"Bẫy Ngụy Biện Trong Tư Duy Phản Biện PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bẫy Ngụy Biện Trong Tư Duy Phản Biện PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HỘI MÊ SÁCH Tải eBooks miễn phí tại https://hoimesach.com Nhận eBooks miễn phí qua Zalo: https://zalo.hoimesach.com Group: https://facebook.com/groups/mesachhoi BẪY NGỤY BIỆN TRONG TƯ DUY PHẢN BIỆN ----------------*---------------- NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG Trụ sở: Số 655 Phạm Văn Đồng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội Điện thoại: 024-3 934 1562 Fax: 024-3 938 7164 Website: http://nhaxuatbancongthuong.com E-mail: nxbct@moit.gov.vn Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc - Tổng Biên tập NGUYỄN MINH HUỆ Biên tập: Đồng Thị Thu Thủy Sửa bản in: Thảo Vương Trình bày: Vũ Lê Thư Thiết kế bìa: Trang Fu CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA www.alphabooks.vn VP HN: Tầng 3, Dream Center Home, số 11A, ngõ 282 Nguyễn Huy Tưởng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội Tel: (84-24) 3 722 62 34 | Fax: (84-24) 3 722 62 37 Chi nhánh TP. HCM: 138C Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh Tel: (84-28) 38220 334 | 35 In 3000 cuốn, khổ 12 x 18 cm tại Công ty Cổ phần In và Thương mại Prima. Địa chỉ: số 35, ngõ 93 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội Số xác nhận đăng kí xuất bản: 4436-2022/CXBIPH/02-251/CT Số Quyết định xuất bản: 454/QĐ - NXBCT ngày 08 tháng 12 năm 2022 In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2023 Mã số ISBN: 978-604-362-508-0 SỰ THẬT LÀ GÌ? Chúng ta tự tạo ra cách nhìn nhận thế giới, và để biết được sự thật, chúng ta chỉ còn cách vượt qua những quan niệm sai lầm của chính mình bằng cách dựa vào các quy tắc logic. Tư duy quan trọng nhất trong thế giới hiện đại Kỹ năng nào trong cuộc sống có thể còn quan trọng hơn bằng đại học? Đó là tư duy phản biện (Critical Thinking), một kỹ năng cơ bản đang ngày càng trở nên quan trọng trong thế giới hiện đại. Một trong những lý do khiến hầu hết chúng ta đưa ra các quyết định sai lầm, nhiều khi đi theo đám đông, đầu tư theo xu hướng và hành động theo phong trào dẫn đến thất bại mà thiếu những quyết định đúng đắn là vì hệ thống giáo dục không dạy tư duy phản biện. Đó là lý do khiến hầu hết chúng ta không bao giờ phát huy hết tiềm năng của mình, không có tư duy phản biện dẫn đến suy luận kém, không có khả năng phân biệt sự thật từ hư cấu, từ những lừa dối và ngụy biện. Trong một xã hội tràn ngập thông tin và đầy cạm bẫy như ngày nay, nhận thấy tư duy phản biện ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với mọi người, từ các em học sinh đến sinh viên, người lao động, quản lý, điều hành và cả những nhà lãnh đạo, nên Alpha Books tìm kiếm và lựa chọn những cuốn sách hữu ích nhất về chủ đề này để giới thiệu tư duy phản biện là gì, cách xây dựng thói quen tư duy phản biện và phân biệt sự thật với hư cấu, qua đó, giúp các bạn vững chắc hơn trong hành trình của mình. Bộ sách này bao gồm: Tư duy phản biện từ làm quen đến thói quen: 9 tiêu chuẩn, 8 yếu tố, 7 đặc điểm đối với nhà tư duy phản biện Rèn thói quen tư duy phản biện: Công cụ và ứng dụng kiến tạo tư duy ưu việt Bẫy ngụy biện trong tư duy phản biện: Bốn quy luật logic và các lỗi thường gặp Giải phóng sức mạnh tư duy phản biện: Giải mã 10 kiểu ngụy biện, triệt tiêu chiêu trò lừa đảo và hiểu chính xác về ngụy khoa học Chúng tôi tin rằng, bộ sách này sẽ cung cấp cho các bạn: • Khung tư duy phản biện được phát triển bởi hai trong số những nhà khoa học về tư duy phản biện giàu kinh nghiệm nhất mọi thời đại và cách biến nó thành của riêng bạn. • 8 đặc điểm tư duy phản biện bạn đã có, nhưng không biết cách tối ưu hóa chúng. • Cách xác định tin giả và thông tin sai lệch – tìm hiểu điều này và bạn sẽ có lợi thế LỚN hơn hầu hết mọi người xung quanh mình ngay bây giờ. • Lý do bạn nên nghi ngờ bất cứ ai trích dẫn một nhân vật có thẩm quyền. • 6 quy tắc biến thói quen hiện tại của bạn thành thói quen lành mạnh. • Các bài tập dễ áp dụng, dễ thực hiện để bạn luyện tập mọi điểm đã đề cập. Bạn sẽ không “đọc và quên” bộ sách này. … và nhiều, nhiều hơn thế nữa! Chúng tôi tin rằng, những người không ngừng học tập sẽ tiếp tục phát triển và thành công. Vì thế, cách thức trở thành một người có tư duy độc lập và đưa ra các quyết định thông minh là mục đích của chúng tôi. Chúng tôi mong rằng bộ sách thực tế, dễ đọc này sẽ giúp bạn xây dựng những lập luận vững chắc hơn, đưa ra các quyết định tự tin hơn và phát hiện ra những lỗi logic trong cuộc sống. Tư duy phản biện sẽ giúp bạn có các quyết định đúng đắn hơn, thông minh hơn trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp của bạn. NGUYỄN CẢNH BÌNH Chủ tịch Alpha Books Viện trưởng Viện lãnh đạo ABG GIỚI THIỆU Con người thường nhầm lẫn sức mạnh của cảm giác với sức mạnh của lập luận. Cái đầu nóng của họ luôn phẫn nộ trước cú chạm mát lạnh và sự soi xét kỹ lưỡng không ngừng của logic.” – William E. Gladstone Một chàng trai trẻ và một thiếu nữ xinh đẹp đem lòng yêu nhau, nhưng than ôi, nàng là công chúa còn chàng là thường dân. Khi hay tin về tình yêu của họ, đức vua đã nổi cơn thịnh nộ, sai quân lính bắt chàng đưa đến trước mặt ngài. “Ngươi đã phạm phải một tội lỗi không thể dung thứ và sẽ phải chịu xử tử,” đức vua nói. “Nhưng là một vị vua anh minh và nhân từ, ta sẽ ban cho ngươi một ân huệ, để ngươi được tự chọn cách chết cho mình. Hãy nói ta nghe một điều. Nếu nói thật, ngươi sẽ bị treo cổ chết. Nếu nói dối, ngươi sẽ bị thiêu đến chết. Nào, hãy nói đi. Hãy nói đi.” Chàng trai suy nghĩ trong giây lát rồi nói: “Thần sẽ bị thiêu đến chết.” Khi nghe được những lời đó, nhà vua ngẫm nghĩ, sau đó ra lệnh cho quân lính thả chàng ra. Lúc này, hẳn rất nhiều độc giả sẽ có cảm giác déjà vui. Chắc hẳn bạn từng nghe phiên bản nào đó của câu chuyện này trước đây. Đó là một phiên bản nghịch lý của kẻ nói dối. Trong câu chuyện trên, chàng trai được thả vì câu nói của chàng khiến đức vua rơi vào tình thế khó xử. Nếu câu nói của chàng bị cho là dối trá, chàng sẽ bị thiêu sống, và nếu chàng bị hỏa thiêu thật, câu nói ấy hóa ra lại là sự thật. Nhưng nếu câu nói của chàng là thật và chàng bị treo cổ, vậy thì câu nói ấy hóa ra là một lời nói dối vì chàng nói mình sẽ bị thiêu sống. Do đó, đức vua anh minh phải thả chàng nếu không ngài sẽ trở thành kẻ nuốt lời. Chú thích: i. Déjà vu: từ tiếng Pháp, có nghĩa “đã nhìn thấy” hay còn gọi là ký ức ảo giác, cảm giác quen thuộc (như đã từng thấy, từng trải qua trong trí nhớ) trong một môi cảnh mới, chưa từng biết trước đó hoặc không nhớ rõ lúc nào. (BTV) Nghịch lý của kẻ nói dối là một câu đố logic phổ biến, nhưng nhiều người dù đã nghe qua vẫn bối rối khi nghe thấy nó lần nữa. Họ không thể nhớ nổi câu trả lời cho câu chuyện quen thuộc này, bởi họ đã quên những liên kết logic được tạo ra trước đó. Tại sao? Bởi bản chất của con người thường là quên mất những gì chúng ta chỉ được học một lần. Nếu chúng ta không làm rõ bài học ấy lần nữa và thực hành nó nhiều lần, thường xuyên và trong các ngữ cảnh khác nhau, việc học chẳng khác nào nước đổ lá khoai. Bạn có thể chọn đọc cuốn sách này vì cảm thấy hấp dẫn với lời giới thiệu về “Khía cạnh phi lý trí trong mỗi chúng ta”. Chúng ta là những sinh vật lý trí và đưa ra các quyết định phù hợp với lý trí và logic, nhưng chúng ta thường thấy mình rơi vào hệ lụy của những hành động và quyết định phi lý trí. • Sinh viên sẽ không chuẩn bị cho kỳ thi khi biết rõ rằng dù có làm gì họ vẫn bị điểm kém. Song, họ cũng có thể tự thuyết phục mình bằng cách ngụy biện rằng họ vẫn có thể vượt qua kỳ thi nhờ học nhồi học nhét hoặc gian lận. • Nhà tuyển dụng biết rõ chi phí cơ hội của việc từ chối các ứng viên xuất sắc tiềm năng vì thiên kiến ấn tượng ban đầu, nhưng họ vẫn liên tục đi vào vết xe đổ của chính mình. • Người tiêu dùng mua hàng không có kế hoạch vì bị người nổi tiếng và những người có ảnh hưởng nhân danh quyền lực tác động. Tất cả chúng ta đều từng rơi vào hoàn cảnh đó, để rồi nếm trải cảm giác hối hận. Không dễ gì khi phải liên tục tư duy rồi hành động logic. Chúng ta là sản phẩm của các nền văn hóa, trải nghiệm, nền tảng giáo dục và sự nuôi dưỡng khác nhau. Mỗi chúng ta đều được trang bị các bộ giá trị và niềm tin khác nhau, là sự tổng hòa của môi trường giáo dục lẫn xã hội của mỗi người. Tuy nhiên, logic mang tính khách quan, khoa học, sáng suốt đến lạnh lùng. Lập luận xác đáng thường dẫn đến một giải pháp đúng đắn. Lập luận xác đáng có những cái lợi riêng. Một sinh viên có tư duy đúng đắn sẽ ôn luyện chăm chỉ trước kỳ thi. Các nhà tuyển dụng sẽ chọn những ứng viên giỏi nhất dựa trên các giá trị của họ sau khi cân nhắc kỹ lưỡng. Và người tiêu dùng sẽ phát hiện ra rằng những người mẫu, diễn viên và nhân vật truyền hình không thể thay thế các kỹ sư, bác sĩ hay chuyên gia thực thụ. Cuốn sách này sẽ chỉ cho bạn, những người bình thường, cách đưa ra các quyết định đúng đắn mỗi ngày. Nó cho chúng ta biết: • Lý do tại sao mọi người liên tục mắc lỗi logic. • Các nguyên tắc và công cụ logic nào có thể giúp chúng ta lập luận tốt hơn. • Những ngụy biện logic hình thức và phi hình thức thường gặp và cách để xử lý chúng. • Những thiên kiến nào dễ mắc phải nhất và làm sao để hạn chế điều đó. • Những bước nào có thể áp dụng để biến tư duy logic thành một thói quen. Cuốn sách này là một bản mô tả thực tế các khái niệm logic cơ bản, những thiên kiến và ngụy biện logic thường gặp nhất ảnh hưởng đến các quyết định hằng ngày của chúng ta. Tác giả có bằng tiến sĩ, là giảng viên đại học và sau đại học trong 40 năm. Ngoài chuyên môn, bà còn có kinh nghiệm thực tế về quản trị kinh doanh, kỹ thuật, luật, tài chính và tiếp thị. Bà đã kết hôn được 35 năm và nuôi dạy ba con trưởng thành, hiện cũng đều là các chuyên gia. Sự dày dạn kinh nghiệm cùng nền tảng học thuật ấy là cơ sở cho cách thức tiếp cận của cuốn sách này, thể hiện ở những lời giải thích vô cùng đơn giản và các ví dụ thực tiễn hằng ngày. Cuốn sách nhắm đến đối tượng độc giả bình dân, những người muốn áp dụng logic vào cuộc sống hằng ngày, muốn chế ngự “cái đầu nóng” đủ để thưởng thức “cảm giác mát lạnh và sự soi xét không ngừng của logic”. Đó là một cuộc hành trình hướng tới việc làm chủ kỹ năng lập luận xác đáng. Bạn đã sẵn sàng bước vào cuộc hành trình này với chúng tôi chưa? Chúng tôi không bán sách, chúng tôi bán kiến thức quản trị vượt trội của những doanh nhân và tập đoàn hàng đầu! - 1 - ĐỂ HIỂU LẬP LUẬN, TRƯỚC TIÊN PHẢI HIỂU LOGIC Người đàn ông bước vào quán bar và nói với người pha chế yêu thích của mình: “Jim, cho tôi một ly nặng đô đi, tôi không thể về nhà với vợ sớm thế này được. Cô ta cằn nhằn luôn mồm còn đầu tôi thì không thể tiếp nhận một lời nào cả.” Jim nói: “Bob này, Letty chắc chỉ đang buồn chán thôi. Tôi đã để Emma nhà tôi tham gia các lớp học thêu thùa buổi tối, và giờ cô ấy bận chuyện kim chỉ đến nỗi chẳng để tâm đến việc của tôi đâu.” Bob nghĩ đó quả là một ý tưởng tuyệt vời. Một tháng sau, Bob bước vào và nói: “Jim, đây là lần cuối tôi tin anh. Tôi đã làm theo lời khuyên của anh và động viên Letty theo học đại học cộng đồng. Cô ấy đã đăng ký một khóa học về logic nhập môn. Đến giờ cô ấy vẫn cằn nhằn luôn mồm còn tôi vẫn chẳng thể chịu nổi. Cô ta lý luận quá nhiều!” Trải nghiệm của Bob đã làm sáng tỏ lý do hay nhất thôi thúc một người học về logic: thuyết phục người khác bằng lý lẽ của mình. Lập luận là một cuộc hành trình của tâm trí còn chúng ta là những sinh vật có lý trí. Do đó, tất cả chúng ta đều lập luận. Chúng ta đều nhìn thấy những thứ giống nhau xung quanh mình, nhưng lại diễn giải chúng theo những cách khác nhau. Một số cách diễn giải có ý nghĩa hơn số khác, tùy thuộc vào cách chúng ta lập luận. Logic chỉ đơn giản là quá trình tạo ra ý nghĩa, là khoa học về lập luận đúng đắn, và một số người gọi nó là kỷ luật của tâm trí.1 Một số người lập luận logic hơn những người khác bởi họ có thể đưa ra những suy luận đúng đắn dựa trên bằng chứng mà họ có. Nhờ học hỏi, quan sát và thực hành, chúng ta có thể có được kỷ luật tinh thần đó nhằm sử dụng logic để thuyết phục người khác một cách hiệu quả. BỐN QUY LUẬT CỦA LOGIC Có ba quy luật logic cổ điển: quy luật đồng nhất, quy luật bài trung và quy luật bất mâu thuẫn. Năm 1818, triết gia người Đức Arthur Schopenhauer đã đưa ra quy luật thứ tư: quy luật lý do đầy đủ. QUY LUẬT ĐỒNG NHẤT: Mọi thứ đồng nhất với chính nó. Quy luật này giải thích rằng mọi thứ đồng nhất với chính nó. Một thuật ngữ được sử dụng trong diễn ngôn logic có thể đề cập đến một và chỉ một sự vật. Khi một thuật ngữ có nghĩa nhiều hơn một sự vật trong cùng một cuộc thảo luận, vi phạm này phản ánh một ngụy biện được gọi là lập lờ nước đôi. Ví dụ về ngụy biện lập lờ nước đôi: “Jack ăn những gì phù hợp (right), và Jill ăn những gì còn lại (left).” Right có nghĩa là “phù hợp” trong nửa đầu câu và ngụ ý chỉ hướng trong nửa câu sau. Tương tự, left cũng có nghĩa kép, hướng ngược lại so với right, và nghĩa “phần còn lại”. QUY LUẬT BÀI TRUNG: Mỗi và mọi thứ đều đúng hoặc không. Một phát biểu có thể đúng hoặc không. Nếu có hai phát biểu trái ngược nhau, thì phát biểu thứ nhất đúng và phát biểu thứ hai không đúng, hoặc