🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Quyết Thi Đậu THPT Quốc Gia Môn Văn
Ebooks
Nhóm Zalo
NGUYÊN ĐÌNH CHIÊN
(Cao học T riết, Đại học Văn khoa Sài Gòn)
quyêt
THI ĐẬU THPT QUỐC GIA MÔN VẢN
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điện thoại: Biên tập - Chế bản: (04) 39714896;
Quản lý xuất bản: (04) 39728806; Tổng biên tập: (04) 39715011 Fax: (04) 39729436
C h ịu t r á c h n h iệ m x u ấ t b ả n :
Giám đốc - Tổng biên tập: T S. PHẠM T H Ị TRÂM
B iên tập:
C h ế bản:
T rìn h bày bìa:
B Ù I THƯ TRANG NHÀ SÁCH HỒNG ÂN NHÀ SÁCH HỒNG ÂN
Đối tác liên kết xuất bản:
NHÀ SÁCH HỒNG ÂN
20C Nguyễn T hị M inh K hai - Q1 - T P. Hồ Chí M inh
SÁCH LIÊN KẾT
BÍ Q lYẾr THI ĐẬIITHPT Qllỏc GIA MÔA VẢN
Mã số: 2L - 17ĐH2016
In 1.000 cuốn, khổ 17 X 24cm tại Công ti cổ phần Văn hóa Văn Lang. Địa chỉ: Sô" 6 Nguyễn Trung Trực - P5 - Q. Bình Thạnh - TP. Hồ Chí Minh Số xuâ"! bản: 299 - 2016/CXB,IPH/06-24/ĐHQGHN, ngày 27/01/2016. Quyết định xuất bản sô": 96 LK-XH/QĐ - NXBĐHQGHN, ngày 28/01/2016. In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2016.
Các em học sinh thăn mến!
Nhằm chuẩn bị cho các em học sinh tham dự vào kì thi THPT Quôc gia. Chúng tôi biên soạn cuốn sách B í qu yết th ỉ đ ậ u TH PT Q uốc g ia - m ôn Văn. Nội dung cuốn sách bám sát vào chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 và lớp 12 (bộ chuẩn và bộ nâng cao).
Sách gồm ba phần chính:
P h ần thứ n h ất: Nghị luận văn học (đây là phần chủ yếu)
P h ần thứ hai: Nghị luận xã hội.
P h ần thứ ba: Cấu trúc đề thi Đại học theo hướng mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2014.
P hần thứ tư: Cấu trúc đề thi THPT Quôc gia theo hướng mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2015.
Đặc biệt trong phần thứ nhất, chúng tôi hướng dẫn ôn tập những bài văn theo trình tự thời gian:
- Văn học thời kì 1930 - 1945 (theo chương trình ngữ văn lớp 11 với nội dung văn học mang xu thê lâng mạn - hiện thực phê phán - hiện thực Cách mạng).
- Văn học thời kì 1945 - 1975 (theo chương trình ngữ văn lớp 12 với nội dung văn học mang xu thê hiện thực Cách mạng).
- Văn học thời kì 1975 đến h ết th ế kỉ XX (văn học thời kì đổi mới). Trong phần này, các bài ôn tập đều có cấu trúc của một đề tuyển sinh: - Câu hỏi giáo khoa nhằm tái hiện kiến thức cơ bản.
- Đề văn nghị luận, ơ loại câu hỏi này, chúng tôi soạn hai phần:
+ Phần đầu là “những kiến thức cần nắm vững” để phân tích một đoạn thơ, một bài thơ hay một tác phẩm, một nhân vật văn học. Bên cạnh đó,
chúng tôi còn gợi ý bổ sung thêm một số kiến thức ở các tác phẩm khác có liên quan gần gũi với tác phẩm cần phân tích...
+ Phần sau là hướng dẫn xây dựng một bài văn trên cơ sở bộ đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tác giả biên soạn thành những bài hướng dẫn “VĂN” nhằm cung cấp cho các em học sinh những kiến thức cơ bản và phương pháp làm từng kiểu bài do đề thi yêu cầu.
Hi vọng cuô’n sách sẽ góp phần giúp các em học sinh chuẩn bị tôt kiến thức để đạt kết quả mong muốn trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới.
Dù chúng tôi đã rất cố gắng để cuốn sách đạt chất lượng tốt nhất, nhưng chắc sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Mong được quý bạn đọc, quý thầy (cô), các bậc phụ huynh và các em học sinh góp ý kiến để tác giả có thể hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.
Mọi ý kiến đóng góp xin liên hệ:
Nhà sách Hồng Ân: 20C Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 1 - TP HCM Email: [email protected]
Chân thành cảm ơn.
Tóc g iả
N gu yễn Đ ìn h C h iến
NGHỊ LUẬN VẢN HỌC
VĂN HOC THỜI KÌ 1930-1945
I . ] VĂN HỌC CÁCH MẠNG - NHỮNG BÀI THƠ CỦA TÁC GIẢ HỔ CHÍ MINH
trong tập thơ “Nhật kí trong tù”
Đề tuyển sinh: Anh (chị) iàm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nội dung Tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ” của tác giả Hồ Chí Minh.
Câu 2: Hãy vận dụng thơ văn tiêu biểu trong Tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ” của tác giả Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ tâm lòng yêu thương con người sâu sắc của chính tác giả._____________________
HƯỚNG DẨN
Câu 1 : Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nội dung Tập thơ “N hật k í trong tù”. 1. Hoàn cảnh ra đời.
Tháng tám năm 1942 tác giả Nguyễn Ái Quôh đổi tên là Hồ Chí Minh để sang Trung Quôh với tư cách đại biểu Việt Nam trong phong trào độc lập Đồng minh nhằm xin viện trợ của thế giới, tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Suốt mười lăm ngày đi bộ băng rừng đến Túc Vinh (Quảng Tây - Trung Quốc). Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch nghi ngờ làm gián điệp và bắt giam. Những ngày tháng trong nhà tù, gần mười ba nhà tù của mười ba huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, tác giả đã chứng kiến những cảnh tượng đau lòng bức xúc đối với tù nhân và thấy được một xã hội bất công thối nát cùng những sự việc của thế giới bên ngoài, tác giả hiểu rất rõ để viết lên những trang nhật kí bằng thơ được gọi là “Ngục trung nhật kí” gồm 134 bài, viết băng chữ hán với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, sáng tác từ tháng tám năm 1942 đến tháng chín nàm 1943. Sau đó tập “Ngục trung nhật kỉ” được gọi “Nhật kí trong tù” là một văn kiện lịch sử quý báu, một tác phẩm văn chương được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.
2. Ý nghĩa - nội dung của tập thơ:
Tập thơ Nhật kí trong tù nêu bật hai ý chính;
ý 1: T ố c á o th ự c trạ n g x ã h ộ i b ấ t côn g cù n g c h ế đ ộ n h à tù d ã m an hóc lột, c h à đ ạ p n h ă n p h ẩ m con người.
- Thưc trang xã hỏi bất công thôi nát: ''Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội. Trong tù đánh bạc được công kh ai”. {“Đánh bạc” - Hồ Chí Minh)
- Chà đap ĩên nhân phẩm con người: “Con người coi rẻ hơn con lợn. Chỉ tại người không có chủ quyền”. {“Đám binh khiêng lợn cùng đ i” - Hồ Chí Minh) - Khủng bô' đàn áp phu nữ và trẻ thơ: “Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi. Phải theo mẹ đến ở nhà p h a”. {“Cháu bé trong nhà lao Tân Dương” - Hồ Chí Minh) Y 2: N h à th ơ th ế h iện bứ c c h â n du n g tự h ọ a về người c h iên s ĩ cộn g sản Hồ C hí M inh với m ột tâm hồn lớn, dũ n g k h í lớn, tr í tuệ lớn dư ợc th ể h iện q u a n hữ n g h ìn h ả n h sau :
Hình ảnh 1: Một nhà ái quôc yêu nước: “Canh bốn, canh năm vừa chợp mát - Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”. {“Không ngủ được” - Hồ Chí Minh) Hình ảnh 2: Một người chiến sĩ với nghị lực phi thường; “Thân thể ở trong lao. Tinh thần ở ngoài lao. Muốn nên sự nghiệp lớn. Tinh thần càng phải cao”. {“Đề T ìf’ - Hồ Chí Minh).
Hình ảnh 3: Một người chiến sĩ với niềm tin tưởng lạc quan cách mạng: “Hơi ấm bao la toàn vũ trụ. Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”. {“Giải đi sớm" - Hồ Chí Minh)
Hinh ảnh 4: Một tấm lòng yêu thương con người sâu sắc: “Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than dã rực hồng". (“Chiều tối"- Hồ Chí Minh) Hình ảnh 5: Một tâm hồn nhạy cảm trước mọi trạng thái của thiên nhiên: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ. Trăng nhòm khe cỉta ngắm nhà thđ’. (“Ngắm trăng" - Hồ Chí Minh).
Câu 2: Tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của chính tác giả trong tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ”.
Nhắc đến tập thơ nhật kí của tác giả Hồ Chí Minh, người đọc thấy rõ thực trạng xã hội bâ't công của chế độ nhà tù dã man dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch đôi với phạm nhân, đồng thời toát lên một tấm lòng yêu thương con người sâu sắc của chính tác giả với những tháng ngày trong nhà tù. Tác giả là một nhà thơ, một người chiến sĩ trước hoàn cảnh đọa đày cơ cực, khủng bố, đàn áp từ thân thế đến tinh thần nhưng Người vẫn không quên trước nỗi đau của đồng loại là thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn tác giả.
MINH HỌA
Hình ảnh 1: Trên đoạn đường chuyển lao giữa đất khách quê người, bóng đêm bắt đầu bao trùm, nhưng tác giả đã quên đi nỗi đau của riêng mình để hướng về cuộc sôhg người dân lao động miền núi cùng đồng cảm, chia sẻ, tin yêu trước cuộc sông của họ, sẽ tô't đẹp, được ghi lại bằng những vần thơ thấm đẫm tình người với hình ảnh: “Cô em xóm núi xay ngô tối. Xay hết lò than đã rực
hồng". {“Chiều tối” - Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 2: Những ngày tháng trong nhà lao, nhưng tác giả luôn luôn chia sẻ, đồng cảm trước công việc cực nhọc gian khổ của người phu làm đường để viết lên những vần thơ bày tỏ tình thương cùng sự quý mến của tác giả với hình ảnh: “Giải nắng dầm mưa chảng nghỉ ngơi. Phu đường vất vả lắm ai ơi!”. {“Phu làm
đường” - Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 3: Tác giả cũng lo lắng, chia sẻ cuộc sống của những người nông dân Trung Quốc khi mất mùa đại hạn với lời thơ: “Nghe nói Xuân này trời đại hạn. Mười phân thu hoạch chỉ vài phân”. {“Long An - Đồng Chính” — Hồ Chí Minh)
Hình ảnh 4: Khi người nông dân Trung Quôc được mùa, tác giả vui trước cuộc sông no đủ của họ với lời thơ: “Khắp chốn nông dân cười hán hở. Đồng quê vang dậy tiếng ca vui”. {“Cảnh đồng nội” - Hồ Chí Minh)
Nhận xét chung: Những vần thơ trong Tập nhật kí vừa được minh họa qua nét bút của Hồ Chí Minh, gợi cho người đọc tìm thấy dù trong hoàn cảnh cơ cực, tù đày nhưng tác giả như quên đi nỗi đau của riêng mình để cùng thương cảm, xót xa, kê cả chia vui trước cuộc sống của người dân Trung Quô’c bằng những vần thơ thấm đẫm tình người là thế hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc trong tâm hồn người chiến sĩ Hồ Chí Minh. Đúng như lời nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh; “Tập thơ Nhật kí trong tù là tiếng nói chứa chan tình nhân đạo”.
Đề tuyển sinh: Anh (chị) trình bày ngắn gọn bài thơ “C h iều tố i” (Mộ) của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N hật k í trong tù” là thi phẩm vừa thể hiện màu sắc cổ điển và hiện đại.
S ! ững kiến thức cần nắm:
1. Ca dao có viết: “Chim bay về núi tối rồỉl”. (Ca dao)
2. Thi hào Nguyễn Du có nói: “Chũn hôm thoi thót về rừng”. (Nguyễn Du) 3. Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Chiều hôm nhớ nhà” có viết; “Ngàn mai gió cuốn chim bay m ỏi” và “Kè chốn chương đài, người lữ thứ. Biết ai mà tỏ nỗi hàn ôn”. (Bà Huyện Thanh Quan)
4. Bà Huyện Thanh Quan trong bài “Qua Đèo Ngang” có viết: “Dừng chân đứng lại trời non nước. Một mảnh tình riêng ta với ta”. (Bà Huyện Thanh Quan) 5. Nhà thơ Thôi Hiệu (Trung Quôh) trong bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” có viết: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhà thơ Tản Đà có dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
HƯỚNG DẪN
1. Nét đẹp cổ điển trong bài thơ “C hiều tố i” của tác giả Hồ Chí Minh. Thể hiện qua hai câu thơ đầu:
“Chim mỏi về rừng tim chốn ngủ.
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”.
(Chiều tố i- Hổ Chí Minh)
về thế loại thơ: Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ảnh hưởng phong cách của Đường Thi (Trung Quôh).
về hình ảnh thơ: Hình ảnh cánh chim chiều mỏi mệt, áng mây chiều cô đơn, lẻ loi là vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của không gian mà các thi nhân xưa thường mượn cảnh đẹp ấy đê nói lên bước đi của thời gian như trong ca dao có viết: “Chim bay về núi tối rồi”] thi hào Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi
thót về rừng"] Bà Huyện Thanh Quan trong “Chiều hôm nhớ nhà” có viết: “Ngàn mai gió cuốn chim bay m ỏi” hay nhà thơ Lý Bạch (Trung Quốc) cũng viết: “Chúng điểu cao phi tận. Cô vân độc khứ nhàn”. Như vậy, bài thơ “Chiều tôi” qua bút pháp của tác giả Hồ Chí Minh cũng nói lên cánh chim chiều “quyện điểu” và áng mây lẻ loi “có văn” để miêu tả chiều đã về là ảnh hưởng phong cách cố điển của thơ xưa.
về tâm trạng của tác giả : Các thi nhân xưa thường mượn hình ảnh thiên nhiên để bày tỏ nỗi lòng như bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, nhà thơ nhìn cảnh Đèo Ngang lúc chiều về, lại nói lên nỗi niềm cô đơn của tác giả qua lời thơ cuôì “Một mảnh tình riêng ta với ta” hay trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” chính tác giả đã tỏ bày nỗi lòng của mình qua câu thơ cuôi: “Biết ai m à tỏ nỗi hàn ôn”. Nhìn lại bài thơ “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh cũng mang một tâm trạng như thế tiêu biểu qua cánh chim chiều mỏi mệt sau một ngày vất vả kiếm mồi gợi cho người đọc hiểu được, cảm nhận được, cánh chim mỏi ấy mang hình ảnh người chiến sĩ, một người tù trên đoạn đường chuyển lao sau một ngày mệt nhọc và hình ảnh áng mây chiều lẻ loi, trôi lơ lửng giữa bầu trời gợi cho chúng ta hình dung hình ảnh người chiến sĩ, người tù trên đường chuyển lao vẫn cô đơn, lẻ loi giữa đất khách đó là phong cách của tác giả, ảnh hưởng của thơ xưa, mượn cảnh để bày tỏ tình cảm, nỗi lòng của thi nhân là nét đẹp cổ điển trong hồn thơ “Chiều tối”.
2. Nét đẹp hiện dại trong bài thơ ‘‘Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh. Thể hiện qua hai câu thơ cuô'i:
“Cô em xóm núi xay ngô tối.
Xay hết lò than đã rực hồng”
(Chiều tố i- Hổ Chí Minh).
Về hình tượng thơ: Xuất hiện vẻ đẹp con người là nhân vật trung tâm cho toàn bài thơ, tiêu biểu là hình ảnh người thiếu nữ miền núi tràn đầy sức sôhg đang xay ngô với hai cánh tay đều đặn, đây là một nét mới trong hồn thơ “Chiều tối” là vẻ đẹp hiện đại của tác phẩm.
8
về h ìn h ả n h thơ: Hình ảnh bếp lửa hồng rực đỏ, xua tan bóng đêm tăm tôl lạnh lẽo của núi rừng để hướng về ánh sáng về sự sống là nét mới là vẻ đẹp hiện đại trong tác phẩm.
về tăm trạ n g c ủ a tá c g iả : Tâm trạng của tác giả trong hồn thơ “Chiều tối” không mang niềm u hoài bế tắc như trong thơ xưa tiêu biểu là bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan có viết: “Dừng chân đứng lại trời non nước. Một mảnh tình riêng ta với ta”. Nhưng bài thơ “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh, hình ảnh bếp lửa hồng, lò than đã rực hồng là nói lên niềm lạc quan, tin yêu của con người ở một ngày mai tươi sáng, đặc biệt từ “hồng” ở cuôl bài thơ, hàm ẩn cho người đọc hiểu rằng, tâm hồn người chiến sĩ, người tù trên đường chuyến lao lúc ây vẫn hi vọng một ngày mai tươi đẹp, tiếp tục cuộc đấu tranh, giải phóng cho dân tộc là nét đẹp hiện đại trong hồn thơ “Chiều tối”.
3. Nhận xét chung: Bài thơ “Chiều tối” là sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại, tạo nên một bức tranh chiều thật sống động, giàu sức biểu cảm, toát lên niềm tin yêu cuộc sông con người và niềm hi vọng, lạc quan một ngày mai tươi sáng trong tâm hồn nhà thơ là giá trị, sức sông cho tác phẩm.
Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Ghi lại bài thơ “L a i T â n ” của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ” và nêu rõ chủ đề của tác phẩm. Câu 2: Anh (chị) có nhận xét gì về bài thơ “L a i T ă n ” của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k i tron g tù?”.
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Bài thơ L a i T ân của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k í tron g tù ” như sau:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng lo công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.”
(Nam Trân dịch - Sách Văn học 11)
Chủ đ ề b à i th ơ L a i T ân: Tác giả viết lên nhằm tô' cáo những kẻ đại diện cho bộ máy thông trị của xã hội Trung Quô'c dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ tham nhũng và thôi nát.
Câu 2: Nhận xét vể bài thơ “L a i T ăn ” của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “N h ậ t k í tron g tù”:
1. Nhận xét ba câu thơ dầu:
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng lo công việc”
(Trích Lai Tân - Hổ Chí Minh)
Tác giả dựng cảnh làm việc của những kẻ đại diện bộ máy thống trị của xã hội Trung Quốc dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ là bất công, thối nát. Xót xa thay, những kẻ đại diện cho pháp luật, chính quyền, cho phép nước mà hoạt động hoàn toàn đi ngược lại pháp luật, vi phạm pháp luật, điển hình như Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng đều là những kẻ có chức, có quyền đại diện cho dân, cho cán cân công lí, cho sự nghiêm minh của luật pháp nhưng chức vụ và việc làm của họ hoàn toàn đôl lập đi ngược lại chức năng và nhiệm vụ của chính mình, tiêu biểu là Ban trưởng, người quản lí trại giam, kẻ thực thi pháp luật đối với tội phạm nhưng lại là kẻ chuyên đánh bạc, nghiện cờ bạc, chứng tỏ Ban trưởng là tay cờ bạc chuyên nghiệp thì còn gì là kẻ thực thi cho pháp luật, chứng tỏ hắn đã vi phạm pháp luật còn nặng hơn, tính chất sự việc còn nghiêm trọng hơn càng thấy rõ sự bất công, thối nát của chế độ nhà tù dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ. Chúng ta còn nhớ bài thơ “Đánh bạc” của tác giả Hồ Chí Minh trích trong tập thơ “Nhật kí trong tù” cũng nói lên sự thối nát bất công như thế qua lời thơ: “Đánh bạc ớ ngoài quan bắt tội. Trong tù đánh bạc được công khai”. Tiếp đến là cảnh trưởng, một tên cảnh sát trưởng có nhiệm vụ chuyến giải phạm nhân, thực thi pháp luật đem lại trật tự xã hội nhưng mỉa mai thay, lúc giải người, hắn đã dở trò ma mãnh với tiếng gọi “kiếm ăn quanh” nhằm phơi bày bộ mặt bỉ ổi của kẻ ăn hôl lộ đế vun đắp cho cuộc sông vật chất riêng tư của hắn, thì hỏi rằng, hành động bỉ ổi của hắn là thực thi luật pháp hay luật rừng và kẻ thi hành luật pháp như tên cảnh trưởng thật là vô liêm sỉ. Rồi đến huyện trưởng chong đèn io công việc mà lo việc gì đây? Có thể chong đèn hút thuôc phiện hay làm những việc bâ't chính, phi pháp để vòi vĩnh phạm nhân, thật là đê tiện, mỉa mai cho kẻ đại diện chính quyền mà người đời thường gọi là “quan chi phụ mẫu”, là tâ"m gương sáng của dân vì dân mà lo cho dân như cha mẹ nhưng lại là kẻ vi phạm luật pháp trắng trợn, chúng đã ung dung, ngang nhiên chạy theo vật chất đế vòi vĩnh là hành động bất chính, càng thấy rõ bộ máy thông trị của xã hội Trung Quô'c lúc bấy giờ thật đồi bại, thôi nát.
2. Nhận xét lời thơ cuôi: (câu 4)
Lời thơ cuôl: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Với giọng thơ châm biếm, thâm thúy nhằm đã kích, lên án bộ máy thôhg trị thôi nát dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch như một tiếng thở dài của tác giả, phơi bày một xã hội mà những kẻ cầm quyền, đại diện cho luật pháp, lại tự do ngang nhiên vi phạm pháp luật mà chúng vẫn bình thản, an nhiên, vô sự, vẫn ung dung hưởng lạc trên nỗi đau khổ của nhân dân như không có chuyện gì xảy ra, nhăm lên án một chính quyền bất công, thôi nát, một “xã hội đại loạn” đúng như lời người xưa từng nói: “Thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, trên dưới đều loạn. Thật là mỉa mai.
10
3. Nhận xét chung: Lai Tân với ngòi bút sắc bén của tác giả Hồ Chí Minh, tác giả đã khắc họa bức tranh trào phúng đặc sắc không chỉ đả kích một vài viên quan cá biệt, cụ thế mà ngòi bút của tác giả, đã viết lên nhằm lên án cả một bộ máy thống trị thối nát dưới thời chính quyền Tưởng Giới Thạch. Với nghệ thuật châm biếm độc đáo, sắc sảo của tác giả, bài thơ cho ta thấy rõ, con người chiến sĩ trong con người tù đã dũng cảm, dám đứng lên đấu tranh bằng ngòi bút đanh thép đế phơi bày bộ mặt thống trị của chính quyền Tưởng Giới Thạch trong nhà tù cũng như ngoài xã hội. Chứng tỏ tác giả Hồ Chí Minh là một chiến sĩ, một người nghệ sĩ chân chính đã viết lên những vần thơ thép nhưng thấm đẫm một chất tình. Đúng như lời bày tỏ của tác giả: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là một chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
TỪ ẤY
Tố Hưu
Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Viết lại dầy đủ bài thơ ‘"Từ ấy" của nhà thơ Tô Hữu và nêu lên hoàn cảnh sáng tác, ý nghĩa nội dung cùng chủ đề của tác phẩm. Câu 2: Anh (chị) giải thích tựa đề “Từ ấy ” trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tô Hữu.
HƯỚNG DẨN
Câu 1: Bài thơ “Từ ấy" qua nét bút của Tô Hữu;
Từ ấy
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim ...
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Dể hồn tôi với bao hồn kh ổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối dời.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn dầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ ...
(Trích Tập thơ "Từ ẩy”)
11
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Tháng chín năm 1938 người thanh niên trẻ Tô Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là niềm vinh dự rất lớn cho nhà thơ cũng là niềm sung sướng tràn ngập tâm hồn người thanh niên trẻ khi tìm được lôl ra, lí tưởng sông cho cuộc đời mình. Niềm sung sướng ấy, Tô' Hữu đã viết lên bài thơ “Từ ấy". Bài thơ trích trong tập thơ “Từ ấy" (1937-1946). Đây là tập thơ đầu tay của Tố Hữu.
2. Ý nghĩa nội dung;
Bài thơ “Từ ấy" có hai ý chính:
Ý 1: Bôn câu đầu: “Từ ấy ... rộn tiếng chim".
Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn người thanh niên trẻ một lí tưởng sô'ng đẹp.
Ý 2: Hai khổ thơ còn lại: “Tôi buộc ... cù bất cù bơ".
Hai khố thơ còn lại nói lên tình yêu giai câ'p, những con người cùng khổ sẽ cùng nhà thơ kết hợp lại, tạo thành một sức mạnh để đâu tranh giải phóng cuộc đời mình và giải phóng dân tộc.
Chủ đ ề: “Từ ấy”, bài thơ đầu tay của Tố Hữu, toát lên một ánh sáng mới, ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn người thanh niên một lí tưởng sống đẹp. Sông phải biết cống hiến, dân thân cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời giành lại tự do độc lập cho dân tộc.
Câu 2: Giải thích tựa đề “Tù’âý”:
Vào những năm 1937-1938, đất nước ta vẫn chìm trong bóng đêm, nhân dân lầm than đói khổ. Chính thời điểm này, người thanh niên trẻ Tố Hữư đã tìm được lối ra cho cuộc đời mình. Đó là giây phút, nhà thơ đón nhận ánh sáng của chii nghĩa Mác - Lênin. Ánh sáng ấy soi rọi vào tâm hồn người thanh niên trẻ một nhận thức mới, một cái nhìn mới và niềm vinh dự, sung sướng là cuối mùa thu, tháng chín năm 1938, Tố Hữu được kết nạp Đảng, trở thành người Đảng viên trẻ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng “Từ ấy” đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời thơ Tố Hữu, khi đón nhận một lí tưởng sống đẹp từ ánh sáng cách mạng và sẵn sàng đem sức trẻ, tuổi thanh xuân để cống hiến cho đời cho cách mạng để cuộc sống có ý nghĩa. Tựa đề “Từ ấy” của bài thơ xuất phát từ những suy nghĩ trên.
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bài thơ “Từ ấ y ” của nhà thơ Tô Hữu trích trong tập thơ cùng tên của chính tác giả dể thấy đưỢc tâm trạng diễn biến của người thanh niên trẻ khi đón nhận ánh sáng Mác - Lênin.
iSỈững kiến thức cần nắm:
1. Nhà văn Pháp Aragông bày tỏ: “Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng” 12
2. Tô" Hữu bày tỏ nỗi lòng khi chưa tìm được lối ra với lời thơ: “Băn khoăn đi kiêm lẽ yên đời”. (Tô" Hữu)
3. Triết gia người Áo - Nayrac có nói: “Niềm vui là hương thơm của cuộc đời, làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ". (Nayrac)
4. Tô Hữu bày tỏ: “Lòng tôi sung sướng vô cùng khi đón nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lêìiin”. (Tô Hữu)
5. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Khi chúng ta cầm tay mọi người. Đất nước vẹn tròn to lớn”. (“Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm)
6. Nhà thơ Xuân Quỳnh từng nói: “Làm sao được tan ra... Giữa biển lớn tỉnh yêu”. (“Sóng” - Xuân Quỳnh)
7. Nhà thơ Chế Lan Viên bày tỏ: “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp. Một mái nhà yên rũ bóng xuống tâm hồn”, (trích “Người đi tim hình của Nước” - Chế Lan Viên)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng”
(Aragỏng - Pháp)
Lời bày tỏ của nhà vàn Pháp Aragông toát lên một lí tưởng sống đẹp, đưa chúng ta nhớ về bài thơ “Từ ấy" của Tố Hũu tríbh trong tập thơ cùng tên của tác giả, thế hiện một quan niệm sống đẹp khi nhà thơ đón nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cần phân tích bài thơ đê làm rõ tâm trạng diễn biến của người thanh niên trẻ Tô Hữu khi đón nhận ánh sáng Mác - Lênin.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Quá trình d iễn biến tâm trạn g củ a người than h niên trẻ trong “Từ Ay”. 1. Tâm trạng 1 (khố thơ đầu): Ánh sáng Mác - Lênin thắp sáng tâm hồn người thanh niên trẻ một lí tưởng sông đẹp.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân li chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim ”.
