🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bệnh Đột Qụy Và Cách Điều Trị Ebooks Nhóm Zalo ĐỘTQỤY C 4C H _ EUTRỊ Bệnh đột quỵ và cách điều trị HOÀMG ThUÝ B iê n soan BỆMH ĐỘT QUỴ VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ MHÀ XUẤT BẢM DÂM TRÍ P h ầ n l KHÁI QUÁT VỀ ĐỘT QUỴ Hằng năm, trên thế giới vẫn có hàng trăm người tử vong vì bệnh đột quỵ. Chứng bệnh này được xem là nguy hiểm chỉ xếp sau ung thư và tim mạch. Bệnh đột quỵ xảy ra bất ngờ khiến người thân không kịp trở tay và để lại di chứng hoặc tỉ lệ tử vong cao. Do đó, những ai có nguy cơ gặp phải đột quỵ trong tương lai cần hiểu rõ về bệnh và cách điều trị để tránh những đáng tiếc bất ngờ xảy ra. Bệnh đột quỵ là gì? Đột quỵ còn được gọi là tai biến mạch máu não, dùng chung để chỉ sự tổn thương một phần não bộ do tắc nghẽn mạch máu đi nuôi não hoặc vỡ mạch máu. Bộ não cần được cung cấp oxy thường xuyên để có thể hoạt động được nên khi một động mạch dẫn máu đi nuôi não bị cản trở, máu không lên được thì vùng não đó sẽ ngưng hoạt động. Đột quỵ nguy hiểm là vì nếu không được cấp cứu kịp thời thì vùng não này sẽ chết, dừng chức năng vĩnh viễn, gọi là nhồi máu não. Đây là tình trạng nghiêm trọng nhất của đột quỵ, gây liệt nửa người, hôn mê hoặc tử vong. Theo các thống kê, hơn 80% các ca đột quỵ là do nhồi máu não, để lại những di chứng nặng nề như tàn tật vĩnh viễn. Đây cũng được xem là chứng bệnh có tỉ lệ tử vong nhanh chỉ 'ẽệnh đột Cịnỵ và cách điền trị 5 đứng sau ung thư và các bệnh tim mạch. Trong số những người bị đột quỵ thì chỉ có khoảng 50% là có thể phục hồi lại các chức năng bị liệt, 50% còn lại thường để lại di chứng nặng nề. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa đột quỵ là một hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi triệu chứng đột ngột tổn thương ở não bộ, tồn tại trên 24 giờ hoặc tử vong trước 24 giờ. Đột quy do thiều máu cục bộ Đột quy do xuẮt huyết Cục máu dồng chỊn dóng máu lén mỏt vùng nảo Vómachmáu g^y huyét Trong gần 75% các trường hỢp đột quỵ, nguyên nhân chính là do máu nghẽn cục ở một trong các động mạch dẫn máu lưu thông đến não. Lý do thứ hai thường là thành động mạch bị vỡ khiến máu rỉ ra các mô chung quanh (gọi là xuất huyết). Sự cố này làm tăng áp lực lên não, hủy hoại một số tế bào và khiến các mô ở phía bên kia động mạch vỡ nằm trong tuyến máu lưu thông ngừng hoạt động vì không có máu để duy trì chức năng của chúng. 6 HOÀNG THÚY biên soạn Lượng máu cung cấp đến một vùng não cũng có thể bị ngắt chỉ một thời gian ngắn nào đó mà không hoàn toàn gây đột quỵ. Tình huống này có thể chỉ xảy ra một lần duy nhất hay tái đi tái lại nhiều lần. Nếu các triệu chứng kéo dài dưới 24 tiếng đồng hồ người ta gọi đó là cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA) hay tiểu đột quỵ. Tuy nhiên hiện nay các bác sĩ đã biết thêm rằng bất cứ trường hỢp nghẽn máu nào kểo dài hơn một giờ đều để lại sẹo trên vùng não vì thế định nghĩa TIA như vừa đề cập cũng cần phải thêm vào cho đầy đủ. Đôi mắt của chúng ta được cung cấp máu qua cùng một đường động mạch cấp máu cho não nên những cơn đột quỵ TIA có thể làm ảnh hưởng đến việc cung cấp máu cho một mắt, gây ra tình trạng một bên mắt bị mờ đi hay mất thị giác tạm thời, theo thuật ngữ chuyên môn, tình trạng này được gọi là thông manh giai đoạn (AFX) hay bán manh tức mù một mắt ngắn hạn (TMB). Bệnh đột quỵ não sẽ có 4 đặc điểm: Đột ngột, trong điều kiện bệnh nhân đang hoàn toàn khỏe mạnh bình thường. Tổn thương chức năng của não; liệt chân tay một bên, liệt mặt, tê bì nửa người, nói ngọng - nói khó, lú lẫn...; Bệnh nhân có thể tử vong trước 24 giờ do tổn thương mạch máu não. Hai thể của bệnh đột quỵ não Nhồi máu: do nghẽn, tắc động mạch não. Chảy máu: do vỡ thành động mạch, máu tràn ra khỏi lòng mạch. "Sệnh đột CỊuỵ i/à cách điều trị 7 Nguyên nhân gây ra bệnh đột quỵ não là do mạch máu cấp máu cho não bị tổn thưcmg, đột quỵ não được chia thành 2 thể chính: Bệnh đột quỵ nhồi máu não: do hẹp hoặc tắc động mạch não, dẫn tới vùng não bị giảm hoặc ngừng cấp máu dẫn tới tổn thương. Bệnh đột quỵ chảy máu não: do mạch máu bị vỡ ra, máu chảy tràn vào tổ chức não hoặc các khoang chứa dịch bao quanh tổ chức não. Bệnh đột quỵ não là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 sau các bệnh tim mạch và ung thư. Điều trị cũng đòi hỏi thời gian lâu dài, rất tốn kém. Bệnh đột quỵ não là bệnh để lại nhiều di chứng nặng nề nhất trong các bệnh nội khoa. Bệnh đột quỵ não mức độ nhẹ: Đề lại di chứng ít và nhẹ như liệt nửa người: thường bắt đầu hồi phục sau 2-4 tuần và kéo dài nhiều tháng tiếp sau; Co cứng cơ: sau khoảng 4-6 tuần thì chuyển sang giai đoạn liệt cứng (cơ vùng liệt tăng trương lực) gây vận động khó khăn, đau nhức cơ khớp. Đặc biệt hay gặp đau khớp vai; Rối loạn ngôn ngữ: nói khó hơn bình thường hoặc không hiểu lời nói. Các trường hợp đột quỵ mức độ nặng, di chứng nhiều và rất nặng nề: Rối loạn ý thức: tri giác, trí nhớ suy giảm; Rối 8 HOÀNG THÚY biên soạn loạn tâm thần, trầm cảm; Suy dinh dưỡng. Viêm phổi: nguyên nhân do bệnh nhân nằm một chỗ do liệt, suy giảm sức đề kháng, dễ nuốt sặc... Loét vùng tì đè: những vùng bị tì đè trực tiếp xuống mặt giường khi nằm rất dễ bị loét như gót chân, vùng xương cùng cụt, vùng lưng, vùng chẩm. Đại tiện và tiểu tiện không tự chủ. Một số hậu quả khác: co giật động kinh; huyết khối tĩnh mạch sâu; biến dạng tư thế; tăng huyết áp; loạn nhịp tim... Đặc biệt với bệnh nhân đã bị đột quỵ não thì nguy cơ bị đột quỵ tái diễn rất cao so với người chưa từng bị đột quỵ. Những tác hại của cơn đột quỵ Ảnh hưởng do đột quỵ gây ra đối với não gần như cũng tương tự như bất kỳ nguyên nhân tác động nào khác gây ra cho não. Khi một phần não bị ngưng cung cấp máu, các tế bào sẽ đói oxy và ngừng hoạt động. Nếu trong thời gian khoảng 4 phút việc cung cấp máu không tiếp tục lại được thì các tế bào sẽ chết (chứng nhồi máu não). Những hậu quả về thể lý và tinh thần sau một cơn đột quỵ xảy ra như thế nào là tùy thuộc vào phần não bị ảnh hưởng. Não bao gồm nhiều phần riêng biệt và mỗi phần điều khiển các chức năng vận động, lời nói và thị giác tương ứng. Những trung tâm điều khiển này gồm các tế bào thần kinh (gọi là nơ-ron) và mỗi tế 'Ẽcnh đệi íỊuỵ và cách điều irị 9 bào đều có chức năng chuyên biệt. Chẳng hạn, các chuỗi nơ-ron nối mắt xích với nhau sẽ điều khiển mọi chuyển động của cơ bắp. Mỗi nơ-ron gồm ba phần: các đuôi gai phân nhánh, thân tế bào và trục. Các đuôi gai phân nhánh có chức năng tiếp nhận tín hiệu để chuyển vào thân tế bào. Thân tế bào sẽ quyết định việc thực hiện hành vi và truyền mệnh lệnh đến tế bào nơ-ron kế tiếp thông qua đường sỢi trục. Nhưng nếu bất cứ phần công đoạn nào trong chuỗi mắt xích này bị ngắt - như trong trường hỢp xảy ra đột quỵ, một khu vực tế bào thần kinh bị chết - thì toàn bộ hệ thống thần kinh này sẽ ngưng hoạt động và chức năng mà nó điều khiển - như chức năng vận động hay lời nói - sẽ bị mất đi. Đột quỵ não giả là gì? Đột quỵ não là một bệnh lý hay gặp và phải được chú ý phát hiện sớm để điều trị tích cực nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong và di chứng. Tuy nhiên, có một số loại bệnh lý mà biểu hiện cũng khá giống với đột quỵ não. Cơn co giật Nếu cơn co giật khởi phát cục bộ ở não, bệnh nhân có thể bị liệt nhẹ, tê bì, rối loạn ngôn ngữ, nhìn mờ, rối loạn ý thức kiểu “hoàng hôn sau động kinh”. Nhìn chung, các triệu chứng này sẽ hết sau 24 tiếng và bệnh nhân sẽ trở lại bình thường. Sẽ rất 10 HOÀNG THÚY biên soạn dễ phân biệt nếu bệnh nhân đã có tiền sử bị co giật và các biểu hiện như trên phục hồi nhanh. Nhưng lại rất khó phân biệt với trường hợp tai biến mạch não thoáng qua hoặc bệnh nhân bị đột quỵ não thực sự có kèm co giật. Máu tụ dưới màng cứng cũng có thể gây yếu, tê bì nửa người như đột quỵ não nhưng các biểu hiện thường không rõ ràng. Chứng đau nửa đầu (bệnh migraine) Migraine là chứng đau nửa đầu do rối loạn vận mạch, thường xảy ra ở phụ nữ trẻ. Phần lớn những cơn migraine điển hình thường chỉ có đau đầu, nôn, buồn nôn và các triệu chứng sẽ hết nhanh khi được điều trị nhưng nhiều trường hỢp bệnh nhân đau đầu kiểu migraine có biến chứng cũng có nguy cơ cao bị đột quỵ não. ớ những bệnh nhân này thường kèm liệt nhẹ hoặc tê bì nửa người cùng bên, có rối loạn thị giác hoặc thất ngôn. Trong nhiều trường hỢp, đột quỵ não cũng khởi phát bằng những cơn đau đầu hoặc đau nửa đầu dữ dội, sau đó mới cỏ các biểu hiện khác như rối loạn ý thức, liệt chi, thất ngôn... Vì vậy cần hết sức cảnh giác để có phương án chẩn đoán và xử trí thích hợp. Ngất Ngất là hiện tượng mất ý thức tạm thời (bệnh nhân hoàn toàn mất mối liên hệ với môi trường 'Ẽệnh đội cịKỵ oà cách đíề(t irị 1 1 chung quanh) và sau đó ý thức phục hồi hoàn toàn. Sau khi tỉnh, bệnh nhân không biết gì về nhừng hoạt động chung quanh xảy ra trong ccm ngất. Ngất có thể kèm với mất trưcmg lực cơ (liệt cơ) tạm thời và đột ngột. Đôi khi nguyên nhân ngất là do tim mạch như tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim hoặc không do nguyên nhân tim mạch như một số tình huống như những stress tâm lý quá mạnh, kích thích vào đám rối dương (vùng thượng vị) khi bị chấn thương, ngất ở bệnh nhân thiếu máu nặng, một số các rối loạn về điện giải (như kali, canxi máu), các thuốc điều trị bệnh tim mạch, phụ nữ có thai... Liệt dây thần kinh số VII làm mất khả năng nhắm mắt và méo miệng có triệu chứng giống như đột quỵ liên quan đến tổn thương cầu não. Đột quỵ não hiếm khi biểu hiện bằng ngất trừ trường hợp đột quỵ não do thiểu năng hệ động mạch sống nền nhưng luôn kèm với các biểu hiện khác của tổn thương thân não hoặc tiểu não. Thay đổi đường huyết Đường huyết quá cao hoặc quá thấp đều ảnh hưởng đến thị lực, đặc biệt nếu bạn có bệnh đái tháo đường và không dùng thuốc, ví dụ insulin, hoặc nếu bạn uống quá nhiều thuốc. Nó cũng có thể khiến bạn cảm thấy bị lú lẫn, giống với triệu chứng đột quỵ. Đặc biệt khi hạ đường huyết xuống thấp dưới 3,5mmol/l, các triệu chứng xảy ra rất giống với đột 12 HOÀNG THÚY biên soạn quỵ, não như co giật, hôn mê. Vì vậy, trước bất cứ một trường hợp nào có rối loạn ý thức, hôn mê ở các mức độ khác nhau, cần phải làm xét nghiệm đường máu để kiểm tra. Sau đó điều trị bằng truyền đường nếu trị số đường máu thấp dưới mức bình thường. Bệnh não chuyển hóa Bệnh nhân bị rối loạn ý thức ở các mức độ khác nhau nhưng không kèm các triệu chứng thần kinh khu trú khác nổi bật. Nguyên nhân thường gặp là hôn mê do suy gan, hôn mê toan ceton, hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu máu... Loại hôn mê này rất thường gặp trên thực tế và rất cần phải phân biệt với đột quỵ não. Viêm não do Herpes sỉmplex Do vi-rút gây tổn thương thùy thái dương nên hay có biểu hiện thất ngôn, rối loạn ý thức, đau đầu, mất thị trường mắt hoặc liệt nửa người, khởi phát nhanh và tương đối giống đột quỵ não ở giai đoạn sớm của bệnh. Liệt dây thần kinh số VII ngoại hiên Có triệu chứng liệt trán và mất khả năng nhắm mắt cùng bên dây VII tổn thương. Triệu chứng này giống như do đột quỵ có liên quan đến tổn thương cầu não nên cần phải khám kỹ để phát hiện các triệu chứng khác của đột quỵ như liệt dây thần kinh VI cùng bên... Nhiều bệnh lý có biểu hiện giống như đột quỵ não, đó là đột quỵ não giả. ~ẽệnh đội Cịuỵ và cắcU điền irị 1 3 M.