🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bầu Cử Trong Đảng - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Từ Đại Hội Đảng Ở Cơ Sở
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
PHẠM THỊ THU PHƯƠNG
ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
NGUYỄN MẠNH HÙNG NGUYỄN THỊ HẰNG PHẠM THỊ THU PHƯƠNG BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/2-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5353-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã ISBN: 978-604-57-6097-0.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
NguyÔn T¸c Lòy
BÇu cö trong §¶ng - Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vμ thùc tiÔn tõ ®¹i héi §¶ng ë c¬ së/NguyÔn T¸c Lòy. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 192tr. ; 21cm
ISBN 9786045755099
1. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam 2. BÇu cö 3. §¹i héi ®¹i biÓu 4. §¶ng bé c¬ së
324.2597075 - dc23
CTM0357p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ở Việt Nam, hoạt động bầu cử được coi là một định chế quan trọng để thực thi dân chủ, là nền tảng hợp pháp để hình thành các chức danh, cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị từ Trung ương
tới địa phương. Hiện nay, cùng với việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đang được đổi mới mạnh mẽ theo hướng khoa học, dân chủ, sáng tạo và trách nhiệm. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên công tác bầu cử trong Đảng càng có vai trò quan trọng, làm cho Đảng ta thực sự
là một tổ chức cách mạng chặt chẽ, đoàn kết, kỷ cương và thống nhất cao, “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã từng mong muốn.
Trong nhiều nhiệm kỳ qua, cùng với quyết tâm đổi mới công tác cán bộ thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến đổi mới công tác bầu cử trong Đảng để đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác xây dựng đảng ở cơ sở. Thực tiễn cho thấy, tổ chức cơ sở
đảng là yếu tố nền tảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Đảng sẽ mạnh khi cơ sở mạnh. Cơ sở đảng muốn mạnh thì không thể thiếu đội ngũ cán bộ lãnh đạo có phẩm chất chính trị và trình độ chuyên
5
môn vững vàng, vừa có tâm và có “tầm”. Vì vậy, công tác bầu cử tại cơ sở có vai trò quan trọng để chọn ra những cán bộ ưu tú nhất, tiêu biểu nhất về phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng vào các vị trí lãnh đạo ở mỗi địa phương, đơn vị.
Để cung cấp cho bạn đọc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cơ sở những luận cứ mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động bầu cử trong Đảng, đặc biệt là bầu cử ở đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Bầu cử trong Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn từ đại hội đảng ở cơ sở của TS. Nguyễn Tác Lũy.
Cuốn sách khái quát một số vấn đề lý luận về bầu cử nói chung; khảo sát, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại trong công tác bầu cử ở đại hội cơ sở của một số địa phương vùng đồng bằng sông
Hồng; trên cơ sở những hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương Đảng, tác giả đề xuất một số giải pháp mà các cơ sở đảng cần thực hiện tốt để công tác bầu cử thực sự mang lại hiệu quả thiết thực nhất, góp phần vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc và mong nhận được những ý kiến góp ý của các bạn để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Tháng 02 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
LỜI NÓI ĐẦU
Bầu cử trong Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm lựa chọn những đảng viên tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, năng lực và uy tín để đưa vào cấp ủy và các chức danh lãnh đạo, đồng thời đặt cơ sở cho việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan, đoàn thể; qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, sức mạnh bền vững của Đảng và cả hệ thống chính trị luôn bắt đầu từ cơ sở, cơ sở mạnh thì toàn Đảng mạnh. Sự lãnh đạo đúng đắn của mỗi cơ sở đảng sẽ tạo tiền đề, động
lực cho sự phát triển; ngược lại những hạn chế, sai lầm trong lãnh đạo cũng kìm hãm sự phát triển và làm nảy sinh nhiều hệ lụy trong cộng đồng, thậm chí trong cả hệ thống bộ máy. Những thành công hay thất bại đó phụ thuộc rất lớn vào việc bầu cử cơ quan lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và từng thành viên trong cơ quan đó.
7
Thời gian qua, các cấp ủy đảng đã dành nhiều sự quan tâm, tích cực chỉ đạo công tác bầu cử của đại hội đảng bộ các cấp, qua bầu cử đã phát huy trí tuệ, trách nhiệm của đại biểu đại hội, lựa chọn được nhiều đảng viên tiêu biểu về phẩm chất và năng lực vào đảng ủy và các chức danh lãnh đạo của cấp ủy. Tuy nhiên, so với yêu cầu “đổi mới bầu cử,... để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu,...”1
thì quá trình thực hiện công tác bầu cử, nhất là ở cơ sở còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Việc nghiên cứu, khảo sát thực tế; đồng thời phân tích, đánh giá kết quả thực hiện các quy định về bầu cử trong Đảng một cách cụ thể, toàn diện, trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp để
phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, giải quyết tốt những vấn đề đặt ra để thực hiện tốt hơn công tác bầu cử trong thời gian tới đang cần được quan tâm, giải quyết thỏa đáng. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và nhạy cảm, chưa có nhiều công trình chuyên khảo.
Cuốn sách Bầu cử trong Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn từ đại hội đảng ở cơ sở cung cấp thêm
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.206-207.
8
một cách tiếp cận và luận cứ cho việc nghiên cứu, thực hiện bầu cử của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng. Cuốn sách được hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu lý luận, kết hợp với quá trình khảo sát thực tiễn của tác giả tại các đảng bộ cơ sở
vùng đồng bằng sông Hồng; sự phân tích, đánh giá dựa trên số liệu của cơ sở.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong quá trình khảo sát, nghiên cứu, biên soạn, song đây là đề tài mới, phức tạp nên chắc chắn cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế. Tác giả rất mong nhận được các ý kiến góp ý của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho đông đảo bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này.
Hải Dương, tháng 02 năm 2020
TÁC GIẢ
TS. NGUYỄN TÁC LŨY
9
Chương I
BẦU CỬ TRONG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC BẦU CỬ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG Ở CƠ SỞ
I- BẦU CỬ TRONG ĐẢNG
1. Khái niệm, nội dung, hình thức của bầu cử trong Đảng
Bầu cử và công tác bầu cử trong Đảng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, bảo đảm đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, của hệ thống chính trị và các tổ chức, đơn vị. Công tác này luôn nhận được sự quan tâm lớn của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về bầu cử và công tác bầu cử trong Đảng mà tùy theo các góc độ và phương pháp tiếp cận, có nhiều quan điểm khác nhau về những khái niệm này.
Trước hết, bầu cử là một hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội, một quá trình chính trị không thể thiếu trong đời sống chính trị mỗi quốc gia, đảng phái, tổ chức, gắn với sự phát triển của dân chủ; nó được coi là sự khởi đầu của một xã hội dân chủ.
11
Trong tác phẩm Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội các tác giả N.M. Voskresenskaia và N.B. Davletshina cho rằng: “bầu cử - cơ chế thực thi dân chủ quan trọng”. Tính cạnh tranh, tính định kỳ, tính đại diện và tính chung cuộc, báo cáo trách nhiệm trước cử tri là những yêu cầu, thuộc tính, đặc trưng cơ bản của bầu cử. Theo các tác giả, coi nhẹ hay từ bỏ bất kỳ yếu tố nào cũng đều có thể dẫn đến các biểu hiện độc tài hay sự thoái hóa từ dân chủ thành chuyên chế. Đồng thời, để bảo đảm cho các cuộc bầu cử được dân chủ và công bằng, đòi hỏi phải có một hình thức tổ chức chặt chẽ, đặc biệt, cũng như phải có nhiều ứng cử viên cho từng chức danh1.
Trong khi đó, các tác giả Thomas. R. Dye và Hamon lại khẳng định: Quyền bầu cử là quyền cơ bản nhất của công dân trong xã hội dân chủ, thiếu nó thì các quyền khác đều trở nên vô nghĩa. Nó đem lại cho người dân với tư cách là những cá nhân có quyền tự quyết định số phận của mình. Các cuộc bầu cử là công cụ hữu hiệu để phá bỏ
những bức tường phi lý đã ngăn cách người này với người kia. Và quyền bầu cử là tổng thể các quyền của công dân trong quá trình bầu cử các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương bao gồm quyền bầu cử và quyền ứng cử2.
____________
1. Xem N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina: Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008. 2. Xem Thomas. R. Dye, Hamon: Sự mỉa mai của nền dân chủ, Brooks, California (Bản dịch của Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Hà Nội, 1997.
12
Theo Từ điển tiếng Việt, “bầu là chọn bằng cách bỏ phiếu hoặc biểu quyết để giao cho làm đại biểu, giữ một chức vụ hoặc hưởng một vinh dự (bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu đi dự đại hội, hội nghị...)”1.
Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ định nghĩa: Bầu cử là một quá trình lựa chọn một hoặc nhiều người cho một chức vụ công hoặc tư, từ nhiều ứng cử viên khác nhau2.
Trong cuốn sách Chế độ bầu cử của các nước trên thế giới, tác giả Vũ Hồng Anh cho rằng: “Bầu cử là thủ tục mà theo đó là một nhóm người xác định (nhân dân, cử tri, tập thể, cá nhân) bầu ra một hay nhiều người để thực hiện một chức năng xã hội nào đó”3.
Xuất phát từ góc độ quyền lực chính trị, bầu cử được xem là cách thức của công dân lựa chọn những người đại diện để ủy quyền, thay mặt mình ra quyết định và thực hiện các quyết định; hay đó còn là cách bày tỏ sự
tín nhiệm của người bị quản lý, sau đó sự bày tỏ này được tập hợp lại và chuyển thành một quyết định tập ____________
1. Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr. 50. 2. Xem Lưu Văn Quảng: Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện thực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 15.
3. Vũ Hồng Anh: Chế độ bầu cử của các nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 10.
13
thể về vấn đề ai sẽ là người nắm quyền lãnh đạo, quản lý. Dưới góc độ luật học, bầu cử là một trong những chế định pháp luật quan trọng của ngành luật hiến pháp - ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia; bầu cử là việc công dân của một nước lựa chọn những người đại diện để ủy quyền cho họ thay mặt mình giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước.
Như vậy, dù cách diễn đạt có thể khác nhau, song bầu cử được hiểu là quá trình, cách thức, hành vi của công dân hay thành viên của một tổ chức lựa chọn các ứng cử viên vào một vị trí công việc để ủy quyền cho họ
thực thi quyền lực hay chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong một cơ cấu xã hội. Với quan điểm này, nội hàm của khái niệm bầu cử gồm: sự lựa chọn một hay một số người trong số nhiều ứng cử viên; thể hiện sự tín nhiệm với người khác; ủy quyền cho người được chọn thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất định; gồm nhiều hành vi cụ
thể như ứng cử, đề cử, ghi phiếu, bỏ phiếu,...; được thể chế hóa, thừa nhận trong các quy phạm pháp luật, quy phạm xã hội.
Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu, bầu cử trong Đảng là hoạt động dân chủ, có tổ chức chặt chẽ theo những nguyên tắc, quy trình, hình thức cụ thể nhằm lựa chọn những đảng viên ưu tú, đại diện cho trí tuệ và sức mạnh tập thể đảng viên vào một vị trí, chức danh công việc để ủy quyền cho họ thực hiện những chức
14
năng, nhiệm vụ nhất định. Việc lựa chọn ứng cử viên và thực hiện sự ủy quyền của đảng viên thông qua bầu cử thể hiện một cách cao nhất ý chí, nguyện vọng của đảng viên, được thực hiện ở đại hội đảng hay hội nghị đảng với
từng nội dung và hình thức cụ thể. Trong đó: - Nội dung bầu cử: Là việc lựa chọn những đảng viên tiêu biểu, có phẩm chất, năng lực phù hợp vào các vị trí công việc như: cơ quan giúp việc, điều hành đại hội, hội nghị đảng; cơ quan lãnh đạo và các chức danh lãnh đạo của tổ chức đảng; cơ quan kiểm tra và các chức danh lãnh đạo; đoàn đại biểu dự đại hội đảng cấp trên. - Hình thức bầu cử: Có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu về hình thức bầu cử của các thể chế chính trị trên thế giới. Theo tính hệ thống có: bầu cử theo đa số, bầu cử đại diện tỷ lệ, bầu cử hỗn hợp. Theo tính chân thực có: bầu cử tự do, bầu cử giả hiệu. Theo tính dân chủ có: bầu cử trực tiếp, bầu cử gián tiếp (đại diện). Theo tính hành vi có: bầu cử bằng bỏ phiếu, bầu cử bằng biểu quyết,... Đối với việc bầu cử ở Việt Nam nói chung và bầu cử trong Đảng nói riêng, chúng ta thường nhấn mạnh và kết hợp các hình thức: bầu cử trực tiếp, bầu cử đại diện; bầu cử bằng phiếu kín, bầu cử bằng biểu quyết giơ tay. Bầu cử trực tiếp là hình thức toàn thể đảng viên của tổ chức đảng trực tiếp xem xét và lựa chọn từng ứng cử viên để ủy quyền mà không qua các đại biểu trung gian. Bầu cử đại diện là hình thức mà toàn thể đảng viên không
15
trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn các ứng cử viên vào các vị trí công việc của tổ chức đảng mà thông qua các đại diện - đại biểu trung gian của mình theo từng cấp, để ủy quyền cho họ thực hiện việc bầu cử.
