🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Mật Của Những Bí Mật Quyển 1
Ebooks
Nhóm Zalo
OSHO
Bí mật của các bí mật Bài nói về
Bí mật của Hoa Vàng Tập 1
HÀ NỘI - 10/2013
OSHO
The Secret of Secrets
Talks on the Secret of the Golden Flower
Volume 1
Mục lục
Chương 1 Bí mật của thuật sinh ............................................... 1 Chương 2 Mắt rỗng ................................................................. 39 Chương 3 Khoảnh khắc nguyên tử......................................... 73 Chương 4 Tôi ngụ ý công việc ở đây! ................................... 111 Chương 5 Lại là Một.............................................................. 147 Chương 6 Sinh cùng vui vẻ................................................... 183 Chương 7 Vặn chìa khoá ...................................................... 219 Chương 8 Cái thực là luôn có ............................................... 259 Chương 9 Đang trong phép màu .......................................... 297 Chương 10 Tổng hợp Zorba-Phật......................................... 335 Chương 11 Cái toàn thể và vòng tròn thiêng ........................ 367 Chương 12 Tạo ra cân bằng ................................................. 407 Chương 13 Tâm lắng nghe ................................................... 443 Chương 14 Con người mới................................................... 481 Chương 15 Bên ngoài lười nhác và sao lãng ....................... 515 Chương 16 Trong hồ của trống rỗng..................................... 553 Về Osho................................................................................. 587
i
ii
Chương 1
Bí mật của thuật sinh
Osho ơi,
Thầy Lữ tử nói:
Cái tự tồn tại là Đạo. Đạo là vô danh vô hình. Nó là cái Một tinh tuý, cái một Thái cực. Tinh và Sinh không thể thấy được. Chúng trong thiên quang. Thiên quang không thể thấy được. Nó được chứa trong hai mắt.
Thái cực là tên của cái vô thượng. Mật dụng của thuật sinh là dùng vi đạt tới vô vi.
Hoa Vàng là ánh sáng. Dụng của Hoa Vàng là biểu tượng. Câu “Để thượng thuỷ cần nếm trải” nói tới điều đó.
Luân quang tuỳ vào chuyển động chảy ngược, khiến ý tụ. Thiên tâm ở giữa nhật nguyệt.
Sách Hoàng Thành viết: “Trên một thốn vuông của nhà một bộ vuông, Sinh có thể được điều tiết.” Giữa thốn vuông ngụ huy hoàng. Giữa tử phòng trong ngọc thành, Thần Toàn Hư và Sinh cư ngụ. Vậy nên khi luân quang, lực toàn thân hiện trước
1
ngai vàng, như, khi vua thiêng lập kinh và ban yếu lệnh, chư hầu vào triều cống; hay như, khi chủ yên tĩnh và bình thản, kẻ hầu nam nữ tuân lệnh theo cách của họ, từng kẻ làm việc của mình.
Do đó ông chỉ phải làm luân quang; đó là mật pháp sâu nhất và kì diệu nhất. Quang dễ luân, nhưng khó trụ. Nếu luân đủ lâu, tự nó tụ. Đó là tình cảnh của câu: “Ông lặng thăng buổi sáng.”
Khi làm yếu pháp này ông không cần tìm bí kíp khác, chỉ phải tụ ý vào nó. Bằng tụ ý, ông có thể thăng và sẽ được sinh trên thiên giới.
Hoa Vàng là thuốc trường sinh bất lão. Tuy nó dụng công chính xác, vậy mà linh động tới mức để hiểu nó cần cực minh và tuệ, và biết toàn hấp và yên bình nhất. Kẻ vô thượng minh và tuệ này, không tìm được cách; kẻ vô thượng thừa để hấp thu và yên bình, không giữ được nó.
Một chuyện ngụ ngôn.
Ngày xưa có một thuật sĩ rất giầu, có rất nhiều cừu. Nhưng đồng thời thuật sĩ này lại rất hà tiện. Ông ta không muốn thuê người chăn cừu, cũng chẳng muốn dựng hàng rào quanh bãi cỏ nơi cừu ăn cỏ. Cừu thường đi lang thang vào rừng, rơi xuống hẻm núi, và cứ thế, và trên hết tất cả chúng chạy mất, vì chúng biết thuật sĩ muốn dùng thịt và da của chúng, và điều này chúng không thích.
Cuối cùng thuật sĩ tìm ra một biện pháp. Ông ta thôi miên lũ cừu và gợi ý cho chúng trước hết rằng chúng là bất tử và chẳng điều hại nào được làm với chúng khi chúng bị thuộc da, rằng ngược lại, điều đó sẽ là rất tốt cho chúng và thậm chí còn là vui thú.
2
Thứ hai, ông ta gợi ý rằng thuật sĩ là chủ tốt, người yêu bầy cừu của mình nhiều tới mức ông ta sẵn sàng làm bất kì cái gì trên thế giới cho chúng. Và ở chỗ thứ ba, ông ta gợi ý cho chúng rằng nếu bất kì cái gì sẽ xảy ra cho chúng, điều đó sẽ không xảy ra ngay lúc đó đâu, dù sao đi chăng nữa cũng không vào ngày đó, và do đó chúng chẳng cần nghĩ về điều đó.
Hơn nữa, thuật sĩ gợi ý với cừu rằng chúng không phải là cừu chút nào. Với một số con trong chúng, ông ta gợi ý rằng chúng là sư tử, với số khác chúng là đại bàng, với số khác chúng là người, và với số khác chúng là các thuật sĩ.
Và sau điều này, mọi chăm nom và lo lắng của ông ấy về cừu đi tới kết thúc. Chúng không bao giờ chạy đi nữa mà yêu tĩnh chờ đợi tới lúc thuật sĩ cần thịt của chúng và da của chúng.
George Gurdjieff thích chuyện ngụ ngôn này lắm. Toàn thể triết lí của ông ấy được hàm chứa trong chuyện ngụ ngôn nhỏ này. Và chuyện ngụ ngôn này đại diện cho con người trong trạng thái bình thường của vô thức. Nó là một trong những minh hoạ hay nhất về con người như con người vậy: người là máy.
Con người được sinh ra là không là máy, nhưng con người sống như máy và chết như máy. Con người có hạt mầm của việc nở hoa vĩ đại của tâm thức, con người có khả năng trở thành Thượng đế. Nhưng điều đó không xảy ra. Nó không xảy ra bởi vì con người đã bị thôi miên - bởi xã hội, bởi nhà nước, bởi nhà thờ có tổ chức, bởi các quyền lợi được đầu tư. Xã hội cần nô lệ, và con người có thể vẫn còn là nô lệ chỉ nếu con người không được phép trưởng thành trong việc nở hoa tối cao của mình. Xã hội cần thịt của bạn và da của bạn và một cách tự nhiên
3
không ai thích điều đó. Do đó toàn thể quá trình xã hội hoá, văn minh hoá, không là gì ngoài thôi miên sâu.
Con người đang bị thôi miên từ chính khoảnh khắc được sinh ra. Con người bị thôi miên: rằng xã hội tồn tại vì quí mến người đó, vì cái tốt cho người đó. Điều đó là hoàn toàn sai. Con người bị thôi miên: rằng con người là bất tử. Con người không phải vậy. Con người có thể bất tử, nhưng con người đang không bất tử. Và nếu thôi miên còn dai dẳng con người sẽ không bao giờ bất tử cả.
Bạn sống chỉ như một sinh linh hữu tử vì bạn sống trong thân thể. Thân thể sẽ chết. Cái được sinh ra nhất định sẽ chết đi; sinh là bắt đầu của thân thể và chết là kết thúc. Bạn có biết cái gì nhiều hơn thân thể trong bạn không? Bạn có kinh nghiệm được cái gì cao hơn thân thể, sâu hơn thân thể không? Bạn có thấy cái gì trong bạn mà thậm chí còn có trước cả khi bạn được sinh ra không? Nếu bạn đã thấy cái đó, thế thì bạn là bất tử. Nếu bạn biết mặt bạn, mặt nguyên thuỷ của bạn, mặt mà bạn có trước khi bạn được sinh ra, thế thì bạn biết bạn sẽ có đó sau cái chết nữa; ngược lại thì không đâu.
Con người có thể bất tử, nhưng con người sống bị bao quanh bởi cái chết bởi vì con người sống bị đồng nhất với thân thể. Xã hội không cho phép bạn biết nhiều hơn thân thể bạn. Xã hội quan tâm chỉ tới thân thể bạn; thân thể bạn có thể được đưa vào sử dụng, linh hồn bạn là nguy hiểm. Con người của linh hồn bao giờ cũng nguy hiểm vì con người của linh hồn là người tự do, người đó không thể bị thu lại thành nô lệ. Người có linh hồn bất tử trong mình thì có cam kết sâu hơn với bản thân sự tồn tại, với bản thân Thượng đế. Người đó không quan tâm chút nào tới các cấu trúc nhân tạo của xã hội, văn minh và văn hoá; đây là các xà lim nhà tù cho người đó. Người đó không tồn tại như một người Ki tô giáo hay người Hindu
4
hay người Mô ha mét giáo. Người đó không thể là một phần của đám đông. Người đó tồn tại như một cá nhân.
Thân thể là một phần của đám đông, linh hồn bạn thì không. Linh hồn bạn có tính cá nhân sâu sắc. Hương vị của nó là hương vị của tự do. Nhưng linh hồn bạn không thể bị đưa vào sử dụng ở bãi chợ. Xã hội chỉ cần thân thể bạn. Và điều rất nguy hiểm cho xã hội là bạn bắt đầu phấn đấu vì linh hồn, bởi vì thế thì mối quan tâm của bạn thay đổi. Bạn biến từ người hướng ngoại thành người hướng nội; bạn bắt đầu đi vào trong. Xã hội là bên ngoài, xã hội muốn bạn vẫn còn là người hướng ngoại - quan tâm tới tiền, quyền, danh, và mọi cái đó - để cho năng lượng của bạn cứ đi ra ngoài. Nếu bạn bắt đầu đi vào trong, điều đó nghĩa là bạn đã trở thành một kẻ bỏ dở, bạn không còn là một phần của trò chơi đang được chơi ở bên ngoài. Bạn không thuộc vào nó. Bạn bắt đầu chìm sâu vào bên trong hiện hữu riêng của bạn. Và có cội nguồn của tính bất tử.
Xã hội ngăn cản bạn đi vào trong. Và cách tốt nhất là trao cho bạn một ý tưởng giả rằng bạn đang đi vào trong. Thuật sĩ bảo với cừu rằng chúng là sư tử, đã gợi ý cho chúng rằng chúng là bất tử, đã thôi miên chúng vào việc tin rằng chúng không chỉ là người mà chúng là các thuật sĩ vĩ đại.
Khi bạn đi tới nhà thờ bạn không đi vào trong, khi bạn đi tới đền chùa, bạn không đi vào trong đâu. Nhưng xã hội đã thôi miên bạn để tin rằng nếu bạn muốn đi vào trong, thì đi vào nhà thờ. Nhưng nhà thờ cũng có tính bên ngoài nhiều như bất kì cái gì khác. Xã hội đã thôi miên bạn để tin rằng nếu bạn muốn đi vào trong, thì đi tới tu sĩ. Và tu sĩ là đại lí của nhà nước và xã hội. Tu sĩ bao giờ cũng chống lại các nhà huyền môn, vì nếu bạn đi tới nhà huyền môn bạn sẽ bắt đầu đi vào trong.
5
Nhà huyền môn sống theo cách khác toàn bộ. Năng lượng của ông ấy có động thái khác: dòng sông của ông ấy đi vào trong. Cho nên người đi tới nhà huyền môn, rơi vào hoà điệu với nhà huyền môn, sẽ bắt đầu đi vào trong một cách tự nhiên, đơn giản, tự phát. Đó là toàn thể mục đích của việc ở cùng thầy, cùng nhà huyền môn.
Cuốn sách này, Bí mật của Hoa Vàng, là một trong những bản luận bí truyền nhất trên thế giới. Nó sẽ chỉ cho bạn cách trở nên nhiều hơn thân thể. Nó sẽ chỉ cho bạn cách đi ra ngoài cái chết. Nó sẽ chỉ cho bạn cách nở hoa -
cách không còn là hạt mầm mà trở thành hoa vàng - điều ở Ấn Độ chúng ta đã gọi là hoa sen một nghìn cánh, ở Trung Quốc họ gọi là hoa vàng. Nó là biểu tượng.
Hoa đại diện cho sự hoàn hảo, tính toàn bộ. Hoa đại diện cho cách diễn đạt tối cao nhất về tiềm năng, việc hiện thực hoá của tiềm năng. Hoa đại diện cho cái đẹp, cái vĩ đại, cái huy hoàng của hiện hữu. Và chừng nào bạn còn chưa trở thành hoa sen một nghìn cánh hay hoa vàng....
Nhớ lấy, bạn phải đi xa. Nhớ lấy, rằng bạn phải thoát ra khỏi các cái bẫy mà xã hội đã cài quanh bạn. Nhớ lấy, rằng bạn vẫn chưa làm công việc mà vì nó bạn đã tới trái đất này. Nhớ lấy, bạn mới chỉ là hạt mầm, chưa là linh hồn.
Bản luận này, Bí mật của Hoa Vàng, là rất cổ đại - có thể là một trong những bản luận cổ đại nhất trên thế giới - chắc chắn đã cổ hai mươi nhăm thế kỉ, nhưng khả năng là ở chỗ nó còn cổ hơn thế nữa. Nhưng hai mươi nhăm thế kỉ có thể được dõi vết lại rất dễ dàng. Và bản luận này cũng là sự tổng hợp lớn lao của mọi tôn giáo lớn. Điều đó là hiếm hoi, duy nhất. Kinh Thánh thuộc về người Ki tô giáo, Talmud thuộc về người Do Thái, Vedas
6
thuộc về người Hindu, Dhammapada thuộc về Phật tử, Đạo Đức Kinh thuộc về Đạo nhân. Nhưng cuốn sách nhỏ này, Bí mật của Hoa Vàng, không thuộc về ai đặc biệt, hay nó thuộc về tất cả mọi người.
Nó được dựa sâu sắc vào các giáo huấn Đạo, nó là việc nở hoa của cách tiếp cập Đạo tới cuộc sống và sự tồn tại. Nhưng nó không chỉ có điều đó - Zarathustra đã đóng một vai trò; giáo huấn của Zarathustra đã từng được tổ hợp vào trong nó. Giáo huấn Phật giáo cũng đã được tổ hợp vào trong nó, và một trường phái bí truyền nào đó cua người Ki tô giáo, người Nestorian, họ cũng đóng vai trò của mình. Cho nên Ki tô giáo và Do Thái giáo cũng đã trở thành một phần của nó.
Nó là một trong những cách tiếp cận tổng hợp nhất. Nó tổ hợp mọi cái đẹp trong mọi tín ngưỡng của thế giới. Trong hàng thế kỉ nó đã chỉ được truyền miệng và cuốn sách này vẫn còn bí truyền. Nó không sẵn có cho công chúng vì nó có cái gì đó rất bí mật để dạy; nó đã sẵn có chỉ cho các đệ tử. Thầy sẽ nói nó cho đệ tử chỉ khi thời gian đã chín, bởi vì nó cho bạn bí mật tiềm năng tới mức nếu bạn không hiểu đúng, nếu bạn làm cái gì đó sai với nó, nhất định có tác động hại từ nó. Nó phải được hiểu đúng, và nó phải được làm việc chỉ trong sự hiện diện của thầy. Nó là phương pháp mạnh mẽ - nó mạnh như năng lượng nguyên tử.
Bây giờ các bí mật của năng lượng nguyên tử được giữ kín với công chúng. Một khi chúng bị rò rỉ ra cho công chúng thì sẽ có nguy hiểm lớn. Nếu mọi người có thể chế tạo bom nguyên tử một cách riêng tư, nhất định có hỗn độn lớn. Bí mật lớn được duy trì về nghiên cứu nguyên tử. Đích xác theo cùng cách đó cuốn sách này dạy bạn một trong những phương pháp tiềm năng nhất của sự bùng nổ bên trong. Trong nhiều thế kỉ bí mật này đã được
7
canh giữ - chỉ được trao cho các đệ tử ở chỗ riêng tư, trong sự thân thiết - và những người theo trường phái đặc biệt bí truyền này đã chống lại mọi cám dỗ để viết cuốn sách này. Thực ra, mọi tôn giáo của thế giới đều đã chống lại lâu dài việc viết các giáo huấn tâm linh của họ ra.
Có cái hay nào đó khi cái gì đó được truyền miệng. Nó là sống động, một điều - thầy ở đằng sau nó. Nó không phải là lời chết, nó là lời có hồn, có cánh. Kinh nghiệm của thầy hỗ trợ cho nó, thầy là nhân chứng cho nó. Nó không chỉ là suy đoán, không chỉ là triết lí, mà là cái gì đó có tính tồn tại, được kinh nghiệm, được sống. Và thầy đã đi trên con đường này - thầy biết nguy hiểm của con đường này, thầy biết những cạm bẫy, thầy biết những điểm tại đó mọi người đi lạc lối - và thầy sẽ làm mọi chăm nom để cho đệ tử không thể đi lạc lối.
Bạn càng tới gần chân lí, càng có khả năng đi lạc lối, bởi vì khi bạn tới gần chân lí hơn, bạn có thể trở nên rất bản ngã, tưởng rằng, “Bây giờ ta biết rồi,” rằng “Bây giờ ta đây.” Và nếu bản ngã khai thác tình huống này bạn sẽ rơi lại vào trong thung lũng tối cũ của bạn, bạn sẽ mất đỉnh cao. Khi bạn tới gần chân lí hơn, ham muốn lớn nảy sinh để chia sẻ nó với mọi người. Nhưng bạn đã không đạt tới nó trong tính toàn thể của nó và điều nguy hiểm là chia sẻ chân lí một nửa bởi vì chân lí một nửa còn nguy hiểm hơn dối trá, vì chúng mạnh mẽ. Dối trá bất lực. Sớm hay muộn mọi người sẽ tự thấy rằng nó là dối trá. Nhưng chân lí một nửa có thể còn dai dẳng hàng thế kỉ, có thể có tác động trong nhiều thế kỉ.
Không ai có thể đạt tới qua chân lí một nửa. Và người đi nửa đường sẽ không thuộc vào thế giới này không thuộc vào thế giới kia. Người đó sẽ ở trong sự lấp lửng, và đó là tình huống rất kì lạ để ở vào: bạn mất cái cũ và bạn không thu được cái mới; bạn trở thành hỗn độn.
8
Trật tự cũ mất rồi và trật tự mới chưa xảy ra. Bạn trở thành đám mây, bạn trở nên hoang mang. Thay vì trở nên sáng tỏ hơn, thay vì trở nên sống động hơn, thay vì trở nên đầy ánh sáng hơn, cuộc sống của bạn trở thành xung đột giữa hai cực. Bạn bị kéo theo từng mảnh, bạn bắt đầu rơi vào các mảnh mẩu. Một nửa bạn thuộc về đất và một nửa bạn thuộc về trời. Bây giờ bạn chẳng ở đâu cả. Bây giờ bạn là không ai cả. Điều này có thể tạo ra điên khùng. Cho nên trong nhiều thế kỉ Bí mật của Hoa Vàng đã chỉ được truyền miệng.
Thứ hai, với truyền thống truyền khẩu cuốn sách này bao giờ cũng còn sống động. Đó là cách nó trở thành sự tổng hợp. Về căn bản nó được sinh ra trong bầu không khí Đạo của Trung Quốc. Nhưng thế rồi Bồ đề đạt ma tới Trung Quốc - một thầy mới, với thông điệp mới từ Ấn Độ, thông điệp của Phật. Và những người đã theo Bí mật của Hoa Vàng đã là những người rất cởi mở; họ không phải là một phần của bất kì nhà thờ đã thiết lập nào. Họ có thể lập tức thấy rằng Bồ đề đạt ma cũng có nó - điều đó rõ ràng thế, biểu lộ thế. Họ đã cho phép giáo huấn của Bồ đề đạt ma được là một phần của giáo huấn của họ. Và cùng điều đó đã xảy ra cho các thầy Zoroastria, với phái Nestorian của Ki tô giáo: lặp đi lặp lại cái gì đó tới Trung Quốc, và nếu nó xứng đáng nó được tổ hợp vào.