ngược lại, phát biểu thứ nhất không đúng và phát biểu thứ hai đúng. Ví dụ: “Arthur là một người chồng chung thủy” và “Arthur ngoại tình dù đã kết hôn”. Ngoại tình là biểu hiện của sự không chung thủy. Do đó, nếu Arthur chung thủy thì không có chuyện anh ta ngoại tình, hoặc Arthur đã ngoại tình thì không có chuyện anh ta chung thủy. QUY LUẬT BẤT MÂU THUẪN: Không có gì đồng thời có và không. Các phát biểu mâu thuẫn không thể đồng thời đúng và có cùng nghĩa. Quy luật này tương tự quy luật đồng nhất. Chó chăn cừu Đức không thể là giống chó sục Yorkshire hoặc không phải là giống chó Shih- tzu (không phải giống chó chăn cừu của Đức). Một tòa nhà cao tầng không thể là một bungalow (tức là một căn thấp tầng). Nhưng chúng ta cần cẩn thận để đảm bảo rằng các mệnh đề thực sự loại trừ lẫn nhau. Benjamin Franklin là một chính khách, nhưng ông cũng là một nhà khoa học. Là một nhà khoa học không có nghĩa là không được làm chính khách, bởi là một chính khách vẫn có thể là một nhà khoa học, và ngược lại. Khi hai phát biểu có thể cùng tồn tại, chúng không mâu thuẫn và không vi phạm quy luật bất mâu thuẫn. QUY LUẬT LÝ DO ĐẦY ĐỦ: Mọi thứ đều có nguyên nhân của nó. Trong bốn quy luật logic, đây là quy luật gây tranh cãi nhất. Nó cũng phức tạp nhất, vì vậy chúng tôi sẽ giải thích nó bằng một ví dụ. Giả sử Joe muốn mua một chiếc mô tô để đi lại. Một người đàn ông xa lạ đã tiếp cận anh và nói rằng, một người bạn của đồng nghiệp của anh rể anh ta cho biết Joe đang cần xe. Người lạ nọ sẽ bán cho Joe chiếc mô tô mới tinh của anh ta với giá 500 đô-la nếu Joe thanh toán trong vòng ba giờ. Joe đồng ý ngay và nói: “Quả là một món hời!” Nhưng nếu là một người có tư duy logic, suy nghĩ đầu tiên của anh ta nên là: “Tại sao?” Đây là điểm căn bản của quy luật thứ tư. Đối với mọi sự thật không thể giải thích, người lý trí sẽ tìm kiếm lý do đằng sau nó. Chỉ cần bất kỳ lý do nào lý giải cho tình huống ngược lại là đủ. Trong ví dụ này, Joe cần trả lời những câu hỏi như: Tại sao người lạ này lại muốn bán xe nhanh đến vậy? Sao giá lại thấp như vậy? Chiếc xe có vấn đề gì không? Nó có phải là hàng lậu không? Nó có phải là đồ ăn cắp không? Làm sao người lạ nọ lại biết Joe? NHỮNG KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG VỀ LOGIC Để hiểu rõ logic, ta cần nắm vững các khái niệm sau đây. Lời xác nhận (claim) – Còn gọi là một phát biểu hoặc tuyên bố, xác nhận sự thật hoặc sự tồn tại của điều gì đó bất chấp tính đúng sai. Khi một hoặc hai tiên đề ủng hộ cho một lời xác nhận, nó sẽ trở thành kết luận. Một xác nhận đơn giản là một phát biểu không có bằng chứng hỗ trợ. • Người chiến thắng trong cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ là người phụ nữ đẹp nhất hành tinh. Một phát biểu đi kèm bằng chứng sẽ trở thành một kết luận. • Mọi phụ nữ nổi tiếng trên hành tinh đều là những người sống trên Trái đất. Tất cả những phụ nữ này đều tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ. Vì vậy, người chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ là người phụ nữ đẹp nhất hành tinh. Suy luận (Inference) – Suy luận đề cập đến việc rút ra một kết luận dựa trên một tập hợp thông tin hoặc các tiên đề hướng tới hệ quả logic của chúng dựa theo một trong những hình thức lập luận được công nhận. Sau đây là ví dụ rút ra một suy luận thông qua lập luận diễn dịch. • Anh hỏi tôi đêm qua tôi ở đâu, tôi đã làm gì và tôi đi cùng ai. Từ câu hỏi của anh, tôi nghĩ anh đang liệt tôi vào dạng tình nghi. Luận điểm (Argument) – Luận điểm là một lời xác nhận được dùng để thuyết phục mọi người về sự thật của một vấn đề. Nó gồm ba yếu tố cơ bản – một vấn đề, một tiên đề (hoặc các tiên đề), và một kết luận (hoặc các kết luận).² Dẫu những người kiến nghị sử dụng luận điểm để thuyết phục người khác, nhưng không phải mọi luận điểm đều hợp tình hợp lý và không phải mọi tiên đề và kết luận đều đúng. Chúng ta cần tư duy phản biện để nhận diện và đưa ra luận điểm xác đáng và hợp lệ như ví dụ sau đây. • Vấn đề: Vàng được giao dịch thế nào? • Tiên đề 1: Mọi kim loại quý đều được giao dịch trên các sàn giao dịch quốc tế. • Tiên đề 2: Vàng là kim loại quý. • Kết luận: Vàng được giao dịch trên các sàn giao dịch quốc tế. Để đạt được kết luận xác đáng và logic, ta cần hai yếu tố là sự thật và tính trung thực trong lập luận. Không dễ đạt được điều này vì chúng ta có xu hướng bao bọc mọi đánh giá của mình bởi các thiên kiến, quan niệm sai lầm và sự thiếu chân thành đến mức không thể tìm ra sự thật. Ngay cả với những ý định tốt đẹp nhất, đôi khi rất khó để phân biệt thật giả, trung thực và gian dối, ngay cả trong suy nghĩ của một người. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - CÁC BƯỚC HÀNH ĐỘNG Hãy thử thực hành bài tập sau đây về tư duy phản biện, do Ransom Patterson, Tổng biên tập của College Info Geek³ giới thiệu. 1. Hỏi những câu cơ bản. Nhiều vấn đề nhỏ nhặt thôi cũng có thể gây rắc rối. Trước tiên, hãy loại bỏ những hạt sạn không liên quan làm phức tạp thêm các vấn đề này. Xác định vấn đề cơ bản và tập trung vào việc giải quyết nó. 2. Đặt câu hỏi về các giả định cơ bản. Giả định là điều mà mọi người chấp nhận là đúng ngay cả khi không có bằng chứng. Khi được xem xét kỹ lưỡng hơn, một số giả định có thể được chứng minh là sai hoặc không thể áp dụng. Hãy tìm cách xác định chúng và cân nhắc mức độ liên quan của chúng với vấn đề. 3. Nắm rõ các quá trình xử lý tư duy của bạn. Suy nghĩ của con người diễn ra với tốc độ nhanh đến mức não bộ đôi khi thực hiện những bước tắt tinh thần (heuristics) để diễn giải môi trường xung quanh chúng ta. Thiên kiến nhận thức và định kiến cá nhân đôi khi sẽ tấn công quá trình tư duy của chúng ta, vì vậy hãy cảnh giác trước chúng. 4. Thử đảo ngược mọi thứ. Một quan điểm mới mẻ có thể xuất hiện nếu ta đảo ngược những gì có vẻ đúng lúc đầu. Xe buýt có thể đã tông vào người đi bộ, nhưng người đi bộ có thể đã cố tình lao ra trước đầu xe buýt. Hành động này giúp chúng ta tìm xem còn lời giải thích nào khác hay không. 5. Đánh giá bằng chứng hiện có. Hãy cố tìm kiếm sự chứng thực từ các nguồn khác. Nghiên cứu mọi bằng chứng tiềm năng, và kết luận nào có thể dung hòa tất cả bằng chứng sẽ là kết luận đúng đắn. Nếu bằng chứng loại bỏ các lựa chọn thay thế một cách dứt khoát, thì giải pháp thay thế còn lại là kết luận đúng. Năm bài tập tư duy trên đây có vẻ dễ dàng, nhưng việc biến chúng thành thói quen sẽ cần thời gian, sự kiên nhẫn và luyện tập. Phát triển khuynh hướng tư duy phản biện là bước đầu tiên để sử dụng logic một cách hiệu quả. Bước tiếp theo là sắp xếp chính xác những suy nghĩ đó để chúng có thể truyền tải thông điệp của bạn một cách thuyết phục. HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI Tổng quan về logic như tôi đưa ra ở trên chỉ mang tính khái quát bề mặt cho chủ đề thú vị nhất này, nhưng nó chắc chắn đủ khiến Bob nổi da gà khi nghĩ đến việc tranh cãi với vợ mình. Làm chủ logic là một vũ khí mạnh mẽ để giành chiến thắng trong các cuộc tranh luận, nhưng xa hơn thế là có được khả năng đưa ra những quyết định đúng đắn. Giống như Letty, Bob sẽ coi việc học logic là một lợi ích. Và bạn cũng vậy. Chúng ta hãy chuyển sang lập luận thông qua các luận điểm trong chương tiếp theo. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - • Bốn quy luật logic gồm quy luật đồng nhất, quy luận bài trung, quy luật bất mâu thuẫn và quy luận lý do đầy đủ. • Xác nhận là lời khẳng định sự thật về một cái gì đó. • Suy luận là rút ra kết luận dựa trên các tiên đề. • Lập luận là một tuyên bố được bằng chứng hỗ trợ. - 2 - LẬP LUẬN THÔNG QUA LUẬN ĐIỂM Charles, cậu út nhà tôi, rất thích siêu anh hùng Người Sắt của Marvel, Tony Stark. Tôi đã không biết thằng bé đam mê nhân vật này đến nhường nào cho đến khi xem hết bộ phim Avengers. Trong phim, Thor đánh Người Sắt bằng một tia sét siêu nhanh, nhờ thế anh ta có đủ năng lượng để giáng cây búa trở lại với “400% công lực” của bộ đồ Người Sắt. 400%? Là một kỹ sư điện tử, tôi nghĩ điều này thật nực cười. “Charlie,” tôi nói, “400% công suất điện có thể nung chảy đống mạch đó cùng bộ đồ của Người Sắt đấy con.” Thằng bé nhìn tôi với vẻ ngờ vực. “Mẹ, Tony Stark đã nói thì phải đúng!” Tôi kể với chồng tôi rằng: “Con trai mình còn tin một nhân vật hư cấu hơn cả em, anh ạ!” Chồng tôi, một kỹ sư cơ khí, bình tĩnh trả lời: “Giống như ai đó đã không tin anh khi anh bảo rằng chiếc xe của cô ấy không thể chạy bằng ethanol mà không trải qua quá trình chuyển đổi, chỉ vì ngôi sao Hollywood yêu thích của cô ấy nói điều đó có thể. Em nhớ chuyện đó đã thành ra thế nào không?” Trời đất, tôi nghĩ. Kịch bản của Robert Downey Jr. xác nhận một sự bất khả thi về mặt kỹ thuật cũng đáng tin như lời ủng hộ celluloid của một người nổi tiếng liên quan đến nhiên liệu thích hợp dành cho ô tô của tôi. Sự tương đồng trong suy nghĩ của chúng tôi đã trở thành một luận điểm. Tiên đề đầu tiên: Mọi điều A nói đều đúng. Tiên đề thứ hai: A đưa ra một phát biểu. Kết luận: Phát biểu đó chắc hẳn đúng. Luận điểm đúng nếu cả hai tiên đề đều đúng. Đó là một lập luận hợp lệ. Nhưng tiên đề đầu tiên hóa ra lại sai. Do đó, lập luận không xác đáng dẫn đến kết luận sai. LẬP LUẬN VÀ TRANH LUẬN Các luận điểm thường hướng đến việc thuyết phục. Một luận điểm đưa ra phát biểu và chứng minh nó bằng các lập luận dẫn chứng. Chúng ta cũng đã thảo luận rằng lập luận là việc mà tất cả mọi người đều làm nhưng chẳng mấy ai có thể lập luận logic. Lập luận logic là một quá trình có hệ thống. Trình bày một cách có cấu trúc các lập luận logic được gọi là tranh luận. Các học giả thường gọi các luận điểm là “ngôn ngữ của logic”. Lập luận khác với tranh luận; lập luận là quá trình tư duy, còn tranh luận là cách diễn giải quá trình tư duy ấy theo các nguyên tắc logic. Thông qua một tập hợp các phát biểu có cấu trúc, tranh luận đưa ra các luận cứ hỗ trợ cho một phát biểu. Luận điểm có hai thành tố: một hoặc nhiều tiên đề và một kết luận. Mọi luận điểm đều bao gồm lập luận, nhưng không phải mọi lập luận đều có lý. Một số luận cứ chỉ thuần mang tính cung cấp thông tin. Các luận cứ cho một tranh luận luôn nhắm đến việc củng cố hoặc làm suy yếu khả năng chấp nhận một phát biểu nhất định. Mục đích chứng minh là điểm phân biệt một luận điểm so với các dạng phát biểu khác.⁴ Để một luận điểm trở nên thuyết phục thì kết luận và tiên đề đúng thôi chưa đủ. Tiên đề nên đưa ra các luận cứ thuyết phục để kết luận được chấp nhận. Các cơ sở mà tiên đề đưa ra nên được kết nối chặt chẽ với kết luận. Cách luận điểm trình bày các tiên đề của nó và kết luận chính là quá trình lập luận logic mà tâm trí của chúng ta trải qua. • Nhà của một người là lâu đài của anh ta. (Đúng) • Nhà vua sống trong lâu đài. (Đúng) • Vua là một con người. (Đúng) Trong ví dụ trên, có hai tiên đề và một kết luận. Các tiên đề đúng, kết luận cũng vậy, và không có gì sai với mỗi phát biểu. Tuy nhiên, các tiên đề không dẫn đến kết luận thuyết phục – kết luận vẫn đúng ngay cả khi không có tiên đề. Luận điểm không thuyết phục vì nó không tạo được liên kết logic chặt chẽ giữa tiên đề và kết luận. TÍNH HỢP LỆ VÀ SỰ XÁC ĐÁNG Tính hợp lệ của một luận điểm hoàn toàn phụ thuộc vào cấu trúc, chứ không phải nội dung của nó. Một luận điểm có thể hợp lệ ngay cả khi nó không xác đáng. Một luận điểm hợp lệ nếu nó có dạng thức khiến các tiên đề không đúng, mà kết luận lại sai. Hãy xem xét luận điểm sau: • Những người sinh năm 1990 được gọi là thế hệ Millennial. (Đúng) • George Washington sinh năm 1990. (Sai) • Vì vậy, George Washington là một người thuộc thế hệ Millennial. (Sai) Nếu tiên đề sai trước đó được sửa cho đúng và cấu trúc vẫn được duy trì, chúng ta có: • Những người sinh năm 1990 được gọi là thế hệ Millennial. (Đúng) • Emma Watson sinh năm 1990. (Đúng) • Vì vậy, Emma Watson là một người thuộc thế hệ Millennial. (Đúng) Một luận điểm hợp lệ hoàn toàn có thể có một kết luận sai, miễn là ít nhất một tiên đề sai.