhiên tôi lại nghe có tiếng người đằng xa vẳng lại. Dòm qua hướng ấy tôi thấy ánh đuốc chập chờn đi tới, soi đường cho một vài người tiến về phía chòi tôi. Tôi lẳng lặng chờ đợi. Sau đó, tôi nhận thấy rõ : dưới sàn gác cô Slay-Thao cầm đuốc cho Thượng Bron, hai ông bà Thượng già mang gùi leo thang. Lên đến trên chòi, cô Slay-Thao châm thêm một ngọn đuốc nữa. Mỗi người lại lấy từ trong gùi một gói lá lớn đặt ra trên mấy bẻo lá chuối vừa trải sẵn trên phên bông. Rồi họ mở những gói ấy, vừa ngó tôi vừa cười. Tôi nhận ra đó là những cục thịt gà và thịt heo to lớn, có hai thứ : luộc và nướng nhưng thịt có lẽ không được chín, nên còn có chỗ đỏ và hình thức không đều nhau, chắc là được chặt ra không phải do một bàn tay khéo léo. Thực trạng nầy bắt tôi liên tưởng đến những phút hồi hộp của giờ trước, để tôi bắt đầu hiểu : Họ đã giết heo và làm gà để đãi tôi. Chỉ có thế, mà ở vào trường hợp đặc biệt, lòng tử-tế của họ cũng đã một phen làm tôi « lên ruột ». Họ lại vồn vã mời tôi. Nhìn những miếng thịt ê-hề, ngổn ngang ấy, dầu có đói bụng, tôi cũng hết biết thèm. Tuy thế, tôi cũng phải nể lời, rồi cùng họ ngồi xoay quanh lại, bốc ăn. Vừa cắn nhai miếng thịt gà nướng, miệng tôi đã bắt đầu nhợn ra song cũng nở một nụ cười xã giao. Cô Slay-Thao vừa nhai nhóc nhách miếng thịt heo, vừa hưởng ứng : - Thịt gà rừng và thịt heo Thượng ngon lắm, phải hôn thầy ? Để làm cho Slay-Thao vui lòng, tôi cũng gật đầu lấy lệ. Thượng-Bron lại đem tĩn rượu ra. Vừa trông thấy « của nợ » ấy tôi đã muốn say rồi. Bao nhiêu người vồn ép tôi nút nơi đầu cần do họ tranh nhau uốn cong nhét vào miệng tôi : - Ăn thịt, phải uống rượu ! Biết làm thế nào ? Thôi, thì đành vậy. Tôi bắt cây cần, giả vờ nút, nhưng thật ra, không có một giọt nào lên được cuống họng tôi. Tuy thế, tôi cũng nhăn mặt – vì mùi tanh hôi – nhưng cốt để cho họ thấy, đó là một cực hình. Rồi sau đó, tôi giả vờ say chúi xuống nằm ngoẻo trên sàn chòi, giữa tiếng cười hồn nhiên của bao nhiêu người « vầy tiệc ». Tôi nghe đôi mí mắt nặng vì buồn ngủ, mà thật, tôi đã buồn ngủ từ lúc nào, nên gặp cơ hội này, sau khi nhắm nghiền đôi mắt, tôi đã thả hồn theo mộng đẹp rừng xanh. III. NGƯỜI THƯỢNG ĂN NHANG Chúng tôi vừa về đến sốc thì đã có sẵn nơi đây, hai vợ chồng Thượng lạ. Sau mấy câu họ trao đổi nhau với chủ nhà, Bron bảo đó là khách, người cùng bộ lạc của anh từ một Sốc xa đến viếng. Tôi thấy họ lấy từ trong gùi ra 4 miếng trầu, 4 hột cau, và bầu rượu rót mời cả nhà Thượng Bron dùng, gọi là lễ cúng Nhang-Rừng, rồi mời đến dự ăn nhang ngày mai. Đáp lại, từ ông Thượng già đến cậu bé con, thảy đều vây quanh hai vợ chồng Thượng khách, vừa nói vừa ra dấu như xá khách. Theo lời tôi hỏi, Thượng-Bron cho biết thêm tục « ăn nhang » đối với họ, cũng như ăn tết Nguyên-Đán của chúng ta, nhưng lễ họ không cử hành vào một ngày nhứt định, mà chỉ tùy theo mùa lúa được sung mãn. Khách từ tạ ra về. Tối lại cả nhà Thượng-Bron sống trong một không khí vô cùng vui vẻ. Kẻ lo bắt gà, người tìm gom heo nhốt vào rọ, nhứt là cô Slay-Thao nhí nhảnh soạn lại cái « củn » mới, đem ra lo le mớ vàng cẳng của cô… Rồi cô lại lo đi nướng bánh ống bằng nếp. Tới giờ ăn cơm tối, bà Thượng già làm đầu bếp đâu