🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí mật thành Paris - Tập 3
Ebooks
Nhóm Zalo
BÍ MẬT THÀNH PARIS (TẬP 3)
Nguyên tác: Les Mystères de Paris (1842–43) —★—
Tác giả: Eugène Sue
Dịch giả: Nguyễn Xuân Dương & Lâm Phúc Giáp & Hoàng Tiến Hành & Lưu Đức Hiên & Cao Hữu Nhu NXB Hội nhà văn & Phúc Minh – 2020
Nguồn: VCTVEGROUP
Chuyển text: Blue Rose & Caruri
PHẦN V
CHƯƠNG I
NHỮNG LỜI KHUYÊN
Rodolphe và Clémence trò chuyện trong khi ông d’Harville đọc lại hai lần lá thư của Sarah.
Nét mặt Hầu tước vẫn bình thản, bàn tay thoáng run run xúc động. Sau một phút chần chừ, ông ta bỏ lá thư vào túi áo gi-lê.
– Chỉ sợ Điện hạ cho là thiếu lịch sự, – ông ta mỉm cười nói với Rodolphe – tôi xin phép Điện hạ được đi trả lời bức thư này. Nó quan trọng hơn tôi tưởng lúc ban đầu. – Chiều nay tôi có gặp được ông không?
– Thưa Điện hạ, có lẽ tôi không được hân hạnh đó. Mong Điện hạ vui lòng thứ lỗi.
– Người sao mà khó mời thế! – Rodolphe vui vẻ nói. – Phu nhân thử giữ ông nhà xem có được không? – Tôi chẳng dám làm điều mà Đức ông không làm được. – Nghiêm chỉnh đấy, ông bạn Albert thân mến ạ! Ông cố gắng quay lại với chúng tôi, sau khi viết xong thư trả lời. Nếu không thì cũng hứa dành cho tôi một buổi sáng nào đó. Tôi có bao nhiêu điều muốn nói với ông.
– Tôi đội ơn Điện hạ! – Hầu tước kính cẩn cúi chào rút
lui, chỉ còn lại Clémence với Hoàng thân.
– Ông nhà hình như có điều gì bận tâm, – Rodolphe nói với bà Hầu tước – nụ cười của ông ấy có vẻ gượng gạo. – Điện hạ đến, ông nhà tôi đang có điều xúc động mạnh, không giấu nổi Điện hạ.
– Có lẽ tôi đến không đúng lúc?
– Không, thưa Điện hạ! Điện hạ còn tránh được cho tôi đoạn kết của một câu chuyện nặng nề.
– Thế nào?
– Tôi đã nói với ông nhà tôi cách xử sự mới mà tôi đã quyết định, hứa sẽ nâng đỡ và an ủi ông ấy.
– Chắc ông ấy sung sướng lắm!
– Lúc đầu cả hai chúng tôi đều vui vẻ. Nước mắt, niềm vui của ông ấy làm tôi xúc động như chưa từng có. Trước kia tôi tưởng được trả thù bằng một lời trách móc mỉa mai cay độc. Buồn thay! Tôi chỉ càng thấy cay đắng hơn. Còn như mới rồi thì khác hoàn toàn! Tôi hỏi chồng tôi có đi đâu không, ông ấy buồn rầu nói sẽ ở nhà một mình như thường lệ. Khi tôi nói sẽ ở nhà với ông ấy, thưa Điện hạ, ông ấy rất ngạc nhiên! Nét mặt đang u sầu bỗng rạng rỡ. Điện hạ nói đúng lắm! Không có gì đáng nâng niu hơn những hạnh phúc bất chợt ấy!
– Nhưng sao những tình cảm tốt đẹp của phu nhân lại dẫn đến câu chuyện nặng nề như bà nói với tôi hồi nãy? – Thưa Điện hạ, – Clémence đỏ mặt nói, – tiếp theo
những hy vọng mà tôi đã làm nảy sinh vì có thể thực hiện được, ông ấy lại muốn nuôi những hy vọng đằm thắm hơn mà tôi không muốn nhen lên bởi không thể làm thỏa mãn được.
– Tôi hiểu rồi. Ông ấy yêu bà tha thiết đến thế! – Càng cảm động vì tấm lòng của ông ấy, tôi càng cảm thấy giá lạnh, hãi hùng khi lời nói của ông ấy trở nên nồng nhiệt. Trong phút mê say, ông ấy đặt môi lên bàn tay tôi. Tôi thấy lạnh buốt, không giấu được sự hãi hùng. Tôi đã có một cử chỉ phũ phàng để ông ấy thấy sự xa cách không thể lấp được trước tình yêu ông ấy có với tôi. Tôi rất tiếc đã có cử chỉ ấy, để ông ấy dứt khoát thấy rằng dù tôi có trở lại thì cũng chỉ còn một tình bạn tận tâm mà thôi.
– Tôi phàn nàn cho ông ấy nhưng không trách được phu nhân. Có những điều nhạy cảm có thể nói là thiêng liêng. Albert đáng thương thật, con người tốt đến thế! Thẳng thắn, hào hiệp, nhiệt tình. Mong phu nhân biết rằng tôi đã bận tâm từ lâu vì nỗi buồn giày xé tâm hồn ông ấy, không rõ tại sao. Hãy để thời gian cho lý trí làm việc. Dần dần ông ấy sẽ thấy được cái giá của tình thương của phu nhân và ông ấy sẽ cam lòng như đã chịu đựng trước đây mà không được phu nhân an ủi.
– Và tôi xin thề với ngài là ông ấy sẽ không bao giờ thiếu lời an ủi đó.
– Thôi bây giờ hãy nghĩ đến những hoạn nạn khác. Tôi đã hứa với phu nhân một việc từ thiện, hấp dẫn như một thiên
tiểu thuyết. Tôi đến đây để thực hiện lời hứa đó. – Có rồi sao, thưa Điện hạ? Thế thì may quá!
– Tôi có linh cảm khi thuê căn phòng trên phố Temple mà tôi đã nói với phu nhân. Phu nhân không tưởng tượng được tôi đã thấy ở đó có bao nhiêu điều kỳ lạ, đặc sắc đâu! Những người được phu nhân che chở, đang sống trong tầng sát mái ấy, đã được hưởng phúc nhờ gặp phu nhân, họ còn nhiều nỗi gian truân phải vượt qua. Nhưng tôi không muốn làm phu nhân buồn. Một ngày kia phu nhân sẽ biết có bao nhiêu tai họa khủng khiếp trút xuống một gia đình.
– Họ phải biết ơn Điện hạ bao nhiêu!
– Không, họ chỉ ca ngợi phu nhân thôi!
– Điện hạ đã nhân danh tôi cứu họ?
– Để họ nhận ơn huệ nhẹ nhàng hơn. Vả lại, tôi chỉ thực hiện lời hứa với phu nhân.
– Không, tôi sẽ làm cho họ khỏi nhầm, nói cho họ biết họ cần đội ơn Điện hạ.
– Đừng làm thế! Phu nhân biết tôi có một căn phòng ở đấy. Coi chừng những việc làm hèn hạ, giấu mặt của những kẻ thù của phu nhân hoặc của tôi. Vả lại nhà Morel đã bớt khó khăn. Hãy nghĩ đến việc của chúng ta. Có hai mẹ con xưa kia sống sung túc nhưng nay đang trong cảnh khốn cùng, nạn nhân của một tước đoạt xấu xa.
– Ôi, những người khốn khổ! Nhưng họ ở đâu, thưa Điện hạ?
– Tôi không rõ.
– Nhưng sao ngài biết tình cảnh khốn đốn của họ? – Hôm qua tôi đến chợ Temple. Phu nhân có biết chợ ấy không, thưa bà?
– Thưa, không.
– Đó là nơi bán tạp hóa rất ngộ nghĩnh. Tôi đi mua một vài thứ lặt vặt với cô láng giềng tầng bốn.
– Láng giềng của Điện hạ?
– Thì tôi có phòng ở phố Temple mà.
– Tôi quên mất, thưa Điện hạ.
– Cô láng giềng ấy là một cô thợ bé nhỏ, thật tuyệt vời. Cô ấy tên là Rigolette. Cô ấy cười suốt ngày và chưa có người yêu.
– Đứng đắn quá, đối với một cô thợ trẻ!
– Không phải chỉ là đức hạnh mà như cô ấy nói, là không có thì giờ để yêu. Vì yêu thì mất nhiều thì giờ, cô ấy cần phải làm việc mười hai đến mười lăm tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi lăm xu mà sống!
– Sống với ít ỏi thế thôi sao?
– Còn sao nữa. Cô ấy còn có một thứ xa xỉ là hai con chim, chúng còn ăn nhiều hơn cô ấy. Căn phòng bé bé của cô ấy khá sạch sẽ, xinh xắn, cách ăn mặc thì khá đỏm.
– Sống với hai mươi lăm xu mỗi ngày. Thật kỳ lạ! – Phải cực kỳ ngăn nắp, chăm chỉ, tiết kiệm và đầu óc thực tiễn, tôi bảo đảm với phu nhân như vậy. Vì vậy tôi giới
thiệu cô ấy với phu nhân. Cô ấy là một cô thợ khâu đầm rất khéo tay. Nhất định phu nhân sẽ vừa ý với những chiếc váy cô ấy may.
– Ngay ngày mai tôi sẽ đem việc cho cô ấy. Tội nghiệp, sống bằng số tiền ít ỏi như thế. Có thể nói tầng lớp giàu có chúng ta không thể biết đến một số tiền nhỏ như vậy. Một ý muốn nhỏ nhặt, bất thường của chúng ta cũng phải đáng hơn một trăm lần số tiền ấy!
– Thôi được, phu nhân đã quan tâm đến cô gái mà tôi đang bảo trợ. Giờ xin trở lại câu chuyện của chúng ta. Vậy là tôi đến chợ Temple với cô Rigolette, mua vài thứ cho mấy người ở tầng áp mái. Khi lục một cái bàn giấy cũ được bày bán, tôi tình cờ thấy bản nháp một lá thư của một phụ nữ viết cho ai đó về việc hai mẹ con họ bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng do sự phản bội của một tên chưởng khế. Tôi hỏi người bán hàng cái bàn từ đâu đến, được bà chủ cho biết bàn này nằm trong số đồ đạc ít ỏi của một người phụ nữ còn trẻ, đem bán bởi đã cạn nguồn sinh sống. Bà chủ ấy nói với tôi, người đàn bà ấy và cô con gái có vẻ trước đây là những người giàu có và hiện đang cam chịu sống cảnh khốn cùng.
– Thưa Điện hạ, ngài không biết họ ở đâu?
– Khốn thay, cho đến giờ tôi vẫn không biết… Tôi đã lệnh cho ông de Graün tìm cách phát hiện những người này, nếu cần, phải đến Sở Cảnh sát. Có thể trong cảnh khốn cùng, hai mẹ con họ đã tìm chỗ trú tại quán trọ tồi tàn nào đó. Nếu vậy thì chúng ta có hy vọng, bởi các ông chủ quán cứ
tối đến lại ghi tên những khách lạ đã đến ban ngày. – Tình huống kỳ cục thay! – Phu nhân d’Harville ngạc nhiên nói. – Thật lạ lùng!
– Chưa hết! Trên góc tờ giấy nháp có dòng chữ: “Viết cho bà de Lucenay”.
– May thật! Có thể chúng ta biết được đôi điều nhờ bà Công tước. – Phu nhân d’Harville kêu lên. Rồi phu nhân lại thở dài. – Không biết tên người đàn bà này thì biết hỏi bà de Lucenay thế nào?
– Phải hỏi xem bà ấy có biết một bà quả phụ nào còn trẻ, khuôn mặt thanh tú và có cô con gái chừng mười sáu hoặc mười bảy tuổi, tên là Claire không. Tôi còn nhớ được tên.
– Tên của con gái tôi! Thêm một lý do để phải chú ý đến những người khốn khổ này.
– Tôi quên nói là người em trai của bà quả phụ này đã tự tử cách đây vài tháng.
– Nếu bà de Lucenay biết gia đình này, – bà d’Harville suy nghĩ và nói tiếp – một số chi tiết như vậy đủ để định hướng. Cái chết bi thảm của con người khốn khổ này chắc sẽ làm bà Công tước xúc động mạnh. Trời! Tôi nóng lòng muốn đi tìm bà. Chiều nay tôi sẽ viết cho bà vài dòng để chắc chắn được bà gặp sáng mai. Những người phụ nữ kia là ai nhỉ? Theo những điều Điện hạ biết về những người này, họ thuộc về tầng lớp thượng lưu trong xã hội, bị đẩy đến cảnh khốn cùng như thế thì nỗi cơ cực còn bi thảm gấp mấy!
– Và như vậy là do vụ cướp đoạt của một tên chưởng khế, một tên vô lại khốn kiếp mà tôi còn biết về một số tội ác khác của hắn. Một tên Jacques Ferrand nào đó.
– Ông chưởng khế của chồng tôi! – Clémence kêu lên. – Ông chưởng khế của mẹ kế tôi! Thưa Điện hạ, ngài nhầm, người ta vẫn coi ông ấy là người lương thiện nhất đời.
– Tôi có những bằng chứng ngược lại. Nhưng phu nhân làm ơn đừng nói với ai về những điều tôi ngờ vực, đúng hơn là những điều tôi nắm chính xác về kẻ khốn nạn này. Nó xảo quyệt bao nhiêu thì lại gian ác bấy nhiêu, và để lột mặt nạ hắn, tôi cần phải để hắn tin rằng hắn sẽ không bị trừng phạt một thời gian nữa. Vâng, chính hắn đã tước đoạt tài sản của những người khốn khổ này, bằng cách chối không nhận một số tiền ký quỹ mà chắc hẳn là em trai bà quả phụ này đã đem gửi.
– Và số tiền ấy?
– Là tất cả vốn liếng của họ.
– Những tội ác thật ghê gớm!
– Những tội ác, – Rodolphe la lên – không gì bào chữa được, không phải do khốn khó, cũng không phải do ngu si. Nhiều khi cái đói đẩy đến trộm cắp, hận thù dẫn đến giết chóc. Nhưng tên chưởng khế này đã giàu sụ rồi, đã được xã hội khoác cho cái áo thầy tu đạo mạo, vẻ bề ngoài đạo đức bệ vệ, làm cho mọi người tin tưởng. Con người này đi đến tội ác bởi một lòng tham lạnh lùng, khốc liệt. Một kẻ sát nhân chỉ giết người một lần và rất nhanh bằng dao. Đằng
này, nó giết anh dần dần, hành hạ anh trong cảnh bần cùng và tuyệt vọng. Đối với kẻ như lão Ferrand ấy, tài sản của một em bé mồ côi, đồng tiền của kẻ nghèo khó cần cù tích lũy, chẳng có gì thiêng liêng! Anh gửi cho hắn vàng, vàng ấy cám dỗ hắn. Hắn cướp lấy. Từ chỗ giàu sang hạnh phúc, tham vọng của hắn biến anh thành người hành khất tồi tàn! Phải chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn, phải lao động cực nhọc, anh mới giành được miếng ăn, nhà ở lúc về già. Tham vọng của hắn đoạt mất của anh miếng ăn và nơi trú ẩn lúc cuối đời. Chưa hết. Hãy xét xem những hậu quả hãi hùng của hành động tước đoạt khốn nạn ấy. Mặc cho bà quả phụ mà ta đang nói chết vì sầu thảm và tuyệt vọng, cô con gái non trẻ, không nơi nương tựa, không nguồn sống, họ quen sống trong cảnh sung túc, do được nuôi dưỡng như vậy, nên không biết cách kiếm sống, nay mai họ sẽ phải đứng giữa ô nhục và đói khát. Thế là họ lầm đường, lạc lối, ngã gục, rơi vào chỗ sa đọa, ô uế. Do sự tước đoạt, Jacques Ferrand là nguyên nhân dẫn đến cái chết của người mẹ, đến việc làm điếm của người con! Hắn tiêu diệt thể xác người này, linh hồn kẻ kia, và xin nói lại lần nữa, không phải giết ngay trong một lúc như những kẻ giết người khác, mà dần dà, rất độc ác.