Bầu cử bằng bỏ phiếu kín là hình thức bầu cử bảo đảm sự bí mật, phát huy tối đa ý chí cá nhân, hạn chế sự tác động từ bên ngoài khi bầu cử; được dùng khi bầu vào các vị trí công việc có tính đại diện cao cho quyền lực, trí tuệ của đảng viên và hoạt động thường xuyên, ổn định mang tính nhiệm kỳ. Bầu cử bằng biểu quyết thường được sử dụng khi bầu vào các vị trí công việc mang tính phục vụ; ít gắn với quyền lực, trách nhiệm lâu dài của người bầu và người được bầu; thường bầu một lần cho cả
danh sách ứng cử viên.
Tùy theo quy mô, cấp độ tổ chức và nội dung mỗi cuộc bầu cử mà sử dụng hình thức bầu cử tương ứng. Việc bầu cấp ủy và các chức danh lãnh đạo trong cấp ủy của đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc được thực hiện bằng hình thức đại diện và bỏ phiếu kín.
2. Bản chất của bầu cử trong Đảng
Trong quá trình xây dựng, củng cố tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định: bầu cử là phương thức quan trọng để thành lập các cơ quan lãnh đạo, lựa chọn đội ngũ cán bộ “tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và
16
sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới”1. Sức mạnh, quyền lực chính trị của Đảng là thuộc về toàn thể đảng viên, nhưng tự đảng viên không thể thực hiện tốt nhất quyền lực của mình trong một số công việc nhất định. Thông qua bầu cử, đảng viên chọn người đại diện và ủy quyền cho họ thực hiện những quyền đó. Vậy nên, có thể xác định bản chất của bầu cử
trong Đảng là thực hiện quyền làm chủ và phát huy trí tuệ, trách nhiệm của tập thể đảng viên trong việc lựa chọn người đại diện để ủy quyền; hay đó là việc “chuyển hóa” ý chí, quyền lực chính trị của đảng viên cho các vị
trí, chức danh trong Đảng một cách dân chủ. Bản chất đó được biểu hiện ở hai vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, đảng viên thực hiện quyền làm chủ và phát huy trí tuệ, trách nhiệm trong lựa chọn người đại diện. Nói đến bầu cử tức là nói đến việc lựa chọn con người. Khác với nhiều hệ thống bầu cử trên thế giới, việc bầu cử của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chủ động lựa chọn của đảng viên trong Đảng đối với những đảng viên tiêu biểu về phẩm chất, năng lực để đưa vào các vị trí, chức danh công việc tương ứng trong tổ chức đảng. Sự lựa chọn này không chỉ là quyền mà còn thể hiện trách
____________
1. Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
17
nhiệm, trí tuệ của đảng viên trong lựa chọn người đại diện cho mình. Đó là quyền tối thiểu và trách nhiệm tối đa trong hoạt động chính trị của mỗi đảng viên.
Đối tượng lựa chọn của đảng viên không chỉ là thành viên các cơ quan đại diện mà cả các chức danh cụ thể, do đảng viên trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Cho nên, những cá nhân, tổ chức được đảng viên lựa chọn thông qua bầu cử đều là người đại diện cho đảng viên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định. Việc lựa chọn những đại diện của đảng viên không chỉ dựa trên những yếu tố định lượng như trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị,... mà còn phụ thuộc vào những yếu tố định tính như quan hệ ứng xử, phẩm chất đạo đức,... nói cách khác, đó còn là niềm tin, uy tín, tình cảm mà đảng viên nhận thấy được, đánh giá được. Do đó, người được bầu phải là những người tiêu biểu cho phẩm chất, trí tuệ, nguyện vọng, tình cảm của đảng viên, thậm chí cả quần chúng nhân dân mà họ đại diện, được đảng viên lựa chọn một cách công tâm, khách quan; ngoài ra không chịu sự tác động, chi phối nào.
Trong bầu cử, vấn đề cốt lõi của “lựa chọn” là sự xem xét, đối chiếu, so sánh, sàng lọc để tìm đại diện tiêu biểu nhất trong nhiều ứng cử viên. Nếu số ứng cử viên bằng với số đại diện cần có thì sự lựa chọn không còn nguyên nghĩa nữa, việc bầu cử có thể trở thành hình thức. Vậy nên, bảo đảm số dư trong danh sách bầu cử, bảo đảm
18
nhiều phương án lựa chọn là yêu cầu cần thiết của cuộc bầu cử dân chủ, phát huy trí tuệ, trách nhiệm của đảng viên trước quyết định lựa chọn của mình.
Thứ hai, đảng viên thực hiện quyền làm chủ thông qua việc ủy quyền và kiểm soát quyền đã ủy cho người đại diện.
Theo TS. Lưu Văn Quảng: “Ủy quyền được hiểu là sự ủy nhiệm quyền lực của một chủ thể cho một đại diện làm một việc gì đó mà chủ thể không có điều kiện để thực thi một cách trực tiếp... Người được ủy quyền thực thi nhiệm vụ dưới danh nghĩa của chủ thể đã ủy quyền cho mình. Trong mối quan hệ này, chủ thể ủy quyền giữ vai trò chi phối người được ủy quyền. Yêu cầu của chủ thể ủy quyền buộc người được ủy quyền phải hành động theo cách thức mà chủ thể mong muốn”1.
Thực tế cho thấy, có nhiều hình thức ủy quyền: ủy quyền từ trên xuống, từ dưới lên; ủy quyền của số đông cho số ít, tổ chức cho cá nhân, cấp trên cho cấp dưới, cá nhân cho cá nhân,... Ủy quyền của đảng viên thông qua bầu cử là ủy quyền từ dưới lên, của số đông cho số ít, là hình thức ủy quyền khách quan, dân chủ, công khai,... hạn chế được nhiều tiêu cực như chủ quan, cục bộ, lợi ích nhóm trong cơ chế ủy quyền.
____________
1. Lưu Văn Quảng: Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện thực, Sđd, tr. 30.
19
Người nào được đảng viên lựa chọn trong bầu cử thì trở thành chủ thể đại diện của đảng viên và được đảng viên ủy quyền. Nhưng việc ủy bao nhiêu quyền không đơn thuần là sự lựa chọn của đảng viên cho từng chủ
thể đó, mà còn phụ thuộc vào việc ai, cơ quan nào quy định thẩm quyền và trách nhiệm cho các vị trí, chức danh đó. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc”1. Trong Đại hội, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy Đảng được thông qua, trong đó có thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, các chức danh lãnh đạo cấp ủy. Như vậy, quyền lực của các vị trí, chức danh công tác được quy định trước, đảng viên lựa chọn đại diện để thực hiện quyền được ủy quyền theo mức độ đã được quy định đối với mỗi vị trí, chức danh.
Tuy nhiên, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng được các đảng viên bầu từ dưới lên, nên xét cho cùng quyền lực cao nhất của Đảng là thuộc về đảng viên toàn Đảng, Đại hội Đảng toàn quốc là cơ quan đại diện lãnh đạo cao nhất của toàn thể đảng viên. Vì vậy, dù được bầu bằng hình thức nào (trực tiếp hay đại diện) thì chủ thể được bầu cũng phải hoạt động và làm việc nhân danh đảng viên, chịu trách nhiệm về hành động
____________
1. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 17.
20
của mình trước đảng viên. Khi đảng viên đã bỏ phiếu một cách chính đáng cho ai thì họ sẽ đứng về phía người đó, ủy quyền cho họ thực hiện một phần quyền lực của đảng viên. Bầu cử là chuyển hóa ý chí, quyền lực của đảng viên sang người được bầu. Nhưng nếu chủ thể
được ủy quyền không làm tròn bổn phận của mình, vi phạm hay đi ngược với sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân thì đảng viên có thể thu hồi quyền lực đã ủy và chọn các đại diện khác để ủy quyền.
3. Nguyên tắc của bầu cử trong Đảng
Bầu cử cơ quan lãnh đạo là một tiêu chí hàng đầu, một quy chuẩn quan trọng bậc nhất của thể chế dân chủ nói chung. Vấn đề là tổ chức bầu cử ra sao để nó thực sự dân chủ, để lá phiếu trở thành công cụ thể hiện sự lựa chọn chủ động, tự giác của người bầu,... Điều này
đòi hỏi quá trình bầu cử phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Nhìn chung, bầu cử của nhà nước hay của đảng chính trị trên thế giới đều thường tuân theo một số nguyên tắc cơ bản, trong đó “tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, định kỳ và bỏ phiếu kín có thể
được coi như những tinh hoa của loài người về bầu cử”1. Đối với Đảng ta, “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề
____________
1. Đỗ Tuấn Nghĩa: “Một bước mở rộng dân chủ trong bầu cử của Đảng”, tạp chí Xây dựng Đảng, số 6/2012.
21
sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”1. Các quy chế bầu cử của Đảng đều xác định: tập trung dân chủ, bình đẳng, trực tiếp, đa số quá bán, kết quả bầu cử của các chi, đảng bộ phải được chuẩn y của cấp ủy có thẩm quyền là những nguyên tắc bầu cử trong Đảng.
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, đồng thời là nguyên tắc trung tâm, chỉ đạo của bầu cử trong Đảng; nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Các ủy viên ban chấp hành khu bộ và Ban Chấp hành Trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”2.
Nội dung cốt lõi, đặc trưng của nguyên tắc này là: cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thiểu số phục tùng đa số. Nội dung này phản ánh sự thống nhất giữa hai yếu tố dân chủ và tập trung trong lựa chọn các đại diện của đảng viên để ủy quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Từ tiểu tổ đến đại hội ____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 830. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 735.
22
đều theo cách dân chủ tập trung. Nghĩa là có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi, thì giao cho hội ủy viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lịnh hội ấy. Ấy là tập trung”1. Hai yếu tố này được biểu hiện sinh động trong từng hoạt động bầu cử. Một mặt, đảng viên được cung cấp thông tin, tự do thảo luận, trình bày và bảo lưu ý kiến của mình trong xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nhân sự; ứng cử, đề cử, xây dựng danh sách bầu cử; chủ động lựa chọn ứng cử viên theo ý chí cá nhân tại đại hội, hội nghị. Mặt khác, mỗi đảng viên phải phục tùng sự điều hành của ban tổ chức đại hội, hội nghị; thiểu số phục tùng đa số, tôn trọng quyết định tập thể của đại hội, hội nghị về bầu cử, nhất là kết quả bầu cử; đồng thời kết quả đó phải được sự chuẩn y của cấp có thẩm quyền.
Thực hiện nhuần nhuyễn nguyên tắc này vừa bảo đảm dân chủ, lại vừa tăng cường tập trung; đồng thời không chỉ bảo đảm cho sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động mà còn phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo và trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong quá trình bầu cử. Trong đó, tập trung phải trên nền dân
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 335.
23
chủ, dân chủ phải gắn liền với kỷ cương; dân chủ càng được mở rộng thì tập trung thống nhất càng cao. Hai là, nguyên tắc bình đẳng.
Xuất phát từ quan điểm mọi đảng viên đều bình đẳng trong quyền lợi và nghĩa vụ chính trị, trong cơ hội và trách nhiệm tham gia các hoạt động của Đảng, bình đẳng trở thành một nguyên lý, phạm trù trung tâm của vấn đề dân chủ; là nền tảng, mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cả hệ thống chính trị nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong các cuộc bầu cử,... không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hoá, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia”1. Do đó, bình đẳng được xem như là chuẩn giá trị, là thước đo, tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá mức độ dân chủ của “chế độ bầu cử” trong Đảng. Nó bảo đảm cho mọi đảng viên đều có thẩm quyền, trách nhiệm, vai trò như nhau trong ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng mà không chịu bất cứ một sự
phân biệt, sức ép nào. Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử được thể hiện:
Thứ nhất, bình đẳng giữa các đảng viên tham gia bầu cử, theo đó “mỗi đảng viên một phiếu, một giá trị”, nghĩa là: mỗi đảng viên trong một lần bầu cử chỉ có một phiếu bầu, hiệu lực các phiếu bầu như nhau, khi bỏ
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 263.
24
phiếu không phụ thuộc vào độ tuổi, tuổi đảng, giới tính, vị trí, chức danh công tác của đảng viên,... để bảo đảm cho tất cả đảng viên có khả năng như nhau tác động lên kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử.