tự hồi nào. Bà lấy lá chuối rừng trải trên tấm « cót » (nệm tre đương bắt bông) đặt vào giữa một hũ « mắm bò hóc », nguyên một trách « canh cháo bồi » nấu bằng khô mặn đâm nhừ trộn với lá nhiếp, và một mớ ống lồ-ô nướng cháy vỏ, còn hơi lên nghi ngút, vì mới vừa lấy ra khỏi bếp lửa. Chúng tôi ngồi quây quần lại ăn. Cô Slay-Thao tách một ống Lồ-ô lấy cơm trong ruột rồi trao cho tôi. Tôi đòi một cái chén và một đôi đũa, nhưng cả nhà đều cười, và buộc tôi phải ăn bốc như họ. Canh lá nhiếp thì tôi còn có thể nếm được, nhưng đến « mắm bò hóc » thì xin chịu, tôi đã ghê rồi. Còn đang ái ngại thì cô Slay-Thao đã giải thích cho tôi hiểu. « Vuông » à, mắm nầy là của quí của Thượng. Nhà tôi trọng « Vuông » lắm nên mới đem ra đãi « Vuông ». Chính tay rôi làm đó. Nó là một thứ mắm cá. Để tôi nói cách làm cho « Vuông » nghe. Cá để sình, bỏ muối vào đem quết trong cối vọt gạo, lựa xương bỏ ra, cho vào hũ, đem phơi nhiều nắng rồi cất để dành. Tôi cầm cắn một cục cơm, nghe hơi thơm, thơm mùi nước ngọt của tre lồ-ô và nuốt cũng thấy ngon, có lẽ mình đói và lạ miệng. Cô Slay-Thao chìa tay vào miệng tôi một miếng « mắm bò hóc ». Tôi né ra để từ chối, nhưng cô xôm lại, trong lúc hai ông bà Thượng già bảo nếm thử cho biết. Tôi buộc lòng hả miệng cho cô trét vào. Tôi ngậm lại và nghe cả một sự tanh hôi trong các giác quan. Thật không lúc nào tôi thấy nghĩa câu : « khạc cũng chẳng ra, nuốt chẳng vào » đúng bằng trong trường hợp nầy. Không lẽ ngậm mãi trước sự cười bỡn của mọi người, tôi phải nín hơi nhắm mắt và cố gắng lắm mới nuốt trôi qua cổ họng, y như cảnh của người sợ thuốc mà phải uống thuốc. Sau đó, tôi từ chối thứ « mắm quý » nầy và luôn cả rượu, viện lẽ với gia quyến Slay-Thao rằng còn để bụng sáng mai đi ăn nhang. Xong bữa cơm, tôi chúi vào trong một góc chòi, tưởng tượng đến tất cả sự vui tai lạ mắt ở cuộc lễ sắp tới. Sáng ngày cả nhà đều dậy. Tôi còn đang mơ màng trong tiếng chim đầu rìu còn gõ nhịp cầm canh trên ngọn đồi bên kia lạch suối, thì Slay-Thao đến đánh thức tôi. Bron liệng cho tôi một cái cần vọt, rồi nghiêm trang bảo « Vuông » nên thay quần áo và mặc cái nầy vào như chúng tôi, rồi mới đi dự lễ được. Vì phong tục Thượng bắt buộc phải như thế. Lại một phen cảm giác tôi được biến chuyển một cách đột ngột. Nhưng rồi tôi cũng phải chiều, với ý chí muốn được thưởng thức thú vị của cuộc lễ Ăn Nhang. Bị Thượng-hóa như thế, tôi nghe lành lạnh và nhột nhạt khắp cả thân mình. Càng thẹn hơn nữa, là được cô Slay-Thao vỗ tay hoan nghinh : - Phải chi « Vuông » được đen thì thật là giống Thượng. Tôi cảm tưởng đó là một lời chế nhạo, mặc dầu biết cô thành thực. Nhìn lại, tôi thấy cô mặc chiếc củn màu mới, có bông không mỹ thuật gì cả, cẳng mang nhiều chiếc neo đồng lên đến gần đầu gối, cổ đeo mấy xâu hột cườm màu, đầu giắt một chiếc lược và mấy cái lông gà cao lêu nghêu, lỗ tai căng rộng ra bằng hai ống lồ-ô lớn. Giao cho tôi mang một giỏ gùi và vác một cây chà gạt, cô xách theo mấy con gà, còn Bron dắt heo. Hai vợ chồng Thượng già và thằng bé con thì lãnh mấy cái cồng và chiêng. Hành trang đã sẵn sàng. Chúng tôi lên đường, đi trong ánh sáng chập chờn của bình minh, còn ẩn dưới ngọn cây rừng ở phương Đông. Chúng