Clémence chưa bao giờ nghe Rodolphe nói với giọng bất bình và cay đắng như vậy. Nàng yên lặng nghe những lời nói hùng hồn nhưng lẫn đắng cay, chứng tỏ sự căm thù sâu sắc cái ác.
Rodolphe sau một lúc im lặng, lại nói:
– Xin lỗi, thưa phu nhân. Tôi không kìm được sự bất bình khi nghĩ đến những tai họa khủng khiếp có thể đến với những người mà phu nhân bảo trợ. Phu nhân hãy tin tôi, chẳng bao giờ người ta nói quá lên về những hậu quả mà sự khánh kiệt và khốn cùng cuốn theo.
– Trái lại, xin cảm ơn Điện hạ đã làm tăng thêm tình thương của tôi đối với người mẹ khốn khổ ấy. Chắc là bà ta khổ nhất vì cô con gái, ôi thật bi thảm. Nhưng chúng ta sẽ cứu họ, sẽ bảo đảm tương lai cho họ, phải không Điện hạ? Ơn trời, tôi giàu có, chưa được giàu như tôi mong muốn, một khi tôi đã thoáng nghĩ ra cách sử dụng khác sự giàu có; nhưng nếu cần, tôi sẽ tìm đến ông d’Harville, tôi sẽ làm ông ấy vui sướng, khiến ông ấy không từ chối được những ham thích bất chợt của tôi và như vậy tôi thấy trước là sẽ được nhiều lắm. Điện hạ đã nói, những người chúng ta che chở, họ rất tự trọng, tôi càng yêu họ hơn, tự trọng trong cảnh khốn cùng chứng tỏ một tâm hồn cao thượng. Tôi sẽ có cách cứu họ mà họ sẽ không biết mình được ban ơn. Khó đấy, nhưng càng hay! Tôi đã có dự định. Ngài sẽ thấy, tôi không đến nỗi thiếu khéo léo và tế nhị.
Rodolphe mỉm cười:
– Tôi đã thoáng thấy những sắp đặt tuyệt vời của phu nhân.
– Nhưng trước tiên phải tìm ra họ. Tôi nóng lòng đợi đến ngày mai! Rời khỏi bà de Lucenay, tôi sẽ đến nơi họ ở trước
đây, tôi sẽ hỏi láng giềng của họ, tôi sẽ tự đi, tôi sẽ hỏi hết mọi người. Tôi tự gây ồn ào cho mình, nếu cần. Tôi rất tự hào đã tự mình và chỉ tự mình mà đạt được kết quả mong muốn. Tôi sẽ làm được. Câu chuyện nghe thật cảm động. Những người khốn khổ! Hình như tôi càng quan tâm đến họ hơn khi tôi nghĩ đến con gái tôi.
Rodolphe cảm động vì lòng từ tâm sốt sắng ấy, buồn bã mỉm cười nhìn người thiếu phụ hai mươi tuổi, đẹp và đáng yêu đến thế, đang tìm cách quên lãng những sầu não gia đình giáng xuống đầu nàng bằng những việc làm cao thượng. Mắt Clémence bừng sáng, má hơi ửng, lời nói và cử chỉ của nàng tôn thêm vẻ hấp dẫn cho khuôn mặt yêu kiều.
CHƯƠNG II
CẠM BẪY
Phu nhân Clémence chợt thấy Rodolphe yên lặng nhìn mình. Nàng đỏ mặt, cụp hàng mi rồi đôi mắt lại ngước nhìn lên, bối rối, trông dễ thương đến lạ thường. Nàng nói:
– Thưa Điện hạ, chắc ngài cười sự hăng hái xốc nổi của tôi. Bởi tôi đang nóng lòng được hưởng những niềm vui êm ả sẽ làm bận rộn cuộc đời mình, một cuộc đời cho đến nay vẫn buồn tẻ và vô vị. Tôi nào có muốn một số phận như thế. Đó là một tình cảm, một hạnh phúc sâu sắc mà tôi không được phép biết đến bao giờ. Dù còn rất trẻ, tôi đã phải khước từ nó! – Clémence nói tiếp và thở dài gượng gạo. – Nhưng cuối cùng, nhờ ngài, ngài đã cứu sống tôi, luôn luôn nhờ ngài mà tôi đã tìm ra những hứng thú khác. Lòng nhân ái thay thế cho tình yêu. Những lời khuyên của ngài làm tôi xúc động khôn cùng. Thưa Điện hạ, lời nói của Điện hạ tác động đến tôi bao nhiêu! Càng suy nghĩ, càng đi sâu vào ý kiến của Điện hạ, tôi càng thấy đúng, càng thấy lớn lao, phong phú. Ngài không chỉ động lòng trắc ẩn với những nỗi đau đáng lẽ xa lạ đối với mình, ngài còn ban cho tôi những ý kiến tốt lành, hướng dẫn tôi từng bước trên con đường mới mà ngài đã mở ra cho một trái tim u sầu và mệt mỏi.
Thưa Điện hạ, tâm hồn Điện hạ chứa cả một kho tàng nhân ái. Điện hạ tìm được ở đâu một nguồn từ tâm lớn đến vậy? – Tôi đã đau khổ nhiều, tôi vẫn đang đau khổ. Vì thế tôi biết được cái bí mật của nhiều nỗi đau thương! – Thưa Điện hạ, ngài cũng đau khổ ư?
– Vâng, có thể nói, để chuẩn bị cho tôi thông cảm với mọi nỗi bất hạnh trên đời, số phận đã bắt tôi phải chịu đựng tất cả, khi tôi là bạn, nó đánh vào bạn tôi; khi tôi là người tình, nó đánh vào người đàn bà đầu tiên tôi yêu với tất cả lòng tin mù quáng của tuổi trẻ; khi tôi là chồng, nó đánh vào vợ tôi; khi tôi là con, nó đánh vào cha tôi; khi tôi là cha, nó đánh vào con tôi.
– Thưa Điện hạ, tôi cứ tưởng Đại công tước phu nhân không có con?
– Đúng thế, nhưng trước khi cưới, tôi có một đứa con gái mất lúc còn rất nhỏ. Vâng, có thể phu nhân cho là lạ, cái chết của đứa con mà tôi chỉ mới được thấy thoáng qua lại là mối hận suốt đời. Càng nhiều tuổi, mối hận càng sâu sắc, mỗi năm càng tăng vị cay đắng. Hình như nó lớn lên cùng với tuổi của con tôi. Nếu còn sống, năm nay con bé đã mười bảy tuổi!
– Thưa Điện hạ, thế mẹ cô bé có còn sống không? – Clémence hỏi sau một phút ngập ngừng.
Rodolphe kêu lên, nét mặt tối sầm khi nghĩ đến Sarah: – Thôi xin đừng nói đến chuyện ấy nữa. Mẹ cháu là một người xấu xa, một tâm hồn khô cứng vì ích kỷ và tham vọng.
Đôi khi tôi tự hỏi, phải chăng con gái tôi chết đi còn hơn là sống trong vòng tay mẹ nó.
Clémence lại cảm thấy dường như hài lòng khi nghe Rodolphe nói vậy. Nàng kêu lên:
– Tôi cho rằng ngài lại càng thương tiếc con gái mình gấp bội.
– Lẽ ra tôi phải yêu nó bao nhiêu! Hình như ở phái hoàng tộc chúng tôi, tình yêu đối với con trai có lẫn một thứ quyền lợi dòng họ và tước vị, một ẩn ý chính trị. Nhưng nếu là con gái, và với con gái, thì chỉ là vì đứa con mà thôi. Bởi khi đã thấy nhân loại dưới những bộ mặt khủng khiếp nhất thì ta thấy êm ái trong lòng biết bao khi được chiêm ngưỡng một tâm hồn ngây thơ, trong trắng, được thở hương thơm trinh bạch, lo lắng theo dõi từng run rẩy thơ ngây. Người mẹ yêu con gái đến điên cuồng, tự hào vì con gái nhất, cũng không biết được những thích thú đó, bởi vì quá giống con để có thể đánh giá và thưởng thức được những nỗi êm dịu khó tả ấy. Người mẹ có thể đánh giá tốt hơn những phẩm chất đàn ông của đứa con trai anh hùng và quả cảm. Có một điều càng cảm động hơn mà phu nhân hẳn thấy trong tình yêu của mẹ đối với con trai, của cha đối với con gái, có một kẻ yếu đang cần được che chở. Người con trai che chở mẹ, người cha che chở con gái.
– Đúng vậy, thưa Điện hạ.
– Nhưng hiểu được những niềm vui khó tả ấy làm gì, một khi mình không bao giờ được cảm thấy. – Rodolphe ủ rũ nói
tiếp.
Clémence không ngừng rơi nước mắt, vì giọng nói của Rodolphe lắng xuống, não nùng.
Sau một hồi im lặng, gần như hổ thẹn vì để trôi theo dòng cảm xúc, ông buồn rầu mỉm cười nói với phu nhân d’Harville:
– Xin lỗi phu nhân, những tiếc hận và kỷ niệm xa xưa đã lôi cuốn tôi đi, không cưỡng lại được, phu nhân thứ lỗi nhé! – A, thưa Điện hạ, mong rằng ngài hãy tin là tôi đang chia sẻ nỗi buồn phiền với ngài. Tôi có quyền ấy chứ? Chẳng phải là ngài đã chia sẻ những nỗi buồn với tôi? Nhưng khốn thay, những lời an ủi của tôi đối với ngài là vô ích.
– Không, không, việc được phu nhân quan tâm đối với tôi thật êm ái và tốt lành. Nói ra được điều đau khổ cũng là vợi bớt đi. Và tôi đã chẳng bao giờ nói ra nếu câu chuyện tôi nói với phu nhân không khơi dậy trong tôi những kỷ niệm đau đớn. Đó là một sự yếu đuối nhưng tôi không thể nghe nói về một cô gái mà không nghĩ đến cô con gái đã mất của tôi.
– Điều đó là đương nhiên. Từ ngày được gặp Điện hạ, tôi vẫn cùng đi với một người bạn đỡ đầu các nữ tù nhân ở nhà tù Saint-Lazare trong các buổi đi thăm nhà tù. Nhà tù này chứa những con người đúng là tội phạm. Nếu không phải đã làm mẹ, tôi đã phán xét họ nghiêm khắc hơn. Bây giờ tôi đã có một niềm thương xót đối với họ, nghĩ rằng họ đã không đến nỗi sa đọa nếu như không bị bỏ rơi trong cảnh bần
cùng từ thời thơ ấu. Không hiểu sao, cứ nghĩ thế, tôi càng yêu con gái tôi hơn.
Rodolphe mỉm cười buồn rầu, nói:
– Nào, ta phải can đảm lên. Phu nhân nghe chuyện, tôi càng yên tâm. Một con đường tốt lành đã mở ra cho phu nhân. Theo con đường này, phu nhân sẽ trải qua, mà không nản chí, những năm tháng thử thách rất nguy hiểm đối với phụ nữ, nhất là đối với một người nhiều năng khiếu như phu nhân. Công lao của phu nhân sẽ lớn. Phu nhân còn phải phấn đấu, đau khổ bởi phu nhân còn rất trẻ, nhưng phu nhân sẽ thấy tăng thêm sức mạnh khi nghĩ đến những điều thiện đã làm được và sẽ còn tiếp tục làm nữa.
Phu nhân d’Harville òa khóc.
– Ít nhất tôi vẫn được Điện hạ nâng đỡ, khuyên nhủ, phải không, thưa ngài?
– Dù ở gần hay xa, bao giờ tôi cũng đặc biệt lưu ý đến những gì liên quan đến phu nhân, đến hạnh phúc của phu nhân và của Hầu tước với một tình bạn lâu bền chung thủy. Clémence lau nước mắt.
– Ôi, cảm ơn lời hứa đó của Điện hạ. Tôi cảm thấy rất yếu đuối nếu không dựa vào Điện hạ. Nhưng xin Điện hạ hãy tin tôi! Tôi hứa sẽ can đảm làm nhiệm vụ của mình.
Vừa lúc đó, cánh cửa nhỏ lấp trong màn che bỗng mở toang.
Clémence kêu lên một tiếng. Rodolphe giật mình.
Hầu tước d’Harville xuất hiện, người xanh xao, rất xúc động, mắt đẫm lệ.
Phút ngạc nhiên ban đầu đã qua, Hầu tước đưa cho Rodolphe lá thư của Sarah:
– Thưa Điện hạ, đây là lá thư khốn nạn lúc nãy tôi nhận được trước mặt ngài. Xin ngài hãy đốt đi sau khi đọc xong. Clémence nhìn chồng rất ngạc nhiên.
– Ối, khốn nạn! – Rodolphe kêu lên, bất bình.
– Thưa Điện hạ, còn một điều khốn nạn hơn sự nặc danh này. Đó là cách xử sự của tôi!
– Ông muốn nói gì?
– Vừa rồi đáng lẽ phải thẳng thắn, mạnh dạn đưa lá thư cho ngài thì tôi lại đem giấu đi, giả vờ điềm tĩnh, trong khi sự ghen tuông điên dại, sự thất vọng đang giày vò trái tim tôi. Chưa hết. Ngài có biết tôi đã làm gì không? Thưa Điện hạ, tôi đã xấu hổ nấp sau cánh cửa này để rình mò. Vâng, tôi thật khốn kiếp dám ngờ vực đức độ ngay thẳng, danh dự của ngài. Ôi, kẻ viết lá thư này, hắn biết hắn gửi cho ai. Hắn biết cái đầu của tôi kém cỏi. Vâng, thưa Điện hạ, sau khi nghe những lời Điện hạ nói, mà tôi đã không để mất một lời nào, tôi biết vì sao Điện hạ chú ý đến phố Temple, sau khi tôi đã ngờ vực một cách hèn hạ đến mức đồng lõa, nghe theo những lời vu khống khủng khiếp về ngài. Phải chăng tôi phải quỳ gối xin Điện hạ xá tội và rủ lòng thương? Tôi phải làm vậy, thưa Điện hạ, và tôi phải làm vậy, Clémence ạ! Bởi tôi chỉ còn hy vọng ở sự độ lượng của ngài.
– Trời, ông Albert thân mến, tôi tha lỗi gì cho ông mới được chứ? – Rodolphe thân ái đưa tay cho Hầu tước. – Bây giờ ông đã biết bí mật của chúng tôi, của tôi và của bà d’Harville, tôi vui quá, tôi có thể tha hồ trò chuyện với ông. Tôi trở thành người bạn tâm tình của ông và còn hay hơn thế, ông trở thành người bạn tâm tình của bà d’Harville. Có nghĩa là ông biết được những gì trái tim cao thượng đó sẽ dành cho ông.