Thứ hai, bình đẳng giữa các ứng cử viên. Tất cả các đảng viên đủ tiêu chuẩn theo quy định của Đảng đều có cơ hội được giới thiệu để được bầu vào cơ quan lãnh đạo các cấp. Tất cả các đảng viên chính thức đủ tiêu chuẩn đều có quyền ứng cử, nhận đề cử để được bầu vào cơ
quan lãnh đạo của Đảng. Riêng những đảng viên có chức danh trong cấp ủy thực hiện thêm nguyên tắc tập trung dân chủ đối với cương vị công tác của mình, điều này là bảo đảm cho sự bình đẳng giữa đảng viên thường và đảng
viên có chức danh trong cấp ủy. Đồng thời, tất cả các ứng cử viên đều có quyền xin rút khỏi danh sách bầu cử. Thứ ba, bình đẳng trong xử lý vi phạm quy định về bầu cử, tức là mọi đảng viên đều phải tuân thủ các quy định của Đảng về bầu cử trong quá trình thực hiện quyền và trách nhiệm bầu cử của mình; mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý nghiêm, bình đẳng theo quy định về kỷ luật trong Đảng.
Ba là, nguyên tắc trực tiếp.
Nguyên tắc này thể hiện cách thức thực hiện ý chí, nguyện vọng của đảng viên trong bầu cử, theo đó, đảng viên trực tiếp ứng cử, đề cử và thể hiện ý chí thông qua hành vi biểu quyết, bỏ phiếu để chọn ra người đại diện
25
của mình vào các vị trí, chức danh công tác được bầu. Nếu trúng cử, các chủ thể đại diện sẽ trực tiếp nhận sự ủy quyền của đảng viên mà không phải qua khâu trung gian nào (trong một môi trường bầu cử). Đồng thời, chỉ những đảng viên trực tiếp tham gia đại hội, hội nghị mới được bầu cử; không cá nhân hay tổ chức nào được can thiệp vào quá trình bầu cử đó.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi đảng viên không được nhờ người bầu hộ, bầu thay. Trường hợp đảng viên do hạn chế về sức khỏe không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ đảng viên khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ
phiếu; đảng viên viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu. Trường hợp không tự bỏ phiếu được thì nhờ đảng viên khác bỏ phiếu vào hòm phiếu hoặc ban kiểm phiếu mang hòm phiếu đến vị trí của đảng viên để bỏ phiếu. Tuy nhiên, trên thực tế những đảng viên bị hạn chế về
sức khỏe thường không tham gia đại hội, hội nghị đại biểu nên ít có hiện tượng này.
Bốn là, nguyên tắc đa số quá bán.
Đa số quá bán hay thiểu số phục tùng đa số là nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được tách ra thành nguyên tắc riêng để tôn trọng, bảo đảm quyền làm chủ của người bầu. Nguyên tắc này đòi hỏi kết quả của tất cả các quyết định liên quan đến bầu cử chỉ có giá trị khi đạt trên 50% ý kiến đồng ý của đảng viên tham gia bầu cử. Trong đó, “Đối với đại hội đại biểu:
26
người trúng cử phải đạt số phiếu bầu quá một nửa so với tổng số đại biểu chính thức được triệu tập trừ số cấp uỷ viên cấp triệu tập đại hội vắng mặt suốt thời gian đại hội, đại biểu chính thức vắng mặt suốt thời gian đại hội không có đại biểu dự khuyết thay thế... Trường hợp số người đạt số phiếu bầu quá một nửa nhiều hơn số lượng cần bầu thì những người trúng cử là những người có số phiếu cao hơn”1.
Năm là, nguyên tắc kết quả bầu cử của các chi, đảng bộ phải được chuẩn y của cấp ủy có thẩm quyền. Nguyên tắc này bảo đảm sự tập trung thống nhất trong Đảng, tăng cường sự kiểm tra, giám sát và bảo đảm sự lãnh đạo của cấp trên đối với tổ chức cấp dưới. Theo đó, các đối tượng được bầu chỉ chính thức trở thành các cơ cấu lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng khi được cấp ủy cấp trên chuẩn y theo quy định, nếu không được công nhận thì kết quả bầu cử đó không có giá trị.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, còn một số vấn đề có tính nguyên tắc khác như tính công khai, tính cạnh tranh, tính kỳ hạn trong bầu cử, đó là những giá trị bảo đảm cho cuộc bầu cử diễn ra một cách dân chủ, khách quan và công bằng. Nó vừa tạo điều kiện cho mỗi đảng ____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 121-122.
27
viên có quyền lực như nhau trong việc tác động đến kết quả bầu cử, vừa giúp cho các ứng cử viên có cơ hội như nhau để giành chiến thắng. Vi phạm những nguyên tắc đó thì bầu cử có thể chỉ mang tính hình thức, mục đích bầu cử bị bóp méo, kết quả bầu cử bị sai lệch; không lựa chọn được chính xác những đại diện chính đáng cho đảng viên vào các vị trí, chức danh công tác tương ứng, nhất là các cơ cấu lãnh đạo trong Đảng.
4. Vai trò của bầu cử trong Đảng
Bầu cử trong Đảng không chỉ có vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng, mà còn tác động đến cả hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ nhất, bầu cử trong Đảng là đợt củng cố, kiện toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời tạo sự thay đổi lớn trong tổ chức hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội, bầu cử trong Đảng không đơn thuần là công việc nội bộ của Đảng, mà là công việc hệ trọng tác động đến các cơ quan trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của đời sống,... tức là tác động tới vận mệnh quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Kết quả bầu cử trong Đảng không chỉ bầu ra người lãnh đạo Đảng mà tác động đến
28
việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong bộ máy chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhiều cơ quan, đoàn thể các cấp. Suy rộng ra, vấn đề bầu cử trong Đảng không chỉ liên quan đến sinh mệnh chính trị đội ngũ cán bộ, đảng viên với tư cách là các ứng cử viên cho chức danh được bầu, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy đảng, qua đó tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của từng địa phương, đơn vị, của mỗi người dân và đất nước. Đồng thời, thông qua bầu cử sẽ tạo ra sự chuyển giao quyền lực hợp pháp, đồng bộ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo mới; làm cơ sở cho sự kế thừa và tiếp tục thực hiện các mục tiêu chính trị, đáp ứng những đòi hỏi mới của thực tiễn.
Thứ hai, bầu cử là thước đo trình độ dân chủ trong Đảng, phát huy trí tuệ, sức mạnh của tập thể đảng viên trong lựa chọn cán bộ và cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Trong các phương pháp đánh giá, lựa chọn cán bộ hiện nay thì bầu cử là phương pháp phổ biến nhất. Nó là thước đo tính chất, mức độ dân chủ và trình độ tổ chức, đồng thời là biểu hiện sinh động của nguyên tắc tập trung dân chủ trong lựa chọn cán bộ Đảng; phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy và tổ chức đảng nơi tiến hành đại hội; thể hiện ý chí, nguyện vọng của đảng viên trong việc lựa chọn cán bộ.
29
Một trong những sự khác biệt cơ bản giữa bầu cử với các hình thức lựa chọn cán bộ khác chính là sự lựa chọn của nhiều người đối với từng người, do đó tranh thủ được nhiều nhất trí tuệ của đảng viên đối với mỗi vị trí, chức danh được bầu. Việc lập ra bộ máy lãnh đạo gồm những đảng viên trung thành với mục tiêu, lý tưởng, đường lối, cương lĩnh của Đảng; có tài, có đức; nhân cách trong sáng, chí công vô tư; biết lãnh đạo, quản lý, đem lại lợi ích cho tổ chức đảng và các đảng viên,... không phải công việc dễ dàng, cần phải cẩn trọng, xem xét kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện. Bầu cử là việc “chọn mặt gửi vàng” cho nên việc tham gia lựa chọn của tập thể đảng viên bằng hình thức bầu cử sẽ phát huy tối đa trí lực, khả năng quan sát, xem xét, đánh giá về các ứng cử viên, giúp sự lựa chọn được đúng đắn, chính xác hơn.
Thứ ba, bầu cử trong Đảng tạo sự phấn đấu, cạnh tranh lành mạnh cho đội ngũ cán bộ; đồng thời tăng cường trách nhiệm của cán bộ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Khác với nhiều phương thức lựa chọn cán bộ khác, bầu cử là phương thức mà mỗi ứng cử viên phải thể hiện tốt nhất các phẩm chất, năng lực, trí tuệ, tư cách, đạo đức... của mình để giành được sự lựa chọn cao nhất của số đông đảng viên. Sự phấn đấu, cạnh tranh giữa các ứng cử viên là cạnh tranh dân chủ, công khai, bình đẳng, phấn đấu liên tục và toàn diện trước sự chứng kiến, theo
30
dõi, đánh giá của đảng viên,... Nó đòi hỏi mỗi ứng cử viên phải không ngừng trau dồi, cống hiến và thể hiện trong các lĩnh vực công tác và quan hệ, ứng xử, đạo đức, lối sống. Bầu cử dân chủ sẽ tạo nên sự đồng thuận, nhất trí trong tập thể đảng viên đối với việc lựa chọn cán bộ, góp phần hạn chế hiện tượng tiêu cực trong công tác cán bộ
như “chạy chức”, “chạy quyền”. Đồng thời, quyết định của tập thể đảng viên với tư cách là chủ thể ủy quyền đối với vị trí của từng chức danh được bầu sẽ làm cho người được bầu phải có trách nhiệm và gắn bó nhiều hơn với tập thể đảng viên. Vì thế, bầu cử còn được xem là phương thức để đào tạo, rèn luyện, sàng lọc, lựa chọn đội ngũ cán bộ, đảng viên một cách liên tục, khách quan, toàn diện.
Thứ tư, bầu cử trong Đảng tạo cơ chế bảo đảm quyền và trách nhiệm của đảng viên tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng là quyền và trách nhiệm của đảng viên, nhưng trong nhiều trường hợp, đảng viên không trực tiếp thực hiện được quyền và trách nhiệm đó. Thông qua bầu cử, đảng viên chọn và ủy quyền cho những đại diện tiêu biểu của mình vào các vị trí, chức danh công việc, trong đó chủ yếu là những chức danh quan trọng trong Đảng. Những đại diện này nhận sự ủy quyền của đảng viên, thay mặt đảng viên tiến hành các hoạt động xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
31
nhất là việc xây dựng các chủ trương, đường lối, quyết sách của Đảng; đồng thời giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối đó; kiểm soát, kiềm chế, uốn nắn xu hướng sai lầm, chống lại sự lạm quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng... của bộ phận cán bộ. Sự tích cực tham gia trong bầu cử, lựa chọn đúng đắn người đại diện càng thể hiện quyền và trách nhiệm của đảng viên trong công tác đảng; đồng thời khẳng định vị thế, vai trò của đảng viên với tư cách là những tế bào góp thành quyết định cho chiều hướng phát triển và sinh mệnh chính trị của tổ
chức đảng.
II- CÔNG TÁC BẦU CỬ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG Ở CƠ SỞ
1. Tổ chức đảng ở cơ sở
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen đã yêu cầu giai cấp công nhân phải xây dựng một chính Đảng có tổ chức thống nhất, độc lập, phải “biến mỗi chi bộ
của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân”1. Tuy không dùng khái niệm “tổ chức cơ sở đảng”, nhưng quan điểm của các ông đã chỉ rõ: chi bộ là hạt nhân cơ bản tạo thành hệ thống tổ chức Đảng, bảo đảm cho Đảng hoạt động thông suốt từ
____________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 348. 32
cơ sở đến Trung ương. V.I. Lênin cũng chỉ ra rằng: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lãnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động”1.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm, tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”2 và “Đảng mạnh là do chi bộ tốt”3. Qua thực tiễn xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học: “Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở của Đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng”4. Qua đó, Đảng ta khẳng định: “Tổ chức cơ ____________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr. 232-233.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 278, 113. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 476.
33
sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”1.
Với ý nghĩa là nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là cấp đảng bộ tổ chức sâu rộng nhất và gần dân nhất, gắn với các đơn vị cơ sở, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng đảng viên, trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, đơn vị. Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối giữa Trung ương và đảng bộ cấp trên với quần chúng nhân dân, là một khâu mắt trọng yếu để duy trì mối liên hệ giữa tổ chức đảng với dân; đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đảng viên, quần chúng; đồng thời tổ chức cho họ thực hiện có hiệu quả các đường lối, chủ trương, chính sách đó trong thực tiễn. Dân tin Đảng, theo Đảng hay không là nhờ ở vai trò của cơ sở
đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong xây dựng nội bộ đảng; thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, đồng thời thực hiện công tác phát triển đảng và quản lý đảng viên. Không những vậy, thông qua công tác cán bộ, nhất là qua các kỳ đại hội để lựa chọn đội ngũ cán bộ cấp ủy, từ đó tác động đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cơ sở. Tổ chức cơ sở ____________
1. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 35.
34
đảng là nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo cấp trên, nên chất lượng hoạt động của các cơ sở đảng tác động trực tiếp đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ cấp trên.