tôi nhắm hướng núi Rạt ở phía Tây để tiến bước. Ở dọc đường, thỉnh thoảng, chúng tôi lại gặp những đoàn gia-đình Thượng khác tháp tùng theo. Đoàn chúng tôi đến đâu, tạo sinh khí đến đó cho cảnh đường rừng còn đang im lìm buổi sáng. Trải qua hơn bốn giờ đồng hồ xuyên lâm hơn hai ngàn thước đường, băng suối leo đèo, chúng tôi tới Sốc ở lưng chừng núi Rạt, nơi chòi của cả Thượng họ Thủy. Nơi đây, đã có sẵn Thượng khách đông rồi. Cô Slay-Thao dặn nhỏ bảo tôi xem họ làm thế nào thì theo thế ấy. Rồi cô kéo tôi ra giữa nói với ông bà cả Thượng và khách, ý chừng là giới thiệu tôi. Tôi thấy mình trơ trẽn lạ lùng vì phải thủ vai một Thượng câm chỉ biết gật đầu chào trước sự vui mừng hoan hỉ của đông người. Chủ chòi tiếp mỗi người khách một chén rượu, và khách cũng lấy đó mà đãi lại chủ, trong ý nghĩa mừng vụ lúa năm nay được trúng nhiều, làm cho cả sốc đều vui. Trong cái « cà hum » (giống như hình cái lồng hái bưởi) cắm giữa chòi, đổ tro bếp và lửa than đỏ, mỗi người khách lấy một miếng cây trầm hương bỏ vào, đốt xong khói lên nghi ngút. Rồi họ bắt đầu « kêu nhang » để chủ chòi kêu tiếp theo, có nghĩa mời thỉnh Nhang-Rừng, Nhang núi về tọa hưởng, mà tôi chỉ nghe có hai tiếng « Cô Bập » « Cô Bập ». Trong ba chén rượu, khách phân ra để mỗi người lấy chế ra 12 chỗ, chung quanh « cà hum » mỗi chỗ một ít, để cúng 12 cửa rừng. Rồi chủ nhà lại rót ra ba chén khác, để mời mỗi người khách nhắm một chút. Cả chủ lẫn khách cũng ráp lại « kêu Nhang ». Ở trước sân chòi, con bóng Thượng, đầu bịt khăn đỏ, lưng vận thắt đỏ, tay cầm gậy tre có chóp lông gà rừng, vừa uống rượu, vừa nhảy múa và hát « cà dưng ». Tiếng chiêng nghe « cồng kênh » tiếng kêu nhang nghe « Cô Bập » hòa lẫn nhau, tạo cho góc rừng một sự ồn ào hỗn tạp. Không biết có phải vì rượu hay vì « thần chú kêu nhang » có hấp lực, làm cho con bóng trong chốc lát phải té ngã nằm dài dưới đất. Cô Slay-Thao bảo bà bông « lên ». Con bóng ứng khẩu « trăm » lên một lúc, rồi lại ngâm nga vài câu, giữa sự im lặng của mọi người để nghe. Cô bạn Thượng « thông ngôn » lại, Nhang đã về, chào mừng tất cả, cho biết rằng đã ủng hộ mùa màng trong sốc được kết quả, bằng lòng chấp thuận chủ lễ nầy và cho phép « ngả trâu » để nhang hưởng. Thế là mọi người đổ vồn ra sân cỏ rộng ở cạnh bàn thạch lớn. Giữa sân đã có sẵn một con trâu bị cột đứng chết cứng. Mình trâu được tắm sạch sẽ đen mướt. Toàn thân trâu, mồm, sừng, cổ, nách, eo và bốn chân đều bị cột một cách rất kiên cố, tréo vào những cây nọc to tướng, làm cho nó đứng mà không cựa quậy được. Nhìn con vật trong cảnh chờ chết, thật là thảm thương. Mọi người đứng vây quanh nó. Ông cả Thượng chủ chòi, thủ bộ khai đao. Ông đứng xéo trước đầu nó, cách xa lối ba thước, tay giơ cao một cây lao sắc, lưỡi bén nhọn xóc tới, chân trước, chân sau để lấy đà. Miệng la, ông chuyển hết thần lực nhảy tới phóng mạnh lưỡi lao vào yết hầu con trâu. Ông vừa rút lao ra thì máu tuôn có giọt. Một người bưng chén lại hứng lấy, đem vào dâng cúng cho Nhang. Đến phiên một người thứ nhì xông vào dùng chà gạt bén, lóc một miếng thịt to tướng trên đùi trên, trong lúc con vật khốn nạn rống lên một lần nữa. Cả thân mình nó, dưới các lớp dây, oằn-oại