Ông d’Harville buồn rầu nói với vợ:
– Clémence, em tha lỗi cho anh chứ?
– Vâng, với điều kiện anh giúp em bảo đảm cho hạnh phúc của mình.
Nàng đưa tay cho chồng, ông ta cảm động nắm chặt lấy. Rodolphe nói:
– Ông Hầu tước ạ, kẻ thù của chúng ta quả thật vụng về. Nhờ bọn chúng mà chúng ta lại thân nhau hơn trước. Ông chưa bao giờ đánh giá bà d’Harville đúng như bây giờ, và chưa bao giờ bà ấy tận tâm với ông như bây giờ. Phải thấy rằng chúng ta đã bị bọn đố kỵ, bọn độc ác trả thù đến nơi. Bao giờ cũng vậy, hãy chờ xem. Tôi đoán ngọn đòn của chúng đánh từ phía nào và tôi không quen chịu đựng điều ác người ta làm cho các bạn tôi. Nhưng đấy là việc của tôi. Chào bà, công việc bí mật của chúng ta đã bị lộ, bà không còn phải đơn độc trong việc cứu giúp những người mà bà che chở. Và yên tâm, chúng ta lại tiếp tục những việc làm bí mật khác và ông Hầu tước sẽ rất tinh nếu ông ấy phát hiện
ra được.
Sau khi tiễn Rodolphe ra xe để cảm ơn lần nữa, Hầu tước trở về nhà, không tìm lại Clémence.
CHƯƠNG III
SUY TƯ
Khó mà mô tả được những tình cảm hỗn loạn và trái ngược trong lòng ông d’Harville khi ông trở vào nhà một mình.
Ông ta vui mừng nhận ra sự buộc tội sai lầm tệ hại đối với Rodolphe và Clémence, nhưng cũng nhận ra không còn hy vọng gì ở tình yêu của Clémence. Qua câu chuyện với Rodolphe, càng thấy Clémence chịu đựng, can đảm, quyết tâm làm điều thiện bao nhiêu thì ông ta càng chua xót, tự trách mình do ích kỷ một cách tội lỗi, đã trói buộc người thiếu phụ đau khổ này vào số phận mình.
Càng không được an ủi bởi câu chuyện mà mình nghe trộm được, ông ta rơi vào một tâm trạng buồn thảm, rã rời không tả được.
Điều khủng khiếp của những con người giàu sang nhàn nhã là họ không có gì làm khuây khỏa được, không có gì chống đỡ cho họ khỏi những oán hận đau xót. Không bị bắt buộc phải lo toan cho tương lai hoặc phải lao động hằng ngày, họ hoàn toàn phó mặc cho những đau khổ lớn về tinh thần.
Chiếm được mọi thứ mua được bằng vàng, họ ham hố và
tiếc nuối rất mãnh liệt những gì mà vàng không thể đem lại được.
Ông d’Harville
Nỗi đau của ông d’Harville là tuyệt vọng, bởi vì nói cho
cùng, ông ta chỉ đòi hỏi một điều rất đúng, rất hợp phận: sự sở hữu… nếu không phải là tình yêu của vợ.
Cho nên, đứng trước sự chối từ không lay chuyển được của Clémence, ông ta tự hỏi phải chăng đó là một sự trớ trêu cay đắng ở câu sau đây của luật pháp:
“Người vợ thuộc về chồng của mình.”
Biết nhờ vào thế lực nào, sự can thiệp nào để thắng được sự lạnh lùng, sự ghê tởm biến đời ông ta thành sự tra tấn kéo dài, mà ông ta thì chỉ có thể, chỉ muốn yêu vợ mình?
Ông ta phải thừa nhận rằng trong việc này cũng như trong nhiều sự kiện khác của đời sống vợ chồng, chỉ cần một ý muốn đơn giản của chồng hay của vợ là đã thắng được ý muốn tối cao của luật pháp.
Qua cơn nóng giận bất lực lại là một trạng thái ủ rũ chán chường.
Tương lai đè lên ông ta, nặng nề, tối tăm, lạnh giá. Ông ta linh cảm sự buồn phiền chắc chắn sẽ làm tăng thêm những cơn bệnh khủng khiếp.
– Ôi! – Ông ta kêu lên, xúc động và thất vọng. – Lỗi ở ta, lỗi ở ta! Người vợ khốn khổ! Ta đã đánh lừa nàng, đánh lừa một cách khốn nạn! Nàng đáng lẽ phải ghét ta. Thế mà mới rồi nàng còn quan tâm đến ta. Đáng lẽ ta phải bằng lòng, vậy mà sự đam mê ngông cuồng đã làm ta lầm lạc. Ta muốn sự êm dịu, ta bày tỏ tình yêu, môi ta vừa chạm phải tay nàng, nàng đã rùng mình vì sợ hãi. Nếu trước đây ta còn hồ nghi về sự ghê tởm của nàng đối với ta thì nay những lời
nàng nói với Hoàng thân không còn để lại cho ta một ảo tưởng nào nữa. Ôi tệ hại, tệ hại! Quyền gì mà nàng thổ lộ với Hoàng thân cái bí mật gớm guốc ấy? Một sự phản bội xấu xa! Quyền gì? Hỡi ôi, quyền của những nạn nhân được kêu ca về tên đao phủ của họ. Ôi, tội nghiệp cho nàng, con người trẻ thế, nhân hậu như thế, tất cả những lời độc địa nhất nàng có thể tìm thấy để nói về cuộc sống khốn khổ mà ta đã gây ra cho nàng là nói rằng đó không phải số phận mà nàng mơ ước, nàng còn trẻ quá để có thể khước từ tình yêu! Ta rất biết Clémence, điều nàng đã nói với ta, với Hoàng thân, nàng sẽ làm được, từ nay nàng sẽ là người em gái dịu hiền nhất của ta. Cảnh ngộ của ta cũng đáng ao ước đấy chứ! Thay vì những quan hệ lạnh lùng, ép buộc giữa chúng ta trước đây, nay được tiếp nối bằng những quan hệ thân thương, êm dịu trong khi lẽ ra nàng vẫn có thể khinh ta, lạnh lùng với ta mà ta không thể kêu ca. Nào, ta sẽ tự an ủi bằng cách hưởng những cái nàng ban cho ta. Thế là còn sung sướng quá chứ! Sung sướng quá! Ôi, sao ta yếu đuối thế, hèn hạ thế! Nói cho cùng, nàng có phải là vợ ta không? Nàng không phải là của ta? Thật là của ta? Luật pháp không nhìn nhận quyền của ta đối với nàng chăng? Vợ ta chống lại. Hừ, ta có quyền.
Ông ta ngừng lời, cười cay độc:
– Ồ, vâng, dùng vũ lực phải không? Bây giờ, lại nói chuyện vũ lực. Lại một sự bỉ ổi khác. Vậy làm gì bây giờ? Bởi ta yêu nàng. Ta yêu nàng như một kẻ mất trí. Ta chỉ yêu
có nàng. Ta chỉ muốn có nàng. Ta muốn có tình yêu của nàng, không phải tình thương ấm áp của một cô em gái. Ôi, cuối cùng nàng phải thương hại ta. Nàng, con người tốt đến thế, nàng sẽ thấy ta quá ư khổ sở! Nhưng không, không, không bao giờ! Có một cớ để lảng tránh mà người phụ nữ không muốn vượt lên. Sự kinh tởm! Đúng, sự kinh tởm! Mày biết không? Sự kinh tởm! Mày phải nhận rõ như vậy: bệnh tật khủng khiếp của mày sẽ làm nàng kinh sợ suốt đời, hiểu chưa? Suốt đời! – Ông d’Harville kêu lên, bị kích động đau đớn.
Sau một hồi hậm hực yên lặng, ông ta nói tiếp: – Sự đổ vấy nặc danh này, buộc tội Hoàng thân và vợ ta, lại cũng xuất phát từ một bàn tay thù địch, thế mà hồi nãy, trước khi nghe nàng nói, ta còn có thể nghi ngờ, tin rằng Hoàng thân có thể phản bội đê hèn như vậy! Rồi kéo cả vợ mình vào đấy! Ôi, cái bệnh ghen tuông bất trị! Nhưng ta cũng đừng lầm! Nếu Hoàng thân, người yêu mến ta như một người bạn hiền, độ lượng nhất, đã đưa cả trí óc và tâm hồn Clémence vào các công cuộc từ thiện, nếu Người cho nàng lời khuyên, chỗ dựa, là bởi nàng cần lời khuyên, chỗ dựa. Thực tế, nàng đẹp như vậy, lại được nâng niu, chăm chút như vậy, mọi sai trái của nàng hầu như được bào chữa bằng những sai trái còn tồi tệ hơn của ta, liệu nàng có chao đảo không? Còn một sự tra tấn nữa! Trời hỡi, ta đau khổ bao nhiêu khi tưởng nàng có tội. Khắc khoải khủng khiếp! Nhưng không, lo sợ như thế là vô lý. Clémence đã thề sẽ
làm đầy đủ bổn phận, không thể thiếu sót. Nàng sẽ giữ lời hứa nhưng với cái giá ấy! Cái giá ấy! Hồi nãy khi nàng trở lại với ta, lời nói êm ái, nụ cười hiền lành, buồn bã, nhẫn nhục làm ta đau khổ bao nhiêu! Sự quay về với tên đao phủ của nàng khó khăn biết bao nhiêu! Ôi, người phụ nữ khốn khổ! Như thế nàng càng đẹp hơn, càng đáng thông cảm biết mấy. Lần đầu tiên ta thấy hối hận đến xé lòng. Bởi, cho đến nay sự lạnh lùng ngạo nghễ của nàng đủ để trả thù cho nàng. Ôi, khốn khổ, khốn khổ cho ta!
Sau một đêm dài không ngủ và suy tư cay đắng, những vật vã trong tâm hồn ông d’Harville bỗng dừng lại như có phép màu.
Ông ta bồn chồn đợi trời sáng.
CHƯƠNG IV
DỰ ĐỊNH CHO TƯƠNG LAI
Mới sáng sớm, ông d’Harville đã bấm chuông gọi người hầu phòng.
Ông già Joseph bước vào, rất ngạc nhiên thấy ông chủ đang lẩm nhẩm một điệu nhạc đi săn, dấu hiệu hiếm có và rất chắc chắn là ông d’Harville đang vui vẻ.
– A, thưa ngài Hầu tước, – người đầy tớ trung thành cảm động nói – giọng ngài hay thế… Rất tiếc, ngài không hay hát!
– Thật ư, lão Joseph, ta mà tốt giọng? – Ông d’Harville cười.
– Ngài Hầu tước dù có giọng ồ ồ hay the thé thì tôi vẫn thấy hay.
– Thôi đi, lão nịnh ta.
– Thật mà! Thưa ngài Hầu tước, khi ngài hát, đó là dấu hiệu ngài đang vui. Lúc đó tiếng hát của ngài đối với tôi là khúc nhạc hay nhất.
– Như thế thì lão Joseph ơi, hãy chuẩn bị dỏng tai lên. – Ngài nói gì vậy?
– Lão có thể hằng ngày được nghe thứ nhạc hay mà lão
rất háo hức.
– Như vậy là ngày nào ngài cũng vui, hở ngài Hầu tước? – Joseph chắp hai tay, vẻ mặt rạng rỡ.
– Ngày nào cũng vui, lão Joseph ạ. Đúng, không sầu muộn nữa. Ta có thể nói với lão điều đó, và chỉ với mình lão thôi, người thân tín mà ta có thể trao mối ưu phiền. Ta đang ở tột đỉnh của hạnh phúc. Vợ ta là một nàng tiên đầy lòng nhân ái. Nàng đã xin lỗi ta vì sự ghẻ lạnh trước đây. Ghẻ lạnh, lão có đoán ra được không? Do ghen tuông!
– Do ghen tuông?
– Đúng, những điều ngờ vực thật vô lý vì những lá thư nặc danh.
– Thật quá tệ!
– Lão hiểu chứ, phụ nữ họ rất tự ái. Chỉ thế thôi là đủ chia rẽ chúng tôi. May thay, chiều qua nàng đã thẳng thắn phân trần với ta. Ta đã làm cho nàng hết hiểu lầm. Không thể nói để lão biết nàng ấy vui như thế nào, bởi nàng yêu ta! Nàng yêu ta! Sự ghẻ lạnh đối với ta làm khổ sở cả hai người. Cuối cùng, tình trạng chia lìa đau khổ đã chấm dứt. Lão thử nghĩ xem ta sung sướng dường nào!
– Thật vậy sao? – Joseph mắt đẫm lệ. – Thưa Hầu tước, đúng thế! Ngài sẽ được sung sướng mãi mãi bởi ngài chỉ thiếu có tình yêu của phu nhân mà thôi, hay nói đúng hơn chỉ sự xa cách của phu nhân mới làm ngài đau khổ, như ngài đã nói với tôi.
– Ông lão Joseph tội nghiệp, ta còn có thể nói điều này
với ai khác được? Chẳng phải ông còn biết một điều bí mật đáng buồn hơn nữa hay sao? Nhưng thôi đừng nói đến chuyện buồn. Ngày hôm nay đẹp quá! Chắc lão thấy ta khóc! Ta yếu đuối quá, phải không?
– Nào, nào, thưa Hầu tước, ngài có thể khóc vì vui được chứ, ngài đã khóc vì đau khổ nhiều rồi. Và tôi nữa, có phải tôi cũng khóc như ngài? Có đem mười năm tuổi thọ của tôi đổi lấy nước mắt này, tôi cũng không đổi. Tôi chỉ sợ một điều là không thể tự ngăn được mình quỳ dưới chân bà Hầu tước lần này, khi gặp lại bà.
– Lão già điên, lão cũng mất trí như chủ của lão. Ta… ta cũng sợ một điều…
– Điều gì hở trời?
– Sợ rằng niềm vui ấy không bền. Ta sung sướng quá! Ta còn thiếu gì đây?
– Không, không, thưa Hầu tước, hoàn toàn không thiếu gì cả.
– Chính vì thế, ta không tin ở những hạnh phúc quá tuyệt vời, quá đầy đủ.
– Hỡi ơi, nếu chỉ có thế, thưa Hầu tước, nhưng không, tôi không dám.
– Ta hiểu lão. Này, ta nghĩ rằng lão sợ hão huyền thôi! Sự biến đổi do hạnh phúc mang lại trong ta mạnh và sâu sắc đến nỗi ta chắc rằng mình được cứu sống!
– Như thế nào?
– Ông thầy thuốc của ta chẳng đã trăm lần nói với ta rằng nhiều khi một sự xúc động tinh thần mạnh mẽ có thể gây ra hoặc chữa lành căn bệnh quái ác này. Tại sao những xúc động hạnh phúc lại không cứu sống được ta?
– Nếu ngài tin điều đó, thưa Hầu tước, thì điều đó sẽ xảy ra. Điều đó đang xảy ra. Ngài đã lành bệnh! Vậy ngày hôm nay là ngày ngài được ban phước lành. A, như ngài đã nói, bà Hầu tước là một thiên thần từ thượng giới xuống, và tôi cũng gần như bắt đầu thấy sợ, thưa ngài. Nhiều sự tốt lành quá trong một ngày, tôi cứ nghĩ, để ngài yên tâm, phải có một tí gì không vui. Lạy Chúa! Tôi biết việc của ngài…
– Thế nào?