Với ý nghĩa là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị cơ sở ở mỗi địa phương, đơn vị, nhưng đây là tổ chức lãnh đạo tất cả các tổ chức khác trong hệ thống đó, đồng thời bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là trung tâm lãnh đạo chính trị, tổ chức và quy tụ sức mạnh của cả địa phương, đơn vị để hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ được giao. Đây là những đơn vị chiến đấu, đại diện cho lập trường giai cấp công nhân ở cơ sở, lãnh đạo và định hướng giải quyết mọi vấn đề theo đường lối, quan điểm của Đảng; đặc biệt là vấn đề dân chủ ở cơ sở.
Vai trò của tổ chức cơ sở đảng còn thể hiện ở việc quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cơ quan cấp trên cho phù hợp với đặc điểm của địa phương, đơn vị; đồng thời đúc kết những kinh nghiệm, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ánh với Đảng để sửa đổi, bổ sung đường lối, chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
35
Sự lãnh đạo đúng đắn của các tổ chức cơ sở đảng đóng vai trò quan trọng quyết định những thành tựu trên các mặt công tác của đơn vị đó; đồng thời phát huy những nhân tố mới, ngăn chặn những tiêu cực, uốn nắn những lệch lạc trong hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phát động, lãnh đạo và duy trì các phong trào thi đua của quần chúng.
2. Đại hội đảng ở cơ sở
a) Khái niệm “đại hội đảng ở cơ sở”
* Khái niệm đại hội Đảng
Theo Từ điển tiếng Việt: đại hội là cuộc họp lớn, có tính định kỳ và nghi lễ chặt chẽ, được tổ chức theo nguyên tắc, thể lệ riêng để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của tổ chức1. Là một chủ thể quyền lực chính trị đặc biệt trong xã hội, để củng cố tổ chức, phát huy vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn dành sự
quan tâm và khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của đại hội. “Đại hội đại biểu toàn quốc và đại hội đại biểu các cấp là sinh hoạt tập thể lớn nhất trong Đảng. Nó phát huy tính sáng tạo của đông đảo đảng viên tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đảng viên đối ____________
1. Xem Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 270. 36
với vận mệnh và công tác của Đảng, lại có tác dụng tăng cường tập trung thống nhất trong Đảng”1.
Thành công của mỗi kỳ đại hội Đảng thường tạo ra những dấu ấn quan trọng cho sự phát triển của đất nước và từng địa phương, đơn vị; đồng thời đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong mỗi giai đoạn lịch sử. Vì vậy, Đảng ta chủ trương “cần phải triệu tập đều đặn Đại hội đại biểu toàn quốc và các cấp, và phải phát huy hơn nữa vai trò của đại hội trong sinh hoạt nội bộ của Đảng”2. Để thống nhất trong tổ chức và hoạt động, Đảng ta quy định: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo ở
mỗi cấp là cấp ủy.
Như vậy, có hai hình thức tổ chức đại hội đảng là đại hội đảng viên và đại hội đại biểu đảng viên. Trong đó, đại hội đảng viên là đại hội được tổ chức với sự tham gia của toàn bộ đảng viên trong tổ chức đảng, hình thức này được áp dụng với đại hội chi bộ, đại hội đảng bộ cơ sở có số lượng đảng viên ít và điều kiện vật chất phù hợp. Đại hội đại biểu đảng viên (đại hội đại biểu) là đại hội được tổ chức với sự tham gia chủ yếu của các đại ____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr. 688, 689.
37
biểu là những đảng viên tiêu biểu, đại diện cho ý chí, trí tuệ của toàn thể đảng viên trong tổ chức đảng, được lựa chọn từ tổ chức đảng cấp dưới, có khả năng đóng góp vào sự thành công của đại hội cấp trên1.
* Khái niệm “đại hội đảng ở cơ sở”
Trong quá trình tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng theo từng nhiệm kỳ, đại hội đảng ở cơ sở là cấp đầu tiên tổ chức đại hội trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng. Vì vậy, về mặt tổ chức, đại hội đảng ở cơ sở là đại hội của Đảng được tổ chức trong phạm vi đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở; về tính chất, đại hội đảng ở cơ sở là cơ quan lãnh đạo của cơ sở, quyết định các công việc quan trọng của tổ chức đảng và là sự kiện chính trị - văn hóa - xã hội, tác động đến sự phát triển toàn diện của cả cơ sở; thu hút sự quan tâm, theo dõi và tham gia của đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân địa phương, đơn vị.
Đại hội đại biểu đảng bộ cơ sở là đại hội đảng bộ cơ sở được tổ chức theo hình thức đại hội đại biểu. Theo đó, ngoài đại biểu là đảng ủy viên của đảng ủy triệu tập đại hội, đại biểu chính thức của đại hội là những đảng viên tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ của đảng bộ cơ sở, được
____________
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 131.
38
lựa chọn từ các chi bộ trực thuộc theo số lượng phân bổ. Đảng ta quy định: “Các đảng bộ cơ sở có dưới 200 đảng viên, có khó khăn về điều kiện tổ chức đại hội đảng viên, nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý thì tổ
chức đại hội đại biểu. Các đảng bộ cơ sở có từ 200 đảng viên trở lên thì tiến hành đại hội đại biểu”1. b) Nội dung, nhiệm vụ đại hội đảng ở cơ sở
V.I. Lênin cho rằng, tùy theo từng thời điểm lịch sử, từng hoàn cảnh cụ thể mà đại hội có những nội dung, nhiệm vụ riêng. Trong Diễn văn khai mạc Đại hội X của Đảng Cộng sản (b) Nga năm 1921, Người yêu cầu: “Tại đại hội này, chúng ta cần phải đặt ra khẩu hiệu của chúng ta, định ra mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta mà bất kể thế nào cũng phải thực hiện cho bằng được, là: sau những cuộc tranh luận và bàn cãi, chúng ta phải mạnh hơn khi mới bắt đầu tranh luận”2.
Theo Điều lệ Đảng và các văn bản hướng dẫn của Đảng về đại hội, đại hội của tổ chức cơ sở đảng thực hiện các nội dung cơ bản: Một là, tổng kết việc thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ vừa qua; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong nhiệm kỳ
tới. Hai là, góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, đảng
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 143.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 43, tr. 5.
39
bộ cấp trên; góp ý vào các nội dung khác theo yêu cầu của cấp trên (nếu có). Ba là, bầu cấp ủy khóa mới, bầu chức danh lãnh đạo trong cấp ủy khóa mới (với những nơi thí điểm chủ trương đại hội trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư). Bốn là, bầu đoàn đại biểu đi dự đại hội đảng bộ cấp trên.
Để thực hiện nội dung của đại hội, các nhà sáng lập Đảng Cộng sản yêu cầu nhiệm vụ của đại hội là thảo luận và đưa ra quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Đại hội cần bàn bạc nêu những vấn đề thiết thực, nêu những biện pháp thiết thực. Làm được những việc ấy là Đại hội đã thành công. Không phải nghị
quyết cho nhiều, khẩu hiệu cho dài là tốt”1. Từ những chỉ dẫn trên và căn cứ vào tình hình thực tế, đại hội của tổ chức cơ sở đảng thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu:
Thứ nhất, thảo luận, quyết định hoạt động của đại hội: bầu các cơ quan điều hành, giúp việc đại hội; thông qua tư cách đại biểu, chương trình làm việc của đại hội.
Thứ hai, kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động của đảng bộ (chi bộ) và công tác điều hành của cấp ủy nhiệm kỳ cũ.
Thứ ba, xây dựng phương hướng, nội dung, nhiệm vụ, chỉ tiêu và giải pháp lớn cho hoạt động của đảng bộ (chi bộ) nhiệm kỳ tới.
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 137.
40
Thứ tư, thảo luận, đóng góp ý kiến cho dự thảo văn kiện đại hội cấp trên (nếu có).
Thứ năm, thảo luận, xây dựng phương án nhân sự; bầu cấp ủy và các chức danh lãnh đạo của cấp ủy (đối với những nơi thí điểm).
Thứ sáu, thảo luận, giới thiệu đoàn đại biểu dự đại hội đại biểu đảng bộ cấp trên.
c) Vai trò của đại hội đảng ở cơ sở
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen đã yêu cầu giai cấp công nhân phải xây dựng một chính Đảng có tổ chức thống nhất, độc lập và phải “biến mỗi chi bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân”1.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ
làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa”2. Người lưu ý đảng viên và các tổ chức đảng: “Thảo luận các văn kiện Đại hội Đảng là một dịp học tập tiến bộ”3, là dịp để “nâng cao tư tưởng, ý thức tổ chức và kỷ luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tiến bộ hơn nữa”4.
____________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 348. 2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 545, 613.
41
Như vậy, có thể nhận thấy, đại hội đảng ở cơ sở có vai trò:
Một là, đại hội của các tổ chức cơ sở đảng là cơ quan lãnh đạo và sự kiện chính trị đặc biệt, có ý nghĩa quyết định nhiệm vụ chính trị toàn hệ thống chính trị ở cơ sở.
Đại hội đảng ở cơ sở là cơ quan lãnh đạo toàn đảng bộ, quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đảng bộ, chi bộ trong một nhiệm kỳ, qua đó tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị cơ sở, cũng như chiều hướng phát triển và hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trong quá trình tổ chức đại hội, một lần nữa các đường lối, chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy đảng được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân; cán bộ, đảng viên và nhân dân được bày tỏ tình cảm, quan điểm và thể hiện ý chí của mình đối với sự lãnh đạo của Đảng, cũng như sự phát triển của địa phương; trên cơ sở đó, đại hội tiếp thu và phát huy trí tuệ của đảng viên đảng bộ và nhân dân thông qua đại biểu dự đại hội. Đồng thời, trước sự vận động liên tục của tổ chức bộ máy và sự thay đổi của đời sống xã hội, đại hội là dịp để mỗi tổ chức cơ sở đảng củng cố, kiện toàn lại tổ chức, nhất là công tác nhân sự; xây dựng nội bộ, bảo đảm tăng cường sức mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cho đảng bộ; tạo cơ sở
42
cho việc hoạch định đúng đắn giải pháp cho các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
Hai là, đại hội đảng ở cơ sở tạo tiền đề để tiến hành đại hội đảng bộ cấp trên.
Trong quá trình đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng theo các nhiệm kỳ, đại hội đảng cấp cơ sở là bước đầu tiên trong quy trình đó. Sự thành công của đại hội đảng ở cơ sở là tiền đề quan trọng bảo đảm sự thành công của đại hội đại biểu đảng bộ cấp trên, trong đó có những nội dung cơ bản như: phát huy trí tuệ của đảng viên ở các cơ sở đảng với việc xây dựng, hoàn thiện nghị quyết của đảng bộ cấp trên; cung cấp thông tin, những căn cứ thực tiễn để đại hội đảng bộ cấp trên xác định đúng phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo; phát hiện, cung cấp nguồn cán bộ được rèn luyện qua thực tế ở cơ sở cho nhân sự cấp ủy khóa mới của đại hội đảng bộ cấp trên. Đồng thời, rút kinh nghiệm từ kết quả đại hội đảng cơ sở là căn cứ thực tiễn, góp phần thực hiện tốt hơn trong công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội cấp trên cơ sở.
Ba là, đại hội là dịp tổng kết, kiểm tra, đánh giá hoạt động của bộ máy Đảng ở cơ sở.
Hoạt động xây dựng nội bộ và lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong cả hệ thống bộ máy Đảng. Các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cấp trên cơ sở không thể tự mình thực hiện hết các chủ trương, nghị quyết mà phải
43
thông qua các đơn vị cấp dưới. Mỗi cơ sở của Đảng mạnh thì toàn Đảng mới mạnh. Cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện hầu hết các chủ trương, nghị quyết của đảng bộ cấp trên và Trung ương gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng... ở các địa phương, đơn vị. Tình hình, kết quả lãnh đạo nhiệm vụ chính trị địa phương, đơn vị và công tác xây dựng nội bộ của tổ chức đảng được phản ánh tại đại hội là bức tranh thu nhỏ về vị thế, năng lực, sức sống của Đảng đối với toàn xã hội. Theo dõi diễn biến và kết quả của đại hội đảng ở cơ sở là một dịp, một biện pháp để
tổng kết, kiểm tra, đánh giá kết quả lãnh đạo của đảng bộ cấp trên với cơ sở; quan trọng hơn đây còn là dịp đánh giá toàn diện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng sau một nhiệm kỳ công tác.
3. Công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở
a) Khái niệm
Trong bầu cử, để đảng viên lựa chọn chính xác đại diện của mình vào các vị trí, chức danh công tác, thì đòi hỏi phải có các hoạt động tìm kiếm thông tin về các ứng cử viên, giao tiếp thể hiện quan điểm giữa người bầu cử
và người được bầu; xây dựng quy trình, lựa chọn hình thức, biện pháp bầu cử và xác định người trúng cử với nhiều nội dung, nhiều khâu, nhiều chủ thể và nhiều hoạt động chính trị đa dạng,... tạo thành công tác bầu cử.