⁵ Việc phân biệt giữa tính hợp lệ và tính xác đáng có thể phức tạp nhưng rất hấp dẫn. Hãy xem xét chúng thông qua một số ví dụ sau đây. (1) Trong một luận điểm hợp lệ, khi mọi tiên đề đều đúng, kết luận luôn đúng. • Mèo là động vật có vú. (Đúng) • Sư tử thuộc họ mèo. (Đúng) • Do đó, sư tử là động vật có vú. (Đúng) (2) Ngay cả khi tiên đề sai, kết luận vẫn có thể đúng và luận điểm hợp lệ nhưng không xác đáng. • Cá voi sống ở đại dương. (Đúng) • Cá mập đầu búa là một loại cá voi. (Sai) • Do đó, cá mập đầu búa sống ở đại dương. (Đúng) Để kiểm tra tính hợp lệ của luận điểm này, chúng ta hãy thay đổi tiên đề thứ hai cho đúng trong khi vẫn giữ nguyên cấu trúc của luận điểm. Vì vậy, nó trở thành: • Cá voi sống ở đại dương. (Đúng) • Cá heo là một loại cá voi. (Đúng) • Do đó, cá heo sống ở đại dương. (Đúng) Với cấu trúc tương tự, dưới đây là một luận điểm với các tiên đề đúng: • Các vũ công ba lê chuyên nghiệp rất duyên dáng và điềm đạm. (Đúng) • Olga Smirnova là một vũ công ba lê chuyên nghiệp. (Đúng) • Olga Smirnova rất duyên dáng và điềm đạm. (Đúng) Do đó, đây là một luận điểm hợp lệ và xác đáng. (3) Tương tự, ngay cả khi cả hai tiên đề đều đúng, kết luận vẫn có thể sai, dẫn đến luận điểm không hợp lệ. • Lướt ván là môn thể thao phổ biến với khách du lịch đến Úc. (Đúng) • Gấu Koala là động vật phổ biến với khách du lịch đến Úc. (Đúng) • Gấu Koala đang lướt ván. (Sai) Lưu ý rằng không giống như ví dụ (2) ở trên, luận điểm cuối sai, thay vì lập luận sai. Do đó, nó là một luận điểm không hợp lệ cũng như không đúng đắn. Như đã được trình bày trước đó trong ví dụ (2), một luận điểm hợp lệ cũng có thể có một kết luận đúng ngay cả khi một tiên đề sai. Điều quan trọng cần nhớ là khi các tiên đề đúng, lập luận đúng, thì kết luận cũng đúng, và luận điểm trở nên xác đáng và hợp lệ. Có một điểm phân biệt khác nữa giữa các luận điểm, có cả đơn giản và phức tạp. Luận điểm đơn giản có một hoặc nhiều tiên đề và một kết luận. Những ví dụ trên đây đều là các luận điểm đơn giản. Mặt khác, một luận điểm phức tạp gồm một tập hợp các luận điểm với tiên đề và/hoặc kết luận trùng nhau. Luận điểm phức tạp có vài kết luận trung gian và một kết luận cuối cùng. Hãy xem xét luận điểm sau: Khảo sát của chúng tôi cho thấy sản phẩm đề xuất được thị trường đánh giá tích cực nên có nhu cầu cao. Tuy nhiên, công nghệ cần thiết để sản xuất nó chỉ mang tính thử nghiệm và quá tốn kém để sản xuất. Sản phẩm phải có chi phí sản xuất thấp kèm nhu cầu cao để được thị trường đón nhận. Nếu không, nó cần được phát triển thêm. Luận điểm này khó phân tích nếu để nguyên dạng ban đầu, vì vậy chúng tôi chia nó thành dạng cơ bản, trong đó P là tiên đề, IC là kết luận trung gian và FC cho kết luận cuối cùng. • Pa1: Sản phẩm ghi nhận lượt xem tích cực từ thị trường. • Pa2: Lượt xem tích cực từ thị trường cho thấy nhu cầu cao. • ICa: Có nhu cầu cao về sản phẩm. • Pb1: Công nghệ cần thiết chỉ mang tính thử nghiệm. • Pb2: Công nghệ thử nghiệm quá tốn kém. • ICb: Công nghệ cần thiết quá đắt. • Pc1: Nhu cầu lớn nhưng giá thành cao. • Pc2: Sản phẩm cần nguồn cầu lớn và chi phí thấp để được đón nhận. • ICc: Sản phẩm không thể được chấp nhận. • Pd: Nếu sản phẩm không được chấp nhận, nó cần được phát triển thêm. • FC: Sản phẩm sẽ được phát triển thêm. Chúng ta thường xuyên gặp phải những luận điểm phức tạp hơn là đơn giản. Các cuộc thảo luận hoặc tranh luận phức tạp do nhiều vấn đề liên quan thường đòi hỏi lập luận mở rộng.⁶ DIỄN DỊCH VÀ QUY NẠP Có hai kiểu lập luận, diễn dịch và quy nạp. Lập luận diễn dịch là một dạng lập luận logic cơ bản bắt đầu với một lý thuyết chung được tóm gọn dựa theo thông tin và lập luận để đi đến một kết luận cụ thể. Các phương pháp khoa học thường sử dụng loại lập luận này; bắt đầu với một giả thuyết, định tính nó bằng các quan sát, và kết thúc bằng một bằng chứng hợp lý cho giả thuyết ban đầu.⁷ “Tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều xoay quanh mặt trời. Trái đất là một hành tinh trong hệ mặt trời. Do đó, Trái đất quay quanh mặt trời.” Lập luận quy nạp diễn ra theo hướng ngược lại. Nó bắt đầu với những quan sát cụ thể và rút ra kết luận khái quát dựa trên chúng. Lập luận quy nạp đòi hỏi một lượng dữ liệu thực nghiệm lớn hơn so với lập luận diễn dịch. Những dữ liệu này hình thành nên các mẫu mối quan hệ và từ đó một lý thuyết khái quát cũng sẽ thành hình.⁸ Lập luận quy nạp thường sử dụng các xác suất thống kê hơn. “Tôi lấy một viên kẹo ra khỏi một gói Skittles và phát hiện ra nó có màu đỏ. Cũng từ gói kẹo đó, tôi lấy ra thêm bốn viên kẹo nữa, và hóa ra tất cả đều màu đỏ. Vì vậy, có khả năng là gói Skittles tôi có là gói kẹo đỏ.” Có hai kiểu luận điểm tương ứng với các kiểu lập luận này. Đó là luận điểm diễn dịch và quy nạp. Các tiên đề trong luận điểm diễn dịch đưa ra một bằng chứng khẳng định phát biểu. Ở luận điểm quy nạp, các tiên đề thể hiện khả năng của kết luận nhưng không chắc chắn. So sánh các luận điểm sau: Sự khác biệt giữa luận điểm diễn dịch và quy nạp nằm ở ý định của người lập luận.⁹ Trong các luận điểm diễn dịch, người lập luận đảm bảo tính đúng đắn của kết luận bằng cách đưa ra các tiên đề đúng. Trong luận điểm quy nạp, người lập luận tin rằng sự thật của lập luận chỉ đưa ra lý do chính đáng để họ tin rằng kết luận có thể (nhưng không chắc chắn) đúng. Trong các luận điểm diễn dịch hợp lệ, kết luận sẽ luôn đúng nếu mọi tiên đề đúng. Nhưng trong luận điểm quy nạp, lập luận có thể xác đáng nhưng vẫn sai. Đó là vì người ta nghi ngờ liệu có khả năng một trong các tiên đề đúng hay không. Một điểm khác biệt khác nữa giữa hai luận điểm là luận điểm diễn dịch khẳng định phát biểu rằng tính đúng đắn của các tiên đề đảm bảo cho tính đúng đắn của kết luận. Nếu mọi tiên đề đều đúng thì kết luận phải đúng. Ngược lại, một luận điểm quy nạp cho phép một tỷ lệ xác suất nào đó về việc kết luận có thể đúng hơn là không đúng, mà không đảm bảo rõ đúng hay sai. Luận điểm diễn dịch có thể hợp lệ hoặc không. Các thuật ngữ tương tự không thể dùng để chỉ các luận điểm quy nạp; thay vào đó, chúng được mô tả bằng các tính từ mạnh hoặc yếu.¹⁰ Giống như các luận điểm diễn dịch hợp lệ, các luận điểm quy nạp mạnh không cần phải gồm mọi tiên đề đúng. Tuy nhiên, nếu cả hai tiên đề đều đúng, thì có khả năng kết luận đó có xác suất đúng rất cao. Tính thuyết phục đối với luận điểm quy nạp chẳng khác nào tính xác đáng đối với luận điểm diễn dịch, khi cả hai tiên đề đều đúng. Mọi luận điểm quy nạp yếu không có sức thuyết phục, cũng như mọi luận điểm diễn dịch không hợp lệ đều không xác đáng. Các thuật ngữ được sử dụng để mô tả luận điểm diễn dịch và quy nạp được chia nhỏ và so sánh trong sơ đồ sau. TẠI SAO CHÚNG TA TRANH LUẬN Tại sao chúng ta lại bị lôi kéo vào tranh luận hoặc cố giành chiến thắng trong một cuộc tranh luận hơn là tìm kiếm sự thật? Câu hỏi thừa nhận nhiều vấn đề mâu thuẫn. Thứ nhất là bản chất khó nắm bắt của sự thật. Nếu sự thật mang tính tuyệt đối, nó sẽ dễ dàng được nhận thức và chấp nhận. Lúc đó không cần phải tranh luận. Nếu sự thật tuyệt đối tồn tại, nó có thể được quan sát và kiểm chứng khoa học thông qua năm giác quan. Nhưng mấu chốt của mọi vấn đề là không có câu trả lời đơn giản, vì không có sự thật nào đơn giản. Nhìn chung, chúng ta cứ hành động như thể có những câu trả lời đơn giản. Chúng ta tiếp tục đọc về công cuộc tìm kiếm một phương pháp sẽ cho phép bản thân vượt qua sự rối rắm, một mẩu dữ liệu sẽ cho chúng ta biết “sự thật” hoặc thử nghiệm cuối cùng sẽ “chứng minh” cho giả thuyết. Nhưng hầu như tất cả các nhà khoa học đều đồng ý rằng đây là những việc vặt của kẻ ngốc - rằng khoa học là [một] phương pháp đưa ra các ước tính hữu ích hơn để tiến tới thực tế, chứ không phải là con đường dẫn đến chân lý tuyệt đối. Gavin Schmidt ¹² Xét từ góc độ các phương pháp và tiêu chuẩn về độ chính xác của khoa học, nếu các nhà khoa học coi việc tìm kiếm chân lý tuyệt đối là “việc vặt của kẻ ngốc”, thì logic dẫn đến việc khám phá ra “chân lý” hay sự thật ít logic hơn bao nhiêu? Việc tìm kiếm sự thật là một cuộc chiến kéo dài và liên tục. Ngay cả với những ý định tốt nhất, “tìm kiếm sự - 3 - THỦ PHẠM CỦA LẬP LUẬN TỒI: CÁC LỖI LOGIC VÀ THIÊN KIẾN CỦA CHÚNG TA Mẹ mặc những chiếc corset bó chặt, cố kiếm tìm một vòng eo con kiến - tôi đã giúp bà cài chúng - nhưng chúng có thể khiến bà ngất xỉu. Mẹ gọi đó là sự thanh thoát và nói đó là dấu hiệu cho thấy sự tinh tế và nhã nhặn tuyệt vời của mình. Tôi nghĩ đó là dấu hiệu cho thấy chiếc corset đã khiến bà khó thở.” – Jeannette Walls, Half Broke Horses (2009) ¹⁵ Nếu từng có một biểu tượng tra tấn đội lốt sắc đẹp, thì đó là chiếc corset. Điều này diễn ra không chỉ trong thời kỳ Victoria mà trong bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử. Tại sao phụ nữ lại phải chịu đựng nỗi đau khổ nhường ấy để có vòng eo con kiến trông đến vô lý, câu hỏi đã biện minh cho quan sát của Walls về lựa chọn ấy. Nhưng trong mắt mẹ cô, đó không chỉ là bí kíp thu hút ánh nhìn ngưỡng mộ của đàn ông. Corset trong tâm trí bà là một dấu hiệu của dòng dõi cao quý và địa vị xã hội. Walls và mẹ cô thể hiện những thiên kiến khác nhau về đồ lót của phụ nữ, thứ tượng trưng cho cả đặc quyền và bệnh hoạn, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người. THIÊN KIẾN, RẬP KHUÔN, ĐỊNH KIẾN VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ Các nhà tâm lý học đã rút ra một điểm rất khác biệt giữa bốn từ mà chúng ta thường sử dụng thay thế cho nhau: thiên kiến, rập khuôn, định kiến và phân biệt đối xử. Những yếu tố này là nguyên nhân gây ra các lỗi logic mà chúng ta mắc phải gần như mỗi ngày.¹⁶ Sự rập khuôn liên quan đến việc khái quát hóa một đặc điểm thành đặc trưng của cả một nhóm người: “Người Canada lịch sự trong khi người New York thô lỗ”. Người sử dụng lao động mang tinh thần rập khuôn này có thể quan tâm không đồng đều tới quốc tịch hoặc quê quán của người lao động; đây chính là thiên kiến. Khi thiên kiến mang lại ảnh hưởng tích cực đối với người Canada và tiêu cực đối với người New York, nó sẽ trở thành định kiến. Cuối cùng, nếu người sử dụng lao động thuê người Canada thay vì người New York dựa trên định kiến đó, thì hành động đó được gọi là phân biệt đối xử. Thiên kiến ở thái độ của một người dẫn đến định kiến, xuất phát từ các từ gốc “pre” (trước) và “judge” (quyết định). Định kiến là đưa ra kết luận trước khi có lập luận đúng đắn. Nó bỏ qua lập luận và đưa ngay ra một giả định, một định kiến, và từ đó là một kết luận sai lầm. Trong một luận điểm, việc bày tỏ thiên kiến trong tiên đề dẫn đến sai sót trong kết luận. Do đó dẫn đến một luận điểm không xác đáng hay một ngụy biện. Xét về bản chất, ngụy biện không mang tính đạo đức, nhưng nó tốt hay xấu đến mức nào phụ thuộc vào mục đích mà nó nhắm đến. Ví dụ, cảnh sát có thể sử dụng ngụy biện để thuyết phục tội phạm tiết lộ sự thật mà hắn biết về vụ án. “Cảnh sát trưởng sẽ cân nhắc giảm nhẹ tội cho anh nếu anh tiết lộ vị trí của đống hàng bị đánh cắp.” Đây là một ngụy biện vì cảnh sát trưởng có thể không có quyền giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Nếu nó khiến tội phạm tiết lộ bằng chứng phạm tội, thì ngụy biện đó đã được sử dụng cho mục đích tốt. Tuy nhiên, ngụy biện sẽ mang tính tiêu cực nếu được sử dụng để nhắm đến một kết quả sai lầm. “Cảnh sát trưởng sẽ buộc con trai ông tội che giấu nếu ông không nhận tội.” Ngụy biện được dùng trong trường hợp này nhằm buộc tội con trai nghi phạm trừ khi người cha nhận tội, tương đương hành động bức cung. Do đó để có được phán đoán tốt, bạn phải phân biệt ngụy biện với một lập luận xác đáng. Không phải mọi ngụy biện đều gây hậu quả nghiêm trọng; một số quá phổ biến đến nỗi chúng ta gặp chúng hằng ngày. Cha mẹ có thể nghĩ đứa con gái của họ thông minh hơn đứa con trai vì cô bé đạt điểm toán cao hơn anh trai mình. Đây là một ngụy biện vì có nhiều loại hình thông minh. Đứa con trai có thể giỏi chơi thể thao hơn. Do đó, cậu bé có thể có trí thông minh thể chất-vận động cao hơn trong khi em gái cậu có trí thông minh toán học-logic cao hơn. Do đó, chúng đều thông minh theo những cách khác nhau. Ngụy biện cho thấy sự thiếu hụt về lập luận logic bởi mối liên hệ logic giữa các tiên đề và kết luận vẫn chưa rõ. Những bậc cha mẹ đưa ra kết luận sai lầm rằng đứa trẻ này thông minh hơn đứa trẻ kia không biết về các loại thước đo xác định trí thông minh. Nghi phạm không nhận thức được hết những hạn chế về quyền hạn của cảnh sát trưởng đối với việc giảm nhẹ hình phạt hoặc buộc tội con trai mình nếu thiếu chứng cứ. Các tiên đề thể hiện những mối quan tâm cụ thể này hiện không tồn tại. Do đó, cha mẹ và nghi phạm đã đưa ra kết luận dựa trên những luận điểm chưa đầy đủ. Rất khó để phát hiện ra ngụy biện trong các tình huống thực tế bởi những định kiến, thiên kiến và trải nghiệm văn hóa trong quá khứ có xu hướng đánh lừa tâm trí chúng ta, khiến chúng ta đưa ra các giả định không liên quan hoặc không hợp lệ. Giả định thế chỗ tiên đề bị thiếu, luận điểm không đầy đủ lại được nhìn nhận là luận điểm trọn vẹn, kết luận không hợp lệ lại được coi là hợp lệ. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - CÁC BƯỚC HÀNH ĐỘNG Có nhiều cách giúp phát hiện ngụy biện hình thức. Dưới đây là ba bước cơ bản để nhanh chóng xác định loại ngụy biện phổ biến thường đánh lừa tâm trí chúng ta đưa ra kết luận sai lầm.¹⁷ 1. Xác định các tiên đề sai lầm (“bằng chứng tồi”). Đây có thể là những phát biểu sai hoàn toàn hoặc những so sánh ngụ ý, hay các ví dụ không liên quan đến kết luận. Thương hiệu người nổi tiếng là một kiểu ngụy biện phổ biến. “Rihanna sử dụng sản phẩm trang điểm của thương hiệu Fenty Beauty. Nếu tôi sử dụng loại mỹ phẩm đó, tôi sẽ trông xinh đẹp như cô ấy,” ngụ ý một so sánh sai lầm giữa người tiêu dùng và người nổi tiếng. Tiên đề bị bỏ qua là “Tôi không phải là Rihanna”, do đó, những gì tốt cho Rihanna chưa chắc đã tốt cho tôi. 2. Xác định các kết quả thay thế sai lầm. Những lựa chọn ngụ ý có thể không phải là những lựa chọn duy nhất khả thi, và nhận thức về những lựa chọn thay thế có thể ngăn chúng ta đưa ra quyết định sai lầm. “Robert đẹp trai và giàu có, nhưng anh ta là một tay chơi. Tommy không có thành tích bất hảo, nhưng anh ta lại thất nghiệp. Tôi nên lấy ai?” Câu trả lời không nhất thiết phải là Robert hay Tommy vì có thể bạn sẽ “không chọn ai”. 