Giáo huấn truyền miệng vẫn còn sống, tăng trưởng, như dòng sông. Những dòng nước mới tới và trở thành một phần của nó. Một khi một giáo huấn được viết ra, thế thì nó không thể tổ hợp thêm cái gì nữa. Thế thì nó trở thành cứng nhắc, nó mất tính linh động; nó trở thành chết, nó là cái xác. Bây giờ Bí mật của Hoa Vàng không còn tăng trưởng; trong nhiều thế kỉ nó đã không tăng trưởng. Vì nó đã được viết ra nó đã không tăng trưởng.
9
Tại sao tôi đã chọn nói về nó? - để cho nó có thể vẫn tăng trưởng. Nó là thông điệp hay thế cho thế giới, nó không nên chết. Tôi muốn làm sống lại nó. Và bây giờ tôi có thể nói với những người là đệ tử, người đã tới tôi và người đã sẵn sàng chết đi để được tái sinh, người sẵn sàng chết đi để nở hoa. Hạt mầm này phải chết đi, chỉ thế thì nó mới có thể tăng trưởng; hạt mầm này phải biến mất, chỉ thế thì cây mới có thể xảy ra.
Tôi sẽ nói cho bạn về cuốn sách nhỏ này nhưng có giá trị mênh mông để cho cuốn sách có thể trở thành sống lần nữa. Nó có thể trở thành sống động giữa tôi và bạn. Nó có thể lại bắt đầu tuôn chảy. Và nó có cái gì đó quan trọng mênh mông. Nếu bạn hiểu nó và nếu bạn thực hành nó, bạn sẽ được giầu có.
Nhưng điều đầu tiên để hiểu là: nhớ rằng bạn đã bị thôi miên, và bạn phải trải qua quá trình giải thôi miên. Nhớ rằng bạn đã từng bị ước định và bạn phải được giải ước định. Nhớ rằng chết đang tới. Đừng tưởng rằng nó không xảy ra hôm nay; nó có thể xảy ra bất kì lúc nào.
Thực ra, mọi điều xảy ra bao giờ cũng xảy ra bây giờ. Hạt mầm chết đi bây giờ, nụ trở thành hoa bây giờ, chim bắt đầu kêu bây giờ. Mọi thứ đã từng xảy ra đều chỉ xảy ra trong không gian được làm thành sẵn có bởi bây giờ, khoảnh khắc này. Không cái gì đã bao giờ xảy ra trong quá khứ và không cái gì đã bao giờ xảy ra trong tương lai. Mọi thứ xảy ra bao giờ cũng xảy ra trong hiện tại - đó là cách duy nhất cho mọi thứ xảy ra bởi vì hiện tại là thời gian duy nhất có đó.
Quá khứ chỉ là kí ức của bạn và tương lai chỉ là tưởng tượng của bạn. Nhưng bạn đã từng bị thôi miên để sống trong quá khứ và bạn đã từng bị thôi miên để sống trong tương lai: Chọn đi, hoặc quá khứ hoặc tương lai.
10
Nhưng không xã hội nào cho phép bạn sống trong hiện tại.
Người Ki tô giáo và người Hindu và người Mô ha mét giáo - họ ước định bạn sống trong quá khứ. Thời đại vàng của họ là trong quá khứ. Người cộng sản, người xã hội, người phát xít - họ ước định bạn sống trong tương lai, thời đại vàng của họ là trong tương lai, cõi không tưởng đang tới: khi cách mạng tới, thế thì bạn sẽ có khả năng sống thực, thế thì sẽ có thời đại vàng. Hoặc bạn được đem về quá khứ, cái gì giả, hoặc tới tương lai, cái cũng lại là giả. Không xã hội nào bảo bạn sống trong hiện tại, trong ở đây bây giờ.
Là một sannyasin, là một người tìm kiếm thực, nghĩa là sống ở đây bây giờ - và không có cuộc sống khác. Nhưng với điều đó bạn sẽ phải tự giải thôi miên cho bản thân bạn, bạn sẽ phải trở thành người chứ không là máy. Bạn sẽ phải trở nên ý thức hơn chút ít. Bạn đang không ý thức.
Có lần tôi ngồi bên cạnh một người sắp chết - người đó là một giáo sư ở cùng đại học nơi tôi cũng là giáo sư. Ông ấy đã ở cực đỉnh của nghề nghiệp thành công và thế rồi cơn đau tim kéo đến - điều bao giờ cũng tới khi bạn ở cực đỉnh. Thành công bao giờ cũng được đi theo sau bởi đau tim. Bạn có thể có gì khác sau nó được? Cho nên ông ấy đã bị đau tim và ông ấy sắp chết. Tôi tới thăm ông ấy. Ông ấy rất buồn - ai muốn chết? - và ông ấy đang trong thất vọng và đau khổ lớn. Tôi bảo ông ấy, “Ông đừng lo. Ông sẽ không chết đâu.”
Ông ấy nói, “Ông nói gì vậy? Nhưng các bác sĩ… mọi bác sĩ đều nói rằng không có khả năng nào cho sống
11
còn của tôi. Trên nền tảng nào mà ông nói rằng tôi sẽ không chết?”
Tôi nói, “Ngay chỗ đầu tiên ông không thể chết được vì ông đã bao giờ sống đâu. Ông đã không hoàn thành yêu cầu đầu tiên cho chết. Trong năm mươi nhăm năm này ông đã từng vừa đi vừa ngủ, ông đã mơ; ông đã không sống. Tôi đã quan sát ông trong nhiều năm.”
Ông ấy choáng, ông ấy giận - giận tới mức trong một khoảnh khắc ông ấy quên hết mọi chuyện về cái chết. Mắt ông ấy long lên với giận dữ và ông ấy nói, “Đây mà là cách đối xử với người sắp chết à? Ông không thể lịch sự một chút được sao? Sao ông nghiêm khắc với tôi thế? Tôi sắp chết đây và ông lại nói triết lí lớn lao thế - ‘Ông chưa bao giờ sống.’ Đây là lúc để nói những điều như vậy à?”
Tôi nghe một cách im lặng. Tôi chợt trở nên im lặng. Thế rồi cơn cuồng nộ biến mất và ông ấy bắt đầu khóc, nhưng giọt nước mắt lớn trào ra mắt ông ấy. Ông ấy cầm tay tôi với tình yêu lớn lao và thế rồi ông ấy nói, “Có thể ông đúng. Tôi chưa bao giờ sống cả. Có thể ông không thô lỗ, ông chỉ là sự thực. Và tôi biết không ai khác sẽ nói điều này cho tôi.” Và thế rồi với lòng biết ơn lớn lao, và trong một khoảnh khắc ông ấy trở nên ý thức tới mức người ta có thể đã thấy ánh sáng trên khuôn mặt này - nó đã có đó, người ông ấy toàn hào quang. Và ông ấy cám ơn tôi. Đêm đó ông ấy chết. Tôi còn ở lại với ông ấy tới khoảnh khắc cuối cùng.
Và ông ấy nói, “Nếu như ông mà không tới đây tôi chắc đã bỏ lỡ cái chết của tôi nữa, như tôi đã bỏ lỡ cuộc sống của tôi. Nhưng tôi đang chết một cách có ý thức. Ít nhất một điều tôi thấy hạnh phúc - tôi không chết một cách vô ý thức.”
12
Và cái chết của ông ấy là đẹp. Ông ấy chết mà không hối tiếc gì, ông ấy chết theo cách thảnh thơi. Ông ấy chết gần như với tâm đón chào. Ông ấy chết đầy lòng biết ơn, Ông ấy chết một cách cầu nguyện. Kiếp sống tiếp của ông ấy nhất định có phẩm chất khác.
Nếu cái chết là đẹp thế, nó đem tới kiếp sống mới cho bạn.
Nhưng người ta phải sống từng khoảnh khắc, dù nó là của cuộc sống, của tình yêu, của giận dữ, của cái chết. Dù nó là bất kì cái gì, người ta phải sống từng khoảnh khắc một cách ý thức nhất có thể được.
Một nông dân, bị cuốn đi theo tưởng tưởng của mình, thấy bản thân mình đang ở trong khu vườn rau để trộm dưa chuột.
“Mình sẽ mang túi dưa chuột này đi,” anh ta nghĩ bụng, “và với tiền thu được từ chúng mình sẽ mua một con gà mái. Gà mái sẽ đẻ trứng, nó sẽ ấp trứng và trứng nở ra lũ gà con, và mình sẽ nuôi lũ gà này cho tới khi chúng lớn lên, thế rồi mình sẽ bán chúng và mua một con lợn sữa. Mình sẽ nuôi con lợn sữa cho tới khi nó lớn lên thành lợn nái, mình sẽ nuôi nó, và nó sẽ cho lứa lợn con và mình sẽ bán chúng. Với tiền thu được từ lợn mình sẽ mua nhà có vườn; mình sẽ trồng dưa chuột trong vườn, và mình sẽ không để kẻ nào ăn trộm chúng - mình sẽ canh gác chúng. Mình sẽ thuê một người gác lực lưỡng, và từng lúc mình sẽ đi ra vườn và kêu to, ‘Này, anh bạn! Cẩn thận đấy!’”
Anh nông dân bị cuốn đi bởi ý tưởng này tới mức anh ta kêu to hết cỡ giọng mình. Người gác nghe thấy
13
tiếng anh ta và chạy tới. Người gác bắt anh ta và đánh cho anh ta một trận nhừ tử.
Nhưng đây là cách con người sống: trong mơ, trong tưởng tượng, trong phóng chiếu. Đây là cách bạn sống, và đây không phải là cách sống cuộc sống đẹp này, cực kì có giá trị này - đây là phí hoài vô cùng. Bạn phải trở nên chăm chú hơn tới khoảnh khắc này, tới hiện tại này. Bạn phải thu lấy ý thức của bạn. Ý thức là kho báu của bạn, và mọi phương pháp đã từng được phát minh ra, được phát kiến ra trong nhiều thế kỉ, đều không là gì ngoài cách tạo ra ý thức nhiều hơn trong bạn, để tạo ra nhiều lửa hơn trong bạn, để làm cho cuộc sống của bạn thành chuyện đam mê, thành ngọn lửa. Mọi người đang sống cuộc sống đờ đẫn, mọi người đang sống một cách đãng trí, mọi người đang sống một cách lơ là. Làm sao bạn có thể sống với nhiều sự lơ là thế quanh bạn? Lơ là là tối, chú ý là sáng. Và bản luận này sẽ dạy bạn cách tạo ra nhiều ánh sáng hơn trong bạn, để cho một ngày nào đó... hoa vàng.
Hai nhà tâm thần gặp nhau trên phố. “Anh cảm thấy tốt chứ,” một người nói. “Làm sao tôi biết được?”
Mọi người đang hỏi lẫn nhau. Không ai biết họ thế nào, họ đang nhìn vào mắt nhau, thu thập thông tin về bản thân họ từ người khác. Đó là lí do tại sao ý kiến của người khác đã trở thành quan trọng thế. Nếu ai đó nói bạn là ngu, bạn trở nên bực. Tại sao? Hay bạn trở nên buồn. Tại sao? Bạn bị tan nát. Bạn đã tưởng bạn là người khôn vì người khác đã nói với bạn rằng bạn khôn. Đó đã là ý kiến của người khác mà bạn lệ thuộc vào. Bây giờ ai đó khác
14
nói bạn ngu. Người đó có thể dễ dàng làm tan tành khôn ngoan của bạn, rất dễ dàng. Người đó đã ném đá và bạn đã làm lâu đài bằng con bài giấy. Bây giờ tất cả đều tan tành. Đó là lí do tại sao người ta trở nên giận thế, phát rồ thế, bạo hành thế, và người ta trở nên lo lắng thế, lo âu thế. Bạn liên tục tìm điều người khác nghĩ, bởi vì bạn chỉ biết điều người khác nghĩ về bạn, bạn không biết gì về bản thân bạn. Bây giờ đây là loại tình huống gì vậy? Nếu tôi không thể biết được về bản thân tôi, ai khác có thể biết được về tôi? Từ bên ngoài không ai có thể quan sát được tôi, tôi không sẵn có theo cách đó. Từ bên ngoài chỉ thân thể tôi mới có thể được quan sát. Từ bên trong tôi có thể biết ý thức của tôi.
Ngay cả khi bạn đứng trước gương bạn chỉ thấy thân thể bạn, bạn không thể thấy ý thức của bạn trong gương. Ngay cả bạn cũng không thể thấy được nó trong gương - ý thức riêng của bạn. Bạn phải nhìn thẳng vào nó. Nó chưa bao giờ được soi gương, nó chưa bao giờ được phản xạ trong bất kì cái gì; nó là vô hình. Bạn phải nhắm mắt lại và là nó. Và đó là cách duy nhất để biết nó. Nhưng mọi người vô ý thức thế. Họ đơn giản sống chỉ bằng ý kiến người khác. Điều người khác nói trở thành linh hồn của họ. Người khác có thể lấy nó đi vào bất kì khoảnh khắc nào. Mọi người vẫn còn là kẻ ăn xin.
Bạn có biết gì về bản thân bạn một cách trực tiếp không? Bạn đã bao giờ đương đầu với bản thân bạn một cách trực tiếp mà không đem ý kiến của người khác vào trong nó không? Nếu bạn đã không làm điều đó, bạn chưa sống đâu. Cuộc sống bắt đầu chỉ bằng việc đương đầu với bản thân người ta, bằng việc nhìn thẳng vào bản thân người ta, bằng việc thấy bản thân mình một cách trực tiếp, tức khắc. Cuộc sống tồn tại chỉ khi bạn có khả năng thấy bản thân bạn như bạn vậy, không như người khác
15
nghĩ về bạn. Họ có thể nghĩ gì về bạn? Họ có thể nói gì về bạn? Họ có thể quan sát hành vi của bạn, họ không thể quan sát được bạn. Nếu bạn muốn quan sát bản thân bạn, chỉ bạn mới có thể làm được điều đó, không ai khác. Nó không thể được làm bởi người hầu, nó không thể được uỷ quyền cho ai đó khác. Nó không thể được làm bởi chuyên gia nữa. Nhưng chúng ta quan tâm nhiều thế tới ý kiến của người khác bởi vì chúng ta tuyệt đối vắng mặt, không có ai thức bên trong - ngủ say, chúng ta ngáy bên trong.
Ông giáo sư đãng trí đi cắt tóc. Ông ấy ngồi vào ghế thợ cắt tóc, nhưng lại không bỏ mũ ra.
“Tôi e là tôi sẽ phải cởi mũ ông ra,” thợ cắt tóc nói.
“Ồ, tôi rất tiếc!” ông giáo sư nói, “Tôi không biết có quí bà hiện diện.”
Quan sát đãng trí riêng của bạn đi. Quan sát nó sẽ tạo ra sự chăm chú trong bạn. Quan sát điều đang xảy ra bên trong bạn: ý nghĩ trôi qua, kí ức nảy sinh, mây giận, đêm tối của buồn, hay sáng đẹp của vui. Quan sát mọi thứ trôi qua trong bạn, trở nên ngày một có tính quan sát hơn đi. Dần dần, dần dần bạn sẽ trở thành tính quan sát được tích hợp. Và phương pháp được dạy bởi Bí mật của Hoa Vàng là cách trở nên được tích hợp trong ánh sáng bên trong của bạn. Đây là câu chuyện về cuốn sách này trước khi chúng ta đi vào trong lời kinh.
Cuốn sách này tới từ giới bí truyền ở Trung Quốc. Người sáng lập ra giới bí truyền này tương truyền đã là một Đạo sĩ nổi tiếng, Lữ Yến. Khi nào Lữ Yến nhận được giáo huấn bí mật này? Bản thân ông ấy coi giáo huấn này
là truyền từ Thầy Quan Doãn Hỷ (Kuan Yiu-his), từ
16
người mà, theo truyền thống, buộc Lão Tử đã viết ra Đạo Đức Kinh của mình.
Lão Tử chưa bao giờ viết một lời trong cả đời của ông ấy. Ông ấy từ chối đi từ chối lại, để viết ra bất kì cái gì. Ông ấy đã truyền cho đệ tử của ông ấy điều ông ấy đã đi tới biết, nhưng ông ấy không sẵn sàng viết bởi vì ông ấy nói, “Đạo có thể được nói ra không phải là Đạo thực.” Đạo có thể được diễn đạt đã là làm sai lạc đi rồi. Nó có thể được học chỉ trong liên hệ thân thiết với thầy. Không có cách khác để trao đổi nó. Nó chỉ có thể học trong giao cảm sâu nơi đệ tử và thầy gặp gỡ, nơi đệ tử không giữ lại cái gì, nơi đệ tử và thầy chờm lấp, nơi tâm thức của họ hội nhập vào nhau. Chỉ trong gặp gỡ, giao cảm như vậy, Đạo mới có thể truyền. Cho nên ông ấy từ chối đi từ chối lại.
Ông ấy sống cuộc sống dài. Nhưng khi ông ấy sắp chết ông ấy rời khỏi Trung Quốc trên lưng trâu nước. Tại sao trên trâu nước? Toàn thể giáo huấn của ông ấy đã là dạy về cách thức nước chảy.
Ông ấy nói: Người ta phải giống như nước - tuôn chảy, linh động, tươi tắn, bao giờ cũng đi tới đại dương và người ta phải giống như nước - mềm mại, nữ tính, đáng yêu, không bạo hành. Người ta phải không như tảng đá. Đá dường như rất mạnh nhưng nó không vậy, và nước dường như rất yếu nhưng nó không vậy. Đừng bao giờ bị lừa bởi hình tướng. Chung cuộc nước sẽ thắng đá và đá bị phá huỷ và trở thành cát và bị đem ra biển. Đá biến mất về chung cuộc - khi chống lại nước mềm.
Đá là nam tính; nó là tâm trí nam. Nước là nữ tính, mềm mại, đáng yêu, không hùng hổ chút nào. Nhưng cái không hùng hổ thắng. Nước bao giờ cũng sẵn sàng buông xuôi, nhưng qua buông xuôi nó chinh phục - đó là cách
17
thức của đàn bà. Đàn bà bao giờ cũng buông xuôi và chinh phục qua điều đó. Và đàn ông muốn chinh phục và chung cuộc kết quả là chỉ buông xôi chứ không gì khác. Do đó, Lão Tử chọn trâu nước khi ông ấy rời khỏi đất nước. Ông ấy đi đâu? Ông ấy đi lên Himalayas để chết trong cái đẹp vĩnh hằng đó.
Người thực biết cách sống và cách chết. Người thực sống một cách toàn bộ, chết toàn bộ. Người thực sống trong phúc lành và chết trong phúc lành.
Ông ấy đi một mình tuyệt đối vào Himalayas, nhưng ông ấy bị bắt lại trên biên ải. Và người bắt ông ấy trên biên ải là Thầy Quan Doãn Hỷ. Ông ấy là người gác ải cuối cùng của biên cương Trung Quốc. Lão Tử phải đi qua ải đó; không có đường khác để ra khỏi nước. Và Doãn Hỷ thuyết phục ông ấy: “Thầy sắp chết rồi, thầy đang bỏ nước mãi mãi, và chẳng mấy chốc thầy sẽ bỏ thân thể. Xin thầy viết ra vài lời. Và tôi sẽ không cho phép thầy ra khỏi nước nếu thầy không viết chúng ra. Giá này thầy phải trả.” Và Lão Tử phải ngồi ở trong trại của Doãn Hỷ trong ba ngày, và ở đó ông ấy đã viết Đạo Đức Kinh.