44
Công tác bầu cử của Đảng bao gồm các hoạt động liên quan tới bầu cử như: xây dựng, ban hành, triển khai các quy định, hướng dẫn về bầu cử; công tác chuẩn bị nhân sự; tổ chức thực hiện các nội dung, quy trình bầu cử; công tác kiểm tra, giám sát hoạt động bầu cử và sau bầu cử,... nhằm bảo đảm lựa chọn được đảng viên xứng đáng vào các vị trí, chức danh công tác tương ứng
trong Đảng. Với vai trò đặc biệt quan trọng của cấp ủy và các chức danh lãnh đạo trong cấp ủy, nội dung trọng tâm của công tác bầu cử là bảo đảm việc lựa chọn đúng cơ cấu và các chức danh lãnh đạo đó.
Như vậy có thể hiểu: công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở là các hoạt động bảo đảm cho việc bầu cử diễn ra đúng nội dung, quy trình, nguyên tắc; giúp đại hội lựa chọn được những đảng viên tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, uy tín để bầu vào cấp ủy và các chức danh lãnh đạo trong cấp ủy (nếu đại hội trực tiếp bầu).
Từ khái niệm đó cho thấy: đối tượng là công tác bầu cử cấp ủy và các chức danh lãnh đạo trong cấp ủy; khách thể là tại đại hội đại biểu đảng bộ cơ sở; mục đích là bảo đảm chọn được những đảng ủy viên và chức danh lãnh đạo xứng đáng, tiêu biểu; yêu cầu là đúng quy trình, nguyên tắc,... đồng thời có nhiều nội dung và chủ thể tham gia vào công tác bầu cử.
b) Nội dung, quy trình công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở
Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn hiện
45
hành của Đảng về bầu cử và từ thực tiễn bầu cử cho thấy, nội dung công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở là tổng hợp các hoạt động, các yếu tố, các quá trình tạo nên công tác bầu cử của đại hội.
Một là, công tác chuẩn bị bầu cử.
Có nhiều nội dung, công việc trong công tác chuẩn bị bầu cử như: thành lập ban tổ chức đại hội, dự kiến đoàn chủ tịch, đoàn thư ký, ban kiểm phiếu; chuẩn bị cơ sở vật chất, hồ sơ, tài liệu; báo cáo cấp ủy cấp trên,... nhưng việc nghiên cứu, quán triệt các quy định về bầu cử và chuẩn bị nhân sự là nội dung trực tiếp nhất, chiếm phần lớn thời gian, trí tuệ của cấp ủy trong công tác chuẩn bị; đồng thời có vai trò đặc biệt quan trọng, đặt cơ sở, nền tảng thành công cho hoạt động bầu cử tại đại hội. Cụ thể là:
- Nghiên cứu, quán triệt các quy định về bầu cử V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động”1. Để phục vụ cho công tác bầu cử của đại hội đảng bộ các cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành quy chế bầu cử, chỉ thị, kế hoạch và nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn,... Tiếp đó, các cấp ủy căn cứ vào tình hình thực tiễn ở đơn vị mình tiếp tục ban hành các văn bản để cụ thể, triển khai. Đây được xem là cơ sở pháp lý chỉ đạo công tác bầu cử của các đảng
____________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 279.
46
bộ. Việc tìm hiểu, nghiên cứu, nắm vững những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương và cấp ủy cấp trên là nội dung đầu tiên trong nhận thức, triển khai và tổ chức thực hiện, góp phần quyết định sự thành công cho công tác bầu cử của các chi, đảng bộ cơ sở.
Sau khi nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương và cấp ủy cấp trên về đại hội và công tác bầu cử, công việc của các cấp ủy cơ sở là phổ biến, quán triệt các nội dung đó trong toàn đảng bộ; xây dựng và triển khai kế hoạch, đề án tổ chức đại hội, xây dựng dự thảo quy chế - quy định về bầu cử của đại hội; thành lập các tổ chức phục vụ đại hội, trong đó có bộ phận phụ
trách công tác nhân sự trực tiếp phục vụ công tác bầu cử của đại hội,...
- Rà soát, bổ sung nguồn nhân sự
Việc rà soát, bổ sung nguồn nhân sự, tạo hệ thống dữ liệu về các ứng cử viên là bước chuẩn bị quan trọng để sàng lọc, giới thiệu các ứng cử viên; là căn cứ, cơ sở quan trọng cho việc xây dựng phương án nhân sự vào cấp ủy và các chức danh lãnh đạo của cấp ủy; đồng thời làm căn cứ quy hoạch, bố trí, sử dụng cho các chức danh khác trong hệ thống chính trị cơ sở và cho công tác nhân sự của đại hội cấp trên. Thực chất, đây chính là công tác quy hoạch cán bộ của cấp ủy cơ sở, là lần quy hoạch cán bộ cuối của nhiệm kỳ cũ và được coi như hoạt động đầu tiên, chuẩn bị nhân sự cho bầu cử của đại hội nhiệm kỳ
47
mới, mang tính chủ động cao, thậm chí còn được thực hiện trước khi có kế hoạch tổ chức đại hội, cũng như hướng dẫn cụ thể về công tác nhân sự của đại hội.
Nội dung rà soát, bổ sung nguồn nhân sự là xem xét đưa ra ngoài quy hoạch những đảng viên không đủ điều kiện về uy tín, phẩm chất, năng lực, sức khỏe, thời gian công tác,... đối với từng vị trí công tác trong cấp ủy theo quy định; đồng thời phát hiện, bổ sung nhân sự mới đáp
ứng yêu cầu. Trong đó, cần phát hiện những đảng viên trẻ có triển vọng xuất hiện trong hoạt động thực tiễn; quan tâm những đảng viên có xuất thân là công nhân, nông dân, gia đình có công với cách mạng, đảng viên nữ, đảng viên người dân tộc thiểu số,... Việc rà soát, bổ sung nguồn nhân sự phải được tiến hành công khai, dân chủ
trong ban thường vụ, ban chấp hành đảng bộ; đồng thời phát huy trách nhiệm và tiếp thu ý kiến của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị; bảo đảm nguồn nhân sự tham gia đảng ủy khóa mới có đủ phẩm chất và năng lực, có số lượng và cơ cấu hợp lý, “mở” và “động”, có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ cán bộ
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và cả hệ thống chính trị cơ sở.
- Xây dựng phương án nhân sự
Nếu việc rà soát, bổ sung nguồn nhân sự là bước chuẩn bị sơ bộ, gián tiếp thì việc xây dựng phương án nhân sự là bước chuẩn bị nhân sự cụ thể, trực tiếp cho
48
công tác bầu cử tại đại hội. Có ý kiến cho rằng, hoạt động này là không cần thiết và mâu thuẫn với tính dân chủ trong bầu cử. Song, thực tế cho thấy, không có hệ thống bầu cử nào mà cơ quan tổ chức bầu cử lại không chuẩn bị trước những ứng cử viên tiêu biểu nhất định, chỉ khác nhau phương thức thực hiện. Tại mỗi kỳ bầu cử của Đảng nói chung và của từng tổ chức cơ sở nói riêng, việc xây dựng phương án nhân sự chính là dự kiến những nhân sự cụ thể được giới thiệu tham gia cấp ủy và các chức danh lãnh đạo của cấp ủy theo tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng quy định. Điều này không có nghĩa là đại hội chỉ bầu cho những nhân sự đó mà không có phương án nhân sự khác. Vai trò quan trọng của xây dựng phương án nhân sự chính là sự tham mưu để xác định trước một bước những ứng cử viên tiêu biểu nhất; bảo đảm sự chủ động, tập trung cao trong quá trình bầu cử. Vì vậy, phương án nhân sự được xây dựng càng cẩn trọng, chi tiết, khách quan, khoa học, càng sát với quan điểm chung của tập thể đảng viên trong Đảng thì việc bầu cử tại đại hội càng tập trung, lựa chọn đúng đắn nhất những đảng viên tiêu biểu vào các vị trí, chức danh công tác.
Do đó, phương án nhân sự phải được xây dựng trên cơ sở quy hoạch cán bộ của cấp ủy; đúng nguyên tắc, quy trình; công tâm, công khai, khách quan, minh bạch, dựa vào năng lực, phẩm chất, uy tín của đảng viên; phát huy dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và đảng
49
viên đảng bộ. Chống tư tưởng cá nhân, cục bộ, thiếu tính xây dựng hoặc nể nang, né tránh, ngại va chạm; nghiêm cấm các biểu hiện vận động, bè phái, chia rẽ mất đoàn kết, áp đặt chủ quan, cục bộ, lợi ích nhóm trong chuẩn bị
nhân sự để giới thiệu bầu vào cấp ủy.
Hai là, tiến hành các hoạt động bầu cử tại đại hội. Đây là nội dung trung tâm trong công tác bầu cử của đại hội, thể hiện một cách rộng rãi và tập trung nhất vị thế của đại biểu trong lựa chọn các ứng cử viên tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh của tập thể đảng viên vào cơ quan và chức danh lãnh đạo của đảng bộ. Hoạt động bầu cử tại đại hội vì thế không chỉ đơn thuần là hành vi lựa chọn các ứng cử viên mà quan trọng hơn là sự bảo đảm cho đại biểu được biết, được bàn, được thực hiện và được kiểm tra quá trình lựa chọn đó. Vì vậy, tại đại hội cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:
- Quán triệt tiêu chuẩn của các chức danh và các quy định về bầu cử.
Thông tin về tiêu chuẩn của các ứng cử viên cũng như những quy định về bầu cử cơ bản đã được phổ biến đến cán bộ, đảng viên, đại biểu trong quá trình chuẩn bị đại hội. Việc quán triệt tại đại hội không chỉ nhằm củng cố thêm thông tin giúp đại biểu tập trung ý chí trong thảo luận, lựa chọn các ứng cử viên, mà còn phản ánh tinh thần dân chủ, tôn trọng đại biểu của đại hội. Tùy thuộc vào chương trình cụ thể của đại hội, vào khả
50
năng nhận thức của đại biểu, những tiêu chuẩn và quy định này được quán triệt một cách phù hợp với diễn biến, nội dung của đại hội. Trong đó, phải bảo đảm việc triển khai, cung cấp thông tin từ ban tổ chức đại hội và sự tương tác của đại biểu để tạo sự đồng thuận với những tiêu chuẩn và quy định đã được thông qua.
Về tiêu chuẩn của các chức danh (cấp ủy viên và chức danh lãnh đạo trong cấp ủy): Đây là căn cứ quan trọng nhất để đại biểu lựa chọn nhân sự cụ thể cho mỗi vị trí công tác. Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khóa mới phải quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; tiêu chuẩn cán bộ theo các quy định của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII như: Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 quy định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Quy định số 90-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 quy định tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Quy trình đối với nhân sự cấp ủy khóa mới được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 105-QĐ/TW,
51
ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; đồng thời căn cứ vào quy định tại Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”
và các quy định, hướng dẫn hiện hành khác của Đảng về cán bộ. Bên cạnh đó, theo đặc điểm, tình hình của mỗi tổ chức cơ sở đảng, đòi hỏi tiêu chuẩn ủy viên cấp ủy, nhất là các chức danh lãnh đạo phải sát hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của mỗi đảng bộ, chi bộ. Trong đó, không giới thiệu vào cấp ủy cán bộ vi phạm quy định về tiêu chuẩn chính trị, về những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm; những cán bộ, đảng viên mà bản thân hoặc vợ (chồng), con vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh hưởng tới uy tín của cơ quan, đơn vị và bản thân.
Về các quy định bầu cử: Kế thừa những giá trị phổ biến, ổn định trong các quy chế bầu cử trước, tại mỗi kỳ bầu cử thường có điều chỉnh, bổ sung những quy định mới. Những quy định này được thể hiện trong quy chế bầu cử và các văn bản hướng dẫn thực hiện; đây chính
là hành lang pháp lý bảo đảm cho việc bầu cử được thực hiện nghiêm túc, chất lượng cao. Tuy nhiên, do điều kiện tiếp cận và khả năng tiếp nhận những quy định này của nhiều đại biểu, cán bộ, đảng viên ở đảng bộ cơ sở còn hạn chế, vì vậy, việc quán triệt tại đại hội là cần
52
thiết, song cần lựa chọn hình thức, phương pháp thích hợp, bảo đảm sự rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu; tập trung vào những nội dung cơ bản, trực tiếp gắn với việc bầu cử tại đại hội như: quyền và trách nhiệm của đại biểu và các cơ quan điều hành, giúp việc bầu cử; nội dung, quy trình, nguyên tắc bầu cử.
- Xây dựng danh sách bầu cử.
Xây dựng danh sách bầu cử là nội dung rất quan trọng, thể hiện căn bản ý tưởng bầu cử, góp phần quyết định chất lượng và kết quả bầu cử; đồng thời thể hiện sinh động nhất quyền dân chủ của đảng viên và sự
tương tác thực hành dân chủ trong bầu cử với các hoạt động cụ thể:
Thống nhất số lượng và cơ cấu: Trên cơ sở tiêu chuẩn, việc bảo đảm số lượng và cơ cấu của các chức danh là yếu tố cần thiết, bảo đảm tính đại diện, toàn diện và tập trung trong thành lập cơ quan lãnh đạo của đảng bộ. Căn cứ vào quy định, hướng dẫn về công tác nhân sự của Đảng, mỗi đại hội có thể nghiên cứu, xây dựng ban chấp hành, ban thường vụ, phó bí thư với cơ cấu và số lượng hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn từng địa phương, đơn vị.