("Từ ấy” - Tố Hữu)
Tiếng gọi đầu tiên vang lên ở dầu câu với hai tiếng “Từ ấy” cho người đọc cảm nhận đây là tiêng lòng của nhà thơ, người thanh niên trẻ trong những nàm 1937-1938 là thời điểm đẹp nhất giúp nhà thơ tìm được lô"i ra,, hướng về, đó là lẽ sống đẹp mà từ lâu nhà thơ vẫn “òă/ỉ khoăn đi kiếm lẽ yêu đời". Với từ gợi cảm “bừnq” khơi nguồn một sức sông, một ánh sáng mới, một niềm tin mới, khơi dậy tâm hồn nhà thơ một cảm nhận mới. Phải chăng, đó là ánh sáng Mác - Lênin, ánh sáng của “mặt trời chân lí chói qua tim”, đáng quý cho nhà thơ tiếp oận một
13
lí tưởng đẹp “sống là cho đâu chi nhận riêng m inh”. Đặc biệt với cụm từ gợi tả “chói qua tim” chính là giây phút mà ánh sáng Mác - Lênin soi rọi trong tâm hồn nhà thơ, khai phá trong suy nghĩ nhà thơ một nhận thức mới, một con đường mà mình đã chọn tràn đầy sức sông trào dâng, mãnh liệt như xua tan bóng tôi tìm thấy ánh sáng, đau khố tìm thấy hạnh phúc, nô lệ tìm thấy tự do. Đó là niềm vui sướng tràn ngập trong tâm hồn người thanh niên trẻ lúc ấy đế bật thành tiếng gọi; “Hồn tôi là một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng chim ”. Với triết gia người Áo (Nayrac) đã từng nói: “Niềm vui là hương thơm của
cuộc đời, làm thay đổi cả máu huyết và trí tuệ”. Phải chăng, với hình ảnh so sánh, ẩn dụ giàu sức biểu cảm qua hai câu thơ trên là tâm trạng vui sướng của tác giả khi đón nhận một lí tưởng sống đẹp, một con đường đi tới mà tuổi trẻ cần phải làm gì để tìm lại cuộc đời mình, cuộc đời dân tộc thì còn gì vui sướng hơn. Với cách nói ví von, so sánh, tâm hồn nhà thơ lúc ấy, có khác gì như một vườn xuân đầy hoa thơm cỏ lạ, hương sắc ngọt ngào, kết hợp những âm thanh của tạo vật, những tiếng chim gọi mùa xuân về, đang ríu rít trên cành là biếu hiện một tâm hồn tươi trẻ đang trào dâng một sức sông mới, một niềm tin mới như lời bày tỏ của tác giả: “Lòng tôi sung sướng vô cùng khi đón nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lénin”. Quả thật: “Người vui cảnh có buồn đâu bao giờ".
2. Tâm trạng 2 (khổ thơ giữa và cuối): Người thanh niên trẻ tự nguyện đứng cùng nhân dân lao khổ tạo sức mạnh đề giành lại cuộc đơi. “Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Đ ể tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn kh ổ
Gần gũi nhau thêm ìnạnh khối đời”.
Tiếng gọi; “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” thế hiện lời bày tỏ dứt khoát, khẳng định của người thanh niên trẻ khi đón nhận ánh sáng Mác - Lênin. Nhà thơ đã biến nhận thức thành hành động là cần phải làm gì đế thực hiện lí tưởng đẹp ấy. Hai tiếng “tôi buộc” là tiếng nói chân tình trong trái tim người thanh niên, phải làm sao nôi kết lại, hiệp lại cùng với mọi người, mọi thành phần trong xã hội, ở đây, là nhân dân lao khố đang sông lây lâ't, vâ't vưởng ở ngoài cuộc đời kia. Đây là một quan niệm sông đúng đắn, sông đẹp, biết đem “cái tôi” hòa chung vào “cái ta” của quần chúng, “cái ta" của cộng đồng, của nhân dân tạo thành một sức mạnh tổng hợp, một sợi dây liên kết, nôi thành một vòng tay lớn cùng đứng lên đấu tranh giành lại cuộc đời mình và cuộc đời dân tộc. Hàng loạt tiếng gọi “trang trải”, “trăm nơi”, “mạnh khối đời” càng tạo thêm niềm tin, sức sống trong tâm hồn nhà thơ là biểu hiện một tình yêu giai cấp râ"t rõ từ đó hình thành tình đồng chí, tình chiến hữu cùng đứng lên đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân vì tự do độc lập của dân tộc đúng như lời bày tỏ của Mác: “Hạnh phúc là dấu tranh”.
14
Mở rộn g:
Hàng loạt từ ngữ “trang trải", “trăm nơi”, “mạnh khối đời” toát lên một lẽ sống đẹp, sống phải biết đồng cảm, yêu thưomg, chan hòa, chia sẻ trước nỗi đau kẻ khác, ở đây là những con người cùng khổ, đang sông giữa cuộc đời lầm than dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Vậy chúng ta phải làm gì đây? phải biết yêu ai? căm thù ai? phải có nhận thức đúng, hướng đi đúng từ ánh sáng Mác -
Lênin. Với người thanh niên trẻ, phải biết “làm sao được tan ra”, “giữa biển lớn tinh yêu”, giữa biển lớn cuộc đời, cuộc đời lao khổ, cuộc đời lầm than ở ngoài kia và “Phái biết cầm tay mọi người” nối kết thành một vòng tay lớn, một sức mạnh mới, nhằm đập tan xiềng xích nô lệ để tìm thấy một ngày mai tươi sáng, đế “đất nở hoa”, “trời mỗi ngày lại sáng” đế từ bóng tối bước ra ánh sáng từ nô lệ tìm đến tự do là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, lè sống đẹp của người thanh niên trẻ Tô Hữu lúc bấy giờ.
Mạch cảm xúc của nhà thơ tiếp tục khơi dậy:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Hàng loạt điệp câu “là con của vạn nhà... là anh của vạn đầu em nhỏ...”. Với giọng thơ khẳng định, dứt khoát, chính là lời bày tỏ chân tình của người thanh niên trẻ Tô” Hữu khi tìm thấy ánh sáng Mác - Lênin và nhà thơ tự khắng định, là một thành viên trong đại gia đình lao khổ ở ngoài kia, lầm than đói rét ngoài kia. Chứng tỏ nhà thơ đã xác lập “cái tôi” của mình hòa nhập vào “cái ta” của nhân dân lao khố cùng nôi kết lại, hiệp lại tạo thành một sức mạnh tổng hợp, một sợi dây liên kết, hình thành, một tình yêu giai câ”p, tình đồng chí, tình chiến hữu cùng đứng lên đâu tranh giành lại tự do độc lập cho dân tộc là bổn phận trách nhiệm của tuồi trẻ Việt Nam lúc ây. Thực hiện được như thế, nhà thơ cảm thây không hổ thẹn với ông cha ta thuở trước đã xây dựng đâ't nước này vì: “Đât Nước lá máu xương của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ”. Phải biến nhận thức đau thương thành hành động quên mình vì sự nghiệp đấu tranh cho dân tộc là lẽ sông đẹp của người thanh niên.
II. PHÂN KẾT THÚC
1. về nghệ thuật: Kết hợp những hình ảnh tiêu biểu, chọn lọc, lời thơ khẳng định dứt khoát, nhịp thơ dồn dập, diễn đạt tự nhiên cùng những biện pháp tu từ đặc sắc.
2. về nội dung: “Tư ấy” đã khắc họa hình ảnh người thanh niên trẻ Tô Hữu khi tìm thấy ánh sáng mới, ánh sáng Mác - Lênin đã thắp sáng trong tâm hồn nhà thơ một hướng đi đúng, một lẽ sông đẹp là niềm hạnh phúc của tác giả. Quả thật: “Từ ấy là tiêng lòng của một hồn thơ đẹp”.
15
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
Trích kịch “Vũ Như Tô” - Nguyễn Huy Tưởng
Để'tuyển sinh: A nh (chị) hãy làm rõ c á c câ u sau đây :
C áu 1: T rìn h bày h o à n cả n h và m ục đ íc h sán g tá c k ịc h b ả n “Vũ N hư T ô” c ủ a tá c g iả N guyễn Huy Tưởng.
C âu 2: A nh (chị) h iểu g ì về tự a d ề “Vũ N hư T ô” tron g k ịc h b ản cù n g tên c ủ a tá c g iả N guyễn Huy Tưởng?
C áu 3: Tóm tắ t k ịc h Vũ N hư Tô. ____________________________________ HƯỚN(Ỉ DẨN
Câu 1.
1. Hoàn cảnh sáng tác: Tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết lèn kịch bản “Vũ Như Tô” nhằm nói về một thời kì đất nước ta rơi vào tên bạo chúa Lê Tương Dực. Câu chu vện xảy ra ở Thăng Long vào những nàm 1516-1517. Lê Tương Dực muốn xây dựng Cửu Trùng Đài làm nơi vui chơi hưởng lạc cùng các cung nữ. Bạo chúa lại nhờ kiến trúc sư Vũ Như Tô xây dựng. Trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thuộc hồi V trong kịch bản. Tác giả viết kịch bản này vào mùa hạ năm 1941.
2. Mục đích sáng tác: Kịch bản “Vũ Như Tô” của tác giả Nguyễn Huy Tưởng viết lên nhằm mục đích nêu lên nhiệm vụ của người nghệ sĩ là phải biết kết hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống và chức năng của người làm nghệ thuật là phải biết đem tài năng nghệ thuật của mình phục vụ cho nhân dân cho dân tộc. Ngiíời nghệ sĩ không đứng trên quan niệm; “nghệ thuật vị nghệ thuật” mà phải đứng trên quan điếm “Nghệ thuật vị nhân sinh”.
Câu 2.
Ý nghĩa tựa đề: Nhớ về nhà kiến trúc sư thiên tài, xây dựng Cửu Trùng Đài dưới thời bạo chúa Lê Tương Dực không ai khác hơn là Vũ Như Tô. ông là một nghệ sĩ tài năng có tâm huyết, yêu nhân dân, quý trọng những con người lao động. Vũ Như Tô đã từ khước việc xây Cửu Trùng Đài theo yêu cầu của bạo chúa Lê Tương Dực. Òng bị bắt. Sau đó gặp cung nữ Đan Thiềm, người đã ngưỡng mộ tài năng của ông và khuyên ông hãy xây dựng Cửu Trùng Đài nhằm thực hiện hoài'bão của mình bằng cả tài năng, tâm huyết và lúc ấy, vỢ con sẽ không bị bắt, họ hàng không bị tru di tam tộc vì tội “khi quân”. Vũ Như Tô nghe lời khuyên của Đan Thiềm, xây dựng Cửu Trùng Đài bằng tâd cả tài năng, thiện chí, lòng dam mê nghệ thuật của mình. Vũ Như Tô dựa vào quyền lực và tiền bạc của tập đoàn bạo chúa Lé Tương Dực nhằm ra sức xây dựng Cửu Trùng Đài, làm sao cho thật nguy nga tráng lệ “bền như trăng sao” và có thế “tranh tinh xảo với hóa công”. Cửu Trùng Đài sắp hoàn tất cũng là lúc gây ra sự mâu thuẫn trầm! trọng giQa nhửng người thợ lành nghề cùng nhân dân lao động đôl với Vũ
16
Như Tô, mỗi lúc càng trở nên gay gắt. Lợi dung sự rôl ren mâu thuẫn trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, quận công Trịnh Duy Sản lợi dụng cơ hội này, cầm đầu một cánh quân phản nghịch và lôi kéo những người thợ xây cùng nhân dân lao động đứng về phía mình nổi dậy, giết bạo chúa Lê Tương Dực. Lúc ấy, cung nữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô tìm cách trôn thoát nhưng Vũ Như Tô kiên quyết sông chết với Cửu Trùng Đài, cuôì cùng ông đón nhận cái chết. Hoài bảo của Vũ Như Tô đã trở thành mây khói, kết thúc là một thảm kịch, nhưng trước giờ phút cuôi cùng, Vũ Như Tô vẫn chưa nhận ra sự sai lầm của mình giữa chức năng của người nghệ sĩ, nhà kiến trúc sư và nhiệm vụ của một công dân đôì với dân tộc. Đó là quá trình diễn biến của kịch bản mà nhân vật Vũ Như Tô là nhân vật trọng tâm, từ đó tác giả Nguyễn Huy Tưởng đã lấy tên nhân vật Vũ Như Tô đế xây dựng cho tựa đề kịch bản.
Câu 3. Tóm tắ t kịch bản: Gồm năm hồi và ba phân đoạn:
P h ă n đ o ạ n 1: Vũ Như Tô từ chôl yêu cầu của bạo chúa Lê Tương Dực trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, sau đó ông bị bắt.
P h ân đ oạn 2: Cung nữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô hãy hợp tác với Lê Tương Dực đế xây Cửu Trùng Đài nhằm thực hiện hoài bảo của một nhà kiến trúc sư tài năng đồng thời vợ con khỏi bị bắt, họ hàng khỏi bị tru di tam tộc vì tội "khi quân”. Vũ Như Tô nghe lời khuyên của Đan Thiềm xây dựng Cửu Trùng Đài.
P hân đ o ạ n 3: Vũ Như Tô thực hiện xây Cửu Trùng Đài. ông đã lợi dụng quyền lực và tiền bạc của tập đoàn bạo chúa Lê Tương Dực để làm cho Cửu Trùng Đài nguy nga, tráng lệ, hoành tráng, hùng vĩ để lại cho đời sau, chính là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa những thợ xây lành nghề cùng nhân dân lao động từng yêu quý Vũ Như Tô. Lợi dụng tình thế rối ren, quận công Trịnh Duy Sản nôi dậy kết hợp với nhân dân lao động bất mãn cùng với những người thợ xây đứng lên giết Lê Tương Dực, cung nữ Đan Thiềm và Vũ Như Tô rồi đốt Cửu Trùng Đài (thuộc hồi V).
Để tuyến sinh: A nh (chị) p h â n tích n h ã n vật Vũ N hư Tô th u ộc trích đ oạn '‘‘Vĩnh biệt Cửu Trùng Đ ài” (hồi V) tron g k ịc h bản “Vũ N hư T ô” c ủ a tá c g iả N guyễn Huy Tưởng đ ể tìm thấy tâm trạn g u ẩn kh ú c c ủ a n h à k iến trú c th iên tài trước g iờ p h ú t cu ối cùng.
Ị3Ỉữnsr kiến thức cần nắm:
1. Nhà thơ Tô Hữu có viết: “Có cái chết hóa thành bất tữ ’. (Tô Hữu) 2. Có ý kiến rằng: “Người nghệ sĩ như con ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt dếìi cho đ ờ i’. (Lời nhận định)
3. Trong quan niệm sáng tác có nhiều quan niệm: “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”.
17
4. Trong chương trình văn học cấp ba có nhiều cái chết khi kết thúc, đều có hướng giải quyết tô4.
- Nhân vật Chí Phèo của nhà văn Nam Cao cuôl cùng phải tự sát để tìm về người nông dân ngày ấy như là một lối thoát.
- Ông Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trước giờ phút cuôl cùng của cuộc đời mình, ông vẫn sáng tạo cái đẹp. - Kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, phần kết thúc vẫn định hướng cho Trương Ba tìm về cái chết là tìm về chính mình “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tử”.
(Tố Hữu)
Nhưng cũng có cái chết để lại cho người đọc, cho đời vừa nuôi tiếc vừa oán giận vì họ không nhận rõ chức năng của người nghệ sĩ và trách nhiệm của một công dân trước hoàn cảnh đất nước đó là nhân vật Vũ Như Tô thuộc trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (hồi V) trong kịch bản Vũ Như Tô qua ngòi bút của tác giả Nguyễn Huy Tưởng, sáng tác năm 1941.
Cần đi sâu nhân vật Vũ Như Tô thuộc trích đoạn trên để tìm thấy tâm trạng uẩn khúc của nhà kiến trúc sư thiên tài trước giờ phút cuối cùng.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
T âm trạn g u ẩn k h ú c c ủ a n h à k iế n trú c sư Vũ N h ư Tô trư ớc g iờ p h ú t cu ối cùng.
1. Chi tiết 1: Vũ Như Tô kiên quyết không xây dựng Cửu Trùng Đài theo yêu cầu của bạo chúa Lê Tương Dực: Vũ Như Tô, nhà kiến trúc sư tài năng, có tâm huyết, có lòng dam mê nghệ thuật, ông là người không ham lợi, không sợ chết, luôn luôn đứng về phía nhân dân lao động bằng tất cả tình yêu thương. Vì thế Vũ Như Tô kiên quyết không xây dựng Cửu Trùng Đài theo yêu cầu của bạo chúa Lê Tương Dực. Sau đó ông bị bắt. ông nhờ cung nữ Đan Thiềm tìm cách để trôh thoát. Nhưng cung nữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô không nên hành động như vậy sẽ có hại cho bản thân, liên lụy đến vợ con và cả dòng họ vì tội “khi quân”.
2. Chi tiết 2: Vũ Như Tô chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài theo lòd khuyên của cung nữ Đan Thiềm: Vũ Như Tô thực hiện xây Củu Trùng Đài trong thời điểm này là thể hiện khát vọng hoài bão về con đường nghệ thuật của ông. Vũ Như Tô dựa vào quyền lực của tập đoàn Lê Tương Dực ra sức xây dựng Củư Trùng Đài làm sao cho nguy nga, tráng lệ, hùng vĩ “bền như trăng sao”, có thể "tranh tinh xảo với hóa công”. Và làm sao xây Cửu Trùng Đài trở thành nơi
18
bồng lai giữa trần gian. Đứng về mặt nghệ thuật, niềm khát vọng của Vũ Như Tô là hợp lí với tính cách của một người nghệ sĩ, một kiến trúc sư giàu tâm huyết. Nhưng khát vọng hoài bão cao đẹp của Vũ Như Tô trong việc xây Củu Trùng Đài là nguyên nhân tạo nên sự mâu thuẫn giữa nhân dân lao động cùng những thợ xây lành nghề đối với Vũ Như Tô. Đây là những người ông yêu quý nhất nhưng vì khát vọng nghệ thuật, ông muốn làm sao Cửư Trùng Đài là tài sản của đất nước đế lại cho hậu thế mai sau. Vũ Như Tô càng ra sức làm cho Cửu Trùng Đài hoành tráng hơn như một tòa lâu đài hoa lệ, bắt buộc tập đoàn Lê Tương Dực ra sức bóc lột đời sống nhân dân lao động, tăng thuế làm cho “cồng khố hao hụt", đời sống của nhân dân lao động càng lầm than cơ cực. Đặc biệt việc xây Cửu Trùng Đài làm cho vài ngàn người phải hi sinh, mẹ mất con, vợ mất chồng với bao nhiêu oán than về Vũ Như Tô.
3. Chi tiết 3: Tâm trạng uẩn khúc của nhà kiến trúc sư Vũ Như Tô trước giờ phút cuối cùng (hồi V): Cửu Trùng Đài sắp hoàn thành cũng chính là lúc tình hình rối ren xảy đến cho tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực. Lợi dụng tình hình rối ren này, quận công Trịnh Duy Sản cầm một cánh quân đối nghịch, lôi kéo hơn phân nửa, nhân dân lao động đứng về phía mình và kết hợp với giặc Trần Cao ở Bồ Đề kéo binh nổi loạn. Trước tình hình nguy kịch ấy, cung hữ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô tìm cách trốn thoát vì biết ông là người có tài, cần phải sống để tiếp tục xây dựng cho đất nước. Nhưng, Vũ Như Tô kiên quyết không bỏ trốn và khẳng định rằng: “Tôi có tội tình gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu đ ể hại nước. Ta xây Cửu Trùng Đài đ ể lại cho đất nước và cho hậu thế một công trình nghệ thuật đẹp, nguy nga tráng lệ”. Và Vũ Như Tô khẳng định: “Người quân tử không bao giờ sợ chết mà vạn nhất có chết cũng đ ể cho mọi người hiểu rằng, việc làm ciía mình chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài và tôi cũng chết với Cỉtu Trùng Đài". Hàng loạt những suy nghĩ của Vũ Như Tô trước tình huống đầy nguy kịch đang xảy ra như thế, chứng tỏ Vũ Như Tô, vẫn quả quyết việc xây dựng Cửu Trùng Đài của mình là đúng với chức năng của người nghệ sĩ, nhà kiến trúc sư.
Nhấn mạnh: Nhưng Vũ Như Tô không nhận ra rằng vì xây Cửu Trùng Đài theo khát vọng nghệ thuật của ông, đã làm cho đời sống nhân dân cơ cực, lầm than, đói khổ, công khố hao hụt, mấy ngàn người hi sinh vì Cửu Trùng Đài. Như vậy, với tư cách một công dân, Vũ Như Tô là người có tội, là một “tội nhăn”. Nếu đứng về tư cách một nghệ sĩ, nhà kiến trúc, ông là một “nạn nhân". Như vậy, Vũ Như Tô vẫn chưa hiểu rõ giữa khát vọng nghệ thuật phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Nếu đi ngược lại, Vũ Như Tô là người có tội với nhân dân và di ngược lại chức năng của một nghệ sĩ chân chính vì nghệ thuật phải phục vụ cho cuộc sống, cho dân tộc.
Kết thúc Vũ Như Tô bị dẫn ra pháp trường và trước giờ phút cuôì cùng, Vũ Như Tô vẫn mang một tâm trạng uẩn khúc vì ông chưa nhận rõ thiên chức của người nghệ sĩ và trách nhiệm của một công dân phải có sự liên kết, hài hòa để thích nghi trước cuộc sông thực tế, hoàn cảnh của đất nước thì chức năng người
19
nghệ sĩ mới đem lại giá trị, có ý nghĩa cho cuộc sông. Chứng tỏ Vũ Như Tô đã đặt “nhầm người và nhầm thời”. Như vậy, hướng giải quyết của tác giả chưa triệt để vì Vũ Như Tô vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình về việc xây Cửu Trung Đài, đó là mặt hạn chế của kịch bản.
Mở rộng: Trong chương trình văn học cấp ba, có nhiều tác phẩm với định hướng của tác giả là hướng giải quyết về nhân vật của mình, khi kết thúc phải đón nhận cái chết như là một giải thoát tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà vàn Nam Cao, kết thúc Chí Phèo tự sát, kết liễu cuộc đời mình như một lôi thoát, một giải thoát đề Chí Phèo tìm lại người nông dàn lương thiện của ngày nào ở bên kia cuộc đời. Nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân, ông Huấn Cao, trước giờ phút cuôd cùng, ông vẫn mỉm cười thanh thản, sáng tạo ra cái đẹp. Nhân vật Lor-ca, người nghệ sĩ thiên tài của đất nước Tây Ban Nha trong bài thơ “Đàn
ghi-ta của Lor-ca” qua ngòi bút Thanh Thảo. Trước giờ phút cuôì cùng ra bãi bắn, Lor-ca vẫn “hát nghêu ngao" vẫn “di như người mộng du" không bận lòng với tất cả và cố quên tất cả để hướng cái chết thanh thản tự tại. Nhân vật Hồn Trương Ba trong kịch bản “Ilồn Trương Ra, da hàng thịt" của tác giả Lưu Quang Vũ, ở phần kết thúc, Hồn Trương Ba cũng xin được chết và chỉ có cái chết mới trả lại cho Hồn Trương Ba, hồn nào xác nấy “tôi muốn được là tôi toàn vẹn" được sông trong hoài niệm, nỗi nhớ của mọi người. Riêng cái chết của Vũ Như Tô trong kịch bản cùng tên của tác giả Nguyễn Huy Tưởng, nhà kiến trúc sư Vũ Như Tô đón nhận cái chết trước giờ phút cuô'i cùng, vẫn mang một tâm trạng uẩn khúc, vẫn chưa nhận rồ sai lầm của mình giữa chức năng người nghệ sĩ và trách nhiệm của một công dân đôi với đất nước thì cái chết của Vũ Như Tô vẫn chưa thanh thản là cách giải quyết chưa triệt đế của tác giả, đó là mặt hạn chế của kịch bản.
III. PHÂN KẼT THÚC
1. v ề nghệ thuật: Trích đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Dài" (hồi V) của kịch bản “Vũ Như Tô" qua ngòi bút cùa tác giả Nguyền Huy Tưởng. Đây là câu chuyện có thật xảy ra tại Thăng Long vào năm 1516-1517. Xây dựng tình huông truyện gây cấn, đầy kịch tính, lời thoại chân thật, đi sâu vào đời sống nhân vật, tạo sự lôi cuôh hấp dẫn cho người đọc.
2. về nội dung: Trích đoạn (thuộc hồi V) khắc họa những diễn biến xảy ra trong cung của tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực và thấy rõ Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc thiên tài, yêu nghệ thuật muốn đế lại cho đời cho đất nước những công trình quý báu do bàn tay con người xây dựng. Nhưng đáng tiếc, việc thực hiện hoài bão cùa Vũ Như Tô không phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc ấy, đế đưa đến cái chết của Vũ Như Tô cùng tàm trạng uấn khúc của ông. Vừa tiếc thương ông lại vừa oán giận ông...
20
n ì VĂN HỌC HIỆN THựC PHÊ PHÁN
CHÍ PHÈO
NAM CAO
Đế tuyển sinh: A nh (chị) là m rõ h a i câ u sau dây:
Câu 1: T rìn h bày sự n g h iệp văn h ọ c c ủ a n h à văn N am Cao. Cảu 2: T rìn h bày qu an đ iểm sán g tá c c ủ a n h à văn N am Cao.
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Sự nghiệp văn học của nhà văn Nam Cao:
1. Trước năm 1945: Nam Cao, một nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945. Trong thời kì này nhân dân ta sống dưới chẽ độ thực dân phong kiến, cuộc sông lầm than cơ cực đè nặng trên đôi vai người nông dân và người trí thức. Trước hoàn cảnh ấy, tác giả đã xây dựng hai đề tài về người nông dân nghèo và người trí thức nghèo.
а. về người n ôn g d â n n g h èo: Trước Cách mạng tháng Tám, đời sông người nông dân thật cơ cực, đọa đày dưới sự áp bức của bọn tay sai cường hào. Đời sống người nông dân với bao bi kịch và kết thúc là những thảm kịch như Lão Hạc, Chí Phèo... Những tác phẩm viết về đề tài này gồm có: “Lão Hạc, Chí Phèo, Nửa Đêm,
Lan Rận, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mỏ, Di Hảo ...”. б. về người tr í thứ c n g h èo: Thời kì này, sức mạnh của đồng tiền, đời sông cơ khí được đề cao, trọng dụng nhưng vai trò người trí thức bị xem thường khi '"cơm áo không đùa với khách thờ". Có những nghệ sĩ, trí thức tài năng và tâm huyết muốn được công hiến, trọng dụng nhưng trở thành những kẻ bất tài, không có đất sông. Bao nhiêu ước mơ, hoài bão về sự nghiệp văn chương của họ bị xói mòn, thui chột, trở thành kẻ sông thừa, sống mòn tiêu biểu nhà văn Hộ người tri thức nghèo trong tác phẩm “Đời Thừa”. Những tác phẩm viết về người trí thức nghèo gồm có: “Đời Thừa, Trăng sáng, Sống mòn..". Nhìn chung sự nghiệp văn học của Nam Cao trong thời kì này khắc họa hình ảnh người nông dân nghèo và người trí thức nghèo rất rõ nét, sông động điển hình, gây một tiếng vang rất lớn cho người đọc.
2. Sau năm 1945: Thời kì này nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chông Pháp, nhà văn Nam Cao trở thành người chiến sĩ hòa chung trái tim của người nghệ sĩ. Ông vừa viết báo, làm phóng viên chiến trường, viết lên những tác phẩm gắn liền với cuộc kháng chiến. Những tác phẩm để lại trong thời kì này
21
là: “Đôi mắt; Chuyện biên giới; Tình chiến dịch; Tập truyện cười”. Nhìn chung về sự nghiệp văn học của Nam Cao để lại cho đời khoảng 60 truyện ngắn, một truyện vừa, một tiểu thuyết và một vài vở kịch. Sự nghiệp sáng tác của ông bị dở dang vì trên đường công tác, ông đã hi sinh vào năm 1951 tại Ninh Bình.
Câu 2: Quan điểm sáng tác của nhà văn Nam Cao.
Được chia làm hai thời kì:
1. Thời kì trước năm 1945:
a. Nam Cao, ông có một quan niệm sáng tác rất rõ đôl với người cầm bút. Với ông người nghệ sĩ, nhà văn phải đứng trong lòng cuộc đời trong lòng của nhân dân lao khố để hiểu rõ cuộc sông, sô" phận, ước mơ và hoài bão chính đáng của họ, nhằm khắc họa những hình tượng nghệ thuật thông qua những nhân vật mang tính điển hình tiêu biểu trước cuộc sông. Với ông, nghệ thuật phải phục vụ cho nhân sinh, “vị nhân sinh”, “nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật là tiếng kêu của những kiếp lầm than”. (“Trăng sáng”)
b. Với Nam Cao, trong sáng tác, không lặp lại những gì đã có sẵn, đơn điệu, bằng phăng, trơn tru, sáo mòn mà phải luôn luôn đổi mới sáng tạo, chọn lọc, nâng cao tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Xây dựng những tình huông li kì, sông động, kịch tính, đi vào thực tế cuộc sông. Đúng như lời bày tỏ của tác giả: “Văn
chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu dưa cho mà văn chương phải biết dung nạp, đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. (“Đời Thừa” - Nam Cao).