ảu tụ dưới màng cứng Máu tụ dưới màng cứng cũng có thể gây yếu, tê bì nửa người như đột quỵ não nhưng các biểu hiện thường không rõ ràng. Máu tụ dưới màng cứng mạn tính thường xảy ra ở người già, người nghiện rưỢu, người có rối loạn đông máu hoặc những bệnh nhân sa sút trí tuệ. Trúng gió và đột quỵ não Trúng gió thường bị nhầm với đột quỵ nhiều nhất vì chúng có chung một số triệu chứng như nhức đầu, chóng mặt. Các bạn nên nhớ rằng đột quỵ diễn ra rất nhanh và nếu nếu không phát hiện kịp thời người bệnh sẽ đối mặt với nguy cơ tử vong hoặc tàn tật suốt đời còn trúng gió chỉ là hiện tượng những người có sức đề kháng yếu, khi thời tiết thay đổi cơ thể họ không kịp thích ứng nên có hiện tượng người mệt mỏi, chóng mặt hoặc bị cảm lạnh. Huyết áp cao: Nếu huyết áp của bạn cao có thể gây nhức đầu, cảm thấy yếu, và rối loạn thị lực. Đây còn được gọi là “tăng huyết áp không kiểm soát”. Nó cũng là một yếu tố nguy cơ chính đối với đột quỵ. Hầu hết mọi người có huyết áp bình thường với trị số < 120/80mmHg. Lo lắng: Cũng có thể làm bạn cảm thấy tê cứng quanh miệng hoặc đầu ngón tay. 14 HOÀNG THÚY biên soạn Nhức đầu: Nếu bạn từng bị nhức đầu âm ỉ, hoặc bạn cảm thấy như có gì đó siết chặt quanh đầu bạn, thì đó có thể là nhức đầu do căng thẳng. Nếu bạn bị nhức đầu từ mức độ vừa tới nặng và tính chất khác hoàn toàn với những lần trước đó, thì bạn cần phải quan tâm, chú ý. Một số các trường hợp khác Một số trường hợp khác cũng cần phân biệt với một đột quỵ não thực sự như u não; bệnh lý liệt thần kinh ngoại vi; dị cảm; ngộ độc các thuốc an thần gây ngủ hoặc các loại thuốc, hóa chất gây co giật, ngộ độc methanol...; bệnh lý tâm thần... Theo TS.BS. Vũ Đức ĐỊáh/Suckhoedoừong.vn và Thanh Giang (WebMD.com) Đột quy và tai biến mạch máu não: tuy hai mà một Hai tên gọi của một bệnh cảnh Rất nhiều người vẫn còn cho rằng “tai biến mạch máu não và đột quỵ là hai bệnh khác nhau”, “đột quỵ là bệnh của tim không liên quan đến não và thường xảy ra ở người trẻ”, “tai biến chỉ xảy ra ở người già”... Đây là những quan niệm chưa đúng dẫn đến việc quan tâm, phòng ngừa chưa đúng mực và chủ quan, lơ là trong kiểm soát bệnh. Thực chất, tai biến mạch máu não và đột quỵ ~Sệnh đội quỵ và cách điều fr ị 15 chỉ là hai tên gọi khác nhau của cùng một bệnh. Nếu như thuật ngữ tai biến mạch máu não chỉ ra nơi khởi phát bệnh là tại các mạch máu nuôi não khi dòng máu bị chặn lại hoặc một mạch máu trong não bị vỡ thì đột quỵ nói lên sự cấp tính của bệnh. Dù vậy, cả hai cách gọi đều biểu thị tính chất đột ngột, nguy hiểm của bệnh, có thể khiến một người đang bình thường bỗng dưng gục xuống, hôn mê, đối mặt với các di chứng tàn tật, thậm chí tử vong. Tại nước ta, số người bị đột quỵ - tai biến mạch máu não không ngừng gia tăng với khoảng 200.000 người mắc mới, 90% trong số đó mang di chứng. Nguy hiểm hơn, bệnh nhân còn phải đối mặt với nguy cơ tái phát bệnh và tử vong cao. Bệnh có thể xảy ra ở cả người già, người trẻ; thành thị đến nông thôn; doanh nhân, nhân viên văn phòng hay nông dân... Những năm gần đây đột quỵ - tai biến mạch máu não được ghi nhận ngày càng trẻ hóa, nhiều bệnh viện, đơn vị đột quỵ thậm chí còn tiếp nhận những trường hỢp tai biến khi mới 18, 20 tuổi. Sở dĩ, tỉ lệ đột quỵ - tai biến mạch máu não cao hơn ở người cao tuổi là do chức năng cơ thể suy giảm và thường có bệnh mãn tính đi kèm như: tim mạch, tiểu đường, cao huyết áp, rối loạn mỡ máu... Trong khi đó, đa phần người trẻ thường phải chịu nhiều áp lực trong cuộc sống, công việc dẫn đến căng thẳng, mất ngủ thường xuyên. Ngoài ra, lối sống không lành mạnh như lạm dụng rưcm bia, hút thuốc lá, chế độ dinh dưỡng mất cân đối và thói 16 HOÀNG THÚY bicn soạn quen lười vận động đã tác động không nhỏ đến nguy cơ xuất hiện đột quỵ. Lý giải ở góc độ nguyên nhân sâu xa hơn, các nhà khoa học cho rằng, đột quỵ ở người già và người trẻ đều có sự tác động từ “thủ phạm” gốc tự do. Gốc tự do sinh ra do ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc sống hiện đại và trong quá trình chuyển hóa của cơ thể, đặc biệt là tại não. Chúng tấn công làm tổn thương nội mạc mạch máu, khiến thành mạch không còn trơn tru, xuất hiện các mảng xơ vữa và cục huyết khối gây ra gây tắc mạch, dẫn đến hiện tượng thiếu máu não thoáng qua. Thời gian bị tắc kéo dài 4 - 5 phút sẽ khiến tế bào thần kinh tại các vùng não không được cung cấp oxy và dưỡng chất sẽ suy yếu dần và hoại tử, dẫn đến cơn đột quỵ não. Biến chứng sau đột quỵ và cách phục hồi sau đột quỵ Phục hồi diễn ra phần lớn trong 3 - 6 tháng đầu... Bệnh nhân không nên mất hi vọng nếu bị liệt vận động nặng. Làm thế nào để phòng tránh được các biến chứng sau đột quỵ là vấn đề mà rất nhiều bệnh nhân bị đột quỵ quan tâm. Theo TS Mai Duy Tôn, Khoa Hồi sức Cấp cứu A9 - Bệnh viện Bạch Mai, người bị đột quỵ thường gặp phải những vấn đề sau đây: Loét da do bất động Triệu chứng này thường gặp ở các bệnh nhân bị 'Ẽệỷiíí đội CỊKỊị và cách điền irị 1 7 liệt vận động nặng hoặc hôn mê sau đột quỵ. Việc tập vận động sớm, thay đổi tư thế nằm của bệnh nhân thường xuyên (từ 1 -2 giờ) và sử dụng các loại nệm có bơm hơi có tác dụng tốt trong việc hạn chế biến chứng này. Viêm phổi, ho hít sặc Đây là nguyên nhân có thể gây tử vong sau đột quỵ. Nó thường gặp ở các bệnh nhân bị hôn mê, hoặc mất chức năng nuốt. Sau khi đánh giá chức năng nuốt, thầy thuốc có thể chỉ định đặt ống nuôi ăn khi cần thiết. Đối với các bệnh nhân bị rối loạn chức năng nuốt lâu dài, việc mở dạ dày ra để đưa thức ăn trực tiếp vào dạ dày qua thành bụng có tác dụng hạn chế nguy cơ viêm phổi do hít sặc với độ an toàn cao. Khi cho ăn qua đường ống, dung dịch dinh dưỡng nên được truyền nhỏ giọt qua ống nuôi ăn, cần cho bệnh nhân nằm ở tư thế đầu cao, và duy trì tư thế này sau khi ăn ít nhất 1 giờ sau đó. Phục hồi vận động sau đột quỵ Hồi phục sau một cơn đột quỵ là một quá trình xảy ra tự nhiên. Một phần ba bệnh nhân đột quỵ có thể phục hồi các chức năng vận động một cách hoàn toàn, 1/3 cải thiện chức năng vận động một phần, và 1/3 còn lại không có cải thiện. Quá trình phục hồi vận động xảy ra phần lớn trong 3 - 6 tháng đầu, và có thể tiếp tục cho đến 2 18 HOÀNG THÚY biên soạn năm hoặc hơn. Vì vậy, bệnh nhân không nên mất hi vọng nếu bị liệt vận động nặng. Sau đột quỵ, nên bắt đầu điều trị phục hồi các chức năng vận động tại thời điểm sớm nhất khi có thể. Mục tiêu của việc tập phục hồi chức năng với sự trỢ giúp của kỹ thuật viên vật lý trị liệu, bao gồm: - Phục hồi các chức năng vận động tại phần cơ thể bị liệt: tập ngồi, đứng, đi bộ... - Phục hồi các chức năng khác: ăn uống (chức năng nuốt), ngôn ngữ giao tiếp, tự thay quần áo, tắm rửa... - Cải thiện các rối loạn về mặt tâm thần, cảm xúc. Tái phát sau đột quỵ Tỷ lệ đột quỵ tái phát trong 5 năm đầu tiên là 25%, nghĩa là cứ 100 bệnh nhân sống sót sau đột quỵ, sẽ có 25 trường hỢp bị tái phát sau đó. Để làm giảm mức độ tái phát đột quỵ, người bệnh cần uống thuốc đúng theo toa bác sĩ và đi tái khám đều đặn. Không ai có thể bảo đảm đột quỵ tái phát sẽ không xảy ra, nhưng khả năng tái phát có thể giảm thiểu tối đa bằng chế độ điều trị thích hỢp, liên tục, và được duy trì một cách lâu dài. Các yếu tố nguy cơ của đột quỵ có thể điều chỉnh với chế độ điều trị hỢp lý: - Cao huyết áp - Hút thuốc lá - Bệnh tim mạch - Nghiện rượu 'ẽệnh đội cỊKỵ và cách điền ifi 1 9 - Béo phì - Tiểu đường - Sử dụng thuốc ngừa thai - Tình trạng căng thẳng (stress). Làm giảm nguy cơ tái phát đột quỵ bằng cách nào? Có nhiều cách để có thể làm giảm nguy cơ tái phát của đột quỵ. Trong đó là kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ và thay đổi chế độ sống. Các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của đột quỵ là cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường và hút thuốc lá. Kiểm tra sức khỏe thường xuyên Bệnh lý tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường, tăng hàm lượng mỡ trong máu cần được theo dõi thường xuyên bởi bác sĩ chuyên khoa. Các yếu tố nguy cơ này sẽ được giảm bớt một cách tối đa bằng các thuốc điều trị thích hỢp và thay đổi lối sống. Kiểm soát huyết áp Huyết áp ở mức 120/80mmHg là trị số bình thường. Được goi là cao huyết áp khi huyết áp cao hơn 140/90 mmHg. Cao huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của đột quỵ. Nếu không kiểm soát tốt tình trạng huyết áp, nguy cơ đột quỵ tái phát sẽ rất cao. Bệnh nhân bị cao huyết áp có nguy cơ đột quỵ cao gấp 4 - 6 lần so với bệnh nhân có huyết áp bình thường. Cao huyết áp làm nặng thêm tình trạng xơ 20 HOÀNG THÚY biên soạn vữa mạch máu, gây tăng áp lực lên thành mạch máu, và có thể làm vỡ mạch máu. Kiểm soát huyết áp bao gồm chế độ ăn ít muối, giảm cân, giảm stress, và uống các thuốc thích hỢp. Cần lưu ý rằng các thuốc huyết áp chỉ có tác dụng khi được sử dụng thường xuyên mỗi ngày. Không nên tự ý ngưng thuốc khi không có ý kiến của bác sĩ. Nếu cao huyết áp được kiểm soát tốt, sẽ làm giảm đưỢc 38% nguy cơ đột quỵ và giảm 40% nguy cơ tử vong gây ra do đột quỵ. Bệnh tim Là nguy cơ quan trọng thứ hai sau cao huyết áp, bệnh lý tim nguy hiểm nhất liên quan đến đột quỵ là rung nhĩ. Rung nhĩ là tình trạng co bóp bất thường của tâm nhĩ trái, ở bệnh nhân rung nhĩ, tâm nhĩ trái co bóp nhanh gấp 4 lần so với các buồng tim còn lại. Điều này dẫn đến sự bất thường của dòng chảy trong các mạch máu, tạo điều kiện tạo thành các cục huyết khối trong buồng tim và nhanh chóng di chuyển đi nơi khác, có thể gây tắc nghẽn các mạch máu não. ■ĩSử dụng thuốc kháng đông lâu dài có thể làm giảm 67% nguy cơ gây ra đột quỵ tái phát của rung nhĩ. Tiểu đường Khi bệnh nhân có bệnh tiểu đường, nguy cơ mắc phải đột quỵ sẽ tăng gấp 3 lần. Chế độ ăn phù "Bệnh đột CỊiiịi và cách điềtt ir ị 21 hỢp để tiết chế lượng đường trong máu, đồng thời sử dụng các thuốc điều chỉnh đường huyết có thể giúp người bệnh hạn chế tối đa các biến chứng của tiểu đường. Tăng cholesterol trong máu Tăng cholesterol trong máu có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng của cholesterol lên thành của các mạch máu, từ đó tạo thành các mảng xơ vữa. Kiểm soát tốt hàm lượng cholesterol trong máu bằng chế độ ăn thích hỢp (kiêng mỡ, các loại dầu ăn và các thức ăn giàu cholesterol), tập thể dục thường xuyên và sử dụng các loại thuốc chuyên biệt có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ. Ngưng hút thuốc lá Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ rất nguy hiểm của đột quỵ. Thuốc lá làm tăng thêm quá trình xơ vữa mạch máu và các chất gây đông máu (như fibrinogen). Việc ngưng hút thuốc lá có thể làm giảm rõ rệt nguy cơ đột quỵ tái phát. Sử dụng thuốc ngừa thai Các thuốc ngừa thai, đặc biệt những loại chứa hàm lượng estrogen cao, có khả năng làm tăng nguy cơ tạo huyết khối. Bệnh nhân có thể tham khảo với bác sĩ sản khoa để có cách thay đổi phương pháp ngừa thai khác nếu bệnh nhân có kèm theo các nguy cơ đột quỵ khác. 22 HOÀNG THÚY biên soạn Giảm stress Cuộc sống với nhiều áp lực thường xuyên làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến đột quỵ. Biết giải tỏa các áp lực trong công việc, tạo một cuộc sống lành mạnh bên người thân và gia đình có thể là phương pháp giảm stress hữu hiệu nhất. Thay đổi chế độ ăn Chế độ ăn nhiều chất béo, cholesterol và muối có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ. Bác sĩ Mai Duy Tôn cũng đưa ra lời khuyên là các bệnh nhân cần tuân thủ chế độ ăn hỢp lý như sau: - Tránh ăn quá nhiều chất béo: Các chất béo, cholesterol có thể làm nặng thêm tình trạng xơ vữa động mạch. Hạn chế sử dụng các dầu mỡ khi nấu ăn, nên bỏ phần mỡ và da của các loại thịt, dùng các thức ăn có hàm lượng chất béo, thức ăn chế biến bằng cách nướng hay hấp tốt hơn chiên xào, không ăn quá 3 quả trứng trong một tuần. - Giảm muối: ăn quá mặn có thể làm tăng huyết áp. Không sử dụng muối trên bàn ăn thêm vào thức ăn đã được chế biến. - Hạn chế uống rượu:\xống nhiều bia, rượu thường xuyên có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ. Nên hạn chế việc sử dụng các loại bia rượu, đặc biệt khi bệnh nhân có tình trạng cao huyết áp kèm theo. Giảm cân - Tình trạng béo phì có liên quan đến các bệnh 'Ẽệíih đội CỊMỊỊ uà cách điền ii'ị 23 lý cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường và đột quỵ. Duy trì trọng lượng vừa phải bằng chế độ ăn hợp lý và tập thể dục thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ độ quỵ. Theo Thu Thủy/vơ V Online 24 HOÀNG THÚY biên soạn P h ầ n ll NGUYÊN NHẦN VÀ TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH ĐỘT QUỴ 1. NGUYÊN NHÂN GÂY ĐỘT QUỴ Máu bị tắc nghẽn Một động mạch có thể bất thần bị nghẽn hoàn toàn hay một phần bởi một huyết khối (thrombus) hay cục máu đông di chuyển (embotus). Huyết khối và một cục máu đông thường hình thành trong một động mạch vốn đã bị hẹp lại do các chất mỡ lắng tụ bên trong (xơ vữa động mạch) làm giảm dòng chảy của máu. Còn cục máu đông di chuyển là vật cản trở sự lưu thông máu - thường là những cục máu quánh nhỏ bể ra từ một huyết khối rồi di chuyển và bị nghẽn lại tại một