trong đau đớn. Một sự trạng làm tôi não lòng hơn hết, là nhận thấy hai khu mắt con vật đoanh tròng, hình như là rướm lệ ở hai khóe. Có lẽ sự đau đớn của trâu đã lên đến cực điểm và giờ phút nầy, trâu đang dùng hết sức thừa để chiến đấu với tử thần. Nhưng sức thừa ấy lại cứ dẻo dai mãi để kéo dài tình trạng đau thương của con vật. Than ôi ! Sức mạnh. Vì sức mạnh bị kìm kẹp, để chịu đựng sự thống khổ. Đứng trước cảnh chết lần trong đau thương như thế, tôi cố cầm lòng mà cũng không khỏi rưng rưng nước mắt. Tôi cảm thông sự đau đớn của Trâu sắp chết, nên quay mặt đi. Có lẽ nét buồn hiện trên mặt tôi mà Slay-Thao trông thấy, nên cô theo cười chế nhạo, bắt tôi phải nhìn các trò dã man của tục lệ Thượng. Lấy được miếng thịt, Thượng lại đem thảy vào bếp lửa cháy bên cạnh. Miếng thịt còn loáng máu gặp than, tiết ra một tiếng xèo, làm ố đen một mớ than hồng cũng vừa tắt. Họ trở qua, trở lại vài bận, lấy ra cạo sơ bằng một con dao tre trên mặt da cháy nám, vội vã xách đem vào bàn, gọi lễ kỉnh Nhang trước. Trong khi ấy, ở ngoài, một người rồi lại một người, kẻ lao người chà gạt, xáp vào thọc huyết, lẻo thịt con trâu. Con vật đã đuối sức, từ từ sụm lần để rồi ngã quỵ hẳn xuống sân cỏ, làm vật hy sinh, mặc tình cho bọn người man dã banh da xẻ thịt. Huyết họ hứng pha vào rượu, thịt họ nướng trên những bếp lửa gầy ra rải rác chung quanh. Họ chấm muối ớt hoặc « mắm bò hóc » vừa ăn uống, vừa đập chiêng cồng để nhảy múa quay quần trên sân cỏ, hỗn loạn với những cây lao đưa lên hạ xuống, chà gạt xoay qua xoay lại, đầu lắc lư, khu mông vêu vãnh. Mặc dầu có Bron và Slay-thao theo giựt dây dụi, tôi cũng không thể làm như họ, đành núp bóng hai người nầy, để giả vờ ăn uống. Cảnh tưng bừng hỗn tạp thật, nhưng nhàm tai và buồn thảm, bởi cách nhảy múa lôm xôm luôn luôn mãi một điệu, vẫn đều đều, nhịp nhàng theo tiếng chiêng cồng khô khan, thay đổi trong ba giọng cồn, kênh, lắt cắt. Bron bảo tôi lắng tai nghe rõ rồi cho biết tiếng kêu ấy nghe ra « Bình Cách, Bù Đăng » là hai quận lỵ trong vùng. Và cứ như thế, hết vỏ dưa đến bộ đồ lòng, con vật thỉnh thoảng tiêu lần, các bầu rượu vơi đi, để tạo ra những đống thịt người, già trẻ, bé lớn, ngả nghiêng ngửa, ngổn ngang trên sân vì đã quá độ say sưa, no mệt. Và cứ như thế, hết trâu đến gà heo, hết say rồi tỉnh, hết ăn uống nhảy múa rồi gục ngã trên sân, cũng vẫn cảnh hỗn loạn ấy tiếp diễn luôn trong ba ngày đêm, làm ồn ào cả một góc rừng bí hiểm của bọn người kỳ lạ. Tôi còn nhận thấy họ kỳ lạ đến đỗi bắt buộc trẻ nít sơ sanh phải chung vui say, ăn uống như họ. Riêng phần tôi, đáo xứ phải tùy tục, tôi phải chung sống với họ trong những trường hợp đặc biệt, thủ vai một người bị Thượng hóa mà tôi xem như một trò hề trên sân khấu. IV. MỘT CUỘC ĐI SĂN Tôi bừng mắt dậy thì trời cũng vừa rạng sáng. Cả nhà Thượng-Bron đã hoạt động từ hồi nào. Thay vì để nước súc miệng và rửa mặt, cô Slay-Thao lại bưng tĩn rượu cho tôi. Vừa trông thấy nó, tôi đã bắt « ớn » trong bụng và có cảm tưởng muốn say nữa. Lần nầy, thì tôi phải từ chối, cô Slay-Thao hình như hiểu ý, nên chỉ cười mà không ép như hôm qua. Tôi hỏi xin một chút nước, cô đem lại một bầu. Mới vừa kê vào định hớp để súc miệng, tôi nghe