2. Thời kì sau năm 1945: Thời kì này nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chông Pháp, Nam Cao không còn là một nhà văn đứng trong lòng cuộc đời, hiểu rõ nỗi đau sô' phận con người, để tạo nên nguồn cảm hứng trong sáng tác. Thời kì này, Nam Cao, ông đã tham gia chiến trường, viết báo cứu quôc, gia nhập đoàn quân Nam tiến. Lúc này, Nam Cao vừa là người chiến sĩ hòa chung trái tim của người nghệ sĩ. ông vừa cầm bút vừa cầm súng, thâm nhập thực tê cuộc kháng chiến để khám phá vẻ đẹp của người lính, tinh thần yêu nước đấu tranh của nhân dân trong kháng chiến kế cả những mặt tích cực lẫn tiêu cực, nêu lên những quan niệm của một sô' anh chị văn nghệ sĩ trí thức lúc ấy từ đó giúp nhà văn có những nguồn cảm hứng trong sáng tác đế viết lên những tác phẩm nhằm phục vụ kháng chiến, dân tộc, cách mạng. Với ông, cách mạng, kháng chiến, dân tộc là trên hết là tâ't cả và Nam Cao đưa ra một quan niệm râ't rõ trong sáng tác của thời kì này. Với ông: “Bước vào con đường không nghệ thuật là đ ể chuẩn bị cho mình một nghệ thuật cao hơn”. Đây là quan điểm sáng tác đúng đắn của một nhà văn chân chính trước hoàn cảnh đât nước lúc bấy giờ.
22
Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1; Tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao có bao nhiêu tựa đề. Anh (chị) giải thích ngắn gọn mỗi tựa đề.
Câu 2: Anh (chị) phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao trích trong tập “Luống cày”, xuất bản năm 1946 để thấy rõ sô phận đau thương của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.________________________
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Tác phẩm “Chi Phèo” có bao nhiêu tựa đề?
Tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao trong quá trình thực hiện có ba tựa đề:
- Tựa đề đầu tiên do nhà xuất bản Đời Mới lấy tên “Cái lò gạch cũ”. - Sau tựa đề này, nhà xuât bản Đời Mới lại sửa đổi, có tựa đề mới “Đôi lứa xứng đ ôi”.
- Đến năm 1946 nhà văn Nam Cao chính thức chọn tựa đề cuôl cùng là “Chi Phèo” trích trong tập “Luống cày”, xuất bản năm 1946.
Giải thích mỗi tựa đề:
- Tựa đề “Cái lò gạch c ủ ”: Chí Phèo là nhân vật trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Lúc chào đời, hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại là sô' phận bâ't hạnh của Chí. Sau khi Chí Phèo giết Bá Kiến, Chí Phèo tự sát bằng con dao, hắn vùng vẫy đành đạch bên vũng máu tươi. Khi hay tin Chí Phèo chết, Thị Nở lại nghĩ, những ngày đã sông với hắn như vợ chồng, bỗng dưng ánh mắt Thị Nở nhìn thâp thoáng xuống bụng mình rồi Thị chợt nghĩ một cái lò gạch cũ bỏ không vắng người qua lại sẽ là nơi Chí Phèo con ra đời. Xuất phát từ những suy nghĩ ấy nhà xuất bản Đời Mới chọn tựa đề “Cái lò gạch cũ”.
- Tựa đề “Đôi lứa xứ n g đôi”: Tựa đề “Đôi lứa xứng đôi”, người đọc liên tưởng nhân vật Chí Phèo đã trở thành một tên lưu manh, chỉ biết rạch mặt ăn vạ, đô't nhà, đâm thuê, chém mướn và chỉ có rượu mới tạo cảm giác mạnh cho hắn tồn tại. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà ai cũng phải sợ. Bên cạnh hình ảnh Chí Phèo, lại xuất hiện chân dung người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, chưa chồng có tên Thị Nở. Thị xấu xí đến nỗi ma chê quỷ hờn và mang một chứng bệnh nan y còn gọi là “bệnh hủi”. Mọi người đều xa lánh Thị, Thị sông với một bà cô không chồng. Tinh cờ Chí Phèo gặp Thị Nở nơi bến sông, họ ăn nằm với nhau như vợ chồng. Quả thật, Thị Nở và Chí Phèo là hai nhân vật đặc biệt hiếm thấy trong văn học vì thê nhà xuất bản “Đời Mới” lại chọn tựa đề thứ hai là “Đôi lứa xứng đôi” ý nói “nồi nào úp vung nấy”.
23
- Tựa dề “Chí P hèo”: Năm 1946, nhà văn Nam Cao quyết định lấy tựa đề “CAí Phèo”, Chí Phèo là một nhân vật có thật. Đây là câu chuyện xảy ra ở làng Đại Hoàng tỉnh Hà Nam. Chí Phèo lọt lòng rồi trở thành kẻ “tứ cố vô thân”, tuổi thơ của Chí Phèo đau buồn, tủi thân, tủi phận. Khi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù vì sự độc ác nhẫn tâm của Bá Kiến cùng chế độ nhà tù dã man, đã biến Chí Phèo trở thành con vật lạ, kẻ vô hồn mất cả nhân tính lẫn nhân hình. Bọn tay sai lúc ấy điển hình là Bá Kiến, hắn đã biến Chí trở thành công cụ tay sai đắc lực cho hắn và Chí Phèo hiện hình là một tên lưu manh chuyên rạch mặt, ăn vạ, đô4 nhà. Khi Chí gặp Thị Nở, tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở làm cho “phần người” của Chí Phèo thức dậy. Chí khao khát được sông, được làm người lương thiện như bao nhiêu con người bình thường khác nhưng vẫn bị từ chôd, Chí bị ruồng bỏ khỏi cuộc đời, cuối cùng Chí tự sát, kết liễu cuộc đời mình như một lối thoát. Chí Phèo là nhân vật trung tâm làm nên nội dung tác phẩm vì thế, nhà văn Nam Cao chọn nhân vật Chí Phèo làm tựa đề cho tác phẩm.
Câu 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo dể thấy rõ số phận đau thương của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
ÍHỈững kiến thức cần nắm:
1. Thi hào Nguyễn Du thôt lên trước nỗi đau con người: “Thương thay củng một kiếp người”. (Nguyễn Du)
2. Có lời nhận định rằng: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống mạnh m ẽ”. (Nietzsche)
3. Có lời nói rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người, thước đo giá trị con người”. (Lời nhận định)
4. Có lời nhận định: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”.
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống mạnh m ẽ”.
(Nietzsche - triết gia người Đức)
Lời nói ấy, người đọc chợt nhận ra tên cường hào Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” của nhà vàn Nam Cao trích trong tập “Luống cày” xuất bản năm 1946, hắn cũng có lôi sông như thế. Bá Kiến đã dùng mọi thủ đoạn độc ác, đê hèn đẩy người nông dân lương thiện phải vào tù và trở thành tên lưu manh chuyên rạch mặt, ăn vạ, đô"t nhà, kết thúc là một thảm kịch đau thương đầy nước mắt thông qua nhân vật Chí Phèo. Chúng ta cần đi sâu tác phẩm “Chí Phèo” qua ngòi bút của Nam Cao đế thấy rõ số phận đau thương của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
24
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Sô p h ận đau thương của Chí Phèo.
1. Số phận bất hạnh lúc Chí ra đòfi: Nhắc đến Chí, ta lại nhớ ngay một đứa trẻ vừa lọt lòng không phải ở một trạm xá, một mái gia đình có bàn tay săn sóc của ngirời mẹ, sự ân cần lo lắng của người cha. Nhưng, sau tiếng khóc chào đời của Chí, hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không “nằm trần truồng xám ngắt trong
cái váy đụp” là số phận bất hạnh đáng thương. May mắn thay, hắn được người câu lươn phát hiện mang về nuôi, sau đó hắn hết “đi ở nhà này sang ở nhà khác”. Chứng tỏ tuổi thơ của Chí đâu được tung tàng bên cánh diều trên bờ đê hay được ê a cắp sách đến trường mà tuổi thơ của Chí là những chuỗi ngày đau buồn, tủi phận cùng với bao mồ hôi và nước mắt đế đồi lấy miếng cơm tấm áo.
2. Sô phận nghiệt ngã lúc Chí vào tù và lúc Chí ra tù:
а. Lúc Chí vào tù: Lúc Chí được nhận làm canh điền cho gia đình Bá Kiến nhưng Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến sai bẳo làm những công việc khác, ngoài nhiệm vụ của anh canh điền nhằm phục vụ cho sự thỏa thích của bà ấy, từ đó lòng ghen tuông của Bá Kiến khơi dậy, cuôl cùng Bá Kiến giải Chí Phèo lên huyện, đây vào tù. Chí Phèo vào tù không có một nguyên nhân nào hình thành tội phạm. Như vậy, luật pháp và công lí dưới chế độ thực dân phong kiến đã phục vụ và bảo vệ cho ai? Cho người dân nghèo thấp cổ bé miệng ư! Không! Chính luật pháp và công lí vào thời điểm ấy nhằm bảo vệ cho bọn tay sai cường hào cho sức mạnh đồng tiền cho kẻ có thê lực và chê độ nhà tù dã man kia, không phải là nơi giáo dưỡng, giáo dục phạm nhân mà chính nhà tù đã tạo cho con người thêm tội lỗi. Trong tù họ phải biết ác, biết tàn nhẫn đế tồn tại, từ đây Chí Phèo đã bị tha hóa, biến chất,“òần cùng sinh đạo tặc”. Chứng tỏ chê độ nhà tù làm biến dạng con người của Chí từ nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu trọc lóc, hàm răng cạo trắng hớn, gương mặt đen đen, cơng cơng, đôi mắt gườm
gườm ghê tởm”. Xót xa thay! Phẫn uất thay! Chính chế độ nhà tù đã cướp đi nhân tính lẫn nhân hình của Chí Phèo, là sô" phận nghiệt ngã của hắn. б. Lúc Chí ra tù: Sau, bảy, tám năm biệt tích ở làng Vũ Đại, Chí lù lù trở về làng với ý định trả thù Bá Kiến. Klii Chí Phèo đôi diện Bá Kiến, một tên cáo già gian hùng “mềm nắn rắn buông”, có nụ cười như Tào Tháo, là một tên thủ đoạn, độc ác, và cuối cùng Chí Phèo không trả thù được Bá, Kiến, không rửa được môi hận cho cuộc đời mình mà Chí lại trở thành công cụ, tay sai đắc lực cho Bá Kiến. Từ đây, Chí Phèo chỉ có rượu là nguồn vui là hơi thở cho cuộc sông của hắn. Có lúc: “hắn ăn trong lúc say”, “hắn ngủ trong lúc say và khi thức dậy hắn vẫn còn say”. Hắn say khướt rồi lại “chửi đời, chửi trời, chửi cả đứa nào đẻ ra chính hán” nhưng tât cả đều im lặng. Hắn sông trong đau thương, ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi, bê tắc không lôi thoát, là sô" phận nghiệt ngã đè nặng lên cuộc đời của Chí mà thủ phạm chính là Bá Kiến.
25
3. Sô" phận bi thảm lúc Chí gặp Thị Nở: Một bước ngoặt trong cuộc đời của Chí, chính là lúc hắn gặp Thị Nở. Với tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị, cũng là lúc đánh thức “cái phần người của Chí” từ lâu nằm sâu trong tiềm thức đã thật sự trở về, bừng dậy trong con người của hắn. Hắn khao khát được sông, được sống lương thiện, hòa nhập với mọi người, cộng đồng, hắn hi vọng Thị Nở là chiếc cầu nôi đưa hắn về với cộng đồng, với mọi người và Chí khao khát một cuộc sông, một mái ấm gia đình bằng lời nói chân tình của hắn với Thị Nở lúc ấy. Hắn nói: “hay là mình dọn sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Lời nói của Chí, tưởng chừng như bình thường nhưng đó là khát vọng chính đáng của hắn để hướng về một mái gia đình, cuô'i cùng khát vọng chính đáng ấy đã bị dập tắt, hủy duyệt vì bà cô Thị Nở không cho đứa cháu gái của mình, lấy một thằng như Chí Phèo vì nó là tên lưu manh, chuyên rạch mặt, ăn vạ. Trước nỗi tuyệt vọng, hụt hẫng của Chí, hắn đã dùng rượu và càng uông, hắn càng tĩnh, tĩnh trong say, say trong tĩnh để được tìm về con người thật của hắn và được sông lại với bao hình ảnh đẹp của những ngày hắn sống với Thị Nở. Cuô'i cùng Chí đã nhận ra, kẻ thủ phạm đã làm hại cuộc đời mình chính là Bá Kiến. Lúc Chí đôi diện với Bá Kiến cũng chính là lúc, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tên lưu manh chuyên rạch mặt, ăn vạ, không còn hiện hình trong con người của hắn nữa mà Chí đã đứng lên với tư cách một con người, cùng tiếng nói khẳng định, dõng dạc, dứt khoát của hắn: “Tao không đến đây xin năm hào, tao bảo tao không đòi tiền, tao muốn làm người lương thiện, không được! Ai cho tao lương thiện!”. Những lời nói khẳng định, dứt khoát, dõng dạc của Chí Phèo trước
Bá Kiến là tiếng nói của ý thức, của lương tâm nơi con người của Chí đã thật sự trở về. Đó là tiếng nói của một kẻ biết ăn năn, sám hôl đế được trở về, trở về con người ngày xưa và cuôi cùng Chí Phèo phóng dao giết Bá Kiến, kẻ gieo gió phải gặt bão, tên thủ phạm phải đền tội. Đó là quy luật của cuộc sông cũng phù hợp với “luật nhân quả của Phật giáo”. Lúc ấy, Chí Phèo nhìn lại mình và trong suy nghĩ của hắn chợt đến, hắn không thế tiếp tục sông như thế này được nữa, khi cái ác không còn hiện hình trong con người hắn, hắn muốn làm người lương thiện, nhưng hắn bị từ chô'i, người đời vẫn còn định kiến đôi với hắn, coi thường và khinh bỉ hắn, hắn không được sông lương thiện như ý hắn muôn, thì hắn sông đế làm gì? Và chỉ có cái chết mới là cách giải quyết tôt nhất, lôi thoát tôt nhất đế Chí Phèo tìm lại con người nông dân ngày trước dù đó là cái chết bi thảm, tiêu cực nhưng là cách giải quyết phù hợp với hoàn cảnh, sô' phận của Chí lúc ấy vì thực trạng xã hội nông thôn dưới chê độ thực dân phong kiến vẫn còn đó, áp bức, bất công, khủng bô, bóc lột người dân nghèo vẫn còn đó, chê độ nhà tù dã man vẫn còn đó, thì làm sao Chí Phèo có đất sống, chỉ có cái chết mới là lối thoát, sự giải thoát cho Chí Phèo. “Thương thay cũng một kiếp người”, người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
26
III. PHẢN KẼT THÚC
về nghệ thuật: Với tài năng, tâm huyết cùng vô'n sông của nhà văn, Nam Cao xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Tác phẩm với những tình huông đầy kịch tính, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, ngôn ngữ giàu tính nhân dân, lời thoại râ't thật, chân chất.
về nội dung: “Chí P hèo”, một tác phẩm nêu bật được sô" phận người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Khi thực trạng xã hội nông thôn lúc ấy, con người sông trong sự ghẻ lạnh, vô cảm, thủ đoạn, độc ác, lương tâm đạo đức không còn và chế độ thực dân phong kiến còn thông trị, sẽ tiếp tục đẩy người nông dân lương thiện từ bi kịch này đến bi kịch khác và kết thúc là những thảm kịch đau thương mà người nông dân nghèo phải gánh chịu. Chí Phèo là sô" phận đáng thương như thế. Tác phẩm “Chí Phèo” ra đời vào thời điểm ấy như là lời cảnh báo, là tiêng kêu “hãy cứu con người” là giá trị sức sông cho tác phẩm.
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao để làm sáng tỏ giá trị nhân dạo của tác phẩm.
ỊSÍững kiến thức cần nắm:
1. Đại thi hào Nguyễn Du đã nói: “Thương thay củng một kiếp người”. (Nguyễn Du) 2. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất là thước đo giá trị con người”. (Lời nhận định)
3. Có lời nhận định rằng: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”.
4. Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tâ"t Tô"; tác phẩm “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao đều nói lên sô" phận đau thương bế tắc của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
5. Có lời nhận định: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau của kè khác chỉ là thứ quái vật”.
6. Có lời bày tỏ rằng: “Kẻ nào sống dửng dưng trước nỗi đau của con người và chỉ biết sống cho bản thân dược sung sướng đều là những kẻ đáng khinh”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Thương thay củng một kiếp người”
(Nguyễn Du)
Lời thơ thông thiết của đại thi hào Nguyễn Du về sô" phận đau thương của một kiếp người, chúng ta sực nhớ, sô" phận người nông dân nghèo thông qua nhàn vật Chí Phèo trong tác phẩm cìmg tên của nhà văn Nam Cao trích trong tập “Luống cày" đã nêu lên vân đề con người, người nông dân nghèo trước Cách
27
mạng tháng Tám. Nhà văn, đứng về kẻ bị áp bức, nhằm tô cáo thực trạng xã hội nông thôn suy đồi về đạo đức, cùng bọn tay sai cường hào độc ác, đàn áp, khủng bố, chà đạp lên nhân phẩm con người và chê độ nhà tù dã man, biến người nông dân lương thiện thành kẻ mất cả nhân tính lẫn nhân hình. Qua đó, nhà văn ca ngợi những phẩm chât đẹp của kẻ bị áp bức và hướng họ trở về cuộc sống lương thiện. Tâ't cả những vấn đề â'y, viết lên thành những trang văn thâ'm đẫm tình người là thể hiện giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
II. PHÂN TRỌNG TÂM
G iá trị n h ăn đ ạ o tron g tá c p h ẩ m “C hí P h è o ”.
1. Nhân đạo 1: Nhà văn đứng về kẻ bị áp bức nhằm tô cáo, lên án thực trạng xã hội nông thôn cùng chế độ nhà tù trước Cách mạng tháng Tám. - Hình ảnh đầu tiên chúng ta bắt gặp, một bé sơ sinh, lúc chào đời, bị bỏ rơi bên lò gạch cũ không người qua lại. Chứng tỏ lòng dạ độc ác của con người đã cố tình đấy một sinh linh, một kiếp người đi vào chỗ chết, không một chút thương tiếc. Qua hình ảnh ấy, nhà văn thương xót cho sô' phận bất hạnh và lên án những kẻ sinh ra nó, họ đã nhẫn tâm hủy diệt, chứng tỏ thực trạng xã hội nông thôn lúc ấy, suy đồi đạo đức, mâ't cả tính người. Nhà vàn luôn luôn đi sâu đi sát đời sông nhân vật và khi biết Chí Phèo bị đấy vào tù mà không có nguyên nhân hình thành tội phạm, chỉ xuât phát vì dục vọng tầm thường cùng thủ đoạn hèn hạ, độc ác của vỢ chồng Bá Kiến, chúng đẩy người nông dân lương thiện vào chôn tù đày, khôn cùng không lôi thoát. Viết lên điều ấy, nhằm tô cáo chê độ thực dân phong kiến ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám, không dựa vào luật pháp, công lí đế thực thi bảo vệ quyền lợi cho người nông dân mà chỉ dựa vào uy quyền, thê lực, sức mạnh đồng tiền, cố tình chà đạp trắng trợn lên nhân phẩm người nông dân nghèo, thâp cố bé miệng là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
- Trong quá trình cuộc sông của Chí Phèo, nhà văn tiếp tục theo dõi từng bước đi của Chí. Thương thay cho Chí, một thanh niên nông dân “hiền như đất", khi bước vào tù, chính chế độ nhà tù dã man kia, đã cướp đi cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí với: “Cái đầu trọc lóc, hàm răng cạo trắng hớn, gương mặt đcn đen, cơng cơng, đôi mắt gườm gườm ghê tởm”. Như vậy chê độ nhà tù, đâu phải là nơi giáo dưỡng, giáo dục phạm nhân, mà nhà tù là nơi tiếp tục hình thành cái ác, gây thêm tội lỗi cho con người. Viết lên điều ấy là biểu hiện tấm lòng của nhà văn luôn luôn yêu thương con người, hiểu rõ nỗi đau con người là giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
- Lúc Chí Phèo ra tù, hắn trở về làng Vũ Đại, với ý định trả thù Bá Kiến nhưng khi hắn đôi diện với Bá Kiến, một tên cáo già gian hùng, “mềm nán rắn buông”, có nụ cười như Tào Tháo, Chí Phèo không những không trả thù được mà hắn tiếp tục trở thành công cụ, tay sai đắc lực cho Bá Kiến. Bá Kiến biến Chí
28
Phèo thành tên lưu manh không lối thoát, con quỷ dữ của Làng Vũ Đại từng phá hoại hiết hao cơ ngơi sự nghiệp của người dân lương thiện, làm tan vỡ hạnh phúc cua bao gia đình, ỉlành động gây ra tội ác của Chí xuât phát từ tên tay sai cường hào, độc ác Bá Kiến. Nhà văn khắc họa những vấn đề ấy là đứng về kẻ bị áp bức, qua đó vạch trần thủ đoạn độc ác đê hèn của Bá Kiến, kẻ đại diện cho phép nước, phép làng, xã hội ở nông thôn lúc ấy là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
2. Nhân dạo 2: Nhà ván nêu lên những phẩm chất đẹp của Chí và hướng cho Chí trỏ’ về con người lương thiện.
P h ẩm c h ấ t 1: Chí mong ước cuộc sông lương thiện.
Ngược về quá khứ dù Chí là một đứa trẻ bất hạnh, “tứ cố vô thân” nhưng Chí luôn luôn sông với lòng tự trọng, sẩn sàng đem mồ hôi, sức lực “hết di ở nhà này sanq ớ nhà khác” đế đổi lấy miếng cơm tâm áo, miíu sinh tồn tại. Đến năm 20 tuối, Chí ao ước “một qia dinh nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải ... khá giá mua dăm ba sào ruộng làm ” là một ước mơ đẹp, một cách sông đẹp rất nông dân, chân châb, mộc mạc, đời thường của một thanh niên đã trưởng thành. P h ẩm c h ấ t 2: Chí thể hiện lòng tự trọng.
Với Chí, khi hắn đối diện với vỢ ba Bá Kiến, yêu cầu Chí làm những việc không phải của anh canh điền, lúc ấy hắn vừa “run” vừa “sợ” và cảm thấy “nhục hơn là thích”. Chứng tỏ, nhà văn đã đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, đồng cám quý mến những suy nghĩ chính đáng của nhân vật là thế hiện lòng tự trọng của Chí, qua đó phơi bày sự suy đồi đạo đức của xã hội nông thôn ngày ấy là thế hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
P h ẩm c h ấ t 3: Chí khao khát đưỢc sông lương thiện
Không ai ngờ, một tên lưu manh như Chí Phèo, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng khi cảm nhận tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở, con quy dữ, tên kíu manh kia đã khơi dậy cái phần người, Chí lại khát khao lương thiện, thèm lương thiện, mong được hòa nhập với cộng đồng, khao khát một mái gia đình bằng tiêng nói chân thành của hắn đôi với Thị Nở, hắn nói: “hay là
mình dọn sang dây ở với tớ một nhà cho vui” và Chí hi vọng Thị Nở là chiẽc cầu nối dưa Chí trở về với cộng đồng, hòa nhập với mọi người, là niềm khát vọng chính đáng của Chí đê tìm về con ngitời lương thiện, là biêt ăn năn sám hôi những tội lội của mình là phẩm chát đẹp của Chí.
Nhà văn định hướng cho Chí tìm về con người lương thiện: Một định hướng dũng đắn của nhà văn, tác giả tạo tình huôhg để Chí Phèo gặp Thị Nở và hi vọng Thị Nở là nguồn trợ lực giúp cho Chí Phèo tìm về con đường hoàn lương, đó là hướng giải quyết đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh, và mong ước của Chí lúc ây. Nhưng rất tiếc, kết thúc Chí Phèo phải tự sát, kết liễu cuộc đời mình, cho chúng la thấy dược sô phận bi thảm của Chí Phèo vẫn không tìm về con người lương thiện, không tìm thây một mái gia đình vì hoàn cảnh xã hội lúc ây vẫn
29
không thay đổi, thực trạng xã hội nông thôn dưới chế độ thực dân phong kiến vẫn còn đó, chúng vẫn thông trị, vẫn câu kết với bọn tay sai tác oai tác quái, bóc lột, đàn áp cuộc sông người dân nghèo vì thế Chí Phèo phải tìm đến cái chết như là qui luật tất yếu là một lôi thoát. Hướng giải quyết của Nam Cao tuy thể hiện tính tiêu cực, có sự hạn chế của tác phẩm. Nhưng hướng giải quyết ấy hoàn toàn hợp lí, đúng đắn, hợp với qui luật của hoàn cảnh và cuộc sống là thể hiện giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
III. PHẦN KẾT THÚC
1. Về nghệ thuật: Tình huống truyện sống động đầy kịch tính; đi sâu vào đòd sống nội tâm nhân vật; ngôn ngữ giàu tính nhân dân, những lời thoại của nhân vật rất thật..
2. Về nội dung: Tác phẩm “C/iỉ Phèo” đã nêu lên vấn đề số phận con người, người nông dân nghèo dưới chế độ thực dân phong kiến, phải chịu bao bi kịch và kết thúc là một thảm kịch. Nhà văn luôn luôn đứng về phía người nông dân nghèo, họ là những kẻ bị áp bức nhằm viết lên nỗi đau của họ cùng đồng cảm, đau xót với họ như là lời cảnh báo “hãy cứu lấy con người” và hướng con người tìm đến cuộc sống tốt đẹp, một xã hội tốt đẹp. Tất cả những vấn đề ấy, ghi lại thành những trang văn đầy tình người, lay động lòng người là thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Quả thật: “Chí Phèo” là “một tác phẩm văn học chân
chính có khả năng nhân đạo hóa con người”.
ĐỜI TH Ừ A
NAM CAO
Đề tuyển sinh: Có ý kiến rằng: “Truyện n g ắn “Đ ời T h ừ a” là m ột “Tuyên n gôn n g h ệ th u ậ t” c ủ a n h à văn N am C ao trư ớc C ách m ạ n g th án g T ám ”. Thông qua truyện ngắn “Đ ời T h ừ a” anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
ững kiến thức cần nắm:
1. Truyện ngắn “Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối m à nghệ thuật là tiếng kêu của kiếp lầm than”, (trích “Trăng sáng” - Nam Cao)
2. Truyện ngắn “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi... Nó ca tụng lòng thương, tình hác ái, sự công bằng ... Nó làm cho người gần người hơn”, (trích “Đời Thừa” - Nam Cao)
30
3. Có lời nhận định rằng: “Một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”. (Lời nhận định)
4. Truyện ngắn “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao có ghi: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tim tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có”, (trích “Đời Thừa” — Nam Cao)
5. Có nhận định rằng: “Người cầm bút như con ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho đời”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Viết văn phải th ể hiện cái đẹp và cái thật, phải biết chọn lọc, trau chuôt, tìm kiếm, sáng tạo, gạn đục khơi trong là chức năng của người cầm bút”. (Lời nhận định)
Đọc “Đời thừa” của Nam Cao, chúng ta có suy nghĩ về quan niệm sáng tác của nhà văn cũng thể hiện như thế. Vì thế, có ý kiến rằng: 'Truyện ngắn “Đời thừa” là một “Tuyên ngôn nghệ thuật” của nhà văn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám”. Cần đi sâu thiên truyện ngắn này để làm sáng tỏ ý kiến trên.
II. PHẤN TRỌNG TÂM
“Dời T hừ a” là m ột “Tuyên n gôn n g h ệ th u ậ t” của nhà văn Nam Cao. 1. Quan niệm 1: Nghệ thuật gắn kết con người và cuộc sống. Đọc “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao, ta có thể phát hiện ở đó nhiều quan
niệm nghệ thuật sáng tác của ông thật gần gũi với cuộc sống con người. Để thấy rõ quan niệm sáng tác đúng đắn ấy, nhà vàn đã từng phê phán trong truyện ngắn “Trăng sáng” của ông rằng: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật là tiếng kêu của kiếp lầm than”. Như vậy, ở truyện ngắn “Trăng sáng”, Nam Cao phê phán “văn chương thoát ly”, “văn chương hão huyền” trừu tượng xa rời thực tế mà với ông, văn chương phải gắn kết với cuộc đời và con người trước cuộc sôhg thực. Với Nam Cao, ông luôn luôn quan niệm rằng, một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm thế hiện những rung động của đời và “một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi ... Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng, ... Nó làm cho người gần người hơn” (Đời Thừa). Đây là một quan niệm đúng đắn của nhà văn Nam Cao trong sáng tác nghệ thuật để xây dựng, sáng tạo nên những tác phẩm mang tầm vóc của thời đại, mang hơi thở của cuộc sông.
Với Nam Cao, giá trị của văn chương phải gắn kết với cuộc đời, cuộc đời thật, cuộc sông thật, con người thật đang lăn lộn, bươn chải, ngụp lặn, chịu đựng giữa
31
cuộc đời đế tìm sự sông. Văn chương chỉ có giá trị khi tác phẩm ấy nói lên được tiếng nói chung của con người, của loài người, của cả nhân loại, nó vưcrt lên trên mọi bờ cõi và giới hạn. Văn chương có giá trị khi tác phẩm ấy có tác động rất lớn, mạnh mẽ đôi với con người và cuộc đời, “Nó phải làm cho người gần người hơn”.
Văn chương có giá trị khi tác phẩm ấy phải hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. “Nó phải ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng”, nó phải là “một tác phẩm văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người”.