động mạch nhỏ ở cổ hoặc não, nhưng cũng có thể là một viên mỡ hay bong bóng khí. Các cục máu đông di chuyển thường hình thành trong tim và ưong các động mạch dẫn máu tới não. Nếu vách cơ tim đã bị tổn hại do một cơn đau tim, các cục máu có thể hình thành bên trong và bể vụn thành các cục máu đông di chuyển. Nếu nhịp tim đập bất thường hay yếu, lưu lượng máu chảy 'ẽệnh đội cỊoỵ và cách điều fr/ 25 trong các bộ phận tim sẽ chậm lại đến nỗi rất dễ hình thành các cục máu đông. Tỉ lệ các cục máu hình thành trong vùng tim và rồi sau đó bị cuốn theo dòng chảy của máu dẫn đến não là 50%. Một số cục máu này quá nhỏ không thể gây nghẽn động mạch sẽ được cuốn trôi đi xa hơn theo đường tuần hoàn máu vào sâu trong não cho đến khi chúng vướng phải một thành động mạch nhỏ hơn, nơi các động mạch phân nhánh (các tiểu động mạch) và đọng lại ở đó. Khi sự cố này xảy ra, chỉ một vùng nhỏ của não bị ảnh hưởng và sự tổn hại có khi không được quan tâm hoặc bị quy chụp là do gánh nặng tuổi tác hoặc tưởng nhầm là những dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh Alzheimer. Xơ vữa động mạch Cục máu đông trôi theo hệ thống động mạch lên não (hệ mạch cảnh và sống - nền) sau đó sẽ bị kẹt ở một nhánh động mạch nào đó và gây nên triệu chứng. Một số bệnh tim có biểu hiện rung nhĩ như bệnh hẹp van hai lá, bệnh mạch vành, viêm màng ngoài tim, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, bệnh cơ tim phì đại... và một số trường hợp không rõ nguyên nhân. Những nguyên nhân gián tiếp Thủ phạm chính của cả xuất huyết não lẫn máu bị tắc nghẽn thường là do các động mạch bị chai cứng (artenoscterosis) hay chứng xơ vữa động mạch 26 HOÀNG THÚY biên soạn (atherosclerosis), khiến cho những điều này bỗng nhiên trở thành những nguyên nhân gián tiếp gây ra các cơn đột quỵ. Những tác nhân khác khiến hai sự cố này dễ trở thành mối lo còn có thể kể đến là vấn đề tuổi già, yếu tố di truyền, cao áp huyết, bệnh tiểu đường, hút thuốc và béo phì. Tác nhăn gây xuất huyết não Hầu hết các ca xuất huyết não, thành động mạch bị vỡ ra khi huyết áp tăng đột ngột ở một vùng vốn đã rất yếu. Ví dụ, thành động mạch đã bị suy yếu vì phải chịu đựng lâu bệnh cao áp huyết mà không được điều trị. Ngoài ra, cũng phải kể những tác nhân bên ngoài không ngờ dẫn đến đột quỵ như: Hóa chất chống dính Một nghiên cứu công bố tháng 9-2012 đã chỉ ra mối liên hệ giữa các loại hóa chất chứa axít perũuorooctanoic (PFOA) như hóa chất chống cáu cặn/chống dính với bệnh hiếm muộn, cholesterol cao, chứng tăng động giảm chú ý và đặc biệt là bệnh tim mạch. Nguy cơ mắc các hội chứng tim mạch của những người có chỉ số PFOA cao trong máu cao tăng gấp đôi so với những người có lượng PFOA trong máu thấp. Hãy thay thế các vật dụng chống dính trong nhà bếp bằng loại được làm từ thép không gỉ hoặc thủy tinh. Tránh xa các loại vải, nội thất, sơn, thảm dán nhãn “chống bám bẩn”. đột cỊtiỵ và cách điềtt tr ị 27 Biến đổi khí hậu Hiện tượng ấm lên của Trái đất đang kéo theo nhiều hệ quả khôn lường đối với sức khỏe con người, và nhồi máu cơ tim là một trong số đó. Lượng nhiệt dư thừa dẫn tới sự hình thành của những hạt nhỏ li ti trong không khí, được biết tới dưới cái tên PM2.5. Các hạt này bị hít vào sâu trong phổi, xâm nhập hàng rào bảo vệ tự nhiên của cơ thể sau đó di chuyển vào máu. Tại đây chúng góp phần vào sự hình thành của các mảng xơ vữa động mạch - thủ phạm gây nhồi máu cơ tim. Hãy khắc phục điều này bằng dầu gan cá. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, việc thường xuyên bổ sung omega-3 trong dầu gan cá giúp tăng sức đề kháng trước những tác động của ô nhiễm không khí. Thực phẩm đóng hộp Ngoài PFOA và muối, thực phẩm đóng hộp còn chứa Bisphenol A hay BPA, một hóa chất khét tiếng độc hại gây rối loạn hoóc-môn nghiêm trọng. Và chất này có liên hệ với bệnh ung thư vú, chứng rối loạn giận dữ ờ trẻ em gái, béo phì và hiếm muộn. Bệnh tim mạch hiện đã được bổ sung vào danh sách này, thậm chí, chỉ một lượng cực nhỏ BPA cũng đủ gây rối loạn nhịp tim - chứng bệnh có thể dẫn đến tử vong. Để phòng tránh, hãy thay thế thực phẩm đóng hộp bằng thức ăn tươi hoặc đông lạnh. Khi mua 28 HOÀNG THÚY biên soạn hàng, tránh nhận hóa đơn nếu số lượng hàng hóa không đáng kể bởi hóa đơn nhiệt, loại hóa đơn phổ biến nhất hiện nay được phủ trên bề mặt một lớp BPA có thể thẩm thấu qua da. Nên đựng nước và thức ăn bằng đồ thủy tinh hoặc kim loại, cũng như không bao giờ sử dụng đồ nhựa trong lò vi sóng. Do một số loại nhựa có thể chứa BPA và nhiệt độ cao sẽ khiến thức ăn bị nhiễm chất này. Tắc đường Một nghiên cứu tiến hành ở Đức đã khám phá ra mối liên hệ mật thiết giữa ô nhiễm không khí, ùn tắc giao thông và nguy cơ nhồi máu cơ tim. Các nhà khoa học đã phỏng vấn hàng loạt nạn nhân sống sót sau đột quỵ và phát hiện ra rằng: nguy cơ đau tim của những người thường xuyên bị tắc đường cao hơn những người đi lại thuận lợi đến 3,2 lần. Nếu bạn đi xe ô tô, hãy trang bị vật dụng bảo vệ trước khi ra đường và đóng kín cửa sổ xe trong suốt thời gian di chuyển để tránh tiếp xúc với khí thải của các phương tiện khác. Hải sản Một nghiên cứu của trường Đại học Syracuse ở New York, Mỹ đã tìm ra nhiều bằng chứng cho thấy không phải loại hải sản nào cũng tốt cho sức khỏe. Trên thực tế, thủy ngân nhiễm trong một số loài cá can thiệp vào nồng độ hoóc-môn cortisol tự nhiên theo một cách bất lợi cho hệ thống tim mạch, từ đó đàf íỊtiỵ và cắck điều iiị 2 9 gia tăng nguy cơ đột quỵ. Ngoài cá ngừ, các loài cá có chứa lượng thủy ngân cao thường là những loài cá săn mồi cỡ lớn như cá kiếm, cá thu vua và cá mập. Bên cạnh đó, hàm lượng thủy ngân đáng báo động cũng được tìm thấy ở một số loài cá nước ngọt như cá hồi và cá vược. Yếu tố nguy cơ và dự phòng đột quỵ não - Tăng huyết áp là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh sinh của đột quỵ não, tăng huyết áp lâu dài gây tổn thương thành mạch, hình thành các mảng xơ vữa, tạo huyết khối, tạo các vi phình mạch trong não... Để hạn chế yếu tố nguy cơ này cần theo dõi huyết áp định kỳ, nếu bị huyết áp cao cần kiểm soát tốt huyết áp duy trì huyết áp ở mức cho phép theo yêu cầu của bệnh viện. - Các bệnh lý về tim: Các bệnh nhân bị rung nhĩ, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp, hở hẹp van 2 lá... dễ hình thành nên các cục máu đông trong buồng tim. Cục máu này được đẩy ra ngoại vi gây tắc các mạch máu nơi khác, nếu là ở não thì sẽ gây nên đột quỵ não. - Đột quỵ não không chỉ do tăng huyết áp: Hiện nay, tỷ lệ đột quỵ không phải do tăng huyết áp là khá lớn. Trong đột quỵ chảy máu não có 60 - 70% đột quỵ não có liên quan với tăng huyết áp, còn trong đột quỵ thiếu máu não thì 50 - 60% có liên quan tới tăng huyết áp. 30 HOÀNG THÚY biên soạn Như vậy vẫn còn khoảng 40 - 45% đột quỵ não không do tăng huyết áp, đây là một tỷ lệ khá lớn. Tuy nhiên, cộng đồng thường hiểu chưa đúng rằng nếu tôi không bị tăng huyết áp thì sẽ không bị đột quỵ não. Những nhận thức sai lầm trên phần chính là do sự tuyên truyền quá mức về bệnh tăng huyết áp, trong khi đó lại thiếu hẳn thông tin về nhiều nguy cơ khác gây ra đột quỵ não. Một số yếu tố nguy cơ chính khác hay gặp với tỷ lệ cao gây đột quỵ não là: giảm axit folic 50-75%, xơ vữa động mạch 30-50%, rối loạn lipid máu 30-45%, nghiện thuốc lá 25 - 35%, tăng hoóc-môn cystein máu 20-30%, bệnh rung nhĩ 15-25%, nghiện rượu 15-25%, đái tháo đường 12-20%, béo phì 12-20%, bệnh gút 7-10%. Đây là những yếu tố nguy cơ gây đột quỵ nã ; có thể cải biến được, nguy cơ càng cao nếu người bệnh cùng lúc mắc nhiều yếu tố nguy cơ. Chúng ta hoàn toàn có thể khảo sát, đánh giá và kiểm soát được chúng. Nếu kiểm soát được tăng huyết áp, giảm axí folic, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, rung nhĩ, thiếu vitamin B6, BI2; gần đây nhiều nghiên cứu nói đến vai trò của các chất chống ôxy hóa; đồng thời loại bỏ uống rượu nhiều, nghiện thuốc lá, béo phì, ăn mặn, ít vận động... thì chúng ta hoàn toàn có thể tránh được đột quỵ não. Như vậy cần tránh nhận thức sai lầm rằng với 'Sệnh đặt Cịnỵ và cách điều trị 3 1 người không bị tăng huvết áp thì không có nguy cơ đột quỵ não. Với người trên 50 tuổi, những người có các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não thì cần đến các trung tâm đột quỵ não, với bác sĩ chuyên khoa và các xét nghiệm chuyên ngành. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp cụ thể, khắc phục sớm với từng người thì chúng ta hoàn toàn có thể tránh bị mắc bệnh đột quỵ não. - Xơ vữa động mạch gây ra đột quỵ v ề bản chất đột quỵ não là một bệnh lý mạch máu não, do tổn thương mạch máu cấp máu cho não. Có 2 loại đột quỵ não là đột quỵ nhồi máu não và đột quỵ chảy máu não. Một trong những yếu tố quan trọng gây nên đột quỵ não là xơ vữa động mạch. Bình thường mặt trong các động mạch trơn nhẵn. Khi bị vữa xơ, các mảng vữa xơ xù xì lồi vào lòng mạch. Quá trình hình thành mảng vữa xơ động mạch bao gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: là giai đoạn thâm nhiễm cholesterol vào lớp màng trong cùng (nội mạc) của thành mạch máu tạo thành một lõi lipid. Giai đoạn 2: là giai đoạn xơ hóa. Lớp nội mạc bao quanh lõi lipid đó tăng sinh, xơ hóa, tạo thành một lớp vỏ xơ. Giai đoạn 3: là giai đoạn vôi hóa và loét. Có nhiều yếu tố tham gia vào quá trình hình thành mảng xơ vữa động mạch trong đó có 2 yếu tố (*)Theo http//: kienthuc.net.vn 32 HOÀNG THÚY biên soạn chủ yểu là do rối loạn chuyển hóa lipid (dẫn đến thâm nhiễm lipid vào thành mạch máu) và sự tổn thưcfng nội mạc máu. Một quan niệm phổ biến cho rằng xơ vữa động mạch là bệnh của tuổi già, tuy nhiên theo chương trình mục tiêu Quốc gia về phòng - chống vữa xơ động mạch đã nhấn mạnh: cần dự phòng vữa xơ động mạch ngay từ tuổi học đường. Xơ vữa động mạch nếu được can thiệp điều trị sớm hoặc có chương trình dự phòng tốt thì hoàn toàn có thể phòng tránh được bệnh. Tuy nhiên rất nhiều người đã bỏ qua các dấu hiệu của vữa xơ động mạch dẫn đến thiếu máu não và nặng hơn nguy cơ đột quỵ não cao do: Mảng vữa xơ gây chít hẹp lòng mạch làm nghẽn, tắc tại chỗ gây đột quỵ nhồi máu não. Hoặc mảng vữa xơ bong ra trôi theo dòng máu đến gây tắc ở vị trí khác. Xơ vữa động mạch cũng là nguyên nhân dẫn tới cục máu đông. Tại vị trí mảng vữa xơ, bề mặt bị tổn thương không còn trơn nhẵn như thành mạch máu bình thường. Tại đó tiểu cầu dễ bị đông vón, tạo thành cục máu đông gây bít tắc mạch tại chỗ hoặc trôi đi gây tắc mạch ở vị trí mạch nhỏ hơn. Ngoài ra, tại vị trí vữa xơ trở thành điểm yếu của thành động mạch bị vỡ ra gây đột quỵ chảy máu não. Mảng vữa xơ thường tiến triển âm thầm trong thời gian dài, không có triệu chứng. Người bệnh chỉ phát hiện dấu hiệu bệnh khi mảng vữa xơ chít hẹp trên 50% đường kính lòng động mạch hoặc vị trí 'Rệnh đ ộ i tụiỵ và cách điều fr ị 33 chít hẹp đúng vào vị trí xung yếu của tuần hoàn khu vực. Do vậy muốn phát hiện sớm bệnh vữa xơ động mạch đồng thời ngăn ngừa tai biến mạch máu não (đột quỵ não), người bệnh cần định kỳ đi khám chuyên khoa, làm các xét nghiệm cần thiết như: siêu âm mạch máu, xét nghiệm thành phần mỡ máu... Bên cạnh đó có thể sử dụng các sản phẩm đông dược lành tính để phòng ngừa xơ vữa động mạch, ngăn ngừa thiếu máu não và đột quỵ não. 2. CÁC YẾU TỐ GÂY RA CHỨNG ĐỘT QUỴ * Tổn thương động mạch: Bất kỳ nguyên nhân gây ra bệnh động mạch nào đều có thể trở thành nguyên nhân gây ra đột quỵ. - Xơ vữa động mạch: tắc nghẽn mạch máu do xơ cứng động mạch. - Biến chứng mạch máu nhỏ nội sọ: u động mạch, dị dạng động tĩnh mạch. - Biến chứng do viêm động mạch toàn thân ảnh hưởng động mạch não: viêm động mạch lớn có tính đa phát, viêm ống dẫn do tắc nghẽn mạch máu, viêm động mạch do khối u, viêm động mạch tế bào khổng lồ, bệnh ban đỏ toàn thân... - Viêm động mạch do nhiễm trùng: bệnh do leptospira (bệnh Weil), bệnh giang mai, nấm và vi khuẩn tràng hạt hoặc viêm màng não có cương mủ. - Bệnh mạch máu não bẩm sinh: động tĩnh mạch dị dạng bẩm sinh, u động mạch bẩm sinh. 34 HOÀNG THÚY biên soạn - Động mạch tổn íhưcmg do bệnh tiểu đường. - Biến chứng mạch máu não do chấn thương. - Chứng thoái hóa dạng tinh bột. * Lưu biến học của máu khác thưòmg: độ nhầy của máu tăng cao, máu đông