xông ra một mùi hôi, làm tôi không thể nào rót vào miệng được. Tôi chỉ dùng tạm nước ấy rửa sơ trên mặt mà thôi. Vừa xong, thì cũng vừa đi tới chòi, một anh Thượng trông dáng lực lưỡng hơn Thượng-Bron, vai mang gùi và ná, có kèm theo một bó tên, Bron giới thiệu với tôi : Đó là Thượng Gô, một tay thiện xạ trong sốc và chính anh cũng nổi danh với nhiều thành tích trong nghề bắn ná. Thượng Gô đến rủ Bron đi săn, Bron nhận lời và mời tôi cùng đi. Gặp dịp nầy, là một hứng thú cho tôi. Chúng tôi cùng sửa soạn, Bron mang theo một cái gùi và tên ná. Cô Slay-Thao lấy một cái gùi mang vào vai tôi, rồi trao cho tôi một cây lao. Còn phần cô, cũng một cái gùi và một cây chà gạt. Chúng tôi ra khỏi sốc và bắt đầu dấn thân vào chốn lâm tuyền. Bron và Gô thạo đường đi trước. Chỉ có tôi là không quen, nên rất bỡ ngỡ theo bước chân dày cứng rắn của họ. Vì thế, Slay-Thao phải ở lại sau, để dìu dắt tôi, khi nhảy qua một lạch suối, lúc trèo lên một thân cây ngã chắn ngang lối đi. Sau đó, chúng tôi đến một cụm rừng ư cổ thọ lớn. Trên một cây ư già cao lớn, chúng tôi trông thấy bóng một con vượn. Thượng Gô liền leo lên. Tôi xem anh leo rất lẹ và dễ dàng. Tôi nhận thấy anh chỉ có mang một chiếc ná mà thôi, nên tỏ ý có lẽ anh quên đem theo tên. Nhưng Thượng-Bron cười và chính Gô cũng ngó xuống cười và lắc đầu. Con vượn từ trên chót ngọn ư, khi trông thấy người, kêu la và chuyền qua, nhảy lại lăng xăng trên cành. Khi lên đến được nửa cây, anh leo ngồi trên một chản hai và bắt đầu vấn tóc lại, độn một nùi lớn gie ra sau ót. Đồng thời ở dưới đất, Bron lại sửa soạn tên ná. Sau vài câu trao đổi, tôi thấy Thượng-Bron lắp tên vào ná nhắm lên. Tôi cứ đinh ninh là Bron sẽ bắn vượn vì anh Gô có ná mà quên đem theo tên. Nhưng ô hay, sao Bron lại nhắm đầu Gô. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy trời tắt nắng và vũ trụ như sụp đổ. Tự nhiên tim tôi ngừng đập và đôi mắt nhắm nghiền lại, trong khi tôi nghe buông dây cung ná, kêu lên một tiếng « xạch » khô khan và rùng rợn. Tôi đợi một tiếng rú hãi hùng để rồi Gô rơi xuống. Nhưng lạ thay, tôi lại nghe nổi lên một loạt tiếng cười, nhứt là tiếng cười trong trẻo, giòn giã, hồn nhiên của cô Slay-Thao mà tôi xem như là chế nhạo tôi. Tôi mở bừng mắt ra, và không định trước mà nhãn quang tôi tự nhiên hướng lên Thượng Gô đang còn vọng xuống tiếng cười. Tôi nhận rõ ra đầu tóc của Gô có ghim một mũi tên. Trên cây, Gô vừa tháo lấy tên, trong khi ở bên tôi. Cô Slay-Thay cắt nghĩa cho tôi biết cách chuyền tên như vậy, là rất thường, nay muốn làm cho tôi ngạc nhiên chơi. Tôi lắc đầu mấy cái, thấy được nhẹ người. Quả thật là một tay thiện xạ. Chỉ có thế mà tôi muốn tắt thở. Từ trên nửa thân cây, đến phiên Thượng Gô lắp tên vào ná và nhắm lên con vượn. Dây ná vừa buông, thì trên chót ngọn ư, tôi nghe mấy tiếng chéo chéo não nề đau thương, rồi từ trên ấy, một con vật xám rơi xuống va vào kẽ lá, chạm từ trên cành trên xuống cành dưới, để rồi sau cùng, đến giữa khoảng trống không, rơi mau xuống mặt đất, nghe một tiếng bịch tức tối, thốn vào ngực tôi. Con vật rớt ngay tại gốc ư, bên hông một vết thương rỉ máu và bụng còn hoi hóp thở, đôi mắt mở thao láo. Trông nó nằm chết sóng sượt