3. Xác định những đứt gãy logic giữa các tiên đề và kết luận. Ngay cả khi các bằng chứng hoặc chứng cứ là đúng, chúng có thể không hoàn toàn liên quan đến kết luận hoặc vấn đề. “Bố mẹ tôi mất trước năm 65 tuổi, và tôi có tình trạng sức khỏe giống họ. Do đó, tôi cũng sẽ chết trước năm 65 tuổi.” Đúng là cha mẹ bạn qua đời ở tuổi trung niên và bạn thực sự có thể đã được di truyền các vấn đề sức khỏe của họ, nhưng chắc chắn không thể móc nối những tiên đề này với thời điểm bạn qua đời. Bạn có thể đang chọn sống lành mạnh hơn, và nguyên nhân khiến họ qua đời có thể không chỉ là tình trạng sức khỏe. HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI Một số người có thể nghĩ corset là một phương tiện hỗ trợ làm đẹp; những người khác xem nó như một công cụ tra tấn. Tư duy khác nhau là điều khó tránh khỏi. Mọi người có những thiên kiến biểu hiện ở dạng lỗi logic vào lúc ít được mong đợi nhất. Lỗi logic là ngụy biện, và chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về chúng trong chương sau. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - • Các lỗi logic bắt nguồn từ thiên kiến cá nhân. • Thiên kiến trong tiền đề của một luận điểm dẫn đến các luận điểm không xác đáng hoặc ngụy biện. • Ngụy biện can thiệp vào kết nối logic giữa các tiên đề và kết luận. • Để tìm ra được các ngụy biện, cần xác định tiên đề sai, kết luận nhầm hoặc đứt gãy logic giữa tiên đề và kết luận. - 4 - XÁC ĐỊNH CÁC LỖI LOGIC “HÌNH THỨC” Nhìn chung, sự thật không chỉ đơn thuần là một cuộc chiến khốc liệt với sự ngu dốt và ngụy biện, mà trước hết, đó là cuộc đấu với những ý tưởng và quan niệm đầy định kiến của chính chúng ta.” – Erik Pevernagie, Những câu trích dẫn và những bức họa cuộc sống (2007) ¹⁸ Sự thật là gì? Đó là câu hỏi đóng vai trò tâm điểm trong mọi truy vấn triết học, và không phải lúc nào chúng ta cũng có thể dễ dàng đưa ra câu trả lời. Chúng ta tự tạo ra cách nhìn nhận thế giới, và để biết được sự thật, chúng ta chỉ còn cách vượt qua những quan niệm sai lầm của chính mình bằng cách dựa vào các quy tắc logic. Tâm trí của chúng ta thường diễn giải môi trường xung quanh dựa theo các phép phỏng đoán – các quy tắc ngón tay cáii, một suy đoán đầy đủ thông tin, hoặc thử và sai – mà bỏ qua hoặc rút ngắn quá trình tư duy logic. Những hành động này dẫn đến các lỗi lập luận lặp đi lặp lại mà chúng ta gọi là ngụy biện. Có năm loại ngụy biện cơ bản sau: Chú thích: i. Nguyên tắc không hướng đến sự chính xác trong mọi tình huống KHẲNG ĐỊNH HẬU KIỆN (MODUS PONENS) Sai lầm về lập luận kiểu này là một ngụy biện logic mang tên khẳng định hậu kiện. Dựa trên kết quả hoặc hậu quả, nguyên nhân rõ ràng nhất được cho là đúng mà không xét đến các nguyên nhân tiềm năng khác.¹⁹ Nó có dạng: “Nếu P, thì Q. Q. Do đó, P.” • Nếu bạn bất cẩn khi lái xe, chiếc xe có thể bị xây xước. • Chiếc xe bị xây xước. • Do đó, bạn đã bất cẩn khi lái xe. Nhiều cặp vợ chồng đã cãi nhau về lập luận này. Ngụy biện nằm ở chỗ ta dựa trên kết quả để rút ra kết luận chắc chắn về nguyên nhân. Khi một số nguyên nhân mang tính khả thi, tâm trí của chúng ta thường tập trung vào nguyên nhân rõ ràng nhất. Chiếc ô tô bị xây xước có thể đã va chạm với một vật thể chuyển động, chẳng hạn như một chiếc ô tô khác, mà không phải do tài xế bất cẩn. • Nếu John ném bóng vào nhà, cửa sổ sẽ bị vỡ. • Một chiếc cửa sổ bị vỡ. • Do đó, John hẳn đã ném bóng vào nhà. Cửa sổ vỡ có thể do nhiều nguyên nhân khác nữa ngoài việc John ném bóng vào nhà. Người thợ sửa chữa có thể tính toán nhầm lẫn và để trượt thang vào cửa sổ. Hoặc cũng có khả năng Jill là người ném bóng chứ không phải John. Trẻ em, công nhân hoặc những người lao động cấp thấp khác thường bị đổ lỗi một cách bất công cho những sai phạm, để rồi sau đó được chứng minh là vô tội trước sự dè bỉu của người tố cáo. Liệu có ngoại lệ nào với quy tắc cho rằng mô thức đó góp phần tạo nên một ngụy biện hay không? Điều gì sẽ xảy ra nếu hậu quả chỉ có thể bắt nguồn từ một nguyên nhân? • Nếu có khí độc gây chết người tích tụ trong mỏ, nó sẽ giết chết chim hoàng yến. • Chim hoàng yến bị chết. • Do đó, trong mỏ có tích tụ khí độc. Từ năm 1911 đến năm 1986, công nhân mỏ đã sử dụng chim hoàng yến ở các mỏ than để phát hiện ra carbon monoxide và những loại khí độc hại khác. Nói một cách chính xác, chim hoàng yến có thể chết vì nhiều nguyên nhân khác như tuổi tác hoặc bệnh tật. Tuy nhiên, thử nghiệm có thể đúng nếu các công nhân mỏ mang theo những con chim hoàng yến khỏe mạnh để giảm thiểu các nguy cơ khác. Thật đáng mừng, cho cả công nhân mỏ và loài chim hoàng yến, máy dò kỹ thuật số đã ra đời và thay thế vai trò của loài chim này vào năm 1985.²⁰ Ví dụ này cho thấy rằng khi một hậu quả chỉ có thể xuất phát từ một nguyên nhân, việc khẳng định hậu quả đó không phải là ngụy biện. PHỦ ĐỊNH TIỀN KIỆN (MODUS TOLLENS) Ngụy biện này còn được gọi là ngụy biện đảo ngược, hay lỗi đảo ngược. Phủ định tiền kiện là một ngụy biện hình thức, trong đó điều được suy ra ngược lại với phát biểu ban đầu. Điều này không hợp lệ bởi phủ định tiền kiện không nhất thiết có nghĩa là phủ định hậu kiện.¹⁹ Dạng của nó là: “Nếu P, thì Q. Nếu không P, thì không Q.” • Nếu Mario là một tay golf chuyên nghiệp, thì anh ấy cũng giỏi chơi các môn thể thao. • Nhưng Mario không phải là một tay golf chuyên nghiệp. • Do đó, anh ấy không giỏi chơi các môn thể thao. Sai sót của lập luận này là kết luận cho rằng Mario không giỏi chơi thể thao chỉ vì anh ấy không phải là một tay golf chuyên nghiệp. Không phải ai chơi giỏi thể thao cũng là dân chuyên nghiệp vì một số người có thể chơi thể thao như một sở thích chứ không phải một nghề nghiệp. Mario thậm chí có thể không giỏi chơi golf, nhưng anh ấy có thể giỏi các môn thể thao khác – quần vợt, quyền anh, thể thao video – điều đó có nghĩa là anh ấy giỏi chơi thể thao. • Nếu uống một thìa cà phê dầu dừa nguyên chất mỗi ngày, bạn sẽ duy trì được sức khỏe. • Bạn không uống dầu dừa nguyên chất. • Bạn sẽ không còn khỏe mạnh. Khỏe mạnh có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như tập thể dục lành mạnh, nghỉ ngơi đầy đủ và có một chế độ ăn uống hợp lý. Dù dầu dừa nguyên chất có thể góp phần làm nên sự khỏe mạnh của một người, nhưng không dùng nó không có nghĩa là bạn sẽ không khỏe mạnh. Một lần nữa, hãy cẩn trọng khi xác định xem liệu việc loại trừ tiền kiện có thực sự dẫn đến loại trừ hậu kiện hay không. Lấy trường hợp sau làm ví dụ. • Nếu Zoe tốt nghiệp trung học năm nay, thì cô bé có thể vào đại học vào năm sau. • Zoe không tốt nghiệp trung học năm nay. • Do đó, Zoe không thể vào đại học vào năm sau. Trong khi lập luận này tuân theo mô thức modus tollens, tiền kiện (tốt nghiệp trung học) là một điều kiện tất yếu cho hậu kiện (học đại học vào năm sau). Thiếu bằng tốt nghiệp trung học sẽ khiến Zoe không đủ tiêu chuẩn để vào đại học. KHẲNG ĐỊNH RỜI RẠC Một tên gọi khác của loại ngụy biện này là phép tuyển loại trừ sai. Tuyển (disjunct) chỉ một trong các thuật ngữ của mệnh đề tuyển, thứ loại trừ thuật ngữ này khỏi thuật ngữ khác. Ngụy biện khẳng định rời rạc liên quan đến việc khẳng định một trong hai thứ tách rời nhau, sau đó phủ nhận thứ kia. Ngụy biện nằm ở giả định cho rằng vì một vế sai nên cái còn lại là đúng. Từ “hoặc” mang tính bao hàm, cho phép một hoặc cả hai thứ đều đúng.²¹ Ngụy biện này có dạng: “A hoặc B. A. Do đó, không phải B.” • Để nhận được học bổng, một người phải thông minh hoặc giỏi thể thao. • Andrew nhận được học bổng thể thao. • Do đó, Andrew không thông minh. Tiên đề đầu tiên liệt kê hai cách để nhận được học bổng. Andrew giỏi thể thao nên anh ấy giành được học bổng thể thao. Dù đúng là anh ấy không giành được học bổng học tập, nhưng điều này không có nghĩa là anh ấy không thông minh. Giỏi thể thao không loại trừ khả năng thông minh. • Celia thích một con chó con hoặc một con mèo con. • Celia rất yêu con chó con mà cô bé nhận được. • Điều đó có nghĩa là cô bé sẽ không yêu mèo con. Ngụ ý trong ví dụ này là tình cảm của Celia đối với động vật nói chung và rằng cô bé sẽ thích một con chó con hoặc một con mèo con, bất cứ con nào mà cô bé nhận được. Celia nhận được một con chó và rất yêu nó. Tuy nhiên, nói rằng cô bé sẽ không yêu con mèo con – hoặc cả hai con vật cưng nếu cô bé nhận được cả hai – là không đúng. Tuyển là một phát biểu “một trong hai hoặc” ngụ ý về nhu cầu lựa chọn. Tuy nhiên, có hai loại tuyển. Tuyển mang tính bao hàm hoặc yếu cho phép chọn một hoặc cả hai (cái này hoặc cái kia) trong số các lựa chọn thay thế. Tuyển mang tính loại trừ hoặc mạnh chấp nhận một lựa chọn duy nhất và việc lựa chọn một phương án thay thế buộc ta phải loại trừ phương án kia. • Trong phim, Chris vào vai Thor hoặc Loki. • Chris sẽ vào vai Thor. • Do đó, Chris sẽ không đóng vai Loki. Tuyển loại trừ hoặc mạnh không tạo ra ngụy biện khi khẳng định phép tuyển, bởi trong trường hợp này, khẳng định phép tuyển này sẽ loại trừ phương án còn lại. Một tuyển mang tính bao hàm hay loại trừ đều được ngụ ý bởi bản chất của tình huống tuyển. Celia có thể yêu cả hai con vật cưng, nhưng Chris không thể vào hai vai chính trong cùng một bộ phim (giả sử đó là một bộ phim thông thường và không sử dụng các hiệu ứng kỹ thuật số đặc biệt). PHỦ ĐỊNH KẾT HỢP Nếu một tuyển là một thuật ngữ tách rời so với thuật ngữ khác thì hội (conjunct) là một thuật ngữ kết hợp với một hội khác cùng cấp. Ngụy biện này bao gồm việc tuyên bố, trong tiên đề thứ hai, rằng một trong các hội là sai, vì thế kết luận còn lại là đúng. Ngụy biện nằm ở việc giả định rằng phủ định một trong các hội đồng nghĩa với việc khẳng định hội còn lại khi mà về mặt logic có thể phủ định cả hai.²² Ngụy biện này có hai dạng: Dạng 1: Không phải cả P và Q. Không P. Do đó, Q. Dạng 2: Không phải cả P và Q. Không phải Q. Do đó, P. Ví dụ: • Anthony không vừa theo đạo Công giáo vừa theo chủ nghĩa vô thần. • Anthony không theo đạo Công giáo. • Do đó, anh ấy là một người vô thần. Thật vậy, người Công giáo (một nhóm người tin vào Chúa) không phải là người vô thần (những người không tin vào Chúa), và ngược lại. Nhưng có những nhóm khác không theo Công giáo và vẫn tin vào Chúa, nên họ không phải là người vô thần. Anthony có thể là thành viên của một giáo phái Cơ đốc giáo khác hoặc một Phật tử, hoặc đạo Hồi hay đạo Hindu. Anh ấy có thể tin vào Chúa nhưng không bị ràng buộc. Có những lựa chọn thay thế khác ngoài việc là người vô thần. • Trong giải đấu, các thành viên trong cùng một gia đình không thể tham gia cả trò chơi bóng rổ lẫn bóng đá. • Nhà Jones không chơi bóng rổ. • Do đó, nhà Jones sẽ chơi bóng đá. Ngụy biện của lập luận này nằm ở khả năng nhà Jones không cần phải chọn trong hai môn thi này. Họ có thể chọn môn khác, hoặc thậm chí không tham gia trò chơi nào cả. Sự kết hợp không loại trừ khả năng này. Ngược lại, các dạng hợp lệ của lập luận kết hợp này có thể sửa chữa lỗi logic này và đập tan ngụy biện. Dưới đây là các dạng thay thế: Dạng 1: Không phải cả P và Q. P. Do đó, không phải Q. Dạng 2: Không phải cả P và Q. Q. Do đó, không P. Vì vậy, dạng hợp lệ cho các lập luận kết hợp này là: • Anthony không vừa theo đạo Công giáo vừa theo chủ nghĩa vô thần. • Anthony là một người Công giáo. • Do đó, anh ấy không phải là người vô thần. • Trong giải đấu, các thành viên trong cùng một gia đình không thể vừa chơi bóng rổ vừa chơi bóng đá. • Gia đình Jones chơi bóng rổ. • Do đó, gia đình Jones sẽ không chơi bóng đá. Lập luận kết hợp và phủ định kết hợp có các dạng thức tương tự nhau, vì vậy người ta thường nhầm hai loại này. Điểm khác biệt của chúng nằm ở tiên đề thứ hai, mang tính phủ định trong phủ định kết hợp và mang tính khẳng định trong lập luận kết hợp. Phủ định kết hợp là ngụy biện và do đó không hợp lệ, trong khi lập luận kết hợp là hợp lệ và do đó không phải là ngụy biện. TRUNG GIAN KHÔNG PHÂN TÁN (NON DISTRIBUTIO MEDII) Đây là ngụy biện luận tam đoạn bởi nó là dạng lập luận phân đoạn. • Tất cả A là B. • Tất cả B là C. • Do đó, tất cả A là C. Cấu trúc có hai tiên đề riêng biệt nhưng có liên quan với nhau, theo sau là một kết luận bao gồm lập luận diễn dịch. Thuật ngữ trung gian là thuật ngữ bao gồm trong cả hai luận tam đoạn. Hãy lưu ý rằng cấu trúc luận tam đoạn cơ bản bao gồm một lập luận hợp lệ, bởi miễn là các tính từ được sử dụng phù hợp, thì nó xác đáng về mặt logic. Khi việc sử dụng thuật ngữ trung gian trong lập luận bao gồm mọi thành viên cùng tầng lớp, thì thuật ngữ trung gian được cho là được phân loại. Nếu thuật ngữ chỉ đề cập đến một số thành viên cùng tầng lớp, thì nó không được phân loại. Quy tắc logic yêu cầu thuật ngữ trung gian nên được phân loại trong ít nhất một trong hai tiên đề để đảm bảo luận tam đoạn.²⁰ Ngụy biện trung gian không phân loại là khi thuật ngữ trung gian (thuật ngữ chung trong cả hai tiên đề) không được phân loại trong cả hai tiền đề. Nó có dạng: “Tất cả Z là B. Tất cả Y là B. Do đó, tất cả Y là Z.” B, thuật ngữ trung gian, không được phân loại ở cả hai tiên đề. Sau đây là một ví dụ về dạng ngụy biện này. • Tất cả côn trùng là động vật. • Tất cả động vật có vú là động vật. • Do đó, tất cả động vật có vú đều là côn trùng. Thuật ngữ trung gian, động vật, bao gồm cả côn trùng và động vật có vú cũng như nhiều nhóm khác. Lỗi logic rất rõ ràng: côn trùng và động vật có vú là các phân đoạn khác nhau và loại trừ nhau, ngay cả khi cả hai đều là động vật. • Tất cả ma cà rồng đều là những kẻ hút máu. • Tất cả muỗi cái đều là những kẻ hút máu. • Do đó, tất cả ma cà rồng đều là muỗi cái. Sự vô lý của việc Bá tước Dracula biến thành một con côn trùng đẻ trứng vo ve chính là điểm nổi bật cho thấy sự ngụy biện của phát biểu này. Một kịch bản trong thế giới thực trong đó ngụy biện của trung gian không phân loại không hợp lệ về mặt logic là các vụ kiện.