– Một người bạn của ngài đã bị đâm một mũi kiếm, thật rõ đúng lúc và may thay không nặng lắm. Thôi cũng được, để ngài buồn một tí, cho ngày quá đẹp đẽ này phải có một tì vết nhỏ như ngài muốn. Giá vết thương nặng hơn chút thì càng hay, nhưng thôi, được sao biết vậy.
– Lão im đi có được không? Lão nói ai vậy?
– Tôi nói về Công tước de Lucenay.
– Ông ta bị thương?
– Một vết xước ở cánh tay. Ngài Công tước đến thăm ông nhà hôm qua. Ngài còn nói có thể sáng nay lại đến dùng trà với ông nhà.
– Khổ, ông de Lucenay. Sao lão không nói ngay với ta? – Chiều qua tôi không được gặp ngài.
Sau một hồi suy nghĩ, ông d’Harville nói tiếp:
– Lão nói đúng! Chút phiền muộn nhẹ nhàng ấy chắc sẽ làm hài lòng số mệnh cả ghen. Ta chợt nảy ra một ý, sáng nay ta sẽ ứng biến ra một bữa tiệc dành cho đàn ông, tất cả đều là bạn của de Lucenay để mừng kết thúc may mắn của cuộc đấu kiếm. Không ngờ có cuộc họp này, chắc ông ta sẽ rất thích.
– Hay quá, thưa Hầu tước, niềm vui vạn tuế, phải tranh thủ thời gian. Thưa, có bao nhiêu thực khách để tôi lệnh cho đầu bếp?
– Sáu người, trong phòng ăn nhỏ mùa đông.
– Và thiệp mời?
– Ta sẽ viết. Tên trông coi tàu ngựa sẽ cưỡi ngựa mang đi ngay. Hãy còn sớm, chắc sẽ gặp được đủ mọi người. Bấm chuông đi.
Joseph bấm chuông.
Ông d’Harville bước vào phòng làm việc và viết những lá thư sau, chỉ khác nhau ở tên người được mời.
“Bạn… thân mến,
Xin thông báo một bữa tiệc đột xuất. De Lucenay sẽ đến ăn trưa với tôi. Ông ấy định chỉ có hai chúng tôi với nhau. Mong bạn vui lòng tặng cho ông ấy niềm vui bất ngờ, đến với tôi, cùng với một vài bạn khác mà tôi cũng sẽ gửi giấy mời.
Xin đúng hẹn, mười hai giờ.
A. D’HARVILLE.”
Một người hầu bước vào.
– Cho một người cưỡi ngựa mang ngay những lá thư này đi. – Ông d’Harville nói, rồi quay sang bảo Joseph. – Ghi các địa chỉ sau đây: “Tử tước de Saint-Remy”, de Lucenay không thể thiếu được ông ta – ông d’Harville tự nhủ. – “Ông de Montville”, bạn đồng hành của Công tước; “Huân tước Douglas”, người chơi bài whist của ông ta; “Nam tước Sezannes”, bạn thời thơ ấu… Viết xong chưa?
– Thưa, xong!
– Đem những thư này đi, không được chậm một phút. A, Philippe, mời ông Doublet đến nói chuyện với ta. Philippe đi ra.
– Có việc gì thế? – Ông d’Harville hỏi Joseph đang trố mắt nhìn mình.
– Tôi chưa hết lạ lùng, thưa ngài! Tôi chưa bao giờ thấy ngài sung sức, vui khỏe như vậy. Thường ngày da ngài xanh, hôm nay trông ngài hồng hào, mắt long lanh.
– Hạnh phúc, chỉ có hạnh phúc thôi, lão Joseph ạ. À này, lão phải giúp ta việc bí mật này. Lão hãy tìm cô Juliette mà ta biết, là người trông coi những viên kim cương của vợ ta.
– Vâng, thưa Hầu tước, đúng là cô Juliette phụ trách việc đó. Cách đây chưa đến tám ngày, tôi có giúp cô ta lau chùi những viên kim cương ấy.
– Lão sẽ hỏi cô ta tên và địa chỉ người thợ kim hoàn,
nhưng cô ta không được nói gì với bà Hầu tước cả! – A, tôi hiểu, thưa ngài. Một tặng phẩm bất ngờ. – Nhanh lên! Kìa, ông Doublet.
Thật thế, ông quản gia bước vào, đúng lúc ông Joseph lui ra.
– Tôi hân hạnh được ngài Hầu tước gọi.
– Ông Doublet thân mến, tôi sẽ làm ông hoảng đấy! – Ông d’Harville cười. – Tôi sẽ làm ông kêu to lên vì tuyệt vọng.
– Tôi ạ, thưa Hầu tước?
– Ông.
– Tôi sẽ làm hết sức mình để vừa ý ngài.
– Ông Doublet ạ, tôi sẽ tiêu nhiều tiền, rất nhiều tiền. – Chẳng sao cả, thưa Hầu tước, điều đó tôi làm được. Lạy Chúa! Tôi làm được.
– Từ lâu tôi có ý định xây dựng tiếp. Vấn đề là thêm một cái hành lang ra vườn bên cánh phải của biệt thự. Sau khi đắn đo trước việc làm điên rồ ấy, và cũng chưa bao giờ nói ông biết, tôi đi đến quyết định. Hôm nay ông phải báo cho kiến trúc sư của tôi biết để đến bàn với tôi về các đồ án. Nào, ông Doublet, ông không rền rĩ vì việc tiêu pha này chứ?
– Tôi cam đoan với ngài là sẽ không rền rĩ.
– Hành lang ấy sẽ dành cho các buổi lễ hội. Tôi muốn nó sẽ được dựng lên như có phép màu. Nhưng phép màu thì
rất đắt, phải bán đi mười lăm hoặc hai mươi nghìn bảng tiền tô tức mới đủ chi, bởi tôi muốn công việc bắt đầu càng sớm càng tốt.
– Rất hợp lý, tốt nhất là nên tận hưởng ngay. Tôi thường tự bảo: “Ông Hầu tước chẳng còn thiếu gì, có chăng là một ham thích nào đó…” Xây dựng có cái hay là nhà cửa vẫn còn. Còn tiền thì ngài khỏi lo. Lạy Chúa! Nếu ngài có cái ý ngông xây hành lang thì ngài làm được.
Joseph trở lại.
– Thưa Hầu tước, đây là địa chỉ của người thợ kim hoàn. Ông ta tên là Baudoin. – Joseph nói với ông d’Harville. – Ông Doublet, phiền ông đến chỗ người thợ kim hoàn này, bảo trong vòng một tiếng đồng hồ, đem đến một cái vòng nạm kim cương trị giá khoảng hai nghìn louis. Phụ nữ không bao giờ có thừa đá quý, ngày nay người ta còn may cả vào áo. Ông sắp xếp để thanh toán với người thợ kim hoàn.
– Vâng, thưa Hầu tước. Tôi không rầu rĩ vì chuyện này đâu. Kim cương, cũng như nhà cửa, chúng còn đó. Vả lại, tặng phẩm bất ngờ này chắc sẽ làm vui lòng bà Hầu tước, chưa kể là ông cũng vui. Đúng như tôi đã nói hôm trước, không có cuộc đời nào đẹp như cuộc đời của ngài Hầu tước.
Ông d’Harville mỉm cười:
– Lời khen của ông Doublet bao giờ cũng rất đúng lúc. – Thưa Hầu tước, nó chỉ có giá trị duy nhất ấy thôi, và sở dĩ như vậy vì nó xuất phát tự đáy lòng. Tôi chạy đến ông thợ
kim hoàn đây. – Ông Doublet nói.
Và ông ta đi ra.
Còn lại một mình, d’Harville đi đi lại lại trong phòng, khoanh tay trước ngực, mắt đăm đăm, đầy suy tư. Vẻ mặt ông ta chợt biến đổi. Nó không biểu hiện sự hài lòng mà viên quản gia và lão đầy tớ vừa lầm tưởng, mà là một quyết định lặng lẽ, âm thầm, lạnh lùng.
Sau khi đi lại một hồi, ông ta nặng nề ngồi xuống như gục dưới sức nặng của khổ đau. Ông ta chống hai cùi tay xuống bàn, lấy hai bàn tay ôm trán.
Một lát sau, ông ta chợt đứng dậy, lau giọt lệ trên khóe mắt đỏ hoe và cố gắng nói:
– Nào, can đảm lên, nào!
Rồi ông ta viết cho vài người về những chuyện lặt vặt. Nhưng trong những thư đó, ông ta hẹn gặp hoặc hoãn các cuộc hẹn gặp lại sau đó vài ngày.
Ông Hầu tước viết những thư ấy xong thì Joseph trở về. Lão vui đến nỗi lão quên mất mình và lầm rầm hát. Ông chủ mỉm cười:
– Này Joseph, giọng lão cũng hay đấy!
– Thưa Hầu tước, quả thật tôi chẳng để ý đến. Trong lòng tôi nó hát to đến nỗi phát thành tiếng.
– Lão đem thư này ra bưu điện cho ta!
– Thưa Hầu tước, vâng. Nhưng lát nữa ngài tiếp các vị khách ở đâu?
– Tại đây, trong phòng làm việc của ta, họ sẽ hút thuốc sau bữa ăn, và mùi khói thuốc sẽ không xông đến phòng bà d’Harville.
Vừa lúc đó, có tiếng xe lăn trong sân của biệt thự. Ông Joseph nói:
– Bà Hầu tước lại sắp đi. Sáng nay bà đòi đem ngựa ra rất sớm.
– Lão chạy lại nói với bà ghé qua đây trước khi đi. – Vâng, thưa Hầu tước.
Người hầu vừa đi khỏi, d’Harville lại gần tấm gương, ngắm mình rất kĩ. Ông ta nói, giọng trầm trầm: – Được, được, đúng thế! Má hồng hào, cái nhìn sắc sảo. Vui hay lên cơn sốt đều được! Miễn là người ta lầm tưởng. Nào, cười nụ đi. Biết bao nhiêu kiểu cười nụ. Ai phân biệt được thật giả? Ai xuyên qua được cái mặt nạ dối trá này và nói: “Cái cười này giấu một nỗi thất vọng đen tối, niềm vui ồn ào này giấu một ý nghĩ chết chóc”? Ai đoán ra được điều đó? Không ai. May thay, không ai… Có thật là không ai? Ồ, có chứ! Tình yêu, nó không lầm đâu. Bản năng sẽ soi rọi nó. Nhưng tôi nghe có tiếng vợ tôi… vợ tôi! Nào, vào vai đi, tên hề kinh khủng.
Clémence bước vào phòng của d’Harville.
– Chào anh Albert thân thiết của em. – Nàng đưa bàn tay, giọng dịu dàng êm ái. Và nhận thấy vẻ mặt tươi cười của chồng. – Anh có gì vui? Trông anh thật rạng rỡ!
– Bởi khi em bước vào, anh đang nghĩ đến em, cô em thân mến ạ! Hơn nữa, anh đang có một quyết định tốt đẹp! – Em không lạ đâu!
– Sự việc hôm qua, sự độ lượng đáng khâm phục của em, cách xử sự cao thượng của Hoàng thân, tất cả làm anh phải suy nghĩ và chuyển theo tư tưởng của em. Chuyển hoàn toàn và hối tiếc những ý tưởng chống đối vô ích của anh lúc đó mà em đã miễn thứ cho, dù chỉ để làm duyên, phải không? – Ông d’Harville mỉm cười, nói thêm. – Anh tin chắc em sẽ không tha thứ cho anh vì đã từ chối quá dễ dàng tình yêu của em.
Phu nhân d’Harville kêu lên:
– Ôi, lời nói của anh! Sự thay đổi đáng mừng làm sao! A, em biết mà, tìm đến trái tim anh, lý trí của anh, anh sẽ hiểu em. Bây giờ em không nghi ngờ tương lai nữa.
– Cả anh cũng thế, Clémence ạ, anh cam đoan là thế. Đúng, từ cái đêm anh đã đem đến một quyết định tương lai mà trước đây đối với anh mơ hồ và tối tăm, giờ đã sáng ra, đơn giản một cách lạ kỳ.
– Lẽ đương nhiên, anh ạ. Ngày nay chúng ta cùng đi đến một mục đích, dựa vào nhau trên tình anh em. Cuối đoạn đường này chúng ta lại gặp nhau, vẫn y hệt như hôm nay. Tình cảm ấy là không suy chuyển được. Cuối cùng em muốn anh được sung sướng. Và nhất định sẽ là như thế, vì em đã đặt nó vào đây. – Clémence nói, đặt ngón tay vào trán. Rồi cũng với một vẻ duyên dáng đáng yêu, nàng hạ bàn tay
xuống phía trái tim. – Không, em lầm, ở đây kia. Mong rằng ý nghĩ đó thức tỉnh ngày đêm, cho anh và cũng cho em. Và, thưa ông anh của em, anh sẽ thấy một tấm lòng tận tụy sẽ bền bỉ chừng nào.
– Clémence thân yêu! – D’Harville trả lời, cố nén sự xúc động.
Sau một lúc im lặng, ông ta vui vẻ nói tiếp:
– Anh mời em qua đây trước khi em đi để báo cho em biết, sáng nay anh không thể dùng trà với em. Anh có mời vài người khác ăn trưa. Một bữa ăn đột xuất để mừng cái kết thúc may mắn trong cuộc đấu kiếm của cậu de Lucenay, cậu ta chỉ bị địch thủ làm bị thương rất nhẹ thôi.
Phu nhân d’Harville đỏ mặt, nghĩ đến nguyên nhân của cuộc đấu kiếm. Một câu lố bịch nói ra trước mặt nàng giữa de Lucenay với gã Charles Robert.
Kỷ niệm này xót xa đối với Clémence, nó nhắc lại một sai lầm mà nàng phải hổ thẹn.
Để thoát khỏi ám ảnh nặng nề đó, nàng nói với chồng: – Anh xem sự ngẫu nhiên có lạ lùng không? Ông de Lucenay đến ăn trưa với anh; còn em, có lẽ sáng nay em sẽ đến nhà bà de Lucenay, vì em có nhiều điều cần nói với bà ấy về hai người em muốn che chở mà vẫn chưa biết họ là ai. Từ đó em định đến nhà lao Saint-Lazare cùng với bà de Blainval. Anh không biết tất cả những tham vọng của em đâu. Giờ đây em đang tìm cách để len vào công việc cải tạo các nữ tù nhân trẻ.
Ông d’Harville mỉm cười:
– Ham muốn của em thực không có giới hạn. – Ông ta nói thêm với một xúc động đau đớn, mặc dù rất cố gắng nhưng vẫn lộ ra ít nhiều. – Như vậy, anh sẽ không gặp lại em hôm nay nữa? – Ông vội hỏi.
– Có điều gì phật ý anh, nếu em phải đi sớm? – Clémence hỏi gấp, ngạc nhiên vì giọng nói khác lạ của chồng. – Nếu anh muốn, em có thể hoãn cuộc đi thăm bà de Lucenay.
Ông Hầu tước suýt nữa thì tự bộc lộ. Ông ta nói tiếp, giọng thật dịu dàng:
– Phải, cô em bé bỏng của anh, anh không muốn thấy em ra đi, cũng như nóng ruột mong em chóng về. Đó là những tật xấu anh không bao giờ sửa được.