Ứng cử và đề cử: Các quy định trước đây thường dùng “quyền ứng cử”, “quyền đề cử” tức là chỉ quyền năng được ứng cử và đề cử của đảng viên, nhưng khi dùng “ứng cử” và “đề cử” như ở Quy chế bầu cử trong
53
Đảng hiện nay thì nội hàm của nó được hiểu một cách rộng hơn, đó không chỉ là quyền năng mà cả hành vi và cơ chế thực hiện việc ứng cử, đề cử. Trong đó, không hạn chế đảng viên chính thức ứng cử vào cấp ủy, “đảng viên chính thức không phải là đại biểu đại hội làm đơn ứng cử ở đại hội tổ chức cơ sở đảng”1.
Theo Quy chế bầu cử trong Đảng năm 2000, khi đại hội có đa số đại biểu yêu cầu thì đoàn chủ tịch công bố dự kiến danh sách nhân sự đảng ủy khóa mới do đảng ủy đương nhiệm chuẩn bị để đại hội tham khảo. Quy chế bầu cử năm 2009 quy định: dù đại hội có yêu cầu hay không có yêu cầu, thì sau khi đại hội ứng cử, đề cử và trước khi chốt danh sách bầu cử, đoàn chủ tịch công bố dự kiến danh sách nhân sự
đảng ủy khóa mới do đảng ủy đương nhiệm chuẩn bị để đại hội tham khảo. Theo quy định hiện nay, đoàn chủ tịch là chủ thể chính thức và quan trọng thực hiện đề cử. Đây là một bước phát triển mới về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bầu cử, theo đó: “Đoàn chủ tịch (chủ tịch) đại hội (hội nghị) đề cử danh sách nhân sự do cấp ủy triệu tập đại hội (hội nghị) chuẩn bị”2. Đồng thời, “đại biểu chính thức đề cử những đảng viên là đại biểu và những đảng viên
____________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 96, 99.
54
chính thức không phải là đại biểu của đại hội đảng bộ cấp mình để được bầu vào cấp ủy”1.
Tuy nhiên, cấp ủy viên trong cấp ủy triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp ủy đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp ủy. Vấn đề này được hiểu là việc chuẩn bị nhân sự cấp ủy khoá mới được cấp ủy triệu tập đại hội tiến hành theo quy trình dân chủ rộng rãi, từ dưới lên trên. Sau khi thảo luận, thể hiện chính kiến, trách nhiệm của mình, các ủy viên cấp ủy bỏ phiếu giới thiệu và biểu quyết nghị quyết giới thiệu nhân sự tham gia cấp ủy khoá mới. Chỉ những người được trên 50% số cấp ủy viên đương nhiệm giới thiệu mới được đưa vào danh sách để cấp ủy giới thiệu với đại hội. Như vậy, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp ủy viên cấp triệu tập đại hội phải phục tùng nghị quyết về nhân sự đã được cấp ủy thông qua, tức là không ứng cử và đề cử thêm ngoài danh sách đã được đảng ủy thống nhất giới thiệu tại đại hội. Trường hợp cấp ủy viên không có tên trong danh sách đề cử của cấp ủy, nhưng ra đại hội được đại biểu đại hội giới thiệu thì với trách nhiệm trong thực hiện nguyên tắc cá nhân phục tùng tổ chức, cấp ủy viên đó chủ động xin rút
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 99.
55
(không nhận đề cử). Song, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đại hội có cho rút hay không là quyền của đại hội. Thông qua danh sách bầu cử: Kết quả của việc đề cử, ứng cử, cho rút hay không cho rút khi được đề cử là cơ chế tạo thành danh sách bầu cử. Đây được xem như vòng “sơ tuyển” cho các ứng cử viên. Ở giai đoạn này, nếu không chọn được những ứng cử viên tốt nhất thì không thể nói đại hội sẽ lựa chọn được những đảng viên xứng đáng nhất, vì đại biểu chỉ lựa chọn những đảng viên trong danh sách bầu cử, tất nhiên sẽ không chọn được những đảng viên tiêu biểu nếu họ không có trong danh sách bầu cử. Do vậy, việc lập được danh sách bầu cử với các ứng cử viên tốt là tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm chất lượng lựa chọn trong bầu cử. Tuy nhiên, danh sách bầu cử là danh sách để lựa chọn chứ không phải danh sách đã được chọn nên cần phải có số dư. Nhưng nếu số dư quá lớn sẽ làm phân tán phiếu bầu, bầu không tập trung,... có thể dẫn đến không bầu đủ số lượng, phải bầu nhiều lần, làm ảnh hưởng đến chất lượng bầu cử. Vì vậy, cần phải có giới hạn tỷ lệ số dư, đây là biên độ dao động số dư hợp lý trong danh sách bầu cử.
Thời gian qua, việc quy định số dư trong danh sách bầu cử là hướng đi đúng đắn, phát huy dân chủ, trí tuệ trong công tác cán bộ. Nhưng “do không có quy định về số dư tối đa dẫn đến việc lập danh sách bầu cử với số
56
lượng lớn, thậm chí gấp nhiều lần số lượng cần bầu đã gây phân tán khi bầu và không ít khó khăn cho công tác bầu cử”1. Để khắc phục tình trạng trên, Quy chế bầu cử hiện hành xác định tỷ lệ số dư cụ thể trong danh sách bầu cử nhân sự cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy không quá 30% so với số lượng cần bầu, trong đó cấp ủy triệu tập đại hội chuẩn bị danh sách có số dư từ 10 - 15%2. Ngoài ra, Quy chế bầu cử cũng nêu rõ: “trường hợp cần bầu lấy số lượng 1 người thì danh sách bầu cử là 2 người; bầu lấy số lượng 2 người thì danh sách bầu cử là 3 người; bầu lấy số lượng từ 3 người trở lên thì danh sách bầu cử
có số dư tối đa không quá 1/3 số lượng cần bầu”3. Quá trình xây dựng danh sách bầu cử có thể diễn biến phức tạp theo những chiều hướng khác nhau. Điều này phụ thuộc rất lớn vào việc chuẩn bị nhân sự của cấp ủy; vai trò, kỹ năng điều hành của đoàn chủ tịch; nhất là năng lực, ý thức trách nhiệm của đại biểu và việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ tại đại hội.
- Chọn ứng cử viên.
Đây là nội dung quyết định ứng cử viên tiêu biểu nào sẽ được chọn nhờ các hoạt động ghi phiếu, bỏ phiếu và kiểm phiếu, trong đó ghi phiếu và bỏ phiếu là hoạt ____________
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 72, 104, 103.
57
động quan trọng nhất. Khác với giai đoạn trước, thái độ ủng hộ hay phản đối của đại biểu đối với mỗi ứng cử viên có thể không biểu hiện ra bên ngoài, mà được quyết định bằng hành vi lựa chọn cụ thể trên lá phiếu và phản ánh qua kết quả kiểm phiếu. Do đó, phát huy cao độ trí tuệ, ý thức trách nhiệm của mỗi đại biểu và cơ quan giúp việc bầu cử tại đại hội đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo của đảng bộ sẽ quyết định đến thành công của công tác bầu cử và chất lượng bầu cử của đại hội.
Ghi phiếu và bỏ phiếu là hoạt động trung tâm, trực tiếp thể hiện cao nhất ý chí của đại biểu khi lựa chọn từng ứng cử viên và quyết định kết quả của mọi cuộc bầu cử. Việc ghi phiếu được áp dụng đối với từng đối tượng và loại phiếu cụ thể, trong đó có: gạch tên ứng cử viên được ghi trước trong lá phiếu, đánh dấu (thường là dấu X) vào ô tương ứng với ứng cử viên được ghi trong lá phiếu, viết tên ứng cử viên vào lá phiếu chưa ghi. Quá trình này được thực hiện theo hình thức bỏ phiếu kín và nguyên tắc trực tiếp, tức là đại biểu tự ghi phiếu và bỏ phiếu vào hòm phiếu, việc đại biểu bầu hay không bầu cho ứng cử viên nào đều phải được bảo đảm bí mật, tự do, dân chủ; không ai được biết, được can thiệp vào quá trình đó; đồng thời người bỏ phiếu cũng không chịu sự tác động bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài.
58
Kiểm phiếu phải bảo đảm tính chính xác và nhanh chóng trong xác định kết quả bầu cử. Đây là yêu cầu tuyệt đối của việc kiểm phiếu, nó phụ thuộc lớn vào năng lực của bộ phận kiểm phiếu và các thiết bị hỗ trợ. Hiện nay, bên cạnh cách kiểm phiếu thủ công, truyền thống, việc sử dụng máy tính và phần mềm ứng dụng kiểm phiếu sẽ giúp nâng cao hiệu quả kiểm phiếu. Đồng thời, việc công khai, minh bạch và tăng cường sự giám sát quá trình kiểm phiếu càng làm cho việc kiểm phiếu bảo đảm khách quan, trung thực hơn.
Ba là, kết quả bầu cử và công nhận kết quả bầu cử. - Kết quả bầu cử: Trên cơ sở phát huy trách nhiệm, trí tuệ của đại biểu trong bầu cử, việc bảo đảm giữa tiêu chuẩn của ứng cử viên với cơ cấu và số lượng cần bầu theo quy định là căn cứ để đánh giá chất lượng kết quả bầu cử. Kết quả bầu cử đạt chất lượng cao khi bầu đúng cơ cấu, đủ số lượng, tiêu chuẩn của mỗi cấp ủy viên cao hơn so với quy định chung và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của mỗi đảng bộ.
- Công nhận kết quả bầu cử: Đảng ta yêu cầu: “kết quả bầu cử từ chi bộ đến đảng bộ trực thuộc Trung ương phải được chuẩn y của cấp uỷ có thẩm quyền theo quy định”1. Việc công nhận kết quả bầu cử không chỉ xác định
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 90.
59
tính hợp pháp của toàn bộ quá trình bầu cử, mà còn bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức của Đảng. Do đó, công tác bầu cử của đại hội ở cơ sở chỉ hoàn thành khi kết quả bầu cử được cấp ủy cấp trên chuẩn y. Căn cứ vào tính hợp pháp trong việc tổ chức bầu cử của đại hội, cấp ủy cấp trên có thể không công nhận, công nhận toàn bộ hoặc một số nội dung của kết quả bầu cử.
c) Chủ thể công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở Công tác bầu cử của đại hội đảng là nội dung quan trọng, dành được sự quan tâm, tham gia của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân và cơ quan, tổ chức. Nhưng chỉ những lực lượng có thẩm quyền, trách nhiệm tham gia vào các nội dung trong quá trình bầu cử của đại hội mới là chủ thể công tác bầu cử, mỗi chủ thể có vị trí, vai trò tác động khác nhau:
Cấp ủy cấp trên cơ sở là cơ quan lãnh đạo cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng cơ sở, có trách nhiệm và thẩm quyền chủ động chỉ đạo, lãnh đạo, hướng dẫn công tác chuẩn bị bầu cử; chỉ đạo, giám sát hoạt động bầu cử tại đại hội; đồng thời xem xét chuẩn y kết quả bầu cử theo quy định.
Cấp ủy cơ sở triệu tập đại hội là chủ thể quan trọng, giữ vai trò của nhà thiết kế, tổ chức, đạo diễn những nội dung thiết yếu của công tác bầu cử, nhất là trong công tác chuẩn bị nhân sự, gồm cả tiếp nhận hồ sơ ứng cử trước đại hội (nếu có); chuẩn bị các tài liệu phục vụ bầu cử; tham
60
mưu thành lập cơ quan điều hành, giúp việc bầu cử tại đại hội là đoàn chủ tịch và ban kiểm phiếu. Sự tích cực, chu đáo, cẩn trọng, chính xác, khách quan, khoa học, đúng quy định trong hoạt động của cấp ủy cơ sở góp phần rất lớn vào thành công của đại hội nói chung và công tác bầu cử nói riêng.
Đoàn chủ tịch đại hội, ban kiểm phiếu bầu cử là những tổ chức điều hành, giúp việc bầu cử tại đại hội. Năng lực làm việc của đoàn chủ tịch và ban kiểm phiếu tác động lớn, thậm chí có thể làm thay đổi diễn biến, chất lượng, kết quả bầu cử tại đại hội. Do đó, trách nhiệm đặt ra đối với hai tổ chức này là phải bảo đảm việc bầu cử diễn ra theo đúng nội dung, quy trình, nguyên tắc bầu cử; phát huy tinh thần xây dựng của đại biểu đại hội trong bầu cử. Vì vậy, từng thành viên của đoàn chủ tịch và ban kiểm phiếu phải nắm chắc các quy định, có trách nhiệm cao và nhiều kinh nghiệm về công tác bầu cử.