2. Quan niệm 2: Nghệ thuật phải sáng tạo, chọn lọc, khám phá. -- Với Nam Cao, một nhà văn chân chính là một nhà văn phải yêu nghề, gắn bó với nghề, phải có tâ'm lòng tha thiết, gắn bó với cuộc sông, phải có lương tâm và trách nhiệm vì đó là một nghề cao quý. Với Nam Cao, trong bâ"t cứ nghề gì nêu rơi vào “sự cẩu thả” đều là sự bất lương nhưng cẩu thả trong văn chương nghệ thuật thì thật là đê tiện tiêu biểu là nhà văn Hộ khi nhìn lại những cuô'n văn viết vội vàng và khi phải viết những “bài báo d ể người ta dọc rồi quên ngay” chính là lúc nhà văn Hộ tự mắng mình, xỉ vả mình là: “một kẻ khốn nạn”; “một tên đê tiện” không hơn không kém.
- Với Nam Cao, quan niệm rằng, văn chương nghệ thuật phải có sự sáng tạo. Trong truyện ngắn “Đời Thừa” nhà văn Hộ như nói thay cho Nam Cao vấn đề ấy. Với Hộ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có” (Đời Thừa).
- Văn chương phải thế hiện cái đẹp, cái hay, cái mới, phải có sự sáng tạo không lặp lại những gì đã có, đã định sẩn, không phải nhìn thấy “người ta ăn khoai rồi vác mai di dào khoai”. Văn chương không phải là người thợ khéo tay, làm theo những gì theo yêu cầu của khách hàng một cách đơn điệu, dễ dãi mà nói đến văn chương, nghệ thuật phải có sự sáng tạo, đối mới, cách tân, khám phá, đột phá đế mang lại cho người đọc sự hâ'p dẫn, lôi cuôii, ân tượng đầy thuyèt phục, là thực hiện chức năng của một nhà văn chân chính. Đây là quan niệm sáng tác chính đáng của Nam Cao mà suô't bao nhiêu năm cầm bút, Nam Cao luôn luôn trăn trở với nghề mà ông đã chọn đế làm sao phải tạo cho tác phárn của mình không theo những lôi mòn cũ, vết xe cũ, mà phải có sự đổi mới, sáng tạo, đột phá đế tác phẩm tạo sự hấp dần, lôi cuốn thật sự đi vào lòng người đọc. Chính ngòi bút tài năng, tâm lòng yêu nghề cùng vôn sống của ông, Nam Cao đi sáu vào đời sông nhân vật rất thực, rât sinh động và ông thấu hiểu được nồi đau, niềm xót xa, cay đắng về sô' phận con người mà nói đến Nam Cao, ông là một nhà văn đã nhìn thấy được bi kịch tinh thần đau đớn của con người thật sâu sắc và thấm thìa tiêu biêu là Nam Cao đã nhận ra nỗi đau không được làm người trên khuôn mặt của một con quỷ dữ như “Chí Phèo” và ông cũng nhận ra từ những giọt nước mắt của “Lão Hạc” khóc thương cho một con chó với bao nỗi đau đớn dav dứt đang giằng xé trong tâm hồn lão, thật cảm động xót thương và
32
Nam Gao cảm nhận nỗi đau đớn, ray rứt, dày vò của nhà văn Hộ khi anh đã tự chà đạp lên nguyên tắc tình thương thật sống động, thật chân thành, từ những giọt nước mắt ăn năn muộn màng của Hộ.
Tất cả những nỗi đau ấy đã để lại trên từng trang viết của ông, bao giọt nước mắt khóc thương của người đọc, cho sô" phận con người trước Cách mạng tháng Tám. Đó là sự thành công trên con đường nghệ thuật của Nam Cao và có thể khẳng định rằng: “Đời Thừa là một truyện ngắn thành công của ông trước Cách
mạng tháng Tám" và tác phẩm ấy còn là “một tuyên ngôn nghệ thuật” đã khẳng định vị trí, chỗ đứng của ông trên vàn đàn Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945.
II. PHẦN KẾT
Truyện ngắn “Đời Thừa” đánh dấu con đường sáng tác nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám cũng là “Tuyên ngôn nghệ thuật” của ông. Với ông, văn chương nghệ thuật là hơi thở, là mạch sống, là cuộc đời, ai đã bước vào nghề văn, phải yêu nghề, phải có tài năng cùng vô"n sốhg, phải có lương tâm trách nhiệm với chính mình và trước cuộc sống để tác phẩm có giá trị, có sức sông mãi mãi đi vào lòng người là thể hiện chức năng của một nhà văn chân chính như con ong luôn luôn biết đem hương thơm mật ngọt đến cho đời, cho người.
Đề tuyển sinh: Anh (chị) phân tích truyện ngắn “Đ ời T h ừ a” của nhà văn Nam Cao để tìm thấy bi kịch tinh thần đau dớn của người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám thông qua nhân vật Hộ.
iSỈững kiến thức cần nắm:
1. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người, thước đo giá trị con người”. (Lời nhận định)
2. Quan niệm triết gia Đức (Nietzsche): “Phải biết ác, biết tàn nhẫn đ ể sống mạnh m ẽ”. (Nietzsche)
3. Có ý kiến rằng: “Kẻ mạnh không phải là kể giẫm lên vai kẻ khác đ ể thỏa mãn lòng ích kỉ. Kề mạnh chính là kề giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”. (“Đời Thừa” - Nam Cao)
4. Xuân Diệu có viết: “Cuộc đời cay cực đang giơ vuốt. Cơm áo không đùa với khách thơ”. (Xuân Diệu)
5. Có ý kiến rằng; “Đời Thừa là tiếng kêu thương đầy lệ”. (Lời nhận định) 6. Nhà thơ Tản Đà có viết: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo". (Tản Đà)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Cuộc đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ.
(Xuân Diệu)
33
Tiếng thơ cũng là tiếng lòng nỗi xót xa của người thi sĩ, người cầm bút trước cuộc sông khó khàn, gạo châu củi quế mà “văn chương hạ giới rẻ như bèo" đã hủy diệt bao ước mơ hoài bão đẹp của người cầm bút, hình thành nỗi đau ray rứt, cam chịu trong tâm hồn của nhà vàn là bi kịch tinh thần đau đớn của người trí thức nghèo trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Bi kịch tỉnh thần đau đớn của người tri thức nghèo (Hộ)
1. Bi kịch 1: Nhà văn Hộ mơ ước thực hiện một sự nghiệp văn chương nhưng tự chà đạp lên sự nghiệp ây.
- Với tựa đề “Đời Thừa” của nhà văn Nam Cao đập vào mắt chúng ta một cái nhìn, một suy nghĩ về cuộc đời của người trí thức đang sông lay lắt, bỏ quên, rẻ rúng giữa lòng xã hội cũ trước cách mạng, cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa với ngày tháng đi qua trong buồn đau, tủi nhục cho sô" phận của chính mình đó là nhân vật Hộ, một nhà văn, một người trí thức nghèo được khắc họa rất rõ, sông động hiện thực qua ngòi bút của Nam Cao trong tác phẩm. Nhắc đến Hộ là nhớ về một nhà văn có tài, có tâm huyết, có hoài bão, lí tưởng đẹp nhưng lại không thực hiện những ước vọng chính đáng của mình giữa cuộc đời. Lúc Hộ chưa có vợ con, một gia đình riêng, anh là một nhà văn, anh sông bằng cây bút, anh viết thận trọng với sự cô' gắng và lòng yêu nghề nhưng cũng chỉ kiếm được vừa đủ để một mình anh sông một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Dù vậy, Hộ muôn có một cuộc sông đẹp “muốn nâng cao giá trị dời sống” của chính mình bằng sự nghiệp văn chương có ích cho đời, cuộc sông có ý nghĩa. Hộ vẫn nuôi, vẫn ôm ấp một “hoài bão lớn" một giâ'c mộng của văn chương. Với anh; “đói rét không có nghĩa lí g ì” anh “khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất” anh muôn vun đắp tài năng của mình bằng sự nghiệp vàn chương thông qua những tác phẩm có giá trị cho đời cho cả nhân loại. Với Hộ: “Nghệ thuật là tất cả” Hộ khao khát một tác phẩm của mình ra đời “sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời".
Thật sự ước vọng, hoài bão về giấc mộng văn chương của Hộ là hoàn toàn chính đáng là lẽ sông đẹp của một nhà văn có tài, có tâm huyết, muôn sông có ích cho đời. Điều muôn nói về giấc mộng văn chương của Hộ là một giấc mộng đúng đắn, thấm đẫm tinh thần nhân đạo và thiên chức của một nhà văn chân chính. Vì sự nghiệp văn chương của Hộ là hướng tới chân thiện mỹ. Với Hộ, một nhà văn phải biết vận dụng tài và tâm của người cầm bút đế mang hoa thơm mật ngọt đến cho đời. Với Hộ, tác phẩm của anh phải có giá trị về tư tưởng lẫn nghệ thuật, mang tầm vóc thời đại. Tác phẩm ấy: “Phải vượt lên bên trên tất cả
bờ cõi và giới hạn ” ; tác phẩm ấy “phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, 34
vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bàng, ... Nó làm cho người gần người hơn” (Đời Thừa). Đó là quan điểm sáng tác ""nghệ thuật vị nhân sinh” nghệ thuật hướng tới vì hạnh phúc của con người. Đặc biệt ở Hộ, văn chương là một thứ nhu cầu tinh thần, một món ăn tinh thần vô giá. Mỗi lần đọc được một đoạn văn hay, cảm được cái hay của văn chương “thi dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm ”. Nhưng tại sao ước mơ, hoài bão đẹp về giấc mộng văn chương của nhà văn Hộ lại bị dập tắt, tan vỡ? Hộ rơi vào nỗi đau tinh thần, bế tắc, khủng hoảng. Dù nhà văn Hộ có tài năng, tâm huyết, có lẽ sông đẹp, có hoài bão lớn, sông phải có ích cho đời nhưng đó là ước mơ còn việc thực hiện đâu phải là đơn giản, chuyện dễ. Ngay cả lúc Hộ chưa có vỢ con, chưa có một gia đình riêng anh đã sông bằng cây bút, anh viê't thận trọng nhưng cũng chỉ nuôi được bản thân anh một cách eo hẹp, còn hiện nay Hộ đã có một gia đình riêng, anh phải gánh trên đôi vai gầy của mình một gánh nặng vỢ con với cơm áo gạo tiền, anh phải lo toan mọi vấn đề trong cuộc sông của một gia đình nào “tiền nhà ... tiền giặt ... tiền thuốc ... tiền nước mắm”, Hộ phải lo lắng thật chật vật nhưng nợ nần vẫn triền miên, lúc này Hộ mới thấy được “giá trị của đồng tiền”, “mới thấu hiểu nỗi đau k h ổ của một người chồng khi thấy vợ con mình đói rách”. Trước tình cảnh ây, Hộ phải làm gì đế có tiền trang trải cuộc sông nợ nần của gia đình? Anh phải tiếp tục viết nhưng Hộ không còn đủ thời gian để viết thận trọng, chăm chuôd từng trang văn mà anh lại “viết vội vàng”, viết nhiều mới có đủ tiền giải quyết cuộc sông gia đình trước mắt. Cuôl cùng ílộ: “Cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng, phải viêt những bài báo đ ể người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Lúc ấy, Hộ vô cùng xâh hổ, khi đọc lại một cuô'n sách hay một đoạn văn có kí tên mình, “Hộ đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và máng minh như một thằng khốn nạn”, một tên đê tiện. Vì Hộ đã viết: “Toàn những cái vô vị nhạt nhẽo gợi những tinh cảm rất nhẹ, rất nông cạn, diễn một vài ý rất thông thường, quấy loãng” hình thành “một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ d ãi”. Hộ đau đớn, xót xa, buồn tủi và cảm thấy mình bất lực bế tắc với bao ước vọng đẹp về giấc mộng văn chương đã biến thành mây khói và Hộ thôt lên trong đau đớn ngậm ngùi: “Thôi, thế là hết! ta dã hỏng! ta dã hỏng dứt rồi!” và “còn gi đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gi nhằm nâng cao giá trị của mình nhưng kết cục chẳng làm được cái ...”. Lời than thở của Hộ là bi kịch tinh thần đau đớn thứ nhâ’t của anh, bi kịch của một nhà văn mang ước mơ, hoài bão đẹp về giấc mộng văn chương, sự nghiệp văn chương đế đời đế cuộc sông có ý nghĩa nhưng cuối cùng lại sống rất tầm thường, toan tính, tủn mủn của một kẻ sông thừa như chính tựa đề của tác phẩm.
35
2. Bi kịch 2: Nhà văn Hộ đề cao nguyên tắc tình thương nhiAig tự chà đạp lên nguyên tắc ấy.
- Tiếp tục Hộ lại rơi vào bi kịch thứ hai, bi kịch của một người trí thức, xem tình thương là nguyên tắc sông cao nhất của con người và sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình thương. Nhưng trong thực tế, Hộ lại sôhg bê tha, thô bạo, gây đau khổ cho vỢ con và anh đã tự chà đạp lên nguyên tắc sôhg cao đẹp ấy. Tại sao Hộ phải rơi vào tình cảnh như thế? Chúng ta vẫn còn nhớ rất rõ, nhân vật Từ trong truyện ngắn “Đời Thừa” của Nam Cao, khi trang sách khép lại, vẫn thấy hình ảnh Từ là người phụ nữ đáng thương, một người vỢ ngoan hiền, tận tụy với chồng con, sông rất thật. Trước khi Từ đến với Hộ, là vợ của Hộ, Từ là một cô gái lỡ làng, bị một tên sở khanh lấy Từ và sau khi sinh, hắn đã cao bay xa chạy bỏ mặc mẹ con Từ cùng một mẹ già bơ vơ, hụt hẫng giữa cuộc đời. Từ đang đứng bên bờ vực thẳm, đang đôì diện với đau khố và cái chết. Chính thời điểm ấy, Hộ đã hiểu được tình cảnh đáng thương của mẹ con Từ, Hộ có một quan niệm sống đẹp, luôn luôn đề cao tình thương và xem tình thương là nguyên tắc sông cao nhât của con người. Với Hộ: “Kẻ nào quay lưng trước nỗi đau của kẻ khác chỉ là thứ quái vật”. Xuất phát từ quan niệm sông đúng đắn đầy tính nhân văn của Hộ, anh đã mở rộng tấm lòng, giang đôi cánh tay nhân ái, nhận Từ làm vỢ, nhận làm bố cho đứa con mới sinh của Từ. Quả thật, đây là hành động dũng cảm, đầy nghĩa hiệp của Hộ. Hộ đã: “Cúi xuống nỗi đau kh ổ của Từ”. Từ đây Hộ đã có một gia đình và trong thời gian đầu, cuộc sông êm ấm vui vẻ. Nhưng theo bước đi của thời gian, gia đình đã có nhiều thay đổi “đứa con này chưa kịp lớn
lên, đứa con khác đã vội ra” nhiều lúc Hộ “phải điên lên vì con khóc”. Có lúc Hộ thoáng nghĩ bỏ mặc vợ con để rảnh rang viết, thoát khỏi tình trạng đời thừa. Nhưng với Hộ, anh vẫn đề cao nguyên tắc tình thương, tình thương là tất cả là trên hết và anh vôh là con người nhân hậu, anh không thể có hành động tàn nhẫn như thế. Anh không thể “sống ác, sống tàn nhẫn đ ể sống mạnh m ẽ” cho chính bản thân mình, anh không thể sôAg ích kỉ được.’ Chính Hộ, anh: “Sẵn
sàng hi sinh hoài bão nghệ thuật đ ể giữ lấy tình thương” dù anh biết đó là sự hi sinh quá lớn đôl với anh. Với Hộ: “Kể mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác đ ể thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình” (trích “Đời Thừa” - Nam Cao).
Nhưng cuộc đời không bằng phăng, đơn giản như ý mình, có lúc Hộ gặp lại những bạn văn cùng thời, “tự ái nghề nghiệp” trong con người Hộ khơi dậy, giấc mộng văn chương hiện hình. Hộ lại cảm thấy nuôi tiếc, ray rứt, đau khổ vì không thực hiện được. Hộ lại nghĩ, chính gia đình này, cái gia đình mà mình đang sôhg đã làm cản bước đi cho con đường văn chương nghệ thuật của mình. Đế giải tỏa nỗi buồn đau ấy, bế tắc ấy, Hộ đã dùng rượu, mượn rượu đế mong được vơi đi nỗi đau khổ đang đè nặng trong tâm tư của anh. Nhưng, men rượu
36
không làm cho Hộ bừng tỉnh lại mà rượu đã làm cho Hộ thay đổi cả tâm tính “thay đổi quá lớn thật đáng sợ” có lúc: “Hắn đã đ ổ xuống như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết” có lúc “hắn lảo đảo bước vào nhà”, “mất gườm gườm, dôi môi mím chặt...”. Thô bạo hơn! tàn nhẫn hơn! có lúc hắn say rượu lại đánh đập, mắng chửi mẹ con Từ không một chút ngượng mồm “hấn đòi vật một nhát cho chết cả mẹ con T ừ’, hắn mắng Từ thậm tệ, hắn nói “chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thèm việc gì cho có tiền”, “chỉ kh ổ thằng này thôi ... chỉ kh ổ thằng này thôi Nhưng lúc hắn tỉnh rượu, hắn “rón rén” lại gần bên Từ “xin lỗi T ừ ’, “hôn hít các con như một người cha tốt” rồi hắn tuyên bô' bỏ rượu, chừa rượu, nhưng cái nghiệp văn chương vẫn còn nặng nợ với hắn và sau đó, hắn lại say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi say. Cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn. Hộ phải trải qua những ngày tháng dằn vặt u uất, đau khổ, bất lực, bế tắc không tìm được lôi ra và có lúc; “Hắn khóc nức nở” bên Từ, đó là những giọt nước mắt àn năn, đau khổ, muộn màng của Hộ là bi kịch tinh thần đau đớn thứ hai của anh, khi tình thương là tất cả là trên hết, là nguyên tắc sống cao nhất đôi với Hộ nhưng trong thực tế cuộc sông, Hộ đã tự chà đạp lên nguyên tắc ấy, là nỗi đau đớn của người tri thức nghèo trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám. Tại sao Hộ phải rơi vào những bi kịch tinh thần đau đớn như thế? Qua những bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ trước cách mạng, chứng tỏ, chế độ thực dân phong kiến lúc ấy, đã không biết trọng dụng những người có tài năng và tâm huyết, xem thường thành phần trí thức, không tạo cho họ có những cơ hội, môi trường để phát huy tài năng và thực hiện những hoài bão chính đáng của mình và bên cạnh đó, cuộc sông của người dân quá cơ cực, lầm than với “gạo châu củi quế”, “văn chưcmg hạ giới rẻ như beo”. Chính hoàn cảnh xã hội lúc ấy, đã đẩy họ vào bước đường cùng, không lối thoát là nỗi buồn của một thời đại đã qua cũng là nỗi đau chung không của riêng ai.
II. PHẢN KẼT
1. v ề nghệ thuật: Ngôn ngữ bình dị, lời văn trong sáng, dễ hiểu, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, lời thoại rất thật, gần gũi với tiếng nói của con người đang sông giữa cuộc đời thường.
2. v ề nội dung: “Đời Thừa” khắc họa rõ nét nỗi đau khổ, tủi nhục của người trí thức nghèo trước cách mạng. Nam Cao viết “Đời Thừa” như gióng lên một tiếng chuông báo động về nỗi đau đớn của người trí thức trước cách mạng và mong ước của tác giả là phải thay đổi hoàn cảnh, thay đổi cuộc đời ngột ngạt kia và phải thay đổi xã hội lúc ấy. Nói như nhà văn Vũ Trọng Phụng là “xã hội chó
đểu" thì mới cứu lấy con người trí thức để họ được sông trong một xã hội tô't đẹp, sẵn sàng đem tài năng, tâm huyết để công hiến cho đời, trở thành người sông có ích, là giá trị, sức sông của truyện ngắn “Đời Thừa” hơn nửa thế kỉ qua.
37
H Ạ N H P H Ú C C Ủ A M Ộ T T A N G G IA
(Trích chưdng XV - tiểu thuyết “Sô Đỏ”)
v ũ TRỌNG PHỤNG
Đề tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Anh (chị) giải thích tựa đề “H ạnh p h ú c củ a m ột tan g g ia ” thuộc chương XV- tiểu thuyết “S ố D ỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Câu 2: Anh (chị) phân tích chương XV “H ạn h p h ú c c ủ a m ột tan g g ia ” trong tiểu thuyết “S ố D ỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng đế thây rõ sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường đã hủy hoại tâm hồn con người.
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Giải thích tựa đề:
Tiểu thuyết “Sô Đỏ" của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một kiệt tác văn chương của nền vãn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Trong chương XV - tiêu thuyêt “Sô Dỏ” có tựa đề “Hạnh phúc của một tang gia”, làm cho người đọc ngờ ngàng, vì sao tang gia lại hạnh phúc? Từ xưa đến nay, nói đến hai chữ “tang gia”, chúng ta lại nghĩ ngay, một gia đình có người chết là biểu hiện sự mất mát, đau buồn khi người thân đã ra đi, nhưng tang gia ở đây lại hạnh phúc qua cái chết của cụ tô là một thành viên cao niên, đã từng xây dựng cơ nghiệp cho gia đình, cụ là ông nội, là cha, tại sao đám con cháu lại thể hiện niềm hạnh phúc? Xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Thông qua cái chết của cụ Tổ là thời điếm thực hiện cái “chức thif, còn gọi là bản di chúc, không còn viển vông mà nó trở thành hiện thực. Chứng tỏ mỗi thành viên trong gia đình ai nấy đều nghĩ đến quyền lợi của mình khi bản di chúc được thực hiện.
- Thông qua cái chết cụ Tổ, chính cái chết ấy là cơ hội nhằm phô trương cái giàu, cái sang, cái hào nhoáng bên ngoài để người đời khen tụng một gia đình tư sản giàu sang ở Ilà Thành và có một cái chết hoành tráng như thế, có cụ con trai cả, già đến thế.
- Thông qua cái chết cụ Tổ là cơ hội cho đám con cháu thực hiện những toan tính vị kỉ tầm thường điển hình như bà Văn Minh (cháu dâu của người chết) qua cái chết ấy sẽ là cơ hội để bà lăng xê, quảng cáo về thời trang may mặc cho nhà may của bà và cậu Tú Tân (người cháu nội của người chết) cũng qua đám tang ấy, có cơ hội được bấm máy, trổ tài vặt của mình cho mọi người biết đến, trầm trồ khen ngợi. Hàng loạt những nguyên nhân đã nêu, chứng tỏ tựa đề
38
“Hạnh phúc của một tang g ia” với ngòi bút trào lộng của nhà văn Vũ Trọng Phụng nhằm nói lên một sự thật, một sự thật phũ phàng, xót xa, tàn nhẫn khi sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của con người được đề cao, ngự trị đã biến các thành viên trong gia đình người chết không còn tình thương và đạo lí đó là ý nghĩa nội dung của tựa đề.
Câu 2: Phân tích chương XV “H ạn h p h ú c c ủ a m ột tan g g ia ” trong tiểu thuyết “S ố Đ o” của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
3 0 ững kiến thức cần nắm:
1. Nhà vàn Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là: “ôn g vua phóng sự đất Bắc". 2. Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng bày tỏ về xã hội đương thời ở đâ't Hà Thành ngày ấy như sau: “Một xã hội quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một xã hội chó đểu”. (Vũ Trọng Phụng)
3. Có ý kiến rằng: “Đánh mất lòng tự trọng ở con người chỉ còn là cái chêt, cái chết tâm hồn”. (“Một người Hà Nội” - Nguyễn Khải)
4. Nhà văn Vũ Trọng Phụng nhận định về đám tang của cụ Tổ trong chương “Hạnh phúc của một tang g ia” như sau: “Đám tang một người hay đây là cuộc hành trình xuống mộ của toàn xã hội”. (Vũ Trọng Phụng).
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Tiểu thuyết “S ố đỏ" của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một kiệt tác văn chương của nền văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Đặc biệt ở chương XV “Hạnh phúc của một tang gia” ngòi bút trào lộng của Vũ Trọng Phụng, ông đã phơi bày một sự thật đau lòng, bỉ ối khi sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của con người làm tha hóa biến chất thành phần tư sản ở Hà Thành lúc bấy giờ, lộ nguyên hình là những kẻ vong ơn, suy đồi đạo đức. cần khám phá chương XV trong tiểu thuyết “S ố Đỏ” đế’ thấy rõ thực trạng xã hội ở đất Kinh kì lúc bấy giờ?
II. PHẦN TRỌNG TÂM
1. Chi tiết 1; Phơi bày sự tàn nhẫn, tán tận lương tâm của những thành viên trong gia đình người chết.
Thông qua cái chết cụ Tổ, là người cao niên từng xây dựng cơ nghiệp cho gia đình nhưng khi biết tin cụ qua đời, đám con cháu là những thành viên trong gia đình, ai nấy đều “nhao lên”, rộn lên biểu hiện niềm vui vì họ hiểu rằng, quyền lợi của mình sẽ được giải quyết cụ thể, bản di chúc được thực hiện với hình ảnh, kẻ thì đi phát cáo phó, người thì thuê đội phường kèn... tất cả rộn lên niềm vui trong lòng, biểu hiện sự tàn nhẫn, tán tận lương tâm của đám con cháu bất hiếu và một hình ảnh không ai ngờ là cụ cố Hồng, người con trai cụ Tổ, khi xác của
39
cha mình chưa liệm còn nằm ở dưới nhà thì trên căn gác, ông lim dim từng điếu thuôc phiện, mơ màng nghĩ đến một đám tang thật lớn, thật hoành tráng được người đời khen tặng. Càng xót xa thay, khi lim dim trong khói thuôc phiện, tìm lạc thú, ông lại nghĩ ngay, khi đám tang đưa đi, được mặc bộ đồ xô gai, chông gậy, ho lụ khụ vừa khóc mếu lúc ấy người đời sẽ trầm trồ “ú i kìa! Con trai người
chết, già đến th ế kia”. Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tác giả đi sâu vào đời sông nhân vật, hiểu rõ những suy nghĩ thật tàn nhẫn, quái gở của một người con trai cả, trước cái chết của cha mình mà không hề nghĩ đến sự tiếc thương, đau đớn, chứng tỏ một gia đình tư sản thành thị suy đồi đạo đức. Tiếp đến hình ảnh ông Văn Minh, cháu nội của người chết, từng đi du học ở Pháp nhiều năm nhưng chẳng có bằng cấp gì, khi trở về, ông ấy mở một nhà may lấy tên là “Văn Minh” tại đất Hà Thành. Khi hay tin cụ Tổ chết, Văn Minh lại nghĩ ngay đến “cái chúc
thứ” không còn viển vông nữa mà trở thành hiện thực, chỉ cần mời luật sư đến chứng kiến là được phân chia tài sản. Đây là một suy nghĩ tàn nhẫn khi sức mạnh đồng tiền đã đánh mất lương tri con người. Còn vợ của Văn Minh thì sao? Quả thật, chồng nào vỢ nấy. Bà Văn Minh là người cháu dâu của gia đình nhưng lúc ấy, suy nghĩ của bà mong lễ phát phục thực hiện sớm, bà sô"t cả ruột vì xác của cụ Tổ vẫn nằm đó. Bà mong lễ phát phục sớm, sẽ là cơ hội để bà được bận bộ đồ xô gai tân thời nhằm lăng xê, quảng cáo cho nhà may của mình. Còn cậu Tú Tân, em trai ông Văn Minh thì sao? Cậu ấy cũng giông tâm trạng như người chị dâu, cũng sô't lên cả ruột, mong lễ phát phục thực hiện sớm, để được bấm máy, được người đời khen tặng về tài vặt của hắn. Và một tình huông xảy ra thật bỉ ổi, đáng sợ, khi xác cụ Tổ vẫn nằm đó, chưa tính toán chuyện lễ phát phục thì cả gia đình lại nghĩ đến chuyện “đám cưới chạy tang cho cô Tuyết”, em gái ông Văn Minh cũng là cháu nội người chết, một cô gái tân thời hư hỏng, đã hứa hôn với một người nhưng lại tư tình với Xuân Tóc Đỏ. Cả nhà sợ rằng, qua cái chết của cụ tổ, việc thực hiện đám cưới sẽ trì hoãn đến ba năm, họ sợ những chuyện không tốt, hậu họa sẽ xảy đến với gia đình, có khác gì như chứa bom trong nhà không biết nổ lúc nào. Quả là một cảnh tượng suy đồi về đạo đức của gia đình tư sản thành thị ở đất Hà Thành:, đúng như lời nhận định của tác giả: “Một xã hội quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một xã hội chó đểu”.