Truyền thống của Bí mật Hoa Vàng tương truyền đã bắt nguồn từ Lữ Yến. Bản thân Lữ Yến lại coi nó là của Thầy Quan Doãn Hỷ mà với người này, theo truyền thống, thì từ Lão Tử đã viết ra cuốn Đạo Đức Kinh. Quan
nghĩa là ‘cửa quan Hàm Cốc’; do đó ông ấy được gọi là thầy Quan, tức là ‘Thầy của cửa quan Hàm Cốc’. Và ông ấy phải là một đạo sĩ lớn, bằng không chắc đã không thể thuyết phục được Lão Tử viết - cả đời ông ấy đã từ chối rồi. Ông ấy không thể từ chối lời mời của người này. Người này phải có cái gì đó mà ngay cả Lão Tử cũng không thể nói không được.
18
Đây là cách truyền thống của Hoa Vàng được kết nối với Lão Tử. Nhưng nó đã không bắt đầu với Lão Tử. Bản thân Lão Tử nói rằng bất kì cái gì ông ấy nói cũng đều đã được nói trước rồi, lặp đi lặp lại, suốt nhiều thế kỉ. Ông ấy không đem chân lí mới vào thế giới mà chỉ cách diễn đạt mới. Nó bao giờ cũng vậy: chân lí là một, chỉ cách diễn đạt là khác.
Điều Lão Tử nói là một như điều Krishna đã nói trước ông ấy. Điều Krishna nói là một như điều Phật đã nói về sau. Điều Phật đã nói là một như Mohammed, như Jesus, như Zarathustra đã nói, mặc dầu cách diễn đạt của họ là khác tới mức bạn sẽ cần thông minh lớn để thấy tới chính cốt lõi. Cấu trúc là khác, ngôn ngữ là khác, cách nói
nó là khác; một cách tự nhiên, vì họ là những người khác nhau, các cá nhân khác nhau, với tính duy nhất riêng của họ. Nhưng chân lí không mới không cũ và dù chân lí ở bất kì đâu, nó đều vĩnh hằng.
Sách Bí mật của Hoa Vàng là một trong những cội nguồn vĩnh hằng nơi người ta có thể lại trở nên sống động, người ta lại có thể tìm ra cánh cửa tới điều thiêng liêng.
Lời kinh:
Thầy Lữ tử nói:
Cái tự tồn là Đường, Đạo.
Từ Đạo về bản chất nghĩa là 'Đường'. Không cái gì có thể được nói về mục đích. Mục đích vẫn còn khó nắm bắt, không diễn đạt được, không nói ra được. Nhưng cái gì đó có thể được nói về Đường. Do đó, Đạo nhân chưa bao giờ dùng từ 'Thượng đế', 'chân lí', ‘niết bàn’; không, họ đơn giản dùng từ ‘Đường’. Phật nói: “Chư phật chỉ có
19
thể chỉ cho ông con Đường. Nếu ông theo đường, ông sẽ đạt tới chân lí.”
Chân lí sẽ phải là kinh nghiệm của riêng bạn. Không ai có thể định nghĩa chân lí, nhưng Đường có thể được định nghĩa, Đường có thể được làm rõ. Thầy không thể cho bạn chân lí, nhưng thầy có thể cho bạn Đường. Và một khi Đường có đó thế thì mọi điều được cần là bước trên nó. Điều đó phải được làm bởi đệ tử. Tôi không thể bước hộ bạn được và tôi không thể ăn hộ bạn được. Tôi không thể sống hộ bạn và tôi không thể chết hộ bạn. Những điều này phải được làm bởi bản thân người ta. Nhưng tôi có thể chỉ Đường, tôi đã bước trên Đường rồi.
Đạo đơn giản nghĩa là ‘Đường’.
Cái tự tồn là Đường.
Và định nghĩa này là hay. Lữ tử nói, “Cái tự tồn tại bởi bản thân nó, cái không cần ai khác hỗ trợ, cái bao giờ cũng tồn tại dù ông bước đi trên nó hay không....”
Dù bất kì ai bước đi trên nó hay không cũng không thành vấn đề, nó bao giờ cũng tồn tại. Thực ra, toàn thể sự tồn tại đi theo nó một cách không chủ ý. Nếu bạn có thể đi theo nó một cách hữu ý cuộc sống của bạn sẽ trở thành phúc lành lớn. Nếu bạn theo nó một cách không chủ ý, thế thì bạn sẽ cứ loạng choạng, thế thì bạn không thể tận hưởng nó như nó đáng được tận hưởng.
Một người có thể được đưa tới khu vườn và người đó có thể vô ý thức; người đó có thể say hay người đó có thể đang trong cơn mê hay dưới tác động của chất gây mê. Người đó có thể được đem vào vườn, người đó vô ý thức, tiếng hót của chim sẽ được nghe bên tai người đó,
20
nhưng người đó sẽ không biết. Hương thơm của hoa sẽ tới cưỡi trên làn gió tới lỗ mũi người đó, nhưng người đó sẽ không biết. Mặt trời sẽ chiếu sáng trên người đó và sẽ trút ánh sáng lên người đó, nhưng người đó sẽ không biết. Làn gió thoảng sẽ vuốt ve người đó, nhưng người đó sẽ không biết. Bạn có thể để người đó dưới bóng cây lớn và cái mát mẻ của nó, nhưng người đó sẽ không biết. Đó là cách con người đang vậy.
Chúng ta ở trong Đạo, bởi vì chúng ta còn có thể ở đâu khác được? Sống là ở trên Đường. Sống là sống trong Thượng đế, thở là thở trong Thượng đế. Chúng ta có thể ở đâu khác được? Nhưng cũng như cá sống trong đại dương và quên lãng về đại dương, chúng ta sống trong Đạo và hoàn toàn quên lãng về Đạo. Thực ra nó hiển nhiên thế, đó là lí do tại sao chúng ta quên thế. Cá biết đại dương rõ thế... cá được sinh ta trong nó, cá chưa bao giờ ra khỏi nó, cá coi nó là đương nhiên, do đó cá không nhận biết về nó. Chúng ta ở trên Đường, chúng ta ở trong Thượng đế, chúng ta sống trong Đạo, qua Đạo, nhưng chúng ta không nhận biết về nó. Đạo tồn tại, bởi vì không có Đạo cây sẽ không phát triển và sao sẽ không dời và máu sẽ không tuần hoàn và hơi thở sẽ không đi vào. Cuộc sống sẽ biến mất.
Sống là có thể chỉ nếu có luật nền tảng giữ nó. Sống là có thể chỉ nếu có cái gì đó nâng đỡ nó. Nhìn vào trật tự mênh mông trong sự tồn tại đi. Nó không phải là hỗn độn, nó là hài hoà. Cái gì làm cho nó thành hài hoà? Tại sao có nhiều hài hoà thế? Phải có luật giữ cho hài hoà tiếp diễn, tuôn chảy, giữ cho mọi thứ trong hoà hợp chứ. Nhưng chúng ta không biết về nó. Chúng ta không biết gì về hiện hữu riêng của chúng ta, và chúng ta được nối qua hiện hữu của chúng ta với Đạo.
21
Đạo là vô danh vô hình. Nó là cái Một tinh tuý, cái một Thái cực.
Nó là đại dương cuộc sống bao quanh chúng ta, nó là ở bên trong và bên ngoài - tinh tuý thuần khiết. Nó là sự tồn tại, nó là linh hồn nguyên thuỷ, Thái Cực. Không tên nào có thể chứa được nó. Mọi tên đều là tên của nó. Và không hình dạng nào là đặc biệt cho nó, bởi vì mọi hình dạng đều là hình dạng của Đạo. Đạo tồn tại trong cả triệu hình dạng. Trong cây nó là mầu xanh, trong hoa nó là mầu đỏ, trong người nó là người, trong cá nó là cá. Nó là cùng một luật. Bạn có thể thay thế từ ‘Đạo’ bằng Thượng đế và nó sẽ là một. Điều người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo gọi là Thượng đế, Đạo nhân gọi là Đạo, Phật tử gọi là pháp, người Do Thái thường gọi nó là lời, nhưng chúng đều ngụ ý cùng một điều. Không cái tên nào có thể chứa được nó, hay, nó có thể được diễn đạt bởi bất kì cái tên nào.
Tinh và Sinh không thể thấy được. Chúng ẩn trong thiên quang. Thiên quang không thể thấy được. Nó được chứa trong hai mắt.
Bạn có thể thấy hình dạng, bạn có thể thấy thân thể - thân thể là hình dạng, chất liệu bao quanh cái tinh tuý - nhưng bạn không thể thấy được cái tinh tuý. Cái tinh tuý là không thấy được với con mắt, là không tiếp cận được bởi giác quan. Nó phải được cảm một cách trực tiếp, không qua bất kì trung gian nào.
Bạn thấy thân thể tôi, tôi thấy thân thể bạn - đó là qua một trung gian. Mắt tôi đang bảo tôi bạn ở đây, mắt bạn đang bảo bạn rằng tôi ở đây, nhưng ai biết? - mắt có thể lừa dối, chúng thỉnh thoảng có lừa đấy. Trong đêm,
22
trong bóng tối, bạn thấy sợi dây thừng dường như nó là con rắn, và khi bạn thấy nó là con rắn, điều đó ảnh hưởng tới bạn như con rắn: bạn sợ, bạn bắt đầu chạy. Hay bạn có thể thấy trong sa mạc một ốc đảo mà không có đó, cái chỉ là hiện tượng được phóng chiếu vì bạn khát tới mức bạn muốn nó ở đó, cho nên bạn tạo ra nó ở đó. Mắt lừa dối nhiều lần, cho nên ai biết?
Nếu chân lí được biết qua trung gian thì bao giờ cũng sẽ vẫn còn nghi ngờ, hoài nghi; nó không thể có tính chắc chắn nào - nó không thể có tuyệt đối chắc chắn được. Và chân lí mà không phải tuyệt đối chắc chắn thì không là chân lí chút nào. Và chân lí phải tuyệt đối chắc chắn, nó không thể chỉ chắc chắn xấp xỉ. Thế thì chỉ có một cách: nó phải được biết không qua trung gian, người ta phải biết nó một cách trực tiếp, tức khắc, người ta phải biết nó mà không có giác quan nào. Và đó là cách nó được biết: bạn không thể thấy được cuộc sống, nhưng bạn có thể cảm thấy nó. Nó là kinh nghiệm chủ thể, không phải là đối thể.
Tinh và Sinh không thể thấy được. Chúng trong thiên quang. Thiên quang không thể thấy được. Nó được chứa trong hai mắt.
Bạn có hai con mắt này. Hai con mắt này với Đạo nhân là rất có ý nghĩa. Chỉ khoa học hiện đại mới có khả năng nhìn thấy chân lí của nó. Hai con mắt này không chỉ là mắt thấy được. Hai con mắt này đại diện cho nam và nữ trong bạn. Bây giờ khoa học hiện đại nói rằng tâm trí con người bị chia thành hai bán cầu, và một bán cầu là nam, bán cầu kia là nữ. Bên phải não bạn là nữ tính, và bên trái não bạn là nam tính. Cho nên một mắt của bạn đại diện cho nam trong bạn và mắt kia của bạn đại diện
23
cho nữ trong bạn. Và khi nam và nữ của bạn gặp gỡ ở bên trong bạn, gặp gỡ đó là điều được gọi là trời - gặp gỡ đó, giao cảm bên trong đó của nam và nữ của bạn.
Jesus nói: “Khi hai mắt ông trở thành một, sẽ có ánh sáng.” Ông ấy đang nói như người luyện đan Đạo nhân: Khi hai mắt ông trở thành một sẽ có ánh sáng. Khi hai mắt bạn trở thành một - khi nam và nữ của bạn biến mất vào trong nhau - đó là kinh nghiệm cực thích tối thượng. Điều bạn cảm thấy khi làm tình với người đàn bà hay người đàn ông chỉ là thoáng nhìn về nó, thoáng nhìn rất phù du. Nó tạm thời tới mức vào lúc bạn trở nên nhận biết về nó, nó đã mất rồi. Bạn trở nên nhận biết về nó chỉ trong quá khứ - nó phù du thế. Nhưng nó là thoáng nhìn, thoáng nhìn về gặp gỡ của đàn ông và đàn bà.
Đây là gặp gỡ bên ngoài. Chính phép màu là nó xảy ra cho dù trong một khoảnh khắc. Nhưng có một khả năng sâu sắc, và điều đó đã là công việc của Mật tông, Đạo, yoga, và mọi giáo huấn bí mật của thế giới: để giúp bạn trở nên nhận biết về nữ tính của bạn và nam tính của bạn ở bên trong - điều người Mật tông gọi là Shiva và Shakti và điều Đạo nhân goi là âm và dương. Tính cực, dương và âm trong bạn, ngày và đêm trong bạn - chúng phải gặp gỡ ở đó.
Thiên quang không thể thấy được. Nó được chứa trong hai mắt.
Nhưng chừng nào chúng chưa trở thành một bạn sẽ không trở nên nhận biết về nó.
Nó được chứa trong hai mắt.
24
Nhưng bạn không thể thấy được nó chừng nào chúng chưa trở thành một. Thế thì nó được xảy ra, thế thì có bùng nổ lớn của ánh sáng. Zarathustra gọi nó là ‘bùng nổ lửa’, Lão Tử gọi nó là ‘bùng nổ ánh sáng’. Nó là một.
Bạn phải đã bắt gặp phát biểu của John the Baptist. Ông ấy thường nói với đệ tử của mình, “Ta rửa tội cho con bằng nước. Sau ta một người sẽ tới sẽ rửa tội cho con bằng lửa.” Đó là điều ông ấy đã ngụ ý - “Sau ta một người sẽ tới sẽ rửa tội cho con bằng lửa” - rửa tội bằng nước là rửa tội bên ngoài; với John the Baptist, nước đại diện cho luồng chảy bên ngoài.
Nhớ điều này, rằng đi ra ngoài và đi xuống là đồng nghĩa và đi lên và đi vào trong là đồng nghĩa; bất kì cái gì đi xuống cũng là đi ra ngoài và bất kì cái gì đi lên cũng là đi vào trong, và ngược lại. Nước bao giờ cũng chảy xuống, do đó nó đại diện cho luồng đi ra ngoài, nó bao giờ cũng đi từ bản thân nó; cuộc hành trình của nó là cuộc hành trình đi ra ngoài. Lửa bốc lên, và đi lên là đồng nghĩa với đi vào trong; cuộc hành trình của nó là đi vào trong.
John the Baptist nói: Ta rửa tội cho con bằng nước, ta cho con thân thể bên ngoài của tôn giáo. Sau ta Christ sẽ tới, người sẽ cho con việc rửa tội bên trong, rửa tội của lửa.
Bản thân Jesus nói đi nói lại, “Ăn năn. Ăn năn đi!” và từ này đã rơi vào cách diễn đạt sai với người Ki tô giáo. Họ đã làm nó thành ăn năn vì hành động xấu. Nó chẳng liên quan gì tới hành động xấu cả. Từ ‘repent-ăn năn’ thực tế có nghĩa là trả lại, đi vào, quay lưng lại. Nó có nghĩa là quay về: khôi phục tính nguyên bản của bạn. Từ ‘repent’ nghĩa là quay một trăm tám mươi độ, quay lưng lại - quay một trăm tám mươi độ. Nếu bạn liên tục
25
tuôn chảy ra ngoài bạn vẫn còn là nước. Nếu bạn quay vào trong bạn trở thành lửa.
Và khi hai mắt, khi hai ngọn lửa này, khi hai bán cầu này của tâm thức bạn kết với nhau, tuyệt đối được bắc cầu và bạn trở thành một ngọn lửa, một ngọn lửa đó là điều Plotinus gọi là “chuyến bay của một mình tới một mình.”
Thái cực là tên của cái vô thượng.
Và nếu bạn có thể trở thành cái một đó, bạn đã trở thành Thái cực. Đây là cách nói của Đạo nhân để nói về cái gì đó về Thượng đế mà không dùng từ Thượng đế: nếu bạn trở thành một, bạn đã trở thành Thượng đế.
Mật dụng của thuật sinh là dùng vi đạt tới vô vi.
Đây là những lời tiềm năng. Bí mật là gì trong việc làm hai mắt này thành một? Làm sao làm nam và nữ thành một trong bạn? Làm sao để người đàn bà và người đàn ông của bạn tan biến trong nhau để cho bạn không còn là nhị nguyên, để cho không có xung đột và căng thẳng nào, để cho tất cả là một? Trong tính một đó là phúc lạc bởi vì mọi căng thẳng đều biến mất, mọi xung đột biến mất, mọi lo âu biến mất. Làm sao để trở thành cái một đó?
Mật dụng của thuật sinh là dùng vi đạt tới vô vi.
Đàn ông đại diện cho hành động, đàn bà đại diện cho không hành động. Bạn phải dùng hành động để đạt tới không hành động, bạn phải làm nỗ lực để trở thành vô
26
nỗ lực. Bạn phải đi và đặt vào mọi năng lượng của bạn, bạn phải trở thành tích cực tới mức không cái gì bị bỏ lại đằng sau - mọi năng lượng đều trở thành được tham gia vào tính sáng tạo - và thế rồi đột nhiên, khi mọi năng lượng được tham dự, xảy ra việc biến đổi. Cũng như nước một trăm độ bay hơi, hành động khi nó trở thành toàn bộ thì bay hơi và không hành động còn lại đằng sau.
Đầu tiên bạn phải học cách nhảy múa, và bạn phải đưa mọi năng lượng của bạn vào trong nhảy múa. Và một hôm kinh nghiệm kì lạ xảy ra khi đột nhiên vũ công biến mất trong điệu vũ và điệu vũ xảy ra mà không có nỗ lực nào. Thế thì nó là không hành động. Đầu tiên bạn phải học hành động để đi vào trong không hành động. Đó là điều thiền tất cả là gì.
Mọi người tới và hỏi tôi tại sao tôi dạy thiền tích cực. Bởi vì đó là cách duy nhất để tìm ra không hành động: nhảy múa tới mức tối cao, nhảy múa trong điên cuồng, nhảy múa điên dại. Và nếu toàn thể năng lượng của bạn được tham gia vào trong nó, một khoảnh khắc tới khi đột nhiên bạn thấy điệu vũ xảy đang ra theo cách riêng của nó, không có nỗ lực trong nó - nó là hành động mà không có hành động.
Hoa Vàng là linh quang. Dụng của Hoa Vàng là biểu tượng. Câu “Để thượng thuỷ cần nếm trải” nói tới điều đó.
Hoa vàng là biểu tượng, biểu tượng về khi năng lượng của bạn không còn là hai và đã trở thành một: ánh sáng lớn được thoát ra, và ánh sáng là vàng. Dường như hoa của ánh sáng vàng đã xảy ra trong bạn. Và nó không
27
chỉ là biểu tượng. Nó là biểu tượng nhưng nó gần như là thực theo đúng từ này; nó xảy ra đích xác giống điều đó. Ngay bây giờ bạn tồn tại như bóng tối, như đêm tối. Thế rồi bạn tồn tại như mặt trời lên. Bạn không thể thấy được mặt trời ở đâu ngoài ánh sáng có đó. Không có nguồn cho nó - nó là ánh sáng vô nguồn. Nhưng một khi bạn đã biết ánh sáng vàng đó trong bạn, bạn đã trở thành bất tử. Thế thì không có chết vì ánh sáng này không bao giờ chết.
Toàn thể cuộc sống, toàn thể sự tồn tại bao gồm không gì khác ngoài ánh sáng - tất cả đều là hình dạng của ánh sáng. Bạn có thể hỏi vật lí hiện đại nữa, và vật lí hiện đại hoàn toàn đồng ý với Đạo, rằng tất cả đều là ánh sáng; hình dạng liên tục thay đổi, nhưng ánh sáng tiếp tục. Ánh sáng là vĩnh hằng.
Nhiều kinh sách của thế giới bắt đầu với từ ‘ánh sáng’. “Lúc bắt đầu Thượng đế nói, ‘Để có ánh sáng.’ ” Đó là lúc bắt đầu. Nếu đã bao giờ có bắt đầu, nó không thể khác được; nó phải đã hiện hữu cùng ánh sáng. Nhưng chưa bao giờ có bắt đầu cả; đây chỉ là chuyện ngụ ngôn! Ánh sáng bao giờ cũng tồn tại. Koran nói Thượng đế là ánh sáng. Một trong những cái tên của Thượng đế được người Sufi cho là Noor. Noor nghĩa là ánh sáng.