trên nền lá khô, tôi nghe một mối xúc động trong lòng, liên tưởng đến những cái chết giống như trường hợp nầy, bị thiệt mạng để cho một số người được vui. Cô Slay-Thao xách bỏ con vật vào gùi tôi, tôi không nhận và trả lại cho cô bỏ vào gùi cô. Gô cũng vừa tuột xuống tới gốc cây. Tôi để lời khen tặng tài xạ tiễn của hai anh Thượng và không khỏi nghĩ mối lo ngại cho việc rủi ro một ngày kia. Hiểu ý, Bron cười và cho tôi biết : - Cái đó rất thường đối với chúng tôi. Ông thầy không thấy chớ chúng tôi tập dượt bằng đủ kiểu, cách nay 15 năm, từ ngày còn nhỏ, nên đã quen tay rồi. Không khi nào rủi ro được. Đây, để chúng tôi thử lần nữa cho ông thầy xem. Bron lấy chà gạt của tôi ; cắm cán xuống đất, trở lưỡi bén day vào chúng tôi. Gô dang ra xa lối hai thước, lên ná, lắp tên vào, đưa lên nhắm lưỡi chà gạt. Sau một tiếng xạch trong khoảnh khắc, tôi thấy mũi tên bị chẻ đôi, rớt ngay dưới đất sau lưng cây chà gạt. Lại một phen nữa, tôi phải ngạc nhiên trước tài bắn của người sơn cước. Nhưng chưa hết, đến lượt, Gô lấy một đồng điếu xưa, kẹp trên một cọng tre chẻ đầu, cắm trước một thân cây làm bình phong. Bron lại dang ra xa, cách lối hai thước và giương ná bắn liền, vừa chớp mắt, tôi thấy mũi tên lọt trong lỗ đồng điếu và cắm vào thân cây. Được thấy tận mắt như thế, tôi có cảm tưởng như mình ngồi trong rạp xiếc, xem diễn trò. Và mới nhận được những lời đồn đãi từ trước, vẫn là sự thật. Tôi thấy là thừa nếu có thêm nữa, để ca tụng tài bắn của hai người Thượng nầy. Vì, như thế là tuyệt luân rồi. Tiếc thay, tài ấy rồi sẽ mai một ở chốn rừng xanh. Tôi lại gùi của Gô soạn xem một mớ tên, nhưng Bron cẩn thận dặn : ông thầy đừng bóc tới mũi tên có tẩm thuốc đen. Nếu tay có trầy, thuốc độc sẽ thấm vào và làm hại tức khắc. Theo lời tôi hỏi, Bron cho biết rằng thuốc độc nầy rất nhạy, có thể sát hại các loài mãnh thú trong giây phút. Nó được chế ra bằng cách nấu mủ cây Ré ở ngã ba Bù đốp. Thượng chỉ dùng đến tên thuốc đó, là khi nào gặp lúc nguy hiểm để tự vệ, chống loài ác thú. Săn thịt để ăn, không khi nào dám dùng, sợ e phạm thuốc. Một con nai chà nhảy vọt qua trảng tranh nhỏ, Gô lắp tên và lẫy, nhưng con vật đã biến mấy trong chồi cây rậm. Chúng tôi vội vã lên đường để theo dấu nai. Sau khi tìm trên một khoảng đường dài, chúng tôi lạc mất dấu. Chúng tôi đi rất nhẹ, như lén lút, trong cành lá sum sê của cây rừng. Bỗng Slay-Thao khều anh, rồi chỉ lên cây dầu thật cao, có đôi chim két lớn đang gù và rỉa lông cho nhau, trông thật âu yếm. Bron giương ná bắn liền, lẹ đến đỗi tôi không thấy kịp. Một con rơi, trong lúc con kia vỗ cánh bay đi. Sau khi đảo lộn qua cành lá mấy lần, con chim rớt luôn như có ai buông thõng xuống đất. Tôi nhìn chim két mỏ đỏ, lông xanh láng mướt, thật là đẹp, nằm chết ngay đơ dưới đất, lòng không khỏi cảm buồn vì bản tâm mềm yếu, thường hay xúc động trước những cái chết bi thương. Bỗng nhiên, trên không trung, nổi lên những tiếng két kêu la đứt khoảng, nghe như lời đầy vẻ oán hờn chát chúa, như rên rỉ đau thương. Con chim bay vần qua lượn lại, ngay trên đầu chúng tôi, như để nhìn xem xác « bạn lòng » của nó bị bắn chết mà cô Slay-Thao vừa lượm cầm mân mê trên tay. Cô nói với tôi : - Anh