2. Chi tiết 2: Phơi bày sự dị hỢm, lô lăng trong cảnh đám tang. Hình ảnh 1: Một hình ảnh lô" lăng, dị hợm qua ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng, ở đây là những tên tai to mặt lớn, bạn của cụ cô' Hồng, những kẻ đại diện cho bộ máy chính quyền thống trị lúc ấy nhưng khi đến phúng điếu, họ toàn đeo trên ngực đủ loại huân chương nào là “Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Vạn tượng bội tinh, Cao Miên bội tinh ...” tưởng chừng như đây là cuộc tổng duyệt binh của quân đội thực dân Pháp. DỊ hợm thay! Dơ dáy thay! trên mép và
40
dưới cằm của các vỊ tai to mặt lớn ấy có đủ loại râu ria “ngđn có, dài có, đen có, hung hung có, lún phún có, rầm rậm có, loăn quăn có”, trông thật là buồn cười, dị hợm, thiếu lịch sự, phi văn hóa, thế mà những vị ấy là những kẻ đại diện cho
chính quyền, cho bộ máy thông trị lúc bấy giờ. Thật bỉ ổi đáng lên án. Hình ảnh 2: vẫn những tên tai to mặt lớn, ăn trên ngồi trước khi nhìn thấy cô Tuyết xuất hiện, một cô gái tân thời hư hỏng, lúc ấy họ đứng bên linh cữu người chết tỏ vẻ cảm động hơn nhưng không phải để thương tiếc cho người chết mà mong được người đẹp chiếu cố, để ý để được nhìn làn da trắng trên đôi cánh tay của cô Tuyết. Với cái nhìn của Vũ Trọng Phụng cho đây là “cái dâm lộ liễu” của các vỊ ấy. Quả thật, một sự suy đồi đạo đức trầm trọng của giai cấp tư sản cùng những kẻ có thế lực lúc bấy giờ.
Hình ảnh 3: Một hình ảnh thật đáng sợ về người cháu nội gái là cô Tuyết được mệnh danh là “cô gái tần thời hư hỏng”. Lúc ra mời trầu, mời thuôb lá nhưng cô ăn mặc thật hở hang, lô' lăng, gợi dục với bộ y phục “Ngây thó” bằng chiếc áo dài voan mỏng phía trong chỉ có “coóc-sê, hở cả nách và nửa vú”, thì hỏi rằng đạo đức của một gia đình tư sản thành thị ở đâu khi dục vọng tầm thường của con người đã làm cho họ tha hóa biến chất. Đặc biệt trên khuôn mặt cô Tuyết với “một vẻ buồn lãng m ạn” thật đúng mô't của một nhà có tang. Đây là cách miêu tả trào lộng, mỉa mai, châm biếm của Vũ Trọng Phụng nhằm vạch trần hình ảnh một người cháu gái dù đã hứa hôn với một người nhưng lại trông chờ người tình Xuân Tóc Đỏ chưa đến phúng điếu nên mới có nét buồn lăng mạn như thế. Quả thật, ngòi bút độc đáo của Vũ Trọng Phụng, ông đã lột tả được chiều sâu trong tâm hồn một cô gái tân thời hư hỏng thật tinh tế, rõ nét.
3. Chi tiết 3: Phơi bày sự dối trá, đồi bại trong cảnh đ ư a tang. Hình ảnh 1: Một đám tang thật lớn, thật to, thật hoành tráng, long trọng, nào là “Kèn Ta, Kèn Tây, Kèn Tàu”, “kiệu bát cống, lợn quay đi lọng... và vòng hoa”, có đến ba trăm câu đôl, “vài ba trăm người đi đưa” kể cả hai tên cảnh sát giữ trật tự. Hàng loạt hình ảnh liệt kê, tiêu biểu, chứng tỏ một đám tang thật to, thật sang, thật hoành tráng nhưng đó là cái bề ngoài, hình thức bên ngoài nhằm phơi bày cái giàu cái sang của một gia đình tư sản thành thị ở Hà Thành. Nhưng điều cơ bản nhất là cái bên trong đám tang ấy, nó vẫn thiếu một yếu tô' thật quan trọng, cơ bản làm nền tảng cho giá trị đạo đức đó là “tình thương”, yếu tô' tình thương hoàn toàn không có trong đám tang ấy. Chính “tình thương là nguyên tắc sống cao nhất của con người là thước đo giá trị con người” nhưng thực chất trong đám tang ấy làm gì có hai chữ “tình thương”. Chứng tỏ cái sang trọng kia, to tát, hoành tráng kia trong đám tang ấy đều trở thành vô nghĩa. Hình ảnh 2: Đám tang cứ đi, bên ngoài ai nây đều trầm trồ một đám tang to thật, long trọng thật nhưng họ có hiểu đâu, bên trong cảnh đưa tang ấy, hiện
41
hình nỗi xót xa mỉa mai khi đạo đức con người đã suy đồi, sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của con người đã ngự trị thì cái to lớn kia, cái long trọng kia có ý nghĩa gì. Có ai ngờ rằng, những người đi đưa ma, ai nấy với bộ mặt nghiêm chỉnh thế hiện đúng diện mạo của người đi đưa ma nhưng oái oăm thay, cái bên trong của nó thật bỉ ổi đó là lúc họ vừa đi vừa thì thầm “về vợ con,
về nhà cửa, về một cái tủ mới sám, một cái áo mới may”. Họ chú trọng, bàn chuyện về đời sống vật chất, lôl sông thực dụng, thì hỏi rằng, việc đi đưa tang của họ chỉ là cơ hội đế thỏa mãn những chuyện riêng tư cá nhân mà thôi. Quả thật, một đám tang bỉ ổi đáng ghê tởm. Và hình ảnh những người đưa tang ở đây là giai thanh gái lịch đất Hà thành, những người tiêu biểu cho sự văn minh, lôi sông mới nhưng bên trong thật xấu xa, đồi bại. Khi những bộ mặt đưa tang ấy vẫn biêu hiện sự buồn rầu đúng tâm trạng của người đi đưa tang, họ vừa đi, họ lại vừa “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen
tuông nhau, hẹn hò nhau...”. Hàng loạt hình ảnh liệt kê biểu hiện bên trong cảnh đưa tang thật lô lăng, dị hợm, đồi bại khi dục vọng tầm thường của con người, khi dục ái khơi dậy, họ đã đánh mất lòng tự trọng, đánh mất nhân cách, họ chỉ còn là cái chết, cái chết tâm hồn. Đúng như lời nhận định của nhà văn Vũ Trọng Phụng: “Dám tang một người hay đây là cuộc hành trình xuống mộ
cứa toàn xã hội”. Phải chăng, không chỉ đám tang một người đã nằm xuông mà những người đi đưa tang, họ đã sôhg và hành động vô liêm sĩ, tán tận lương tâm, đánh mâ't lòng tự trọng thì họ chẳng khác gì như những cái xác vô hồn, họ cũng là cái chết, cái chết tâm hồn. Vậy, cuộc hành trình xuôhg mộ của một người cũng chính cuộc hành trình xuôhg mộ của toàn xã hội được thu nhỏ mà ở đây là lớp tư sản thành thị Hà thành đã mâ"t gôh, họ đánh mất nhân cách, đánh mất cả lòng tự trọng là nỗi đau của một thời đại cũ, nỗi đau không của riêng ai.
III. PHẦN KẾT THÚC
1. Về nghệ thuật: Chương XV “Hạnh phúc của một tang g ia” trích tiểu thuyết “S ố đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Với ngòi bút trào lộng, sâu cay thâm thúy, tình huôhg truyện sôhg động hiện thực đầy kịch tính, lời thoại đi sâu vào nội tầm nhân vật.
2. Vể nội dung: Tác giả bóc trần một sự thật, một sự thật bỉ ổi, tán tận lương tâm con người thông qua cái chết của một thành viên trong gia đình tư sản đất Hà thành trước Cách mạng tháng Tám. Từ cái chết đã bóc trần một xã hội suy đồi đạo đức, hủy hoại nhân cách khi sức mạnh đồng tiền và dục vọng tầm thường của con người đã biến thành phần tư sản thành thị đất Kinh kì lúc ấy trở thành những kẻ vô cảm, vô hồn, tha hóa, biến chất là nỗi đau của toàn xã hội, nỗi đau của một thời đại đã qua.
42
VĂN HỌC LÃNG MẠN
H A I ĐỨ A T R Ẻ
THẠCH LAM
Để tuyển sinh: Anh (chị) phân tích bức tranh đời sông của phố huyện nghèo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam trích trong tập truyện “N ắng trong vườn” (1938) qua dó nêu lên cảm nhận của Anh (chị) về bức tranh ấy.
ỊBĨững kiến thức cần nắm:
1. Nhà văn Nguyền Tuân nhận định về truyện ngắn 'Hai đứa trề”: "Đọc "Hai đíỉa trẻ” thấy bận bịu uô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái sâu kin.” (Nguyền Tuân) 2. Lời tục ngữ có nói: "Đói cho sạch, rách cho thơm.
3. Lời cồ nhân có nói: "Bần cùng sinh dạo tặc”.
4. Lời ngLíời xưa có nói: “Cái khó, bó cái khôn”.
5. Lời người xưa có nói: "Thương người như thể thương thân”. 6. Có ý kiến rằng: “Tình thương là nguyên tắc sổng cao nhất của con người. Kẻ nào dửng dưng quay lưng trước nỗi đau kẻ khác, chỉ biết nghĩ cho sự sung sướng của riêng mình là kẻ dáng khinh”. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Đọc “hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu kín” (Nguyễn Tuân).
Quả thật, khi truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam khép lại, khơi gợi trong lòng người đọc bao hình ảnh quê hương êm ái qua bức tranh đời sông của một phô" huyện nghèo thật hiu hắt buồn, gợi trong chúng ta bao nỗi ưu tư trước cuộc sông của người dân phô' huyện ngày ấy.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Bức tranh dời sống của p h ố huyện nghèo trong “Hai dứa trẻ”. 1. Phô' huyện lúc chiều về: Đọc "Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, qua nét bút dung dị của nhà văn, gợi lại những âm thanh buồn. Với "tiếng trống thu không... từng tiếng một vang ra” báo hiệu một ngày đã tàn cùng “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” hòa với tiếng muỗi vo ve, tất cả là những âm thanh quen thuộc gần gũi của quê hương, cho chúng ta nhớ lại bao hoài niệm của một thời thơ ấu. Khi phiên chợ đã vãn, trên đâ't “chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá m ía” nằm chơ vơ, ngổn ngang. Lúc ấy xuất hiện "mấy
43
đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre” những gì người bán hàng bỏ lại, rồi chúng góp nhặt mang về cải thiện cuộc sông gia đình. Nhìn chúng “Zom khom nhặt nhạnh" có khác gì như những tâm hồn bơ vơ lạc lõng giữa cuộc đời. Hình ảnh thật đáng thương, khi tuổi thơ của chúng bị đánh mất. Đây là bức tranh chiều quê nơi phô" huyện thật buồn.
2. Phố huyện lúc đêm về: Phố huyện khi đêm về, ta bắt gặp hình ảnh mẹ con chị Tý, người mẹ quê nghèo chịu thương chịu khó, tâ't bật ngày cũng như đêm vì mưu cầu cho cuộc sông nhưng cũng chẳng kiếm được bao nhiêu và hình ảnh gia đình bác xẩm, người nghệ nhân mù, cả gia đình ngồi trên tấm chiếu, trước mặt là cái thau trắng như họ đang chờ đợi một cái gì cho cuộc sông, đứa con bò lê ra đất, nghịch với đất. Cảnh đời của họ đáng thương thật. Tiếp đến là gánh phở của bác Siêu giữa không gian mênh mông, bóng bác chập chờn với tiếng kêu kĩu kịt từ gánh phở vang lên một âm thanh cuộc sông của người dân nghèo phố huyện. Và hình ảnh bà cụ Thi hơi điên, lúc chiều xuông bà thường ghé quán Liên, mua cút rượu và ""uổng cạn sạch" cùng với “tiếng cười khanh
khách" rồi bà lảo đảo bước vào ngõ tôl. Và hình ảnh chị em Liên bên cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mà mẹ Liên thuê lại của bà lão móm, nằm cạnh đường tàu bên cái ga xếp, cửa hàng của Liên bán lèo tèo vài món hàng vặt vảnh, như dăm ba bánh xà phòng, thuôc lào, rượu... nhưng cũng chẳng kiếm được bao nhiêu. Tất cả hình ảnh ấy đã khắc họa cho bức tranh quê càng buồn hơn, thấm thìa hơn. Hàng loạt hình ảnh với bao mảnh đời, bao số phận, tật nguyền có, bệnh hoạn có, nghèo khổ có, tuổi thơ bị đánh mất cũng có. Tất cả được góp nhặt nơi phô" huyện và được thu nhỏ bên ngọn đèn con của chị Tý, gợi cho chúng ta tìm thấy cuộc sông phô" huyện lúc về đêm càng hiu hắt u buồn. Phải có một tình yêu quê hương thắm thiết, gần gũi với con người và cuộc sông, thì tác giả mới khắc họa bức tranh phô" huyện rõ nét và buồn đến thế. Và một hình ảnh khó quên là chị em Liên đêm đêm vẫn đợi chuyến tàu đi qua như mơ về quá khứ, mơ về một ánh sáng mới ở tương lai để mong kiếm tìm một chút ấm áp, hi vọng tin yêu trước cuộc sông dù họ đang sông trong tăm tôi, cơ cực, nghèo khổ nhưng “cái khó không bó cải khôn” mà trong cuộc sông khôn khó ấy, vẫn gieo vào lòng họ niềm tin yêu, một ánh sáng mới, hi vọng sẽ thay đổi cuộc đời họ là vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn trẻ thơ và của người dân phô" huyện.
Cảm nhận của em :
Nhìn lại bức tranh đời sông của phô" huyện nghèo lúc chiều về và khi đêm xuông, gợi trong lòng chúng ta bao suy nghĩ. Trước tiên, ta liên tưởng âm thanh của phô" huyện lúc chiều về và khi đêm xuô"ng trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam với tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve mãi măi là hình ảnh là âm thanh của quê hương đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi con người vì mỗi người ai cũng có một quê hương để thương, để nhớ. Tiếp đến
44
chúng ta lại liên tưởng những mảnh đời, bao sô' phận, bao con người vẫn còn sông trong tăm tôì nghèo khổ, bâ't hạnh, tật nguyền nhưng họ vẫn cam chịu, vẫn sông, vẫn đem mồ hôi sức lực đổi lấy miếng cơm, tấm áo và hi vọng, ước vọng ở một ngày mai tươi sáng, gợi cho người đọc niềm cảm thông, xót thương quý mến. Hôm nay, chúng ta được sông trong bầu trời tự do độc lập, trong ánh sáng cách mạng, nhưng quanh đây vẫn còn bao mảnh đời cơ cực bất hạnh trước cuộc sống. Với những đứa trẻ lượm ve chai, những người tật nguyền hát rong trên đường phố, những đứa trẻ lang thang đen đủi đứng ở các trục giao thông ngửa bàn tay, chiếc nón, xin những đồng tiền nhỏ của người đi đường. Chúng ta cảm thấy lòng mình, một nỗi buồn đau đáu và ước vọng làm sao và làm sao mọi người được sống no đủ, trẻ thơ đều được cắp sách đến trường để cây đời lại xanh tươi là mong ước chính đáng của mỗi con người không của riêng ai. Quả thật: “Đọc hai đứa trẻ thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu kín”.
II. PHẦN KẾT THÚC
1. về nghệ thuật: Truyện “Hai đứa trẻ”, không có cốt truyện, không có những tình huông gây cấn, ly kì, lời văn gọn gàng trong sáng, hình ảnh tiêu biểu sinh động, lôi kể chuyển nhẹ nhàng, ngôn ngữ giàu tính nhân dân.
2. Về nội dung: Tác phẩm để lại trong lòng người đọc bao hình ảnh quê hương, dư vị của quê hương ngày ấy còn nghèo khổ và tăm tôl. Và trước cuộc sông hôm nay, chúng ta có một cuộc sông tô't đẹp trong bầu trời độc lập tự do. Chúng ta mong sao mọi người dân Việt được sông trong ấm no đầy đủ, tất cả trẻ thơ đều được đến trường là niềm vui chung của dân tộc vì: “Có gì đẹp trên đời
hơn thế. Người yêu người sống đ ể yêu nhau”. (Tô' Hữu)
Để tuyển sinh: Anh/ chị giải thích vì sao chị em Liên đêm đêm vẫn đợi chuyến tàu đi qua? _____________________
ỊHĨữns kiến thức cần nắm:
1. Có ý kiến rằng: “Cuộc sống của con người là một quá trình kết hợp từ quá khứ hiện tại và tương lai”. (Lời nhận định)
2. Có ý kiến rằng: “Đôi diện với thực tại là u buồn, tăm tối, nghèo kh ổ mà quá khứ với bao hình ảnh tươi đẹp thỉ lòng người vẫn mơ về quá khứ đ ể được sống lại những kỉ niệm đẹp”. (Lời nhận định)
3. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”, (trích “Tiếng hát con tàu” - Chê' Lan Viên)
4. Có lời nhận định rằng: “Dù cuộc sổng người dân p h ố huyện vẫn sống trong tăm tối, lầm lũi, cơ cực nhưng họ vẫn hi vọng, tin yêu vào cuộc sông, tin yêu vào sự đổi thay”. (Lời nhận định)
45
H ướng d â n : Vì s a o c h ị em L iên d êm d êm vẫn d ợ i chu yên tàu d i qua? Hình ảnh đợi tàu của chị em Liên từng đêm nơi phô' huyện, cạnh con đường tàu bên cái ga xép là một hình ảnh ấn tượng, khắc sâu trong tâm hồn người đọc một cảm nhận đẹp, một khát vọng chính đáng của những người dân nghèo phô' huyện, tiêu biểu là hình ảnh đợi tàu từng đêm của chị em Liên. Xuất phát từ những suy nghĩ sau:
1. Chị em Liên thực hiện lời mẹ dặn: Từ khi bô Liên mât việc tại íĩà Nội, cả gia đình dọn về quê ngoại tại huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nhằm giải quyêt cuộc sông bê tắc của gia đình. Mọ Liên thuê một cửa hàng tạp hóa nhỏ của bà lão cạnh đường tàu đế chị em Liên trông coi, bán hàng nhằm cải thiện cuộc sông gia đình. Chiều chiều mẹ Liên thường ra quán và dặn dò chị em Liên: “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống". Đây là lời dặn dò chính đáng của mẹ Liên, bà mong được bán thêm vài món hàng khi tàu đến, may ra còn có một vài người mua. Nhưng lời dặn dò này, không phải là nguyên nhân sâu xa trong việc đợi tàu của chị em Liên mà việc đợi tàu của Liên và An còn mang một ước vọng sâu xa khác.
2. Chị em Liên nghĩ về hiện tại: Từ khi bô' Liên mất việc ở Hà Nội, chị em Liên cùng gia đình về quê ngoại, mẹ giao hai chị em trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ được thuê lại, mong cải thiện cuộc sông gia đình. Ngày ngày, chị em Liên đô'i diện với kẻ mua người bán, khi đèm về, hai chị em cảm thấy hiu quạnh trông vắng, xung quanh đâu đâu cũng bóng tôi, nghèo khổ. Chiều xuông, hai chị em ngồi đếm lại những đồng tiền nhỏ và cảm thây mình già đi, tuổi thơ bị đánh mất và trong “dôi mắt Liên bóng tối ngập đầy”, xung quanh đâu đâu cũng là bóng tôi. Chính giây phút ấy, Liên khao khát được nhìn về đoàn tàu, ánh sáng của đoàn tàu từng đêm đi qua là biểu tượng cho cuộc sống văn minh sang trọng, những toa tàu bóng loáng, sáng rực và ánh sáng của đoàn tàu không phải là đóm sáng nhỏ nhoi như ngọn đèn con của chị Tý hay đóm lửa từ gánh phở của Bác Siêu mà ánh sáng đoàn tàu là một vùng sáng, ánh sáng của vàn minh đô thị và chị em Liên hi vọng, ánh sáng của đoàn tàu rồi đây sẽ xua tan bóng đêm tăm tô'i nơi phô' huyện, đẩy lùi cuộc sông nghèo khổ của người dân phô' huyện nhưng đó là khát vọng là ánh sáng của tâm tưởng mà chị em Liên cùng người dân phô huyện đêm đêm vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ như đem lại cho họ niềm tin yêu vào cuộc sông.
3. Chị em Liên nghĩ về quá khứ: Cả gia đình dọn về quê ngoại từ khi bô Liên mất việc ở Hà thành, mẹ Liên giao cho hai chị trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, bán vài món hàng vặt vãnh như vài bánh xà phòng, những phong thuôc lào, diêm quẹt, đôi ba lít rượu... Cuộc sống nơi đây, hai chị em cảm thấy đơn điệu, cứ ngày ngày tiếp cận với kẻ mua người bán, chiều xuôhg lại nghe những
46
âm thanh quen thuộc vọng lại rất buồn và đôi mắt Liên vẫn nhìn thây những mảnh đời cơ cực nghèo khổ, những sô phận bất hạnh tật nguyền vẫn ngày ngày tiêp cận trước cuộc sông như những thước phim cứ lặp đi lặp lại một nỗi buồn. Và khi đêm xuông, đâu đâu cũng là bóng tôi, bóng tôi ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Liên mơ ước được sông lại với quá khứ với Hà Nội xa xăm, tưng bừng, huyên náo, vui VG . Liên nhớ rất rõ, lúc mẹ có tiền nhiều, mẹ thường dẫn chị em Liên đi chơi ở bờ hồ, chị em Liên được uô"ng những nước cô"c lạnh xanh đỏ, được nhìn thây Hà Nội sang trọng, sáng rực, huyên náo là niềm khao khát về một quá khứ đẹp của tuổi thơ. Trước giây phút ấy, chị em Liên mong được nhìn chuyến tàu đêm đi qua như được trở về với hoài niệm, tìm lại một quá khứ đẹp. Phải chăng, với chị em Liên, chuyên tàu từng đêm đi qua là biêu tượng cho sự sang trọng, văn minh với những toa tàu sáng trưng lộng lẫy như đưa chị em Liên về một thê giới khác, thê giới của hoài niệm là hình ảnh Hà Nội xa xăm sáng rực, huyên náo như đem lại cho chị em Liên một chút ấm áp, niềm tin yêu trước cuộc sông còn nhiều khó khăn, tăm tôi giữa lòng phô" huyện này.
Để tuyến sinh: Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “H ai d ứ a tr ẻ ” của nhà văn Thạch Lam trích trong tập “N ắn g tron g vườn”, xuất bản năm 1938.
122ững kiến thức cần nắm:
1. Có nhận định rằng: “Một tác phâm vân học chân chính có khá năng nhân đạo hóa con người”. (Lời nhận định)
2. Nhà văn Nguyên Tuân có nhận định về truyện ngắn ''Hai đứa trẻ" như sau: “Dọc hai đứa trẻ thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái, sâu kin”. (Nguyễn Tuân)
3. Có nhận định rằng: “Tình thương là thước đo giá trị, nhân cách của con người”. (Lời nhận định)
4. Lời người xưa từng nói: “Đói cho sạch, rách cho thơm” hay “Bần cùng sinh dạo tặc”. (Lời người xưa)
5. Có ý kiên rằng: “Cái khó không bó cái khôn mà cái khó làm rõ cái khôn”. (Lời nhận định)
HƯỚNG DẨN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Đọc “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam trích trong tập “Nắng trong vườn” xuâ"t bẳn năm 1938. Khi trang sách khép lại, chúng ta vẫn còn nhớ rất rõ những trang văn là những trang đời, biểu hiện tâ"m lòng của Thạch Lam luôn luôn đồng cảm thương xót cho bao sô phận, mảnh đời cơ cực, nghèo khố của người dân phố
47
huyện và thấy được phẩm chất tô't đẹp của họ cùng ước mơ một cuộc sô'ng mới, một ánh sáng mới sẽ làm thay đổi cuộc đời, sô" phận của họ. Những vấh đề ấy, viết lên từ trái tim, vô"n sông, tài năng của nhà văn và hình thành những trang văn lay động lòng người là thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Giá trị nhân dạo trong truyện ngắn “Hai dứa trẻ”.
1. Nhân dạo 1: Nhà văn đồng cảm thương xót cho người dân nghèo phô huyện.
Chi tiết 1: Bao hình ảnh về con ngưò i trước cuộc sông của một phô' huyện lúc chiều về và khi đêm xuô'ng qua ngòi tút của Thạch Lam, khơi gợi người đọc niềm thương cảm vô hạn. Hàng loạt hình ảnh với những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, mẹ con chị Tý, gia đình bác xẩm trên tấm chiếu cùng gánh phở của bác Siêu chập chờn trong bóng tối, hình ảnh chị em Liên trong cửa hàng tạp hóa nhỏ với tiếng muỗi vo ve và hình ảnh bà cụ Thi hơi điên lảo đảo đi vào ngõ tôi. Tất cả, những hình ảnh ấy, được khắc họa rất rõ qua nét bút của Thạch Lam là thế hiện bao sô' phận, mảnh đời cơ cực, nghèo khổ, tật nguyền, bệnh hoạn được gom lại giữa lòng phô' huyện lúc đêm về như một xã hội thu nhỏ, nói lên niềm đồng cảm thương xót của nhà văn trước cuộc sông nghèo khổ của người dân phô huyện là thê hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
Chi tiết 2: Đọc “Hai đứa trẻ”, khi phô' huyện lên đèn, đâu đâu cũng là bóng tôi, bóng tô'i ngập đầy trong đôi mắt của Liên, bóng tôi bao trùm các dãy tre làng, bóng tô'i bao phủ các con đường ra sông, qua chợ, về nhà, xung quanh ngập đầy bóng tô'i. Bóng tôi được lặp lại hơn ba mươi lần, càng cho ta thấy rõ cuộc sông về đêm của phô' huyện vẫn tăm tôi cơ cực, nghèo khổ. Nhưng nói đến bóng tôi, chúng ta lại suy nghĩ, bóng tô'i cũng là nguyên nhân hiện hình tội ác, đồng lõa với tội ác nhưng bóng tô'i trong “Hai đứa trẻ” là bóng tôi của niềm đồng cảm xót thương, bóng tô'i của sự nghèo khổ cơ cực, bóng tôi của sự cam chịu để hướng về cuộc sông mới đó là niềm xót thương trăn trở của nhà văn trước cuộc sông con người. Đặc biệt một hình ảnh đầy ấn tượng, thuyết phục, gieo vào lòng người niềm ưu tư bận lòng khi cả phô' huyện chỉ còn lại ngọn đèn con leo lét chập chờn nơi hàng nước của chị Tý và ngọn đèn huê kì của Liên “từng hột sáng lọt qua phên nứa” cùng ánh lửa lấm tấm vàng từ gánh phở của bác Siêu tất cả chỉ là đóm sáng, vệt sáng nhỏ giữa không gian phô' huyện lúc đêm về, càng thấy rõ cuộc sông người dân phô' huyện, họ vẫn còn sông trong tăm tôi nghèo khổ lầm lũi, cam chịu. Đáng nhớ nhâ't ngọn đèn con của chị Tý được khắc họa đến bảy lần, càng thấy rõ tấm lòng của nhà văn luôn luôn ưu tư trăn trở trước cuộc sống còn nhiều khó khăn của người dân nghèo phô' huyện là thể hiện tinh thần nhân đạo trong tác phẩm.
48
2. Nhân đạo 2: ISThà văn thể hiện phẩm châ't đẹp của người dân nghèo phố huyện.
Nói đến Thạch Lam là nói đến tấm lòng yêu thương con người sâu sắc. õn g đã đi vào đời sôhg từng nhân vật từng con người mà sô' phận cửa họ là những mảnh đời luôn luôn cam chịu cơ cực lầm lũi trước cuộc sống. Họ không kêu than, trách hờn sô" phận, không tha hoá, biến châ"t, không “bẩn cùng sinh đạo tặc” mà mỗi số phận, mỗi mảnh đời dù nghèo khổ, tật nguyền, bệnh hoạn, tuổi thơ bị đánh mât. Họ vẫn sông với lòng tự trọng, sẵn sàng đem sức lao động của chính
bản thân đế đổi lấy miếng cơm manh áo dù họ nghèo thật nhưng lòng họ vẫn thơm “giấy rách vẫn giữ lấy lề” là phẩm chất đẹp của người dân nghèo phố huyện.
3. Nhân dạo 3: Nhà văn ư ớc vọng một cuộc sô"ng mới, một ánh sáng mới cho người dân phô huyện.
Hình ảnh đợi tàu của chị em Liên là hình ảnh ấn tượng sâu sắc nhất khi trang sách “Hai dứa trẻ” khép lại. Nó biểu tượng cho sự khao khát, mong đợi một cuộc sông mới, một ánh sáng mới không phải là một đô"m sáng, vệt sáng nhỏ nhoi, hiu hắt như ngọn đèn con của chị Tý, ngọn đèn huê kì trong cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu của Liên hay ánh lửa lấm tấm vàng từ gánh phở của bác Siêu mà ở đây là vùng sáng rộng lớn, lấp lánh sự sang trọng, một thứ ánh sáng từ hình ảnh của đoàn tàu để xua tan bóng đêm, tăm tôi, nghèo khổ, lạnh lùng nơi phô' huyện dù đó là khát vọng là ảo ảnh là tâm tưởng vì hoàn cảnh xã hội vẫn chưa thay đổi nhưng chị em Liên cùng người dân phô' huyện, đêm đêm họ vẫn đợi, vẫn chờ chuyến tàu đi qua như một nhu cầu tinh thần, nguồn động viên giúp họ tin yêu vào cuộc sông ở ngày mai. Hiểu rõ niềm khao khát của người dân phô' huyện là thể hiện tấm lòng của nhà văn luôn luôn trăn trở, ưư tư đến cuộc sông của con người, sô' phận con người là thể hiện tinh thần nhân đạo làm nên sức sống giá trị cho thiên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” hơn nửa thê' kỉ qua.