Và vị là như nhau - dù nó xảy ra cho tôi hay nó xảy ra trong bạn, vị là như nhau. Vị của phật tính là như nhau. Phật đã nói: “Vị của phật tính là như đại dương. Ông có thể nếm nó từ phương bắc hay từ phương nam, hay từ phần này hay từ phần kia, từ bờ này hay từ giữa, nhưng vị của đại dương là như nhau. Vị của phật tính cũng vậy.” Khoảnh khắc một người đạt tới ánh sáng này, cuộc đời của người đó có một hương vị duy nhất. Hương vị đó được chứa bởi nhận biết tuyệt đối: vô thức của người đó đã biến mất, không còn phần tối nào trong hiện hữu của người đó.
28
Bây giờ nếu một người theo Freud nhìn vào người như vậy, người đó sẽ chỉ thấy ý thức, chỉ ý thức; người đó sẽ không thấy vô thức. Nếu một người theo Freud nhìn vào bạn, chỉ một phần là có ý thức, chống lại một phần này là chín phần vô ý thức - chỉ một phần mười tâm trí bạn là có ý thức. Vị phật là một trăm phần trăm ý thức.
Luân quang tuỳ vào chuyển động chảy ngược, khiến ý tụ. Thiên tâm nằm giữa nhật nguyệt.
Lần nữa nhớ lấy, mặt trời đại diện cho năng lượng nam, mặt trăng đại diện cho năng lượng nữ. Và tâm nằm giữa hai điều này. Tâm không nam không nữ và đó là cái đẹp của tâm: tâm là thiêng liêng, không nam không nữ, và nằm đích xác ở giữa hai điều này.
Nếu bạn đang học quá nhiều hướng tới năng lượng nam, bạn quá tích cực và bạn không biết cách thụ động. Đó là điều đã xảy ra ở phương Tây: phương Tây là hướng mặt trời - quá nhiều hoạt động. Mọi người đang đưa bản thân mình vào điên khùng với hoạt động của họ. Quá nhiều tốc độ - mọi thứ đều phải được làm ngay lập tức -
không kiên nhẫn, không chờ đợi. Họ đã quên mất cách thụ động, cách kiên nhẫn, cách chờ đợi mọi thứ. Họ đã đánh mất mọi năng lực để bất hoạt. Họ không biết cách đi ngày nghỉ. Cho dù họ đi vào ngày nghỉ họ còn chủ động hơn bao giờ.
Nhiều người đã bị đau tim vào chủ nhật ở phương Tây hơn bất kì ngày nào khác, vì đó là ngày nghỉ và mọi người quá bận bịu. Cả tuần làm việc họ tưởng họ sẽ nghỉ ngơi khi ngày nghỉ tới, và khi ngày nghỉ tới, họ có cả nhìn lẻ một thứ để làm. Không phải là họ phải làm chúng đâu, rằng chúng là được cần đâu - không, không chút nào -
nhưng họ không thể sống trong nghỉ ngơi được. Họ
29
không thể chỉ nằm ra trên bãi cỏ và ở cùng với đất, họ không thể chỉ ngồi im lặng dưới cây và không làm gì cả. Không, họ sẽ bắt đầu làm cả nghìn lẻ một thứ quanh nhà. Họ sẽ sửa cái này tháo cái kia, họ sẽ mở động cơ xe và bắt đầu làm mọi thứ với nó. Họ sẽ làm cái gì đó, nhưng họ sẽ vẫn còn chủ động.
Toàn thể cuộc đời của mình, mọi người đều nghĩ rằng khi họ về hưu thì họ sẽ tận hưởng. Nhưng họ không thể tận hưởng được, họ không thể nghỉ ngơi được. Mọi người chết đi rất nhanh một khi họ về hưu. Các nhà tâm lí nói rằng họ chết sớm mười năm vì họ không biết phải làm
gì khác. Cái chết dường như là cách duy nhất để gạt bỏ cuộc sống mà đã trở thành vô nghĩa, cái bao giờ cũng đã là vô nghĩa rồi, cái đã chỉ ra sự gấp gáp. Mọi người đang xô tới, không biết họ đang đi đâu. Mọi điều họ biết là họ phải đi ngày một nhanh hơn và nhanh hơn mà không bị lo nghĩ: bạn đích xác đang đi đâu? Bạn có thể chạy trong vòng tròn. Điều đó đích xác là điều đang xảy ra: mọi người đang chạy trong vòng tròn.
Phương Tây hướng mặt trời, phương Đông hướng mặt trăng. Phương Đông đã trở nên quá thụ động, quá định mệnh: “Không cái gì gì phải được làm cả. Đơn giản đợi thôi, Thượng đế sẽ làm nó.” Đây là loại ngu xuẩn và ngu si khác. Phương Đông nghèo, lười, tệ hại, và mọi người không lo nghĩ về cái gì. Khổ sở có khắp xung quanh, nghèo nàn, ăn xin, ốm bệnh - không ai lo nghĩ, mọi thứ đều được chấp nhận. “Mình có thể làm gì được? Đấy là ý chí của Thượng đế. Chúng ta phải chấp nhận thôi. Chúng ta chỉ phải đợi, Khi mọi sự quá nhiều, Thượng đế sẽ tới. Chúng ta có thể làm gì khác được?” Đây là tâm trí nữ tính.
Bí mật của Hoa Vàng nói bạn phải ở đích xác chỗ giữa - không nam không nữ, không nghiêng sang cực
30
đoan nào - thế thì có cân bằng. Thế thì người ta chủ động và vậy mà vẫn còn thụ động sâu bên trong, thế thì người ta là thụ động vậy mà vẫn còn là chủ động ở bên ngoài. Ở bên ngoài là hướng mặt trởi, ở bên trong là hướng mặt trăng. Để mặt trời và mặt trăng gặp gỡ trong bạn và bạn ở đích xác chỗ giữa. Và ở chỗ giữa là siêu việt.
Luân quang tuỳ vào chuyển động chảy ngược, khiến ý tụ. Thiên tâm nằm giữa nhật nguyệt.
Con người là trung tâm và cũng là chu vi. Nếu bạn đi tới chu vi, thế thì bạn sẽ có nhiều ý nghĩ. Chu vi bao gồm nhiều, trung tâm là một. Nếu bạn đi tới trung tâm, ý nghĩ bắt đầu biến mất. Tại chính cốt lõi mọi ý nghĩ biến mất - chỉ có nhận biết. Đó là điều bản luận bí mật này nói:
... khiến ý tụ.
Ánh sáng phải đi vào trong.
Khi bạn nhìn cây, mắt bạn đang ném ánh sáng lên cây - ánh sáng đi ra ngoài. Khi bạn nhắm mắt, ánh sáng bắt đầu quay vào trong - hối cải, ăn năn, trở lại. Và khi ánh sáng rơi vào hiện hữu riêng của bạn, có tự hiểu, tự biết. Và tự biết đó đem bạn tới tự do - tự do khỏi mọi vướng mắc, tự do khỏi mọi gắn bó, tự do khỏi cái chết, tự do khỏi thân thể. Nó tạo ra linh hồn trong bạn.
Đó là điều Gurdjieff thường nói với đệ tử của ông ấy: rằng bạn được sinh ra không có linh hồn, bạn phải tạo ra nó bằng hối cải.
Sách Hoàng Thành viết: “Trên một thốn vuông của nhà một bộ vuông, Sinh có thể được điều tiết.”
31
Trong ngôi đền nhỏ này của thân thể bạn cuộc sống có thể được điều chỉnh.
Giữa thốn vuông ngụ huy hoàng. Giữa tử phòng trong ngọc thành, Thần Toàn Hư và Sinh cư ngụ.
Nhìn mâu thuẫn này: rỗng và sống. Sống là nam, rỗng là nữ. Sống và rỗng - cả hai là hai mặt của Thượng đế bên trong. Khi bạn đã không chọn cái nào được chuộng hơn cái kia, khi bạn đã không chọn chút nào - bạn đã chỉ là người quan sát - bạn trở thành Thượng đế đó,
người có một mặt là sống và có mặt kia là chết, người có mặt này là hoàn hảo và có mặt kia là tính không.
Vậy nên khi luân quang, lực toàn thân hiện trước ngai vàng…
Và khi ánh sáng đi vào trong và luân chuyển bên trong hiện hữu của bạn, bởi vì không có lối ra nào còn lại - đó là điều thiền là gì, đó là điều Phật đang làm dưới cây bồ đề - bạn ngồi im lặng, bạn đóng mọi cánh cửa và ánh sáng luân chuyển bên trong. Thế thì lần đầu tiên bạn trở nên nhận biết về thân thể và mọi thứ mà thân thể chứa - mọi điều huyền bí của nó. Thân thể nhỏ này chứa mọi điều huyền bí của vũ trụ. Nó là vũ trụ thu nhỏ.
Vậy nên khi luân quang, lực toàn thân hiện trước ngai vàng, như, khi vua thiêng lập kinh và ban yếu lệnh, chư hầu vào triều cống; hay như, khi chủ yên tĩnh và bình thản, kẻ hầu nam nữ tuân lệnh theo cách của họ, từng kẻ làm việc của mình.
32
Và khi ánh sáng này có đó di chuyển bên trong bạn, thân thể trở thành người phục vụ, các giác quan trở thành kẻ phục vụ biết vâng lời, bạn không cần cố kiểm soát chúng. Chúng theo bạn theo cách riêng của chúng.
Đây là cái hay của Đạo: nó không bao giờ ép buộc cái gì, nó không muốn trau dồi bất kì tính cách nào. Nó nói: Đơn giản trở thành đầy ánh sáng và mọi thứ khác sẽ theo sau.
Do đó ông chỉ phải làm luân quang; đó là mật pháp sâu nhất và kì diệu nhất. Quang dễ luân, nhưng khó trụ. Nếu luân đủ lâu, tự nó kết tinh. Đó là tình cảnh của câu: “Ông lặng thăng buổi sáng.”
Một điều rất có ý nghĩa được nói trong câu kinh này: Ánh sáng dễ chuyển động; khó giữ nó cố định, cho nên đừng thử giữ nó cố định.
Đó là chỗ yoga thử làm cái gì đó mà không thể được làm một cách dễ dàng. Do đó mới có khó khăn, gian nan của yoga: yoga cố gắng cố định ánh sáng. Nó cũng cố cố định ánh sáng giữa hai mắt, đích xác ở giữa hai lông mày
tại trung tâm con mắt thứ ba. Yoga cố giữ cố định nó. Đó là khác biệt giữa Đạo và yoga: yoga muốn cố định nó - tập trung vào con mắt thứ ba. Nói tóm lại, đó là toàn thể triết lí của yoga: nếu bạn có thể tập trung toàn thể ý thức vào con mắt thứ ba bạn sẽ được biến đổi, hai mắt bạn sẽ trở thành một và bạn sẽ đầy ánh sáng.
Và ngay bên ngoài con mắt thứ ba - con mắt thứ ba là trung tâm thứ sáu trong bản đồ yoga về tâm thức - bên ngoài trung tâm thứ sáu là trung tâm thứ bẩy. Trung tâm thứ bẩy được gọi là hoa sen một nghìn cánh. Nếu ánh sáng được tập trung vào con mắt thứ ba, khi nó trở thành
33
quá nhiều, nó sẽ cho lực đẩy tới trung tâm thứ bẩy, nó sẽ bắt đầu vươn lên như nước trong bình chứa. Và cái đẩy tới trung tâm thứ bẩy sẽ mở ra nụ mà vẫn còn là nụ trong nhiều thế kỉ, trong hàng triệu kiếp.
Đạo làm việc từ một con đường khác. Đạo nói: Cố định ánh sáng là rất khó. Đừng trở nên bị quan tâm tới cố định nó. Cách dễ là luân chuyển nó.
Tâm trí bao giờ cũng luân chuyển dễ dàng: chính bản chất của tâm trí là chuyển động; tâm trí bao giờ cũng thấy khó tập trung. Cho nên tại sao không dùng năng lực của tâm trí? Sao không cưỡi lên nó?
Đạo là khoa học tự phát: Không trau dồi, không ép buộc, không tạo ra rắc rối không cần thiết cho bản thân bạn; dùng năng lực tự nhiên của tâm trí đi - cái mà chuyển động, cái thích chuyển động, cái là kẻ lang thang. Dùng nó, để ánh sáng luân chuyển. Chúng ta sẽ đi tới biết cách luân chuyển nó về sau - tìm ra con đường, và để cho
nó luân chuyển.
Qua luân chuyển của nó, Đạo nhân đi tới khám phá ra hàng trăm điểm châm cứu. Luân chuyển nó khắp thân thể, họ trở nên nhận biết rằng có bẩy trăm điểm tại đó ánh sáng trở thành chính, chính ngọn lửa, và họ đếm chúng chính xác. Bây giờ khoa học chứng thực điều đó: có đích xác bẩy trăm điểm. Bây giờ ngay cả máy cũng đã được phát minh mà có thể vẽ ra tranh về bẩy trăm điểm của bạn, và nơi ánh sáng bị thiếu trong các điểm của bạn, nơi năng lượng không chuyển vào đúng đường kinh. Làm sao Đạo nhân đi tới biết điều đó? Họ không có máy, không công nghệ. Kĩ thuật duy nhất của họ là đi vào trong và luân quang.
34
Chúng ta sẽ đi tới biết về phương pháp thực tại - cách luân chuyển nó. Điều này mới chỉ là tạo ra nền tảng để cho bạn hiểu đích xác cách tiếp cận của họ là gì.
Họ nói nếu bạn luân quang và liên tục luân chuyển nó, tại điểm nào đó nó kết tinh theo cách riêng của nó, bạn không cần lo nghĩ về cố định nó. Luân chuyển, luân chuyển, luân chuyển, một khoảnh khắc, đột nhiên, bạn thấy tất cả đã dừng lại, và việc xảy ra mà yoga cố gắng để làm xảy ra. Trong Đạo nó là việc xảy ra, trong yoga nó là cuộc hành trình dài của nỗ lực. Yoga hướng theo nam tính.
Đạo không hướng nữ tính, Đạo là cả hai - sự tổng hợp. Luân chuyển là năng lượng nam tính và cố định là năng lượng nữ tính. Đạt tới không hành động, đạt tới thụ động qua hành động, qua nỗ lực đạt tới vô nỗ lực.
Khi có yếu quyết này ông không cần tìm bí kíp khác, chỉ phải tụ ý vào nó. Bằng tụ ý, ông có thể thăng và sẽ được sinh trên thiên giới.
Hoa Vàng là thuốc trường sinh bất lão....
Nó là bí mật về mọi bất tử. Đây là điều các nhà giả kim thuật phương Tây dùng để gọi là hòn đá của triết gia, điều ở Ấn Độ được gọi là amrit, kim đan, cam lồ. Đây là bản luận giả kim thuật: nó cho bạn bí mật để biến đổi hoá chất của bạn thành giả kim, để biến đổi kim loại thường
thành vàng. Ngay bây giờ bạn chỉ là kim loại thường, nhưng bạn chứa các bí mật. Nếu những bí mật đó được thực hiện, bạn được biến đổi thành vàng. Vàng là bất tử.
Hoa Vàng là thuốc trường sinh bất lão. Tuy nó dụng công chính xác, vậy mà linh động tới mức để hiểu
35
nó cần cực minh và tuệ, và biết toàn hấp và yên bình nhất. Kẻ vô thượng minh và tuệ này, không tìm được cách; kẻ vô năng thượng thừa để hấp thu và yên bình, không giữ được nó.
Hai yêu cầu.... Thứ nhất, người ta cần thông minh và sáng tỏ. Đừng lo nghĩ về nó. Đừng bắt đầu nghĩ rằng nếu bạn không thông minh, thì sao? Mọi người được sinh ra đều thông minh. Thông minh là thuộc tính cố hữu: cũng như mọi người được sinh ra đều thở, mọi người được sinh ra đều thông minh. Ý tưởng rằng vài người là thông minh và vài người không thông minh là hoàn toàn sai và đã từng làm cho nhiều người mất tính người, là rất xúc phạm, mất danh giá.
Mọi người sinh ra đều thông minh, mặc dầu thông minh của họ có thể khác biệt trong cách diễn đạt của họ. Người này thông minh trong âm nhạc, người khác thông minh trong toán học, nhưng nếu bạn lấy toán là tiêu chí thế thì nhạc sĩ có vẻ không thông minh. Nếu bạn để cả hai người vào trong kì thi mà toán học là tiêu chí, nhạc sĩ thua. Đổi tiêu chí, lấy nhạc làm tiêu chí và cho cả hai người vào thi nơi âm nhạc sẽ quyết định, thế thì nhà toán học có vẻ ngu.
Bởi vì chúng ta đã chọn tiêu chí nào đó, đó là lí do tại sao nhiều người đã bị kết án là ngu - họ không ngu. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người là ngu - điều đó không xảy ra - nhưng thông minh của người đó có thể là một loại thông minh khác. Thơ ca cần loại thông minh khác hơn là trong kinh doanh. Thi sĩ không thể là doanh nhân và doanh nhân sẽ thấy rất khó là thi sĩ. Loại thông minh này được cần để là chính khách, và loại thông minh khác được cần để là hoạ sĩ. Và có cả triệu khả năng.
36
Nhớ lấy, mọi người được sinh ra đều thông minh, cho nên điều đó không ngăn cản bất kì ai. Bạn chỉ phải tìm ra thông minh của bạn - nó ở đâu. Và một khi bạn đã tìm ra thông minh của mình, bạn sẽ sáng tỏ. Mọi người đang sống không sáng tỏ bởi vì họ đang sống với ý tưởng sai về bản thân họ. Ai đó đã bảo bạn - thầy giáo trường, thầy hiệu trưởng, đại học - rằng bạn không thông minh. Nhưng tiêu chí của họ chỉ là tiêu chí được chọn, tiêu chí của họ không áp dụng được cho tất cả. Các đại học chưa là phổ quát: họ không cho phép mọi loại thông minh, họ không chấp nhận mọi biểu lộ của thông minh. Một khi bạn đã chấp nhận thông minh của bạn và bạn bắt đầu kính trọng nó, bạn sẽ trở nên rõ ràng, sẽ không có vấn đề gì.
Nhà thơ cảm thấy ngu xuẩn vì người đó không thể là doanh nhân giỏi. Bây giờ điều này tạo ra hoang mang. Người đó trở thành kém cỏi trong con mắt riêng của mình, bất kính, kết án. Người đó cố thành công trong kinh doanh mà người đó không thể thành công được. Điều này tạo ra làn khói lớn quanh người đó. Nếu người đó đơn giản hiểu rằng người đó là thi sĩ và người đó không được ngụ ý là doanh nhân, và thành công như doanh nhân sẽ là tự tử với người đó - người đó phải thành công như một thi sĩ. Đó là thông minh của người đó, và thông minh của người đó phải nở hoa theo cách riêng của người đó. Người đó phải không bắt chước bất kì ai khác. Có thể xã hội sẽ không trả tiền cho điều đó, vì thơ ca không được cần nhiều như bom được cần, yêu không được cần nhiều như hận thù được cần.
Đó là lí do tại sao trong phim, trên radio, trên ti vi, giết người là được phép; nó không bị coi là tục tĩu. Nhưng làm tình là không được phép; nó bị gọi là tục tĩu. Xã hội này sống qua ghét chứ không qua yêu. Nếu ai đó giết người, điều đó là hoàn toàn được. Nếu ai đó đâm dao vào
37
tim bạn và máu túa ra như đài phun nước, điều đó là hoàn toàn được. Nhưng nếu ai đó ôm ghì bạn, hôn bạn, yêu bạn, xã hội sợ. Điều này là kì lạ, rằng yêu là tục tĩu và giết người thì không, rằng người yêu bị kết án và lính tráng được thưởng, rằng chiến tranh là đúng và yêu là sai.