²³ Một câu hỏi đặt ra trong một vụ án là liệu “tàu chạy sông” có phải đăng ký là “thuyền máy” hay không. Lập luận của Cục Phương tiện Cơ giới là: • Tàu chạy sông là tàu thủy. • Thuyền máy là tàu thủy. • Vì vậy, tàu chạy sông là thuyền máy và phải đăng ký. Thuật ngữ trung gian trong lập luận tam đoạn là tàu thủy. Tòa án đã ra phán quyết bác bỏ lập luận này, và tàu chạy sông được miễn đăng ký. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - CÁC BƯỚC HÀNH ĐỘNG Các ngụy biện hình thức liên quan đến sự yếu kém trong dạng thức hoặc cấu trúc của một lập luận hơn là việc liệu kết luận có đúng hay không. Dưới đây là năm ngụy biện hình thức, hãy xác định từng loại ngụy biện trong số đó. Hãy cố gắng hết sức trước khi xem đáp án ở cuối chương này. 1. Tất cả lái xe đều có giấy phép, cũng như tất cả các bác sĩ đều có giấy phép hành nghề. Điều đó có nghĩa tất cả lái xe đều là bác sĩ! 2. Nếu Elmer mua một chiếc xe hơi mới, mấy cô nàng xinh đẹp sẽ chết mê anh ấy. Nhưng anh ấy đã mua một chiếc xe cũ, đó là lý do tại sao phụ nữ không thích anh ấy. 3. Sally có thể chơi piano hoặc violin. Cô ấy đã chọn chơi piano, vì vậy cô ấy không thể chơi violin. 4. Anh sẽ bị trượt kỳ thi nếu không chuẩn bị tốt. Anh đã trượt kỳ thi, điều đó có nghĩa là anh đã không chuẩn bị TẢI THÊM SÁCH Giải Phóng Sức Mạnh Tư duy phản Biện Tất cả chúng ta đều học tư duy phản biện ở trường học và đại học, nhưng chúng ta có... Rèn Luyện Thói Quen Tư duy phản Biện Cuốn sách tập trung vào việc phát triển thói quen tư duy phản biện trong mọi khía cạnh của cuộc... Tư duy phản Biện – Từ Làm Quen Đến Thói Quen Cuốn sách cung cấp những nội dung sau: • Khung tư duy phản biện được phát triển bởi hai trong... - 5 - CÁC LỖI LOGIC PHI HÌNH THỨC MÀ CHÚNG TA TRẢI NGHIỆM MỖI NGÀY “Mẹ ơi, giới tính là gì?” Các bậc cha mẹ nhất định sẽ nhận được câu hỏi này từ con cái của họ vào một thời điểm nào đó, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ nhận được câu hỏi này từ đứa con trai năm tuổi của tôi, Cedric, vào ngày đầu tiên thằng bé đến lớp mẫu giáo về. Tự nhắc mình sẽ nói chuyện với giáo viên của thằng bé khi có cơ hội, tôi bế Cedric trên lòng, thở dài, và bắt đầu cuộc trò chuyện chim-bướm đáng lý ra là dành cho đám thiếu niên dậy thì. Khi tôi ngừng lời, thằng bé tỏ vẻ khó hiểu. “Được rồi mẹ,” rồi thằng bé giơ tấm thẻ đang cầm trong tay lên. “Nhưng làm sao con ghi được hết những điều đó vào tấm thẻ này? Cô giáo con bảo chúng ta nên tự điền. Con đã ghi tên và tuổi rồi. Nhưng ô giới tính thì bé lắm. Con nên viết cái gì đây?” “À... Con chỉ cần viết ‘Nam’”. Thằng bé quên luôn cuộc nói chuyện của chúng tôi ngay khi điền xong tấm thẻ, chà, thật nhẹ nhõm. Những lúc như thế, tôi luôn nhắc nhở bản thân và hứa sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm tương tự. Tuy nhiên, cho dù chúng ta có quyết tâm nghiêm khắc hơn với tâm trí của mình đi nữa, thì cũng không thể tránh khỏi một trăm lẻ một sai lầm mắc phải mỗi ngày. Chúng ta không thể ngăn cản điều đó; lời nói của chúng ta bò như ốc sên trong khi ý tưởng lại lao vút như chim đại bàng. NGỤY BIỆN PHI HÌNH THỨC Trong Chương 4, chúng ta đã gặp những ngụy biện hình thức. Đó là các lỗi tư duy logic liên quan đến những sai sót trong mô hình lập luận và mối quan hệ giữa các tiên đề và kết luận. Tuy nhiên, một số ngụy biện không liên quan đến cấu trúc hình thức mà là những lỗi logic chúng ta mắc phải hằng ngày liên quan đến lập luận không xác đáng. Ngụy biện phi hình thức không chỉ dừng lại ở câu từ mà thậm chí còn là những lỗi logic. Những sai sót logic gây ra ngụy biện đôi khi xuất phát từ ý định sai lầm, sự không nhất quán, sự không phù hợp và không đầy đủ. Thông thường, chúng xuất hiện do những quan niệm sai lầm đơn giản và sức ép của thói quen. Chúng ta thường xuyên thấy mình mắc phải những sai lầm trong lập luận và phán đoán mà đáng lẽ có thể đoán trước được vì chúng ta đã mắc phải chúng trước đây. TẠI SAO CHÚNG TA CÓ XU HƯỚNG MẮC PHẢI NHỮNG SAI LẦM LOGIC CÓ THỂ ĐOÁN TRƯỚC? Funder²⁴ đề cập đến bản chất xã hội của các lỗi logic và lý do tại sao chúng ta có xu hướng lặp lại chúng khi đối mặt với các tình huống trong thế giới thực dù đã nhận thức được chúng. Trong nghiên cứu thực nghiệm của mình, Funder đã phân biệt “lỗi” với “sai sót”, mô tả lỗi là một phán đoán không chính xác về một tác nhân kích thích thử nghiệm (tức là một tình huống được nghiên cứu riêng lẻ) và sai sót là một đánh giá không chính xác về một tác nhân kích thích trong thế giới thực. Chúng ta có xu hướng coi lỗi là “thiếu sót” về phán đoán, tương đương với mức độ “lập luận tốt” hoặc “đưa ra những quyết định đúng đắn” của con người. Đó là sự sai lệch so với một mô hình, một lý tưởng chuẩn về cách đưa ra phán quyết. Người ta thường vô tình mắc sai lầm. Vào mỗi ngày thứ Sáu đen tối, Sasha lại mua sắm vô tội vạ. Cô ấy chen lấn và vội vàng mua những món hàng đang hết nhanh chóng, chỉ để cuối cùng nhận ra rằng cô ấy thậm chí không cần hoặc không muốn chúng. Mỗi năm, Sasha đều tự nhủ phải quyết tâm tránh xa cái bẫy ngày thứ Sáu đen tối tiếp theo, nhưng năm nào cô cũng quay về điểm xuất phát. Sasha biết mình vẫn bất chấp mua những thứ mình không cần chỉ vì chúng đang được giảm giá, nhưng cô cũng không phải người duy nhất làm vậy. Cô bị cuốn vào dòng chảy điên cuồng, làm những gì mọi người đang làm mà không thực sự nghĩ nhiều. Các nhà bán lẻ thương mại đã khai thác những động lực mua hàng phi lý trí của người tiêu dùng như một phần trong chiến lược tiếp thị của họ. Do đó, một lỗi logic sẽ trở thành một lỗi lặp lại do các điều kiện của thế giới thực tác động. Có những lý do khác lý giải tại sao chúng ta lặp lại các lỗi logic tương tự. Một là mức độ ghi nhớ những thành công và thất bại trong quá khứ, nhưng trí nhớ không giúp chúng ta tránh được sai lầm. Mọi người cảm thấy khó nhớ lại những sai lầm mà họ mắc phải bởi nhớ nhiều sai lầm sẽ khó hơn chỉ một hoặc hai. Việc cố gắng nhớ lại chỉ khiến quá trình tư duy diễn ra chậm hơn, cân nhắc nhiều hơn và có thể dẫn đến mắc nhiều sai lầm hơn.²⁵ Con: “Bố, con có thể đến bữa tiệc của Cecile không?” Bố: “Hãy hỏi mẹ con ấy.” Con: “Mẹ bảo con hỏi bố.” Bố: “Được rồi, chỉ cần con về đúng giờ là được.” Thế rồi đứa trẻ rời đi. Mẹ: “Bernadette đâu rồi anh?” Bố: “Con bé đến bữa tiệc của bạn cùng lớp. Anh đã cho phép con rồi.” Mẹ: “Tại sao? Em chưa cho phép. Vì con bé chưa làm bài tập về nhà.” Im lặng. Mẹ: “Con bé lại lừa anh lần nữa rồi, hả?” Bố: “Ừ anh toàn quên.” Người bố không hoàn toàn có lỗi vì có lẽ con gái anh đã hỏi xin phép anh nhiều lần trước đây nhằm qua mặt người mẹ. Đôi khi việc cho phép là đúng, nhưng có lúc lại không. Cố gắng nhớ lại tất cả những lần vợ anh đồng ý với anh và những lần cô không đồng ý với anh có thể khiến quá trình tư duy diễn ra chậm và khó khăn hơn. Cảm xúc cũng đóng một vai trò trong quá trình phán đoán hoặc ra quyết định của chúng ta. Cảm nhận của chúng ta định hình quá trình ra quyết định, đến mức chúng ta tránh các quyết định đúng về mặt logic nếu chúng gây ra cảm giác tiêu cực và ngược lại.²⁶ Ingrid: “Tôi không bao giờ rút được kinh nghiệm. Đây là lần thứ năm tôi bắt gặp anh ta đi cùng một cô gái khác. Lần nào anh ta cũng cầu xin tôi tha thứ, nói rằng anh ta sẽ thay đổi. Và lần nào tôi cũng tin anh ta.” Stella: “Vậy lần này cô sẽ đá anh ta chứ?” Ingrid: “Tôi không thể. Nếu đây là lần cuối cùng và anh ấy thực sự thay đổi thì sao?” Những lý thuyết như thế này về bối cảnh xã hội, cảm xúc và sự nhớ lại từ từ có ảnh hưởng rất rộng đến việc hình thành cấu trúc tâm lý và cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cơ chế hoạt động của tâm trí. Nó giải thích lý do tại sao chúng ta thường phạm phải những sai lầm logic tương tự như những sai lầm mà chúng ta đã biết là sai lầm. NHỮNG NGỤY BIỆN THƯỜNG GẶP Bạn từng nghe ai nói về gremlin chưa? Trong văn hóa dân gian thuở đầu của Anh, chúng là những sinh vật nhỏ tinh nghịch với phần lưng nhô nhọn, mắt to, răng sắc nhọn và móng vuốt. Chúng khiến máy bay và các loại máy móc khác gặp trục trặc theo cách khiến các thợ máy hoang mang. Chúng xuất hiện trong một bộ phim Mỹ vào năm 1984²⁷, nơi những sinh vật nhỏ đáng ghét này được sinh ra từ một con vật lông tơ nhỏ đáng yêu được gọi là mogwai. Mọi người đều nói: “Làm sao những con quái vật xấu xí như vậy lại có thể được sinh ra từ một thứ dễ thương như kia?” Những ngụy biện phi hình thức cũng giống như các gremlin. Đội lốt những lý do xác đáng, chúng thực sự là những sinh vật nghịch ngợm gây trục trặc trong quá trình tư duy của chúng ta. Trong khi lý trí của chúng ta mất cảnh giác, những con thiên nga đen, những con cá trích đỏ, những người rơm, những con dốc trơn trượt, và một loạt mánh khóe và cạm bẫy được che đậy kỹ lưỡng khác tấn công lý trí của chúng ta để tạo ra những bối rối và nhầm lẫn. Trước khi kịp nhận ra, chúng ta đã đưa ra những kết luận và quyết định sai lầm gây hối tiếc rồi. Chúng ta thường không nhận thức được những lỗi logic phi hình thức mà bản thân mắc phải ngay cả khi chúng ta đang bị nhấm chìm trong chúng. Chúng chủ yếu mang tính vô ý, ngẫu nhiên, song thi thoảng chúng ta thậm chí cố tình sử dụng chúng để giành chiến thắng trong một cuộc tranh cãi bằng cách khiến đối phương bối rối hoặc để biện minh cho một quyết định không xác đáng. Ngụy biện phi hình thức khó xác định hơn ngụy biện hình thức vì, không giống như ngụy biện hình thức, sai lầm logic không trở thành một một kiểu suy nghĩ dễ nhận dạng. Chúng ta thường không nhận thức được những lỗi logic phi hình thức mà bản thân mắc phải ngay cả khi chúng ta đang bị nhấm chìm trong chúng. Có hơn một trăm lỗi logic phi hình thức, nhưng chúng ta sẽ thảo luận về những lỗi thường gặp nhất. Khi xác định được chúng và hiểu rõ chúng tạo nên những lập luận không xác đáng ra sao, chúng ta có thể tránh đưa ra những quyết định sai lầm khi gặp phải chúng. Khái quát hóa vội vàng Khái quát hóa là một phát biểu về một nhóm cho thấy tất cả, một số hoặc một tỷ lệ lớn thành viên của nhóm đều sở hữu một thuộc tính cụ thể. Một khái quát hóa đơn giản có thể là: “Bò cho sữa.” Đây là một sự thật thường được chấp nhận, nhưng sẽ chính xác hơn nếu nói: “Một số con bò cho sữa”, bởi những con bò không mang thai và sinh con sẽ không có sữa. Chu kỳ cho sữa trung bình của bò là ba năm.²⁸ Khái quát hóa là quy tắc chung, được chấp nhận là đúng dù có một số ngoại lệ. Khái quát hóa vội vàng là ngụy biện do thiếu bằng chứng. Trong kiểu ngụy biện này, kết luận được đưa ra dựa trên bằng chứng không đầy đủ hoặc sai lệch, và do đó không chắc chắn về logic. Đôi khi, kết luận dựa trên những giai thoại được nhớ lại một cách mơ hồ. Nó còn được gọi là “ngụy biện mẫu không đủ”. Chuyến hải trình bị hủy hoại do những biến cố và sự kiện không may, kể từ khi người đầu bếp Damien nhập đoàn ở bến cảng cuối cùng. Do đó, họ nghi ngờ rằng Damien đã mang theo vận rủi lên tàu. Trên thực tế, tất cả thủy thủ đoàn đều tin rằng chuyến hải trình qua những vùng biển đầy hiểm nguy này phụ thuộc vào may rủi do tính không chắc chắn của hành trình. Những ý niệm mê tín dị đoan được lấy làm “quy tắc chung” ngay cả khi có rất ít bằng chứng để chứng minh điều đó. Vì vậy, những người ra quyết định lý trí nên đặt chúng sang một bên, ngay cả khi bằng chứng mang tính giai thoại có vẻ đặc biệt thuyết phục. Trong nghiên cứu được định lượng, kết luận có thể liên quan đến những phát hiện được neo vào một mẫu không đại diện hoặc không xác định thay vì một mẫu phù hợp hơn với đa số. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên của trường đại học này gồm 80% nữ. Các thành viên của mẫu khảo sát đến từ ba chương trình: điều dưỡng, phụ nữ với bình đẳng giới, và giáo dục tiểu học. Nếu các nhà nghiên cứu lấy mẫu từ các nhóm mà một thuộc tính (trong trường hợp này là giới tính) chiếm ưu thế, thì nó chưa chắc đã cho thấy vấn đề NẾU kết luận được quy cho chỉ những nhóm đó. Tuy nhiên, nếu kết quả từ một mẫu sai lệch được khái quát hóa cho lượng dân số rộng hơn, thì kết luận đó là sai lệch. Để có được một kết luận đáng tin cậy cho toàn bộ trường đại học trong tình huống trên, mẫu phải bao gồm những người đăng ký học kỹ thuật, khoa học quân sự, chủng viện hoặc các chương trình khác mà nam giới có thể chiếm ưu thế hoặc những chương trình có sự tham gia đồng đều của hai giới. Tất nhiên, bí kíp nằm ở việc thu thập một mẫu đủ để đại diện cho dân số mục tiêu. Một khái quát hóa vội vàng cũng có thể đưa ra một kết luận khái quát từ một tình huống cụ thể hoặc một phần tình huống có bằng chứng hỗ trợ; đây là “ngụy biện về thực tế đơn lẻ”.