II. PHẦN KẾT THÚC
1. về nghệ thuật: Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với giọng văn nhẹ nhàng, những tình huông như cơn gió thoảng, những nhân vật gần gũi, chân thật, thấm đẫm dư vỊ quê hương.
2. về nội dung; Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nêu lên cuộc sống nghèo khổ tăm tô'i của người dân phô huyện với niềm xót thương vô hạn của nhà văn và mong ước hi vọng, họ sẽ tìm thấy một ánh sáng mới, xua tan bóng tối, cơ cực, nghèo khổ để hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Tất cả thể hiện qua những trang văn như những trang đời thấm đẫm tình người, lấp lánh tính nhân văn. Quả thật “Hai đứa trẻ” là “tác
phẩm văn học chân chính có khả nâng nhân dạo hóa con người”.
49
C H Ữ NGƯ Ờ I TỬ TÙ
NGUYỄN TUÂN
Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Truyện ngắn “C hữ người tử tù ” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập “V ang bón g m ột th ờ i” xuâ't bản năm 1940 có bao nhiêu tựa đề. Anh (chị) giải thích ngắn ngọn ý nghĩa của mỗi tựa đề.
Câu 2: Anh (chị) phân tích nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn “C hữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ vẻ đẹp tài năng, khí phách, nhân cách của chính nhân vật - ông Huấn Cao.
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Truyện ngắn “C hữ người tử tù ” có bao nhiêu tựa đề? Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân lần đầu tiên có tựa đề là “Dòng chữ cuối cùng” được in trong tạp chí “Tao đàn ” năm 1938. Sau đó tựa đề “Dòng chữ cuối cùng” được thay bằng “Chữ người tử tù” trích trong tập truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Đây là một tập truyện đặc sắc được xem như một kiệt tác nhằm ca ngợi những thú chơi tao nhã như thú chơi chữ, đánh cờ... của người xưa thời phong kiến.
Ý nghĩa mỗi tựa đề:
a. Tự a đ ề 1: “D òng c h ữ cu ối cù n g ”: ông Huấn Cao một nhà thơ lớn có tên là Cao Bá Quát bút hiệu Chu Thần, ông làm một chức quan dưới triều Tự Đức. Ông đứng về phía nông dân đòi lại quyền lợi cho họ nhưng cuộc đấu tranh thất bại. Ông bị kết án tử hình rồi đưa về trại giam tỉnh Sơn cùng năm đồng chí chờ ngày hành quyết. Suô't nửa tháng sôhg trong nhà lao, cuối cùng ông đã hiểu ra được ngục quan là ngưdi có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, biết trọng người tài, người có khí phách, yêu cái đẹp, có sở thích thanh cao. Và ông Huấn Cao quyết định cho chữ ngục quan trong đêm cuôl cùng tại nhà giam tỉnh Sơn dù ngày mai ông Huấn Cao sẽ giải về Kinh hành quyết. Từ đó mới có tựa đề là “Dòng chữ cuối cùng”.
b. Tựa đ ề 2: “C hữ người tử tù”: ông Huấn Cao, một nhà thơ lớn có tên là Cao Bá Quát làm một chức quan dưới triều Tự Đức. ông đứng về phía nông dân, làm cuộc đấu tranh nổi dậy để đòi lại quyền lợi cho nông dân. Cuộc đấu tranh thất bại, ông bị kết án tử hình và chờ ngày hành quyết. Những ngày sông trong đề lao tỉnh Sơn, ai ngờ ngục quan là người biết yêu cái đẹp, chữ viết đẹp của ông Huấh Cao và khao khát mong được ông Huấh Cao cho chữ. Thầy thơ lại như là chiếc cầu
50
nôl, đã giúp cho ông Huấn Cao hiểu được ước vọng của ngục quan là muốn được chữ viết của ông. ông Huấn Cao ngỡ ngàng trước sở thích cao quý của viên quản ngục và hiểu được viên quản ngục có một “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”. Cuối cùng ông Huấn Cao quyết định cho chữ trước giờ phút cuôl cùng để ngày mai về kinh hành quyết vì thế có tựa đề “Chữ người tử tù”.
Câu 2. Phân tích vẻ đẹp tài năng, khí phách, nhân cách của ông Huấn Cao. ỊSEững kiến thức cần nắm:
1. “Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét về nhân vật Từ Hải như sau: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu. Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.” (Nguyễn Du)
2. Nhà thơ Tô" Hữu ca ngợi về cái chết đẹp: “Có cái chết hóa thành bất tử”. (Tố Hữu)
3. Lời cồ nhân có nói; “Bần tiện bất năng di. Phú quý bất năng dâm. Uy vũ bất năng khuất". Ý nói: Nghèo khổ không thay lòng đổi dạ. Giàu sang đừng ham dục vọng tầm thường. Trước bạo lực không cúi đầu khuất phục.
4. Ông Huấn Cao bày tỏ quan niệm sông của mình: “Nhất sinh đê thủ bái hoa m ai”. Ý nói: Cuộc đời của ta chỉ biết cúi đầu trước hoa mai mà thôi. 5. Ngạn ngữ phương Tây có nói: “Đứng trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu. Đứng trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối”.
6. Nhà văn Pháp Musset có nói: “Không có gì cao cả hơn một sự đau đớn lớn”. (Musset)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Có cái chết hóa thành bất tử”
(Tố Hữu)
Một cái chết đẹp mãi mãi đi vào lòng người, bất tử với năm tháng. Đó là cái chết vì cộng đồng vì quyền lợi của con người, mong cho con người có cuộc sông tô"t đẹp. Cái chết ấy làm sao chúng ta quên được nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Nhà văn đã khắc họa thành công về tài năng, khí phách và nhân cách của ông Huấn Cao thật đẹp, lấp lánh tính nhân văn.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Vẻ đẹp tài năng, khí phách, nhân cách của ông H uấn Cao. 1. Vẻ đẹp 1: Ông Huấn Cao một nghệ sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng khí.
a, Một nghệ sĩ tài hoa: Nhắc đến ông Huấn Cao ta nhớ ngay nhà thơ Cao Bá Quát có bút hiệu Chu Thần. Văn thơ của ông mang tính uyên bác, sâu rộng người
51
đời thường ca tụng rằng: “Văn như Siêu Quát vô tiền hán ”. Đặc biệt, ông Huấn Cao có chữ viết rất đẹp, chữ ông “đẹp lắm vuông lắm ”, người đời ca tụng ngưỡng mộ chữ viết đẹp của ông và có được chữ của ông Huấn Cao cho, như là “có một báu vật trên đời”. Có được chữ viết đẹp, chữ viết vuông của ông Huấn Cao là nét đẹp hình thức nhưng ngoài vẻ đẹp hình thức còn mang một vẻ đẹp khác trong chữ viết của ông Huấn Cao, nó xuâ't phát từ cái tâm trong sáng, thanh cao của ông thì ông mới có chữ viết đẹp, vuông như thế và trong chữ viết của ông Huấn Cao, nó mang một ý nghĩa, một ý tưởng có giá trị ảnh hưởng rất lớn đến cách sông của con người, của một đời người. Như vậy, nghĩ về ông Huấn Cao là nghĩ về một người nghệ sĩ tài hoa với cái tâm trong sáng.
6. Một trang anh hùng dũng khí: ông Huấn Cao làm một chức quan dưới triều Tự Đức. Ông nhìn thấy bọn quan lại tham nhũng, suy đồi đạo đức, hà hiếp bóc lột cuộc sông, quyền lợi của người nông dân. Cuôì cùng ông đứng về phía nông dân đòi lại quyền lợi của họ bằng cuộc đấu tranh nổi dậy tại Mỹ Lương. Nhưng cuộc đấu tranh thất bại vì mang tính tự phát, không có sự hậu thuẫn rộng lớn của mọi tầng lớp nhân dân. Cuôì cùng ông bị khép tội và tử hình, tru di tam tộc. Hành động của ông Huấn Cao biểu hiện khí phách của người quân tử, kẻ trượng phu vì ông không đồng tình thỏa hiệp những điều xấu xa của bọn quan lại, không vào luồn ra cúi mà chỉ biết ngẩng cao đầu nhằm thực hiện quyền lợi cho con người cho người nông dân. Hành động của ông là hành động dũng cảm, hành động của một trang anh hùng dũng khí thật cao đẹp.
2. Vẻ đẹp 2: ôn g Huân Cao bât khuất trong đề lao.
а. Tình huống 1: ông Huấn Cao cùng năm đồng chí được chuyển về trại giam tỉnh Sơn chờ ngày hành quyết. Khi sáu tên tử tù bước vào cửa trại giam trên một chiếc gông rất nặng, mỗi đầu người chui vào một thang gông. Trước mặt ngục quan và bọn lính canh, ông Huấn Cao dõng dạc quát tháo lên rằng: “Rệp cắn tôi đỏ cả cổ lên rồi. Phải rổ gông đ i”. Bâd thần ông Huấn Cao “khom
minh, thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái” trước sự ngỡ ngàng của viên quản ngục và bọn lính gác. Hành động của ông Huấn Cao thể hiện sự ngang tàng, bất tuân dù đôl diện với ngục quan, ông vẫn xem là kẻ tiếu lại, hèn mọn đang sông trong cái ác, cái lọc lừa. Với ông chỉ biết “nhất sinh đê thủ bái hoa m ai”, ông Huấn Cao chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai mà thôi đó là vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của “uy vũ bất năng khuất”. Hình ảnh của ông Huấn Cao gợi cho chúng ta nhớ lại nhân vật Từ Hải trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du cũng ngang tàng như thế với lời thơ: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu. Dọc ngang nào biết trẽn đầu có ai” (Truyện Kiều). б. Tình huống 2: Ngục quan khao khát được đối diện, trò chuyện với ông Huấn Cao để mong ông nghĩ đến và cho chữ đó là ước vọng, ý nguyện từ lâu của ngục quan. Khi ngục quan “khép nép” mở khóa cửa buồng giam đế mong gặp và tỏ bày cùng ông HuỂLn Cao. Với cử chỉ “khép nép” của ngục quan biểu hiện sự ngưỡng
52
mộ, khuất phục trước một tài năng khí phách mặc dù ngục quan là kẻ đại diện cho triều đình, phép nước, cho trật tự xã hội, còn ông Huấiì Cao là kẻ tử tù là giặc là kẻ mất đi quyền sống, nhưng tài năng khí phách của ông Huấn Cao, đã làm cho ngục quan phải “khép nép”, hoàn toàn thụ động. Chứng tỏ cái đẹp đã ngự trị lên tất cả. Sau đó, ngục quan ôn tồn bày tỏ sự quan tâm của mình đối với ông Huấn Cao, ngục quan nói: “Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lám. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khi, tôi muốn chăm chước ít nhiều. Miễn là ngài
giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết thì phiền lụy cho tôi nhiều lắm ”. Và ngục quan nói tiếp: “Vậy ngài có cần thêm gi nữa xin cho biết. Tôi sẽ cô gắng chu tất”. Trước lời nói ôn tồn thể hiện tấm lòng của ngục quan đối với ông Huấn Cao nhưng không vì thê mà ông Huấn Cao đồng tình đón nhận mà trái lại, ông Huấn Cao biểu hiện một thái độ dứt khoát, bất cần. Òng Huấn Cao nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chi muốn có một diều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Chỉ một lời nói ngắn gọn, khẳng định, dứt khoát toát lên cái ngang tàng, khí phách, bất khuất của ông Huấn Cao trong đề lao. Với ông, ngục quan chỉ là một tên tiểu lại, sông trong đề lao là sống trong cái ác, cái xấu xa, lọc lừa, tội lỗi thì làm gì đối diện cùng ông. ông quan niệm; “Nhất sinh đê thủ bái hoa m ai” ý nói đời ta chỉ biết cúi đầu, bái lạy hoa mai mà thôi đó là khí phách, nhân cách của ông Huấn Cao. Một phẩm chất cao đẹp của kẻ trượng phu, bậc quân tử.
3. Vẻ đẹp 3: ô n g Huấn Cao vẫn cho chữ, cùng với lời khuyên ngục quan trước giờ phút cuôi cùng.
a. Ông Huấn Cao quyết định cho chữ: ồng Huấn Cao nhận được tin ngày mai ông và I năm đồng chí giải về Kinh hành quyết. Đẹp thay, khi nhận được “phiến trát” của triều đình, ông Huấn Cao vẫn “mỉm cười” thanh thản, sẵn sàng đón nhận cái chết như là một sự giải thoát đó là vẻ đẹp của khí phách. Và trước giờ phút cuôl cùng, ông Huấn Cao vẫn sáng tạo ra cái đẹp, ông tặng chữ viết cho ngục quan. Quả thật, việc cho chữ của ông Huấn Cao cũng là điều hiếm thấy. Vì một tử tù, ngày mai giải về Kinh hành quyết, họ mất đi quyền sống, quyền làm người nhưng đêm cuôì cùng ông Huấn Cao vẫn sáng tạo ra cái đẹp của nghệ thuật, vẫn cho chữ ngục quan, kẻ đại diện cho phép nước, trật tự xã hội, quả là điều chưa bao giờ xảy ra. Và cảnh tượng cho chữ trong buồng giam lúc ấy tăm tối, dơ bẩn, phân chuột, phân gián bừa bãi trên đất, nhưng cái đẹp vẫn hiện hình, chứng tỏ cái đẹp đã ngự trị lên tất cả, khuất phục tất cả. Hình ảnh ông Huẩh Cao càng đẹp hơn khi “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng với tư thế uy nghi, đĩnh đạc cùng bàn tay nghệ thuật như ngọn bút thần đã viết lên những chữ đẹp, dành tặng cho ngục quan. Và lúc ấy, ngục quan lại “khúm núm”, cất những đồng tiền kẽm, còn thầy thư lại “run run” bưng chậu mực, cả hai hoàn toàn trong tư thế thụ động, lo lắng, càng toát lên khí phách của ông Huấn Cao lồng lộng giữa không khí trang nghiêm của bó đuốc được thắp sáng trong buồng giam.
53
6. Õng Huấn Cao cho lời khuyên'. Hình ảnh cuôi cùng khi ông Huấn Cao cho chữ xong, ông còn đưa ra lời khuyên với ngục quan. Với ông, muôn gìn giữ bảo vệ chữ viết đẹp, phát huy cái thiên lương cho lành vững thì ngục quan hãy “nền tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. ơ đây khó giữ thiên lương cho lành vững. Và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đ i”. Lời dặn dò của ông Huấn Cao đôi với ngục quan có khác ^ như lời dặn dò của một người thầy đôi với người học trò của mình, làm sao phải sông đẹp, biết gìn giữ cái đẹp. Trước giây phút cuôi cùng, viên ngục quan “vái người tù một vái” như biểu hiện lòng khâm phục, ngưỡng mộ trước một nghệ sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng khí, khác gì như một ngôi sao chính vị sắp vụt tắt giữa không gian rộng lớn của vũ trụ nhưng ngôi sao ấy vẫn tỏa sáng lấp lánh giữa bầu trời, rồi ngục quan nghẹn ngào, xúc động cùng những dòng nước mắt rĩ vào kẽ miệng và bật thành lời: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Hàng loạt cử chỉ, lời nói, thái độ, hành động của ngục quan trước hình ảnh ông Huấn Cao, chứng tỏ tài năng và khí phách của ông Huấn Cao đã ngự trị lên tất cả là phẩm châ't cao đẹp của người tử tù.
II. PHẦN KẾT THÚC
1. v ề nghệ thuật: Xây dựng tình huôhg sôhg động, đầy kịch tính, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, lời thoại nhân vật rất thật, côt truyện mạch lạc, hấp dẫn người đọc, dễ theo dõi.
2, v ề nội dung: Nhà vàn khắc họa thành công hình tượng ông Huân Cao chính là nhà thơ lớn Chu Thần Cao Bá Quát. Với tài năng, khí phách, nhân cách của ông Huấn Cao luôn luôn tỏa sáng giữa cuộc đời, mãi mãi hình tượng nghệ thuật bất tử trong văn học.
Để tuyển sinh; Anh (chị) phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn “C h ữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 để làm sáng tỏ phẩm chât đáng quý của ngục quan.
ỊHÍững kiến thức cần nắm:
1. Lời người xưa có nói: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", (trích Ca dao) 2. Hình ảnh ngục quan được ví von như sau: “Hình ảnh ngục quan như một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản dàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, (trích “Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân).
3. Lời ngạn ngữ phương Tây có nói: “Đứng trước một tri tuệ vĩ đại tôi cúi đầu. Đứng trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối”. (Ngạn ngữ phương Tây)
54
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
(Lời ca dao)
Lời nói của người xưa, đưa người đọc hình dung một đóa sen sống trong bùn lầy, nước đọng nhưng vẫn tỏa ngát hương thơm cho đời, mang nét đẹp thuần khiêt, trong lành, biểu tượng cho người quân tử. Nét đẹp ấy, chúng ta nghĩ đến nhân vật ngục quan trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân trích trong tập truyện “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940. Hình ảnh viên quản ngục dù sông trong đề lao với bao xấu xa, lọc lừa nơi chôn lao tù. Nhưng đẹp thay, ngục quan vẫn có những sở thích cao quý là phẩm chất đẹp của nhân vật.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
N hững phẩm chất cao quỷ của ngục quan.
1. Phẩm ch ất 1: Ngục quan có những sở thích cao quý.
Nói đến ngục quan là một người coi tù, quản lí phạm nhân trong trại giam gồm đủ mọi đôi tượng trong xã hội. Tâ4 cả đều thu gọn trong đề lao này V Ớ I bao xâu xa, lọc lừa, cái ác luôn luôn hiện hình. Vai trò của viên ngục quan là phải biết sông tàn nhẫn, không chế để cai quản nhà lao. Nhưng lạ thay, ngục quan lại có một sở thích đặc biệt, là ông biết yêu cái đẹp, cái đẹp của nghệ thuật qua chữ viết là thú chơi chữ tao nhã của người xưa đó là hình ảnh ông Huấn Cao, nhà thơ nổi tiếng dưới triều Tự Đức, có tên là Cao Bá Quát. Ngục quan ao ước, một ngày nào đó, có được chữ viết đẹp, chữ viết “vuông lắm ” của ông Huân Cao mà cho như “có một báu vật trên đời”. Đây là ước vọng chính đáng về cái đẹp, cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của ý tưởng là phẩm chất đáng quý của ngục quan.
2. Phẩm chất 2: Ngục quan khuất phục trước tài năng và khí phách của ông Huấn Cao.
a. Tình huống 1: Cuộc gặp gỡ đầy kịch tính giữa ngục quan và ông Huấn Cao toát lên hai hình ảnh hoàn toàn đôì lập. Hình ảnh ngục quan, một cai tù đại diện cho phép nước cho trật tự xã hội. Còn ông Huấn Cao một tử tù, kẻ mất quyền sôhg, chờ ngày hành quyết. Nhưng lạ thay, khi ngục quan mở cửa khóa buồng giam của ông Huấn Cao, ngục quan lại “khép nép” bước vào, là cử chỉ biểu hiện lòng ngưỡng mộ, kính trọng của ngục quan với ông Huấn Cao rồi ngục quan bày tỏ tấm lòng của mình với tiếng xưng hô “tôi và ngài” và đưa ra một thiện ý tô't, muôn biệt đãi ông Huấn Cao, nhưng ông Huấn Cao tỏ vẻ khinh thường, 55
bằng lời nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng dặt chân vào đây”. Trước sự miệt thị, xem thường của ông Huấn Cao, ngục quan vẫn im lặng từ tô'n bước ra với lời nói: “xin lĩnh ý”. Hàng loạt cử chỉ, thái độ, hành động, lời nói của viên ngục quan thể hiện sự khuất phục trước khí phách và tài năng của ông Huấn Cao. Quả thật, “trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu”, ngục quan là con người có phẩm chất như thế.
b. Tỉnh huống 2:
Lúc cho chữ: Hình ảnh ông Huấn Cao uy nghi, đĩnh đạc dù cổ đeo gông, chân vướng xiềng nhưng bàn tay của ông như ngọn bút thần vẫn sáng tạo ra cái đẹp trước giờ phút cuôì của cuộc đời. Lúc ấy viên quản ngục lại “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm là biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ và kính phục trước tài năng khí phách của ông Huấn Cao.
Lúc cho lời khuyên: ông Huấn Cao cho chữ xong, ông đưa ra lời dặn dò, khuyên bảo ngục quan một cách chân tình như một người thầy dặn dò, khuyên bảo người học trò phải sống như thế nào để bảo vệ cái thiên lương mới gìn giữ cái đẹp. Trước giờ phút ấy, ngục quan vẫn cúi đầu lắng nghe lời dặn dò, chỉ bảo của ông Huấn Cao như những lời di huấn quý báu mà ông Huấn Cao đã dành cho ngục quan. Sau đó ngục quan “vái người tù một vái” cùng những giọt nước mắt rỉ vào kẽ miệng, nói trong nghẹn ngào, xúc động: “kẻ mê muội này xin bái
lĩnh”. Hàng loạt cử chỉ, thái độ, lời nói và hành động của ngục quan, chứng tỏ ngục quan khuất phục nghiên mình trước hình ảnh ông Huấn Cao. Hình ảnh ngục quan có khác gì như: “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Phải chăng, cái thanh âm trong trẻo kia là phẩm chất đáng quý của ngục quan.
III. PHẦN KẾT THÚC
1. v ề nghệ th u ật: Xây dựng tình huôhg đầy kịch tính, đi sâu vào đời sông nội tâm nhân vật, lời thoại của nhân vật chân thật, ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu.
2. v ề nội dung: Nhà văn khắc họa thành công nhân vật viên quản ngục như một hình tượng nghệ thuật gần gũi chân thật dù sống trong cái ác, lọc lừa, xấu xa của đề lao nhưng ngục quan vẫn có những sở thích cao quý và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” là phẩm chất đẹp, khác gì đóa sen trong bùn “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
56
V Ộ I V À N G
XUÂN DIỆU
Đề tuyến sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau dây:
Câu 1: Anh/ chị giải thích ngắn gọn tựa đề “Vội v àn g ” trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Diệu trích trong tập “T hơ T hơ” xuâ't bản năm 1938 và nêu lên những ý chính của tác phẩm,
Câu 2: Mở dầu bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu có đoạn viết: “T ôi m uốn tắ t n ắn g đ i
C ho m àu đừ n g n h ạ t m ất
Tôi m uốn bu ộc g ió lạ i
C ho hư ơng dừ n g hay đ i ”
(Trích “Vội v àn g ” - Xuân Diệu)
Anh (chị) phân tích những vần thơ trên để tìm thây ý nguyện của nhà thơ muốn giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên trong tâm hồn thi nhân.
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Giải thích tựa đề “Vội vàng”:
Xuân Diệu đã từng thô"t lên:
“Mau với chứ! vội vàng lên với chứ! Eni ơi em! Tinh non sắp già rồi” {“Giục giã" - Xuân Diệu).
- Xuân Diệu! ông hoàng của thơ tình, căm nhận về mùa xuân của đất trời thì bất tận, vô tận “Xuân vẫn tuần hoàn”. Nhưng mùa xuân của tuổi trẻ, tuổi thanh xuân thì hữu hạn, ngắn ngủi. Với tuổi trẻ “chẳng hai lần thắm lại”. Khi mùa xuân của tuổi trẻ đi qua, mùa xuân đã hết mà “Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” tuồi thanh xuân cũng không còn, đi vào lãng quên là bi kịch của con người, của đời người cũng là bi kịch của thi nhân.
- Xuất phát từ dự cảm lo lắng băn khoăn về mùa xuân của tuổi trẻ, tuổi đẹp nhâ't của một đời người, Xuân Diệu khao khát muốn trẻ mãi không già, muốn được sông mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên với bao ước mơ đẹp để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc đời đó là lòng yêu đời, ham sống, sống hết mình cho tình yêu tuổi trẻ là ý tưởng đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn là ý nghĩa nội dung của tựa đề “Vộỉ vàng” cho bài thơ bất hủ của ông. Như vậy, ý nghĩa “Vội vàng” trong thơ Xuân Diệu không có nghĩa là sông gấp, sông vội để hưởng thụ mà phải sông hết lòng mình để tận hưởng mọi vẻ đẹp của đất trời và cuộc đời.
57
Ý nghĩa nội d u ng bài thơ “Vội vàng”. Có ba ý chính:
Y 1: (Đoạn đầu bài thơ) Thê hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sông đến mê say, ngây ngâ't của thi nhân.
ý 2: (Đoạn giữa bài thơ) Thể hiện nỗi băn khoăn, dự cảm lo lắng của thi nhân trước cuộc đời.
Y 3: (Đoạn cuôi bài thơ) Thể hiện lòng yêu đời, ham sông lại bùng lên mãnh liệt, hôl hả, cuồng say của thi nhân.
Câu 2: Phân tích đoạn thơ trên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu. 3 2 ững kiến thức cần nắm:
1. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh bày tỏ về bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời yêu sống đến cuồng nhiệt". (GS. Nguyễn Đăng Mạnh)
2. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận định về nhà thơ Xuân Diệu: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. (Hoài Thanh)
3. Có ý kiến rằng; “Thơ Xuân Diệu là tâm hồn Xuân Diệu” hay “Xuân Diệu là Ông hoàng của thơ tinh Việt Nam". (Lời nhận định)
4. Có lời bày tỏ về Xuân Diệu: “Nhà thơ Xuân Diệu đi vào th ế giới vĩnh hằng nhưng ta vẫn cảm thấy ông và thơ của ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca”. (Lời nhận định)
7. Bài thơ “Giục giã” của Xuân Diệu có viết: “Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em ơi em, tình non sắp già rồi”. {“Giục giã" - Xuân Diệu).
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Nhà thơ Xuân Diệu dã di vào thế giới vĩnh hàng nhưng ta vẫn cảm thấy ông và thơ của ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca)”, (lời nhận định). Mở đầu bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, thi nhân có bày tỏ: “Tôi muốn tát nấng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương dừng bay đ i”
(Trích “ Vội vàng' - Xuân Diệu)
Chúng ta tìm hiểu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu chất suy tưởng qua nét bút tài hoa Xuân Diệu để tìm thấy ý nguyện của thi nhân muốn giữ nguyên vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp nguyên thủy mãi mãi nằm trọn trong tâm hồn của chính tác giả.
58
II. PHÂN TRỌNG TÂM
Ý nguyện của nhà thơ muốn g iữ nguyên vẹn vẻ đẹp thiên nhiên “Vội vàng” là tiếng nói của một hồn thơ đẹp, một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sông, yêu thiên nhiên tạo vật đến cuồng nhiệt, hăm hở, náo nức toát lên một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thông Việt Nam. Mở đầu bài thơ thế hiện một cảm xúc, một ước nguyện của thi nhân trước vẻ đẹp thiên nhiên với tiếng gọi: “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt mất”. Tiếng nói đầu tiên của “cái tôi trữ tình” là ước nguyện trong tâm hồn thi nhân. Lời thơ “Tôi muốn tát nắng đ i” là ý nguyện của người thi sĩ muôn tác động vào vũ trụ, không gian đế giữ nguyên vẻ đẹp ban đầu, trọn vẹn, vẻ đẹp thực của tạo vật vì “nắng”, ánh nắng của mặt trời sẽ làm biến dạng, thay đổi bao sắc màu tươi đẹp nguyên thủy của tạo vật, ánh nắng làm cho sắc màu không còn đẹp như thuở ban đầu, vẻ đẹp thực, vẻ đẹp nguyên thủy của chính nó. Ánh nắng kia chính là thủ phạm đá hủy diệt, làm tàn phai bao sắc màu mà có lần Xuân Diệu đã thôt lên “Hơn một loài hoa đã rụng cành. Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” là thé hiện niềm thương tiếc trong tâm hồn thi nhân khi sắc hoa biến dạng trước sự khắc nghiệt của vũ trụ đát trời. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, Xuân Diệu mới viết lên những vần thơ hay đẹp như thế! Tiếp đến nhà thơ lại bày tỏ: “Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay di” cũng là ước nguyện của thi nhân, muôn tác động vào vũ trụ, không gian, muôn giữ nguyên hương sắc ngọt ngào, đậm đà của thiên nhiên khi mùa xuân đê'n. Vì gió có thế làm cho hương bay đi, nhạt nhòa đi, gió sẽ cướp đi hương sắc của thiên nhiên, gió sẽ làm tan dần, nhạt nhòa dần, mất dần nhụy hương của bao loài hoa đẹp. Xuân Diệu hăm hở, muôn ôm trọn cả sự sông của thiên nhiên vào tâm hồn mình để tận hưởng vẻ đẹp trọn vẹn “sắc không bao giờ phai và hương không bao giờ nhạt” như lời bày tỏ của thi nhân: “Ta muốn ôm cả sự sống mới, hắt đầu mơn mởn. Ta muốn riết mây đưa và gió lượn. Ta muốn say cánh bướm với tình yêu. Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều ...” là vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn. Rồi nhà thơ như muôn thô't lên: “nắng ơi, hãy dịu lại và tắt di, gió ơi, hãy dưng lại và ngưng thổi” đế thiên nhiên giữ mãi vẻ đẹp nguyên thủy của chính nó vì nhà thơ lo sợ rằng, vẻ đẹp của sắc của hương trong hiện tại sẽ chóng mất, chóng phai tàn rồi sẽ đi vào hư vô, quên lâng thì cuộc sông buồn lắm, hụt hẫng lắm đó là nỗi lòng và ước nguyện của thi nhân. Nhận xét: Qua những lời bày tỏ của tác giả: “Tôi muốn tắt nắng đi. Tôi muôn buộc gió lại" điều đó dường như vô lí, nghịch lí “xa rời cuộc sống” và “thoát ly hiện tại” là ảo ảnh, ảo tưởng nhưng xét cho cùng, nó lại là điều có lí, hợp lí của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sông tha thiết. Phải chăng: “Thơ Xuân Diệu chinh là tâm hồn Xuân Diệu”.