Nếu bạn chấp nhận thông minh của bạn, nếu bạn chấp nhận bản thân bạn, bạn sẽ trở thành rõ ràng, tuyệt đối rõ ràng; mọi mây mù sẽ biến mất.
Và điều thứ hai: bạn cần hấp thu và yên bình. Thông minh và sáng tỏ là một phần của tâm trí nam, hấp thu và yên bình là một phần của tâm trí nữ. Chỉ đàn bà mới có thể hấp thu, đó là lí do tại sao cô ấy trở nên mang thai - cô ấy có bụng mẹ.
Hai điều này được cần cùng nhau. Nếu bạn không thông minh bạn sẽ không có khả năng hiểu điều được nói cho bạn, bạn sẽ không hiểu điều thầy đang truyền đạt cho bạn. Và nếu bạn không nữ tính, bạn sẽ không có khả năng hấp thu nó, bạn sẽ không có khả năng trở nên mang thai với nó. Và cả hai là được cần: bạn phải thông minh, hoàn toàn thông minh để thấy ra vấn đề, và bạn phải hoàn toàn có tính hấp thu để giữ nó trong bạn, để cho nó trở thành một phần của bạn.
Đây mới chỉ là bối cảnh. Dần dần, dần dần chúng ta sẽ đi vào những kĩ thuật về cách luân quang. Lắng nghe chăm chú, thông minh vào. Hấp thu nó đi. Nó có thể là một trong những kinh nghiệm lớn lao nhất của cuộc đời bạn.
Đủ cho hôm nay.
38
Chương 2
Mắt rỗng
Câu hỏi 1
Về sau nhiều bạn bè đã hỏi tôi liệu tôi có do dự hướng tới tính chất sannyas, đạo tràng và Thầy không. Tôi phải thú nhận sự thực và nói, “Có, nhiều lúc tôi có ngại.” Điều này để lại tôi cảm giác mặc cảm. Tôi đã phạm phải tội lỗi không tha thứ, báng bổ nào đó hay do dự là tự nhiên vì sự chắc chắn? Tôi không biết liệu Thầy có chứng ngộ không. Tôi chỉ có thể cảm thấy cái đẹp và tin cậy nơi thầy.
Bhava, niềm tin là nỗi sợ về hoài nghi - sợ vì nó đã kìm nén hoài nghi. Và bất kì cái gì bạn kìm nén bạn sẽ vẫn còn sợ, vì nó bao giờ cũng có đó bên trong bạn, chờ đợi để trả thù, và bất kì khi nào cơ hội nảy sinh nó sẽ bùng nổ trong bạn với sự trả thù. Niềm tin đang ngồi trên động đất và mọi ngày hoài nghi đều trở nên mạnh hơn, bởi vì mọi ngày bạn đều phải kìm nén nó. Sớm hay muốn nó sẽ lớn hơn là bạn có thể kìm nén, nó nhiều hơn niềm tin của bạn. Thế thì nó đơn giản ném đi niềm tin của bạn.
39
Nhưng tin cậy không sợ hoài nghi vì tin cậy không chống lại hoài nghi. Tin cậy dùng hoài nghi, tin cậy biết cách dùng năng lượng chứa trong bản thân nó. Đó là khác biệt giữa niền tin và tin cậy. Niềm tin là giả; nó tạo ra loại tôn giáo giả, nó tạo ra đạo đức giả. Tin cậy có cái đẹp siêu phàm và chân lí về nó. Nó tăng trưởng qua hoài nghi, nó dùng hoài nghi như phân bón, nó biến đổi hoài nghi. Hoài nghi là bạn, hoài nghi không là thù.
Và chừng nào tin cậy của bạn còn chưa chuyển qua nhiều hoài nghi nó sẽ vẫn còn bất lực. Từ đâu nó thu lấy sức mạnh, từ đâu nó sẽ thu lấy việc tích hợp? Nếu không có thách thức nó nhất định vẫn còn yếu.
Hoài nghi là thách thức. Nếu tin cậy của bạn có thể đáp ứng cho thách thức, có thể là bạn bè với hoài nghi của bạn, nó sẽ tăng trưởng qua hoài nghi. Và bạn sẽ không là con người chia chẻ, sâu bên dưới là hoài nghi và trên bề mặt thì trung thành, tin tưởng; bạn sẽ có một loại thống nhất, bạn sẽ là một cá nhân, không phân chia. Và tính cá nhân đó là điều được gọi là 'linh hồn' trong tôn giáo cổ.
Linh hồn tới qua hoài nghi, không tới qua tin tưởng. Tin tưởng chỉ là mặt nạ: bạn che giấu mặt nguyên thuỷ của mình. Tin cậy là biến đổi: bạn trở thành được chói sáng hơn. Và bởi vì bạn dùng hoài nghi làm thách thức, làm cơ hội, chưa bao giờ có kìm nén. Dần dần, dần dần hoài nghi biến mất bởi vì năng lượng của nó đã bị tin cậy lấy đi.
Hoài nghi, thực ra, không là gì ngoài tin cậy phát triển; hoài nghi là tin cậy đang trên đường. Bao giờ cũng nghĩ về hoài nghi theo cách như vậy: rằng hoài nghi là tin cậy đang trên đường. Hoài nghi là tìm hiểu và tin cậy là việc hoàn thành của tìm hiểu. Hoài nghi là câu hỏi và tin
40
cậy là câu trả lời. Câu trả lời không chống lại câu hỏi - sẽ không có khả năng nào cho bất kì câu trả lời nào nếu không có câu hỏi. Câu hỏi đã tạo ra cơ hội cho câu trả lời xảy ra.
Cho nên xin bạn đừng bao giờ cảm thấy mặc cảm quanh tôi. Tôi tuyệt đối chống lại bất kì loại mặc cảm nào. Mặc cảm là tuyệt đối sai. Nhưng nó đã được các tu sĩ và chính khách và những kẻ khắt khe đạo đức dùng qua nhiều thời đại - trong nhiều thế kỉ. Mặc cảm là chiến lược, chiến lược để khai thác mọi người: làm cho họ cảm thấy mặc cảm. Một khi bạn đã thành công trong việc làm cho họ cảm thấy mặc cảm, họ sẽ là nô lệ của bạn. Bởi vì mặc cảm họ sẽ không bao giờ được hoà hợp đủ, bởi vì mặc cảm họ sẽ vẫn còn bị phân chia. Bởi vì mặc cảm họ sẽ không bao giờ có khả năng chấp nhận bản thân họ, họ bao giờ cũng sẽ kết án. Bởi vì mặc cảm họ sẽ sẵn sàng tin vào bất kì cái gì. Chỉ để gạt bỏ mặc cảm họ sẽ làm bất kì cái gì. Bất kì cái gì vô nghĩa, bất kì nghi lễ nào họ sẽ thực hiện chỉ để gạt bỏ mặc cảm.
Qua nhiều thế kỉ các tu sĩ đã làm cho mọi người mặc cảm. Mọi cái gọi là tôn giáo đều tồn tại trên mặc cảm của bạn, họ không tồn tại trên sự tồn tại của Thượng đế. Họ chẳng có liên quan gì tới Thượng đế và Thượng đế chẳng có liên quan gì tới họ; họ tồn tại trên mặc cảm của bạn. Bạn sợ, bạn biết rằng bạn sai: bạn phải tìm sự giúp đỡ của ai đó người không sai. Bạn biết rằng bạn là vô giá trị: bạn phải cúi mình, bạn phải phục vụ cho những người có giá trị. Bạn biết rằng bạn không thể tin cậy được vào bản thân bạn, bởi vì bạn bị phân chia.
Chỉ người không phân chia mới có thể tin cậy được vào bản thân mình - cảm giác của người đó, trực giác của người đó. Bạn bao giờ cũng rung chuyển, run rẩy bên trong; bạn cần ai đó để dựa vào. Và một khi bạn dựa vào
41
ai đó, một khi bạn trở thành phụ thuộc vào ai đó, bạn vẫn còn là trẻ con, bạn chưa bao giờ trưởng thành. Tuổi tâm trí bạn vẫn còn là tuổi của đứa trẻ. Bạn chưa bao giờ đạt tới bất kì chín chắn nào, bạn chưa bao giờ trở nên độc lập. Và tu sĩ không muốn bạn trở nên độc lập. Độc lập và bạn bị mất với ông ta, phụ thuộc và bạn là toàn thể bãi chợ của ông ta, toàn thể kinh doanh của ông ta.
Tôi hoàn toàn chống lại bất kì mặc cảm nào. Bao giờ cũng nhớ điều đó: Nếu bạn bắt đầu mặc cảm về cái gì đó quanh tôi, thế thì bạn đang làm nó theo cách riêng của bạn. Thế thì bạn vẫn còn đang mang tiếng nói của bố mẹ bạn, của tu sĩ bên trong bạn; bạn vẫn còn chưa nghe tôi, bạn vẫn còn chưa lắng nghe tôi. Tôi muốn bạn được tự do toàn bộ khỏi mọi mặc cảm. Một khi bạn tự do với mặc cảm, bạn là người tôn giáo. Đó là định nghĩa của tôi về người tôn giáo.
Dùng hoài nghi đi - hoài nghi là hay - bởi vì chính chỉ qua hoài nghi mà tin cậy mới đạt tới trưởng thành. Làm sao có thể khác được? Nó phải là đẹp - chính chỉ qua hoài nghi mà chân lí mới trở nên được định tâm, chính chỉ qua hoài nghi mà chân lí nở hoa, bừng nở. Chính đêm tối của hoài nghi đem sáng vàng lại gần bạn hơn. Đêm tối không chống lại bình minh, đêm tối là bụng mẹ cho bình minh. Bình minh đã sẵn sàng trong chính sự hiện hữu của đêm tối.
Nghĩ về hoài nghi và tin cậy như phần bù nhau đi - cũng như đàn ông và đàn bà vậy, cũng như đêm và ngày, hè và đông, sống và chết. Bao giờ cũng nghĩ về những cặp đôi đó, không tránh khỏi, dưới dạng phần bù; đừng bao giờ nghĩ dưới dạng đối lập. Cho dù trên bề mặt chúng dường như là đối lập, sâu bên dưới chúng là bạn bè, giúp lẫn nhau.
42
Nghĩ về người không có tin cậy mà xem: người đó sẽ không có hoài nghi nào, vì người đó chẳng có gì để hoài nghi cả. Cứ nghĩ về một người không có tin cậy chút nào - làm sao người đó có thể hoài nghi được, người đó phải hoài nghi cái gì? Chỉ con người của tin cậy mới có cái gì đó để hoài nghi. Bởi vì bạn tin cậy, do đó bạn hoài nghi. Hoài nghi của bạn chứng minh tin cậy của bạn, không điều khác. Nghĩ về người không thể tin cậy được - làm sao người đó có thể tin cậy được? Nếu người đó thậm chí không có khả năng hoài nghi, làm sao người đó có khả năng tin cậy được? Tin cậy là dạng cao nhất của cùng một năng lượng; hoài nghi là bậc thang thấp nhất của cùng chiếc thang và tin cậy là bậc thang cao nhất của cùng chiếc thang. Dùng hoài nghi đi, dùng nó một cách vui vẻ vào.
Không cần cảm thấy mặc cảm chút nào. Điều hoàn toàn có tính người và tự nhiên là thỉnh thoảng cảm thấy hoài nghi lớn lao về tôi và hoài nghi lớn lao về điều đang diễn ra ở đây. Nó hoàn toàn là tính người - không có gì phi thường trong nó. Nếu nó không xảy ra, thế thì cái gì đó dường như là bất thường. Nhưng nhớ rằng người ta phải đạt tới tin cậy: dùng tin cậy, nhưng không quên mục đích, không quên bậc thang cao nhất của chiếc thang. Cho dù bạn đang đứng trên bậc thấp nhất, nhìn lên bậc cao nhất - bạn phải đạt tới đó. Thực ra, hoài nghi đang đẩy bạn hướng tới cái đó vì không ai có thể cảm thấy thoải mái với hoài nghi.
Bạn đã không quan sát nó sao? Khi có hoài nghi đều có không thoải mái. Đừng thay đổi cái không thoải mái đó, đừng diễn giải cái không thoải mái đó là mặc cảm. Vâng, không thoải mái có đó, bởi vì hoài nghi nghĩa là bạn không chắc chắn về nền đất bạn đang đứng trên. Hoài nghi nghĩa là bạn mơ hồ, hoài nghi nghĩa là bạn chưa là
43
một đơn vị thống nhất - làm sao bạn có thể thấy thoải mái được? Bạn là đám đông: bạn không là một người, bạn là nhiều người - làm sao bạn có thể thoải mái được? Phải có tiếng ồn lớn bên trong bạn, phần này kéo bạn theo hướng này và phần khác kéo bạn theo hướng khác. Làm sao bạn có thể trưởng thành được nếu bạn bị kéo theo nhiều hướng thế một cách đồng thời? Nhất định là không thoải mái, căng thẳng, phiền não, lo âu.
Không ai có thể sống với hoài nghi và trong hoài nghi. Hoài nghi đẩy bạn tới chân lí. Hoài nghi nói, “Đi và tìm ra chỗ mình có thể thảnh thơi, nơi mình có thể hiện hữu một cách toàn bộ.” Hoài nghi là bạn của bạn. Nó đơn giản nói, “Đây không phải là nhà. Đi tiếp lên đi - tìm, kiếm, hỏi.” Nó tạo ra thôi thúc để đi tìm, để thám hiểm.
Một khi bạn bắt đầu thấy hoài nghi như người bạn, như một cơ hội, không chống lại tin cậy mà đẩy bạn đi tới nó, đột nhiên mặc cảm biến mất, chỉ có niềm vui lớn lao. Ngay cả khi bạn hoài nghi, bạn vẫn hoài nghi một cách vui vẻ, và bạn dùng hoài nghi để tìm ra tin cậy. Điều đó tuyệt đối bình thường.
Bạn nói, “Tôi không biết liệu Thầy có chứng ngộ không.” Làm sao bạn có thể biết được nó? Không có cách nào để biết nó chừng nào bạn chưa trở nên chứng ngộ. Làm sao bạn có thể biết điều gì đã xảy ra cho tôi chừng nào điều đó còn chưa xảy ra cho bạn nữa? Điều tuyệt đối đúng là đôi khi cảm thấy rằng bạn không thể tin cậy vào
tôi. Phép màu là ở chỗ đôi khi bạn có thể tin cậy: chỉ vài khoảnh đó sẽ là đủ. Đừng lo nghĩ: chân lí có sức mạnh vô hạn thế. Chân lí giống như ánh sáng và hoài nghi giống như bóng tối. Chỉ một chiếc nến nhỏ của chân lí là đủ phá huỷ bóng tối của các thời đại.
44
Bóng tối không thể nói, “Tôi đã sống ở chỗ này lâu thế, tôi không thể ra đi dễ dàng thế được. Và tôi không thể ra đi chỉ bởi vì cây nến nhỏ này.” Ngay cả một cây nến nhỏ cũng có nhiều tiềm năng hơn bóng tối của các thời đại, của nhiều thế kỉ, của hàng nghìn kiếp sống. Nhưng nó sẽ phải đi... một khi ánh sáng có đó nó phải đi.
Vài khoảnh khắc đó của tin cậy - cứ để cho chúng chỉ là vài khoảnh khắc và xa xăm ở giữa, đừng lo - chúng là đủ phá huỷ mọi hoài nghi của bạn dần dần, dần dần. Và với 'phá huỷ' tôi ngụ ý làm thoát ra năng lượng được chứa trong hoài nghi. Chỉ làm vỡ cái vỏ được gọi là hoài nghi...
và sâu bên trong bạn sẽ thấy năng lượng thuần khiết của tin cậy. Một khi nó được thoát ra ngày càng nhiều tin cậy hơn sẽ thành sẵn có cho bạn.
Bạn nói, “Tôi không biết liệu Thầy có chứng ngộ không.” Điều tốt là bạn không tin. Nếu bạn bắt đầu tin bạn sẽ dừng tìm kiếm. Người tin không bao giờ di chuyển - người đó đã tin rồi. Đó là lí do tại sao có hàng triệu người tôn thờ trong nhà thờ, đền chùa, nhà thờ Hồi giáo, giáo đường Do Thái, nhưng việc tôn thờ của họ là từ niềm tin. Bởi vì nó là từ niềm tin, hàng triệu người đó vẫn còn phi tôn giáo: họ không tìm Thượng đế, họ không kiếm Thượng đế - họ đã chấp nhận rồi. Việc chấp nhận của họ là khập khiễng; họ đã không tranh đấu cho nó, họ đã không thu được nó.
Bạn phải tranh đấu, bạn phải vật lộn, bạn phải thu được. Không cái gì là không có giá trong cuộc sống; bạn phải trả giá. Họ đã không trả giá - và họ nghĩ rằng chỉ bằng việc tôn thờ trong đền chùa họ sẽ đạt tới sao? Họ là người ngu hoàn toàn, họ đang làm phí thời gian của họ. Mọi tôn thờ của họ đều chỉ là ảo tưởng.
45
Người tôn giáo thực không thể tin; người đó tìm. Vì người đó không thể tin, người đó vẫn còn trong hoài nghi, và không ai có thể yên tâm với hoài nghi được. Người ta phải tìm và kiếm và phải tìm ra. Hoài nghi cứ giày vò trong con người bạn, cứ dằn vặt bạn: “Tìm đi, kiếm đi, tìm ra đi chứ, và không bằng lòng trước khi mình đã tìm ra.”
Điều tốt là bạn không thể tin được. Chỉ nhớ một điều: không có nhu cầu tin và không cần không tin. Và điều đó đang xảy ra. Và tôi hạnh phúc.
Bạn nói, “Tôi chỉ có thể cảm thấy cái đẹp và tin cậy của Thầy.”
Đó là mọi điều được cần. Điều đó là đủ, còn hơn cả đủ. Điều đó sẽ trở thành chiếc thuyền để đi sang bờ bên kia - nếu bạn có thể cảm thấy tình yêu của tôi, nếu bạn có thể cảm thấy tin cậy của tôi trong bạn, nếu bạn có thể cảm thấy hi vọng của tôi trong bạn, nếu bạn có thể thấy rằng cái gì đó đẹp đã xảy ra - mặc dầu bạn không biết đích xác nó là gì. Bạn không thể xác định được nó và bạn không thể giải thích được nó, nhưng nếu bạn thậm chí có thể cảm thấy rằng cái gì đó của cõi bên kia.... Đó là điều cái đẹp là gì. Đẹp bao giờ cũng là của cõi bên kia.
Bất kì khi nào bạn thấy hoa hồng và bạn nói, “Nó đẹp,” bạn ngụ ý gì? Bạn đang nói rằng bạn đã thấy cái gì đó của cõi bên kia, cái gì đó vô hình đã trở thành hữu hình cho bạn. Bạn không thể chứng minh được nó. Nếu ai đó khác đứng bên cạnh bạn phủ nhận việc thấy có đẹp gì trong hoa hồng, bạn không thể chứng minh nó cho người đó được - không có cách nào. Bạn sẽ chỉ phải nhún vai. Bạn sẽ nói, “Thế thì chẳng cái gì có thể được làm về nó cả. Tôi thấy và bạn không thấy và điều đó là vậy thôi.”
46
Bạn không thể đi tới nhà khoa học để mổ xẻ hoa hồng và tìm ra liệu nó có chứa cái đẹp hay là không - nó không chứa cái đẹp. Cái đẹp không được chứa trong hoa hồng. Cái đẹp là từ cõi bên kia, nó đơn giản nhảy múa trên hoa hồng: những người có mắt, họ sẽ thấy; những người không có mắt, họ sẽ không thấy. Bạn có thể đem hoa hồng tới nhà hoá học - ông ta sẽ mổ xẻ nó, ông ta sẽ tìm mọi thứ ở trong hoa hồng - nhưng cái đẹp không có trong hoa hồng. Hoa hồng chỉ là một cơ hội cho cái đẹp giáng xuống từ cõi bên kia. Hoa hồng chỉ là màn ảnh cho cái đẹp diễn trên nó. Hoa hồng chỉ là một trạng thái cho vở kịch xảy ra. Bản thân nó không phải là vở kịch, Bạn ngắt hoa hồng đi, bạn mổ xẻ nó ra, bạn cắt nó thành từng mảnh, bạn thấy mọi thành tố - nhưng cái đẹp không phải là thành tố của hoa hồng, mặc dầu không có hoa hồng cái đẹp không thể giáng xuống được.