Bron bắn con két mái, còn con trống, nó không đi khỏi chỗ nầy đâu. Mà thật, con chim không đi, nó vẫn bay lộn đi trở lại và kêu la rất thảm thiết, nghe như tiếng khóc. Không lúc nào, tôi thấy cõi lòng se lại bằng lúc nầy, lúc nghe tiếng kêu tuyệt vọng của con chim khốn nạn đang vơ vẩn trên không trung. Bron giương ná nhắm, hình như nó thấy và lảng tránh bay đi xa, cô độc trên đường không gian bao la. Ô kìa, sao nó không bay đi, mà quay trở lại, có phải chăng là để tìm bạn ngọc. Bron hối em : - Slay, hãy để xác chim mái xuống đất, thế nào rồi con trống đó cũng xuống. Mà thật, một chốc sau con két từ trên cao, đảo lần xuống thấp. Nó có biết đâu rằng mình đang lăn xả vào mũi tên đang nhắm nó. Hay nó đã cảm thông được sự nguy hiểm, nhưng chỉ vì quá nặng « lòng thương » mà « hy sinh » thân sống, cho trọn nghĩa với tình ? Nó xuống và xuống nữa. Còn cách xa con mái đâu được vài tầm tay, thì Bron lẫy ná. Con vật rớt. Tôi cố nín, nhưng cũng không khỏi kêu lên hai tiếng « tàn nhẫn ». Tàn nhẫn thật. Cô Slay-Thao vẫn thản nhiên cười : - Bắn nó chết cho đủ đôi, vợ và chồng. Rồi cô lượm hai con bỏ vào gùi. Tôi sa sầm nét mặt, vì lòng bị xâm chiếm bởi một mối u-hoài. Tôi giả vờ than đói và thúc hối cả đoàn quay gót. Trên đường trở về Sốc, tôi thấy buồn chán lạ lùng, vì lòng vẫn thắc mắc đến mối « tình yêu » của loài chim mà tôi cố đem so sánh với « Ái tình » của loài người. Tôi phân vân mãi đến nay mà cũng chưa biết đàng nào nặng hơn. Nhưng có điều chắc chắn là tôi tự nguyện sẽ không bao giờ đi theo « chầu rìa » trong cuộc săn bắn nào nữa, để khỏi trông thấy cảnh tượng não nề, làm cho lòng thêm mềm yếu. C) GIANG-THANH THỦY-TÚ I. NƯỚC ĐỒNG-NAI Từ thành phố Biên-Hòa trông sang sông, về hướng Tây, trên bờ Hóa-An, một nhà máy đồ sộ do « Saigon Thủy cục » xây dựng để rút, lọc và dẫn nước Đồng-Nai về cung cấp cho Đô-thành. Hệ thống nước này được hoàn thành vào hậu bán niên 1965, nhưng vì lý do kỹ thuật, đến giữa năm 1966, mới hoạt động được. Bộ Công-Chánh và Giao-Thông cho dẫn nước đến mọi nhà, cả đến nhà đồng bào lao động ở trong ngõ hẻm cũng đều có thể chuyền vào dùng đầy đủ nước của nguồn Đồng Nai ngọt mát, từng nổi tiếng tự ngàn xưa. Tôi trân trọng giới thiệu phẩm chất thiên nhiên của nước Đồng-Nai, nước của con sông đã làm hãnh diện người sanh trưởng trong lòng Phật địa Biên-Hòa. 1) NHỮNG CON SÔNG LỊCH SỬ Núi sông thường là nơi ghi dấu của lịch sử muôn đời và tượng-trưng cho một địa phương danh thắng : - Sông Nil ở Bắc-Phi, vì mực nước cao hằng năm, nên tự ngàn xưa, trong điện Vatican, đã được nhân-hóa bằng một tượng bô-lão khổng-lồ, nằm gác đầu trên con thạch kỳ-lân, tay cầm một chiếc sừng đầy hoa trái và chung quanh có 16 hài-nhi để hình dung 16 tầm nước. - Sông Amazone ở Nam-Mỹ, cũng nhờ xuất-lượng, mà được liệt vào hàng sông rộng lớn nhứt hoàn cầu. - Sông Danube ở Trung-Âu, mặc dầu bắt nguồn nơi chốn hắc-lâm, nhưng dòng nước vẫn trong xanh, được nổi tiếng trên màn ảnh với sự biểu-diễn của nhóm tài tử Madeleine Sologne, Jose Noguère, Jeane Gallan và dàn nhạc Bohémien của Alfred Rode. - Hằng-Hà ở Ấn là một con sông thiêng liêng. Đồng bào của Thánh Gandhi tin rằng : đắm mình dưới ấy, thì rửa được tội lỗi