²⁹ Khi vị giáo sư đang trông thi, điều phối viên của trường đến nói vài lời với ông ở cửa lớp học. Khi quay lại lớp, ông thấy có hai học sinh đang xì xào và cười khúc khích. Ông cho rằng cả lớp đã lợi dụng sự xao nhãng ngắn ngủi của ông và làm trò quay cóp sau lưng ông. Ông đã cho dừng buổi kiểm tra và đánh trượt cả lớp. Tuy nhiên, ngay cả khi kích thước mẫu lớn, thiên kiến này rõ ràng đến mức khiến kết luận được đưa ra không thuyết phục. Đôi khi kết luận được đưa ra cho cả nhóm người dựa trên những quan sát được đưa ra về vài thành viên trong đó. Điều này có thể dẫn đến những phán xét có vẻ phi đạo đức hoặc thậm chí là vu khống. Một nhóm người đi bộ đường dài đang băng qua một ngọn đồi được người dân bản địa coi là vùng đất thiêng. Địa điểm này được nhiều khách du lịch đến thăm tới nỗi người bản xứ trở nên cảnh giác với những du khách đến khu vực này. Khi những người đi bộ đường dài nghỉ chân, một trong số họ đã lén khắc “U.S.A.” trên thân cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Các cư dân bản địa đã phát hiện ra dấu vết vi phạm, và theo kiến nghị của họ, chính quyền địa phương đã cấm tất cả khách du lịch Mỹ vào khu vực này. Trong trường hợp này, hành động của một thành viên trong nhóm được coi là đại diện cho hành động của tất cả. Hậu quả của một hành động duy nhất đã bị gán cho tất cả người Mỹ vì các chữ “U.S.A.” được khắc trên cây. Tình hình trở nên vô lý hơn với khả năng kẻ phạm tội thậm chí có thể không đến từ Hoa Kỳ, điều này khiến việc khái quát hóa trở nên phi lý hơn. Quan trọng là chúng ta đừng vội vàng đưa ra phán xét. Hãy bắt đầu bằng cách tìm các dữ liệu khác về cùng một vấn đề, sau đó cân nhắc xem liệu những dữ liệu này có đủ để lật ngược khái quát hóa đã được đưa ra hay không. Lợi dụng quyền hạn Trong quá trình lập luận, chúng ta cố gắng tìm ra một nền tảng vững chắc, ngoài suy nghĩ của bản thân, để củng cố các tiên đề của mình. Cho dù đó là các cá nhân, thể chế hay văn bản thuần túy, người có quyền đều là nguồn chứng thực hoặc mâu thuẫn mạnh mẽ với những giả định của chúng ta. Nhưng sự ỷ lại vào quyền lực, nếu không được thiết lập đúng cách, có thể trở thành một ngụy biện bẫy những kẻ không cẩn thận. Trong ngụy biện lợi dụng quyền hạn, lập luận phải đúng vì một chuyên gia được viện dẫn về vấn đề khẳng định điều đó là đúng. Đây cũng được gọi là ngụy biện lợi dụng quyền hạn giả. • Will khuyên chúng tôi nên mang theo hoa khi đến thăm mẹ chồng người Đức của con gái chúng tôi lần đầu tiên. Will đã đến Đức một lần, và anh đã kết hôn rồi ly hôn năm lần, vì vậy anh ấy hẳn phải biết nhiều về các bà mẹ chồng người Đức. • Ramon luôn sử dụng Axe Body Spray. Nếu nó được Ben Affleck khuyên dùng, thì Ramon cũng thấy đó là một lựa chọn hợp lý. • Madame Esperanza, một thầy bói, cho rằng vị trí xếp hàng của các hành tinh trong năm nay sẽ mang lại vận may hoặc vận rủi, tùy thuộc vào cung hoàng đạo của bạn. Ba người có uy tín trong những ví dụ này là Will (không phải người Đức), nam diễn viên Ben Affleck, và thầy bói Madame Esperanza. Rõ ràng, những phát biểu thể hiện uy tín của họ không hề mạnh mẽ. Will dựa vào kiến thức có sẵn, Ben Affleck là một người quảng cáo trả tiền, và Madame Esperanza đưa ra những nhận định về các bí ẩn mà không kèm giải thích cụ thể hay có cơ sở. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu tại sao họ lại có giả quyền. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chuyến thăm duy nhất của Will đến Đức đã được mười năm, các thành viên câu lạc bộ người hâm mộ toàn cầu của Ben Affleck nhất trí rằng anh ấy có vẻ chân thành, và Madame Esperanza là chủ tịch quốc gia của tổ chức Ngoại cảm Mỹ, người đã tình cờ xác thực dự đoán của bà dựa trên kiến thức của họ về nghệ thuật thần bí? Giả sử tất cả các bên đều đồng ý rằng người được trích dẫn là nguồn thông tin uy tín thực sự về chủ đề của cuộc thảo luận. Trong trường hợp đó, lập luận này không phải là ngụy biện đối với các bên liên quan, mà là một lập luận quy nạp – tức là một lập luận không hợp lệ hoặc hợp lệ, xác đáng hoặc không xác đáng. Nó có thể yếu hoặc mạnh, thuyết phục hoặc không. Tuy nhiên, trong tai mắt của những người tin tưởng, đó là một lập luận thừa nhận một khả năng nào đó vì nó đến từ nguồn thông tin uy tín mà tất cả họ cùng nhau công nhận. • Theo chuyên gia phong thủy, việc bố trí cửa trước và cửa sau của một căn nhà hoặc cơ sở kinh doanh thông nhau sẽ mang lại xui xẻo. Dòng năng lượng tích cực sẽ đi vào từ cửa trước và nhanh chóng thoát ra ở lối cửa sau mà không đọng lại hay di chuyển xung quanh ngôi nhà hoặc nơi làm việc. • Niên giám Nông nghiệp, bán được bốn triệu bản mỗi năm,³⁰ cho biết trời sẽ nắng và mát mẻ từ ngày mùng 5 đến ngày 10 tháng 11, nhưng từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 2, sẽ có tuyết rơi dày ở một số nơi gần bờ biển phía đông. Các cá nhân và cơ sở kinh doanh truyền thống của Trung Quốc đều tham khảo ý kiến chuyên gia phong thủy trước khi đưa ra các quyết định lớn. Cũng không thể phủ nhận Niên giám Nông nghiệp, ra đời vào năm 1792,³¹ vẫn tiếp tục đưa ra lời khuyên trực tuyến cho tất cả nông dân và người làm vườn.³² Phần tiếp theo sẽ thảo luận về sự tương đồng giữa các loại lập luận này và các loại lợi dụng uy tín. Có hai trường hợp về ngụy biện lợi dụng quyền hạn. LỢI DỤNG CẢM XÚC Ngụy biện này còn được biến đến với cái tên ngụy biện thao túng cảm xúc hay ngụy biện lợi dụng cảm xúc, hoặc ngụy biện “chiều theo thị hiếu”. “Thị hiếu” ở đây đề cập đến quần chúng nói chung, những người ngây thơ hoặc cả tin và những người dễ bị lay động bởi những câu chuyện đầy cảm xúc. Lập luận chiều theo cảm xúc khác xa với lý trí; mọi người sử dụng loại ngụy biện này khi không có lý do chính đáng để ủng hộ cho phát biểu. Không ngạc nhiên khi ngụy biện lợi dụng cảm xúc bao gồm các quảng cáo thương mại. • Các nhà hàng và khách sạn cao cấp quảng cáo các dịch vụ cho Ngày lễ Tình nhân của họ bằng cách sử dụng hình ảnh một cặp nam thanh nữ tú quấn quýt bên nhau, thưởng thức bữa tối trang nhã dưới ánh nến tại một trong những cơ sở này. • Các tổ chức từ thiện tìm kiếm những gói tài trợ và quyên góp bằng cách tô đậm hoàn cảnh của các gia đình nghèo đói hoặc sự đáng thương của trẻ em đang gặp khó khăn. Có những loại cảm xúc cụ thể mà ngụy biện có thể lợi dụng. Có năm loại ngụy biện lợi dụng cảm xúc thường dùng. Lợi dụng sự thương hại “Làm ơn cho em tham dự lễ tốt nghiệp đi, hiệu trưởng Smith, làm ơn! Gia đình em đã đến đây rồi, cả những người thân của em ở nước ngoài nữa, vì họ nghĩ rằng em đã vượt qua kỳ thi! Tất cả đều đã ăn diện tuyệt đẹp! Thầy nỡ lòng làm tan nát trái tim họ ư?” Thầy hiệu trưởng Smith không nên cho phép một sinh viên không xứng đáng tốt nghiệp vì như thế là vi phạm các quy tắc. Nếu tỏ ra thương hại, ông đang lợi dụng quyền hạn và công khai trao bằng cho một sinh viên không xứng đáng, tiếp đến là làm tổn hại đến danh tiếng của trường. Lợi dụng nỗi sợ hãi Đặt hàng trực tuyến có thể rất nguy hiểm. Roy dùng thẻ tín dụng của mình để đặt hàng trực tuyến, và sau hai ngày, anh phát hiện ra rằng mọi tài khoản của mình đã bị hack! Tốt hơn hãy mua hàng trực tiếp và thanh toán bằng tiền mặt. Đặt hàng trực tuyến có thể an toàn nhưng phải đi kèm với các biện pháp phòng ngừa thích hợp bằng cách sử dụng dịch vụ của bên thanh toán thứ ba. Mua hàng trực tiếp cũng có nhiều lợi thế, song đây là những cân nhắc hợp lý không liên quan gì đến nỗi sợ gian lận tín dụng. Các con, tốt hơn hết là con nên ăn sạch đồ ăn trên đĩa. Khi các con chết đi, linh hồn của các con sẽ trở lại để nhặt nhạnh từng hạt cơm mà các con từng bỏ lại đấy. Đôi khi nỗi sợ hãi là hệ quả của việc bất tuân luật bất thành văn gây ra. Điều này đặc biệt hiệu quả khi khiến trẻ sợ hãi làm theo vì chúng thường không thắc mắc về tính logic của điều đó. Ngụy biện tội lỗi theo số đông Các thành viên của bồi thẩm đoàn, bị cáo, là người Hồng Kông và có thể là thành viên của Hội Tam Hoàng 14-K, tổ chức buôn bán ma túy lớn nhất trên thế giới có nguồn gốc từ Hồng Kông. Không phải tất cả công dân Hồng Kông đều là thành viên của Hội Tam Hoàng, cũng như không phải tất cả người Mexico đều là thành viên MS-13 và không phải tất cả người Nhật đều là thành viên của Yakuza. Cảm giác tội lỗi nên gắn liền với tội lỗi thực sự chứ không phải do tưởng tượng. Lợi dụng lòng trung thành nhóm Juliet, với tư cách là thành viên của hội nữ sinh Alpha-Gamma-Phi, cô bị cấm kết bạn với Romeo vì anh ta thuộc hội anh em Sigma-Theta-Omega, những kẻ thù truyền kiếp của họ. Juliet có thể thoải mái kết bạn với Romeo nếu cô muốn, trừ khi cô ấy là trẻ vị thành niên và có những lo ngại thực sự dẫn đến việc phải cấm cô có những mối quan hệ bạn bè như vậy (chẳng hạn như Romeo có tiền án tiền sự). Lòng trung thành nhóm không nên hạn chế quyền quyết định về các vấn đề cá nhân của một người. Lợi dụng sự xấu hổ Alejandro, cậu là con trai của chánh án và là cháu trai của tác giả bộ luật nhân quyền của nước chúng ta. Nhưng cậu lại trượt năm đầu tiên ở trường luật! Các đồng nghiệp của bố cậu sẽ nghĩ gì? Những người cùng ngành với ông ấy sẽ nghĩ gì? Alejandro có thể nói với cha mẹ mình rằng cậu không muốn trở thành luật sư, thay vào đó cậu muốn theo đuổi niềm đam mê âm nhạc và nghệ thuật. Năm lập luận trên có thể khá thuyết phục đối với những người đưa ra quyết định dựa trên các phản ứng tức thời khi đối mặt vấn đề. Khi dành quá nhiều cảm xúc cho một tình huống tiến thoái lưỡng nan, một người có thể đưa ra quyết định thiên về việc nhanh chóng xoa dịu sự khó chịu mà cá nhân họ đang phải đối mặt, ngay cả khi quyết định đó không được suy nghĩ thấu đáo. Nếu muốn hạn chế những hối tiếc trong tương lai, hãy nhìn lại những phản ứng ngắn hạn bằng cách suy nghĩ thấu đáo về vấn đề. Khi rơi vào một cuộc tranh luận gây ra những phản ứng cảm xúc sâu sắc, cách tốt nhất là đừng quyết định ngay, mà hãy dành thời gian để bình tĩnh và suy nghĩ kỹ càng. Ngoài ra, hãy nhớ rằng bất chấp ngụy biện đó, phát biểu vẫn có thể đúng nếu đi kèm dẫn chứng cụ thể, vì vậy hãy duy trì một tâm thế cởi mở. Quan trọng là đừng đưa ra quyết định chỉ dựa trên cảm tính mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài gây ra hối tiếc về sau. Hãy quyết định dựa trên logic thay vì bốc đồng. LỢI DỤNG SỰ THIẾU HIỂU BIẾT Trong lập luận, một số người đưa ra phát biểu khi không có bất cứ bằng chứng nào bác bỏ nó. Khi một lập luận cho rằng có điều gì đó đúng hoặc sai do không có bằng chứng, thì đây là ngụy biện lợi dụng sự thiếu hiểu biết.³⁹ Nó được coi là ngụy biện vì không có bằng chứng đồng nghĩa với không có gì, do đó kết luận khẳng định một điều gì đó là vô lý. Hãy lấy luận điểm thường gặp sau đây làm ví dụ. Có ai có thể xác nhận về nơi anh đã ở vào đêm xảy ra vụ án hay không? Nếu anh không có chứng cứ ngoại phạm thì nghĩa là anh có tội. Trong các chương trình truyền hình về điều tra, đôi khi người ta nhấn mạnh quá nhiều vào chứng cứ ngoại phạm của nghi phạm. Nếu anh ta không thể đưa ra chứng cứ khách quan cho thấy anh ta đã ở một nơi khác vào thời điểm đó, các nhà điều tra tội phạm sẽ coi anh ta là có tội. Nhưng không phải vậy, ngay cả theo các thủ tục thực thi pháp luật mà các chương trình cố gắng mô phỏng. Chúng ta hẳn đã có cớ để tin rằng mình có thể bị kết tội vì không có bằng chứng ngoại phạm. Nếu không có bằng chứng xác thực ngoài một nghi ngờ hợp lý, một người không thể bị kết tội chỉ dựa trên sự nghi ngờ đơn thuần. Giáo viên của con nghĩ con đã gian lận trong kỳ thi cuối kỳ. Hãy chứng minh cho bố mẹ thấy con không gian lận, nếu không con sẽ bị đình chỉ đấy. Chúng ta không thể chứng minh một mệnh đề phủ định. Bạn chỉ có thể chứng minh khả năng bạn không thể gian lận – chẳng hạn như bỏ trắng bài kiểm tra. Không có bằng chứng nào cho thấy sự sống thông minh tồn tại trên các hành tinh khác. Vì vậy, Trái đất là hành tinh duy nhất có sự sống thông minh. Việc không có bằng chứng chứng minh luận điểm trên chỉ đơn giản có nghĩa là chúng ta chưa có được bằng chứng chứng minh điều đó. Đây cũng là tình huống tiến thoái lưỡng nan tương tự như cây đổ giữa rừng khi không có ai ở đủ gần để có thể nghe thấy. Thực tế rằng không ai nghe thấy vụ đổ cây không có nghĩa là không có tiếng ồn. Không có bằng chứng khoa học về kiếp sau. Do đó, không có chuyện có kiếp sau. Bằng chứng có nhiều dạng, tùy thuộc vào định hướng của các bên tham gia thảo luận. Bằng chứng khoa học chỉ cách tiếp cận theo chủ nghĩa thực chứng, đòi hỏi bằng chứng được quan sát bằng năm giác quan và phân tích bằng phương pháp khoa học. Tuy nhiên, cách tiếp cận theo chủ nghĩa diễn giải hoặc kiến tạo cho phép những bằng chứng sử dụng diễn giải hoặc xây dựng mang tính chủ quan của người quan sát về trải nghiệm của họ. Một kết luận được đưa ra dựa trên phương pháp bằng chứng có thể không giống kết luận đạt được theo một phương pháp khác, do đó, cần xem xét người nghe diễn giải bằng chứng như thế nào. Xét nghiệm DNA không có sẵn ở vùng xa xôi hẻo lánh này, vì vậy Sally không thể chứng minh John là cha của con cô. Do đó, John không phải là cha đứa con của Sally. Bằng chứng này chỉ cho thấy một trong số các phương pháp, dẫu nó mang tính chính xác và chắc chắn nhất. Tuy nhiên, việc không thể thực hiện xét nghiệm ADN không phải là lý do để loại trừ quan hệ cha con. Tất nhiên, cũng không phải là lý do biện minh cho phán quyết có lợi cho mình. Vấn đề chỉ đơn giản là trong trường hợp này, chúng ta không thể đưa ra kết luận. Ngụy biện lợi dụng sự thiếu hiểu biết xuất hiện chỉ khi việc thiếu bằng chứng vẫn thừa nhận rằng có tồn tại các kết luận khả thi khác. Khả năng có nhiều kết quả xảy