Nó cũng giống như mặt trời lên vào buổi sáng và các tia sáng nhảy múa trên ao sen. Bạn không thấy bản thân tia sáng, bạn không thể thấy được. Đó là điều Bí mật của Hoa Vàng nói: Ông không thể thấy được cái tinh tuý, ông không thể thấy được cuộc sống; mọi điều ông thấy chỉ là hậu quả.
Bạn đã bao giờ thấy bản thân ánh sáng chưa? Không, bạn chưa bao giờ thấy nó. Nếu bạn nghĩ bạn đã thấy bản thân ánh sáng, bạn đã không nghĩ về nó, bạn đã không trầm tư về nó. Bạn đã thấy các vật được chiếu sáng, bạn đã không thấy bản thân ánh sáng. Bạn đã thấy ao được chiếu sáng, bạn đã thấy hoa sen được chiếu sáng, bạn đã thấy khuôn mặt được chiếu sáng của người đàn của bạn hay con của bạn. Bạn đã thấy thế giới được chiếu sáng, nhưng bạn đã thấy bản thân ánh sáng chưa? Nếu không có gì cho ánh sáng chiếu lên, bạn sẽ không có khả năng thấy nó.
47
Đó là lí do tại sao khoảnh khắc nhà du hành vũ trụ đi xa khỏi Trái đất, ngay cả vào ban ngày, trời vẫn tối, hoàn toàn tối, bởi vì bạn không thể thấy được bản thân ánh sáng và không có gì ở đó để ánh sáng chiếu lên. Do đó trời vô hạn là tối. Bạn thấy ánh sáng trên các ngôi sao vì sao trở thành sàn diễn cho ánh sáng, nhưng bao quanh ngôi sao toàn là bóng tối vì không có gì cản trở ánh sáng. Và chừng nào ánh sáng chưa bị cản trở bạn không thể thấy được nó.
Bạn không thể thấy được chứng ngộ, bạn chỉ có thể thấy hậu quả của nó. Bạn không thể thấy được điều đã xảy ra cho tôi, nhưng bạn có thể thấy cái gì đó đã xảy ra; cái gì đó như X. Không cần gọi nó là chứng ngộ, chỉ X sẽ có tác dụng. Cái gì đó bí ẩn đã xảy ra. Và bạn càng cảm thấy tôi bạn sẽ càng trở nên nhận biết về nó, và bạn càng trở nên nhận biết về nó, cái gì đó bên trong bạn sẽ bắt đầu đáp ứng cho nó. Điều đã xảy ra cho tôi có thể lẩy cò một quá trình trong bạn. Nó không thể là nguyên nhân của chứng ngộ của bạn, nhớ lấy. Chứng ngộ của bạn sẽ không phải là hiệu quả của chứng ngộ của tôi. Không có quan hệ nhân/quả giữa thầy và đệ tử; có một loại quan hệ khác toàn bộ.
Mới trong thế kỉ này, Carl Gustav Jung đã có khả năng xuyên thấu vào trong bí ẩn của loại quan hệ đó. Ông ấy gọi nó là ‘sự đồng bộ’. Nguyên nhân và hậu quả là quan hệ khoa học, sự đồng bộ là quan hệ thơ ca. Với sự đồng bộ điều được ngụ ý là cái gì đó đã xảy ra ở đâu đó và bạn trở thành sẵn có cho nó, bạn vẫn còn mong manh với nó, cái gì đó có thể bắt đầu đáp ứng trong bạn song song với nó. Nhưng nó đã không phải là nguyên nhân cho việc đó, nó không thể là nguyên nhân cho việc đó.
Nó cũng giống như ai đó chơi nhạc hay và ham muốn lớn nảy sinh trong bạn để nhảy múa: nó không
48
được gây ra bởi âm nhạc này, nó là đáp ứng song song trong bạn. Cái gì đó đã ngủ say trong bạn - năng lượng nhảy múa - đã bị đập vào; không phải là nguyên nhân, chỉ đập vào, được khêu gợi, được hứng khởi. Nó là tính đồng bộ. Nếu nó là nguyên nhân thế thì nó sẽ xảy ra cho mọi người.
Chẳng hạn, bạn ở đây, có cả nghìn sannyasins đang hiện diện. Tôi sẵn có cho tất cả các bạn, nhưng tất cả các bạn không sẵn có cho tôi, bạn sẵn có theo những cách khác nhau. Chất lượng khác, số lượng khác. Nếu tôi có thể là nguyên nhân của chứng ngộ của bạn, thế thì tất cả ba nghìn người trong các bạn sẽ trở nên chứng ngộ. Nhưng tôi không là nguyên nhân, tôi chỉ có thể trở thành tác nhân xúc tác. Nhưng để có điều đó bạn phải mở hướng tới tôi. Nếu như tôi là nguyên nhân, sẽ không có nhu cầu cho bạn mở với tôi. Lửa cháy khi gỗ để mở cho nó hay không - điều đó là nguyên nhân. Nước bay hơi tại nhiệt một trăm độ; dù nó mở cho nhiệt hay không cũng không thành vấn đề.
Nguyên nhân và hậu quả là quan hệ mù quáng; nó là thiên về vật chất, nó là giữa vật chất và vật chất. Nhưng tính đồng bộ không có tính vật chất; nó có tính tâm linh, nó có tính thơ ca, nó là chuyện tình. Nếu bạn trở nên mở với tôi, cái gì đó sẽ bắt đầu xảy ra cho bạn. Và nhớ lấy, tôi không phải là nguyên nhân của nó. Bạn không cần cám ơn tôi, bạn không cần biết ơn tôi, tôi không phải là nguyên nhân của nó. Nếu bất kì ai là nguyên nhân của nó, đó là bạn, bởi vì bạn mở với tôi. Tôi có thể đã không làm nó một mình, không có việc làm về phần tôi. Mọi điều được cần là: tôi hiện diện, bạn cũng hiện diện ở đây và cái gì đó sẽ bắt đầu xảy ra. Và không ai làm nó - tôi không làm nó bạn không làm nó. Tôi sẵn có, bạn trở nên
49
sẵn có, và hai năng lượng này rơi vào trong chuyện tình, chúng bắt đầu nhảy múa cùng nhau.
Cho nên đừng lo rằng bạn không thể biết được về chứng ngộ của tôi. Điều này là đủ - bạn nói, “Tôi chỉ có thể cảm thấy cái đẹp và tin cậy của Thầy.” Điều này sẽ có tác dụng. Và một khi nó đã xảy ra trong bạn, bạn sẽ biết. Để biết vị phật người ta phải trở thành vị phật, để biết Christ người ta phải trở thành một Christ.
Câu hỏi 2
Trong vài tuần qua, ngay khi tôi cảm thấy được tràn ngập với điều bí ẩn và phép màu của cuộc sống và thế giới này, tôi đột nhiên cảm thấy mọi thứ bên ngoài tôi giáng xuống gần hơn cho tới khi nó đi vào bên trong mắt tôi. Thế rồi tôi thấy bản thân mình đang nhìn vào cái dường như giống một màn ảnh một chiều ở ngay tại mắt tôi. Dường như chẳng có gì ngoài tôi và tôi một mình thế. Nhưng thế rồi mọi người trong khung cảnh đó tương tác với tôi và tôi trở nên hoang mang. Thế Thầy thì sao? Thầy cũng dường như chỉ là một phần của bức tranh. Cho dù điều này chỉ kéo dài vài giây, tôi trở nên khiếp hãi thế khi điều này xảy ra. Đây có phải là tâm trí tôi giở trò với tôi không? Làm sao tôi có thể thực sự một mình thế?
Maitri, người ta luôn một mình mà. Tính một mình là điều tối thượng - nhưng tính một mình không phải là
50
tính cô đơn. Bạn không cô đơn. Và toàn bộ hiểu lầm nằm ở chỗ đó và đó là điều làm bạn khiếp hãi thế. Cô đơn nghĩa là bạn đang thiếu người khác. Cô đơn là trạng thái phủ định. Cô đơn nghĩa là bạn cảm thấy trống rỗng, bạn đang tìm người khác: bạn tin vào người khác, bạn phụ thuộc vào người khác - và người khác không có đó. Và bởi vì người khác không có đó, có tính không lớn, nhưng tính không đó là một loại tính không mang nghĩa phủ định. Bạn dò dẫm tìm người khác, và bạn không thể tìm được người khác, và mọi thứ bắt đầu biến mất. Và khi mọi thứ bắt đầu biến mất, vấn đề thực là: bạn không thể còn lại là bản thân bạn.
Khi mọi thứ khác đã biến mất, bạn sẽ phải biến mất nữa, bởi vì bạn phụ thuộc vào người khác, bạn chỉ là sự phản xạ của người khác. Bạn đã thấy mặt bạn trong mắt của người khác; họ đã là những tấm gương. Bây giờ chúng không còn là tấm gương nào - bạn là ai? Mọi thứ đã biến mất, thế thì làm sao bạn có thể còn lại trong tính cô đơn này được? Bạn cũng bắt đầu bay hơi và điều đó tạo ra nỗi sợ lớn - sợ chết.
Bản ngã bắt đầu chết và bản ngã bắt đầu tìm đâu đó ai đó để bám vào. Và đó là lí do tại sao bạn bắt đầu tương tác với mọi người. Từ sợ chết bạn bắt đầu lâm vào bận bịu với người khác lần nữa. Và thế rồi hoang mang lớn nhất định có đó, bởi vì hiện hữu tự nhiên của bạn đang đi vào trong tính không sâu sắc. Nhưng bạn trở nên kinh hoàng và bạn kéo bản thân mình ra khỏi nó. Bạn tạo ra mâu thuẫn trong năng lượng này: năng lượng đã đi vào và bạn nhảy ra, do đó có hoang mang.
Nhưng tính một mình là tối thượng. Và khi tôi nói tính một mình là tối thượng, tôi ngụ ý rằng chỉ có một, không có nhiều. Bạn không tách rời khỏi sự tồn tại. Không ai là tách rời khỏi bất kì ai khác, sự tồn tại hoàn
51
toàn là một. Chính ý tưởng về tách rời là khổ của chúng ta, chính ý tưởng rằng “Mình là một hòn đảo” tạo ra địa ngục. Không ai là đảo cả, chúng ta thuộc vào lục địa; chúng ta là một phần của sự tồn tại đại dương này. Quá khứ, hiện tại, tương lai, trong mọi hướng và mọi chiều, nó tất cả là một. Thực ra, từ một mình - alone - nghĩa là all
oneness tất cả là một - đó là tính một mình. All-one tất cả là một tức là alone - một mình.
Nhưng để có điều đó, Maitri, bạn sẽ phải đi thêm chút ít vào trong tính không này. Thứ nhất tính không này có tính phủ định; tính phủ định là cái lõi bên ngoài nhất, phần vỏ. Nếu bạn đi sâu thêm chút ít bạn sẽ thấy tính phủ định mà khẳng định. Tính phủ định khẳng định là điều Phật gọi là niết bàn, chứng ngộ, shunya. Khi bạn đi sâu hơn và bạn đã vượt qua phần vỏ - phần phủ định cứng rắn, phần tối - đột nhiên có ánh sáng, đêm qua rồi. Và thế thì bạn cảm thấy một loại tính một mình mới toàn bộ mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đây, và thế thì bạn biết phân biệt giữa tính cô đơn và tính một mình. Trong tính cô đơn bạn đi tìm người khác, trong tính một mình người khác đã biến mất và do vậy bản ngã phải biến mất. Bây giờ không có ai bên trong và không có ai bên ngoài, và tất cả là một.
Sự thống nhất này, tính một tuyệt đối này đem tới phúc lành. Thế thì không có sợ, không thể có được, bởi vì bây giờ không thể có chết được - làm sao có thể có sợ được? Chết đã xảy ra rồi, cái mà có thể chết đã chết rồi. Bây giờ bạn đang trong thế giới của bất tử, bạn đã tìm thấy kim đan. Đây là nước cam lồ chúng ta sẽ nói đi nói lại trong những lời kinh này của Bí mật của Hoa Vàng. Đây là nước cam lồ, thuốc trường sinh. Đây là kim đan, hòn đá của triết gia. Một khi bạn đã nếm nó, mọi cái chết đều biến mất, mọi thời gian đều biến mất, mọi phân biệt
52
đều biến mất. Bây giờ bạn sẽ thấy cây như việc trải dài của bạn, mây như việc trải dài của bạn, hay bạn như việc trải dài của cây. Bây giờ trung tâm là ở mọi nơi và không đâu cả. Cái ‘tôi’ không tồn tại ở đâu cả thêm nữa. Chính từ này đã trở thành hoàn toàn giả.
Có lần một nhà truyền giáo Ki tô giáo hỏi một Thiền sư, “Chẳng lẽ không có điểm cuối của cuộc hành trình của con người tới hợp nhất với Thượng đế sao?”
Thiền sư nói, “Điểm cuối của cuộc hành trình của con người không phải là hợp nhất với Thượng đế, bởi vì chưa bao giờ có phân tách cả. Mọi điều cần là nhoáng lên sáng suốt làm cho người ta thấy nó.”
Đạo, Thiền, Mật tông - sáng suốt của họ là sâu sắc hơn nhiều so với cái gọi là tôn giáo của bãi chợ. Ki tô giáo nghĩ dưới dạng gắn liền với Thượng đế, là một với Thượng đế, nhưng sáng suốt của Thiền sư này còn xuyên thấu hơn nhiều và sâu hơn. Ông ấy nói: “Nhưng tách biệt đã bao giờ có ở đâu không? Khi nào? Nó chưa từng xảy ra chút nào, ông đã mơ rằng ông là tách biệt. Bước ra khỏi giấc mơ đi! Không có hợp nhất, ông bao giờ cũng là một với sự tồn tại rồi. Không một khoảnh khắc nào đã từng có tách biệt, không có khả năng nào của tách biệt.”
Maitri, bạn đang tới sáng suốt rất rất quan trọng, có ý nghĩa đấy. Nếu bạn không bị hoảng sợ và chạy trốn khỏi kinh nghiệm này, bạn có thể đạt tới chớp loé của sáng suốt làm cho người ta thấy nó: rằng tất cả là một.
Nhưng sợ bao giờ cũng tới. Nó không mới. Từng người tìm kiếm đều phải đi qua nó. Và nó thực sự nhiều tới mức trước khi bạn nghĩ tới nó bạn đã chạy khỏi nó rồi.
53
Nó gây kinh hoàng tới mức nó không cho bạn thời gian, không gian, để cân nhắc về nó - phải làm gì? Nó giống như nhà bị cháy - bạn không nghĩ nữa: “Mình có nên chạy ra hay không?” Không có nhiều phương án còn lại;
bạn đơn giản chạy ra khỏi nhà mà không nghĩ. Không có thời gian để nghĩ. Về sau bạn có thể nghĩ: khi bạn ở bên ngoài nhà, ngồi dưới cây, bạn có thể nghĩ và trầm tư trong xa hoa. Nhưng khi nhà bị cháy, làm sao bạn có thể nghĩ được? Hành động được cần ngay lập tức, và ý nghĩ chưa bao giờ là tức khắc. Đó là vấn đề.
Khi bạn đi vào trong tính một mình ban đầu rất cô đơn, bởi vì bạn đã sống với ý tưởng về người khác. Nó là một ý tưởng mơ; người khác không có đó. ‘Ta’ và ‘người’ - cả hai là giả. Martin Buber nói rằng phẩm chất tối thượng của lời cầu nguyện là đối thoại giữa ‘ta’ và ‘người’. Đó là chỗ Do Thái giáo bị mắc kẹt: lời cầu nguyện tối thượng không phải là đối thoại chút nào, lời cầu nguyện tối thượng là độc thoại vì người khác không có đó.
Một Thiền sư thường gọi tên mình vào buổi sáng; mọi sáng. Ông ấy sẽ hét tên của mình lên và nói, “Anh khoẻ chứ?” Và ông ấy sẽ trả lời, “Tôi hoàn toàn khoẻ, thưa ông.”
Bạn sẽ nghĩ ông ấy điên - nhưng đây là lời cầu nguyện. Không có 'tôi', không có ‘người’; bạn phải đóng cả hai vai. Nó là trò chơi, nó là cuộc chơi. Lời cầu nguyện là cuộc chơi - chơi với cái ta riêng của bạn. Không có
‘người khác’.
54
Nhưng Do Thái giáo bị mắc kẹt ở đó với ý tưởng về ‘ta’ và ‘người’. Đó là lí do tại sao họ chống lại Jesus nhiều thế, bởi vì ông ấy đã tuyên bố - mặc dầu không theo cách triệt để như các Thiền sư tuyên bố.... Không thể nào triệt để hơn ông ấy trong tình huống của mình. Nhưng dầu vậy ông ấy đã nói, “Ta và cha ta là một.” Nhưng điều đó là đủ làm mọi người tức điên. Mọi người điên: “Nó nói gì vậy? Dám tuyên bố bản thân mình là Thượng đế à?”
Ông ấy không nói gì cả, ông ấy không tuyên bố bản thân mình là Thượng đế. Ông ấy đơn giản nói không có Thượng đế và không có người sùng kính, chỉ có cái một. Bạn có thể gọi nó là người sùng kính trong tình huống nào đó, bạn có thể gọi nó là Thượng đế trong tình huống khác. Đó là lí do tại sao ông ấy nói, “Ta và Cha ta là một. Nếu ông nhìn vào thân thể ta, ta là con, nếu ông nhìn vào linh hồn ta, ta là cha. Nếu ông nhìn vào hình dạng của ta, ta là một con người, con của con người, nếu ông nhìn vào điều tinh tuý của ta, ta là con của Thượng đế.” Đó là lí do tại sao ông ấy cứ lắp đi lắp lại. Thỉnh thoảng ông ấy nói, “Ta là con của con người,” và thỉnh thoảng ông ấy nói, “Ta là con của Thượng đế.” Có vẻ mâu thuẫn, nhưng nó không mâu thuẫn đâu.
Maitri, bạn nói, “Trong vài tuần qua, ngay khi tôi cảm thấy được tràn ngập với điều bí ẩn và phép màu của cuộc sống và thế giới này, tôi đột nhiên cảm thấy mọi thứ bên ngoài tôi giáng xuống gần hơn cho tới khi nó đi vào bên trong mắt tôi.”
Mọi điều bạn thấy đều là phóng chiếu của mắt bạn. Thế giới, như nó vậy, bạn còn chưa thấy. Điều bạn đã thấy chỉ là việc phóng chiếu, cho nên khi bạn bắt đầu đi vào trong, mọi thứ mà bạn đã phóng chiếu trên thế giới sẽ tới ngày càng gần hơn, gần hơn và gần hơn với mắt và sẽ
55
biến mất trong mắt bạn. Thế giới này là việc phóng chiếu của mắt bạn. Bạn không thấy cái đang đó, bạn phóng chiếu mơ lên nó.
Chẳng hạn, có viên kim cương lớn, viên Kohinoor. Bây giờ, nó chỉ là hòn đá như bất kì hòn đá nào khác, nhưng chúng ta đã phóng chiếu nhiều giá trị thế lên nó. Nhiều người đã chết bởi vì viên Kohinoor; bất kì ai sở hữu nó đều bị chết. Bây giờ nhìn toàn thể cái vô nghĩa của nó: chính viên đá đó đã chứng tỏ rất sát hại - bởi vì việc phóng chiếu của mọi người. Nó là một trong những thứ quí giá nhất trên thế giới, thứ đắt nhất trên thế giới, nhưng nếu con người biến mất khỏi trái đất, nó có là cái gì hơn bất kì hòn đá cuội khác nào không? Nó sẽ chỉ nằm đó cùng các hòn đá cuội khác, theo cùng cách. Sẽ không có phân biệt, không khác biệt.