– Như vậy là tốt, anh ạ, nếu không em sẽ rất buồn. Một tiếng chuông reo trong biệt thự báo có khách đến. Phu nhân d’Harville nói:
– Chắc chắn có khách của anh đến. Xin phép anh. Này, tối nay anh làm gì? Nếu anh chưa có ý định, em yêu cầu anh đưa em đến rạp Nghệ thuật Ý. Có lẽ bây giờ anh càng thích âm nhạc hơn!
– Rất vui lòng làm theo ý em.
– Anh có đi đâu không? Em có gặp lại anh trước bữa ăn tối không?
– Anh không đi đâu cả. Em sẽ gặp lại anh ở đây. – Thế thì khi về, em sẽ gặp anh để biết bữa tiệc của các
anh có vui không.
– Tạm biệt Clémence.
– Tạm biệt anh. Hẹn gặp lại! Em để anh hoàn toàn tự do, chúc anh mọi thứ ngông cuồng thật vui, anh nhé! Sau khi thân ái bắt tay chồng, Clémence đi ra một cửa, trước khi de Lucenay bước vào bằng một cửa khác. – Nàng chúc ta mọi thứ ngông cuồng. Nàng buộc ta phải vui. Trong tiếng nói giã từ, trong tiếng kêu cuối cùng của hồn ta còn hấp hối, trong lời nói của cuộc chia ly cuối cùng và mãi mãi, nàng đã hiểu ra, “hẹn gặp lại”. Và nàng ra đi bình tĩnh, tươi cười… Như vậy là ta đã khéo giấu. Trời, không ngờ là ta đóng kịch giỏi đến thế. Nhưng mà, kìa ông de Lucenay…
CHƯƠNG V
BỮA TIỆC CỦA NHỮNG NGƯỜI BẠN Ông de Lucenay bước vào nhà d’Harville.
Vết thương nhẹ đến nỗi Công tước không phải đeo băng treo cánh tay. Vẻ mặt của ông ta lúc nào trông cũng giễu cợt ngạo mạn, ông ta luôn hoạt động, tính hay loay hoay đã thành cố tật. Mặc dù những thói xấu của ông ta, những lời bông đùa khiếm nhã, cái mũi to quá cỡ làm cho khuôn mặt của ông ta gần như hài hước, chúng tôi đã nói, ông de Lucenay không phải loại người tầm thường, bởi ông ta có một vẻ trang trọng tự nhiên và lúc nào cũng táo tợn đến gan dạ.
– Anh Henri thân mến, chắc anh vẫn tưởng tôi không quan tâm đến anh! – Ông d’Harville nói, chìa tay cho ông de Lucenay. – Mãi sáng nay tôi mới biết câu chuyện đáng tiếc của anh.
– Đáng tiếc, hừm… Hầu tước! Mất bao nhiêu, được bấy nhiêu, như người ta nói. Đời tôi chưa bao giờ được cười nhiều như thế! Ông Robert quý báu ấy trịnh trọng không muốn để ai bảo anh ta bị rớt dãi. Thực tế, anh không biết việc đó, phải không? Đó là nguyên nhân của cuộc đấu kiếm. Chiều hôm ấy ở sứ quán, trước mặt bà nhà và nữ Bá tước
Mac-Gregor, tôi hỏi anh ta trị đờm dãi cách nào. Nói thật giữa chúng ta với nhau, anh ta không có chứng tật ấy đâu. Nhưng chẳng sao. Anh hiểu rồi chứ, nghe hỏi điều đó trước mặt người đẹp thì đúng là chối tai quá.
– Thật là điên! Tôi biết anh mà. Nhưng Robert là ai? – Nào tôi có biết là ai, đó là nhân vật tôi gặp ở vùng suối khoáng. Anh ta đi qua trước mặt chúng tôi trong vườn mùa đông của sứ quán, tôi gọi anh ta để buông câu đùa quái quỷ ấy. Ngày hôm sau, anh ta trả lời tôi rất lịch sự bằng một mũi kiếm nhẹ. Đấy, quan hệ với nhau chỉ có thế. Thôi đừng nói những chuyện vớ vẩn ấy nữa. Tôi đến xin anh một chén trà.
Nói rồi ông ta ngã người trên sofa, sau đó lấy đầu gậy chọc chọc vào khoảng giữa tường và khung một bức tranh treo phía trên đầu ông ta, làm cho cái khung bắt đầu đu đưa.
– Henri, tôi đợi anh và dành cho anh một câu chuyện bất ngờ. – Ông d’Harville nói.
– A, chuyện bất ngờ nào? – Ông de Lucenay nói to, càng lắc mạnh bức tranh một cách đáng ngại.
– Anh sẽ làm long bức tranh và nó rơi xuống đầu đấy! – Chính thế! Mắt anh tinh lắm. Nhưng bất ngờ gì thì nói đi.
– Tôi có một vài bạn cùng đến ăn trưa.
– Thế thì hoan hô! Trăm lần hoan hô, nghìn lần hoan hô.
– De Lucenay kêu toáng lên, đập gậy thật mạnh lên đệm sofa. – Mời những ai? De Saint-Remy? Không, thực tế anh ta đã về quê mấy ngày nay, không biết về giữa mùa đông thì làm được cái gì?
– Anh biết chắc anh ấy không ở Paris?
– Rất chắc. Tôi đã viết thư nhờ anh ta đứng làm chứng cho cuộc đấu kiếm. Anh ta đi vắng, tôi lại phải nhờ Huân tước Douglas và Sezannes.
– Thật tuyệt, họ sẽ đến đây với chúng ta.
– Hoan hô, hoan hô, hoan hô! – De Lucenay lại kêu to. Thế rồi lăn lộn trên cái sofa, ông ta vừa kêu không rõ tiếng, vừa uốn mình nhảy nhót mà ngay cả một nghệ sĩ nhào lộn cũng phải chịu thua.
Trò nhào lộn của Công tước de Lucenay chợt dừng lại vì có de Saint-Remy đến. Tử tước vui vẻ nói:
– Không cần phải hỏi ông de Lucenay có ở đây không. Tôi đã nghe thấy tiếng của anh từ dưới kia!
– Ô kìa, đồ quỷ quái, – Công tước ngạc nhiên đứng thẳng người lên – tưởng anh về quê?
– Tôi mới về lại hôm qua. Vừa nhận được thiệp mời của d’Harville là tôi chạy đến ngay. Rất mừng vì chuyện bất ngờ này!
De Saint-Remy chìa tay cho de Lucenay, rồi cho Hầu tước.
– De Saint-Remy, tôi biết ơn sự sốt sắng của anh. Có phải
là lẽ đương nhiên không? Các bạn của de Lucenay phải vui mừng vì kết thúc may mắn của trận đấu, dẫu sao thì cũng có thể có những hậu quả đáng tiếc.
Công tước vẫn cố tình hỏi:
– De Saint-Remy, anh về nông thôn giữa mùa đông để làm gì? Lạ thật đấy!
– Con người đến tò mò! – Tử tước nói với ông d’Harville, rồi trả lời Công tước. – Tôi muốn quen dần với việc phải xa Paris bởi chẳng bao lâu nữa tôi phải rời Paris.
– A, câu chuyện mơ được đặc phái về sứ quán Pháp ở Gerolstein. Hãy để chúng tôi được yên về những hoạt động ngoại giao hão huyền của anh! Chẳng bao giờ anh về đấy đâu. Vợ tôi đã nói và mọi người đều nói thế.
– Tôi xin cam đoan là bà de Lucenay cũng lầm như mọi người.
– Trước mặt tôi, bà ấy đã nói với anh làm như vậy là điên rồ.
– Thế đời tôi thiếu gì chuyện điên rồ.
– Điên rồ vì ăn diện xa hoa thì may quá, dù có phải sạt nghiệp vì những thói bốc giời như vậy, tôi chấp nhận. Nhưng tự chôn vùi trong một cái xó triều đình như vậy ở Gerolstein! Thử xem nó đưa đến đâu. Đấy không phải là điên rồ mà là nhảm nhí, và anh thì thừa thông minh để không làm việc nhảm nhí.
– Cẩn thận đấy, anh de Lucenay ạ! Nói xấu cái triều đình
Đức ấy, anh sẽ gây chuyện với anh d’Harville, bạn chí thân của đương kim Đại công tước, người vừa mới tiếp tôi một cách hết sức khả ái ở sứ quán, nơi tôi được giới thiệu với Người.
Ông d’Harville nói:
– Thật đấy, Henri ạ! Nếu anh biết ngài Đại công tước như tôi đã biết, anh sẽ hiểu là de Saint-Remy không ngần ngại gì phải đến Gerolstein một thời gian.
– Tôi tin anh, mặc dù người ta nói ngài Đại công tước kiêu hãnh một cách độc đáo. Nhưng điều đó không trái với việc một con người như de Saint-Remy, hào hoa phong nhã bậc nhất, chỉ có thể sống ở Paris… chỉ làm nổi bật hết giá trị của anh ấy ở Paris.
Những thực khách của d’Harville vừa đến thì Joseph bước vào và nói nhỏ điều gì đó vào tai ông chủ. Hầu tước nói:
– Các bạn cho phép chứ? Người thợ kim hoàn của nhà tôi mang kim cương đến để tôi chọn cho nhà tôi. Một tặng phẩm bất ngờ. Anh de Lucenay, anh chẳng xa lạ gì, chúng ta là những ông chồng thuộc dòng quý tộc gốc.
– Ái chà! Nếu là tặng phẩm bất ngờ, – ông Công tước la lên – bà nhà tôi hôm qua cũng đã dành cho tôi một món trứ danh!
– Một thứ quà choáng lộn phải không?
– Bà ấy hỏi vay tôi mười vạn franc.
– Và anh thì hào hiệp… anh đã…
– Cho vay! Nhà tôi sẽ thế chấp bằng trang trại của bà ấy ở Arnouville. Vợ chồng cũng phải sòng phẳng mà. Thế thôi, mấy ai cho vay mười vạn franc trong vòng hai tiếng đồng hồ khi cần, phải nói đó là rất tử tế, rất hiếm có, phải không ngài phá gia, ngài rất thạo việc vay mượn? – Công tước cười và nói với de Saint-Remy, không nghĩ gì đến hậu quả của lời nói.
Mặc dầu là con người táo bạo, Tử tước hơi đỏ mặt một chút rồi điềm tĩnh nói tiếp:
– Mười vạn franc, món tiền lớn thật! Một người phụ nữ làm gì mà cần đến mười vạn franc? Đàn ông chúng mình đã đành.
– Thực tình tôi cũng chẳng biết nhà tôi làm gì với số tiền ấy. Vả lại, thế nào cũng được. Có thể còn thiếu mấy khoản trang sức. Mấy tay cung ứng nóng vội và khó tính. Đó là việc riêng của bà ấy. Vả lại anh de Saint-Remy ạ, chắc anh cũng thấy cho vay tiền mà lại hỏi dùng để làm gì thì không hay lắm.
– Nhưng ai cho vay thì cũng tò mò muốn biết món tiền cho vay ấy để làm gì. – Tử tước vừa nói vừa cười. Ông d’Harville nói:
– Tất nhiên! Này de Saint-Remy, anh là người rất sành, anh giúp tôi chọn món trang sức tôi mua tặng vợ tôi. Hễ anh đồng ý là tôi đồng ý, anh là vua khoản thời trang. Người thợ kim hoàn bước vào, mang mấy hộp tư trang
đựng trong một túi da lớn.
– Kìa, ông Baudoin! – Ông de Lucenay nói.
– Thưa Công tước, tôi đến để phục vụ các ngài. – Tôi chắc rằng ông đã làm sạt nghiệp vợ tôi bằng những thứ cám dỗ ma quái và choáng lộn này. – De Lucenay nói. – Bà Công tước mùa đông này chỉ đánh bóng lại các viên kim cương. – Người thợ kim hoàn có phần hơi lúng túng. – Đúng là tôi vừa đem hàng lại cho bà trước khi đến đây. De Saint-Remy biết bà de Lucenay muốn giúp đỡ mình nên đã phải đổi kim cương của bà lấy kim cương giả. Anh ta khó chịu vì cuộc gặp gỡ này, nhưng vẫn táo bạo nói tiếp: – Các ông chồng đến là tò mò! Đừng trả lời, ông Baudoin ạ!
– Tò mò! Chắc là không. – Công tước nói, – bà ấy là người trả tiền. Bà ấy ngông cuồng mặc bà ấy. Bà ấy còn giàu hơn tôi.
Trong lúc nói chuyện như thế, ông Baudoin trải ra trên bàn mấy chuỗi hồng ngọc và kim cương rất đẹp. – Rực rỡ làm sao! Những viên ngọc này được mài giũa thật tuyệt vời! – Huân tước Douglas nói.
Người thợ kim hoàn trả lời:
– Thưa ông, tôi đã thuê một người thợ mài thuộc loại giỏi nhất ở Paris. Tai họa đã làm cho người ấy hóa điên và tôi không tìm đâu được một người thợ thứ hai như thế. Bà chào hàng của tôi cho biết có lẽ sự cùng khổ đã làm cho người ấy
quẫn trí đến thế.
– Cùng khổ! Ông giao kim cương cho những người trong cảnh khốn cùng!
– Thưa ông, đúng thế. Chưa thấy một người thợ mài nào biển thủ, mặc dù hoàn cảnh họ rất quẫn bách. – Cái chuỗi này giá bao nhiêu? – Ông d’Harville hỏi. – Ông Hầu tước chú ý cho, các viên ngọc đều sắc nước, và cắt gọt rất đẹp, to gần bằng nhau.
– Những lời nói năng thận trọng này, – de Saint-Remy cười – rất nguy hại cho túi tiền của anh, anh d’Harville ạ. Anh hãy chờ phán một giá quá quắt đi!
– Nào, ông Baudoin, nói thực đi, bao nhiêu? – Ông d’Harville nói.
– Tôi không muốn ngài Hầu tước phải mặc cả. Ít nhất cũng phải là bốn mươi hai nghìn franc.
Ông de Lucenay la lên:
– Các ngài ơi, các đức ông chồng hãy im lặng mà chiêm ngưỡng ông d’Harville dành cho vợ món quà bất ngờ bốn mươi hai nghìn franc. Quỷ quái! Chớ tiết lộ việc này ra, làm thế thì xấu lắm!
– Các ngài muốn cười bao nhiêu tùy thích. – Hầu tước vui vẻ nói. – Tôi mê vợ tôi, tôi không giấu điều đó. Tôi còn nói ra, còn khoe nữa kia đấy!
– Điều đó đã rõ, – de Saint-Remy nói tiếp – một món quà như thế vượt quá mọi lời bàn cãi.
– Tôi lấy cái chuỗi này, – ông d’Harville nói – nếu ông de Saint-Remy thấy cái viền đen này hợp với thị hiếu. – Nền đen càng làm cho các viên ngọc thêm rực rỡ, bố trí như vậy là tuyệt vời.
– Tôi quyết định lấy cái chuỗi này. – Ông d’Harville nói. – Ông Baudoin ạ, ông sẽ tính toán với ông Doublet, quản gia của tôi.