ra là một yếu tố quan trọng của ngụy biện lợi dụng sự thiếu hiểu biết. Nhưng nếu các khả năng là hữu hạn và tất cả đều bị loại, ngoại trừ một khả năng, thì khả năng còn lại đó phải đúng. Đây là trường hợp không có bằng chứng được coi là bằng chứng cho phát biểu. Josie nói rằng cô ấy sẽ đợi tôi ở quán Starbucks gần trường cô ấy. Nhưng có hai cửa hàng Starbucks gần đó, một cửa hàng ở Đường số 1 và cửa hàng còn lại ở Đường Main. Josie không ở cửa hàng Starbucks Đường Main, vì vậy chắc hẳn cô ấy đang đợi tôi ở cửa hàng Đường số 1. Josie đã xác nhận rằng cô sẽ có mặt tại một trong hai địa điểm và cô ấy hiện không có mặt tại một trong hai cửa hàng. Vì vậy có thể kết luận Josie đang ở cửa hàng còn lại. Hạt đậu nằm dưới một trong ba cái vỏ. Hai vỏ ở bên trái và bên phải đều không có gì. Do đó, hạt đậu nằm dưới vỏ ở giữa. Trò chơi vỏ sò là một thủ thuật mánh khóe phổ biến nhằm đánh lừa mọi người nghĩ rằng một thứ nọ có thể được đặt dưới một trong ba chiếc vỏ. Sự thật là đây là thủ thuật của người chơi, người đã khéo léo giấu hạt đậu trong tay của mình thay vì đặt nó dưới những chiếc vỏ. Điều này dẫn đến khả năng là có bốn thay vì ba chỗ giấu và sự vắng mặt của hạt đậu trong hai chiếc vỏ trái phải giúp giảm sự lựa chọn xuống còn hai – dưới lớp vỏ ở giữa hoặc trong tay người chơi. Để chắc chắn chiếm ưu thế trong một ngoại lệ ngụy biện lợi dụng sự thiếu hiểu biết, chúng ta phải có niềm tin tích cực cùng sự tiết lộ đầy đủ về mọi khả năng thay thế. Nếu không, ngụy biện vẫn tồn tại. Chỉ có bốn người đàn ông trên hòn đảo này, nhưng Paul, George và Ringo đều bị vô sinh. Do đó, John là cha đứa con của Sally! Ngụ ý trong ví dụ này là Sally phải chưa từng rời đảo. Vì vậy, chỉ có bốn người đàn ông có thể làm cha đứa con của cô. Bằng cách loại trừ ba người, người ta có thể kết luận một cách an toàn rằng John là cha của đứa trẻ ngay cả khi không có xét nghiệm DNA. Nếu không có bằng chứng chứng minh tội lỗi của anh ta, thì anh ta phải được tuyên bố vô tội. Về mặt logic, việc không có bằng chứng cho thấy không thể chứng minh nghi phạm là có tội hay vô tội. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, nếu không có bằng chứng thì mặc nhiên nghi phạm vô tội. Đó là một quy ước pháp lý đảm bảo một người không bị đặt vào tình thế không chắc chắn; do đó, anh ta vô tội hoặc có tội dựa trên sự sẵn có của bằng chứng. Tội danh cáo buộc là nổi dậy có vũ trang. Nhưng không có bằng chứng cho thấy mọi người đã được trang bị vũ khí. Do đó, không có tội phạm. Nghi phạm được cho là vô tội theo luật trừ khi có bằng chứng chứng minh điều ngược lại. Trong luật hình sự, các yếu tố cần thiết của tội trạng được xác định, và nghĩa vụ chứng minh được đặt lên vai của bên đưa ra cáo buộc. Nếu bằng chứng không chứng minh được mọi yếu tố cần thiết cấu thành tội trạng thì coi như không có bằng chứng và bị cáo được coi là vô tội. Trước khi khẳng định về ngụy biện lợi dụng sự thiếu hiểu biết, chúng ta nên đảm bảo rằng sự thiếu vắng bằng chứng sẽ đập tan các khả năng khác hoặc không tồn tại một giả định pháp lý dẫn đến kết luận khi không có bằng chứng. Nếu có các lựa chọn thay thế khác ngoài câu phát biểu mà lập luận đưa ra, chúng ta không cần phải thực hiện các tranh luận dựa trên sự thiếu vắng bằng chứng. NGUỴ BIỆN THIÊN NGA ĐEN Đây là một ngụy biện phát sinh từ xu hướng mọi người phớt lờ bằng chứng đi ngược lại các giả định và niềm tin của họ. Tên của nó bắt nguồn từ niềm tin phổ biến rằng tất cả thiên nga đều có màu lông trắng, do đó, nếu một con là thiên nga, thì con đó phải có lông trắng. Tuy nhiên, niềm tin phổ biến ấy được chứng minh là sai. Một nhà thám hiểm người Hà Lan tên là Willem de Vlamingh đã bắt gặp những con thiên nga đen ở Úc trong một sứ mệnh giải cứu, vì lý do đó thiên nga đen gắn liền với lá cờ của Tây Úc.⁴⁰ Khám phá của ông cũng bác bỏ giả thiết rằng tất cả thiên nga đều có lông màu trắng. Có một giả định mà mọi người đều cho là đúng trong một ngụy biện thiên nga đen, nhưng hóa ra điều đó lại sai. Giả định này là cơ sở cho một quyết định mà người tranh luận nghĩ mình chắc chắn vì sự chắc chắn của giả định (tức là thiên nga trắng). Do đó, lật ngược giả định cũng đồng nghĩa với việc lật ngược tính xác đáng của kết luận. • Các nước nhiệt đới không có mùa đông. • Cần mùa đông để đào tạo được vận động viên cho các môn thể thao mùa đông. • Các nước nhiệt đới không thể đào tạo vận động viên các môn thể thao mùa đông. Hầu hết mọi người sẽ cho rằng các quốc gia ở khu vực nhiệt đới không thể tham dự các môn thể thao mùa đông vì khí hậu ôn hòa của họ. Năm 1992, sân trượt băng đầu tiên ở châu Á được xây dựng tại Philippines. Năm 2014, Michael Martinez đã trở thành vận động viên trượt băng nghệ thuật đầu tiên lớn lên và được đào tạo ở Đông Nam Á đủ điều kiện tham dự Thế vận hội mùa đông. Do đó, ngụy biện nằm ở chỗ cho rằng các quốc gia không có mùa đông không thể đào tạo các vận động viên địa phương để thi đấu bất kỳ môn thể thao mùa đông nào. Chuyến đi Úc của chúng tôi được lên lịch vào tháng 7, vì vậy tôi đã mang theo tất cả quần áo mùa hè, đồ bơi, kem dưỡng da và khăn tắm biển. Quả là một quyết định sai lầm: Mùa đông ở Úc kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8. Luận điểm đề cập đến tháng 7, ở Hoa Kỳ đang là mùa hè. Một số người Mỹ có thể cho rằng một quốc gia nào đó có mùa tương tự mà không nhận ra chúng thực sự bị đảo ngược đối với các quốc gia ở Nam bán cầu. Các luận điểm trên phản ánh những hình ảnh tư duy sai lầm phổ biến mà nhiều người có về các cá nhân hay sự vật sự việc. Những liên tưởng nhầm lẫn này phần nhiều là do một tư duy theo thói quen chứ không phải do thành kiến. Ngụy biện thiên nga đen cũng có thể là do niềm tin rằng thứ mà một người chưa từng chứng kiến sẽ không thể tồn tại. Các nhà triết học coi việc khám phá ra thiên nga đen như một phép ẩn dụ cho việc khám phá ra rằng điều mà một người nghĩ là không thể lại có thể xảy ra.⁴¹ Hãy xem xét hai câu chuyện có thực sau đây về những điều tưởng chừng không thể lại hoàn toàn có thể xảy ra. Bà của Arnold hỏi xem cậu có có muốn đi du lịch cùng họ không. Bà nói: “Nếu cháu đi thì năm nay cháu sẽ để lỡ sinh nhật của mình đấy.” Arnold nghĩ rằng làm gì có chuyện đó, vì vậy cậu quyết định đi cùng ông bà của mình. Họ rời Los Angeles vào ngày 9 tháng 1 và đến Manila vào ngày 11 tháng 1. Họ đã mất một ngày, ngày 10 tháng 1, vượt qua Đường Đổi ngày Quốc tế – và Arnold đã mất sinh nhật của mình trong năm đó như thế. Juan đã tán tỉnh Anita suốt sáu năm. Đến năm thứ bảy, anh hỏi cô: “Anita, khi nào thì em đồng ý lấy anh?” Anita trả lời: “Khi quạ đổi màu lông,” ý chỉ “Không bao giờ.” Nhưng Juan không nản lòng. Ngày hôm sau, anh đưa cho Anita một bản in ảnh một con quạ với bộ lông trắng muốt. Rõ ràng, 1% loài Corvus Brachyrhynchos, hay còn gọi là Quạ Mỹ, mắc chứng “bạch tạng”. Cảm động trước sự kiên trì của anh (và vì cô luôn giữ lời hứa), Anita đã kết hôn với Juan vào cuối năm đó. Dẫu kết quả của những câu chuyện này không gây thiệt hại nghiêm trọng, nhưng cái gọi là các điều kiện “không thể” có thể được ghi vào các hợp đồng. Các bên đồng sở hữu nhất trí về thời hạn sáp nhập trong vòng mười năm trừ khi có sự thay đổi chế độ ở Cambodia, nơi họ thiết lập liên doanh. Một bên ký kết có thể nghĩ rằng trong mười năm tới, không đời nào có chuyện xảy ra đảo chính, thế rồi cuối cùng chuyện đó lại xảy ra vào năm thứ mười. Làm sao một người có thể tránh được những cạm bẫy của ngụy biện thiên nga đen? Trong lập luận, không có từ hay cụm từ nào ngụ ý sự thiếu cảnh giác. Đúng như tên gọi, “thiên nga đen” là thứ được cho là không thể xảy ra bởi thiếu cảnh giác. Đúng như tên gọi, “thiên nga đen” là thứ được cho là không thể xảy ra bởi chưa ai từng nhìn thấy nó.⁴² Vì vậy, trừ khi chúng ta gặp nó, còn không chúng ta không thể biết là nó có thể xảy ra. Cách tốt nhất là nghiên cứu kỹ lưỡng các xác nhận, điều kiện và quy định cho thấy một khả năng từ xa. Nếu có thể, hãy loại trừ những cách diễn đạt mang tính thành ngữ hoặc tượng hình (chẳng hạn như “trừ khi lông quạ đổi màu”). Thay vào đó, hãy lập luận bằng ngôn ngữ đơn giản. Khi cần sử dụng ngôn ngữ có điều kiện (như trong hợp đồng), hãy ghim các điều kiện vào những sự kiện đã biết thay vì chưa biết. Nó sẽ loại bỏ nhiều điều bất ngờ không mong muốn trong tương lai. LẶP LẠI VẤN ĐỀ Ngụy biện này xảy ra khi ít nhất một trong các tiên đề của lập luận cho rằng kết luận là đúng thay vì củng cố hoặc chứng minh nó. Kết quả là, phát biểu được cho là đúng ngay cả khi không có bằng chứng. Một thuật ngữ khác gọi ngụy biện này là “Lập luận lòng vòng”.⁴³ Cái tên “lặp lại vấn đề”, nghĩa đen là “một câu hỏi cần được trả lời”, gây bối rối vì không có câu hỏi nào cần được trả lời cả. Ngụy biện giả định về kết luận và không để lại bất kỳ nghi ngờ nào về nó. Bản dịch tiếng Latinh của ngụy biện này là petitio principii (“petitio” có nghĩa là thỉnh nguyện, lợi dụng hoặc cầu xin, “principii” có nghĩa là nguyên tắc, hoặc vấn đề đang được đề cập).⁴⁴ Nghĩa này cho thấy cái tên “lặp lại vấn đề” tình cờ là một bản dịch trực tiếp từ thuật ngữ Latinh, không thực sự truyền đạt bản chất của ngụy biện này. Hãy xem các ví dụ sau về ngụy biện lòng vòng. Vào năm 2000, thế giới sẽ kết thúc như chúng ta biết, bởi vào lúc 12:01 sáng ngày hôm đó, mọi nguồn điện sẽ tắt, máy bay rơi từ trên trời xuống, đường dây điện thoại sẽ tê liệt và chúng ta sẽ trở về với thời kỳ tăm tối. Kết luận trong lập luận trên khẳng định về tính chắc chắn của thảm họa Y2K, và như bằng chứng được dẫn, các tiên đề liệt kê tất cả những bi kịch sẽ xảy ra theo nó. Các tiên đề không giải thích lý do hoặc nguyên nhân hỗ trợ cho phát biểu rằng một thảm họa toàn cầu sẽ xảy ra ở thời khắc chuyển giao thiên niên kỷ. Theo lập luận này, tất cả các máy tính mà tại đó mọi quá trình xử lý thông tin tự động diễn ra sẽ trở về số 0 kép “00” do lập trình bị lỗi. Đó là một phân tích sai lầm, nhưng ít nhất nó đã đưa ra nguyên nhân có thể xảy ra, chứ không phải ảnh hưởng của Y2K. Golf là một môn thể thao phổ biến vì nhiều người thích chơi nó. Bất kỳ môn thể thao nào cũng trở nên phổ biến vì nó được nhiều người yêu thích và chơi. Đó là định nghĩa về “phổ biến”. Do đó, tiên đề của lập luận trên chỉ đơn thuần là trình bày lại kết luận. Đây là lập luận đơn. Chính phủ nên hợp pháp hóa cần sa cho các hoạt động giải trí vì nhiều người cảm thấy thoải mái khi sử dụng nó. Lập luận này là một cách chơi chữ “giải trí”, thực chất là sự tương phản của “chữa bệnh” hoặc được sử dụng cho mục đích chữa bệnh. Cho rằng cần sa nên được chấp nhận cho mục đích tiêu khiển bởi nhiều người thích dùng nó chỉ là sự tái hiện đơn thuần lại bản chất của cách dùng nó. Một lập luận xác đáng sẽ giải thích tại sao luật pháp nên loại bỏ cần sa khỏi danh sách các chất ma túy bị cấm, chẳng hạn như phát hiện ra rằng việc sử dụng chất này không gây hại cho sức khoẻ con người. Đặt lại vấn đề không cần đến bất kỳ câu hỏi nào cả, phân biệt nó với ngụy biện câu hỏi phức tạp. Có hai câu hỏi liên quan đến ngụy biện câu hỏi phức tạp, trong đó câu trả lời cho một câu hỏi nhất định giả định một câu trả lời cho câu hỏi trước đó. Không có lập luận lòng vòng nào trong kiểu ngụy biện câu hỏi phức tạp, mà là một câu trả lời ngụ ý cho một câu hỏi ẩn. Viên thanh tra tỏ vẻ nghi ngờ: “Vậy lần cuối cùng anh đánh vợ mình là khi nào?” Trong câu hỏi phức tạp này, một câu trả lời khẳng định cho một câu hỏi ẩn, “Anh có đánh vợ mình đúng không?” đã được giả định, mà không cho nghi phạm cơ hội chối tội. Trên thực tế, các chiến thuật thẩm vấn của cảnh sát đôi khi sử dụng mưu đồ này để lừa nghi phạm thú tội bằng cách khiến anh ta tin rằng tội ác của anh ta đã được chứng minh. Chúng ta cần có đầu óc nhanh nhạy để phát hiện ra các lỗi ngụy biện lòng vòng. Hãy cố gắng xác định xem trong ngụy biện đó đâu là bằng chứng cho phát biểu. Nếu nó rất giống hoặc là một cái gì đó đã nằm trong phát biểu, thì bạn có một ngụy biện lòng vòng. Hãy yêu cầu thêm bằng chứng, các ví dụ bổ sung hoặc bằng chứng theo thứ tự thời gian trước phát biểu. Nếu người lập luận không thể đưa ra chúng, bạn biết rằng không có tiên đề xác đáng nào, do đó lập luận là ngụy biện. NGỤY BIỆN ĐEN TRẮNG Như tên gọi của nó, ngụy biện này buộc bạn phải lựa chọn giữa hai lựa chọn cực đoan (đen hoặc trắng) trong khi vẫn có các lựa chọn thay thế khác (xám) để lựa chọn. Ngụy biện này đang buộc chúng ta phải lựa chọn một trong chỉ hai lựa chọn thay thế. Ngụy biện đen trắng là một kiểu đánh lừa vì nó dẫn dụ người nghe tới suy nghĩ rằng chỉ có hai lựa chọn, và việc thiếu giá trị ở lựa chọn này dẫn đến việc lựa chọn đối lập còn lại là giải pháp duy nhất. Người lập luận đưa ra chất lượng tương phản giữa hai lựa chọn như là tiêu chí quan trọng duy nhất để ra quyết định. Mẹ của Chloe không chấp nhận mong muốn đăng ký một khóa học nghệ thuật của cô. “Làm nghệ sĩ thì lấy đâu ra tiền. Tốt hơn là con hãy chọn nghề y vì bác sĩ kiếm được nhiều tiền lắm!” Nhiều học sinh trung học chuẩn bị chọn lựa chương trình đại học sẽ phải đối mặt với quyết định này. Trên thực tế, lựa chọn không nhất thiết phải theo ý Chloe hay mẹ cô ấy. Chloe thích nghệ thuật; còn mẹ cô ấy thích một nghề có thể mang lại thu nhập cao. Chloe có thể chọn đáp ứng