Khác biệt nào tới từ đâu? Mắt chúng ta phóng chiếu, chúng ta làm cho nó thành đặc biệt. Chúng ta cứ đổ ham muốn của mình lên nó. Nó trở thành rất quí giá, và rất nguy hiểm nữa. Nếu bạn trầm tư về viên Kohinoor - im lặng nhìn nó, ngắm nó - một khoảnh khắc sẽ tới khi bạn thấy rằng cái gì đó từ Kohinoor đang tới ngày càng gần hơn với mắt bạn và thế rồi nó biến mất trong mắt. Thế rồi bạn mở mắt ra, viên Kohinoor đã biến mất: có cái gì đó, nhưng bạn đã không biết nó từ trước và cái bạn đã biết từ trước thì không còn đó nữa.
Một kinh nghiệm hay, cực kì có ý nghĩa; đi vào trong nó đi, đi ngày càng sâu hơn vào trong nó đi. Để cho toàn thể thế giới biến mất. Vâng, tôi cũng sẽ biến mất vào trong đó, bởi vì cái mà tôi đang là thì bạn còn chưa thấy, và cái mà bạn thấy là phóng chiếu của bạn. Phóng chiếu của bạn sẽ biến mất, và khi mọi phóng chiếu của bạn đã biến mất, thế thì thế giới tới trong sự trần trụi của nó, như nó vậy.
56
Và ngạc nhiên về nó đi! Thế thì những điều nhỏ bé là kì diệu thế, thế thì hòn đá cuội bình thường là kì diệu thế. Bởi vì viên Kohinoor chúng không thể kì diệu được; bạn đã phóng chiếu mọi thứ lên viên Kohinoor, bạn đã không để lại tình yêu nào cho bất kì cái gì khác. Một khi việc phóng chiếu biến mất và bạn mở mắt ra, mắt trống rỗng - không phóng chiếu cái gì chút nào, chỉ nhìn bất kì cái gì đang đó, không có ý tưởng nào nó là gì, không tên, không nhãn, không diễn giải, chỉ nhìn, trống rỗng, thụ động - thế giới đi tới có nghĩa, ý nghĩa khác toàn bộ.
“Tôi đột nhiên cảm thấy mọi thứ bên ngoài tôi giáng xuống gần hơn cho tới khi nó đi vào bên trong mắt tôi. Thế rồi tôi thấy bản thân mình đang nhìn vào cái dường như giống một màn ảnh một chiều ở ngay tại mắt tôi.”
Hoàn toàn tốt và hoàn toàn đúng. Đây là cách người ta đi sâu hơn vào thiền.
"Dường như chẳng có gì ngoài tôi và tôi một mình thế."
Vấn đề duy nhất là ở chỗ bạn vẫn có đó, đó là lí do tại sao bạn cảm thấy một mình thế. Bạn ngụ ý cô đơn. Cái ‘tôi’ vẫn còn một mình, ‘người’ đã biến mất, và không có 'người' cái 'ta' là cô đơn. Cái ‘ta’ tồn tại chỉ trong quan hệ; cái ‘ta’ không phải là thực thể mà là quan hệ - nó không thể tồn tại mà không có 'người', nó cần cái 'người'. Làm sao người yêu có thể tồn tại mà không có người được yêu? Một khi người được yêu không có đó thì người yêu bắt đầu biến mất. Bạn cần người được yêu, tình yêu là quan hệ. Cho nên cái 'ta' là quan hệ. Và bởi vì bạn vẫn bảo vệ cái 'tôi' bằng cách nào đó, bạn vẫn chưa đủ dũng cảm để cho nó đi nữa.
Cũng như toàn thế giới đã biến mất, để cái 'tôi' này cũng biến mất đi. Nó sẽ là kinh hoàng lúc ban đầu; nó sẽ
57
là quá trình chết - nó là quá trình chết. Nó sẽ có vẻ dường như bạn đang tự tử, nó sẽ có vẻ.... Ai biết bạn đang đi đâu, liệu bạn sẽ quay lại lần nữa hay không? Nó sẽ có vẻ dường như điên khùng đang bùng nổ trong bạn, và nỗi sợ lớn sẽ nảy sinh và trong nỗi sợ đó bạn sẽ bị ném ra lặp đi lặp lại. Nó sẽ xảy ra nhiều lần. Dần dần, dần dần bạn sẽ phải học không sợ thế - không có gì mà sợ cả: bạn ở rất gần kho báu.
Có những khoảnh khắc mà thầy được cần tới để giúp bạn, để cho bạn dũng cảm, để cầm tay bạn, để nói với bạn, “Maitri, mọi sự đều hoàn toàn đúng. Đi vào đi!”
Tôi phải trải qua cùng điều này và tôi cũng có nhiều sợ hãi như bạn vậy. Và nhiều lần tôi đi ra cũng như bạn đi ra. Và bạn còn may mắn hơn tôi vì tôi không có thầy - không ai cho tôi dũng cảm, không ai cầm tay tôi. Tôi đơn giản vật lộn với bản thân mình. Không có ai có thể nói cho tôi cái gì sắp xảy ra phía trước. Tôi phải dò dẫm và đi vào trong nó - và điều đó là nguy hiểm, điều đó là điên khùng. Và mọi người quanh tôi vào những ngày đó đều đã tin rằng tôi đã phát điên. Mọi người yêu tôi đều lo lắng. Bạn tôi lo lắng, thầy giáo của tôi lo lắng, các giáo sư của tôi ở đại học lo lắng, bố mẹ tôi lo lắng, mọi người đều lo lắng. Nhưng tôi phải đi. Nhiều lần tôi đã đi ra, sợ nhiều thế. Tôi hoàn toàn quen thuộc với sợ.
Nhưng một ngày nào đó người ta phải đối diện với nó và đi qua nó, bởi vì lặp đi lặp lại bạn rơi lên nó và bạn xô ra và bên ngoài không còn nghĩa gì nữa. Bên ngoài toàn trống rỗng, và bạn đi vào bên trong và sợ - bạn phải chọn giữa hai điều này. Bên ngoài không còn liên quan. Bạn có thể cứ làm các cử chỉ trống rỗng, nhưng bạn có thể tự lừa bản thân bạn được bao lâu? Bạn biết màn ảnh là trống rỗng và mọi phóng chiếu của bạn là chết và bạn đi vào bên trong và nỗi sợ, cơn bão to của sợ nảy sinh.
58
Nhưng không có cách khác - người ta phải đi qua nó để biết đích xác cái gì xảy ra sau cái chết này. Bạn càng sớm thu được dũng cảm càng tốt.
Và tôi nói lần nữa, bạn may mắn hơn, vì tôi đang đứng phía trước bạn trong cái trống rỗng hoàn toàn đó, vẫy gọi bạn tới: “Lại đây! Tất cả tới đây. Tới nữa, tới nữa!” Và tôi cứ gọi bạn cũng như Christ đã gọi Lazarus từ nấm mồ: “Lazarus, ra đi!” Thực ra, chuyện ngụ ngôn đó không phải là sự kiện lịch sử. Nó là ngụ ngôn. Nó là ngụ ngôn về đi từ bên ngoài vào bên trong.
Bên ngoài trở thành nấm mồ khi nó mất nghĩa. Bên ngoài trở thành chỉ là vô tích sự, đất hoang, nấm mồ. Không cái gì mọc ra từ nó thêm nữa, không cái gì nở hoa trong nó thêm nữa - không khả năng của bất kì bài ca và điệu vũ nào - và bạn sống chỉ trong chuyển động trống rỗng, cử chỉ trống rỗng.
Nhưng thầy đang đứng ở chỗ bạn sợ đi tới và thầy gọi từ đó. Tôi không đứng bên ngoài bạn; bạn sẽ gặp tôi trong tính không bên trong nhất đó - không như tôi, tất nhiên - không như một người mà như sự hiện diện, không tách rời khỏi bạn mà là một với bạn.
Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh nhiều thế vào tính chất sannyas. Chừng nào bạn chưa là một sannyasin sẽ khó cho tôi gọi bạn từ bên trong. Tôi có thể gọi bạn từ bên ngoài, nhưng thế thì bạn vẫn chỉ là học sinh. Tôi có thể dạy bạn đôi điều - cái đó sẽ trở thành tri thức - nhưng tôi không thể gọi được bạn từ bên trong của bạn, từ chính tâm bạn. Và nhu cầu có đó. Điều đó là có thể chỉ nếu bạn trở thành đệ tử, nếu bạn là một sannyasin, nếu bạn sẵn sàng đi cùng tôi, nếu bạn sẵn sàng tin cậy vào tôi, ít nhất trong những khoảnh khắc nào đó. Tôi sẽ dùng "những
59
khoảnh khắc nào đó" đó và sớm hay muộn chúng sẽ trở thành chính trạng thái hiện hữu của bạn.
Cho nên đi tiếp đi. Để cái ‘ta’ này, cái ‘tôi’ này cũng biến mất. Và một khi cái 'tôi' biến mất thì không có cô đơn, có một mình. Và một mình là đẹp, một mình là tự do, nó là chính cảm giác khẳng định của sự lành mạnh, cảm giác khẳng định của niềm vui lớn lao. Nó là chính khoảnh khắc lớn lao, lễ hội. Nó là mở hội.
"Dường như chẳng có gì ngoài tôi và tôi một mình thế." Vâng, nếu "tôi" còn lại bạn sẽ vẫn còn cô đơn.
"Nhưng thế rồi mọi người trong khung cảnh đó tương tác với tôi và tôi trở nên hoang mang. Thế còn thầy thì sao? Thầy cũng dường như là một phần của bức tranh."
Cho phép tôi trở thành một phần của bức tranh ở bên ngoài đi, chỉ thế thì tôi mới có thể bắt đầu làm việc từ bên trong. Để tôi biến mất khỏi bên ngoài để cho bạn có thể thấy tôi ở bên trong. Và điều đó sẽ là chân lí của tôi, Và điều đó là chân lí của Christ và điều đó là chân lí của Phật và Krishna. Điều đó là chân lí của mọi thầy, của mọi người đã trở nên thức tỉnh.
“Cho dù điều này chỉ kéo dài vài giây, tôi trở nên khiếp hãi thế khi điều này xảy ra.” Nó là tự nhiên, nhưng thu lấy dũng cảm đi. Tôi đi cùng bạn. Đi vào trong đi.
"Đây có phải là tâm trí tôi giở trò với tôi không?"
Không, không chút nào. Tâm trí tạo ra sợ, không tạo ra kinh nghiệm này. Tâm trí đang giở trò khi nó tạo ra sợ. Nó không phải là tâm trí khi bạn thấy mọi phóng chiếu của bạn tới gần hơn và gần hơn và biến mất vào trong mắt
bạn, nó không phải là tâm trí khi mọi thứ trở thành màn ảnh trống rỗng trắng. Nó không phải là tâm trí, nó là
60
thiền: nó là chuyển động hướng tới vô trí. Tâm trí tạo ra sợ - khi nó tới rất gần với vô trí, nó trở thành sợ chết tới mức nó tạo ra sợ - và trong sợ đó bạn xô ra lần nữa.
Lần tiếp nó xảy ra, Maitri, đi vào trong đi, mặc cho sợ. Giống như voi cứ đi mặc cho chó cứ việc sủa. Để cho các con chó tâm trí sủa, cứ đi như voi. Không bận tâm chút nào về tâm trí - điều nó nói.
Câu hỏi 3
Điều gì xảy ra khi người chứng ngộ trượt trở lại vào trong ảo tưởng?
Hoa rụng không nhảy về cành. Điều đó là không thể được. Người chứng ngộ không thể trượt trở lại vào ảo tưởng. Không có cách nào; vì nhiều lí do không có cách nào.
Lí do thứ nhất: người chứng ngộ không còn nữa - ai sẽ trượt trở lại? Chứng ngộ có đấy; không có gì giống như người chứng ngộ. Chứng ngộ hoàn hảo có đó, nhưng không có ai chứng ngộ cả. Đó chỉ là cách nói, nguỵ biện ngôn ngữ. Ai sẽ trượt trở lại? Người có thể đã trượt trở lại đã biến mất rồi. Và người ta có thể trượt trở lại đâu? Một khi bạn đã thấy nó là ảo tưởng, nó không còn đó nữa. Một khi bạn đã thấy nó không còn đó nữa, nó được kết thúc rồi. Bạn có thể trượt trở lại đâu? Điều đó là không thể được.
61
Nhưng ý tưởng này nảy sinh trong tâm trí chúng ta bởi vì trong cuộc sống chúng ta chưa bao giờ thấy cái gì giống điều đó. Chúng ta đạt tới một thứ và chúng ta rơi trở lại: chúng ta trong tình yêu và thế rồi chúng ta rơi ra khỏi nó, chúng ta hạnh phúc và thế rồi chúng ta trở nên bất hạnh, chúng ta cảm thấy tốt và thế rồi chúng ta cả thấy rất tệ. Chúng ta biết nhị nguyên, nhị nguyên chưa bao giờ biến mất, cho nên một cách tự nhiên chúng ta nghĩ về chứng ngộ cũng dường như người ta có thể trượt trở lại.
Chứng ngộ là việc nhận ra cái bất nhị. Đó là lí do tại sao các Thiền sư nói luân hồi là niết bàn - chính thế giới là niết bàn, chính ảo tưởng là chân lí. Không có phân biệt nào còn lại. Không phải là đây là chân lí và kia là ảo tưởng. Mọi thứ đều là chân lí, chỉ chân lí hiện hữu. Bạn có thể rơi trở lại ở đâu? Bạn đã đi ra ngoài điểm không quay lại. Không ai đã bao giờ rơi trở lại cả. Và đừng lo về những người này - bạn nên lo về bản thân bạn.
Đầu tiên trở nên được chứng ngộ đi và thế rồi cố gắng trượt trở lại xem sao. Và thế thì bạn sẽ thấy: dễ dàng để trở nên được chứng ngộ hơn, rất khó để trượt trở lại. Tôi đã thử rồi, nhưng tôi đã không thành công.
Câu hỏi 4
Xin thầy giải thích về phúc lạc và khổ, vì bất kì khi nào tôi đương đầu với tình yêu hay cái đẹp, tôi chỉ cảm thấy cực kì đau mà không phúc lạc, và tôi không hiểu điều này.
62
Suparna, bạn đã được bảo đi bảo lại, bạn đã được dạy đi dạy lại rằng vui là sai và khổ là đúng. Bạn có thể đã không được bảo một cách trực tiếp thế, nhưng một cách gián tiếp bạn đã bị ước định và thôi miên về khổ. Bạn đã bắt đầu tin rằng khổ là tự nhiên. Bạn thấy khổ khắp xung quanh, khổ đầy dẫy, mọi người đều khổ. Nó dường như là cách mọi sự vậy.
Khi bạn được sinh ra, bạn đã là đứa trẻ hạnh phúc - như mọi đứa trẻ đều hạnh phúc. Điều đó đã không xảy ra khác đi - chưa bao giờ. Bất kì khi nào một đứa trẻ được sinh ra nó đều hạnh phúc, hoàn toàn hạnh phúc, và đó là lí do tại sao trẻ con trông rất vị kỉ: chúng chỉ nghĩ tới bản thân chúng, chúng không lo nghĩ về thế giới, và chúng hạnh phúc về những thứ nhỏ bé. Bướm trong vườn, và niềm vui hoàn toàn và sự ngạc nhiên của chúng - vào những thứ nhỏ bé, vào không cái gì, nhưng chúng hạnh phúc, chúng hạnh phúc một cách tự nhiên.
Nhưng dần dần, dần dần chúng ta làm què quặt hạnh phúc của chúng, chúng ta phá huỷ nó. Chúng ta không thể dung thứ được nhiều hạnh phúc thế. Thế giới này rất khổ và chúng ta phải chuẩn bị chúng cho thế giới. Cho nên một cách gián tiếp chúng ta bắt đầu truyền bá cho chúng rằng, “Thế giới là khổ. Con không thể đảm đương được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ là hi vọng. Làm sao con có thể hạnh phúc được? Đừng ích kỉ thế! Có nhiều khổ khắp xung quanh - cảm thấy vì người khác đi, nghĩ về họ đi.” Dần dần, dần dần đứa trẻ có cảm giác rằng là hạnh phúc là một một loại tội lỗi. Làm sao bạn có thể hạnh phúc được khi thế giới đang trong khổ thế?
Mọi người viết thư cho tôi hỏi: “Làm sao thầy có thể dạy cho mọi người thiền khi mà thế giới đang trong khổ
63
sở thế? Làm sao người ta có thể hạnh phúc khi mọi người đang chết đói?” Cứ dường như là bất hạnh của bạn sẽ giúp được họ! Cứ dường như bằng việc không có tính thiền bạn sẽ là một loại phục vụ nào cho họ. Cứ dường như chiến tranh sẽ biến mất nếu bạn không thiền, và nghèo nàn sẽ biến mất nếu bạn không hạnh phúc. Nhưng khổ phải được duy trì như đạp xe liên tục, khổ đã được tôn thờ.
Tôi bao giờ cũng ngờ rằng Ki tô giáo đã trở thành tôn giáo lớn nhất bởi vì cây chữ thập. Nó đại diện cho khổ sở, đau đớn. Krishna chắc không thể trở thành một tôn giáo lớn được bởi vì chiếc sáo của ông ấy, bởi vì điệu vũ của ông ấy. Ngay cả những người tôn thờ ông ấy cũng cảm thấy chút ít mặc cảm về ông ấy. “Làm sao bạn có thể hạnh phúc và nhảy múa với bạn gái được? Và không chỉ một - cả nghìn! Và ca hát và thổi sáo! Mọi người đang chết và có chết chóc và chết đói và chiến tranh và bạo hành và đủ mọi loại thứ đang diễn ra khắp xung quanh. Nó là địa ngục, và bạn đang thổi sáo! Dường như nhẫn tâm, dường như bạn độc ác.” Jesus có vẻ phù hợp hơn, chết trên cây chữ thập. Nhìn vào mặt Jesus mà xem. Cách thức người Ki tô giáo đã vẽ ông ấy, mặt ông ấy rất dài, buồn bã; ông ấy đang mang toàn thể gánh nặng của Trái đất. Ông ấy đã tới để nhận mọi tội lỗi của mọi người lên bản thân ông ấy. Ông ấy dường như là người phục vụ vĩ đại nhất - rất không vị kỉ. Nhưng cảm giác của tôi là ở chỗ người Ki tô giáo đã vẽ sai về Christ.
Christ này là huyền thoại; Christ thực giống nhiều với Krishna hơn. Thực ra, nếu bạn đi sâu xuống dưới trong từ ‘Christ’ bạn sẽ ngạc nhiên: nó bắt nguồn từ Krishna, gốc rễ của nó là Krishna. Jesus phải đã là một người rất vui vẻ; bằng không làm sao bạn có thể nghĩ về ông ấy đang ăn, uống, một cách vui vẻ? Có nhiều cảnh
64
tượng mà bạn bè đã tụ tập và họ đang ăn và uống và tán gẫu. Ông ấy không phải bao giờ cũng ‘giảng sách’, thỉnh thoảng ông ấy cũng tán gẫu nữa! Và ông ấy dường như là sứ giả duy nhất từ Thượng đế mà uống và ăn ngon và tận hưởng những thú vui nhỏ của cuộc sống.
Cảm giác của tôi là ở chỗ nếu các Thiền sư mà tạo ra tôn giáo của Jesus, họ chắc sẽ làm cho ông ấy cười trên cây chữ thập - cái cười bụng. Jesus chắc có cái bụng lớn như Bồ đề đạt ma và cái bụng sẽ rung lên như động đất với tiếng cười lớn! Và điều đó chắc đã là đúng hơn nhiều, thật hơn nhiều.