– Thưa Hầu tước, ông Doublet đã cho tôi biết trước rồi. – Người thợ kim hoàn nói. – Ông ta đi ra, sau khi đã bỏ lại vào túi mà không đếm lại các vật quý mình đã đem đến, mà trong khi trò chuyện de Saint-Remy đã tò mò mân mê và ngắm nghía rất lâu.
Ông d’Harville đưa chuỗi ngọc cho Joseph đang đứng chờ lệnh, nói nhỏ:
– Dặn cô Juliette phải khéo léo bỏ lẫn vào các hạt kim cương của bà. Không cho bà chủ biết, để sự bất ngờ càng lớn hơn.
Bữa tiệc của những người bạn
Vừa lúc đó, đầu bếp vào, báo bữa tiệc đã xong. Các vị khách sang phòng ăn, ngồi vào bàn.
– Anh d’Harville, – de Lucenay nói – anh có biết cái nhà này là một trong những tòa nhà sang trọng, được bố trí đẹp
nhất Paris không?
– Quả có thế, nhưng nó không được rộng. Dự định của tôi là xây thêm một hành lang ra vườn. Bà nhà tôi đôi lúc muốn tổ chức vài cuộc đại vũ hội nhưng các phòng khách không đủ rộng. Tôi thấy không có gì bất tiện bằng vũ hội lại tổ chức vào những phòng hằng ngày mình vẫn ở. Thành ra lại phải di chuyển sang chỗ khác.
– Tôi đồng ý với d’Harville. – De Saint-Remy nói. – Không có gì tầm thường, trọc phú bằng những cảnh dọn nhà vì có vũ hội hoặc hòa nhạc. Muốn tổ chức những dạ hội thật đẹp mà không phiền toái, thì phải có địa điểm riêng. Những phòng rộng, chan hòa ánh sáng dành cho vũ hội lộng lẫy phải khác với những phòng khách bình thường như là tranh hoành tráng khác với tranh trên giá vẽ.
– Anh nói đúng. – D’Harville nói. – Đáng tiếc là de Saint Remy không có một triệu hoặc một triệu rưỡi bảng tiền lợi tức. Nếu có, anh ấy sẽ cho chúng ta ngắm biết mấy kỳ quan!
– Bởi chúng ta có cái hạnh phúc có một chính thể đại nghị. – Công tước de Lucenay nói. – Chẳng phải nghị viện hằng năm nên chuẩn y cho de Saint-Remy một triệu đồng và cử anh ấy làm đại diện ở Paris cho thị hiếu và thanh lịch Pháp, điều đó sẽ quyết định thị hiếu và thanh lịch của châu Âu và thế giới?
– Đồng ý! – Tất cả cùng reo lên.
– Và triệu bạc ấy, – de Lucenay nói thêm – hằng năm
đánh thuế vào những tên cho vay nặng lãi gớm guốc, có gia tài khổng lồ nhưng sống biển lận, bòn từng xu. – Và như thế, – d’Harville tiếp – buộc bọn họ phải đài thọ những cảnh xa hoa mà đáng lẽ họ phải bày ra. – Chưa tính đến chức giáo chủ, hay đúng hơn đại sứ thanh lịch phong cho de Saint-Remy, – de Lucenay nói tiếp – sẽ có một ảnh hưởng to lớn đến thị hiếu chung. – Anh sẽ trở thành hình mẫu ai cũng muốn học theo. – Cái đó đã rõ.
– Càng cố học anh, thị hiếu càng sáng ra.
– Thời Phục hưng, thị hiếu ở đâu cũng tuyệt vời vì nó mô phỏng theo thị hiếu của giới quý tộc, mà thị hiếu này thì rất tinh tế.
– Do vấn đề đã trở nên long trọng như thế, – ông d’Harville vui vẻ nói tiếp – tôi thấy chỉ còn cách phải đưa đơn thỉnh cầu lên hai viện để đặt ra chức vụ đại sứ khoa thanh lịch Pháp.
– Và vốn các nghị sĩ, không trừ một ai, là những người có tư tưởng lớn, rất nghệ sĩ và rất tuyệt vời, việc này sẽ được biểu quyết bằng hoan hô.
Ông d’Harville nói:
– Trong khi chờ đợi quyết định thừa nhận quyền lực của anh, điều mà anh đã có trong thực tế, tôi muốn xin ý kiến anh về cái hành lang mà tôi sắp xây dựng. Bởi tôi rất lưu ý những suy nghĩ của anh về các lễ hội tưng bừng.
– Đầu óc thô thiển của tôi sẵn sàng để phục vụ anh. – Bạn thân, bao giờ thì khánh thành những công trình lộng lẫy ấy?
– Có lẽ sang năm bởi tôi sẽ bắt đầu cho xây ngay. – Anh thật là con người lắm dự định!
– Vâng, còn một số nữa… Tôi đang nghĩ cách làm đảo lộn hoàn toàn khu Val-Richer.
– Trang trại của anh ở Bourgogne à?
– Vâng, ở đó có điều rất hay để làm, nếu trời còn cho tôi sống…
– Khổ ông cụ non!
– Có phải vừa rồi anh có mua thêm một trang trại bên cạnh Val-Richer cho tròn khoảnh phải không? – Vâng, một vụ rất hay, theo lời khuyên của ông chưởng khế.
– Ông chưởng khế hiếm có và quý báu nào đã giúp anh những cái hay như thế?
– Ông Jacques Ferrand.
Nghe đến tên người này, trán của de Saint-Remy khẽ nhăn.
– Ông ta có đúng là con người trung thực như người ta nói không? – De Saint-Remy lơ đãng hỏi d’Harville lúc này cũng đang nhớ lại lời Rodolphe nói với Clémence về lão chưởng khế.
– Jacques Ferrand? Còn phải nói! Một con người liêm
chính như thời cổ xưa. – De Lucenay nói.
– Được kính trọng và rất đáng kính trọng.
– Rất mộ đạo, chẳng làm hại ai bao giờ.
– Cực kỳ biển lận. Một điều bảo đảm cho các khách hàng.
– Một trong những ông chưởng khế thuộc lớp kỳ cựu, họ thường hỏi lại xem anh coi họ là giống gì mà đòi họ biên nhận, khi anh đến gửi tiền.
– Chỉ cần thế thôi, tôi xin gửi họ cả gia tài.
– De Saint-Remy nghe ở đâu ra mà nghi ngờ một người đáng kính, nổi tiếng liêm khiết như vậy?
– Tôi cũng chỉ nghe mơ hồ thế thôi. Vả lại tôi chẳng có lý do gì để phủ nhận ông vua trong đám chưởng khế ấy. Thôi, trở lại với những dự định của d’Harville, anh định xây gì ở Val-Richer? Người ta nói tòa lâu đài ở đó đẹp lắm!
– Yên tâm, de Saint-Remy ạ, anh sẽ được xin ý kiến và còn được xin sớm hơn anh tưởng nữa, bởi vì làm những việc đó đối với tôi là nguồn vui. Không còn gì ham thích bằng những việc làm thích thú cứ nối tiếp nhau từng chặng trong những năm tới. Hôm nay việc này… Một năm nữa việc kia… Sau đó, lại việc khác nữa… Thêm vào đó một người phụ nữ yêu kiều mà mình tôn thờ, chia sẻ một nửa với mình những thị hiếu, dự định, thế thì cuộc đời sẽ trôi qua khá êm đẹp.
– Đúng, tôi hoàn toàn tin! Một thiên đường thật sự trên trái đất.
Tiệc xong, d’Harville nói:
– Bây giờ, nếu các ngài muốn hút xì gà trong phòng tôi, tôi có những loại tuyệt hảo.
Mọi người đứng dậy, trở lại phòng làm việc của Hầu tước. Cửa phòng ngủ thông với phòng này đang mở. Chúng tôi đã nói vật trang trí duy nhất của phòng ngủ này là hai bộ đồ vũ khí gồm những loại rất đẹp.
Ông de Lucenay đốt một điếu xì gà, đi theo Hầu tước vào phòng ngủ.
– Anh xem, tôi rất mê vũ khí. – Ông d’Harville nói. – Đây có cả súng Anh và Pháp tuyệt đẹp. Tôi thật không biết thích thứ nào hơn. Douglas, – de Lucenay kêu lên – lại đây xem những loại súng này có địch được với những loại măng-tông của anh không?
Huân tước Douglas, de Saint-Remy và hai người khách nữa vào phòng Hầu tước để xem vũ khí.
Ông d’Harville cầm một khẩu súng lục chiến đấu, vừa cười vừa nói:
– Thưa các ngài, đây là thứ thuốc bách bệnh cho mọi khổ đau, sầu não.
Và ông ta áp đùa nòng súng vào môi.
– Đúng thế. – De Saint-Remy nói. – Tôi thì tôi thích loại đặc hiệu khác. Loại này chỉ tốt trong những ca tuyệt vọng. – Đúng, nhưng nó rất nhanh. – Ông d’Harville nói. – Đoành! Thế là xong, ý nghĩ cũng không nhanh bằng. Thật là
tuyệt!
– Cẩn thận đấy, d’Harville! Đùa như vậy lúc nào cũng nguy hiểm. Tai họa đến ngay đấy. – Ông de Lucenay nói, thấy Hầu tước lại áp súng vào môi.
– Tất nhiên, anh tưởng súng có đạn mà tôi chơi kiểu này à?
– Đã đành, nhưng như thế vẫn là khinh suất.
– Thưa các ngài, người ta làm như thế này này: đặt rất nhẹ nòng súng giữa hai hàm răng, rồi thì…
– Chúa ơi! D’Harville chơi cái trò khỉ gì thế! – De Lucenay nhún vai nói.
– Cho ngón tay vào cò… – Ông d’Harville nói thêm. – Lớn thế mà còn trẻ con… trẻ con!
Hầu tước nói tiếp:
– Bóp khẽ cò, thế là đi về với ông bà ông vải.
Dứt lời, phát súng nổ.
D’Harville đã tự bắn vào đầu.
Chúng tôi xin miễn tả lại sự sửng sốt, bàng hoàng của những thực khách ở đó.
Ngày hôm sau báo đăng tin:
“Hôm qua, một sự kiện bất ngờ và đáng tiếc đã làm xôn xao cả khu ngoại ô Saint-Germain. Một trong những việc khinh suất hàng năm mang lại bao nhiêu tai họa và đau thương, chúng tôi đã góp nhặt được những việc sau đây, xin cam đoan là đúng sự thực.
Ông Hầu tước d’Harville – chủ nhân của gia tài khổng lồ, tuổi chưa đầy hai mươi sáu, nổi tiếng là hào hiệp, mới cưới vợ, là người mà ông tôn thờ, có mời một số bạn ăn trưa. Tiệc tan, mọi người chuyển sang phòng ngủ của ông d’Harville, ở đấy có một số vũ khí đắt tiền. Trong khi để các bạn ngắm nghía các khẩu súng, ông d’Harville lấy một khẩu súng lục mà ông tưởng là không có đạn và áp đùa vào môi. Không chút nghi ngại, ông bấm cò. Súng nổ! Ông ngã xuống. Thử tưởng tượng, các bạn của ông kinh hoàng đến chừng nào, những người mà một phút trước đó, ông, con người trẻ tuổi, tràn đầy hạnh phúc và tương lai, vừa mới trao đổi bao nhiêu dự định tốt đẹp! Và các tình tiết đầy tương phản diễn ra, dường như muốn làm cho sự kiện càng thêm đau thương: ngay sáng hôm ấy, ông d’Harville đã mua một món trang sức rất đắt tiền để làm quà cho vợ. Đúng vào lúc cuộc đời tươi đẹp nhất, ông ngã xuống vì một tai nạn khủng khiếp.
Trước một sự việc đau thương như vậy, mọi suy nghĩ đều vô ích, người ta chỉ còn biết cúi đầu dưới uy quyền bí ẩn của Chúa…”
Chúng tôi trích cả bài báo ra để chứng minh rằng mọi người đều tin cái chết của chồng Clémence là do một sự khinh suất tai hại và đáng tiếc.
Có phải ông d’Harville đã mang xuống mồ bí mật của cái chết hoàn toàn tự nguyện của mình?
Vâng, tự nguyện và có tính toán, suy nghĩ với đầy đủ sự
sáng suốt và đại lượng, để Clémence không thể có một thoáng nghi ngờ về nguyên nhân thật sự của việc tự sát. Vì thế những dự định mà d’Harville đã trao đổi với viên quản gia và bạn bè của mình, những lời tâm sự vui vẻ với người quản gia già, món quà bất ngờ dành cho vợ từ buổi sáng, tất cả dễ dàng chiếm được lòng tin của mọi người. Làm sao nghĩ ra được một người đang bận rộn cho tương lai, đang tìm mọi cách để chiều vợ, lại có thể tự sát? Cái chết của ông ta chỉ có thể là do một sự khinh suất. Còn ông ta làm như vậy là do một sự thất vọng không thể cứu vãn đã gây ra.
Trước kia nàng lạnh lùng và kiêu hãnh, nay nàng âu yếm và dịu dàng, sự quay trở về cao thượng của Clémence gợi trong lòng người chồng những điều hối hận đau xót. Thấy nàng nhẫn nhục và buồn bã, cam chịu sống lâu dài, không tình yêu, bên cạnh người chồng mang một chứng bệnh nan y hãi hùng, và căn cứ vào những lời lẽ nghiêm chỉnh của Clémence, biết chắc không bao giờ nàng thắng được nỗi kinh tởm đối với chồng, d’Harville càng thấy thương vợ sâu sắc và càng chán ngán đến rùng rợn bản thân và cuộc sống này.
Giữa lúc đau đớn căng thẳng, ông ta tự nhủ:
“Ta chỉ yêu, chỉ có thể yêu một người đàn bà ở thế gian này. Đó là nàng. Cách xử sự của nàng, đầy tình thương và cao thượng, càng làm tăng thêm sự đam mê điên dại của ta, nếu ta còn có thể yêu nhiều hơn.
Và người đàn bà ấy, vợ của ta, lại không bao giờ thuộc về ta…
Nàng có quyền khinh ta, ghét ta…
Bằng sự lừa dối bỉ ổi, từ khi nàng còn rất trẻ, ta đã buộc nàng vào số phận đáng ghét này. Ta hối hận. Ta làm được gì cho nàng bây giờ? Giải thoát nàng khỏi những dây trói ô nhục và tính ích kỷ của ta đã trói buộc nàng.
Chỉ có cái chết của ta mới làm dứt được những dây trói ấy… Ta phải tự sát.”
Và vì thế, d’Harville đã phải chịu sự hy sinh to lớn và đau đớn ấy.
Nếu được phép ly dị, con người khốn khổ ấy có phải tự tử không?
Không!
Ông ta có thể sửa chữa một phần tội lỗi mình đã mắc phải, trả lại tự do cho nàng, để nàng tìm hạnh phúc ở một cuộc hôn nhân khác.
Tính không lay chuyển được của luật pháp làm cho một số lỗi lầm đã không sửa chữa được, hoặc trong trường hợp này, chỉ có cách xóa đi bằng tội ác mới.
CHƯƠNG VI
NHÀ TÙ SAINT-LAZARE
Nhà tù Saint-Lazare dành cho tội phạm nữ, trộm cắp và gái điếm, hằng ngày vẫn được một số bà tới thăm, những người mà lòng nhân từ, tên tuổi, địa vị xã hội buộc mọi người phải tôn trọng.