vừa mang. - Sông Xích-Bích ở tỉnh Hồ-Bắc (Trung-Hoa) nay còn lưu tiếng trận hỏa công, do Khổng-Minh và Châu-Do cầu đông phong đốt rụi quân Tào-Mạnh-Đức. - Sông Dịch, nước dầu có lạnh, cũng không làm lụt chí anh hùng Kinh-Kha, đi tìm gởi tính hiên ngang vào một hành động cao cả : « Phong tiêu hề, Dịch thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn » (Gió vi vu, sông Dịch lạnh, Tráng sĩ ra đi, không trở lại) Hoài cổ ngâm : « Bóng lìa sông Dịch, thây tan cung Tần ». - Sông Tần được lưu tiếng trong vùng Đông-Á, vì đôi bờ ngăn cách, gởi tình thắt thẻo nhớ thương : « Giao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt » (Xa nhìn sông Tần, ruột gan tan nát). Kim Vân Kiều : « Sông Tần một dải xanh xanh… » - Sông Tiền-Đường, nếu không có giai nhân họ Vương trầm mình tự ải, thử hỏi làm sao được dân tộc Việt-Nam nhắc nhở đến thanh-danh, mỗi khi nói đến nàng Kiều ? - Hát-Giang là nơi chôn mình Hai Bà Trưng để tỏ tiết tháo của bậc nữ lưu anh kiệt, trọn nghĩa cùng chồng và gìn lòng ái quốc. - Bạch Đằng Giang đã từng làm chỗ dụng võ cho Ngô Vương Quyền đánh quân Nam-Hán và giúp Trần-Hưng-Đạo cả phá quân Nguyên, bằng mưu đóng cọc trong sông. - Sông Gianh ở đất Thuận-Bài còn để tiếng đời, vì đã vô tình làm chỗ ẩn trú của bọn Trương-Quang-Ngọc và Nguyễn-Định-Tình bắt sống vua Hàm-Nghi giải nạp cho Đại úy Boulangier. Với sông Đà ở Bắc-Việt, nhà thơ Nguyễn-Khắc-Hiếu đã được lưu danh hậu thế : « Sông Hương nước chảy lờ đờ… » - Sông Hương, với vẻ đẹp của dòng bích-thủy, có cô lái đò mơ mộng trên bến nước im lìm. Nước sông Hương có lúc cũng đầy vơi giọt lệ của những cuộc tình duyên ngang trái. Sông Hương đã tạo cho chốn Đế-đô một nơi danh thắng tuyệt vời. - Con sông Bến-Hải, nơi tỉnh Quảng-Trị, cũng là một cảnh trí thiên nhiên, nhưng khi nhắc đến sông này, người Việt-Nam yêu nước đều cảm thấy một nỗi ê chề hằn học, đầy lòng căm phẫn cho tác dụng qua phần đất nước của nó, mong lấp bằng để Thống-Nhất Nam Bắc trong Tự do, Hạnh phúc của toàn dân. 2) ĐÂY, SÔNG ĐỒNG-NAI CỦA ĐẤT BIÊN-HÙNG Dầu không có thành tích lịch sử oai hùng đẹp đẽ như những con sông ở khắp thế giới, nhưng dưới tự danh Phước Long Giang, từ xưa, nó cũng có được một vài điểm riêng cho người sống trong lòng đất được chút hãnh diện. Qua bao nhiêu thời chinh chiến, sông Đồng-Nai đã trải lòng phơi mật làm trận tuyến cho quân nghĩa dũng Biên Hùng chống chiến thuyền đối phương. Về mặt thẩm mỹ, tưởng cảnh trí Đồng-Nai cũng không thua nét đẹp của sông nào. Gặp buổi sáng bình minh hay lúc hoàng hôn xuống, cảnh sông cũng được vẻ nên thơ, mơ màng, mộng huyễn : - Đôi chiếc cầu sắt nằm im lìm gối đầu trên mũi Cù-Lao Phố, đầy cây cỏ xinh tươi, giữa dòng nước trong xanh. - Một bên là bờ phố chợ, sáng chói với màu trắng ngà của nhà gạch, màu đỏ lợt của nóc ngói, xen lẫn trong màu xanh già của lá cây. - Một bên là bờ Hóa-An, lưa thưa những mái xám quyện khói lam, ẩn núp trong hàng dừa rủ lá, soi mình trên bóng nước. Giữa sông nổi lên một gò cồn nho nhỏ, chia đôi lòng sông ra hai ngả. Một chiếc thuyền chứa niềm sầu xứ ; một cánh buồm no gió gợi chí giang hồ ; một chiếc tam bảng nhỏ, do cô thôn nữ vành nón nghiêng nghiêng, tà áo phất phơ, nhịp nhàng """