đặc. * Động lực học của máu khác thường: huyết áp thấp, bệnh phóng xạ. * Thành phần của máu khác thường: hồng cầu khác thường (bệnh tăng hồng cầu), tiểu cầu khác thường (độ tích tụ của tiểu cầu tăng cao, chứng tăng tiểu cầu), bạch cầu khác thường (bệnh máu trắng). * Một số nhân tố thứ phát: ung bướu (hoại tử ung bướu hoặc vỡ động mạch gây xuất huyết). Nguy cơ đột quỵ do nắng nóng'*^ Bệnh đột quỵ do nắng nóng là bệnh có thể xảy ra với nhiều người và cũng rất nguy hiểm nếu không biết cách xử trí kịp thời. Trong những ngày nắng nóng, cơ thể phải thải nhiệt bằng cách ra mồ hôi, tăng hoạt động của tim để đẩy máu ra bề mặt cơ thể nhằm thoát nhiệt... Nếu cơ thể không tự làm mát được thì nhiệt độ cơ thể tăng cao và sẽ dẫn đến nguy cơ đột quỵ. Những ngày nắng nóng có thể gây đột qụy bằng cơ chế phối hợp bởi 3 yếu tố: một là nắng nóng, cơ thể phải đổ nhiều mồ hôi, gây mất nước, dẫn tới Theo ThS. Phạm Phú Vìĩủi/Suckìioedoisong.vn 'ẽệnh đợi ÍỊ(/ỊỊ i/à cácti điền ir ị 3 5 giảm khối lượng máu, làm thiếu hụt lượng máu nuôi não, dẫn đến đột quỵ não. Hai là, nắng nóng làm tăng thân nhiệt, gây rối loạn chức năng điều phối hoạt động sống của hệ thần kinh trung ương, làm rối loạn hô hấp và tuần hoàn, hậu quả cũng suy giảm lượng máu nuôi não dẫn đến đột quỵ. Ba là, nắng nóng gây rối loạn hoạt động của hệ tim mạch, làm tim hoạt động kém, suy giảm hiệu suất tống máu, kèm theo sự giãn mạch, làm cho thiếu máu nuôi não và nhiều cơ quan khác cũng dẫn đến đột quỵ. Trời càng nắng nóng, càng dễ gây ra đột quỵ, nhiệt độ càng cao thì mức độ đột quỵ càng nặng. Nếu nhiệt độ ngoài trời từ 35 - 36”C ít khi gây ra đột quỵ mà chỉ gây ra say nắng và say nóng. Nhưng khi nhiệt độ ngoài trời từ 39 - 40“C trở lên thì rất dễ gây đột quỵ não ở người cao tuổi. Người đi lại hay hoạt động ngoài trời nắng, nếu bị đột quỵ sẽ có những biểu hiện như sau: người bệnh đột ngột mất ý thức, ngất; da nóng ran, cặp nhiệt độ cơ thể có thể lên tới 40 - 4r c hoặc cao hơn. Bệnh nhân đổ nhiều mồ hôi, da ẩm ướt, bại yếu nửa người, không cử động được, không đi lại được, không nói được hoặc khó nói, nói ngọng, không xác định được không gian và thời gian. Hãy đưa ngay bệnh nhân bị đột quỵ vào bóng mát để cấp cứu. Một trường hỢp đột quỵ kiểu khác là bệnh tiến triển từ nhẹ đến nặng như sau: bệnh nhân có các 36 HOÀNG THÚY biên soạn triệu chứng kiệt sức do nắng nóng như ra mồ hôi quá nhiều, buồn nôn và nôn mửa, đau đầu, choáng váng hoặc ngất, mệt mỏi, bị chuột rút... Thân nhiệt tăng và kèm các triệu chứng: lú lẫn, mất thăng bằng, thở dốc, hơi thở yếu, choáng, ngất, chóng mặt, hoa mắt, mặt tái nhợt, mạch nhanh, chuột rút (vọp bể), đái ít, sốt cao có khi tới 44°c, trụy mạch. Bệnh nhân sẽ có biểu hiện tổn thương thần kinh như: li bì, giãy giụa, mê sảng, hôn mê và có thể tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Vì sao bệnh đột quỵ dễ mắc và tăng cao vào mùa đông?^*^ Mùa đông khiến tình trạng bệnh cao huyết áp chuyển biến xấu hơn, nhiều khả năng dẫn tới suy tim hoặc đột quỵ. Theo một thống kê, số bệnh nhân đột quỵ có nguy cơ tăng cao đến hơn 15% vào mùa này. Vào mùa lạnh, cơ thể tăng tiết các catecho-lamine trong máu dẫn đến co mạch ngoại biên. Mạch máu ở một số vùng co lại sẽ đẩy máu ra những khu vực ít chịu ảnh hưởng hơn, gây giãn mạch thụ động ở những nơi đó (như mạch não, mạch phổi), do đó, dễ gây các biến chứng đứt mạch não hoặc phù phổi cấp. Ngoài ra, thời tiết lạnh cũng làm tăng số lượng tiểu cầu, hồng cầu và độ nhớt của máu, làm tăng nguy cơ bệnh động mạch vành, tai biến mạch máu não và bệnh mạch máu ngoại vi, đặc biệt ở người già bởi khả năng miễn dịch và tính chịu đựng cơ thể (') Thiên Bình (Tổng hợp). 'Sệnh đội íỊnỵ và cách điền ivị 37 kém, mạch máu giảm tính đàn hồi, trở nên cứng hơn, máu tăng độ quánh do tăng cholesterol, giảm enzyme tiêu hủy sỢi huyết, lòng mạch bị thu hẹp, máu hay bị kết vón, lưu lượng máu qua não giảm đến 1/5 so với thông thường, dự trữ chức năng không còn nhiều nên rất khó thích nghi với những thay đổi bất thường của thời tiết. Đặc biệt, với những người có tiền sử huyết áp cao, thành mạch máu thoái hóa dày lên, sẽ ảnh hưởng tới tuần hoàn não. Khi gặp thay đổi đột ngột từ bên ngoài, những động mạch đưa máu lên não bị tắc nghẽn, não sẽ bị thiếu chất dinh dưỡng và oxy, dẫn đến đột quỵ và tử vong. Cũng theo các nhà khoa học tại Trung tâm Y tế Cleveland (Mỹ), sự thay đổi lớn về nhiệt độ, từ ấm sang lạnh, làm tăng huyết áp, khiến mạch máu bị thắt lại. Mạch máu khi bị biến dạng sẽ dễ dẫn tới tình trạng phình động mạch chủ, gây đột quỵ. Thêm vào đó, vào mùa đông, số người uống rượu càng nhiều. Chất cồn lưu lại trong máu lâu do khả năng bài tiết qua đường mồ hôi giảm, dẫn tới tăng huyết áp, nhịp tim, tăng lưu lượng máu và làm giảm độ kết dính của máu. Khi đó, chỉ cần xuất huyết nhẹ là đủ dẫn tới tai biến. Phòng ngừa đột quỵ như thế nào, đặc biệt là vào mùa đông? Để dự phòng bệnh đột quỵ trong mùa đông và hỗ trỢ điều trị cần phải kết hỢp đồng thời giữa chế độ sinh hoạt hỢp lý. Hơn nữa, việc hạn chế mỡ động 38 HOÀNG THÚY biên soạn vật, tránh rượu, thuốc lá; giữ đủ ấm, tránh những đợt gió lạnh bất thường ùa vào khi cửa mở, sống thư thái, tránh căng thẳng, ngăn ngừa stress... sẽ giúp người cao tuổi thích ứng tốt hơn với môi trường sống, tránh được tai biến mạch máu não. Ngoài ra, chúng ta cần: - Điều trị tốt bệnh huyết áp cao (nguyên nhân chính gây đứt mạch máu não). - Phòng và điều trị tiểu đường (yếu tố nguy cơ gây mảng xơ vữa động mạch lớn, dẫn đến thiếu máu ở não). - Khắc phục tình trạng tăng cholesterol máu cùng với triglyceride máu. - Phòng và trị bệnh đa hồng cầu (có thể gây cơn thiếu máu não hay nhũn não). - Nên ăn nhiều rau củ quả; hạn chế muối; đời sống tình cảm tâm lý ổn định, tránh những xúc động hay chấn thương quá mức. - Thay đổi nếp sống tĩnh tại, ít vận động; tăng cường tập thể dục, vận động vừa sức sao cho phù hỢp với tình hình sức khỏe. - Kiểm tra sức khỏe định kỳ thường xuyên. Thêm vào đó, bạn có thể dùng thêm một số sản phẩm có tác dụng giảm độ quánh của máu, tăng sức bền và độ đàn hồi thành mạch, kéo dài thời gian đông máu, ức chế ngưng tập tiểu cầu, ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông, giúp cho việc lưu thông máu lên não tốt. 'Sệnh đợi cjnỵ oà cách điền frị 39 Những đối tượng dễ bị đột quỵ - Tiền sử gia đình bị đột quỵ, nhồi máu cơ tim hoặc bị cơn thiếu máu não thoáng qua. - Tuổi càng lớn nguy cơ đột quỵ càng cao. Tuy nhiên, những năm gần đây độ tuổi bị đột quỵ đang trẻ hóa dần, từ 40 - 45 tuổi so với ngoài 60 tuổi như trước đây. Đặc biệt, có những bệnh nhân mới 20-30 tuổi và tập trung nhiều ở các thành phố lớn. Người bệnh có nếp sống công nghiệp, sử dụng bia, rượu cộng với thức ăn chứa nhiều dầu, mỡ, như: phô-mai, lòng đỏ trứng, thịt, lạp xưởng và các chất béo khác được sử dụng quá nhiều chính là một trong những yếu tố dẫn đến nguy cơ bị đột quỵ. - Giới tính: Nam giới bị nhiều hơn nữ giới. - Đối tượng có nguy cơ bị đột quỵ cao, như: người có tiền sử tăng huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, tăng mỡ trong máu, nghiện rựợu và thuốc lá, béo phì, ít vận động, dùng thuốc ngừa thai (đặc biệt thuốc có nồng độ Estrogen cao). - Ngưòi ngủ quá ít Nghiên cứu của Đại học Emory và Trung tâm Đột quỵ và Khoa học thần kinh Marcus thuộc Bệnh viện Grady, Alanta, Mỹ, cho thấy người trung niên và cao tuổi thường xuyên ngủ dưới 6 tiếng mỗi đêm có nguy cơ đột quỵ cao hơn hẳn những người có giấc ngủ bình thường. Đó là do sự thay đổi nồng độ cortisol, một hormone stress quan trọng có nồng độ cao hơn ở người ngủ ít. Nồng độ hormone này tăng có thể gây 40 HOÀNG THÚY biên soạn rối loạn chức năng tế bào lót và bảo vệ mạch máu, bắt đầu báo hiệu đợt tai biến dẫn tới đột quỵ. Hệ lụy khôn lường từ mất ngủ Ngủ vốn được xem là hoạt động sinh lý dễ dàng nhất của con người nhưng hiện nay lại có không ít người đang phải chống chọi với tình trạng mất ngủ triền miên. Không chỉ là bệnh của người già, mất ngủ còn là vấn đề mà nhiều nhân viên văn phòng, doanh nhân, nội trỢ, sinh viên, học sinh... phải đối mặt. Mất ngủ nếu ở dạng “cấp tính” cũng đã gây ra tình trạng “tuột dốc không phanh” về nhan sắc và sức khỏe chỉ sau một thời gian ngắn. Dễ nhận thấy đầu tiên là sự mệt mỏi, cáu kỉnh, hay quên, mất tập trung trong công việc và các sinh hoạt hằng ngày. Sau đó, những thay đổi do mất ngủ gây ra biểu hiện rõ rệt ở gương mặt, làn da và đặc biệt là cảm giác thèm ăn khi tình trạng mất ngủ làm tăng nồng độ ghrelin - hormone làm tăng cảm giác ngon miệng, kích thích ăn nhiều nên dễ gây thừa cân, béo phì. Nguy hiểm hơn, mất ngủ còn thúc đẩy các vấn đề tăng huyết áp, tim mạch, đột quỵ não... Theo Hiệp hội Cao huyết áp Mỹ, với người ngủ 5 tiếng mỗi đêm, nguy cơ đột quỵ tăng tới 83% so với bình thường. Mất ngủ kéo dài còn làm não teo 25%, ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng nhận thức của não bộ, tăng khả năng suy giảm trí nhớ, Alzheimer... Theo PGS. TS Vũ Anh Nhị, Chủ tịch Hội thần kinh học TP.HỒ Chí Minh, các nghiên cứu gần đây cho thấy, nguyên nhân của mất ngủ thường gặp là ~BệHh đột (Ịtiỵ và cách điều trị 41 do căng thẳng, stress... dẫn đến tăng sinh Gốc tự do. Gốc tự do âm thầm tấn công lớp nội mạc mạch máu, thúc đẩy sự hình thành mảng xơ vữa và cục huyết khối, làm hẹp mạch máu khiến máu vận chuyển oxy lên não bị cản trở gây ra những rối loạn cho cơ thể, điển hình là rối loạn giấc ngủ. Nếu không được khắc phục, tình trạng mất ngủ “cấp tính” sẽ càng dày hơn và trở thành mãn tính. Giải pháp tìm lại giấc ngủ ngon Khi bị mất ngủ cấp hay mãn tính thì trà, cà phê hay thuốc an thần, thuốc ngủ là những thứ “cấm kỵ” không nên “lạm dụng” vì thực chất chỉ ' có tác dụng “cưỡng ép” giấc ngủ, dễ gây hiệu ứng ngược với sức khỏe. PGS Anh Nhị khuyến cáo, để có giấc ngủ ngon, sáng dậy tỉnh táo, trước hết, cần loại bỏ căng thẳng, sưess, tạo niềm vui trong công việc, cuộc sống; nên đi ngủ và thức dậy đúng giờ; phòng ngủ luôn giữ thoáng và yên tĩnh; trước khi đi ngủ nên tắm nước ấm hoặc chọn một hoạt động thư giãn tĩnh; không nên sử dụng phòng ngủ để làm việc khác như tập thể dục, xem tivi; không uống cà phê, rượu bia vào buổi tối. Duy trì chế độ dinh dưỡng hỢp lý, ăn nhiều rau xanh, trái cây; tránh ăn quá no, để bụng quá đói hay dùng những thức ăn khó tiêu, không uống quá nhiều nước vào buổi tối; những vận động như tập thể diỊí: dựỡng sinh hoặc đi bộ, chơi cầu lông, bơi... giúp ích rất nhiều cho giấc ngủ. Bên cạnh đó, muốn có giấc ngủ sâu và thức dậy 42 HOÀNG THÚY biên soạn với trạng thái sảng khoái cần loại bỏ nguy cơ gây hại từ gốc tự do. Tinh chất thiên nhiên từ Bluebeny (sinh trưởng ở Bắc Mỹ) chứa các hoạt chất quý Anthocyanin, Pterostilbene có khả năng vượt qua hàng rào máu não, vừa trung hòa các gốc tự do ttong lòng mạch máu vừa kích hoạt các men chống gốc tự do tự nhiên trong cơ thể. Từ đó, giúp giảm hiện tượng xơ vữa, ngăn ngừa huyết khối và cải thiện tình ưạng thiếu máu não. Qua đó, chức năng truyền dẫn thần kinh được phục hồi và giấc ngủ được cải thiện. Điều chỉnh lối sống, dinh dưỡng hỢp lý và sử dụng tinh chất Bluebeny là những bí quyết gối đầu giường để mỗi thành viên trong gia đình đều có giấc ngủ ngon, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng sống. - Đột quỵ não ở người ngủ nhiều: thực hư ra sao? Trong một nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Neurology (Mỹ), các nhà khoa học cho rằng, những người ngủ trên 8 tiếng/ngày có nguy cơ bị đột quỵ não cao hơn so với những người ngủ từ 6 - 8 tiếng. Đột quỵ não đến từ những giấc ngủ triền miên? Đây có thể là một công bố gây sốc vì từ trước đến nay, tình trạng thiếu ngủ mới được xem là nguyên nhân có thể dẫn tới đột quỵ. Tuy nhiên, giới chuyên gia đã tiến hành theo dõi gần 10.000 người ở độ tuổi từ 42 - 81 trong vòng 10 năm và cho thấy: những người ngủ nhiều hơn 8 tiếng/ngày có nguy cơ mắc đột quỵ, cao hơn 46% -SO với người ngủ 8 tiếng/ngày. Các nhà nghiên cứu chia sẻ rằng, việc đột íịuỵ và cách điều #»'/ 43 ngủ nhiều là dấu hiệu liên quan tới nhiều vấn đề về tim mạch. Bác sĩ David Gozal tại Đại học Y Chicago (Mỹ) cũng cho biết: “Nếu con người ngủ quá nhiều, đó là một dấu hiệu