Những người phụ nữ ấy, lớn lên trong cảnh giàu sang phú quý, hiển nhiên thuộc phái thượng lưu, hằng tuần dành mấy giờ đến bên những nữ tù nhân khốn khổ của Saint Lazare, rình rập trong những tâm hồn sa đọa ấy một chút mỏng manh vươn lên cái thiện, một chút hối tiếc quá khứ tội lỗi. Họ ủng hộ những xu hướng tốt, tăng hiệu quả của sự hối tiếc và nhờ ma lực của những khái niệm: bổn phận, danh dự, đạo đức, đôi khi họ đưa ra khỏi bùn đen những con người đã bị bỏ rơi, sỉ nhục, khinh rẻ.
Quen sống với cách đối xử nhẹ nhàng, tế nhị của giới thượng lưu, những người phụ nữ can đảm này trước khi rời biệt thự lâu đời của họ, hôn lên vầng trán thơ ngây của con gái họ, trinh trắng như những thiên thần, để đi vào những nhà tù tối tăm, đương đầu với sự ghẻ lạnh tục tằn hoặc những lời lẽ tội lỗi của những nữ tặc, gái điếm…
Trung thành với sứ mệnh đạo đức, họ dũng cảm bước
xuống bùn nhơ, đặt bàn tay lên những trái tim hủ bại và nếu còn một đập nhỏ danh dự báo hiệu tia hy vọng còn cứu vớt được, họ cố gắng giành giật lại mảnh tâm hồn bệnh hoạn khỏi nơi sa đọa nghiệt ngã.
Không dám có tham vọng đem so sánh sứ mệnh của các bà với công việc của chúng tôi, chúng tôi có thể nói được chăng, điều giữ chúng tôi đứng vững trong cái công việc lâu dài, nhọc nhằn khó khăn này, đó là niềm tin vững chắc đã khơi dậy được mối cảm tình với những người bất hạnh, trung thực, can đảm, oan uổng, mối cảm tình với sự hối lỗi chân thành, sự thật thà giản dị và ngây thơ, đã gây được sự kinh tởm, ghê sợ, thù ghét tất cả những gì vẩn đục và tội lỗi?
Chúng tôi không lùi bước trước những hiện thực rất xấu xa, nghĩ rằng đạo lý cũng như lửa làm tinh sạch hết thảy. Lời nói của chúng tôi ít có giá trị, ý kiến của chúng tôi ít có trọng lượng, để chúng tôi dám đứng lên giáo dục hoặc làm cải cách.
Hy vọng duy nhất của chúng tôi là kêu gọi các nhà tư tưởng và những người lương thiện chú ý đến những nỗi cơ cực trong xã hội mà người ta có thể phàn nàn nhưng không thể phủ nhận sự tồn tại của chúng.
Tuy nhiên, giữa những người sung sướng ở đời này, một số bị sốc vì sự sống sượng của những bức tranh đau xót kia, đã vội kêu lên là quá đáng, là không thật, là không thể, để khỏi phàn nàn vì bao nhiêu khổ nạn này.
Điều đó dễ hiểu thôi.
Kẻ ích kỷ, người đầy ắp vàng hoặc đã phè phỡn no nê rồi thì chỉ muốn ngồi tiêu hóa một cách yên tĩnh. Quang cảnh những người nghèo khổ, rét run vì đói lạnh, làm hắn đặc biệt khó chịu. Hắn thích ấp ủ cái giàu có hoặc cái no nê, lim dim mắt trước cảnh khoái lạc của một màn ca vũ kịch.
Tuy nhiên, đại đa số những người giàu có sung sướng lại biết thông cảm với những đau khổ mà họ chưa từng biết. Một vài người còn biết ơn chúng tôi đã chỉ cho họ cách sử dụng tốt lành những của bố thí mới.
Chúng tôi đã được ủng hộ mạnh mẽ, được khuyến khích bởi những sự tán đồng như vậy.
Đối với chúng tôi, còn phần thưởng vinh quang nào bằng những lời ca tụng của một số gia đình nghèo nào đó, đã được khá hơn lên một chút ít nhờ những tư tưởng mà chúng tôi đã gợi lên!
Nói ra điều đó trước cuộc lãng du mới, chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi, sau khi đã dẹp yên được mọi đắn đo ngại ngùng, mời bạn vào Saint-Lazare, tòa nhà to rộng, sừng sững và rùng rợn phố Faubourg-Saint-Denis.
Không hề biết tấn thảm kịch đang diễn ra ở nhà mình, bà d’Harville đến nhà tù, sau khi đã hỏi bà de Lucenay được đôi điều về hai người đàn bà khốn khổ mà lòng tham lam vô độ của lão chưởng khế Jacques Ferrand đã đẩy họ vào cảnh tuyệt vọng.
Bà de Blainval, một trong những người bảo trợ công
cuộc đối với các nữ tù nhân trẻ, hôm đó không thể đi cùng với Clémence đến Saint-Lazare, nàng phải đến đấy một mình. Nàng được ông giám đốc đón tiếp niềm nở cùng với một số bà thanh tra, dễ nhận ra với các trang phục màu đen và dải băng xanh có gắn huy chương bạc đeo buông thõng trước ngực.
Một trong những bà thanh tra, một bà đã đứng tuổi, nét mặt trang nghiêm và hiền từ, đang đứng với bà d’Harville trong phòng khách nhỏ, thông với phòng thư ký.
Người ta không thể tưởng tượng được hết những gì tận tâm âm thầm, sáng suốt, mẫn cảm ở những con người đáng kính này, suốt đời làm cái nhiệm vụ khiêm nhường và lặng lẽ là quản giáo các nữ tù nhân.
Không có gì khôn ngoan, dễ thực hành bằng các khái niệm trật tự, lao động, bổn phận mà các bà đem lại cho các nữ tù nhân, với hy vọng những lời dạy dỗ ấy sẽ còn lại sau khi họ ra tù.
Vừa khoan hồng, vừa cứng rắn, nhẫn nại và nghiêm khắc, luôn luôn công bằng và vô tư, các bà ấy, do sự tiếp xúc thường xuyên nhiều năm với tù nhân, có được một thứ khoa học về diện mạo, các bà phán đoán họ khá chắc chắn từ ngay cái nhìn đầu tiên, xếp họ được ngay theo mức độ phẩm chất đạo đức.
Bà thanh tra Armand, người đang đứng với phu nhân d’Harville, là người có độ mẫn cảm cao nhất với tính tình của các nữ tù nhân. Lời nói và sự phán đoán của bà có uy
tín rất lớn.
Bà Armand nói với Clémence:
– Vì bà Hầu tước có nhờ tôi giới thiệu cho bà những tù nhân đáng được bà lưu ý bởi cách cư xử hoặc biết hối lỗi chân thành, tôi có thể gửi gắm bà một con người bất hạnh mà tôi thấy đáng thương hơn là có tội. Tôi nghĩ không lầm khi quả quyết rằng vẫn còn có thể cứu vớt được cô bé này, một cô bé khốn khổ, khoảng mười sáu, cùng lắm là mười bảy tuổi.
– Cô ấy làm gì mà bị giam giữ?
– Cô ấy phạm tội có mặt ở quảng trường Élysées vào buổi chiều. Đã có lệnh nghiêm cấm và trừng phạt nặng những cô gái như vậy không được phép lui tới, ban ngày, hoặc ban đêm một số nơi công cộng. Quảng trường Élysées nằm trong số những đường đi dạo bị cấm, do đó cô ấy bị giam giữ.
– Và bà thấy cô ấy đáng được lưu ý?
– Tôi chưa thấy ai có nét mặt thanh tú và hồn nhiên như thế. Thưa nữ Hầu tước, bà thử tưởng tượng một khuôn mặt nữ đồng trinh. Điều làm cho vẻ mặt ấy thêm sự khiêm nhường là hôm đến đây, cô ấy ăn mặc như một cô gái nông thôn vùng ngoại ô Paris.
– Vậy cô ấy là gái quê?
– Không, thưa bà. Các ông thanh tra đã nhận ra cô ấy. Cô ấy ở trong một quán liều của khu Nội Thành – nơi cô ấy đã vắng mặt trong khoảng hai, ba tháng. Nhưng vì cô ấy
không xin xóa tên khỏi sổ của Sở Cảnh sát, nên vẫn bị nhà cầm quyền bắt đến đây.
– Có thể cô ấy rời Paris để cố gắng tự cải tạo? – Thưa bà, tôi cũng nghĩ vậy, và đó là điều làm tôi chú ý. Tôi đã hỏi về quá khứ của cô ấy, rằng có phải cô ấy từ nông thôn lên đây không, hy vọng nếu đúng như thế, thì cô ấy còn muốn trở lại cuộc đời lương thiện.
– Cô ấy trả lời thế nào?
– Nhìn tôi bằng đôi mắt xanh to, buồn và đẫm lệ, cô ấy nói giọng rất mực dịu dàng: “Thưa bà, cảm ơn tấm lòng tốt của bà, nhưng con không thể nói được gì về quá khứ của mình. Người ta đã bắt con, con có tội. Con không phàn nàn gì.” – “Nhưng cô từ đâu đến đây? Cô ở đâu sau khi ra khỏi thành phố? Nếu cô về nông thôn để tìm một lối sống lương thiện thì cứ nói đi, làm rõ ra, ta sẽ cho viết giấy gửi ông cảnh sát trưởng thả cô ra. Người ta sẽ xóa tên cô trong sổ, khuyến khích cô đi vào đường đúng đắn.” – “Con van bà, bà đừng hỏi con, con không trả lời được.” – “Nhưng ra khỏi đây, cô lại muốn trở về với cái quán liều ấy à?” – “Ồ, không bao giờ!” Cô ấy kêu lên. “Thế cô sẽ làm gì?” – “Có trời mới biết”, cô ấy trả lời, đầu gục xuống.
– Lạ thật, cô ấy nói năng thế nào?
– Lời lẽ rất ngay ngắn, thưa bà. Thái độ rụt rè, lễ độ nhưng không thấp hèn. Hơn thế, mặc dù giọng nói và cái nhìn rất mực dịu dàng, nhưng đôi khi trong giọng nói, cử chỉ lại có một vẻ buồn rất quý phái, làm tôi ngạc nhiên, khó
hiểu. Nếu cô ấy không thuộc cái tầng lớp khốn khổ này, thì tôi nghĩ rằng niềm tự hào ấy là dấu hiệu của một tâm hồn ý thức được sự cao thượng của mình.
– Thật là cả một thiên tiểu thuyết! – Clémence nghe hết sức chăm chú và kêu lên, càng thấy đúng như lời Rodolphe, không gì vui bằng làm việc thiện. – Quan hệ của cô ấy với các nữ tù nhân khác thế nào? Nếu cô ấy có tâm hồn cao thượng như bà nghĩ, chắc cô ấy khổ sở lắm vì phải sống giữa những người bạn xấu xa?
– Lạy Chúa! Tôi nhận xét theo tình trạng và thói quen, thưa bà Hầu tước, cái gì ở người con gái này cũng đáng ngạc nhiên. Chỉ mới ba ngày thôi, cô ấy đã có sức ảnh hưởng đối với các nữ tù nhân.
– Chóng thế sao?
– Họ cảm thấy phải quan tâm và gần như kính trọng. – Sao? Những người khốn khổ ấy…?
– Đôi khi họ có một bản năng đặc biệt tế nhị để phát hiện, để đoán ra những phẩm chất cao quý của người khác. Có điều họ thường ghét những người mà họ buộc phải thừa nhận là hơn họ.
– Thế họ có ghét cô bé này không?
– Hoàn toàn không, thưa bà. Không ai quen cô gái này trước khi cô ấy vào đây. Lúc đầu họ chú ý vì sắc đẹp của cô ấy. Những đường nét thanh thoát lạ thường, lại nhuốm một màu xanh xao, ốm yếu, thật cảm động, khuôn mặt buồn và dịu dàng ấy khiến họ lưu ý hơn là ghen ghét. Cô ấy lại còn
rất lặng lẽ, thêm một điều để ngạc nhiên đối với những con người mà đa số chỉ tìm cách quên mình bằng tiếng ồn, lời nói và cử động. Cuối cùng, mặc dù đứng đắn và kín đáo, cô ấy lại tỏ ra biết thương cảm nên bạn bè không phải khó chịu vì thái độ lãnh đạm. Chưa hết. Đã một tháng nay, ở đây có một con người bất trị biệt danh là Sói Cái vì tính tình hung dữ, táo tợn, cục súc. Một cô gái hai mươi tuổi, cao lớn, rắn rỏi như nam giới, vẻ mặt khá đẹp nhưng cứng rắn. Chúng tôi nhiều khi buộc phải đem giam vào xà lim để trị tính hung hãn. Vừa đúng hôm kia, cô ta ra khỏi xà lim, còn tức tối vì bị giam giữ, lúc ấy là giờ ăn, cô gái mà tôi đang kể với bà không muốn ăn. Cô ấy buồn bã nói: “Ai muốn lấy suất bánh mì của tôi?” – “Tôi!”, Sói Cái nói đầu tiên. “Tôi!”, một con người gần như dị dạng tên là Mont-Saint-Jean nói tiếp. Chị ta là một thứ trò vui, một người để cho các tù nhân khác bỡn cợt, mặc dù có mặt chúng tôi, và mặc dù chị ta mang thai đã được vài tháng. Cô gái đem bánh mì cho người này, làm cho Sói Cái điên lên: “Tôi xin suất bánh mì của cô trước!” – “Đúng thế, nhưng chị ấy có thai, chị ấy cần hơn”, cô gái trả lời. Tuy thế, Sói Cái giật mẩu bánh mì khỏi tay Mont-Saint-Jean và bắt đầu thóa mạ, tay vung con dao. Vì Sói Cái rất hung dữ, ai cũng gờm, không ai dám bênh Sơn Ca mặc dù trong lòng ai cũng thấy cô đúng.
– Bà vừa nói cái tên gì thế?
– Sơn Ca, đó là tên, hay đúng hơn, biệt danh được ghi vào sổ tù của người mà tôi bảo trợ, và tôi cũng mong rằng
sẽ được bà bảo trợ. Hầu hết ai ở đây cũng có một cái tên mượn như thế.
– Tên gọi thật lạ lùng.
– Trong tiếng lóng quái gở của họ, nó có nghĩa là cô hát rong, bởi người ta nói cô ấy có giọng hát rất hay. Tôi tin như thế, bởi giọng của cô thật mê hồn.
– Thế cô ấy thoát được khỏi tay Sói Cái độc ác như thế nào?
– Càng giận dữ hơn vì sự bình tĩnh của Sơn Ca, Sói Cái chạy tới, miệng chửi, tay vung dao. Tất cả tù nhân kêu lên khiếp đảm, chỉ mình Sơn Ca nhìn mà không sợ con người đáng gờm ấy, mỉm cười chua chát, nói bằng giọng êm ái: “Ôi, chị giết em đi! Giết em đi! Em muốn thế… nhưng đừng làm em đau đớn quá!” Những lời nói ấy, theo lời người kể lại cho tôi nghe, được nói ra một cách giản dị và đau lòng, khiến tất cả tù nhân đều rưng rưng nước mắt.
Bà d’Harville cũng cảm thấy nghẹn ngào:
– Tôi cũng tin như thế!