Mở rộng: Chúng ta còn nhớ bài thơ “Cánh chiều hôm ” của Hồ Chí Minh (trích trong tập “Nhật kí trong tù”) có viết: “Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng. Hoa tàn,
59
hoa nở cũng vô tình”. Những vần thơ là lời bày tỏ tấm lòng của tác giả thương tiếc cho số phận một loài hoa sớm nở tôl tàn rồi thi nhân trách cho thời gian nghiệt ngã, người đời vô tình. Nhưng phần mở đầu trong bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu có viết: “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt mất. Tôi muốn buộc gió lại.
Cho hương dừng bay đi”. Với Xuân Diệu, nhà thơ không chỉ buồn khi nhìn sắc màu phai vì nắng không chỉ thương khi nhìn hương của hoa nhạt nhòa vì gió mà nhà thơ lại tác động vào vũ trụ, muốn không chế không gian, thể hiện bằng hành động, tưởng chừng như vô lí, nghịch lí mà lại hoàn toàn hợp lí, có lí của một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết và tha thiết với thiên nhiên. Đây là một quan niệm nhân sinh rất mới, rất hiện đại đúng như lời nhận định: “Thơ Xuân Diệu chính là
tâm hồn Xuân Diệu”.
III. PHẦN KẾT THÚC
1. v ề nghệ thuật: Đoạn thơ mở đầu như một lời tự sự chân tình, nhịp thơ êm đềm trầm bổng, giọng thơ giàu tính triết lí, giàu chất suy tưởng. 2. v ề nội dung; Thể hiện một tâm hồn tràn đầy sức sôhg, sông hết mình với thiên nhiên, tạo vật với ước nguyện được giữ mãi vẻ đẹp nguyên thủy của thiên nhiên. Đây là một qụan niệm nhân sinh rất mới, mới nhất đế làm nên một hồn thơ bất hủ. Đúng như lời nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Để tuyển sinh: Anh chị phân tích “S ự cả m n h ậ n về th ời g ia n ” của nhà thơ Xuân Diệu qua đoạn thơ sau trong bài “Vội v àn g ” trích trong tập “T hơ T h ơ ” xuất bản năm 1938 để tìm thấy nỗi băn khoăn, lo lắng của nhà thơ trước cuộc đời.
X uân d a n g tới n g h ĩa là X uân đư ơng q u a
X uân còn n on n g h ĩa là X uân sẽ g ià .
M à X uân h ế t n g h ĩa là tôi cũ n g m ất
L òn g tôi rộng, như ng lư ợng trời cứ c h ậ t
K h ôn g c h o d à i th ời trẻ c ủ a n h ân g ia n
N ói là m c h i rằ n g X uân vẫn tu ần h o à n
N ếu tu ổi trẻ ch ẳ n g h a i lầ n th ắm lạ i!
C òn trờ i:đ ấ t như ng ch ẳ n g còn tôi m ã i
N ên h ăn g k h u â n g tôi tiếc c ả đ ấ t trời
Mùi th á n g n ăm đ ều rớm vị c h ia p h ô i
K h ắ p sôn g núi vẫn th an th ầm tiễn hiệt...
(Trích “Vội Vàng” - Xuân Diệu - 1938)
60
ữns kiến thức cần nắm:
1. Quan niệm của Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế. Năm tháng vẫn đi qua. Như biển kia dẫu rộng. Mây vẫn bay về xa.” (Sóng - Xuân Quỳnh ) 2. Quan niệm Phật giáo: “Sinh, Lão, Bệnh, T ử ’. (Quan niệm Phật giáo) 3. Quan niệm Thiên Chúa giáo: “Nấm mồ là nơi trú ngụ cuối cùng của một đời người" 4. Xuán Diệu quan niệm về tình yêu: “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết. Trong gặp gỡ dã có mầm ly biệt”. (Giục giã - Xuân Diệu) hay “Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em ơi em! Tình non sắp già rồi”. (Giục giã - Xuân Diệu) 5. Xuân Quỳnh có viê’t: “Em đâu dám nghĩ, tình yêu là vĩnh viễn. Hôm nay yêu mai có th ể xa rồi”. (Nói cùng Anh - Xuân Quỳnh)
6. Lời dân gian: “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đ i”. (Lời dân gian) 7. Xuân Diệu từng bày tỏ: “Mười Chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!" (Đẹp - Xuân Diệu)
8. Cao Bá Quát có nói: “Xử thế nhược đại mộng”ý nói: Cuộc đời như giấc mộng lớn. 9. Lời cổ nhân: “Cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ". (Lời cồ nhân)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Cuộc dời tuy dài thê
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
(Sóng - Xuân Quỳnh )
Thời gian là bất tận, vô tận, cuộc đời là hữu hạn, mong manh trước cái vô cùng của không gian và thời gian rồi đi vào lãng quên vào hư vô. Y nghĩa ấy, người đọc liên tưởng bài thơ “Vộỉ Vàng” cũa Xuân Diệu trích trong tập “Thơ Thớ" xuât bản năm 1938. Thi nhân cũng cảm nhận về thời gian là vĩnh cửu, còn tuổi xuân của một đời người sao mong manh, hữu hạn chợt đến rồi chợt đi được thể hiện qua đoạn thơ sau:
Xuân đang tới nghĩa là Xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già.
Mà Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
ỉjòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng Xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trc chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
61
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ...
(Trích “ Vội vàng"- Xuân Diệu năm 1938)
- Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm, giàu châ^t suy tưởng để tìm thấy “Sự cảm nhận về thời gian” của Xuân Diệu là nỗi băn khoăn lo lắng của nhà thơ trước cuộc đời.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
S ự cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu qua đoạn thơ trên. 1. Phân tích 2 cầu đầu:
“Xuân đang tới nghĩa là Xuân dương qua.
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ g ià”.
(Trích “ Vội vàng')
- Với nhịp thơ 3/5 trầm bỗng cất lên, ta cảm nhận, mùa xuân như đang nhịp bước, nhún nhảy theo vận hành của thời gian. Hàng loạt từ ngữ “đang tới", “đương qua” “Còn non” “sẽ già” vừa tương ứng vừa đôì lập gợi người đọc thấy được mùa xuân và thời gian đang vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân và dòng chảy của thời gian là liên tục vô tận. Nhưng cái nhìn, cảm nhận của Xuân Diệu trong hiện tại là “đang tới” nhưng đã nhuốm màu ly biệt là “dương qua” trong dáng xuân “còn non” của hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ già”. Cách thế hiện trong thi pháp của Xuân Diệu về việc sử dụng từ ngữ rất mới, chứng tỏ sự cảm nhận về thời gian thì vô tận còn mùa xuân của thi sĩ thì hữu hạn trước cái vô cùng của vũ trụ. Một cảm nhận thật tinh tế, giàu sức biểu cảm, một nét mới rất mới trong thơ Xuân Diệu để thấy được nỗi băn khoăn, lo lắng của nhà thơ trước cuộc đời.
Liên hệ: Người đọc từng bắt gặp trong thơ Xuân Diệu về dự cảm ấy. Với tiếng gọi; “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết. Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” hay “Mau với Chứ! Vội vàng lên với Chứ! Em ơi em! Tình non sắp già rồi”. (“Giục giã” - Xuân Diệu) và nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng có một dự cảm như thế: “Em đâu dám nghĩ tình yểu là vĩnh viền. Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”. (Xuân Quỳnh) 2. Phân tích 7 câu tiếp:
“Mà Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
(Trích “ Vội vàng' - Xuân Diệu)
Đoạn thơ như nói lên “bi kịch của con người, đời người”. Với tiếng thì thầm “mà xuân hết”. Chứng tỏ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đã đi qua, tàn phai theo năm tháng nghĩa là tôi sẽ không còn “tôi cũng m ất”, tôi sẽ đi vào lăng quên với năm tháng, mất hết ý vị của cuộc đời. Mà nói đến tuổi trẻ, cái tuổi thanh xuân tràn
62
đầy sức sông đáng yêu biết bao! Nó tượng trưng cho tình yêu, ước mơ, hạnh phúc mà mỗi người chỉ có một thời son trẻ nhưng rồi thời gian đi qua, tuổi trẻ thu nhỏ lại, ngắn lại, hẹp lại và sẽ không còn hiện hữu, nghĩa là tôi cũng mất, cũng hòa vào vũ trụ, vào không gian như lời tự sự tỏ bày nuôi tiếc của thi nhân: “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng m ất”. Mạch cảm xúc của thi nhân tiếp tục cảm nhận: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài thời trẻ của nhăn gian".
vẫn nhịp thơ 3/5 dìu dặt. Với tiếng gọi “lòng tôi rộng” như muốn nói lòng tôi mênh mông, bao la rộng lớn, tôi muôn trường sinh bất tử cùng năm tháng, muôn trẻ mãi không già để được tận hưởng với đâ't trời nhưng quy luật tạo hóa lại vô cùng nghiệt ngã vì “lượng trời cứ chật” phải khép lại, đóng sầm lại không cho tôi vươn dài trải rộng với thời gian với nhân gian như lời thầm thì, oán trách của thi nhân: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật. Không cho dài thời trẻ
của nhân gian”. Đặc biệt với hai từ tương phản giữa “rộng” và “chật” nói lên cái nghịch lí của đời người, bi kịch của con người cũng là bi kịch của thi nhân. Vì sao lòng tôi rộng mở, muôn ôm trọn cả sự sông của tạo vật này, cuộc đời này mãi mãi với thời gian, không gian nhưng “ý trời" không cùng đồng cảm, cùng cảm nhận được “lòng tôi” mà lại nghiệt ngã với tôi, muôn khép chặt cuộc đời tôi và trong lòng thi nhân cất lên như tiếng vọng buồn, lời than thở tiếc nuôi: “Nói
làm chi rằng Xuân vẫn tuần hoàn. Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi. Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Tiếng thầm thì “Xuân vẫn tuần hoàn” người đọc hiểu rằng, Xuân của bốn mùa của đất trời, tạo vật vẫn tuần hoàn, nôl tiếp, tiếp nôl, theo bước đi vô tận của thời gian với “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận” (Xuân qua, xuân đến, xuân mãi mãi) nhưng một dời người chỉ có thời thanh xuân, một quảng đời tuổi trẻ, nó chỉ đến và qua đi, chỉ có một lần, một thời khắc nhất định “Chẳng hai lẩn thắm lại” nói như triết gia Hi Lạp - Hécralite: “Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông” bao giờ. Nhưng đất trời, vũ trụ thì lại vĩnh hằng, trường cửu, vô hạn với thời gian. Còn tuổi trẻ, đời người thì hữu hạn như thi nhân Cao Bá Quát từng thôt lên: “Xử th ế nhược dại mộng” ý nói cuộc đời như một giấc mộng lớn hay: “Cuộc dời như bóng câu qua cửa sổ” thoáng thấy đó rồi lại mất đó, ngắn ngủi quá, tiếc nuôi quá, kiếp nhân sinh, kiếp con người chỉ là bi kịch trước sự vô hạn khắc nghiệt của thời gian. Vì trời đất thì còn mãi, hiện hữu mãi, vô tận nhưng còn tôi “chẳng còn tôi m ãi” tôi chỉ là hữu hạn, có rồi mất, đến rồi đi, đi vào lãng quên cùng năm tháng. Một dự cảm sẽ mất, sẽ không còn hiện hữu, sẽ không còn tôi mãi ở cõi nhân gian, vì thế, thi nhân đã thể hiện niềm nuôi tiếc qua tiếng thơ: “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Tiếng gọi: “Tôi tiếc cả đất /rời”chính là tiếng lòng của thi nhân, niềm nuôi tiếc không nguôi vì tuổi trẻ, tuổi thanh xuân sẽ chóng qua, đâu còn trẻ mãi để tận hưởng vẻ đẹp của tạo vật, đất trời và cuộc đời là thế hiện niềm khao khát sự sống, ham sống, tha thiết sông. Chính là lòng yêu đời, yêu đất trời thiên nhiên tạo vật trong tâm hồn thi nhân. Một quan niệm nhân sinh rất mới, rất Xuân Diệu.
63
3. Phân tích hai câu còn lại:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ...”
(Trích “ Vội Vàng' - Xuân Diệu)
Tiếng gọi “mùi tháng năm” và “vị chia p h ôi” là một cảm nhận rất mới trong thơ Xuân Diệu. Hai tiếng “mùi” và “vị" là nói về thời gian, năm tháng chia phôi, chứng tỏ Xuân Diệu có một cảm nhận thật tinh tế, sâu lắng, nhạy cảm theo bước đi của thời gian với cái mùi của nó, cái vị của nó. Chứng tỏ Xuân Diệu cảm nhận dòng chảy thời gian rất độc đáo, giàu sức biểu cảm, rất thơ, rất mới, và nhà thơ bồi hồi, cảm xúc khi lắng nghe bước đi thời gian như tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của đất trời cũng tiễn biệt tuổi thanh xuân ra đi, không bao giờ thắm lại trong nuôi tiếc, bùi ngùi.
III. PHẦN KẾT THÚC
1. Về nghệ thuật: Với ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm, nhịp thơ hối hả, dồn dập, sử dụng thi pháp rất mới, rất Xuân Diệu. 2. v ề nội dung: Nhà thơ thể hiện một quan niệm về nhân sinh về cuộc đời về tuổi trẻ, theo dòng chảy của thời gian. Thời gian là sự khắc nghiệt của tuổi trẻ, tuổi thanh xuân là bi kịch khổ đau của con người, là nỗi băn khoăn, lo lắng của nhà thơ trước cuộc đời. Qua đó mới thấy niềm khao khát sự sống, ham sống, sống hết mình và yêu đời trong tâm hồn thi nhân là những ý tưởng đẹp của một hồn thơ lãng mạn. Quả thật: “Thơ Xuân Diệu chính là tâm hồn Xuân Diệu”.
TRÀNG GIANG
HUY CẬN
Để tuyển sinh: Anh (chị) làm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Anh (chị) ghi lại bài thơ “T ran g G ian g ” của nhà thơ Huy Cận từ đó nêu lên hoàn cảnh sáng tác và chủ đề của tá c phẩm, Câu 2: Anh (chị) phân tích khố thơ đầu trong bài thơ “T ràn g G ian g ” của nhà thơ Huy Cận trích trong tập thơ “L ử a th iê n g ” xuất bản năm 1940 dể làm sáng tỏ “T hơ Huy C ận c h ín h là tâm hồn Huy C ậ n ”.
S ón g g ợ n T ràn g G ian g bu ồn đ iệ p đ iệ p
Con thu yền xu ôi m á i nước son g son g
Thuyền về nước lạ i sầu trăm n g ả
Củi m ột cà n h k h ô lạ c m ấy dòng.
(Trích “Tràng Giang” - Huy Cận)_______
64
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Ghi lại bài thơ T ràn g G ian g của nhà thơ Huy Cận. 1. Bài thơ: TRÀNG GIANG
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Sóng gạn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Trích tập thơ "Lửa Thiêng’ năm 1940 - Huy Cận)
2. Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1939, Huy Cận là một sinh viên trường Cao Đẳng Canh Nông Hà Nội. Chiều chiều ông thường đạp xe ra bờ Nam bến Chèm gần dòng sông Hồng đâ't Bắc. Trước trời rộng sông dài, bao la của vũ trụ, đã khơi dậy trong tâm hồn thi nhân nguồn cảm hứng để viết lên bài thơ “Tràng Giang”. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ đặc sắc của phong trào thơ mới (thơ ca lãng mạn) in trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
3. Chủ đề: Huy Cận mượn cảnh đẹp thiên nhiên với trời rộng sông dài nhăm bày tỏ nỗi lòng tâm trạng của thi nhân đang nhớ về quê nhà cùng tình yêu quê hương đất nước.
Câu 2. Phân tích khổ thơ dầu trong bài thơ “T ràn g G ian g ” của nhà thơ Huy Cận.
iSỈữkig kiến thức cần nắm:
1. Lời ca dao: “Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu”. (Ca dao) 2. Thi hào Nguyễn Du có viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui dâu bao giờ”. (Nguyễn Du)
65
3. Nhà thơ Huy Cận bày tỏ nỗi lòng trước hoàn cảnh của đất nước: “Buồn đất nước mà nặng tình sông núi”, (trích “Mai sau” - Huy Cận)
4. Nhà thơ Huy Cận bày tỏ: “Đau đời có cứu được đời đâu”. (Huy Cận) 5. Có lời nhận định rằng: “Chính nguyên nhãn thời đại đã chi phối hồn thơ của thi nhân”.
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy ỉihiêu”.
(Ca dao)
Hình ảnh con sóng nước được hình tượng hóa như con sóng tình dạt dào trong tâm hồn người con gái với bao nỗi niềm tâm trạng buồn thương giữa cuộc đời. Hình ảnh ấy, chúng ta nhớ lại khổ thơ đầu trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận trích trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Nhà thơ, mượn con sóng nước, thi vị hóa như con sóng tình dạt dào để bày tỏ nỗi lòng thi nhân trước trời rộng sông dài được thế hiện qua đoạn thơ sau:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp.
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả.
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
(Trích “ Tràng Gianự' - Huy Cận).
Chúng ta cần đi sâu những vần thơ giàu sức biểu cảm qua nét bút Huy Cận để tìm thấy “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
II. PHÂN TRỌNG TÂM
“T hơ Huy C ận ch ín h là tâm h ồn Huy Cận".
1. Lời thơ 1: Với lời thơ đầu “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Khi còn là sinh viên trường Cao đẳng Canh Nông Hà Nội, chiều chiều nhà thơ thường đạp xe ra bờ Nam bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đất Bắc. Trước trời rộng sông dài gợi tâm hồn thi nhân niềm cảm xúc với tiếng gọi: “Sóng gợn
Tràng Giang buồn điệp điệp”. Nhịp thơ 2/2/3 rải đều, giọng thơ êm đềm trầm buồn, khắc họa cảnh thiên nhiên đẹp nhưng lại buồn. Hình ảnh “sóng gợn” là con sóng đang nhấp nhô theo nhịp thở của nó, khơi gợi tâm hồn thi nhân niềm u hoài qua nét bút “buồn điệp điệp”. Với cụm từ láy gợi cảm “buồn điệp điệp” thê hiện một nỗi buồn thăm thẳm, dịu vợi không nhìn thấy bằng ánh mắt bằng mọi giác quan mà chỉ cảm nhận bằng tâm hồn. Nhà thơ đứng trước trời rộng, sông dài trước vũ trụ bao la choáng ngợp, người thi sĩ cảm thấy lòng mình cô đơn, trống vắng gợi tâm hồn Huy Cận, nỗi buồn vời vợi xa xăm. Phải chăng, những lớp sóng gợn ở ngoài kia, còn ẩn chứa nỗi lòng thầm kín về tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn Huy Cận, mà có lần nhà thơ đã bày tỏ: “Buồn đất nước
66
mà nặng tình sông núi". Như vậy, nhà thơ đã mượn ngoại cảnh là con sóng nước đê nói lên tâm cảnh là con sóng tình dạt dào trong tâm hồn thi nhân. Quả thật: “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
2. Lời thơ 2; Với hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 rải đều, giọng thơ êm đềm, sâu lắng thể hiện cảnh vật hiu hắt, buồn tênh. Hình ảnh “Con thuyền xuôi m ái” là con thuyền không người lái, tưởng chừng như bị nước cuôh đi. Nhưng không phải thế! Tiếng gọi “nước song song” cho người đọc hình dung giữa thuyền và nước đang sánh đôi nhau, song song nhau trên sông dài mà sẽ không bao giờ gặp nhau, giao hòa, đưa chúng ta liên tưởng trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử cũng mang một nét buồn như thế với hình ảnh: “Gió theo lối gió mây đường mây”, gợi người đọc hình dung cảnh thiên nhiên tuy đẹp nhưng lại buồn.
3. Lời thơ 3: Tiếp đến, hình ảnh “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Tiếng gọi “thuyền về”, ở đầu câu thấp thoáng một nỗi buồn khi nhìn thấy cảnh vật chia ha. Hai tiếng “thuyền về” đưa chúng ta hình dung con thuyền không người lái và không có một bóng người đang xuôi về đâu! đi đâu! nước nào có biết! có hay! chỉ đế lại cho nước nỗi “sầu trăm ngả”, nỗi sầu vạn dặm, xa khơi.
Mở rộng: Trước hoàn cảnh đau thương của đất nước dưới ách thống trị của thực dân phong kiên, đưa chúng ta nhìn về hình ảnh con thuyền kia, hàm ẩn là con thuyền Tổ quô'c, con thuyền Đất nước mà Tổ quốc, Đất nước giờ này đang chìm trong màn đêm nô lệ của ngoại bang thì hình bóng của Tổ quô"c, Đất nước đâu còn nữa chỉ còn chăng là tiếng vọng của quá khứ, tiếng vọng của chiều dài lịch sử chỉ còn trong tiềm thức, trong kí ức của mỗi người dân Việt. Và hình ảnh “sầu trăm ngả” như thấp thoáng nỗi sầu của thi nhân trước nỗi buồn thời đại. Lời thơ chính là tiếng lòng, tâm tư của Huy Cận. Quả thật: “Thơ Huy Cận chính
là tâm hồn Huy Cận”.
4. Lời thơ 4: Và hình ảnh còn lại “Củi một cành khô lạc mẩy dòng” là nét đẹp hiện đại trong bút pháp của Huy Cận. Nhà thơ mượn hình ảnh hoàn toàn mới “củi một cành khô” vừa trần trụi, tàn tạ cho người đọc hình dung một cành củi khô gầy guộc từ rừng xuôi về như nói lên một kiếp đời thực vật mong manh bé nhỏ trước trời rộng sông dài. Và hình ảnh “củi một cành khô” qua nét bút Huy Cận, nhà thơ còn nghĩ về một kiếp người, đang sông trong cơ cực, lầm than nô lệ. Chứng tỏ Huy Cận muốn nói lên nỗi niềm ưu tư của nhà thơ về sô phận con người, về cuộc đời và người thi nhân cảm thấy lòng mình buồn hơn, đau đáu hơn khi chưa tìm được lối ra, nẻo về, như lời bày tỏ của Huy Cận: “Đau dời có cứu dược đời đâu”. Quả thật: “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
IIL PHẦN KẾT THÚC
1. Về nghệ thuật: Lời thơ giàu hình ảnh chọn lọc, giàu châ't suy tưởng, tính triết lí, giọng thơ êm đềm, nhịp thơ đều đặn như nhịp đập của sóng.
67
2. v ề nội dung: Huy Cận đã khám khá hình ảnh thiên nhiên từ “sóng gợn”, “thuyền về”, “nước lại”, “củi một cành khô”... Nhà thơ vận dụng cái hay, cái đẹp, từ thiên nhiên nhằm bày tỏ nỗi lòng của thi nhân, là mượn ngoại cảnh để nói lên tâm cảnh, nói thay cho niềm ưư tư, khắc khoải trong tâm hồn Huy Cận. Quả thật, “Tràng Giang” là tiếng lòng Huy Cận là nguồn cảm hứng để làm nên một hồn thơ đẹp, bất tử với năm tháng.
Đế tuyển sinh: Bài thơ “T ràn g G ian g ” của nhà thơ Huy Cận trích trong tập thơ “Lửa thiêng” xuât bản năm 1940 qua khổ thơ cuối có đoạn viết:
“L ớp lớp m ây c a o đù n núi b ạ c
C him n g h iên g cá n h n h ỏ bón g c h iều s a
L òn g qu ê dợn dợn vời con nước
K h ôn g k h ó i h o à n g h ôn củ n g n h ớ n h à ”.
(trích “Tràng Giang”-H u y Cận)
Anh (chị) phân tích khổ thơ trên để tìm thấy nỗi lòng của thi nhân trước trời rộng sông dài.
ÌSĨững kiến thức cần nắm:
1. Nhà thơ Đỗ Trung Quân ca ngợi quê hương: “Quê hương mỗi người chỉ một. Như là chỉ một mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nỗi thành người”. {“Quê Hương” - Đỗ Trung Quân)
2. Bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ (Trung Quôc) có viết: “Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm. Mặt đất mây đùn cửa ải xa”, (trích “Thu hứng” - Đỗ Phủ) 3. Nhà thơ Chế Lan Viên trong bài “Thu”, tác giả mượn cánh chim để bày tỏ nỗi lòng thi nhân: “Chao ôi! Mong nhớ ôi mong nhớ. Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”, (trích “Thu” - Chế Lan Viên)
4. Nhà thơ Xuân Diệu nhận định về bài thơ “Tràng Giang”-. “Tràng Giang là bài thơ ca hát về non sông đất nước do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn T ổ quốc”. (Xuân Diệu)
5. Nỗi nhớ nhà của Huy Cận là nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của ông; “Cái làng sơn cước heo hút vùng Hương Sơn-Hà Tĩnh có dòng sông Thâm có núi Mồng Gà”. 6. Nhà thơ Huy Cận có nói: “Buồn Đất nước mà nặng tinh sông núi”, (trích “Mai Sau” - Huy Cận)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ môt mẹ thôi
68
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”.
(trích “Quê hươnự' - Đỗ Trung Quân)
Quê hương! mãi mãi là tiếng gọi thân thương trong tiềm thức, kí ức của mỗi con người, là nơi chôn nhau cắt rô"n, nơi chứa đựng bao dòng sữa ngọt ngào của mẹ, lời ru của bà hòa cùng tiếng vọng của gió của núi của sông, mà mỗi lần đi xa, không ai không khỏi nhớ về. Nỗi nhớ ấy, chúng ta liên tư ở ng khổ thơ cuôl trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận trích trong tập “Lửa Thiêng” xuất bản năm 1940, nhà thơ cũng bày tỏ nỗi lòng người thi nhân trước trời rộng sông dài, là chạnh nhớ về quê nhà cùng tình yêu quê hương non nước được thể hiện với đoạn thơ sau;
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khói hoàng hôn cũng nhớ n hà”.
(Trích “ Tràng Gianự’ - Huy Cận).
II. PHẦN TRỌNG TÂM
1. Hai câu đầu: Nỗi lòng của Huy Cận trước trời rộng sông dài. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.
Ánh mắt của Huy Cận nhìn về bầu trời, một không gian thu lúc chiều xuông và cất lên tiếng gọi: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Nhịp thơ 2/2/3, giọng thơ trầm bổng toát lên cảnh chiều thu trên sông thật đẹp. Huy Cận mượn hình ảnh “mây” nói lên vẻ đẹp không gian lúc chiều về. Với hình ảnh “lớp lớp mây cao” trong Tràng Giang của Huy Cận là những áng mây không lữrìg lờ trôi, êm đềm trôi như áng mây chiều trong hồn thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh với: “Chòm
mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà áng mây chiều của Huy Cận mang một dáng vẻ khác, trạng thái khác. Với động từ gợi hình “đùn” Huy Cận mượn trong thơ của Đỗ Phủ (Trung Quôh) với lời thơ; “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Từ “đùn” gỢi người đọc nhìn thấy những áng mây chiều đang nhô lên, đùn lên, hình thành những ngọn núi bạc trắng, toát lên một không gian thu trong sáng, huyền ảo, xua tan sự u buồn, hoang vắng trước cảnh vật lúc chiều về như đem lại cho nhà thơ một cảm giác êm dịu, sự thanh thản của tâm hồn, xua đi nỗi cô đơn, trông vắng của thi nhân trước trời rộng, sông dài. Và ánh mắt Huy Cận nhìn thấy giữa bầu trời thu, một cánh chim chiều với tiếng gọi; “Chim nghiêng cánh nhỏ
bóng chiều sa”. Huy Cận mượn hình ảnh “cánh chim ” nói lên vẻ đẹp không gian lúc chiều tà. Nhưng cánh chim trong thơ Huy Cận hoàn toàn khác với cánh chim trong thơ xưa mà ca dao có viết: “Chim bay về núi tối rồi” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có ghi: “Chim hôm thoi thót về rừng” và trong thơ Bà Huyện Thanh Quan với hình ảnh: “Ngàn mai gió cuốn chim bay m ỏi”. Nhưng
69
trong thơ Huy Cận, hình ảnh cánh chim hoàn toàn cách tân đổi mới. ơ đây không phải là một đàn chim, một bầy chim trên đường bay về tổ về rừng tìm nơi trú ẩn. Với Huy Cận, chỉ một cánh chim chiều, cánh chim lạc loài, bé nhỏ, mong manh trước trời rộng sông dài, toát lên hai hình ảnh hoàn toàn đôi lập. Giữa không gian bao la rộng lớn với trời rộng sông dài, lại xuất hiện một cánh chim chiều lẻ loi, bé nhỏ càng tạo cho cảnh vật thêm buồn hơn, hiu hắt hơn, mênh mông hơn. Từ gọi ''chim nghiêng” vừa hiện thực vừa lãng mạn gợi người đọc hình dung cánh chim đang chở nặng cả bóng chiều, đang nghiêng mình chúi xuông trên mặt nước, càng thấy cánh chim bé nhỏ hơn, mong manh hơn và hình ảnh cánh chim hàm ẩn một vẻ đẹp khác. Phải chăng, cánh chim chiều kia, tượng trưng cho hình bóng thi nhân, khi cánh chim chở nặng cả bóng chiều, khác gì người thi nhân cũng đang chở nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê và nhớ cả tình yêu non nước. Quả thật; “Thơ Huy Cận chính là tâm hồn Huy Cận”.