Đại biểu đại hội gồm cấp ủy viên đương nhiệm, đại biểu do đại hội chi bộ bầu, đại biểu chỉ định (nếu có). Đây là chủ thể trung tâm, trực tiếp thực hiện các nội dung cốt yếu của việc bầu cử như ứng cử, đề cử, ghi phiếu, bỏ
phiếu và giám sát, thông qua các hoạt động bầu cử tại đại hội,... quyết định chọn ứng cử viên nào đại diện cho ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của tập thể đảng viên vào cơ quan lãnh đạo của đảng bộ, qua đó quyết định kết quả, chất lượng bầu cử.
61
4. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác bầu cử của đại hội đảng ở cơ sở
Quá trình thực hiện công tác bầu cử là quá trình tương tác đa dạng, nhiều chiều của các nhân tố, mỗi nhân tố có ảnh hưởng nhất định đến diễn biến và kết quả công tác bầu cử.
Thứ nhất, các quy định, hướng dẫn của Đảng và cấp ủy cấp trên về công tác bầu cử. Đây là cơ sở pháp lý để tiến hành công tác bầu cử. Sự cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ và nhất quán trong các quy định bầu cử tác động đến cách hiểu và cách làm của cấp ủy, ban tổ chức đại hội và đại biểu; qua đó làm cho công tác bầu cử diễn ra bài bản, nhịp nhàng, dân chủ và minh bạch, chính xác. Ngược lại, nếu các quy định, hướng dẫn chung chung, chồng chéo,... có thể dẫn đến cách hiểu không đúng, không đủ,... gây khó khăn, phức tạp, thậm chí là nhầm lẫn, sai sót trong công tác bầu cử.
Thứ hai, sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên cơ sở; uy tín, năng lực cấp ủy cơ sở; uy tín, năng lực điều hành của đoàn chủ tịch, ban kiểm phiếu. Đây là những chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, phục vụ, điều hành, giúp việc công tác bầu cử. Nói cách khác, đây là các nhà tổ chức đại hội, uy tín của họ sẽ tạo niềm tin, sự hứng khởi cho đại biểu tham gia vào quá trình bầu cử; còn trình độ, năng lực của họ có thể làm cho diễn biến bầu cử đi theo chiều hướng, kết quả khác nhau.
62
Thứ ba, phẩm chất, năng lực, uy tín của các ứng cử viên. Bản chất của bầu cử cũng như mục đích của công tác bầu cử là phát huy quyền làm chủ của đảng viên - đại biểu trong chọn người để ủy quyền. Theo cơ chế tác động thì việc chọn ai để ủy quyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả những yếu tố cảm tính; tuy nhiên về lý thuyết thì việc lựa chọn ứng cử viên là sản phẩm ý chí của mỗi đại biểu đối với những tiêu chuẩn khách quan của các ứng cử viên mà họ lấy làm căn cứ, đó chính là phẩm chất, năng lực, uy tín của ứng cử viên. Những yếu tố này sẽ tác động quyết định đến kết quả chung cuộc của từng ứng cử viên cũng như công tác bầu cử của đại hội.
Thứ tư, nhận thức, thái độ, trách nhiệm của đại biểu đại hội. Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa trình độ nhận thức của đại biểu với thái độ, trách nhiệm tham gia của họ trong đời sống chính trị nói chung và công tác bầu cử
nói riêng. Những đại biểu có nhận thức đúng, có trách nhiệm cao thì việc thực hiện quy chế bầu cử càng nghiêm túc; họ thường tỏ ra quan tâm, có chính kiến, tích cực tham gia quá trình bầu cử. Ngược lại, đại biểu có nhận thức không đúng, trách nhiệm không cao thường nắm ít thông tin, thiếu khả năng kết nối, phân tích thông tin, qua đó không quan tâm hoặc ít quan tâm, thậm chí dễ
dàng bị dao động, bị lôi kéo trong khi tham gia bầu cử. Thứ năm, thông tin và công tác truyền thông. Công tác truyền thông, nhất là các phương tiện thông tin đại
63
chúng có khả năng thâm nhập đến từng thôn xóm, gia đình và mỗi cán bộ, đảng viên, người dân thuộc mọi đối tượng khác nhau, do đó có vai trò, sức ảnh hưởng, tác động lớn đến đời sống chính trị xã hội nói chung và hoạt động bầu cử của mỗi kỳ đại hội đảng nói riêng. Chúng không chỉ cung cấp thông tin thuần túy mà dần trở
thành một lực lượng có vai trò quan trọng, đem lại cho người tiếp nhận thông tin những cảm giác khách quan, tin cậy,... qua đó góp phần định hình những quan điểm chính trị và tình cảm đối với mỗi ứng cử viên, đồng thời góp phần nâng cao nhận thức về các quy định trong quá trình bầu cử.
Thứ sáu, tâm lý cộng đồng - văn hóa làng xã. Nòng cốt của nét văn hóa này là quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm, phường hội,... chúng có tác động quan trọng trong việc xây dựng và bỏ phiếu lựa chọn cho ứng cử
viên nào đó. Một đại biểu khi đã bị chi phối bởi các yếu tố đó thì họ thường bỏ phiếu ngay cho người có quan hệ tình cảm đó mà không băn khoăn điều gì, không nghĩ cho lợi ích chung, không tính đến tác động tiêu cực nếu đó là sự lựa chọn không đúng. Ngoài ra, mỗi xã được tạo nên dựa trên những sắc thái về môi trường công tác, không gian địa lý, lịch sử, văn hóa, dân cư, thậm chí là gia đình, dòng họ, tôn giáo,... nhất định, ít nhiều tạo nên những đặc trưng không giống nhau của mỗi tổ chức cơ sở đảng,... tác động đến nhận thức và hành vi chính trị của mỗi đảng viên cũng như đại biểu trong quá trình
64
tham gia công tác bầu cử. Tổ chức đảng ở các xã thuần nông, truyền thống, có sự cố kết cộng đồng cao, thường có xu hướng bảo thủ, cục bộ hơn những tổ chức đảng ở các loại hình khác.
Thứ bảy, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật. Đây là những yếu tố vật chất của đại hội cũng như công tác bầu cử của đại hội. Thực tế cho thấy, việc bảo đảm về tài chính, sự chuẩn bị chu đáo cơ sở vật chất, trang thiết bị như hệ thống truyền thanh, hội trường, phòng họp, máy tính, máy in, máy chiếu,... và đội ngũ
phục vụ có nghiệp vụ tốt sẽ giúp các quy trình, thao tác kỹ thuật trong lập danh sách bầu cử, in phiếu, kiểm phiếu,... diễn ra được nhanh chóng, chính xác, nghiêm túc, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bầu cử của đại hội.
65
Chương II
CÔNG TÁC BẦU CỬ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG
I- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẦU CỬ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG NHIỆM KỲ 2015 - 2020
Vùng đồng bằng sông Hồng có hai thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng và chín tỉnh gồm: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Đây là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; là vùng kinh tế lớn của đất nước với không gian kinh tế liên hoàn, gắn kết với nhau, bổ trợ cho nhau nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của từng tỉnh, thành phố trong vùng,... Việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng tác động trực tiếp và to lớn đến quá trình
66
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đến sự ổn định và phát triển đất nước.
Theo “Báo cáo đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng năm 2015” của Ban Tổ chức Trung ương thì tính đến cuối năm 2015, ở chín tỉnh đồng bằng sông Hồng có 1.372/1.651 đảng bộ cơ sở cấp xã (xã, phường, thị trấn), không có chi bộ cơ sở; số đảng viên là 385.206, chiếm trên 75% tổng số đảng viên cơ sở đảng cấp xã, chiếm gần 56% tổng số đảng viên các tổ chức cơ sở đảng. Các đảng bộ xã được tổ chức theo mô hình hai cấp, không có đảng bộ bộ phận, dưới đảng bộ xã là các chi bộ trực thuộc (chủ yếu là chi bộ thôn, chi bộ trường học, một số đảng bộ có chi bộ cơ quan, một số nơi đang thí điểm chi bộ quân sự) nên gọi tắt là đảng bộ xã. Đảng bộ xã là tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở xã; là hạt nhân chính trị, nền tảng của Đảng ở cơ sở, thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy định của Đảng, phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương.
Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình tổ chức đại hội đảng bộ xã ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trong số 1.372 đảng bộ xã, có: 1.075 đảng bộ tổ chức đại hội đại biểu (chiếm 78,4%) và 297 đảng bộ tổ chức đại hội đảng viên; 112 đại hội trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư và phó bí thư, chiếm 8,16% đại hội. Công tác bầu cử của đại hội
67
đảng bộ xã vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều ưu điểm, song vẫn còn một số hạn chế.
1. Ưu điểm
a) Về công tác chuẩn bị bầu cử
Một là, công tác nghiên cứu, quán triệt các quy định về bầu cử được thực hiện chủ động, nghiêm túc, khoa học, phù hợp với các đối tượng và điều kiện thực tế từng đảng bộ, tạo cơ sở thực hiện tốt các nội dung công tác bầu cử.
Xác định rõ vai trò, ý nghĩa của đại hội và công tác bầu cử của đại hội, bước vào giai đoạn cuối của nhiệm kỳ 2010 - 2015, các đảng ủy xã đã chủ trương dành nhiều thời gian, trí tuệ bàn về nội dung quan trọng này. Đặc biệt, sau khi có ý kiến chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, các đảng ủy xã tích cực nghiên cứu quy chế bầu cử, các kế hoạch và văn bản hướng dẫn của Đảng về công tác bầu cử, tham gia đầy đủ, nghiêm túc các hội nghị tập huấn, triển khai do cấp trên tổ chức, triệu tập. Tích cực tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu, văn bản của Trung ương, tỉnh ủy, đảng ủy cấp huyện về đại hội và bầu cử; nhiều nơi mặc dù chưa nhận được văn bản đã chủ động tìm hiểu, nghiên cứu qua internet và các kênh thông tin khác; cử cán bộ tham dự đại hội của đơn vị đại hội điểm để từ đó rút kinh nghiệm cho việc tổ chức thực hiện của đảng bộ mình.
68
Trên cơ sở chỉ đạo của cấp ủy cấp trên và rút kinh nghiệm từ đại hội điểm, các đảng ủy xã đã xây dựng kế hoạch, ban hành các văn bản tổ chức đại hội và công tác bầu cử phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương. Đến hết tháng 11/2014 cơ bản các đảng bộ xã đã tổ chức hội nghị nghiên cứu, học tập và
triển khai Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Quy chế bầu cử trong Đảng hiện hành, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, kế hoạch tổ chức đại hội và công tác bầu cử của đại hội đảng bộ xã đến toàn thể đảng viên trong đảng bộ. Những nơi có số lượng đảng viên đông, khó khăn trong việc tổ chức hội nghị toàn thể đảng viên thì tổ chức hội nghị cán bộ
gồm: ban chấp hành đảng bộ; trưởng các ban, ngành, đoàn thể; chi ủy các chi bộ trực thuộc; sau đó giao cho chi bộ tổ chức quán triệt đến đảng viên. Bên cạnh đó, nhiều đảng bộ đã thông qua hệ thống phát thanh của địa phương, tuyên truyền phổ biến về ý nghĩa, nội dung, quy trình đại hội nói chung và công tác bầu cử nói riêng, nhất là vấn đề tiêu chuẩn, cơ cấu nhân sự,... qua đó đã tạo đợt sinh hoạt chính trị quan trọng; thu hút sự quan tâm, tích cực hưởng ứng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
69
Hai là, đảng ủy xã chủ động rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ, tạo nguồn nhân sự phong phú, chất lượng cho công tác bầu cử.
Thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, tỉnh ủy và đảng ủy cấp huyện về quy trình chuẩn bị nhân sự cấp ủy, căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, công tác chuẩn bị nhân sự đại hội được đảng ủy xã thực hiện chặt chẽ, bảo đảm các bước theo đúng quy định: ngay từ năm thứ hai của nhiệm kỳ 2010 - 2015, các đảng ủy xã đã tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ 2015 - 2020; cuối những năm 2013 - 2014 các đảng ủy xã tiếp tục tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch.
Trước khi tiến hành đại hội, đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy xã đã rà soát, bổ sung quy hoạch lần cuối, trình ban thường vụ cấp trên phê duyệt. Trong đó chú trọng quy hoạch người đứng đầu đảng ủy, lấy quy hoạch đảng ủy làm cơ sở để quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý; gắn quy hoạch đảng ủy với các chức danh của đảng ủy, với quy hoạch các chức danh chủ chốt Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã nhiệm kỳ 2016 - 2021; quan tâm những nhân tố mới, trẻ tuổi, giới tính nữ, dân tộc thiểu số, xuất thân giai cấp công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật,... Đồng thời rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ, đảng viên không còn đủ uy tín, tiêu chuẩn, phẩm chất, sức khỏe; không đủ tuổi tái cử, tái bổ
70
nhiệm các chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo quy định của Trung ương.