cả hai tiêu chí này bằng cách đăng ký tham gia một chương trình nghệ thuật quảng cáo. Một công việc trong lĩnh vực quảng cáo mang thiên hướng nghệ thuật và cũng mang lại thu nhập cao. Anh chọn kết hôn vì tình hay tiền? Đây là một tình thế không tréo nghoe điển hình. Những bộ phim kinh điển xưa kia thường có cảnh nhân vật nữ chính phải lựa chọn giữa một chàng trai nghèo bảnh bao, trẻ trung và một triệu phú lạnh lùng, xa cách. Trong cuộc sống thực, người ta có thể chọn phát triển mối quan hệ yêu thương, quan tâm với một người mà bạn có thể tạo dựng một cuộc sống thoải mái. Khi đầu tư vào kinh doanh nhà hàng, tốt hơn là bạn nên đầu tư vào nhà hàng ăn uống cao cấp thay vì cửa hàng đồ ăn nhanh. Việc đưa ra các quyết định kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải có một tâm trí cởi mở và sáng tạo. Có rất nhiều mô hình kinh doanh trong ngành này ngoài nhà hàng cao cấp và đồ ăn nhanh, chẳng hạn như quán rượu, tiệc tự chọn, nhà hàng dành cho người sành ăn,… Mọi đổi mới sáng tạo kết hợp những đặc điểm tốt nhất trong số này đều được chấp nhận. Chọn cái này hoặc cái kia đều buộc chúng ta phải tư duy sáng tạo. Nếu con trai tôi yêu tôi, hẳn nó sẽ làm theo yêu cầu của tôi và chọn gia nhập giới giáo. Nhưng thằng bé không làm như tôi bảo. Vì vậy, hẳn là nó không hề yêu tôi! Một số trong số những người mà chúng ta quan tâm nhất đôi khi đánh đồng lựa chọn cá nhân của chúng ta với việc thể hiện tình yêu thương gia đình. Việc lựa chọn nghề nghiệp hay đi theo tiếng gọi của con tim không thể là bằng chứng cho thấy tình yêu hay lòng trung thành. Chính sự lựa chọn trên cơ sở này đã phủ nhận bản chất của lựa chọn nghề nghiệp. Lựa chọn cá nhân và tình yêu gia đình không thể được đánh đồng với nhau. Cậu con trai vẫn có thể yêu cha mẹ mình dù cậu ấy chọn nghề gì đi nữa. Trong mỗi ví dụ trên, luôn có một lựa chọn thay thế khác, dù có một tiên đề giả ngầm rằng chỉ tồn tại hai lựa chọn – đen và trắng – và chúng loại trừ lẫn nhau. Ta có thể dễ dàng phát hiện ra ngụy biện này bằng tiên đề chọn một trong hai được đưa ra. Khi đối mặt với lập luận này, hãy kiểm tra kỹ xem các lựa chọn có thực sự loại trừ nhau hay không và có lựa chọn thay thế nào khác không. Điều này sẽ giúp chúng ta tìm ra nhiều quyết định khả thi khác. Ngụy biện đen trắng liên quan đến hai thái cực và vùng xám ở giữa. Nó thường bị nhầm lẫn với ngụy biện tiếp theo đây, và chúng tôi sẽ giải thích chúng khác nhau như thế nào. NGỤY BIỆN PHẠM VI THỎA HIỆP Khi ai đó tranh luận rằng cái gọi là “phạm vi thỏa hiệp” giữa hai thái cực là đúng, đơn giản vì nó nằm ở đâu đó giữa các thái cực. Phát biểu về phạm vi thỏa hiệp tốt nhất là không dựa trên tiêu chí vượt trội của phương án thỏa hiệp đó so với các thái cực. Đúng hơn, thỏa hiệp giữa hai thái cực có khi lại ít tối ưu hơn. Nó được đưa ra như là sự lựa chọn tốt nhất với giả định rằng những người ủng hộ các lựa chọn phương án cực đoan cho rằng nó thỏa mãn cả đôi bên. Vincent thích Annie, vũ công ba lê ở nhà hát. Nhưng mẹ của Vincent muốn mai mối anh với Delia, chủ một nhà hàng địa phương. Để giải quyết vấn đề, cha của Vincent đã giới thiệu anh với Angela, một vũ công tại một quán bar. Bố của Vincent đã nhầm lẫn khi cho rằng Vincent thích Anna vì cô ấy biết khiêu vũ, còn mẹ anh ấy thích Delia vì cô ấy làm việc trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng. Ông ấy không biết gì về loại hình khiêu vũ hoặc tính chất của công việc nhà hàng. Ông ấy không cho rằng lựa chọn tốt nhất thực sự có thể là Annie, người mà Vincent yêu vì nhiều phẩm chất khác của cô ấy. Andrew là một người ủng hộ đảng Cộng hòa, anh cảm thấy không thể chấp nhận một thống đốc theo đảng Dân chủ. Vợ của anh, Priscila, là một đảng viên đảng Dân chủ, và cô cảm thấy không thể chấp nhận một thống đốc đảng Cộng hòa. Để giữ hòa khí, họ quyết định bỏ phiếu cho ứng viên đảng Độc lập. Lựa chọn tốt nhất cho vị trí thống đốc phải là ứng viên đủ đức và tài để cáng đáng các nhiệm vụ của văn phòng thống đốc; đây nên là tiên đề khi đi bỏ phiếu. Vì vậy, việc lựa chọn dựa trên đảng phái không phải là lựa chọn tốt nhất. Rất có thể một trong các ứng viên của đảng lớn khác sẽ là lựa chọn tốt hơn. Bruno từng uống 10 chai bia mỗi ngày. Sau mười năm kể từ đó, anh bị bệnh và phải nong mạch. Bác sĩ cấm anh uống dù chỉ một giọt vì nó có hại cho sức khỏe của anh. Khi Bruno về đến nhà, anh tự nhủ: “Mình sợ chết, nhưng mình không thể không uống bia!” Vì vậy, anh quyết định chỉ uống năm chai mỗi ngày. Với nhiều bệnh nhân, bác sĩ sẽ cho phép bệnh nhân bớt uống rượu, nhưng họ sẽ khuyến nghị kiêng hoàn toàn với những bệnh nhân mắc bệnh nghiêm trọng. Các chỉ định khắt khe từ bác sĩ đồng nghĩa với việc không thỏa hiệp vì lợi ích của bệnh nhân. Bruno không hiểu rằng phạm vi thỏa hiệp trong trường hợp này – theo lời khuyên của bác sĩ là không uống một giọt nào so với mức tiêu thụ mười chai trước đây của anh ấy mỗi ngày – hoặc năm chai mỗi ngày, là một quyết định không thể chấp nhận được. Ngụy biện phạm vi thỏa hiệp và ngụy biện đen trắng tương tự nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc lựa chọn một trong hai thái cực hoặc thỏa hiệp giữa chúng. Sự khác biệt là ở ngụy biện đen trắng, lựa chọn ở giữa có thể là tốt nhất, trong khi ở ngụy biện phạm vi thỏa hiệp, một trong hai thái cực có khả năng là sự lựa chọn tốt hơn. Nguỵ biện phạm vi thỏa hiệp cũng rất dễ phát hiện bởi đề xuất liên quan đến một thỏa hiệp giữa hai vị trí cực đoan thay thế. Thỏa hiệp là không đủ hoặc không phù hợp để giải quyết vấn đề được nêu ra. Quyết định được đưa ra không vì lý do nào khác ngoài bản thân lựa chọn chính là ngụy biện phạm vi thỏa hiệp. Để giải quyết ngụy biện này, hãy phân tích các lựa chọn dựa trên giá trị của chúng và bất kỳ thỏa hiệp nào được đưa ra đều nên cân nhắc đến giá trị đó. NGỤY BIỆN LẦM TƯỞNG VỀ NHÂN QUẢ Ngụy biện lầm tưởng về nhân quả tồn tại trong các lập luận mà mối liên hệ logic giữa các tiên đề và kết luận là một liên kết tưởng tượng. Có ba kiểu ngụy biện lầm tưởng về nhân quả dựa trên ba kiểu kết nối logic sai lầm. Post Hoc Ergo Propter Hoc (“Sau điều này, vì thế do điều này”) Sau mỗi cơn mưa giông, cỏ trong sân golf trông xanh mướt hơn, vì thế, những cơn giông khiến cỏ xanh mướt hơn. Thực ra những cơn mưa giông không thực sự làm cỏ xanh hơn, mà là cỏ nhận đủ nước. Việc bật hệ thống phun nước thường sẽ mang lại kết quả tương tự. Cô ấy thường nôn mửa sau mỗi bài phát biểu trước công chúng, do đó việc phát biểu trước công chúng khiến cô ấy nôn mửa. Không phải bài phát biểu khiến cô ấy nôn mửa, mà là sự căng thẳng khiến cô ấy buồn nôn sau mỗi buổi thuyết trình trước công chúng. Cô ấy có thể khá hơn nhờ lời khuyên từ chuyên gia hoặc các lớp học thuyết trình trước đám đông, hoặc thực hiện một số bài tập tinh thần để giảm bớt căng thẳng trước bài phát biểu của mình, thay vì né tránh các bài phát biểu. Sau khi người Aztec thực hiện các nghi lễ hiến tế con người cho các vị thần, mùa màng của họ bội thu hơn. Vì vậy, sự hy sinh của những người đó đã mang lại mùa màng bội thu. Việc đánh đồng lễ vật hiến tế với mùa màng bội thu là một ý niệm sai lầm, vì mùa màng chỉ tình cờ bội thu trong trường hợp này, bởi khoa học nông nghiệp đã đặt ra những điều kiện tiên quyết để có được một vụ thu hoạch bội thu hơn. Sự hy sinh của con người không ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch, và đó là một sự lãng phí không cần thiết và khủng khiếp đối với cuộc sống của con người. Đối thủ ở văn phòng của tôi, Sandra, đã tặng sếp một món quà Giáng sinh tuyệt vời, và vào tháng Giêng, cô ta được thăng chức. Chà, món quà đó chắc chắn đã phải rất có giá trị! Món quà mà Sandra tặng và sự thăng tiến sau đó của cô ấy có thể có hoặc không có mối quan hệ nhân quả, nhưng chúng ta không thể đưa ra kết luận nếu thiếu các bằng chứng xác đáng. Sandra có thể đã nằm trong danh sách xét duyệt thăng chức trong nhiều năm nhờ làm tốt công việc của mình. Thật phiến diện và xấu xa khi cho rằng cô ấy được thăng chức chỉ vì món quà. Cum Hoc Ergo Propter Hoc (“Với điều này, vì thế do điều này”) Khi đi dạo, đám chó thường phóng uế trên vỉa hè; do đó, nguyên nhân khiến chúng phóng uế là vì đi dạo. Đi dạo có thể giúp chó vận động và giải tỏa nỗi buồn, nhưng loài chó được biết là có khả năng giải tỏa nỗi buồn ngay cả khi chúng bị nhốt trong không gian kín. Một số con chó không hề giải quyết vấn đề cá nhân khi đi dạo. Việc đi dạo không phải là nguyên nhân dẫn đến việc chúng phóng uế mà do chức năng cơ thể của chính con chó. John bật nhạc lúc câu cá, nhờ thế anh ta bắt được nhiều cá, việc bật nhạc thu hút đám cá và giúp John bắt chúng. Âm nhạc có thể ảnh hưởng đến cá hoặc không, nhưng để đưa ra kết luận, cần có nghiên cứu khoa học với sự trợ giúp của một thử nghiệm. Có quá nhiều yếu tố hiện diện ở ngoài trời ảnh hưởng đến việc đánh bắt cá. Chúng ta chỉ có thể chắc chắn một điều là liệu John có thích âm nhạc khi đi câu cá hay không, vì John có thể trả lời về cảm nhận của anh ta về âm nhạc. Nếu không, không có mối liên hệ hợp lý nào giữa âm nhạc và số lượng cá bắt được. Trong khi di chuyển trên chiếc RV của mình, con chó của một cặp vợ chồng liên tục hú lên trong chiếc lồng di động. Họ cho rằng con chó cảm thấy khó chịu về chuyến đi và không thích đi lòng vòng. Chỉ khi con chó yên lặng, cặp vợ chồng mới tin là sự lo lắng của cô vợ Ana đã khiến con chó căng thẳng. Mọi người thường diễn giải nhầm hành động của con chó của họ tùy thuộc vào cách nó phản ứng với các kích thích liên tục. Tuy nhiên, các nhà tâm lý học và hành vi học của chó giải thích rằng chó hành động như thế để đáp lại cảm xúc của chủ nhân. Không phải ai cũng hiểu mối quan hệ giữa chó và chủ, vì vậy một chuyên gia đôi khi có thể cần giải thích rõ sự thật để xóa tan những quan niệm sai lầm của mọi người. Bỏ qua Nguyên nhân thường gặp Ngụy biện này ám chỉ niềm tin rằng một điều đã gây ra điều gì đó trong khi bỏ qua khả năng rằng một điều khác có thể đã gây ra cả hai điều. Tôi nghĩ rằng tiếng gáy của gà trống vào buổi sáng đã đánh thức mọi con vật khác ở trang trại. Nhưng cuối cùng thì khi con gà trống chết, mọi con vật khác vẫn thức dậy đấy thôi. Vì vậy, mặt trời mọc là nguyên nhân dẫn đến việc mọi con vật trong trang trại đều thức giấc, bao gồm cả gà trống. Trong các câu chuyện về cuộc sống nông trại, người ta luôn gán tiếng gà trống gáy là chuông báo thức gọi tất cả các động vật khác dậy. Sự thật là các động vật ban ngày sẽ thức giấc khi mặt trời mọc, cho dù gà trống có gáy hay không. Lạm phát gia tăng kéo theo sự gia tăng lãi suất. Trên thực tế, các chính sách kinh tế có xu hướng làm biến động cả lạm phát và lãi suất. Lạm phát gia tăng kéo theo sự gia tăng lãi suất. Trên thực tế, các chính sách kinh tế có xu hướng làm biến động cả lạm phát và lãi suất. Các nhà phân tích kinh tế kỳ vọng lãi suất sẽ tăng khi lạm phát tăng. Điều này đúng bởi cơ quan quản lý tiền tệ sử dụng các chính sách của họ để kiểm soát nguồn cung tiền. Nhưng đã có những lúc lạm phát tăng không dẫn đến lãi suất tăng. Các chỉ số kinh tế phản ứng với ảnh hưởng của các chính sách kinh tế rộng lớn. Tỷ lệ giết người đang gia tăng, mà theo thị trưởng là do số lượng súng bất hợp pháp gia tăng trong thành phố. Bà ta nên thừa nhận rằng cả hai đều là kết quả của việc thực thi pháp luật kém hiệu quả dưới sự giám sát của bà ta. Ngụy biện này không phụ thuộc vào quan điểm của mọi người về việc kiểm soát súng. Manh mối nằm ở chính câu từ của lập luận. Cả giết người và tàng trữ vũ khí trái phép đều vi phạm pháp luật. Số lượng vũ khí bất hợp pháp không phải là nguyên nhân cuối cùng làm gia tăng các vụ giết người, vốn có thể là do nhiều nguyên nhân khác ngoài súng. Nhưng cả hai đều chỉ ra việc thực thi pháp luật lỏng lẻo, nguyên nhân thực sự của tỷ lệ tội phạm gia tăng. Ngụy biện lầm tưởng về nhân quả có thể khó xác định vì đối với một số trường hợp, chủ đề có thể mang nhiều sắc thái và đòi hỏi kiến thức đặc biệt (ví dụ: tâm lý học về chó và kinh tế học trong các ví dụ trước). Đôi khi, chúng rất dễ phát hiện vì chúng bất chấp logic một cách công khai (ví dụ như sự hy sinh của con người). Để giải quyết các ngụy biện lầm tưởng về nhân quả liên quan đến các vấn đề hoặc phát biểu khó khăn, bạn phải thực hiện một số nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các chuyên gia đáng tin cậy về nguyên nhân thực sự dẫn đến một hiện tượng nào đó. Kết hợp cả logic và thông tin để giải quyết lỗi ngụy biện lầm tưởng về nhân quả. NGỤY BIỆN CÁ TRÍCH ĐỎ Ngụy biện này xảy ra khi người tranh luận đưa ra một vấn đề không liên quan để đánh lạc hướng và khiến người nghe bối rối dẫn đến đồng ý với phát biểu. Cái tên này xuất phát từ một hoạt động mà các tù nhân vượt ngục được cho là đã làm trong thời gian vượt ngục. Họ ném những con cá trích màu đỏ ôi thiu về các hướng khác nhau để đánh lạc hướng đám chó cảnh sát và tẩu thoát. Trong ngụy biện này, cá trích đỏ là vấn đề không liên quan.⁴⁵ Ian bị bắt khi lái xe vào làn đường một chiều. Rõ ràng là anh ta biết các biển báo gần đó, nhưng Ian trả lời viên cảnh sát bắt giữ rằng: “Nhưng thưa anh cảnh sát, tôi không biết đây là đường một chiều.” Viên cảnh sát yêu cầu xem bằng lái của anh ta mà hóa ra đã hết hạn. “Thật sao? Tôi không hề """