Liên hệ: Nhớ đến cánh chim chiều trong “Tràng Giang” của Huy Cận, chúng ta lại liên tưởng cánh chim chiều trong hồn thơ “Thu” của Chế Lan Viên cũng mang một cảm nhận, một hình ảnh như thế, qua lời thơ: “Chao ôi! mong nhớ ôi mong nhớ. Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”. Phải chăng, chính nguyên nhân thời đại đã chi phối hồn thơ của thi nhân và để lại cho nền thơ ca Việt Nam những hồn thơ bất hủ.
2. Hai câu còn lại: Nỗi nhớ nhà, ẩn chứa nỗi niềm về tình yêu quê hương non nước trong tâm hồn Huy Cận.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Huy Cận, ánh mắt thi nhân vẫn hướng về những con nước từ xa trên sông chiều ấy. Với tiếng gọi: “Lòng quê dợn dợn vời con nước”. Điệp từ láy gợi hình “dợii dợn” là giây phút, nhà thơ nhìn những con sóng nước từ xa đang nhấp nhô, tung tăng, chính là lúc con sóng tình dạt dào khơi nguồn trong tâm hồn Huy Cận và người thi sĩ bật lên tiếng gọi “lòng quê”. Tiếng gọi “lòng quê” như đưa Huy Cận tìm về kỉ niệm, về nơi chôn nhau cắt rốn của một thời thơ ấu với “Cái
làng sơn cước heo hút vùng Hương Sơn - Hà Tĩnh, có dòng sông Thâm, có núi Mồng Gà” là quê hương Huy Cận và nỗi nhớ ấy, Huy Cận đã bật lên tiếng thở dài: “Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà”, vẫn nhịp thơ 2/2/3 trầm buồn, sâu lắng, lời thơ này Huy Cận ảnh hưởng trong bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu (một nhà thơ nỗi tiếng của Trung Quôc cách đây hơn năm trăm năm về trước). Thôi Hiệu đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng trên sông lúc hoàng hôn, Thôi Hiệu nhớ về quê nhà và viết lên hai câu thơ nổi tiếng: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Tản Đà có dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận dù vay mượn thơ của Thôi Hiệu để nói lên nỗi nhớ nhà nhưng thi pháp Huy Cận hoàn toàn cách tân đổi mới. Đặc biệt với từ phủ định “không” ở đầu câu:
70
“Khống khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, chứng tỏ nỗi nhớ của Huy Cận dù không nhìn thây khói sóng trên sông lúc hoàng hôn khi chiều tà nhưng nỗi nhớ nhà vẫn chiếm lĩnh trong tâm hồn Huy Cận. Như vậy, Huy Cận không bị tác động từ ngoại cảnh từ khói sóng trên sông lúc chiều tàn mà nỗi nhớ nhà của Huy Cận vẫn thấm đầm trong tâm hồn thi sĩ lúc ấy, chứng tỏ, nỗi nhớ Huy Cận da diết hơn, mãnh liệt hơn, cháy bỏng hơn so với nỗi nhớ của Thôi Hiệu. Đây là nét thơ mới hiện đại làm nên giá trị, sức sống cho bài thơ “Tràng Giang” hơn nửa thế kỉ qua.
Mở rộn g : Tiếng gọi “nhớ nhà" ở cuô'i câu trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận, ngoài nỗi nhớ về quê nhà về cái làng sơn cước heo hút vùng Hương Sơn-Hà Tĩnh. Hai tiếng “nhớ nhà” còn hàm ẩn một nỗi nhớ khác, nỗi nhớ về tình yêu quê hương non nước, tình yêu giang sơn Tổ quôc. Phải chăng, những con sóng nước kia ẩn chứa nỗi lòng thầm kín về tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn Huy Cận và nỗi nhớ ấy khơi nguồn đưa Huy Cận tìm đến với cách mạng với nhân dân. Đúng như lời bày tỏ của Xuân Diệu về bài thơ Tràng Giang như sau: “Tràng Giang là bài thơ ca hát về non sông Đất nước do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”. (Xuân Diệu)
III. PHẦN KẾT THÚC
1. về nghệ thuật: Với thi pháp vừa cồ’ điển vừa hiện đại, nhịp thơ đều đặn, sâu lắng, ngôn ngữ thơ giàu chất suy tưởng, giàu hình ảnh, giàu tính triết lí, nhịp thơ 2/2/3 êm đềm.
2. v ể nội dung: Huy Cận khắc họa thành công bức tranh chiều thu trên sông mang một vẻ đẹp nhưng thoáng buồn đó là nỗi buồn của người thi nhân chưa tìm được lôi ra trước thời đại cũ, nỗi buồn về tình yêu quê hương non nước...
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
HÀN MẶC TỬ
Đề tuyển sinh: Anh (chị) ỉàm rõ hai câu sau đây:
Câu 1: Anh/ chị trình bày hoàn cảnh ra đời cùng những ý chính trong bài thơ “Đ áy th ôn V ĩ D ạ ” của thi nhân Hàn Mặc Tử.
Câu 2: Anh/ chị phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử để tìm lại cảnh đẹp thiên nhiên và con người Vì Dạ một thời đáng nhớ.
“S a o an h k h ô n g về ch ơ i th ôn Vĩ?
N hìn n ắn g h à n g ca u n ắn g m ời lên
Vườn a i m ướt q u á x an h n h ư n gọc
L á trú c ch e n g an g m ặt ch ữ đ iề n ”.
(Trích “Đày Thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử).
71
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Hoàn cảnh ra đời và ý chính của bài thơ ‘‘^Đây th ôn V ĩ D ạ”. 1. Hoàn cảnh ra đời.
Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh tại nhà thương Quy Hòa (Quy Nhơn), trước nỗi đau đớn của thân xác lẫn tâm hồn, Hàn Mặc Tử nhận được tấm bưu ảnh của người thiếu nữ Vĩ Dạ thôn mang tên một loài hoa đẹp mà nhà thơ thầm yêu trộm nhớ. Sau bức ảnh có ghi: “Mong Tử sớm binh phục để về thăm Vĩ Dạ” như là một tín hiệu vui, niềm hạnh phúc mơ hồ như sương khói, khơi gợi trong lòng thi nhân nguồn cảm xúc dạt dào để viết lên “Đây thôn vĩ dạ”. Tác phẩm trích trong tập “thơ Điên”, sau này đổi tên là Tập thơ “Đau thương” xuất bản năm 1940.
2. Những ý chính của bài thơ.
Ý l: (4 câu đầu) Miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế nơi vùng quê Vĩ Dạ.
Ý2: (4 câu giữa) Miêu tả cảnh chiều buồn trên sông và thể hiện niềm khao khát hạnh phúc mong manh huyền ảo trong tâm hồn nhà thơ. Ý3: (4 câu cuôd) Thể hiện một tình yêu mơ hồ như sương khói đang len lỏi trong tâm hồn thi nhân.
Câu 2: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ “Dây th ôn V ĩ D ạ” của thi nhân Hàn Mạc Tử.
hững kiến thức cần nắm:
1. Vĩ Dạ thôn: Một thôn nằm ngoại ô thành phố Huế bên dòng sông Hương. Nơi đây quanh năm cây côì xanh tươi bôn mùa, mỗi nhà có mỗi vườn toát lên sức sông thiên nhiên vùng Vĩ Dạ thật tươi đẹp.
2. Nhà thơ Bích Khê đã từng ca ngợi Vĩ Dạ thôn: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn! Biếc xanh cần trúc không buồn mà say”. (Bích Khê)
3. Nhà thơ Vũ Quần Phương bày tỏ về cái “nắng mới lên” trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên gợi lại một nỗi niềm về quê hương, làng mạc đáng yêu đến thế.” (Vũ Quần Phương)
4. Cảm nhận hình ảnh “Nắng mới” trong hồn thơ của Lưu Trọng Lư; “Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời. Lúc người còn sống tôi lên mười. Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội. Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.” (Nắng mới - Lưu Trọng Lư)
5. Nhớ về màu xanh ngọc bích, ta nhớ lại bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu với hình ảnh: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. (Xuân Diệu)
6. Ta lại nhớ về màu xanh ngọc bích trong bài kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân có viết: Khi mùa xuân về nước Sông Đà với “dòng xanh ngọc bích”.
72
7. “Trúc” thường gắn liền với hình ảnh người con gái qua ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh”. (Ca dao) 8. Ca dao Huế ca ngợi khuôn mặt chữ điền của người con gái Huế: “Mặt em vuông tượng chữ điền. Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”. (Ca dao Huế) 9. Nhà thơ Hàn Mạc Tử trong bài thơ “Mùa xuân chín” có viết: “Thì thẩm với ai ngồi dưới trúc. Nghe ra ý nhị và thơ ngây", (trích “Mùa xuân chín" - Hàn Mặc Tử)
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biếc xanh cần trúc không buồn mà say.”
(Bích Khê)
Hồn thơ của Bích Khê làm sông lại bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người Vĩ Dạ thật đáng yêu, đáng nhớ. Nếu ai đã một lần đến Huế, làm sao quên được bức tranh quê hương trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử giữa cảnh vật và con người cùng hoà quyện vào nhau làm nên cái hồn Vĩ Dạ thật đáng nhớ với khố thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
L á trúc che ngang mặt chữ điền.”
(Trích “Đáy thôn Vĩ Dự' - Hàn Mặc Tử)
II. PHẨN TRỌNG TÂM
C ản h đ ẹ p th iên n h iên và con người V i Dạ.
1. Phân tích 2 câu đẩu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.
Nhắc đến Huế, làm sao quên được mảnh đất cô' đô, mảnh đất thiêng liêng cổ kính, một thời vang bóng. Nhớ về Huế, chúng ta liên tưởng một vùng quê mang tên Vĩ Dạ nằm ở ngoại ô thành phô' Huế, quanh năm cây trái xanh tươi bôn mùa, mỗi nhà có mỗi vườn mang vẻ đẹp rất riêng rất Vĩ Dạ. Nhà thơ nhớ về hoài niệm, nhớ cảnh cũ, người xưa với tiếng gọi đầu tiên: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, nhịp thơ 1/3/3 rải đều, giọng thơ êm đềm, giàu cảm xúc thể hiện nỗi niềm mong đợi của người con gái Vĩ Dạ đang hướng về người khách phương xa với niềm mong ước đợi chờ. Với cụm từ nghi vấn “Sao anh không về?” lời hỏi như là lời trách, lời giận, của người con gái Vĩ Dạ thôn, sao lâu rồi anh không về
73
thăm thôn Vĩ? Anh quên rồi sao! Lời trách móc giận hờn ấy nói lên niềm mong đợi tha thiết người thân trở về là thế hiện tấm lòng người ở lại, vẫn mong nhớ kẻ đi xa. Tiếng gọi “chơi thôn Vĩ” nghe có vẻ nặng nề so với từ “thăm thôn Vĩ”, nó nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Nhưng thật sự với từ gọi “chơi” thể hiện cách nói chân chất, mộc mạc, không trau chuốt, nghĩ sao nói vậy trong lòng người con gái ấy là nét đẹp chân quê, chân tình của con người Vĩ Dạ. Mạch cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ tiếp tục khơi dậy làm sông lại cảnh đẹp Vĩ Dạ với tiếng gọi: “Nhìn
nắng hàng can nắng mới lên”, vần nhịp thơ 1/3/3 đều đặn, giọng thơ trầm bỗng, giàu hình ảnh đưa chúng ta tìm về vẻ đẹp nơi vùng đất Vĩ Dạ thật đáng yêu. Mỗi lần nhắc đến “nắng hàng cau” là chúng ta nhớ về hình ảnh quê hương trên khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có cau, có trầu vẻ đẹp từ bao đời. Nhắc đến “cau" là tượng trưng cho lễ hội, cưới xin, cúng giỗ là nét văn hóa phong tục tập quán của người dân Việt. Nhưng hàng cau Vĩ Dạ có một vẻ đẹp riêng, mỗi nhà đều có mồi vườn cau với những hàng cau thẳng tắp, thân cau cao vút, tán cau xanh rờn, lá cau mượt mà vươn mình khoe sắc cùng ánh bình minh đang lên, khơi gợi một sắc màu xanh lung linh tươi tắn, tràn đầy sức sông mà nhà thơ Vũ Quần Phương từng ca ngợi: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, gợi lại một nỗi niềm về quê hương làng mạc dáng yêu đến thế”.
Mở rộn g: Nghĩ về cái “nấng mới lên" trong hồn thơ của Hàn Mặc Tử, ta lại nhớ đến cái “Nắng mới” trong hồn thơ của Lưu Trọng Lư. Hai thi nhân đều cảm nhận về một hình ảnh nhưng “nắng mới lên” của Vĩ Dạ thôn là cảnh đẹp thiên nhiên tràn đầy sức sông còn “Nấng mới" của Lưu Trọng Lư là đưa ta tìm về hoài niệm, tìm về hình bóng người mẹ quê nghèo với chiếc áo nâu, bạc màu sương gió là hình ảnh không bao giờ quên trong kí ức của mỗi con người qua những vần thơ: “Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời. Lúc người còn sống tôi lên mười. Mỗi lần
nắng mới reo ngoái nội. Áo đỏ người dưa trước dậu phơi". (Nắng mới - Lưu Trọng Lư).
2. Phân tích hai câu còn lại:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Mạch cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ tiếp tục nhớ về kỉ niệm đẹp nơi vùng què Vĩ Dạ. Ngoài cái “nắng mới lên” chúng ta còn tìm thấy Vĩ Dạ tràn đầy sức sông với hình ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Hai tiếng “vườn ai” cất lên như một lời gọi mơ hồ, bâng khuâng mà thực tế chính là “vườn em", vườn của người con gái Vĩ Dạ thôn mà nhà thơ có lần đến nơi đó. Với cụm từ so sánh “mướt quá xanh như ngọc” toát lên vẻ đẹp rất riêng, mỡ màng, tươi tắn, cây cỏ hoa lá nơi đây quanh năm xanh tươi và khi đêm về vẫn còn đọng lại chút sương
74
mai nơi cành cây kẽ lá cùng hòa quyện với ánh nắng ban mai của mặt trời, toát lên một sắc màu xanh mượt mà, long lanh như màu xanh ngọc bích vừa dân dã vừa quý phái càng làm cho cảnh vật Vĩ Dạ thật đáng yêu, đáng nhớ.
Nhấn m ạnh: Với hai tiếng “mướt quá” kết hợp với cụm từ so sánh “xanh như ngọc” toát lên một không gian xanh tươi mượt mà, tràn đầy sức sông của thiên nhiên và cuộc sông lao động cần mẫn của con người Vĩ Dạ thật đáng quý.
Liên hệ: Nhớ về sắc màu “xanh như ngọc” ta lại liên tưởng trong hồn “Thơ duyên” của Xuân Diệu và bài kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân cũng mang một sắc màu xanh như thế nhưng mỗi hình ảnh là một cảm nhận riêng, một vẻ đẹp riêng của người nghệ sĩ. Với Xuân Diệu ta bắt gặp hình ảnh: “Đổ trời
xanh ngọc qua muôn lá”. Với Nguyễn Tuân ta tìm thấy khi mùa xuân về nước sông Đà với “dòng xanh ngọc bích”. Với Hàn Mặc Tử là: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tất cả những hình ảnh ấy làm nên những vần thơ đẹp, tô đậm sự đa dạng phong phú cho vườn hoa vàn học nghệ thuật Việt Nam. Và hình ảnh còn lại “Lá trúc che ngang mặt chữ điển.” Lời thơ đưa ta tìm về cảnh đẹp của Vĩ Dạ thôn không chỉ đẹp cảnh mà còn đẹp cả hình bóng con người. Nhớ về “trúc” là hình ảnh quê hương tượng trưng về người thiếu nữ dịu dàng, thùy mị mà ca dao từng thầm thì: “Trúc xinh trúc mọc. đầu dinh - Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.” Nhưng hình ảnh “trúc” trong hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, không đứng một mình, đơn điệu mà hình ảnh trúc lại hoà quyện đan xen với vẻ đẹp con người, có khuôn mặt chữ điền, đưa ta liên tưởng dáng vẻ người con gái Vĩ Dạ với nét đẹp đoan trang, phúc hậu mà ca dao Huế từng thầm thì: “Mặt em vuông tượng chữ điền. Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung". Chỉ một lời thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” toát lên bức tranh quê thật đẹp giữa thiên nhiên và con người như làm sông lại cái hồn Vĩ dạ thấp thoáng đâu đây, từng làm đắm say bao tâm hồn thi nhân và những ai đã một lần đến Huế. Quả thật: “Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt”. {Huế tình yêu của tôi - thơ Nguyễn Thị Thanh Bình - nhạc Trương Tuyết Mai)
III. PHẦN KẾT
1. Về nghệ thuật: “Đây thôn Vĩ Dạ” một bài thơ đặc sắc tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Với khố thơ đầu, nhịp thơ đều đặn, giọng thơ êm đềm, tha thiết, hình ảnh cụ thể, tiêu biểu chọn lọc, giàu sức biểu cảm.
2. Về nội dung: Nhà thơ khắc họa bức tranh Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng của thành phố Huế thật đẹp, vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người Vĩ Dạ thật đáng yêu, đáng nhớ đâu dễ nào quên.
Không nơi đâu đẹp tuyệt vời.
Như thôn Vĩ Dạ, nghìn đời mến yêu.
75
Để tuyển sinh: Bài thơ “Đ ây th ôn V ĩ D ạ ” của thi nhân Hàn Mặc Tử có đoạn viết:
“G ió th eo lố i g ió m ây đư ờng m ây
D òng nước bu ồn th iu h o a b ắ p lay
Thuyền a i đ ậ u bến sôn g trăn g đ ó
Có c h ở trăn g về k ịp tối nay?”
(Trích “Đây thôn Vĩ Dạ” - Hàn Mặc Tử)
Anh (chị) phân tích khổ thơ trên để tìm thây thơ Hàn Mạc Tử là “th ơ trữ tìn h hư ớn g n ộ i”.
SEữnsr kiến thức cần nắm:
1. Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận có ghi: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả". (Tràng Giang)
2. Nhà thơ Hồ Chí Minh có viết: “Núi ấp ôm mây, mây ấp núi”. (Hồ Chí Minh) 3. Thi hào Nguyễn Du có viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. {Truyện Kiều - Nguyễn Du)
4. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ có viết: “Gió trăng chở một thuyền đầy". (Nguyễn Công Trứ)
5. Nhà thơ Hồ Chí Minh có viết: “Khuya về bát ngát trăng ngân dầy thuyền”. {“Rằm tháng giêng” - Hồ Chí Minh).
6. Lời nhạc có ghi: “Đã đôi lần đến với H uế mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt”. {“H uế - Tình yêu của tôi” - Thơ Nguyễn Thị Thanh Bình, nhạc Trương Tuyết Mai).
7. Hàn Mặc Tử có viết: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu. Đợi gió Đông về đ ể lả lơi”. {“Bẽn lẽn” - Hàn Mặc Tử).
HƯỚNG DẪN
I. PHẦN GIỚI THIỆU
“Gió trăng chở một thuyền đầy”
(Nguyễn Công Trứ)
Tìm về hồn thơ xưa của thi nhân Nguyễn Công Trứ khắc họa cảnh đẹp thơ mộng lung linh với gió trăng, thuyền trăng, sông trăng, ru hồn người thi nhân đắm chìm trong mộng ảo trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Nét đẹp ấy đưa chúng ta tìm về hồn thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử, trích trong tập thơ “Đau thương” cũng mang một vẻ đẹp thơ mộng lung linh huyền ảo như thế qua đoạn thơ sau:
76
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(Trích "Đây thôn Vĩ Dạ" - Hàn Mặc Tử)
Cần khám phá những vần thơ giàu hình ảnh, giàu chất suy tưởng qua nét bút của Hàn Mặc Tử đế tìm thấy thơ Hàn Mặc Tử là: “Thơ trữ tinh hướng nội”.
II. PHẦN TRỌNG TÂM
Thơ Hàn Mặc Tử là “Thơ trữ tình hướng nội”.
1. Phân tích 2 câu đầu: Nỗi lòng thi nhân trước cảnh vật Vĩ Dạ khi chiều xuông.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Với khố thơ thứ hai trong “Đây thôn Vĩ Dạ”, thời điểm lúc này là chiều đã về trên sông Hương. Tiếng gọi: “Gió theo lối gió, mây đường m ây”. Với nhịp thơ 4/3 trầm bổng, dìu dặt, toát lên một không gian vắng lặng,buồn. Hình ảnh mây và gió chia lìa đôi ngã, mây về với mây, gió bay theo gió, cảnh vật u buồn quá. Hình ảnh ấy, người đọc nhớ lại lời thơ; “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã" trong hồn thơ “Tràng Giang” của Huy Cận cũng mang một nỗi buồn như thế khi nước xa thuyền như mây xa gió.
Mở rộng: Phải chăng, hình ảnh gió mây chia lìa trong hồn thơ Vĩ Dạ nói lên nỗi lòng thi nhân, khi nhà thơ cảm nhận về tình yêu và cuộc sống của chính mình cũng chia ha khi người tình quay gót, cuộc sống thì cách li với thế giới bên ngoài vì bệnh tật. Như vậy nhà thơ mượn ngoại cảnh đế bày tỏ tâm cảnh, thể hiện nỗi lòng thi nhân đang hụt hẫng bế tắc trước cuộc đời. Phải chăng, thơ Hèm Mặc Tử là “thơ trữ tinh hướng nội”. Và cảnh vật thiên nhiên giữa bầu trời Vĩ Dạ lúc ấy, không tìm thấy hình bóng con người và dòng sông Hương lặng lờ trôi, trầm mặc trôi như mang một nỗi u hoài qua nét bút: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Hình ảnh thiên nhiên nhân hóa độc đáo, nhài thơ thổi vào dòng sông Hương mang một sinh thế có hồn, có cảm xúc, suy tư, trăn trở như một con người. Với tiếng gọi “buồn thiu” là cách nói của con người xứ Huế, tiếng nói địa phương dân dã. Từ gọi “buồn thiu” là nồi buồn thăm thẳm, dịu vợi, héo hắt cả tim gan, tè tái cả cõi lòng. Phải chăng, “dòng nước buồn thiu" nói lên nỗi lòng thi nhân, khi tình yêu chia lìa, cuộc sống cách ly vì bệnh tật, chỉ còn lại một nỗi niềm đau đáu, héo hắt cả tâm hồn'người thi sì tài hoa bạc mệnh. Và hình ảnh “hoa bắp lay" cho chúng ta hình dung “hoa bắp” là hình bóng quê hương, sản phẩm của quê hương từ bao đời. Với động từ gợi hình “lay” thế hiện trạng, thái đong đưa, khe khẽ khi hoa bắp tiếp cận với gió chiều, tạo nên cảnh chiều trên sông hiu hắt buồn như hòa cùng nỗi
77
buồn trống vắng của thi nhân. Với hai câu thơ đầu, ngoại cảnh là gió, mây, dòng sông, hoa bắp và tâm cảnh là nỗi lòng người thi nhân trong niềm cô đơn, hụt hẫng. Phải chăng, nhà thơ mượn ngoại cảnh nhằm bày tỏ tâm cảnh, nói lên nỗi lòng mình, nỗi lòng thi nhân. Quả thật, thơ Hàn Mặc Tử là “Thơ trữ tình hướng
nội”. Đúng như lời bày tỏ của đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
2. Phân tích 2 câu thơ còn lại:
“Thuyền ai dậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cảnh chiều trên sông đã khép lại, đưa chúng ta tìm về cảnh đẹp của bến sông trăng giữa đất trời Vĩ Dạ lúc đêm xuống thật đáng nhớ. Tiếng gọi “thuyền ai”, tiếng gọi nghe như mơ hồ, bâng khuâng, xa vắng. Vậy “thuyền ai” là thuyền của ai thế! con thuyền mồ côi, đơn lẻ nằm chơ vơ giữa bến sông trăng, sao mà hiu hắt thế! lạnh lùng thế. Với tiếng gọi “thuyền ai” phải chăng, là “thuyền em ” thuyền của người con gái Vĩ Dạ một thời nhà thơ thầm yêu trộm nhớ, mà con thuyền em, không chở người mà lại chở trăng ư! Hai tiếng “trăng về” hàm ẩn một hình ảnh khác, phải chăng, đó là “trăng anh” hình bóng anh, nỗi lòng người thi nhân đang khao khát mong đợi được “thuyền em ” đưa “trăng an h” về kịp tôi nay! Một lời yêu cầu tưởng chừng như bình thường nhưng trong lời nói ấy “có chở trăng về kịp tối nay?” thể hiện sự khao khát, tha thiết mong đợi, trong tâm hồn thi nhân. Tiếng gọi “kịp tối nay” gợi cho người đọc bao suy nghĩ. Vậy “tổi nay” là tôl nào? không! không tôi nào cả, chỉ có tôl nay thôi, đêm nay thôi và xác định chỉ có tôì nay thôi. Tiếng gọi “tối nay” có khác gì như đêm thiên đường hạnh phúc, đêm ngà ngọc của tình yêu đế “thuyền em ” cùng “trăng an h” giao hòa, quyện lẫn cho thỏa niềm mong đợi, niềm khao khát chút hạnh phúc mong manh mà bấy lâu nay nhà thơ vẫn mong ước kiếm tìm dù đó là ảo ảnh, là tâm tưởng nhưng mãi mãi là thứ nhu cầu tinh thần là châd xúc tác nhằm xoa dịu nỗi lòng người thi nhân trước sự hụt hẫng, bế tắc giữa tình yêu và cuộc sông lúc bấy giờ. Như vậy, nhà thơ đã mượn hình ảnh “thuyền trăng, sông trăng, bến trăng” cùng hình ảnh “trăng về” là ngoại cảnh đế nói lên tâm cảnh, nỗi khát vọng của nhà thơ trước cuộc đời. Quả thật, thơ Hàn Mặc Tử là “thơ trữ tình hướng nội”.
II. PHẦN KẾT THÚC
Với khố thơ trên là sự kết hợp những vần thơ, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn, giàu chất suy tưởng là vẻ đẹp của ngoại cảnh như ôm trọn một chất tình, nỗi lòng của thi nhân. Chứng tỏ thi pháp của Hàn Mặc Tử, nhà thơ đã lấy ngoại cảnh bày tỏ tâm cảnh. Như vậy, thơ Hàn Mặc Tử là “thơ trữ trinh hướng nội” mãi mãi làm nên sức sông giá trị cho hồn thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ” suôt bao nhiêu năm qua.
78
TƯ Ơ N G T ư
NGUYỄN BÍNH
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong ìnột người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng, cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp dò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(trích Tập thơ “Ld bước sang ngang' năm 1940)
Đề tuyển sinh:
Câu 1: Anh/ chị có nhận xét gì về thơ Nguyễn Bính?
Câu 2: Anh/ chị giải thích vì sao bài thơ “Tương tư ’’ của nhà thơ Nguyễn Bính mang vẻ đẹp chân quê? _________________________
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Nhận xét về thơ Nguyễn Bính.
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) làm thơ từ lúc 14-15 tuổi. Nổi tiếng với bài thơ “Cổ hái mơ”. Năm 1937, ông được nhóm “Tự lực văn đoàn” trao giải thưởng về tập thơ “Tâm hồn tôi”. Những tập thơ nổi tiếng của ông là “Lỡ bước sang ngang”, “Hương cố nhân”, “Mây tầng”, ... Nói về thơ Nguyễn Bính là sự gắn kêt, ảnh hưởng từ ca dao dân ca cùng những tinh hoa của văn học dân gian, vì thế
thơ Nguyễn Bính mang đậm m.àu sắc dân tộc, dễ đi vào lòng mọi người. 79