Để tạo nguồn nhân sự có chất lượng tốt cho đảng ủy và các chức danh lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở, nhiều đảng ủy xã đã giới thiệu cán bộ, đảng viên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, chính trị, bồi dưỡng dự
nguồn,... do tỉnh, huyện, thị xã, thành phố tổ chức. Bên cạnh đó, nhiều đảng ủy đã chủ động sắp xếp, điều động, bố trí, luân chuyển cán bộ trước một bước đại hội, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ không đủ tuổi tham gia đảng ủy theo quy định và cán bộ ở những nơi tình hình nội bộ có vấn đề phức tạp; tập trung giải quyết những vụ việc, đơn thư liên quan đến cán bộ trong quy hoạch.
Việc chú trọng rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; tích cực rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ đã tạo sự chủ động trong bố trí, sử dụng cán bộ; đồng thời tạo nguồn cán bộ dồi dào cho đảng ủy xã xây dựng phương án nhân sự đảng ủy và các chức danh nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Ba là, phương án nhân sự được xây dựng theo đúng quy trình; cơ bản bảo đảm tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu. Căn cứ quy hoạch và phương hướng công tác nhân sự đảng ủy nhiệm kỳ 2015 - 2020, các đảng ủy xã thực hiện nghiêm túc các bước giới thiệu nhân sự khóa mới theo đúng quy trình, thủ tục. Đảng ủy đã tổ chức hội nghị để các đảng ủy viên được thể hiện ý kiến của mình
71
về bản thân và về việc giới thiệu đảng viên tham gia đảng ủy khoá tới; sau khi thảo luận, cân nhắc và bỏ phiếu kín để giới thiệu những người tiếp tục tái cử, những người không tái cử, những người mới được giới thiệu tham gia đảng ủy khoá tới, đảng ủy đã chọn những người được trên 50% số đảng ủy viên giới thiệu đưa vào danh sách đề cử với đại hội.
Nhìn chung, Đề án nhân sự ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư,... được thực hiện dân chủ, khách quan, đúng nguyên tắc, quy trình, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, cấp ủy cấp trên và được cấp ủy cấp trên thẩm định, phê duyệt trước khi tiến hành đại hội. Quá trình xây dựng phương án nhân sự cơ bản đã phát huy dân chủ, tinh thần trách nhiệm, trí tuệ tập thể
ban thường vụ, ban chấp hành, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, đoàn thể; phương án nhân sự của hầu hết đảng ủy chuẩn bị có chất lượng tốt, cơ cấu hợp lý, bảo đảm tính toàn diện trên các lĩnh vực và vị trí công tác quan trọng trong hệ thống chính trị cấp xã, được đại hội nhất trí cao. Đối với những đảng bộ có khó khăn về cán bộ, đảng ủy đã xin ý kiến cấp trên tập trung chỉ đạo để giải quyết, đồng thời làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự đồng thuận về công tác nhân sự trước khi tổ chức đại hội.
b) Về tiến hành các hoạt động bầu cử tại đại hội Thứ nhất, đại hội đã quán triệt tốt quy định bầu cử, tiêu chuẩn ứng cử viên.
72
Để giúp đại hội thực hiện tốt các hoạt động bầu cử tại đại hội, ban tổ chức đại hội đã quán triệt lại những quy định cơ bản về bầu cử, thống nhất tiêu chuẩn ứng cử viên tương ứng với chức danh cần bầu; báo cáo các bước quy trình chuẩn bị nhân sự cho bầu cử đã được đảng ủy đương nhiệm thực hiện; trình đề án nhân sự về tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu theo quy định để đại hội thảo luận. Cơ bản đại biểu hiểu, nắm chắc các quy định chung về bầu cử, tiêu chuẩn ứng cử viên; hầu hết đại hội đảng bộ xã chỉ biểu quyết một lần thông qua đề án nhân sự do đảng ủy triệu tập đại hội chuẩn bị đã được cấp trên phê duyệt.
Thứ hai, hoạt động đề cử, ứng cử, lập danh sách bầu cử diễn ra tập trung, dân chủ, đúng quy trình; danh sách bầu cử bảo đảm số dư theo quy định.
Thực hiện Quy chế bầu cử trong Đảng, đoàn chủ tịch đã chủ động giới thiệu danh sách ứng cử viên do đảng ủy triệu tập đại hội chuẩn bị làm danh sách đề cử chính thức. Sau đó, việc ứng cử, đề cử tại đại hội được thực hiện theo đúng quy định. Tuy nhiên, tỷ lệ này là rất ít, nhiều nơi không có trường hợp nào ứng cử, đề cử thêm ngoài danh sách do đảng ủy khóa cũ chuẩn bị. Trước đó, đảng ủy triệu tập đại hội và đoàn chủ tịch đại hội cũng không nhận được đơn ứng cử của đảng viên chính thức không phải là đại biểu đại hội, không nhận được phiếu đề cử của đại biểu đại hội đối
73
với đảng viên chính thức không phải là đại biểu đại hội để được bầu vào đảng ủy.
Bên cạnh đó, do các đảng ủy viên đảng ủy triệu tập đại hội đã trực tiếp thảo luận, thể hiện ý kiến của mình để đảng ủy quyết định danh sách đề cử với đại hội, nên hầu hết đảng ủy viên đã thực hiện nghiêm túc việc ứng cử và đề cử như quy định. Theo đó, đảng ủy viên đảng
ủy triệu tập đại hội không đề cử nhân sự ngoài danh sách do đảng ủy đề cử; không ứng cử và nhận đề cử khi không có tên trong danh sách đề cử của đảng ủy.
Sau khi bảo đảm quyền ứng cử, quyền đề cử, quyền xin rút khỏi danh sách bầu cử của đại biểu, quyền quyết định cho rút hay không cho rút khỏi danh sách bầu cử của đại hội, đại hội đã thông qua danh sách bầu cử. Hầu hết các đại hội nhất trí cao với phương án giới thiệu của đảng ủy đương nhiệm, rất ít đại hội có đề cử, bổ sung thêm danh sách bầu cử. Song, nhìn chung những nhân sự này đều trong quy hoạch, bảo đảm các tiêu chuẩn, phù hợp với tình hình thực tế từng đảng bộ và đảm bảo số dư hợp lý theo quy định, danh sách bầu cử có số dư trung bình trên 15% so với số lượng cần bầu.
Đồng thời để bảo đảm sự khách quan, dân chủ trong quá trình bầu cử, danh sách bầu cử và phiếu bầu tại đại hội được xếp theo thứ tự vần A, B, C,... Do không đại hội nào có hiện tượng trùng lặp cả họ, tên, tên đệm, tuổi đảng,... nên danh sách bầu cử nhanh chóng được biểu
74
quyết thông qua. Đối với một số trường hợp ứng cử, đề cử tại đại hội, ngay sau khi được đại hội thông qua, ban tổ chức đại hội đã khẩn trương in phiếu bầu mới, bảo đảm đúng quy định phục vụ cho hoạt động bầu cử của đại hội.
Thứ ba, việc ghi phiếu, bỏ phiếu, kiểm phiếu được thực hiện công khai, nhanh chóng, đúng nguyên tắc. Được đoàn chủ tịch, ban kiểm phiếu hướng dẫn cụ thể, rõ ràng các nguyên tắc, thủ tục bầu cử; cách thức ghi phiếu, bỏ phiếu,... nên nhìn chung đại biểu ghi phiếu theo đúng quy định, xác định đúng ứng cử viên mà mình lựa chọn; bảo đảm mỗi đại biểu một lá phiếu - một giá trị; trường hợp ghi nhầm, ghi sai, làm hỏng dẫn đến đổi phiếu không nhiều; quá trình bỏ phiếu diễn ra nghiêm túc, nhanh chóng. Việc kiểm phiếu thực hiện đúng quy trình, tương đối khoa học, nhanh chóng và chính xác; đặc biệt một số đảng bộ tổ chức đại hội điểm, nhất là ở tỉnh Quảng Ninh đã khai thác tốt thiết bị công nghệ và phần mềm kiểm phiếu tạo bước đột phá hiệu quả cao.
c) Về kết quả bầu cử và công nhận kết quả bầu cử Một là, thông qua công tác bầu cử đã phát huy trí tuệ, tinh thần xây dựng, đoàn kết của đại biểu đảng viên, lựa chọn được đội ngũ cán bộ đảng ủy có chất lượng tốt; cơ bản đúng dự kiến, cơ cấu, số lượng phù hợp với điều kiện thực tế.
75
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác bầu cử, phần lớn đại biểu có ý thức, thái độ tốt, tích cực tham gia quá trình bầu cử, nhiều đại biểu đại hội đã chủ động tìm hiểu, nghiên cứu quy chế bầu cử và các quy định của Đảng về công tác bầu cử; tích cực tham gia góp ý công tác nhân sự của đảng ủy; phát huy quyền làm chủ, tập trung trí tuệ thảo luận đề án nhân sự, xây dựng danh sách bầu cử, lựa chọn ứng cử viên xứng đáng vào đảng ủy và các chức danh lãnh đạo của đảng ủy (ở những nơi thí điểm).
Kết quả bầu cử nhìn chung có chất lượng tốt, đảng ủy và các chức danh lãnh đạo đảng ủy khóa mới có trình độ học vấn, chuyên môn và chính trị cao hơn so với nhiệm kỳ trước, cụ thể là:
Về trình độ học vấn (phổ thông): 100% đảng ủy viên được bầu đều có trình độ trung học cơ sở trở lên, trong đó chủ yếu là trung học phổ thông; không đảng bộ nào còn trường hợp đảng ủy viên chỉ có trình độ tiểu học như nhiệm kỳ trước. Nhiều nơi tỷ lệ đảng ủy viên đảng bộ có trình độ trung học phổ thông đạt gần tuyệt đối trong đảng ủy như Vĩnh Phúc, Hưng Yên.
Về trình độ chuyên môn: Hầu hết đảng ủy viên được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên (trung bình là 91,2%, thấp nhất là Ninh Bình với 84,3%, cao nhất là Vĩnh Phúc với 94% đảng ủy viên các đảng bộ có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, một số
76
nơi có cả trình độ thạc sĩ). Nhìn chung trình độ chuyên môn của các đảng ủy viên nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã được nâng cao nhiều so với nhiệm kỳ trước.
Về trình độ chính trị: Hầu hết các đảng ủy viên đã được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, trong đó gần 80% có trình độ trung cấp lý luận chính trị, nhiều người có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị.
So với nhiệm kỳ trước, trình độ lý luận chính trị của các đảng ủy viên nhiệm kỳ 2015 - 2020 cũng được nâng cao, như: Thái Bình, trình độ trung cấp chính trị tăng 3%, cử nhân chính trị và cao cấp lý luận chính trị tăng 1%; Ninh Bình, trình độ cử nhân, cao cấp tăng 2,5%; Quảng Ninh, sơ cấp lý luận chính trị tăng trên 100%, trung cấp lý luận chính trị tăng trên 20%, cử nhân chính trị, cao cấp lý luận chính trị tăng trên 10%1.
Cơ cấu đảng ủy nhiệm kỳ 2015 - 2020 cơ bản hợp lý, bảo đảm tỷ lệ trẻ tuổi, người dân tộc thiểu số tỷ lệ nữ phù hợp với thực tế các đảng bộ. Các đồng chí lần đầu tham gia đảng ủy nói chung đủ tuổi công tác từ hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất cũng trọn một nhiệm kỳ. Những người được tái cử cơ bản đủ tuổi công tác trọn một nhiệm kỳ, một số trường hợp đủ tuổi công tác từ 1/2 nhiệm kỳ (30 tháng) trở lên theo quy định.
____________
1. Theo số liệu báo cáo kết quả đại hội đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2015 - 2020 của các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng.
77
Nhiều đại hội bảo đảm ba độ tuổi trong đảng ủy, có nơi tuổi bình quân đảng ủy giảm (được trẻ hóa); tỷ lệ đảng ủy viên là người dân tộc thiểu số phù hợp với đặc điểm cơ cấu dân tộc và điều kiện cụ thể của từng địa phương. Nhiệm kỳ 2015 - 2020, trung bình gần 100% đảng bộ xã vượt chỉ tiêu 10% ủy viên trẻ tuổi (dưới 35 tuổi, một số nơi quy định dưới 30 tuổi) trong đảng ủy. Trong đó nhiều nơi có tỷ lệ tăng cao như: Quảng Ninh tăng 12,5%, Hưng Yên tăng hơn 10%, Thái Bình tăng hơn 7%, Ninh Bình tăng 2,7%.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ đảng ủy viên trẻ tuổi được bầu tại đại hội đảng bộ xã ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng nhiệm kỳ 2015 - 2020
Nam
Định
Nguồn: Tổng hợp của tác giả theo số liệu của các tỉnh và Ban Tổ chức Trung ương.
Về tỷ lệ đảng ủy viên nữ, tuy chưa bảo đảm 15% đảng ủy theo yêu cầu của Trung ương nhưng so với nhiệm kỳ 2010 - 2015, ủy viên nữ tham gia đảng ủy
78