tiềm tàng của các bệnh liên quan đến tim mạch, có thể là căng thẳng, ung thư hay suy giảm chức năng thần kinh”. Do đó, để có một sức khỏe dẻo dai, tránh được các bệnh nguy hiểm như đột quỵ chúng ta hãy biết cách thay đổi lối sống «ao cho khoa học, năng tập thể dục, tránh thức khuya hoặc ngủ quá nhiều. Ngoài ra, sử dụng các thực phẩm chức năng nguồn gốc thiên nhiên cũng là một hướng đi hiệu quả trong phòng ngừa và hỗ ttỢ điều trị đột quỵ não. Đặc biệt, dòng sản phẩm có thành phần chính từ nattokinase có tác dụng phòng ngừa và phá cục máu đông (tác nhân chính gây đột quỵ não), hỗ trỢ điều trị đột quỵ não (đặc biệt là ở người cao tuổi) và thúc đẩy quá trình phục hồi, cải thiện di chứng liệt, méo miệng... sau cơn đột quỵ, ngăn chặn bệnh tái phát lần sau. Giấc ngủ là vô cùng quan trọng, giúp cơ thể tái tạo năng lượng sau một ngày làm việc mệt mỏi. Song, việc ngủ quá nhiều, không khoa học lại phản tác dụng. Vì vậy, hãy lưu ý điều chỉnh để có được giấc ngủ chất lượng, đúng giờ, đủ thời gian, giúp chúng ta tránh xa đột quỵ não. - Ngưòn hay bị stress Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Tâm thần tại Đại Edinburgh, Anh, các triệu chứng lo âu hay trầm cảm là một trong những nguyên 44 HOÀNG THÚY biên soạn nhân làm tăng tỷ lệ đột quỵ. - Ngưòn bị đái tháo đường Bị đái tháo đường càng lâu, rủi ro đột quỵ càng cao. Trung tâm Y khoa Đại học Columbia, New York, Mỹ đã xem xét dữ liệu của khoảng 3.300 người. Kết quả là so với những người không bị đái tháo đường, rủi ro đột quỵ cao hơn 70% ở người bị đái tháo đường dưới 5 năm và cao hơn 3 lần ở người bị đái tháo đường ít nhất 10 năm. - Người làm việc theo ca Các nhà nghiên cứu đã phân tích kết quả của 34 nghiên cứu liên quan đến hai triệu người làm việc theo ca và đưa ra cảnh báo: làm việc theo ca có thể làm tăng đáng kể nguy cơ đau tim và đột quỵ. Là vì người làm việc theo ca thì đồng hồ sinh học sẽ bị rối loạn, ngủ ít, có thể hút thuốc nhiều, chế độ ăn không ổn định và không được tập thể dục đều đặn. - Người bị thiếu vitamin c Các chuyên gia thuộc Đại học Cambridge, Anh cho rằng có thể dự đoán được nguy cơ bị đột quỵ thông qua hàm lượng vitamin c trong cơ thể mỗi người. Theo các kết quả nghiên cứu, những người có hàm lượng vitamin c cao nhất sẽ giảm nguy cơ đột quỵ 42% so với những người có hàm lượng vitamin c thấp nhất. Vì vitamin c giúp cải thiện chức năng của nội mô (lớp tế bào bên trong mạch máu), ngăn cản sự hình thành các khối máu đông trong động mạch và giúp giảm huyết áp. đợf Cịuỵ và cắck điền ivị 4 5 Yếu tố phát sinh chứng đột quỵ Trên lâm sàng yêu tố gây ra chứng đột quỵ rất nhiều, ví dụ: - Điều tiết tâm trạng không tốt: như nóng giận, kích động, lo âu quá độ, đau buồn, hoảng sỢ, kinh ngạc, đặc biệt là những sự việc phát sinh một cách đột xuất, - Khí hậu thay đổi. - Ăn uống không điều độ (ăn uống vội vàng, dồn dập, nghiện rượu, nghiện thuốc...). - Đột nhiên dùng quá sức (-nín thở lấy hơi hoặc làm việc quá sức). - Uống thuốc không đúng (nếu uống thuốc hạ huyết áp không đúng sẽ dẫn đến huyết áp không hạ hoặc hạ quá thấp). Vì vậy, nên có biện pháp hữu hiệu, cố gắng ngăn ngừa hoặc loại trừ những nhân tố nguy hiểm này, điều đó rất có lợi cho việc phòng ngừa chứng đột quỵ. a) Hút thuốc, uống rượu liên quan đến chứng đột quỵ Hút thuốc là một trong những nguyên tố nguy hiểm gây ra chứng đột quỵ, đây là kết luận đã được các nhà khoa học trên thế giới chứng minh. Nhiều nghiên cứu về dịch tễ học trong và ngoài nước cho thấy: hút thuốc càng nhiều, thời gian hút thuốc càng dài thì nguy cơ phát bệnh càng lớn. Hút thuốc dẫn đến co thắt mạch máu não, huyết áp dao động, còn 46 HOÀNG THÚY biên soạn ảnh hưởng đến xơ cứng động mạch và sự tích tụ của tiểu cầu, có thể dẫn đến độ nhầy của máu tăng cao, máu chảy chậm, đây là những nhân tố sinh lý, bệnh lý của đột quỵ. Người nghiện rượu, có nguy cơ phát sinh đột quỵ cao gấp hai lần so với người bình thường. Sau khi uống rượu, nhịp tim gia tăng, huyết áp tăng cao, nếu mạch máu não bị phá hủy tức là sẽ phát sinh “đột quỵ do xuất huyết”. Vì vậy, nghiện rượu cũng là một trong những nhân tố nguy hiểm quan trọng gây ra đột quỵ b) Mệt mỏi tinh thần căng thẳng liên quan đến đột quỵ Kiệt sức, tinh thần căng thẳng là nguyên nhân gây ra đột quỵ. Ví dụ, làm việc khuya, thường xuyên ngủ không đủ sức, kiệt sức trên đường du lịch... Dẫn đến não bị suy mòn (mỏi mệt), sự tiêu hao về khí oxy và dinh dưỡng gia tăng, đòi hỏi não phải có lưu lượng máu tương ứng; nếu vì một trong những nguyên nhân này mà vòng tuần hoàn máu trong não biến đổi thì dễ gây đột quỵ, đặc biệt đối với bệnh nhân cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh mạch vành. Vì thế, người trung nhiên, người già cần phải điều tiết tâm trạng, tránh tâm trạng bị dao động; bất luận trong công việc hay học tập đều cần phải điều chỉnh hỢp lý, kết hẹỹp hài hòa giữa nghỉ ngơi và làm việc, tránh để mệt mỏi hoặc kiệt sức. c) Bệnh tim có Hên quan đến đột quỵ không? Nhiều loại bệnh tim có thể gây ra đột quỵ. Bệnh tim do thấp khớp, bệnh viêm màng tim hơi Sệ«A đột íỊíiỵ và cácU điều irị 47 cấp tính... đều có thể là nguồn gốc của sự tắc nghẽn mạch trong não; có bệnh nhân bị bệnh mạch vành, do cùng chung cơ sở bệnh lý, hoặc do chức năng của tim giảm dẫn đến cung cấp máu vào đại não không đủ, do đó phát sinh nguy cơ đột quỵ cao gấp 5 lần so với người bình thường, cần phải tiến hành điều trị đối với những người mắc bệnh tim. d) Béo phì có liên quan đến đột quỵ? Người béo phì đơn thuần đặc biệt là loại béo phì ờ phần bụng rất dễ mắc bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh xơ vữa động mạch, vì vậy cũng dễ phát sinh đột quỵ. e) Đột quỵ có tính di truyền không? Bản thân chứng đột quỵ không có tính di truyền, hiện tượng trong gia tộc có người bệnh thật ra là do các nhân tố nguy hiểm quyết định như bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường mà những bệnh này là nguyên nhân phát sinh đột quỵ, hơn nữa những bệnh này đều có tính di truyền nhất định. Có nghiên cứu cho thấy, bình thường cha mẹ có bệnh •sử đột quỵ thì tỷ lệ mắc chộng đột quỵ của con cái họ gấp 4 lần so với người bình thường. f) Thanh niên có bị đột quỵ không? Xu hướng trẻ hoá của bệnh Theo các bác sĩ, đột quỵ thường xảy ra với người ngoài 50 tuổi. Tuy vậy, những năm vừa qua, tỷ lệ người trẻ tuổi mắc đột quỵ ngày càng có xu hướng 48 HOÀNG THÚY biên soạn tăng. Tạp chí Y khoa Lancet (Anh) từng công bố nghiên cứu liên quan đến tình trạng này của nhiều nhà khoa học Anh, Mỹ, Pháp. Hơn 100 nghiên cứu được tiến hành trong suốt 10 năm cho thấy số vụ bệnh nhân 20 - 64 tuổi bị đột quỵ có xu hướng tăng, từ 25% trước năm 1990 lên khoảng 31% vào năm 2000. số lượng bệnh nhân từ 20 trở xuống chiếm khoảng 0,5%. Đông Á, Bắc Mỹ, châu Âu là khu vực có nhiều người đột quỵ nhất. Các bác sĩ trường Y Cincinnati, Hoa Kỳ, cũng từng nghiên cứu và kết luận bệnh đột quỵ ngày càng dễ gặp ở người trẻ tuổi. Tại Việt Nam, tỷ lệ người trẻ mắc đột quỵ có chiều hướng tăng trung bình khoảng 2% mỗi năm. Năm 2013, hội thảo khoa học “Chiến lược dự phòng và điều trị đột quỵ” diễn ra tại Hà Nội cũng cho thấy bệnh ngày càng trẻ hoá. Một số nguyên nhân Theo các bác sĩ, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng đột quỵ ở người trẻ. Trong đó, lối sống không lành mạnh được xem là nguyên nhân hàng đầu. Việc uống rượu bia, hút thuốc lá thường xuyên dễ gây đột quỵ. - Khi đời sống vật chất được nâng cao, chế độ ăn uống quá nhiều chất béo với hàm lượng cholesterol cao, dẫn đến xơ vữa động mạch ở người trẻ. Xơ vữa động mạch tại các mạch máu của não (hoặc nơi khác) hình thành nên cục máu đông làm tắc động mạch não gây nên đột quỵ não. đợi íịtiỵ t/à cách điều fi'ị 49 Chế độ dinh dưỡng mất cân đối, lười vận động... cũng tác động không nhỏ. Việc sử dụng thuốc tránh thai có estrogen cũng làm tăng khả năng tắc mạch máu. Vì thế, bạn không nên tuỳ tiện dùng thuốc này, đặc biệt với thuốc tránh thai khẩn cấp. - Áp lực, căng thẳng cũng là một yếu tố gây đột quỵ. Người trẻ ngày càng phải đối mặt với nhiều áp lực trong cuộc sống, công việc. Căng thẳng thường xuyên làm ảnh hưởng đến tuần hoàn máu, tăng nguy cơ tắc nghẽn mạch máu não. - Người trẻ tuổi mắc các bệnh liên quan đến máu, tim mạch như huyết áp cao, tiểu đường, béo phì... ngày càng có xu hướng tăng cao. Đồng thời, áp lực cuộc sống, stress cũng là yếu tố nguy cơ làm cho tình trạng co thắt mạch máu não xảy ra thường xuyên hơn, từ đó có thể dẫn đến nhồi máu não, đột quỵ não. - Thêm vào đó, những người trẻ tuổi khi khám bệnh dễ bị chẩn đoán thành đau nửa đầu, đa xơ cứng, động kinh hoặc lo âu quá mức. Nguyên do triệu chứng đột quỵ ở người trẻ thường khác với người cao tuổi. Khi đột quỵ xảy ra, hậu quả thường nặng nề hơn. Vì vậy, ở người trẻ tuổi cũng cần phải biết cảnh giác, có những hiểu biết về nguy cơ và biện pháp dự phòng đột quỵ não. Biện pháp phòng ngừa - Để phòng bệnh, bạn cần xây dựng chế độ dinh dưỡng hỢp lý, tăng cường vitamin và rau xanh. Mỗi ngày không ăn quá 5 g muối, giảm chất béo và tinh 50 HOÀNG THÚY biên soạn bột. Ngoài ra cần hạn chế rượu bia, bỏ thuốc, không sử dụng các chất kích thích... - Tăng cường vận động mỗi ngày, lựa chọn các bài tập phù hcfp với thể lực, không tập quá sức. Nên kiểm soát căng thẳng bằng các biện pháp thư giãn, nhờ sự giúp đỡ của chuyên viên tâm lý. - Tiến hành kiểm tra định kỳ huyết áp, đường máu, mỡ máu để phát hiện các bệnh liên quan và điều trị sớm. Khi thấy các triệu chứng chân tay yếu dần, đi lại khó khăn, nhịp tim rối loạn, lú lẫn... cần đi khám để xác định bệnh và tiến hành điều trị. g) Huyết áp thấp có gảy đột quỵ không Nhiều người cho rằng người cao huyết áp dễ bị đột quỵ, họ nghĩ rằng nếu huyết áp của mình không cao thì không cần lo lắng. Thật ra cơ chế phát sinh đột quỵ rất phức tạp, không chỉ ở người cao huyết áp mới xảy ra đột quỵ, những nguyên nhân khác cũng trực tiếp liên quan đến đột quỵ như sự tích tụ của tiểu cầu quá cao, xơ cứng động mạch cổ; huyết áp quá thấp có thể làm cho máu truyền vào trong não thấp, cũng có thể gây ra thiếu máu não; khi huyết áp giảm, người già vốn có mạch máu khác thường, trên lâm sàng sẽ dẫn đến ‘Tanh giới xơ cứng não”, vì vậy, bệnh nhân trong giai đoạn đột quỵ cấp tính không được để huyết áp giảm. Bình thường nếu huyết áp vượt qua 200/100 mmHg mới cần giảm huyết áp. h) Đột quỵ có tái phát không? Câu trả lời là có. Vì vậy bác sĩ thường yêu cầu ~Sệnh đội cỊttỵ oà cách điều iv ị 5 1 bệnh nhân nên tái khám định kỳ, bác sĩ điều trị quan sát tìm hiểu trạng thái sinh lý, bệnh lý của bệnh nhân, đặc biệt là khống chế các nguyên nhân gây bệnh, căn cứ vào đó để điều chỉnh kê toa thuốc cho hỢp lý. Trên lâm sàng, bệnh nhân bị đột quỵ tái phát 3 - 4 lần không phải là ít, đặc biệt là những bệnh nhân chưa khống chế được nguyên nhân phát bệnh. i) Bệnh nhăn bị đột quỵ có cần uống thuốc cả đời không? Hiện nay chứng đột quỵ vẫn chưa có phương pháp đặc trị hiệu quả. Nhân tố nguy hiểm và nguyên nhân phát bệnh cũng vô cùng phức tạp, ưọng tâm của điều trị bệnh hiện nay là phòng trị. Vì vậy, đa số bệnh nhân cần phải dùng thuốc để ngăn ngừa tái phát. Trên lâm sàng những loại thuốc điều trị được công nhận có hiệu quả rất ít, dùng thuốc aspirin có thể phòng ngừa và làm giảm nguy cơ phát bệnh, thuốc chống tích tụ tiểu cầu cũng có hiệu quả nhưng rất tốn kém. 3. CÁC TRIỆU CHỨNG MỘT CƠN ĐỘT QUỴ Các triệu cu 'mg một cơn đột quỵ không hoàn toàn giống nhau vì còn phụ thuộc vào vùng não bị ảnh hưởng. Trong những điều kiện chung, các triệu chứng đột quỵ có thể phân chia thành ba nhóm dựa trên những tác động liên quan thể chất, tinh thần và ngôn ngữ. Hiếm bệnh nhân nào cùng một lúc có đủ các triệu chứng liệt kê trong bảng bên dưới, và mức độ 52 HOÀNG THÚY biên soạn nghiêm trọng cũng thay đổi từ nhẹ và thoáng qua cho đến tàn phế nặng và vĩnh viễn. a) Triệu chứng thể chất - Hôn mê trong đột quỵ: 60% cơn đột quỵ xảy ra khi người bệnh đang thức. Trạng thái hôn mê thường đi kèm với cơn đột quỵ, nguyên nhân là do xuất huyết não. - Không kiểm soát được việc tiểu tiện hoặc đại tiện: 90% người bệnh lấy lại được khả năng này sau vài tuần đầu tiên. - Chóng mặt: không giống với chóng mặt và choáng váng bình thường, mà người bệnh có cảm giác mọi vật xung quanh đang quay cuồng điên đảo hoặc bản thân đang sắp ngã. Thường thấy do nghẽn động mạch hệ thống dây cột sống hoặc xuất huyết tiểu cầu, mà xuất huyết tiểu cầu thường có triệu chứng đau đầu dữ dội và nôn mửa. - Bị yếu cánh tay hoặc chân: Khi ai đó đang trong cơn đột quỵ thì một triệu chứng khá phổ biến là một cánh tay hoặc một chân sẽ dần yếu đi và bị tê liệt. Thường thì các chi bị liệt nằm ở phía đối diện của vùng não bị đột quỵ. Kiểm tra bằng cách mở rộng hai cánh tay trong vòng 10 giây. Nếu một cánh tay trôi xuống, cho biết bạn đang bị yếu cơ và chính là một dấu hiệu của cơn đột quỵ. - Chóng mặt hoặc mất thăng bằng: Nếu bạn chóng mặt, buồn nôn hoặc gặp khó khăn khi đi bộ, nhiều 'Sậýih đội Cịnỵ và cấcU đíềt< irị 53 người có thể nghĩ rằng bạn đang say nhưng thực tế là bạn đang trong một cơn đột quỵ TS. Chaturvedi, giám đốc chương trình Wayne State University/Detroi của Trung tâm Y tế đột quỵ, lưu ý rằng triệu chứng chóng mặt đột ngột là do hội chứng virus và có thể là dấu hiệu của một cơn đột quỵ, tuy nhiên, nó rất dễ nhầm lẫn và khó phân biệt trong nhiều trường hỢp. - Đau: Đau không phải là triệu chứng đột quỵ điển hình. Nhưng nếu bạn thấy đau đột ngột ở cánh tay, một chân, một bên mặt hay một bên ngực, bạn không nên chủ quan mà bỏ qua nó. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ có những triệu chứng đột quỵ bất thường hơn nam giới, và phổ biến nhất là chứng đau. Nhức đầu dữ dội: Một cơn đau đầu dữ dội và đột ngột có lẽ là triệu chứng nặng nhất và cũng khá phổ biến ở những người bị đột quỵ. Một nghiên cứu được thực hiện trên 588 người cho thấy những người đã từng có triệu chứng đau đầu khi bị đột quỵ thường là những người trẻ và có tiền sử đau nửa đầu. Phụ nữ có khả năng có triệu chứng đau đầu khi đột quỵ nhiều hơn nam giới. Khuôn mặt ủ rũ: Đột nhiên khuôn mặt yếu dần và da nhợt nhạt chính là biểu hiện của một cơn đột quỵ. Để xác minh rõ ràng, nhân viên y tế sẽ thường yêu cầu bệnh nhân mỉm cười nếu khuôn mặt yếu dần, da chùng xuống, có nghĩa người đó đang ở trong cơn đột quỵ. - LiệtÀoặc bại cơ: 75% người bệnh sẽ bị ảnh hưởng 54 HOÀNG THÚY biên soạn ở một nửa thân người; một số ít hơn, ngoài những người không bị liệt hoàn toàn, sẽ gặp khó khăn ưong những vận động cần sự khéo léo, như viết hoặc vẽ. - Liệt cơ cứng: tình ttạng căng cơ ở phần tứ chi bị ảnh hưởng, mức độ sẽ gia tăng trong vài ngày hoặc tuần đầu tiên sau khi bị đột quỵ và các cơ có thể tự ý máy giật, không thể kiểm soát được. Lúc đó, hiện tượng này tưởng chừng như đáng báo động nhưng sẽ cải thiện dần và cuối cùng có cơ may hồi phục. - Những động tác mấy giật không chủ ý (các hoạt động phản xạ) của một chi bị liệt trong lúc sử dụng phần tay hoặc chân không bị phương hại. - Đột nhiên phát sinh trở ngại về chuyến động nhãn cầu: nhãn cầu của một hoặc hai mắt chỉ nhìn thấy bên này mà không nhìn thấy bên kia, gọi là chứng ách nhãn cầu, là biểu hiện cầu não bị tổn thương. - Có vấn đề về tầm nhìn: Sau khi nhãn cầu chuyển động chỉ nhìn thấy được một bên: bên trái hoặc bên phải. Biểu hiện này thường gặp do nghẽn mạch thuỳ chẩm. Đa số có nguy cơ bán manh (tức là trạng thái mất một nửa tầm nhìn bình thường), trong lâm sàng có liên quan đến bệnh tật nửa người, mất cảm giác một bên cơ thể. - Mất cảm giác ở các vùng thân thể bị ảnh hướng: khoảng chừng 30% bệnh nhân sẽ bị mất cảm giác nhẹ và, rất hiếm trường hỢp, mất hoàn toàn cảm giác ở một chi hoặc một bên người. - Méo mồm: thông thường chỉ xuất hiện ờ phần dưới •mặt, nó không ảnh hưởng đến chức năng cơ 'Sệnh đội cụiỵ oà cách điều itỊ 55 mặt ở phần trên như nhắm mắt, mở mắt, ngẩng mặt,... Chúng ta thường gọi là bại liệt phần mặt có tính trung khu. Hiếm có trường hợp cơ mặt liệt toàn bộ nhưng có một số trường hỢp có trở ngại về chức năng tập trung nhãn cầu, đồng thời có trở ngại cảm giác ở một bên mặt và bị liệt một bên cơ thể, thường gặp ở những bệnh nhân tắc nghẽn cầu não. - Khó nuốt: động tác nuốt liên quan đến nhiều dây thần kinh và cơ bắp. Khoảng 30% người đột quỵ sẽ lâm vào trường hỢp này trong vài ngày đầu tiên. - Nói khó nghe (loạn vận ngôn - dysarthria): do các cơ bị suy yếu hoặc liệt. - Mất “các phản xạ ngay thẳng”: giúp duy trì trạng thái cân bằng và vụng về trong việc phối hợp các chức năng. Cả hai điều này ảnh hưởng đến tư thế và chuyển động của người bệnh. - Thay đổi trạng thái tinh thần và mệt mỏi: Thiếu máu cục bộ trong não gây ra sự mệt mỏi tinh thần. Tuy nhiên, một nghiên cứu đã cho thấy sự khác biệt về giới tính ở triệu chứng này. 23,2% phụ nữ thay đổi trạng thái tinh thần và cảm thấy mệt mỏi khi bị đột quỵ, trong khi đó, con số này ở đàn ông chỉ là 15,2%. - Cảm thấy bất ổn: Thông thường, thì đây chỉ là một biểu hiện nhỏ. Nhưng khi đột quỵ ảnh hưởng đến trung tâm não nó có thể gây ra những bất ngờ khôn lường. - Khó thở hay tim đập nhanh: ờ người bị đột quỵ, tim thường đập nhanh hoặc loạn nhịp, và dấu hiệu này thường xảy ra ở nữ giới nhiều hơn. 56 HOÀNG THÚY biên soạn b) Triệu chứng tinh thần - Lú lẫn: hiện tượng này sẽ được cải thiện trong vài ngày đầu tiên. - Mất trí nhớ về hình ảnh và lời nói (tính hay quên). - Khó khăn trong việc học tập và lý luận. - Mất khả năng tập trung và tổ chức. - Các vấn đề về tâm lý: thoạt tiên là lo lắng, thất vọng và thường dẫn đến trầm cảm và giận dữ. c) Các rối loạn về ngôn ngữ Có thể có nhiều rối loạn khác nhau về ngôn ngữ nếu trung tâm não - nơi điều khiển ngôn ngữ - bị ảnh hưởng sau cơn đột quỵ. ở hầu hết mọi người, phần trung tâm này nằm ở bán cầu não bên trái. - Loạn phối hợp từ vận động (motor dysphasia): Rối loạn trong cơ chế vận động tạo ra ngôn ngữ. Người bệnh hiểu rất rõ ngôn ngữ nhưng không thể tự biểu đạt bằng lời nói hay chữ viết cho người khác hiểu. - Loạn phối hợp từ cảm nhận (receptive dysphasia): người bệnh có thể nói và viết lưu loát, dễ dàng nhưng chỉ là những điều vô nghĩa hoặc không thích hỢp với ngữ cảnh khiến người nghe không hiểu hoặc hiểu sai ý người nói hoặc viết. * Các triệu chứng xảy ra đột ngột Đột ngột thấy tê cứng ở mặt, tay hoặc chân - đặc biệt là tê cứng nửa người; Đột ngột nhìn không rõ (Thị lực giảm sút); 'ẽệnh đột cỊnỵ và cách điều trí 57 Đột ngột không cử động được chân tay (Mất phối hỢp điều khiển chân tay); Đột ngột không nói được hoặc không hiểu được người khác nói; Đầu đau dữ dội. Phụ nữ có thể có các biểu hiện đặc trưng sau: Đột ngột đau ở mặt hoặc chân; Đột ngột bị nấc; Đột ngột cảm thấy buồn nôn; Đột ngột cảm thấy mệt; Đột ngột tức ngực; Đột ngột khó thở; Tim đập nhanh bất thường. Ghi chú: Chúng tôi nhấn mạnh chữ đột ngột để chỉ các triệu chứng xảy ra bất thường, không do các yếu tố bên ngoài. 58 HOÀNG THÚY biên soạn P h ầ n 111 CHẨN ĐOÁN ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG TRỪ BỆNH ĐỘT QƯỴ 1. Chẩn đoán Mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc chẩn đoán đột quỵ cũng có bước đột phá mới. Dùng CT và MRI để chẩn đoán rối loạn mạch máu não và loại đột quỵ do nghẽn mạch khe. a) Chẩn đoán qua hĩnh ảnh học Biểu hiện điển hình qua hình ảnh học của chứng đột quỵ do thiếu máu: - Biểu hiện qua CT. - Biểu hiện qua MRI. - Biểu hiện điển hình của đột quỵ do xuất huyết não. Do biểu hiện MRI chứng đột quỵ xuất huyết quá chuyên môn, ở đây chỉ giới thiệu những biểu hiện CT điển hình. Biểu hiện CT điển hình xuất huyết não. Biểu hiện CT điển hình xuất huyết dưới khe màng nhện. Bệ>fA đột Cịtiỵ I>à cách điều trị 59 Chụp X-quang huyết quản: Đối với những bệnh nhân có nghi ngờ u động mạch hoặc động - tĩnh mạch bị dị hình dẫn đến xuất huyết não, cần phải tiến hành chụp X-quang mạch máu não. CTA và MRA: CTA là hiện ảnh của CT về động mạch; MRA lại là tạo ảnh của MRI về động mạch, ưu điểm là giá cả tương đối thấp, an toàn, nhưng chỉ có thể nhìn thấy tình trạng khái quát của mạch máu chứ không hiện rõ tỉ mỉ từng phân nhánh nhỏ của mạch máu. b) Xét nghiệm máu Xét nghiệm máu không chỉ để tìm ra nguyên nhân bệnh mà còn phát hiện những bệnh tương tự như đột quỵ. - Xét nghiệm máu thông thường: có thể phát hiện một trong những căn bệnh gây ra chứng đột quỵ như chứng giảm tiểu cầu, chứng tăng hồng cầu, thiếu máu (bao gồm thiếu máu tế bào hình liềm) và bệnh máu trắng. - Xét nghiệm tỷ lệ trầm (lắng) của hồng cầu: có thể phát hiện viêm động mạch tế bào khổng lồ và viêm các mạch máu khác. - Kiểm tra huyết thanh học bệnh giang mai: kiểm tra huyết thanh học của khuẩn Trepnema như xét nghiệm hấp thu kháng thể Treponema (FTA - ABS), xét nghiệm bệnh có liên quan đến dịch não tủy. - Đường huyết: có thể phân biệt giảm định hôn 60 HOÀNG THÚY biên soạn mê do tụt đường huyết hoặc hôn mê tăng áp lực thẩm thấu không phải do nhiễm độc ketone. Hai loại này cũng có thể gây ra mất chức năng thần kinh dạng cục bộ, dễ bị ngộ nhận là đột quỵ, - Xét nghiệm lượng mỡ trong máu: có thể phát hiện ra nhân tố nguy hiểm của đột quỵ. - Độ tích tụ của tiểu cầu: đối với việc điều trị có ý nghĩa nhất định. - Xét nghiệm độ nhầy của máu: cũng là căn cứ quan trọng cho việc điều trị. c) Các xét nghiệm khác - Kiềm tra điện tâm đồ: Nên tiến hành kiểm tra điện tâm đồ, có thể phát hiện ra nhồi máu cơ tim (biến chứng thường thấy của nghẽn mạch máu não) hoặc nhịp tim thất thường, để xử lý kịp thời: cũng có thể phát hiện những nhân tố gây ra chứng đột quỵ. - Kiềm tra sóng siêu âm mạch máu: Kiểm tra sóng siêu âm mạch máu có thể phát hiện hẹp hoặc tắc nghẽn động mạch cổ, nhưng độ nhạy của sóng siêu âm thấp hơn so với chụp X-quang mạch máu. Khi không có thiết bị chụp X-quang huyết quản hoặc cùng lúc tồn tại những bệnh khác không thể tiến hành chụp X-quang, mới dùng phương pháp kiểm tra bằng sóng siêu âm. Khi đã siêu âm nội sọ, có thể đánh giá tình trạng của động mạch cổ, động mạch đại não hoặc động mạch chủ. - Kiểm tra chọc đắt sống thắt lưng: Chọc đốt sống thắt lưng để kiểm tra dịch não tủy ở đốt xương sống Bệ>fA đật CỊHịi và cách điền trị 61 lưng có nhuộm máu hay không, nếu có tức là có xuất huyết dưới khe màng nhện, nên tiến hành điều trị. - Kiểm tra điện não đồ: ít dùng điện não đồ (EEG) để kiểm tra và chẩn đoán chứng đột quỵ, nhưng có thể dùng điện não đồ để phân biệt cơn động kinh và cơn thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA)... d) Xét nghiệm phóng xạ hạt nhăn (Nuclein): Máy tính điện tử photon đơn phân hình chất đồng vị (SPECT): có tác dụng quan trọng trong việc nghiên cứu sự truyền máu vào đại não, nghiên cứu sự phân bố vị trí thiếu máu. Mấy năm gần đây, xuất hiện phương pháp chụp positron cắt lớp (PET), càng khiến cho giới y học tăng cường nghiên cứu sự trao đổi chất của đại não sau đột quỵ. 2. Hướng dẫn điều trị a) Điều trị đột quỵ do xuất huyết thời kỳ cấp tính Chúng ta đã biết cơ chế bệnh lý của loại đột quỵ do xuất huyết não. vấn đề quan trọng là xuất huyết não có ảnh hưởng đến sự kích thích mô não và phù não thứ phát... Mấy năm gần đây, về mặt dược phẩm có một số tiến triển, nhưng về mặt điều trị nguyên nhân bệnh và nguyên tắc điều trị vẫn chưa có bước đột phá mới. Nguyên tắc điều trị chứng đột quỵ là ngăn chặn tái phát xuất huyết, giải quyết trở ngại chức năng não cấp tính do xuất huyết và phù não gây ra. Chủ yếu có mấy nguyến tắc sau đây: 62 HOÀNG THÚY biên soạn - Duy trĩ trạng thái yên tĩnh: giảm di chuyển và các xét nghiệm không cần thiết, tốt nhất nên điều trị tại chỗ, hoặc bệnh viện gần nhà. Đề phòng áp suất nội sọ giao động thất thường, như đại tiện, sặc, ho kéo dài, tinh thần bị kích động, nên nằm nghỉ trên giường 3 -4 tuần. Có thể dùng thuốc nhuận tràng để ngăn ngừa táo bón. - Khống chế phù não và tăng áp suất nội sọ: điều trị này đã trở thành tiêu chuẩn loại đột quỵ do xuất huyết não, bởi vì nhiều báo cáo lâm sàng và quan sát lâm sàng cho thấy, phù não, tăng áp suất nội sọ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến đột quỵ do xuất huyết não cấp tính. Có thể dùng các phương án cụ thể sau: + 20% Mannitol: là một loại dịch truyền dùng để tăng áp suất thẩm thấu của máu, từ đó có thể đat được mục đích thoát nước có tính thẩm thấu, tuy nhiên một số học giả cho rằng sau khi xuất huyết do hàng rào máu não bị phá vỡ, Mannitol có thể tiến vào phá hủy mô não, ngược