Bà thanh tra nói tiếp:
– May thay, con người xấu nhất cũng có khi nghĩ lại. Nghe những lời nhẫn nhục đến xé lòng ấy, sau này Sói Cái mới nói ra, cô ta thấy xúc động đến tâm can, ném con dao xuống đất, giẫm lên la lớn: “Tôi hăm dọa cô là tôi sai, vì tôi khỏe hơn cô, cô không sợ lưỡi dao của tôi là cô can đảm. Tôi thích những người can đảm, cho nên từ nay ai đụng đến cô, tôi sẽ bảo vệ cô.”
– Tính khí lạ lùng thật!
– Câu chuyện Sói Cái càng làm tăng thêm ảnh hưởng của Sơn Ca và hiện nay, điều chưa từng có, hầu như không có tù nhân nào mày tao với cô ấy, đa số kính nể và giúp cô ấy trong từng việc nhỏ, những việc tù nhân có thể làm cho nhau. Tôi đã hỏi chuyện một số tù nhân cùng phòng để tìm hiểu nguyên nhân vì sao họ quý trọng cô ấy, họ trả lời: “Có cái gì đó mạnh hơn ý nghĩ của chúng tôi. Quả thật đó là một người không giống chúng tôi.” – “Ai nói điều đó với các chị?” – “Không ai cả, tự cảm thấy thôi.” – “Nhưng dựa vào đâu?” – “Vào hàng nghìn việc. Ngay như tối qua, trước khi đi ngủ, cô ấy quỳ và đọc kinh. Sói Cái nói cô ấy đọc kinh bởi cô ấy có quyền đọc.”
– Nhận xét kỳ lạ thật!
– Những người phụ nữ đau khổ này không có tí ý niệm nào về tôn giáo nhưng không bao giờ họ thốt một lời báng bổ, xúc phạm thánh thần. Bà sẽ thấy trong tất cả các phòng của nhà tù chúng tôi có những bàn thờ, tượng Đức Mẹ được trang trí và dâng lễ vật do họ làm ra. Mỗi Chủ nhật họ đốt nhiều nến làm lễ tạ ơn. Những người đi nhà thờ riêng ở đây, thái độ rất đúng mực. Nhưng nói chung, quang cảnh những thánh đường là nặng nề đối với họ, làm cho họ sợ. Trở lại chuyện Sơn Ca, các bạn tù của cô ấy còn nói: “Cô ấy khác chúng tôi ở vẻ mặt hiền lành, buồn bã, ở lời nói…” Chợt Sói Cái đang nghe chuyện, nói xen vào: “Còn điều này nữa, đúng là cô ấy không giống chúng tôi. Bởi vì sáng nay, trong
phòng ngủ, không hiểu sao chúng tôi thấy ngượng khi thay quần áo trước mặt cô ấy.”
– Một điều tế nhị kỳ quặc giữa bao cảnh sa đọa! – Bà d’Harville kêu lên.
– Đúng, thưa bà, trước đàn ông và giữa họ với nhau, họ không biết ngượng ngùng nhưng lại không khỏi bẽn lẽn khi bị chúng tôi hoặc những người từ thiện như bà đến thăm, bắt gặp họ ăn mặc hở hang. Thành thử cái bản năng thẹn thùng sâu kín mà Chúa đã ban cho chúng ta, ngay ở những người như vậy, cũng chỉ lộ ra với những người mà họ kính nể.
– Cũng đáng mừng khi thấy một số cảm xúc tốt còn mạnh hơn sự sa đọa.
– Đúng thế, những người phụ nữ này biết tỏ ra tận tâm, khi sự tận tâm đó được đặt đúng chỗ thì rất đáng quý. Còn có một tình cảm thiêng liêng đối với những người không biết kiêng sợ gì cả. Đó là tình mẫu tử, họ thấy tự hào, thấy rất vui. Không người mẹ nào tốt hơn thế, họ không quản ngại bất cứ điều gì nếu được giữ con bên mình. Để nuôi con, họ giành cho họ những hy sinh lớn nhất. Bởi vì như họ đã nói, chỉ có đứa bé ấy không khinh họ.
– Như vậy họ cũng tự giác sâu sắc về sự xấu xa của mình.
– Người ta khinh họ không bằng họ tự khinh mình. Ở một số người hối lỗi chân thành, cái vết nhơ xấu xa ban đầu ấy không thể xóa được, dẫu họ có được điều kiện sống tốt hơn.
Có người hóa điên vì bị ám ảnh khôn nguôi bởi sự nhơ nhuốc ấy. Bởi vậy, thưa bà, tôi không lấy làm lạ nếu nỗi buồn sâu sắc của Sơn Ca lại do sự hối hận như thế gây ra.
– May thay cho loài người, thưa bà, những sự ăn năn hối lỗi như thế lại nhiều hơn ta tưởng. Ý thức đòi trừng phạt không bao giờ ngủ yên hoàn toàn, hay đúng hơn, thật là điều kỳ lạ, có thể nói đôi khi linh hồn thức trong lúc thể xác thiếp đi. Đó là điều mà tối qua tôi đã nghiệm thấy một lần nữa ở con người mà tôi vẫn săn sóc này.
– Ở Sơn Ca?
– Vâng, thưa bà.
– Như thế nào?
– Khi các tù nhân đã yên giấc, tôi thường đi một vòng trong phòng ngủ. Bà không tưởng tượng được vẻ mặt của họ biến đổi thế nào trong giấc ngủ đâu. Khá nhiều người trong số họ ban ngày vô tư lự, chanh chua, ngổ ngáo, táo tợn, tôi thấy hoàn toàn thay đổi khi giấc ngủ tước mất những gì cố tình trên nét mặt. Bởi, hỡi ôi, cái xấu cũng có tính tự cao của nó. Ô, thưa bà, bao nhiêu điều đáng buồn bộc lộ trên những khuôn mặt lúc đó mệt nhọc, rã rời, u tối. Bao nhiêu điều phải rùng mình! Bao nhiêu tiếng thở dài đau đớn thốt ra không tự giác từ những giấc mơ mang dấu ấn một sự thật nghiệt ngã! Lúc nãy tôi nói với bà về cô gái có biệt danh Sói Cái, một cô gái hoang tàn, bất trị. Mới đây chừng nửa tháng, cô ta chửi tôi tàn tệ trước mặt tất cả tù nhân. Tôi nhún vai, sự thản nhiên của tôi làm cô ta điên lên.
Chắc là để xúc phạm tôi đau hơn, cô ta tệ đến mức chửi cả mẹ tôi thường đến thăm tôi ở đây.
– Thực quá tệ!
– Thú thật là dù biết chửi như thế là vô lý, cô ta đã làm tôi tổn thương. Sói Cái thấy điều đó và cho là thắng lợi. Vào khoảng nửa đêm hôm đó, tôi đi tuần tra phòng ngủ. Tôi lại gần giường cô ta, ngày mai cô ta mới bị nhốt vào xà lim. Tôi ngạc nhiên thấy nét mặt của cô ta gần như hiền lành, so với sự đanh đá, láo xược thường ngày, những đường nét như van lơn, đượm buồn, ăn năn, hối tiếc. Môi hé mở, ngực như tức thở, và điều tôi không tưởng tượng được ở cô ta, hai giọt nước mắt lớn chảy ra từ đôi con ngươi sắt đá! Tôi yên lặng nhìn trong mươi phút thì nghe cô ta thốt ra mấy lời: “Xin lỗi… Xin lỗi! Bà ấy…” Tôi lắng nghe chăm chú hơn, nhưng trong tiếng thì thầm không rõ, tôi chỉ nghe được tên tôi… bà Armand… nói với tiếng thở dài.
– Trong giấc ngủ, cô ta hối hận vì đã xúc phạm bà… – Tôi cũng nghĩ thế. Và điều này làm tôi bớt nghiêm khắc đi. Hẳn là trước mặt bạn tù, cô ta muốn huênh hoang khuếch đại tính thô lỗ sẵn có của mình, thật là khốn khổ. Có thể một bản năng tốt khiến cô ta biết hối hận trong giấc ngủ.
– Thế hôm sau, cô ta có tỏ ra hối tiếc gì với bà không? – Tuyệt nhiên không. Cô ta vẫn thô lỗ, táo tợn, hung hăng. Tôi xin cam đoan với bà không có gì khơi gợi tình thương bằng những điều quan sát tôi vừa nói với bà. Có thể
là ảo tưởng, nhưng tôi tin rằng trong giấc ngủ, những con người khốn khổ ấy trở lại tốt hơn, hay nói đúng hơn, trở lại là chính mình với tất cả các tính xấu, đã đành, nhưng đôi khi cũng với một vài bản năng tốt, lúc này không bị che giấu bởi sự khoác lác đáng ghét. Từ những nhận xét này, tôi đi đến kết luận, những con người này không đến nỗi xấu như họ tỏ ra. Tin tưởng như vậy nên trong việc giáo dục, tôi thường đạt được những kết quả, mà nếu hoàn toàn tuyệt vọng về họ, tôi sẽ không thể có được.
Bà d’Harville không giấu được sự ngạc nhiên khi thấy bao nhiêu lương tri, lý trí cao siêu, kết hợp với những tình cảm nhân đạo, rất cao cả lại rất thực tiễn có được ở một nhà giáo dục bình thường vô danh như vậy.
– Bà phải can đảm lắm, có đức độ lắm, – Clémence nói sau vài phút in lặng – mới không lùi bước trước một công việc bạc bẽo, chỉ đem lại những niềm vui hiếm hoi!
– Không đâu, tôi quả quyết với bà như vậy. Những điều tôi làm, nhiều người khác làm còn thành công hơn và thông minh hơn. Một bà thanh tra ở khu phố Saint-Lazare, trông coi tội phạm hình sự, đáng được bà chú ý hơn. Bà ấy nói với tôi, sáng nay mới bắt một cô gái bị buộc tội giết con. Tôi chưa bao giờ nghe một câu chuyện đau lòng như vậy. Cha của cô gái khốn khổ này, một người thợ mài ngọc lương thiện, đã hóa điên vì đau khổ khi biết cái việc điếm nhục của con gái mình. Hình như không còn cảnh khổ nào bằng gia đình ấy, cư trú ở tầng sát mái một ngôi nhà trên phố
Temple.
– Phố Temple! – Bà d’Harville ngạc nhiên kêu lên. – Người thợ ấy tên gì?
– Con gái ông ta tên là Louise Morel.
– Đúng rồi!
– Cô ấy làm việc ở nhà một ông chưởng khế đáng kính, ông Jacques Ferrand.
Clémence đỏ mặt:
– Gia đình khốn khó đó đã được giới thiệu cho tôi. Nhưng tôi không ngờ lại còn thêm một tai họa khủng khiếp như vậy. Còn Louise Morel…
– Cô ấy kêu vô tội. Cô ấy thề là đứa bé đã chết. Lời nói của cô ấy có vẻ thật. Thưa bà Hầu tước, vì bà đã quan tâm đến gia đình này, nếu bà chiếu cố đến thăm cô ấy, tấm lòng nhân hậu của bà sẽ làm dịu bớt nỗi thất vọng hãi hùng của tội nhân.
– Chắc chắn tôi sẽ đến. Ở đây tôi có hai người để bảo trợ chứ không phải một. Louise Morel và Sơn Ca. Bởi tất cả những điều bà nói về Sơn Ca làm tôi xúc động vô cùng. Nhưng phải làm gì để cô ấy được tự do? Sau đó tôi sẽ tìm việc và lo cho tương lai của cô ấy.
– Thưa bà Hầu tước, với những quan hệ rộng rãi của bà, bà dễ dàng xin cho cô ấy ra khỏi nhà tù, chỉ một sớm một chiều thôi. Điều đó hoàn toàn tùy thuộc ý ông cảnh sát trưởng. Lời gửi gắm của một bậc đáng tôn kính sẽ có tác
dụng quyết định đối với ông ta. Nhưng câu chuyện của tôi đã đi quá xa vấn đề Sơn Ca rồi. Tôi thú thật với bà là tôi không ngạc nhiên khi thấy ở cô ấy, ngoài nỗi xót xa về sự ô uế buổi đầu, còn một mối ân hận khác cũng không kém day dứt.
– Bà muốn nói gì, thưa bà?
– Có lẽ tôi lầm chăng? Nhưng tôi không ngạc nhiên rằng cô gái này, ra khỏi sự sa đọa, không rõ trong hoàn cảnh nào, lại còn mang một mối tình chân thật vừa hạnh phúc, vừa đau khổ giày vò cô ấy.
– Vì lẽ gì mà bà tin như vậy?
– Tối qua, khi đi tuần tra phòng ngủ, tôi lại gần giường Sơn Ca, cô ấy ngủ say. Tôi cảm động ngắm khuôn mặt đẹp một cách thần tiên ấy, bỗng tôi nghe thấy rất khẽ, bằng giọng tôn kính, buồn và say đắm, cô ấy gọi tên một người. Và tôi chỉ có thể nói cái điều bí ẩn ấy với bà, cái tên ấy là Rodolphe.
Phòng ngủ của các nữ tù nhân
Bà d’Harville nghĩ đến Hoàng thân và kêu lên:
– Rodolphe!
Nhưng nghĩ cho cùng Đức ông Đại công tước xứ Gerolstein không liên quan gì đến ông Rodolphe của Sơn Ca. Nàng nói với bà thanh tra đang ngạc nhiên vì tiếng thốt của mình:
– Thưa bà, cái tên ấy làm tôi ngạc nhiên bởi sự tình cờ lạ lùng, một người bà con của tôi cũng có tên như vậy. Nhưng những điều bà cho tôi biết về Sơn Ca càng làm tôi chú ý hơn. Tôi có thể gặp cô ấy hôm nay, lát nữa, được không?
– Được quá, thưa bà. Nếu bà muốn, tôi sẽ đi tìm cô ấy. Tôi cũng muốn biết thêm tin tức về Louise Morel, ở bộ phận bên kia của nhà tù.
– Cảm ơn bà. – Bà d’Harville trả lời, đứng lại một mình.
CHƯƠNG VII
CHỊ MONT-SAINT-JEAN
Đồng hồ ở nhà giam Saint-Lazare điểm hai tiếng. Mấy hôm trước trời lạnh, hôm nay thời tiết ấm dịu, giống như mùa xuân, tia nắng phản chiếu trong nước một cái bể vuông lớn, gờ trên xây bằng đá, nằm giữa cái sân có trồng cây và bao quanh bởi những tường cao, đen sạm, có nhiều ô cửa sổ che mạng lưới. Những ghế dài bằng gỗ đóng chặt xuống đất, rải rác đó đây trong khoảng sân rộng lát đá, có tường bao quanh, là nơi đi dạo của nữ tù nhân. Tiếng chuông leng keng báo hiệu giờ ra chơi, tù nhân ùa ra từ cái cửa dày dặn, cửa này có một cửa con, che lưới ở phía trên.
Những người đàn bà này ăn mặc giống nhau, mũ trùm đen nhọn, áo choàng dài, vải len xanh, thắt lưng có khóa sắt. Họ là hai trăm gái điếm bị giam vì đã vi phạm các luật lệ và bị đặt ngoài vòng pháp luật.
Thoạt nhìn họ chẳng có gì đặc biệt, nhưng nhìn kĩ hơn, người ta nhận thấy hầu hết những khuôn mặt đó có hằn dấu vết hầu như không xóa được của tội lỗi và nhất là sự u mê, đần độn, do nghèo khó và dốt nát gây ra.