Ngay cả ở Nhật Bản và Trung Quốc tượng của Phật được làm với cái bụng bự. Ở Ấn Độ họ không làm cái bụng bự đó - không, không chút nào. Quan niệm của người Ấn Độ, quan niệm của người yogi, là ở chỗ bụng phải rất nhỏ và ngực phải lớn, bởi vì việc thở yoga là việc thở sai, nó không tự nhiên. Nó có thể làm ra một Muhammad Ali từ bạn nhưng không làm ra vị phật. Nó sẽ cho bạn hình dạng của ông Vũ trụ, nhưng bạn có thấy loại người nào khác trên thế giới mà xấu hơn không? Ông Vũ trụ dường như là xấu nhất. Tôi nghĩ chẳng đàn bà nào có thể yêu được ông Vũ trụ. Ông ta trông có tính con vật thế - toàn cơ bắp và không có tính người, chỉ là một loại máy. Cứ nhìn cơ bắp của ông ta chuyển động mà xem: chỉ là một loại máy móc, cái máy, nhưng không có linh hồn. Tượng người Ấn Độ làm về Phật là tượng người yogi. Khi họ làm tượng Phật ở Trung Quốc, họ làm nó với cái bụng lớn.
Khi người ta cười và khi người ta thở một cách tự nhiên, bụng dần trở nên to hơn, bởi vì thế thì người ta thở từ bụng và không từ ngực - hơi thở đi theo toàn thể đường xuôi xuống. Nếu Thiền mà làm ra tôn giáo của Ki tô giáo, Jesus chắc vẫn ở trên cây chữ thập, nhưng với tiếng cười,
65
- cười tới mức nó vang vọng suốt nhiều thế kỉ. Nhưng điều đó có thể đã không là một tôn giáo thành công, bởi vì làm sao nó phù hợp được với người chỉ kêu và khóc? Nó sẽ có vẻ hoàn toàn lập dị, dị thường. Ở trên cây chữ thập và buồn có vẻ hoàn toàn đúng, bởi vì mọi người đều đang trên cây chữ thập nào đó và buồn.
Và bạn phải đã được dạy từ chính thời thơ ấu rằng thế giới là chỗ sai. Làm sao bạn có thể hạnh phúc ở chỗ này được? Chúng ta đang chịu trừng phạt. Thượng đế đã ra lệnh cho Adam và Eve phải cuốn xéo khỏi Thiên đường bởi vì họ đã không vâng lời, và nhân loại ở dưới cái tai hoạ đó. Làm sao bạn có thể hạnh phúc được? Là người Ki tô giáo và hạnh phúc sẽ là mâu thuẫn ngay trong thuật ngữ.
Cho nên, Suparna, bạn phải đã được dạy rằng thế giới là chỗ khổ sở: khổ là hoàn toàn đúng trong nó, trong hoà điệu với nó, và mọi người đều khổ - sẽ rất khắc nghiệp và độc ác về phần bạn để mà hạnh phúc và vui vẻ. Đó là lí do tại sao ngay cả khi có những khoảnh khắc vui vẻ mọi người vẫn cảm thấy mặc cảm và họ kìm lại.
Larson lái xe đưa Charlotte đi về vùng thôn quê và đỗ xe ở một quãng đường hoang vắng. “Nếu anh thử gạ gẫm em,” Charlotte nói, “em sẽ la lên đấy.”
“Điều đó thì có tác dụng gì?” Larson hỏi. “Chả có ma nào quanh đây vài dặm.”
“Em biết chứ” Charlotte nói, “nhưng em muốn thoả mãn cho lương tâm em trước khi em bắt đầu có thời gian vui thú.”
66
Ngay cả làm tình mọi người cũng mang mặt buồn dường như họ đang trên cây chữ thập - nghiêm chỉnh, làm bổn phận - và cho dù họ muốn tận hưởng, họ che giấu điều đó. Nó có vẻ không phải. Họ cảm thấy mặc cảm.
Nếu mọi người thực sự làm tình với niềm vui họ sẽ la lên, họ sẽ hét lên, họ sẽ kêu lên, họ sẽ khóc, họ sẽ cười. Người ta chẳng bao giờ biết loại xúc động nào sẽ trồi lên bề mặt, cho nên tốt hơn cả là giữ bản thân bạn trong kiểm soát; bằng không bạn sẽ trông ngu xuẩn thế. Và thế thì hàng xóm sẽ nghĩ gì? Và bức tường hiện đại là mỏng tới mức bạn thậm chí phải làm tình trong tư thế yoga - shavasana, tư thế thân thể chết - và được kết thúc với nó sớm nhất có thể được, không để nó trở thành cực thích. “Mình đang làm gì thế này? Và Jesus đau khổ cho mình trên cây chữ thập! Và mình đang hét lên vì vui vẻ? Phải nghĩ tới Jesus chứ, Jesus đáng thương và điều ông ấy sẽ làm cho mình! Và nghĩ về Thượng đế - ngài là một kiểu Tom dò xét, bao giờ cũng nhìn qua lỗ khoá - ngài sẽ nghĩ gì?”
Nếu bạn nghĩ về mọi thượng đế và thế rồi các thiên thần và các christ và các thánh nhân và họ tất cả đều đang quan sát và bạn làm tình... và với hứng thú thế! Bạn sẽ bị đoạ địa ngục! Tốt hơn cả là giữ kiểm soát, điều tốt là cảm thấy mặc cảm. Đó là lí do tại sao sau khi làm tình mọi người cảm thấy một loại buồn bã, một loại thất vọng, cứ dường như họ đã làm cái gì đó tội lỗi. Họ lại tận hưởng bản thân họ và điều đó là không đúng.
Nhìn mà xem: bất kì khi nào bạn cảm thấy khổ, cái gì đó cho cảm giác tốt. Nó sẽ có vẻ như mâu thuẫn, nhưng nó giống thế này: bất kì khi nào bạn khổ bạn cảm thấy phúc lạc và bất kì khi nào bạn phúc lạc bạn cảm thấy khổ.
67
Bạn nói, “Xin thầy giải thích về phúc lạc và khổ, vì bất kì khi nào tôi đương đầu với tình yêu hay cái đẹp tôi chỉ cảm thấy đau vô cùng mà không phúc lạc, và tôi không hiểu điều này.”
Bạn sẽ không có khả năng hiểu được điều này chút nào bởi vì toàn thể hiểu biết của bạn đã bị đầu độc. Bạn sẽ phải vứt bỏ toàn thể tâm trí. Không có nhu cầu để hiểu. Bạn phải đi vào trong nó với sự hồn nhiên, không với hiểu biết, bởi vì việc hiểu biết đó lại là một loại tính toán; việc hiểu biết đó lại là tri thức mà đã từng được xã hội trao cho. Và tri thức đó đang tạo ra toàn thể rắc rối! Bạn phải trở thành đứa trẻ lần nữa, hồn nhiên.
Nhưng bạn muốn hiểu. Quên mọi thứ về hiểu đi. Hiểu biết lại là tính toán, tinh ranh.
Tôi đã nghe:
Một đôi lớn tuổi đi tới bác sĩ. Người đàn ông nói, “Chúng tôi muốn biết liệu chúng tôi làm tình có đúng không. Ông xem chúng tôi chứ?”
“Làm đi,” bác sĩ nói. Họ làm tình.
“Ông bà làm tình thật hoàn hảo,” bác sĩ nói. “Việc đó mất mười đô la đấy.” Họ quay lại trong sáu tuần liền người nọ tiếp người kia và làm cùng chuyện đó. Đến lần thứ bẩy bác sĩ nói, “Ông bà tới đây như thế này để làm gì? Tôi đã bảo ông bà làm tình đúng rồi.”
“Bà ấy không thể tới nhà tôi,” người đàn ông nói, “và tôi không thể tới nhà bà ấy được. Ra nhà nghỉ đắt những hai mươi đô la. Ông tính chúng tôi mười đô la và chúng tôi được tám đô trả lại từ Chương trình chăm sóc người già.”
68
Đừng tính toán, đừng tinh ranh với cuộc sống. Bây giờ đây sẽ là loại tình yêu gì? Kinh doanh và kinh doanh và kinh doanh.... Tri thức được cần cho kinh doanh, hồn nhiên được cần cho cuộc sống. Tri thức là cái phải có ở bãi chợ, nhưng không được cần chút nào khi bạn đi vào trong điều bí ẩn; bạn không thể biết được, bạn chỉ có thể hiện hữu. Bạn vứt bỏ tâm trí này, bạn vứt bỏ mọi ước định này và bắt đầu di chuyển. Khi bạn cảm thấy vui vẻ, cảm thấy vui vẻ đi, giúp bản thân bạn cảm thấy vui vẻ: nhảy múa, ca hát.
Thói quen cũ sẽ kéo bạn lại; đừng nghe theo chúng. Bạn sẽ phải gạt bỏ những thói quen cũ dần dần, dần dần. Nó sẽ là một loại vật lộn, bởi vì không thói quen nào rời bỏ bạn một cách dễ dàng. Nhưng những thói quen này đang chống lại bạn và chống lại Thượng đế, bởi vì bất kì cái gì chống lại vui vẻ đều chống lại Thượng đế. Nếu Thượng đế có thể được định nghĩa bởi từ nào, từ đó là 'phúc lạc' và không cái gì khác.
Suparna, bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó đẹp và đau nảy sinh trong bạn, cái đau đó không phải ở trong hiện hữu bạn đâu, cái đau đó là trong tâm trí bạn: hiện hữu bạn đang cố đi vào trong cái đẹp, nhưng tâm trí bạn đang kéo bạn lại. Bất kì khi nào bạn cảm thấy tình yêu nảy sinh, phúc lạc nảy sinh, và đau nữa, chọn phúc lạc đi. Quên lãng đau, bỏ qua nó. Bỏ qua nó, nó sẽ chết. Nếu bạn cứ chú ý tới nó bạn sẽ cảm thấy nó. Chú ý là thức ăn. Đừng bao giờ chú ý tới cái gì là sai; bằng không bạn đang giúp nó có đó, bạn đang cho nó ngày càng nhiều sức mạnh hơn. Bỏ qua nó đi - chẳng có gì tốt hơn là bỏ qua nó. Vâng, để nó đấy. Chỉ việc nói, “Thôi được, mày cứ ở đấy. Mày đang lởn vởn từ quá khứ của tao. Mày cứ ở đó đi. Tao đi lên trước đây, tao không nghe theo mày đâu.”
69
Lắng nghe khêu gợi của phúc lạc và bao giờ cũng đi cùng chúng, và bạn đang đi theo hướng đúng - bạn đang đi tới Thượng đế. Đừng bao giờ nghe theo bất kì cái gì cho bạn mặc cảm, đau đớn, khổ sở - bạn đang đi xa khỏi Thượng đế. Bất kì khi nào bạn khổ, bạn đều trong địa ngục - đi xa nhất khỏi Thượng đế - và bất kì khi nào bạn hoàn toàn vui vẻ, bạn đang ở trong Thượng đế, bạn đang ở trong cõi trời.
Bạn nói, “Xin thầy giải thích về phúc lạc và khổ....”
Khổ là phi tự nhiên, phúc lạc là bản tính của bạn. Khổ được người khác dạy, phúc lạc được Thượng đế trao cho. Khổ là ước định, phúc lạc là linh hồn bên trong của bạn, điều tinh tuý của bạn. Khổ là nhân cách, chỉ là một cấu trúc quanh bạn; phúc lạc là tự do của bạn, nó là phi cấu trúc.
“Xin thầy giải thích về phúc lạc và khổ, vì bất kì khi nào tôi đương đầu với tình yêu hay cái đẹp, tôi chỉ cảm thấy cực kì đau mà không phúc lạc, và tôi không hiểu điều này.”
Đừng cố hiểu điều này chút nào. Cứ để đau ở đó, chấp nhận nó trong vài ngày. Và đi vào trong tình yêu - đi vào trong tình yêu một cách điên cuồng - và đi vào trong cái đẹp. Nhảy múa dưới sao. Lúc ban đầu bạn có thể cảm thấy rằng chân bạn không chuyển động và bạn phải chuyển động, vì bạn đã bị ép buộc sống không có nhảy múa lâu thế, chân bạn đã quên mất ngôn ngữ của điệu vũ. Nhưng chẳng mấy chốc chúng sẽ học vì nó là ngôn ngữ tự nhiên.
Từng đứa trẻ đều biết cách nhảy múa, từng đứa trẻ đều biết cách vui vẻ. Bạn sẽ phải học điều đó lần nữa, nhưng bởi vì nó là tự nhiên, nó tới nhanh. Chỉ vài nỗ lực và đột nhiên một hôm nào đó, bạn ra khỏi cái bẫy. Cái
70
nạng của bạn đã bị vứt đi. Cho dù thỉnh thoảng bạn ngã điều đó là hoàn toàn tốt, nhưng bạn phải đứng trên đôi chân riêng của bạn. Những chiếc nạng của xã hội, của tôn giáo có tổ chức, của tu sĩ, phải bị vứt đi. Cho dù trong vài ngày bạn sẽ cảm thấy bị kiệt quệ - cảm thấy bị kiệt quệ trong vài ngày là điều tự nhiên - bạn phải chấp nhận nó. Nhưng nếu bạn cứ đi hướng tới tự nhiên, bạn sẽ thấy Đạo trong cuộc sống của bạn. Đạo là việc nở hoa tự nhiên. Đi theo tự nhiên đi.
Không ai muốn khổ cả và mọi người đều khổ. Họ không đi theo tự nhiên. Không ai muốn là bất kì cái gì khác hơn phúc lạc và không ai phúc lạc. Lắng nghe ham muốn: ham muốn sâu sắc nhất chỉ ra con đường đúng. Khao khát của bạn về phúc lạc, về cái đẹp, về cái gì đó sẽ tràn ngập bạn, về cái gì đó sẽ đem bạn tới bờ bên kia, về cái gì đó sẽ mênh mông và không thể tin được tới mức quá khứ và tương lai sẽ bị quét sạch và bạn sẽ chỉ ở đây bây giờ.
Nhưng đừng cố hiểu. Nếu bạn bắt đầu cố hiểu bạn sẽ trở thành nạn nhân của phân tâm học, và phân tích là quá trình vô hạn. Bạn có thể cứ phân tích và phân tích và nó chẳng bao giờ được kết thúc. Không một người nào trên thế giới đã được phân tâm toàn bộ. Không bao giờ có thể có.
Đây là chỗ tôi khác với phân tâm học, Đừng đi vào phân tích. Gạt toàn thể tâm trí sang bên đi. Nhảy ra khỏi nói đi! Không cần hiểu. Mọi điều được cần là sống, sống một cách đích thực. Mọi điều được cần là hiện hữu.
Đủ cho hôm nay.
71
72
Chương 3
Khoảnh khắc nguyên tử
Osho ơi,
Thầy Lữ tử nói:Chỉ Thái cực và bản tính đúng vượt qua thời gian và không gian.
Thái cực bên ngoài lưỡng nghi. Đây là chỗ thiên và địa đi tới hiện hữu của chúng. Khi học trò hiểu cách nắm bắt thái cực họ vượt qua lưỡng nghi của sáng và tối và không nấn ná lâu trong tam giới. Nhưng chỉ người đã hình dung ra mặt nguyên thuỷ của bản tính con người mới có khả năng làm điều này.
Khi con người được cho tự do khỏi bụng mẹ, thái cực cư ngụ trong một thốn vuông, nhưng linh thức cư ngụ dưới tâm. Tâm này phụ thuộc vào ngoại giới. Nếu một người không ăn chẵn một ngày, nó sẽ cảm thấy cực kì không thoải mái. Nếu nó nghe thấy cái gì đó kinh khủng nó run lên; nếu nó nghe thấy cái gì đó phát rồ nó dừng lại; nếu nó bị đối diện với cái chết nó trở nên buồn; nếu nó thấy cái gì đó đẹp nó sững sờ. Nhưng thiên tâm trong đầu, ít nhất khi nào nó đã chuyển đi? Người hỏi: "Thiên tâm không thể chuyển được sao?" Thế rồi ta trả lời: Làm sao ý đúng trong thốn vuông đó có thể di chuyển được!
73
Tâm thấp hơn hành động như tướng mạnh, có quyền, khinh thường thiên tử vì nhu nhược, và đã tiếm quyền lãnh đạo việc nước. Nhưng khi biệt thành có thể được củng cố và phòng thủ, thì dường như là vua trí huệ và mạnh mẽ lên ngôi. Mắt bắt đầu việc luân quang như hai thượng thư tả hữu phò tá vua với mọi quyền lực của họ. Khi quyền lực ở trung tâm có hiệu lực, mọi kẻ nổi loạn sẽ tự trình diện với giáo đảo ngược chiều, sẵn sàng nhận lệnh.
Con đường tới thuốc trường sinh bất lão biết tới phép thần tối thượng tinh dịch, linh hoả và tưởng địa: ba điều này. Tinh dịch là gì? Nó là cái đúng, năng lượng một, tình yêu lãng mạn. Linh hoả là ánh sáng, lời. Tưởng địa là trực giác.
Một hôm, vua triệu anh hề láu lỉnh vào và trao cho anh ta một chiếc trượng ngay trước tất cả mọi người trong triều và nói, “Cầm lấy chiếc trượng này như một quyền trượng của bộ và giữ nó cho tới khi ngươi tìm ra một kẻ hề hơn bản thân ngươi. Nếu ngươi tìm ra một người như vậy, trao quyền trượng này cho người đó.”
Chút thời gian sau đó, nhà vua ốm và nằm chờ chết. Ông ta muốn gặp anh hề, người mà ông ta chắc chắn có tính chân thực. Khi anh hề tới nhà vua nói với anh ta, “Ta triệu ngươi tới để nói với ngươi rằng ta sắp đi cuộc hành trình dài.”
“Bệ hạ đi đâu vậy?” anh hề hỏi.
“Đi xa khỏi đất nước - sang thế giới khác.”
“Thưa chủ nhân, ngài có chuẩn bị cho cuộc hành trình của ngài và việc ở đó của ngài không?”
“Chả chuẩn bị gì cả, hề nhỏ ơi.”
74
“Ngài có bạn bè nào đón chào ngài ở đó không?” “Chả có ai cả!” nhà vua đáp.
Thế rồi anh hầu lắc đầu buồn bã và đặt chiếc quyền trượng vào tay nhà vua và nói, “Bệ hạ nhận chiếc trượng này đi. Cái này thuộc về ngài, vì ngài sắp đi sang thế giới khác mà không chuẩn bị. Chắc chắn chiếc quyền trượng này thuộc vào ngài và không thuộc vào ai khác cả.”
Sống là cơ hội để chuẩn bị cho chết và cõi bên kia. Nếu bạn không chuẩn bị cho chết và cho cõi bên kia, bạn là kẻ ngu - bạn đang bỏ lỡ cơ hội lớn. Sống là cơ hội duy nhất.
Cuộc sống này mà bạn biết không phải là sống thật. Nó chỉ là cơ hội để đạt tới sống thật. Sống thật đang ẩn đâu đó trong cuộc sống này, nhưng nó phải được khêu gợi ra, nó phải được đánh thức dậy. Nó là giấc ngủ say. Nó còn chưa nhận biết về bản thân nó. Và nếu cuộc sống thực của bạn mà không nhận biết về bản thân nó, cái gọi là cuộc sống của bạn sẽ không là gì ngoài giấc mơ dài. Và nó không thể êm đềm được - nó sẽ là ác mộng.
Sống mà không được bắt rễ vào cuộc sống thực là sống như cây không được bắt rễ vào đất. Đó là lí do tại sao không có cái đẹp, đó là lí do tại sao không có duyên dáng. Đó là lí do tại sao bạn không thấy sự huy hoàng của con người mà chư phật nói tới.
Jesus cứ nói đi nói lại, “Vương quốc của Thượng đế là ở bên trong ông.” Nhưng bạn dường như không có vẻ là một hoàng đế. Jesus nói với đệ tử của ông ấy, “Nhìn những hoa loa kèn trên cánh đồng. Chúng đẹp làm sao! Ngay cả vua Solomon, một vị vua lớn, cũng không đẹp thế, dù được trang điểm trong mọi oai phong của ông ấy,
75