lại còn làm tăng áp suất thẩm thấu xung quanh mô não và khiến cho chứng phù não nghiêm trọng hơn, nhưng giả thuyết này chỉ thí nghiệm ở động vật, chưa được các bác sĩ lâm sàng tiếp nhận. Mannitol là một loại đường không tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cơ thể, vì vậy thích hỢp với bệnh nhân tiểu đường. Đối với bệnh nhân suy thận, người già nên dùng một cách thận trọng, bởi vì Mannitol chủ yếu chuyển hóa thông qua thận. Đối với bệnh nhân tăng áp suất nội ~Bệnfi đội ífnỵ và cách điền ifị 6 3 sọ nặng, sau khi cân nhắc nên dùng với liều lượng nhỏ hoặc dùng với loại khác. + 10% Glycerol: cơ chế tương tự như Mannitol, nhưng tác dụng thoát nước yếu hơn so với Mannitol, thích hẹỹp cho bệnh nhân suy thận. + 20% Albumen: cơ chế là tăng áp suất thẩm thấu dạng keo có trong máu từ đó đạt được mục đích thoát nước. Do thuốc được bào chế từ hệ thực vật, vì vậy tác dụng phụ của thuốc tương đối ít, có phản ứng phụ đối với gan. + Purosemide: có thể sử dụng thay thế cho Mannitol, đặc biệt rất thích hỢp với những bệnh nhân suy thận. Quan sát bệnh nhân nếu xuất hiện tình trạng trở ngại ý thức sâu, nhịp tim giảm chậm, hơi thở chậm và huyết áp tăng cao (gọi là phản ứng Cusion), là biểu hiện của chứng phù não nghiêm trọng và chứng tăng áp suất nội sọ, nếu không xử lý kịp thời, bệnh nhân có thể phát sinh sa thùy não. Vì vậy cần phải có phương pháp tích cực để hạ áp suất nội sọ, như tiêm Mannitol. - Xử lý biến chứng: chống nhiễm trùng, phòng chống thối loét, duy trì nước và chất điện giải, cân bằng acid kiềm, chống viêm loét... - Điều trị phẫu thuật: Xuất huyết tiểu não > lOml; Xuất huyết bề mặt dưới vỏ não; Lượng xuất huyết ở bán cầu đại não là 30 - 50ml; 64 HOÀNG THÚY biên soạn Đã điều trị nội khoa về sưng máu 1-2 ngày nhưng vẫn chưa thuyên giảm. Người bị sa não nguy hiểm đến tính mạng nên tiến hành làm phẫu thuật. -I- Thuốc cầm máu: đối với bệnh nhân có xuất huyết não thực sự, không nên sử dụng thuốc cầm máu. Nhưng đối với xuất huyết buồng não và xuất huyết dưới khe màng nhện, hiện nay vẫn chưa có kết luận thống nhất vồ thuốc cầm máu. Có báo cáo cho rằng về thuốc cầm máu rất có lợi để cầm máu sau khi xuất huyết và ngừa tái xuất huyết, nhưng thiếu chứng cứ lâm sàng. Theo cách điều trị truyền thống là dùng P Aminomethilbenzoie acid (PAMBA), Aminomcaproic acid, Tranexamic acid (chất đông máu). -I- Chọc đốt sống thắt lưng: bệnh nhân xuất huyết khe dưới màng nhện có triệu chứng kích thích màng não rõ ràng, có thể chọc dịch não tủy ở đốt sống thắt lưng 5ml/ngày, để dần dần giảm xuất huyết, nhưng cũng nên thận trọng, bệnh nhân có biểu hiện tăng áp suất nội sọ không nên dùng cách này; trước khi phóng dịch có thể truyền dịch (Mannitol), khi phóng dịch não tủy, tốc độ nên chậm để quan sát tỉ mỉ thể trạng của bệnh nhân. -I- Điều trị khác: căn cứ vào quan sát lâm sàng, u động mạch của bệnh nhân xuất huyết khe dưới màng nhện bị phá vỡ sau 3 - 7 ngày hoặc 2 tuần rất dễ xuất huyết lại, vì vậy nên tránh những hoạt động mạnh, tránh để trạng thái bị kích thích mạnh. Do xuất huyết dưới màng nhện có triệu chứng đau đầu đ íịi íỊttỵ và cách điều ifị 65 rất dữ dội, bệnh nhân nóng nảy, dễ dẫn đến xuất huyết, cũng có thể tiêm bắp Bucinnazine thậm chí là dùng morphin. b) Điều trị đột quỵ do thiếu máu thời kỳ cấp tính Trước tiên nên xác định phương pháp điều trị: như dùng hormon điều trị viêm động mạch tế bào khổng lồ; dùng penixilin để tiêu trừ khuẩn xoắn và khuẩn giang mai dạng xoắn. Các khái niệm và phương châm để điều trị đột quỵ thiếu máu thời kỳ cấp tính đã được nhiều bác sĩ khoa thần kinh thừa nhận: sau khi tắc nghẽn động mạch, việc cung cấp máu và khí oxy ở bộ phận tương ứng bị gián đoạn, trong vòng 3 giờ, có thể gây ra tình trạng chảy máu ngược, lúc này phải kịp thời xử lý thông mạch máu, hồi phục cung cấp máu và khí oxy. Trong vòng 3 - 6 tiếng đồng hồ nếu bộ phận nghẽn mạch đã hồi phục và lưu thông mạch máu, sẽ không để lại di chứng. Có thể hồi phục được một phần chức năng hệ thần kinh, giảm sự lan truyền nghẽn mạch qua các bộ phận khác hoặc giảm phạm vi mất chức năng của hệ thần kinh. Thực tế trong công tác lâm sàng, 3 tiếng đồng hồ khó mà thao tác chẩn đoán chính xác để bắt đầu điều trị cấp tính, khuynh hướng điều trị này là liệu pháp thông nghẽn mạch. Nhưng 6 - 48 tiếng đồng hồ trở thành điều trị hơi cấp tính, khuynh hướng điều trị này là liệu pháp kháng đông hoặc liệu pháp giảm tơ huyết (fibrin); 66 HOÀNG THÚY biên soạn nếu vượt quá 48 giờ, cách điều trị trọng tâm và khẩn cấp trong trường hỢp này lập tức phòng ngừa tái đột quỵ để giữ được tính mạng. - Liệu pháp thông nghẽn mạch: liệu pháp này đã được chứng minh là có hiệu quả, khuyết điểm của nó là kén chọn bệnh nhân, yêu cầu rất cao đối với thời gian phát sinh, thể chất, tình trạng kinh tế của gia đình bệnh nhân, tồn tại nguy hiểm xuất huyết điều trị. - Lựa chọn ca bệnh: thông thường yêu cầu thời gian phát bệnh trong vòng 3 - 6 tiếng, kiểm tra CT hoặc MRI loại trừ xuất huyết nội sọ, không có ổ bệnh tương ứng chức năng thần kinh. Tâm lý của bệnh nhân còn sáng suốt, không có trở ngại ý thức, huyết áp bệnh nhân không quá cao (180/100mmHg). - Lựa chọn thuốc: chất kích thích hòa tan tơ huyết (rt-PA), đây là loại thuốc thông dụng nhất hiện nay, đã được công nhận là có hiệu quả trên lâm sàng, nhưng tác dụng phụ của nó là phát sinh xuất huyết khoảng 6%, đồng thời giá cả khá cao. Ngoài ra trong và ngoài nước thường sử dụng thuốc Urokinase. - Liệu pháp kháng đông: lịch sử của liệu pháp này đã có từ rất lâu, liệu pháp này được mọi người bàn tán xôn xao, đến nay vẫn chưa thống nhất. Nhưng bệnh nhân bệnh tim do phong thấp lâu nay vẫn sử dụng thuốc kháng đông, điều này đã được nhiều người chấp nhận. Mấy năm gần đây có đề xướng sử dụng thuốc mới là Heparin phân tử thấp (LMWH). Nhiều báo cáo cho rằng tác dụng phụ của 'ẽệnh đội ÍỊÍ/ỊÍ và cách điền irị 6 7 loại thuốc này thấp hơn Heparin thông thường nhưng hiệu quả điều trị vẫn còn chờ để chứng minh. Phương pháp dùng thuốc chủ yếu là chích dưới da, tác dụng phụ thường thấy nhất là xuất huyết, cần phải tăng cường theo dõi ở phòng thí nghiệm để có kết quả chính xác. - Liệu pháp giảm tơ huyết (fibrin): chất tạo tơ huyết tăng cao cũng là một khâu quan trọng trong cơ chế phát sinh đột quỵ, liệu pháp giảm tơ huyết thông qua việc giảm chất tạo tơ huyết, từ đó ức chế hình thành nghẽn mạch. Tác dụng phụ chủ yếu vẫn là xuất huyết. c) Điều trị đột quỵ thời kỳ phục hồi sức khỏe Sau 2 - 3 tuần điều trị cấp tính, bệnh nhân bước vào giai đoạn hồi phục sức khỏe. Giai đoạn này chủ yếu căn cứ vào tình trạng của bệnh nhân có thể rời khỏi phòng cấp cứu đem về nhà luyện tập hồi phục chức năng hoặc chuyển đến phòng hồi phục sức khỏe của bệnh viện. Điều trị trong giai đoạn này chủ yếu có hai mặt sau: thứ nhất là tập luyện hồi phục chức năng và tập luyện hồi phục khả năng tự chăm sóc; thứ hai là điều trị bằng thuốc; làm giảm những nguyên nhân đột quỵ trong cơ thể hoặc những nhân tố nguy hiểm gây ra đột quỵ, phòng ngừa tái đột quỵ. Hiện nay vẫn chưa có thuốc cải thiện di chứng như chứng liệt nửa người, mất khả năng nói. - Tập luyện hồi phục sức khỏe và tập luyện chức năng tự chăm sóc (sẽ được trình bày kỹ ở phần sau). 68 HOÀNG THÚY biên soạn - Điều trị bằng thuốc: nên theo hướng dẫn của bác sĩ, thường xuyên đến bệnh viện khám tái định kỳ, tiến hành xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý, bệnh lý của bệnh nhân, như độ tích tụ của tiểu cầu, độ nhầy của máu... kiểm tra tác dụng phụ của thuốc đối với chức năng gan, thận. Căn cứ vào tình trạng sinh lý, bệnh lý mà điều chỉnh thuốc cho bệnh nhân. - Điều trị tâm lý cho bệnh nhân trong thời kỳ hồi phục sức khỏe: gia đình cần phải yêu thương, chăm sóc chu đáo cho bệnh nhân không được có thái độ ghét bỏ, tạo môi trường thuận lợi cho bệnh nhân, phòng ngừa trượt ngã. Bệnh nhân đột quỵ thường có tâm trạng nghi bệnh, trầm uất, lo lắng... Có thể dùng thuốc chống lo âu, trầm uất hoặc nhờ sự trỢ giúp của bác sĩ tâm lý. Người nhà cần khuyến khích bệnh nhân tiến hành luyện tập, đôn đốc bệnh nhân uống thuốc thường xuyên và đúng giờ. Khi bệnh nhân có biểu hiện tiến bộ trong tập luyện cần phải khích lệ. Nên đưa bệnh nhân đến bệnh viện tái khám định kỳ, tốt nhất là tái khám 1 tháng một lần. d) Biến chứng Mất trí nhớ (Bệnh Alzheimer) Là nguyên nhân phổ biến nhất của chứng mất trí, bệnh AIzheimer là bệnh rối loạn não có tính thoái hóa vĩnh viễn. Triệu chứng đầu tiên của bệnh này là mất trí nhớ và tiếp theo sau là tình ưạng nói năng ngọng nghịu, dần dần tiến triển thành sự lú lẫn. 'ẽệnh đội CỊUịi và cách điều irị 6 9 Không như đột quỵ, bệnh này không phải do não không được cung cấp máu, nhưng triệu chứng của bệnh này rất giống với triệu chứng của bệnh nhồi máu não nhiều nơi rải rác, là bệnh có thể đề phòng hoặc điều trị hiệu quả. Đừng bao giờ mặc nhiên cho rằng, bệnh mất trí nhớ của một người thân lớn tuổi trong gia đình là do căn bệnh Atzheimer hoặc do chứng mất trí nhớ của tuổi già, vì vậy hãy luôn luôn đưa người nhà của mình đến bác sĩ để chẩn đoán khi phát hiện thấy ưiệu chứng này. Bướu não Bướu não - dù vô hại hay có hại - cũng đều có thể gây ra các triệu chứng rất giống với cơn đột quỵ và, cũng như đột quỵ, có thể xảy đến rất bất ngờ. Các triệu chứng phát sinh sau khi đã cắt bỏ khối u này có thể bị quy cho là triệu chứng của một khối u khác trong khi thực chất có thể đây chính là triệu chứng của một cơn đột quỵ. Vì vậy, cũng thấy cần nhắc lại ở đây là phải đi khám bác sĩ ngay khi phát hiện các triệu chứng. Xơ cứng từng mảng rải rác (Mutlipỉe Scỉerosis) Các triệu chứng của bệnh xơ cứng từng mảng rải rác - làm ảnh hưồng đến não và dây cột sống - bao gồm trạng thái liệt tạm thời, bị hoa mắt (nhìn một thành hai) và run rẩy. Bệnh xơ cứng từng mảng rải rác ảnh hưởng đối với nữ giới nhiều gấp hai lần so với nam giới và thường thấy rõ ở độ tuổi dưới 40, nhưng các triệu chứng của bệnh này đôi khi có thể bị nhầm là triệu chứng của bệnh đột quỵ. 70 HOÀNG THÚY biên soạn Động kinh (Epilepsy) Một cơn động kinh (hiện tượng đốt cháy bất bình thường và nhanh các tế bào thần kinh trong vỏ não) có thể bị hiểu lầm là cơn đột quỵ. Một cơn động kinh nghiêm trọng có thể khiến người bệnh bị bại liệt tạm thời từ vài giờ cho đến vài ngày. Tổn thương đầu Một cú va mạnh vào đầu có thể làm phình não, giống như hiện tượng đột quỵ do xuất huyết não gây ra. Cho dù không xảy ra phình não, sự va chạm bất ngờ của não vào xương sọ cũng có thể làm các tế bào não bị kích thích quá mức và phát ra một loạt thông điệp bất thường và ngoài mong muốn giống như trong trường hỢp động kinh. - Nhiễm trùng phổi Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy, nhiễm trùng phổi trở thành nhân tố nguy hiểm gây tử vong cho bệnh nhân đột quỵ. Bệnh nhân nằm bệnh lâu ngày, gây ra bệnh viêm phổi do tích tụ, vì vậy, trong công việc chăm sóc phải thường xuyên trở người cho bệnh nhân, thường xuyên hút đờm. Chăm sóc không đúng cách khiến cho bệnh nhân uống nước hoặc ăn bị sặc gây ra viêm phổi. - Nhiễm trùng đường tiết niệu Thường gặp ở bệnh nhân đặt ống dẫn tiểu, tiểu tiện không cầm được hoặc bệnh nhân không có người chăm sóc chuyên môn. 'ẽệ.nh đội cụiỵ và cách điền ivị 7 1 - Chứng thối loét Bệnh nhân do nằm liệt giường lâu ngày, do không thường xuyên trở mình, xoay người nên một số phần xương thịt bị u lên, đè ép các mô cố định, gây ra sự thiếu máu, hoại tử cục bộ ở các bộ phận này gây nên chứng thối loét. Vì vậy nên thường xuyên trở mình hoặc xoay người cho bệnh nhân. - Co rút khớp Nếu bệnh nhân không duy trì việc tập luyện hồi phục sức khoẻ thì cơ bắp phần bị liệt sẽ phát sinh co rút có tính tàn phế, dưới tác động chung của teo cơ và tăng trương lực cơ thì các khớp lâu ngày không thể hoạt động bình thường, làm cho khớp của bệnh nhân biến dạng, co rút. 3. Đột quỵ não và những điều cần lưu ý Đột quỵ não thường xảy ra đột ngột, không báo trước và không chừa bất kỳ một ai, nó thường được ví như sát thủ có tốc độ kinh hoàng nhất. Đột quỵ não có thể làm cho người đang bình thường bỗng dưng gục xuống, hôn mê, thậm chí tử vong ngay lập tức hoặc đối mặt với các di chứng tàn tật. Điều này nghĩa là bệnh đột quỵ não sẽ không bỏ qua bất kỳ ai kể cả là những người giàu có nhất hay những lãnh đạo cấp cao. Nhiều bệnh nhân có thể có cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua và hồi phục hoàn toàn trong vòng 24 giờ. Tuy nhiên, cơn đột quỵ não có thể người bệnh khỏe mạnh ngã gục và để lại nhiều di chứng nặng nề. 72 HOÀNG THÚY biên soạn Việc nhận biết sớm các dấu hiệu đột quỵ não có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh. Các triệu chứng phổ biến là đột ngột thấy tê, yếu hoặc liệt một nửa người; méo miệng, nói đớ lưỡi, không nói được hoặc không hiểu lời người khác; đột nhiên bị mù mắt, chóng mặt, nhức đầu dữ dội, nôn ói, lơ mơ hoặc hôn mê... Giáo sư Lê Đức Hĩnh nhấn mạnh, việc điều trị đột quỵ não rất khó khăn và phức tạp. Nếu may mắn được cứu sống thì người bệnh phải trải qua một quá trình luyện tập trong nhiều tháng, nhiều năm để phục hồi các chức năng. Do đó, người chưa mắc bệnh cần phát hiện sớm và can thiệp kịp thời để ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ gây bệnh. Đối với người từng bị tai biến mạch máu não, cần dự phòng bệnh tái phát. Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 200.000 trường hỢp đột quỵ não mới. Đây là con số được Giáo sư Lê Đức Hĩnh công bố tại Hội nghị thường niên về đột quỵ não khu vực Châu Á - Thái Bình Dương 2014, do Hội Thần kinh học Thành phố Hồ Chí Minh phối hỢp cùng Sanoíĩ tổ chức. Ngoài ra, các chuyên gia của hội nghị còn phân tích, thảo luận về đánh giá sớm nguy cơ đột quỵ; phòng ngừa thứ phát dựa theo chứng cứ; điều trị cơn thoáng thiếu máu não và đột quỵ nhẹ bằng liệu pháp kháng tiểu cầu kép ở nước ta. Đột quỵ não - tính mạng ngàn cân treo scri tóc Theo PGS.TS Vũ Anh Nhị, Chủ tịch Hội Thần kinh học TP HCM, đột quỵ não xuất hiện rất đột 'Bệnh đật Cịnỵ và cách điền tr ị 7 3 ngột và để lại nhiều hậu quả rất nặng nề, là gánh nặng của nền y tế. Thông tin được đưa ra tại Hội nghị về đột quỵ não khu vực châu Á Thái Bình Dương 2014 cũng cho thấy, 45 giây trôi qua lại có ít nhất một người trên thế giới bị đột quỵ và cứ 3 phút thì có một người tử vong do bệnh này. Đột quỵ não đứng hàng đầu trong số các bệnh gây ra tàn tật, là nguyên nhân gây tử vong thứ ba sau tim mạch và ung thư. Khi bị đột quỵ, tính mạng của người bệnh thậm chí chỉ còn tính bằng giây. Đột quỵ đang có xu hướng tăng nhanh tại các nước đang phát triển và tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 200.000 người mắc mới đột quỵ, khoảng 50% trong số đó tử vong. Hơn 90% bệnh nhân đột quỵ sống sót mắc các di chứng như liệt nửa người, khó khăn về vận động, sinh hoạt và mắc chứng suy giảm trí nhớ nghiêm trọng... Theo báo cáo, vào năm 2005 của Bệnh viện Nhân Dân 115 (TP Hồ Chí Minh) tiếp nhận 1.210 bệnh nhân đột quỵ nhưng tới năm 2013 con số này lên tới 7.923 bệnh nhân và có sẽ có 400 người bị đột quỵ trong số 650 người nhập viện tại bệnh viện Chợ Rầy. Chính vì thực tế không ngừng gia tăng của bệnh cũng như những hậu quả nặng nề mà người bệnh phải gánh chịu sau cơn tai biến mà nhiều chuyên gia y tế đã nhận định, đột quỵ chính là sát thủ thầm lặng. Nhận biết bệnh đột quỵ Theo một nghiên cứu mới đây, tăng huyết áp có 74 HOÀNG THÚY biên soạn tỉ lệ gây đột quỵ cao gấp 4-6 lần các nguyên nhân khác. Đái tháo đường làm tăng nguy cơ đột quỵ gấp 3 lần. Đột quỵ não thường chiếm tỷ lệ cao hơn cả ở người tăng huyết áp kèm xơ vữa động mạch bởi xơ vữa động mạch sẽ làm hẹp lòng động mạch gây cản trở lưu thông dòng máu khiến mạch máu dễ bị tắc, thậm chí có thể vỡ dẫn đến xuất huyết não, đột quỵ, đe dọa tính mạng người bệnh. Theo nghiên cứu của Đại học Y khoa Pittsburgh (Mỹ) cho thấy, những người thường xuyên căng thẳng, lo âu sẽ có nguy cơ cao bị đột quỵ. Mức lo âu cứ tăng một bậc so với chuẩn thì nguy cơ đột quỵ tăng 14%, mức lo âu tăng bốn bậc thì nguy cơ đột quỵ tăng 33%. PGS.TS Vũ Anh Nhị đã chỉ ra rằng chính những căng thẳng áp lực trong cuộc sống hiện đại, mất ngủ triền miên, lạm dụng bia rượu, thuốc lá, thức ăn nhanh... khiến cơ thể sản sinh rất nhiều độc chất gốc tự do (Free Radical). Các gốc tự do sẽ tấn công cơ thể và gây ra hơn 100 bệnh tật cho con người, trong đó, não là bộ phận chịu sự tấn công nặng nề nhất. Kết quả nghiên cứu từ góc độ sinh học phân tử tế bào này đã giúp các nhà khoa học nhận định rõ ràng hơn về nguồn gốc gây ra tình trạng này. Gần đây nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, gốc tự do tấn công làm tổn thương nội mạc mạch máu khiến thành mạch bị gồ ghề, tạo điều kiện thuận lợi xuất hiện các mảng xơ vữa khiến lòng mạch máu bị thu hẹp, dòng máu lưu thông khó khăn, gây ra hiện tượng thiếu máu não. Đồng thời, khi mảng xơ vữa bong ra khỏi thành đội cụiỵ oà cách điều i f ị 7 5 mạch sẽ gắn kết với các tế bào máu và các yếu tố khác hình thành các cục máu đông có thể kẹt lại tại nhiều vị trí trong mạch máu não, gây tắc mạch, và vỡ mạch khiến xảy ra tình trạng đột quỵ não. Ngăn ngừa đột quỵ hiệu quả Để ngăn ngừa đột quỵ đạt hiệu quả các bạn nên han chế các yếu tố gây bệnh, điều đó sẽ làm giảm 80% nguy cơ đột quỵ. Các bạn nên kiểm tra sức khỏe thường xuyên và điều trị tích cực những yếu tố nguy cơ như đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch, béo phì... Đặc biệt, để phòng ngừa đột quỵ não, cần có chế độ dinh dưỡng hỢp lý; vận động thường xuyên hàng tuần; làm việc vừa sức và sinh hoạt điều độ. Bên cạnh đó, cần bảo vệ, làm bền và tăng tính thấm thành mạch, ngăn ngừa hình thành mảng xơ vữa, là giải pháp bền vững, an toàn nhất để ngăn ngừa thiếu máu não - nguyên nhân chủ yếu gây đột quỵ hão. Đặc biệt các chuyên gia đã khuyến cáo các bạn nên có ý thức phòng ngừa bệnh từ sớm nhằm phát huy được hiệu quả của các hoạt chất chống gốc tự do. 4. Dự phòng tai biến mạch máu não ở mọi lứa tuổi Tai biến mạch máu não (còn gọi là đột quỵ) có thể xảy ra với bất kì ai. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, chiến lược tốt nhất để hạ tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng là phòng bệnh. Theo khuyến cáo của Tổ chức 76 HOÀNG THÚY biên soạn Y tế thế giới, phòng chống các yếu tố nguy cơ chính là phương pháp tốt nhất sẽ giúp giảm tới 80% các trường hỢp tai biến trong cộng đồng. - Dự phòng cấp 1: Khi chưa bị tai biến Người không có yếu tố nguy cơ: Thay đổi lối sống, từ bỏ các tập quán xấu độc hại, thuốc lá, rượu, chế độ ăn điều độ hợp vệ sinh, cân đối các chất, tập luyện thể dục, chống các stress trong các mối quan hệ. Người tuổi trung niên, lớn tuổi hơn nữa có yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành .. cần điều trị nghiêm túc kết hỢp thuốc phòng (aspirin và nhiều thuốc khác). - Dự phòng cấp 2: Đã có tai biến và không cho tai biến tái phát Thay đổi nếp sống, tập luyện kết hỢp phục hồi chức năng cần tích cực kiên trì. Hầu hết biện pháp dự phòng cấp 1 cũng dùng trong dự phòng cấp 2, nhấn mạnh một số yếu tố nguy cơ quan trọng hay gặp là: - Huyết áp - Hút thuốc - Rung nhĩ - Đái tháo đường - Cholesterol - Hẹp động mạch cảnh Một số thuốc và thực phẩm chức năng: - Hamomax có tác dụng phòng ngừa tai biến rất hiệu quả, an toàn. "Ẽệnh đợi Cịttỵ và cách điền irí 7 7 - Thuốc chống kết dính tiểu cầu: Aspirin,... - Statin giảm nguy cơ tai biến mạch máu não 31- 73%. - Thuốc chống đông Warfarin dùng trong dự phòng huyết khối tắc mạch do rung nhĩ, giảm nguy cơ tai biến 68%. 5. Chủ động phòng ngừa bệnh Hơn 23% thân nhân bệnh nhân không biết đột quỵ có thể phòng ngừa, theo một khảo sát tại khoa Thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy. Theo đó, họ cho rằng, đột quỵ là bệnh “trời kêu ai nấy dạ”. Trong khi đó, hoàn toàn có thể ngăn chặn hiệu quả nguy cơ của bệnh khi hiểu đúng và chủ động phòng ngừa từ sớm. Kiểm soát các yếu tố nguy cơ: kiểm tra sức khỏe định kỳ để kịp thời phát hiện nguy cơ đột quỵ như bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch, thừa cân, béo phì... và điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ. Thay đổi lối sống: Xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh (ăn nhiều trái cây, rau, cá, ngũ cốc, phẩm sữa ít chất béo, tránh những thức ăn quá ngọt, béo, thịt chế biến sẵn, món ăn quá mặn...); vận động thường xuyên (đi bộ, chạy bộ, đạp xe...); tránh mất ngủ, căng thẳng, stress; hạn chế bia rượu, không hút thuốc lá. Chủ động chăm sóc não, bảo vệ tế bào thần kinh và mạch máu: đây được xem là phương pháp bền vững dự phòng nguy cơ đột quỵ não, kiểm soát gốc tự do. 78 HOÀNG THÚY biên soạn Gần đây, các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra hoạt chất Anthocyanin, Pterostilbene có trong Blueberry (xuất xứ Bắc Mỹ) có tác dụng trung hòa các gốc tự do gây hại trong mạch máu, góp phần ngăn chặn hình thành xơ vữa và huyết khối hiệu quả. Nhờ đó khơi thông dòng máu lên não, cải thiện tình trạng thiếu máu não, giúp phòng ngừa đột quỵ. Đồng thời, với những bệnh nhân sau đột quỵ, hoạt chất sinh học từ Blueberry giúp hạn chế sự hình thành mảng xơ vữa mới ở những mạch máu nuôi não khác, hỗ trỢ khôi phục trí nhớ, hạn chế tái phát sau đột quỵ. Những cách thức phòng bệnh đơn giản như trên không chỉ giúp ngăn chặn đột quỵ mà còn phòng nhiều bệnh mãn tính nguy hiểm, bảo vệ sức khỏe. 6. Phòng tránh các cơn đột quỵ bất ngờ - Cao huyết áp và các bệnh tim mạch là những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra đột quỵ. Do đó, để phòng tránh các cơn đột quỵ, bạn nên đi khám thường xuyên để phát hiện bệnh và chữa trị sớm, nhất là những người trên 40 tuổi. - Tiểu đường cũng là một trong những chứng bệnh gây ra các cơn đột quỵ. Do đó, cần phải phát hiện sớm bệnh và điều trị tốt để tránh biến chứng thành đột quỵ. - Giảm cholesterol trong máu để phòng ngừa bệnh tim mạch bằng cách ăn ít chất béo, giảm muối, ăn nhiều rau và hoa quả. 'Ẽệnh đựt cụ<ỵ và cách điều tr ị 7 9 - Sinh hoạt điều độ, lành mạnh: không hút thuốc lá, hạn chế uống rượu bia, chất kích thích, thường xuyên tập luyện thể dục, thể thao để tăng cường sức khỏe nhưng không được quá sức. - Tránh tắm khuya hoặc tắm ở nch nhiều gió, đặc biệt với người cao huyết áp vì rất dễ lên ccfn đột quỵ vào lúc này. - Tránh căng thẳng thần kinh quá mức hay xúc động mạnh để gây thêm áp lực cho não bộ, rất dễ gây ra nhồi máu não. Đột quỵ là chứng bệnh xảy ra bất ngờ và không loại trừ một ai từ những người chỉ mới 30, 40 tuổi cho đến người già trên 60 tuổi. Do đó, để tránh bệnh xảy ra bất ngờ, để lại di chứng suốt đời hoặc tử vong, những người có nguy cơ mắc bệnh nên có liệu trình phòng bệnh hỢp lý, khoa học, thường xuyên đi thăm khám để phát hiện bệnh kịp thời. 7. Giảm mỡ máu cao bằng phương pháp tự nhiên hiệu quả Có nhiều yếu tố gây ra nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ và mỡ máu cao là một trong những nguyên nhân ấy. Vì vậy những phương pháp tự nhiên nhưng vô cùng hiệu quả dưới đây có thể giúp bạn trong “cuộc chiến” chống mỡ máu cao, từ đó giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Ăn ít thịt Thay vì ăn thịt như một món chính thì hãy “độn” 80 HOÀNG THÚY biên soạn một ít thịt vào chế độ ăn uống của bạn. cắt bỏ mỡ và da từ thịt và gia cầm. Tránh các chất béo từ thịt bò, thịt heo, cừu. Thay vào đó là các loại thịt nạc, cá hoặc thịt gia cầm trắng không da. Khi ăn bên ngoài, nên chọn một phần ít thịt, ăn chay hoặc các món cá. Giảm cholesterol Cố gắng ăn ít hcm 200 mg cholesterol mỗi ngày. Không ăn quá 4 lòng đỏ trứng gà mỗi tuần, chỉ 2 lòng đỏ trứng gà có thể thay thế cho cả quả trứng trong công thức nấu ăn. Ăn không quá 200g thịt nạc, cá, thịt gia cầm. Tránh các loại thực phẩm giàu cholesterol như gan, não, thận. Uống trà xanh Trà xanh đựơc xem là thức uống lành mạnh thay thế cho nước ngọt và các đồ uống có đường. Trà xanh có chứa các hỢp chất có thể giúp làm giảm cholesterol xấu. Vì vậy hãy uống một cốc trà xanh mỗi ngày. Vận động thường xuyên Ngoài việc làm giảm cholesterol xấu LDL, thường xuyên vận động có thể làm tăng cholesterol tốt HDL lên đến 10%. Người bị cholesterol cao nên đi bộ 45 phút sau bữa ăn tối hoặc đi 10.000 bước/ ngày hay đứng dậy và đi bộ xung quanh 5 phút/giờ nếu bạn làm việc ở văn phòng. Tăng lượng carbonhidrat và chất xơ Các loại trái cây và rau quả, các sản phẩm ngũ đ ộ i ÍỊÍỌỊ và cách điỈM ivị 81